Mục lục
Lời mở đầu
7
Chương I: Lý luận chung về quản trị vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
10
1.1. Khái niệm và vai trò của vốn kinh doanh
10
1.1.1. Khái niệm và phân loại vốn kinh doanh
10
1.1.2. Vai trò của vốn kinh doanh
20
1.2. Nội dung quản trị vốn kinh doanh
21
1.2.1. Lập kế hoạch về vốn kinh doanh
21
1.2.2. Các biện pháp huy động vốn kinh doanh
25
1.2.3. Tổ chức sử dụng vốn kinh doanh
32
1.2.4. Giám sát kiểm tra tình hình sử dụng vốn kinh doa
121 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện quản trị vốn kinh doanh ở Công ty XNK cung ứng vật tư thiết bị đường sắt (Virasimex), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh
35
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới quản trị vốn kinh doanh của doanh nghiệp
40
1.3.1. Nhân tố khách quan
41
1.3.2. Nhân tố chủ quan
42
Chương II: Phân tích thực trạng quản trị vốn kinh doanh của công ty Virasimex
45
2.1. Khái quát về công ty Virasimex
47
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
47
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ
49
2.1.3. Các đặc điểm của công ty ảnh hưởng đến quản trị vốn kinh doanh
52
2.2. Thực trạng quản trị vốn kinh doanh của công ty Virasimex
64
2.2.1. Hoạt động lập kế hoạch vốn kinh doanh của công ty Virasimex
64
2.2.2. Các biện pháp huy động vốn kinh doanh của công tyVirasimex
68
2.2.3. Sử dụng vốn kinh doanh vào các hoạt động của công ty Virasimex
71
2.2.4. Giám sát và kiểm tra hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở công ty Virasimex
75
2.3. Nhận xét và đánh giá về quản trị vốn kinh doanh ở công ty Virasimex
83
2.3.1. Những ưu điểm
83
2.3.2. Những nhược điểm
85
2.3.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc quản trị vốn kinh doanh của công ty Virasimex
88
Chương III: Các giải pháp cơ bản hoàn thiện quản trị vốn kinh doanh của công ty Virasimex
90
3.1. Phương hướng và mục tiêu hoàn thiện quản trị vốn kinh doanh của công ty Virsimex
90
3.1.1. Quan điểm phương hướng
90
3.1.2 Mục tiêu chiến lược
92
3.1.3. Phương hướng quản trị vốn kinh doanh của công ty Virasimex trong những năm tới
93
3.2. Các giải pháp hoàn thiện quản trị vốn kinh doanh của công ty Virasimex
95
3.2.1. Giải pháp về lập kế hoạch vốn kinh doanh của công ty trong giai đoạn tới
95
3.2.2. Giải pháp về huy động
97
3.2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí kinh doanh
100
3.2.4. Giải pháp về bảo toàn vốn, quản lí kiểm tra giám sát hoạt động sử dụng vốn kinh doanh
104
3.3 Các điều kiện đảm bảo cho các giải pháp hoàn thiện quản trị vốn kinh doanh của công ty Virasimex
112
3.3.1. Với Nhà nước và các ngành liên quan
112
3.3.1. Với nghành
115
Kết luận
117
Lời cảm ơn
Luận văn thạc sĩ đánh giá kết quả học tập của tôi ở bậc cao học thuộc trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội. Trong quá trình theo học chương trình cao học quản trị kinh doanh thương mại tôi nhận được rất nhiều sự giúp đỡ quí báu của nhiều cá nhân và đơn vị.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Thừa Lộc thuộc Khoa Thương mại trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội về sự giúp đỡ nhiệt tình trong suốt quá trình tôi viết luận văn. Những chỉ dẫn hết sức quí báu của thầy không chỉ giúp tôi hoàn thành bài luận văn mà còn giúp tôi hoàn thiện phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh tế.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tới tập thể cán bộ nhân viên thuộc phòng tài chính và phòng kế hoạch của công ty xuất nhập khẩu cung ứng vật tư đường sắt đã giúp đỡ tôi về mặt số liệu phục vụ cho việc phân tích đánh giá trong luận văn. Và sự chỉ bảo giúp đỡ tận tình của tập thể giáo viên Khoa Thương mại, Khoa Sau đại học trong quá trình học tập và nghiên cứu là hết sức quí báu đối với tôi, một lần nữa tôi xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể giáo viên, nhân viên của Khoa Thương mại, Khoa Sau đại học.
Và trong thời gian học tập cũng như giai đoạn làm luận văn, tôi nhận được sự cộng tác chân thành của các học viên cùng học, các đồng nghiệp trong công ty Virasimex nơi tôi làm việc. Tôi xin được cảm ơn tới họ về sự cộng tác và giúp đỡ trong thời gian qua.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bè bạn đã ủng hộ về tinh thần cho tôi trong thời gian học tập và làm luận văn tốt nghiệp, nếu không có họ có lẽ tôi sẽ gặp rất nhiều hơn khó khăn mới có thể hoàn thành khoá học này.
Hà Nội, 10/2003
Danh mục các từ viết tắt
Công ty xuất nhập khẩu cung ứng vật tư thiết bị đường sắt
Virasimex
Cung ứng vật tư thiết bị
CUVTTB
Doanh thu
DT
Hàng hoá
HH
Kinh doanh
KD
Lưu thông
LT
Sản xuất
SX
Tài sản cố định
TSCĐ
Tài sản lưu động
TSLĐ
Tiền –Tư liệu sản xuất - Sản xuất – Hàng – Tiền
T-TLSX-SX-H-T
Vốn cố định
VCĐ (vốn CĐ)
Vốn lưu động
VLĐ (vốn LĐ)
Vốn lưu động bình quân
VLĐbq
Danh mục các bảng biểu
Bảng 2.1: Lao động và lương bình quân của công ty Virasimex giai đoạn 1999- 2002
55
Bảng 2.2: Tình hình vốn kinh doanh của công ty Virasimex giai đoạn 1993-2002
57
Bảng 2.3: Danh mục mặt hàng sản xuất và kinh doanh của công ty Virasimex từ năm 1999-2002
58
Bảng 2.4: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và giá trị sản xuất của công ty Virasimex giai đoạn 1999-2002
59
Bảng 2.5: Nhu cầu vốn, tình hình kinh doanh và nợ của công ty Virasimex
63
Bảng 2.6: Tình hình huy động vốn của công ty Virasimex giai đoạn 1999-2002
69
Bảng 2.7: Tình hình phân bổ vốn và nợ của công ty giai đoạn 1999-2002
71
Bảng 2.8: Các chỉ tiêu đánh giá sức sinh lợi của vốn LĐ của công ty Virasimex
75
Bảng 2.9: Hiệu quả sử dụng vốn cố định trong sản xuất và kinh doanh nhập khẩu thiết bị vật tư của công ty Viraximex giai đoạn 1999-2002
79
Bảng 2.10: Giá trị vốn kinh doanh của công ty Virasimex
81
Bảng 2.11: Cơ cấu chi phí của công ty Virasimex giai đoạn 1999-2002
86
Bảng 3.12: Lợi nhuận bình quân của công nhân viên công ty Virasimex
100
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của công ty Virasimex trong Liên hiệp đường sắt Việt Nam
48
Sơ đồ 2.2: Cơ cấu tổ chức của công ty Virasimex
49
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Vốn là một phạm trù kinh tế, là điều kiện tiên quyết cho bất cứ doanh nghiệp, ngành nghề kinh tế kỹ thuật, dịch vụ nào trong nền kinh tế. Để tiến hành hoạt động kinh doanh được doanh nghiệp phải nắm giữ một lượng vốn nhất định. Số vốn này thể hiện giá trị toàn bộ tài sản và các nguồn lực của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy vốn kinh doanh có vai trò quyết định trong việc thành lập, hoạt động và phát triển của doanh nghiệp.
Trong sự cạnh tranh gay gắt của thị trường huy động được vốn mới chỉ là bước đầu, quan trọng hơn và quyết định hơn là nghệ thuật phân bố, sử dụng số vốn với hiệu quả cao nhất ảnh hưởng đến vị thế của doanh nghiệp trên thương trường bởi vậy cần phải có chiến lược bảo toàn và sử dụng hiệu quả vốn kinh doanh.
Công ty công ty xuất nhập khẩu cung ứng vật tư thiết bị Đường Sắt (VIRASIMEX) là đơn vị trực thuộc Liên hiệp Đường Sắt Việt Nam và được nhà nước giao cho mốt nhiệm vụ chủ yếu như: xuất nhập khẩu vật tư thiết bị phụ tùng cho ngành sản xuất công nghiệp, xây dựng công trình và vân tải ngành Đường Sắt; sản xuất và gia công, tổ chức cung ứng các loại vật tư thiết bị phụ tùng đường sắt; sản xuất tà vẹt và sản phẩm gỗ phục vụ ngành đường sắt; tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu hàng hoá, kinh doanh hàng hoá tiêu dùng và thực phẩm phục vụ khách hàng, dịch vụ khách sạn và xuất khẩu lao động...
Do có nhiều hoạt động kinh doanh lớn và đặc biệt trong nền kinh tế thị trường sôi động có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít rủi ro như vậy thì vấn đề về bảo toàn và sử dụng hiệu quả vốn kinh doanh là một trong số những vấn đề cần được quan tâm sâu sắc. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài: " Hoàn thiện quản trị vốn kinh doanh ở công ty Xuất nhập khẩu Cung ứng Vật tư Thiết bị Đường Sắt (VIRASIMEX)" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận chung về quản trị vốn kinh doanh để sử dụng có hiệu quả nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Đồng thời, luận văn còn nghiên cứu những lợi thế và hạn chế về sử dụng vốn kinh doanh trong hoạt động kinh doanh của công ty Virasimex. Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng hoạt động sử dụng vốn kinh doanh của công ty Viraximex mà đề ra các phương hướng và giải pháp sử dụng hiệu quả vốn kinh doanh của công ty Virasimex.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lý luận và thực tiễn quản trị vốn kinh doanh của công ty Virasimex.
Phạm vi nghiên cứu luận văn: Luận văn đứng trên giác độ người sử dụng vốn kinh doanh để nghiên cứu nội dung quản trị vốn kinh doanh của công ty Virasimex. Thời gian nghiên cứu từ năm 1998 cho đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp để tiến hành phân tích và đánh giá các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Đồng thời tác giả cũng dùng những chỉ tiêu đánh giá mang tính định lượng để đánh giá một cách toàn diện hoạt động quản trị vốn của công ty Virasimex trong thời gian qua.
5. Đóng góp của luận văn
Bằng cách phân tích thực trạng hoạt động quản trị vốn kinh doanh và những ưu điểm và nhược điểm trong quá trình đó, cùng với đánh giá và kết luận ban đầu về những vấn đề thuận lợi và khó khăn trong nền kinh tế thị trường hiện nay đối với vấn đề quản trị vốn kinh doanh ở công ty Virasimex. Điểm mới của luận văn là đưa ra những đánh giá mang tính khách quan và có những giải pháp có tính khoa học có thể áp dụng vào thực tiễn nâng cao hiệu quả quản trị vốn kinh doanh của công ty Virasimex.
6. Kết cấu của luận văn
Chương I: Lý luận chung về quản trị vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Chương II: Phân tích thực trạng quản trị vốn kinh doanh của công ty Virasimex
Chương III: Các giải pháp cơ bản hoàn thiện quản trị vốn kinh doanh của công ty Virasimex.
Chương I
Lý luận chung về quản trị vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
1.1. Khái niệm và vai trò của vốn kinh doanh
1.1.1. Khái niệm và phân loại vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản, hàng hoá và các nguồn lực mà doanh nghiệp bỏ vào trong hoạt động kinh doanh. Nghĩa là các tài sản hiện vật như nhà cửu, kho hàng, cửa hàng, tiền các loại và các tài sản vô hình của doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh là khái niệm chung của nền sản xuất hàng hoá, là một trong hai điều kiện quan trọng có tính chất quyết định đến sản xuất và lưu thông. Trong điều kiện tồn tại nền sản xuất hàng hóa, vốn tồn tại dưới hai hình thức: giá trị và hiện vật. Về mặt giá trị, nếu dưới hình thái tiền bao gồm nội tệ, ngoại tệ và các loại giấy tờ khác, hình thái tiền tệ là hình thái vốn ban đầu của doanh nghiệp. Về mặt hiện vật, vốn tồn tại dưới hình thức máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu...
Vốn kinh doanh được chia thành vốn cố định và vốn lưu động:
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định doanh nghiệp. Tài sản cố định của doanh nghiệp là toàn bộ những tài sản hiện có của doanh nghiệp như máy móc thiết bị, nhà xưởng, kho tàng... được quy định bằng hai tiêu thức sau:
+ Có thời hạn sử dụng lớn hơn một năm
+ Có giá trị không dưới 5.000.000đ.
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của các tài sản lưu động và vốn lưu thông trong doanh nghiệp bao gồm: hàng hoá dự trữ, công cụ lao động thuộc tài sản lưu động và vốn lưu thông.
Như vậy ta thấy vốn là phạm trù kinh tế dùng để chỉ tư liệu sản xuất và chi phí lao động của quá trình sản xuất và lưu thông, vốn sản xuất lại biểu hiện bằng toàn bộ tư liệu sản xuất trong các doanh nghiệp công nghiệp.
Vốn của doanh nghiệp được phân chia thành nhiều loại và trên các giác độ khác nhau. Việc phân chia này giúp cho các nhà quản lý hiểu rõ hơn vì bản chất vốn cũng như nguồn hình thành khác nhau, nhưng trong bất cứ trường hợp nào các doanh nghiệp phải có vốn mới có thể kinh doanh được. Vốn của các doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu tồn tại dưới hình thức vốn lưu động (trừ một số đơn vị đặc thù trong ngành khai mỏ, vận tải...hầu như 100% vốn cố định). Trong các đơn vị kinh doanh thì tỉ lệ vốn ngoài (tức là vốn đi vay) nhất là tín dụng rất lớn.
Trên giác độ hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm:
Vốn đầu tư ban đầu: Là số vốn bắt buộc phải có khi đăng ký kinh doanh, là điều kiện mà khi thành lập doanh nghiệp phải có. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì số vốn ban đầu được nhà nước cấp hay giao vốn.
Vốn bổ sung: đây là thành phần do doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp tục bổ sung vào vốn ban đầu. Nguồn vốn bổ sung thường được trích từ lợi nhuận do làm ăn có lãi hoặc liên doanh liên kết với các đơn vị khác, hay do phát hành trái phiếu.
Dựa trên giác độ pháp lý thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp chia làm hai loại là: Vốn pháp định và vốn điều lệ
Vốn pháp định: Là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do pháp luật quy định đối với từng ngành nghề (NĐ222/HĐBT). Hiện chỉ còn các doanh nghiệp nhà nước, các công ty liên doanh có qui định về vốn pháp định, còn các loại hình doanh nghiệp khác thì cũng không có qui định về vốn pháp định theo luật doanh nghiệp Việt Nam.
Vốn điều lệ: Là vốn do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ của doanh nghiệp tuỳ theo từng ngành nghề, nhưng vốn điều lệ phải lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định.
Nếu phân theo nguồn thì trong doanh nghiệp gồm các nguồn sau: Nguồn vốn ngân sách cấp, nguồn vốn tín dụng, nguồn vốn trong thanh toán, nguồn vốn liên doanh liên kết, vốn cổ phần...
Nguồn vốn ngân sách do Nhà nước cấp đầu tư ban đầu và có thể tiếp tục bổ xung cho doanh nghiệp trong những năm hoạt động tiếp theo.
Nguồn vốn tín dụng vay ngân hàng, vay các đối tượng khác. Vay ngắn hạn để sử dụng vào việc dự trữ nguyên vật, bán thành phẩm. Vay dài hạn để xây dựng cơ bản, mua máy móc thiết bị.
Nguồn vốn tự tích luỹ: Để tăng cường và cải thiện điều kiện làm việc, tăng thêm tài sản, mở rộng quy mô kinh doanh của các doanh nghiệp có thể trích một phần lợi nhuận của mình để bổ sung vốn kinh doanh. Việc tăng nguồn vốn từ tích luỹ trong tổng vốn kinh doanh là điều kiện cơ bản để doanh nghiệp tạo được thế chủ động trong kinh doanh.
Đứng trên giác độ tuần hoàn và chu chuyển vốn, cơ cấu của vốn kinh doanh bao gồm vốn cố định và vốn lưu động:
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp. Tài sản cố định của doanh nghiệp là toàn bộ những tài sản hiện có của doanh nghiệp như máy móc thiết bị, nhà xưởng, kho tàng, các công trình xây dựng vật kiến trúc...được quy định bởi hai biểu thức sau: Có thời hạn sử dụng trên một năm và giá trị phải lớn hơn hoặc bằng 5.000.000đ, tài sản cố định là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tổ chức kinh doanh thực hiện nhiệm vụ thu mua, tiếp nhận dự trữ, bảo quản, vận chuyển, bán hàng và thực hiện các dịch vụ phục vụ khách hàng. Nó là một trong những điều kiện quyết định để nâng cao năng suất lao động của cán bộ kinh doanh đồng thời còn là tiêu chuẩn đánh giá trình độ kỹ thuật của lao động, năng lực tổ chức quản lý và trình độ của lao động trong các tổ chức kinh doanh. Chính vì những lý do trên mà việc đầu tư để xây dựng và trang bị các loại tài sản TSCĐ cho phù họp với yêu cầu của mỗi doanh nghiệp là một trong những điều kiện quyết định hiệu quả kinh doanh.
Vốn lưu động (VLĐ) là biểu hiện bằng tiền của các tài sản lưu động và vốn lưu thông trong doanh nghiệp (bao gồm: hàng hoá dự trữ, công cụ lao động...) và các khoản tiền trong kinh doanh như vốn mua vật tư hàng hoá, khoản tiền gửi ngân hàng, các khoản chờ thanh toán.
Vốn lưu động là tiền đề vật chất đảm bảo cho lưu thông hàng hoá liên tục, không ngừng mở rộng. Nó là bộ phận rất quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ vốn của tổ chức kinh doanh. Xét theo phạm vi kế hoạch nó được chia thành VLĐ định mức và VLĐ không định mức:
+ VLĐ định mức là số vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch mà có thể tính toán và định mức được trước. Nó bao gồm vốn hàng hoá và vốn phi hàng hoá: Vốn hàng hoá là vốn nằm trong khâu dự trữ hàng hoá nhằm bảo đảm dự trữ để xuất bán liên tục. Về hình thức biểu hiện giá trị nó gồm giá trị vật tư hàng hoá hiện có trong kho, trị giá hàng đang trên đường vận chuyển, hàng đã xuất kho nhưng chưa được thông báo chấp nhận hàng và thanh toán; còn vốn phi hàng hoá là vốn không nằm trong khâu dự trữ hàng hoá bao gồm vốn bằng tiền, vốn vật rẻ tiền mau hỏng, vốn bao bì, vốn phí đợi phân bổ.
+ VLĐ không định mức là số vốn lưu động phát sinh trong quá trình kinh doanh mà không thể tính toán định mức trước được. Nó bao gồm: Tiền nhờ ngân hàng thu, tiền đặt mua hàng, tiền tạm ứng...Như vậy VLĐ không định mức chủ yếu nằm trong khâu kết toán.
Qua sự trình bày ở trên ta có thể hình dung ra cơ cấu vốn lưu động của tổ chức kinh doanh vật tư qua sơ đồ sau:
Vốn lưu động
VLĐ định mức
VLĐ không định mức
Vốn hàng hoá: VTHH trong kho đang vận chuyển, hàng xuất kho, chưa được thanh toán
Vốn phi hàng hoá: vốn bằng tiền, vốn VRTMH, vốn phí đợi phân bổ
Tiền tạm ứng, tiền nhờ ngân hàng thu, tiền đặt hàng….
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được tạo lập và bổ sung từ nhiều nguồn khác và quá trình sử dụng chúng vào kinh doanh, phản ánh đặc điểm chung cơ bản của vốn luôn luôn vận động.
Sự vận động của vốn trong mỗi chu kỳ kinh doanh dựa trên việc tính toán hiệu quả và việc phân chia xác lập các bộ phận vốn theo quan hệ tỷ lệ hợp lý dẫn đến doanh nghiệp có thu để bù đắp những chi phí bỏ ra để kinh doanh mà còn có lợi nhuận. Qua đó doanh nghiệp có thể hình thành và bổ sung vào quỹ của mình như: Quỹ phát triển kinh doanh sản xuất, quỹ dự phòng tài chính, quỹ tích luỹ... từ nguồn lợi nhuận của mình đẻ từ đó tiếp tục tăng trưởng...
Quá trình vận động của vốn kinh doanh là quá trình chuyển dịch từ chủ thể này sang chủ thể khác hoặc trong cùng một chủ thể, là quá trình thay đổi hình thái thể hiện của nó trong từng chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.
Do sự vận động của vốn rất khác nhau vì vậy người ta chú ý đến đặc điểm hoạt động của nó theo giác độ tuần hoàn vốn. Theo đó đặc điểm của vốn kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện thông qua đặc điểm của vốn lưu động và vốn cố định:
+ Đặc điểm của vốn cố định(VCĐ)
Vốn cố định là hình thái giá trị tiền tệ của TSCĐ nên đặc điểm của vốn cố định do đặc điểm của tài sản cố định hình thành nên.
Từ đặc điểm của TSCĐ, nên có vốn cố định thường là biểu hiện bằng tiền của những tài sản có giá trị và thời gian sử dụng dài. Xét về hình thái vật chất nó vẫn giữ nguyên hình thái ban đầu trong quá trình sử dụng. Ban đầu số vốn này ứng ra tương đối lớn và ứng ra một lần chứ không phải dần dần, phần giá trị hao mòn đó chuyển dần vào chi phí lưu thông, thông qua việc trích lập quỹ khấu hao TSCĐ và kết thúc một vòng luân chuyển khi tài sản cố định ddã hết khấu hao.
Có hai dạng hao mòn của TSCĐ đó là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình: Hao mòn hữu hình phụ thuộc vào mức độ sử dụng khẩn trương TSCĐ và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến độ lâu bền của TSCĐ ( hình thức, chất lượng, chế độ quản lý TSCĐ, quản lý các định mức sử dụng, bảo vệ bảo dưỡng thường xuyên); còn hao mòn vô hình chủ yếu phụ thuộc vào tiến bộ khoa học kỹ thuật và việc nâng cao năng suất lao động xã hội.
Vì vậy, trong quản lý và sử dụng TSCĐ cần có thời gian xác định thời hạn khấu hao, mức độ khấu hao phải hợp lýđể vừa bù đắp được sự giảm giá của TSCĐ vừa có thể đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật vào việc trang bị TSCĐ, vừa bù đắp được các hao mòn hưu hình của TSCĐ trong các doanh nghiệp
+ Đặc điểm của vốn lưu động(VLĐ):
Đặc điểm của vốn lưu động là hoạt động không ngừng, luôn luôn thay đổi hình thái thể hiện, nó luôn có mặt trong mỗi giai đoạn của quá trình tuần hoàn vốn, nó tham gia trực tiếp vào quá trình lưu thông và thường xuyên thay đổi hình thái biểu hiện. Giá trị của nó được chuyển dịch một lần vào giá trị hàng hoá và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Do tốc độ chu chuyển VLĐ nhanh nhưng xét trong toàn bộ vốn của doanh nghiệp thì nó chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ.
Sự tuần hoàn của VLĐ trong các doanh nghiệp luôn vận động tuần tự trải qua 3 giai đoạn: Lưu thông, sản xuất, lưu thông.
Trong giai đoạn thứ nhất VLĐ trong các doanh nghiệp biến từ hình thái tiền tệ thành vật tư hàng hoá dự trữ ở kho để tiếp tục thực hiện quá trình kinh doanh và thành tài sản lưu động để phục vụ cho quá trình này.
Trong giai đoạn tuần hoàn thứ hai: Vật tư hàng hoá được đưa vào hoạt động gia công chế biến như chọn lọc, bao bì, ngâm tẩm sấy, làm đồng bộ... Đây là những hoạt động mang tính chất sản xuất, là sự tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông nhằm hoàn thiện giai đoạn cuối thành hàng hoá để bán cho đơn vị tiêu dùng.
Trong giai đoạn thứ ba: Hàng hoá được tiêu thụ. Vốn lưu động của các doanh nghiệp trở về hình thái tiền tệ ban đầu.
Những hoạt động kinh doanh luôn diễn ra, vốn luân chuyển từ hình thái này sang hình thái khác, không thể chờ bán hết hàng hoá lại mới mua hàng hoá khác mà xẩy ra liên tục đồng thời và xen kẽ nhau. Vì vậy vốn của các doanh nghiệp luôn tồn tại ở cả 3 giai đoạn tuần hoàn của nó.
Khi vốn trải qua ba giai đoạn tuần hoàn và trở về hình thái giá trị ban đầu thì nó đã hoàn thành một vòng chu chuyển gọi là thời gian lưu chuyển hay luân chuyển. Thời gian này gồm thời gian lưu thông, thời gian tiếp tục quá trình sản xuất trong lưu thông và thời gian lưu thông tiếp theo.
Như vậy đối với trường hợp lưu chuyển hàng hoá qua kho, VLĐ của các doanh nghiệp có thể được hình dung lưu chuyển qua sơ đồ sau:
Tiếp tục quá trình
Sản xuất trong lưu thông thành
Tiền (1)------VTHH (2)----------VTHH để bán (3)--------Tiền sau lưu thông (4)
sx trong LT
Đối với từng trường hợp lưu chuyển thẳng có tham gia thanh toán thì không dùng đến vốn của các doanh nghiệp và sự tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông mà chỉ tham gia vào thanh toán. Do vậy thời kỳ luân chuyển VLĐ bằng thời gian lưu động và có thể hình dung sơ đồ:
Tiền-------------------->Vật tư hàng hoá--------------------à Tiền sau lưu thông
Đối với trường hợp cung ứng thẳng không tham gia thanh toán thì không dùng đến VLĐ của các doanh nghiệp.
Nghiên cứu những vấn đề trên nhằm giúp cho chúng ta quản lý tốt VLĐ đối với từng loại vốn, từng khâu vốn, đối với từng loại vốn vận động trong những thời kỳ khác nhau, việc bảo đảm yêu cầu vốn cho từng khoản vốn. Đồng thời việc nghiên cứu những vấn đề trên cùng giúp ta tính toán và nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ trong từng khâu, từng khoản vốn, đặc biệt là vốn dự trữ vật tư hàng hoá.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại tham gia hoàn toàn vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhưng với những vốn thường xuyên vận động và sự vận động đó có sự khác nhau, nó thay đổi hình thái qua các giai đoạn lưu thông tiền tệ - hàng hoá để hoàn thành một vòng quay (hay một vòng tuần hoàn vốn).
Vì vậy, chúng ta xem xét vốn kinh doanh theo giác độ hoạt động tuần hoàn là VCĐ. Trong mỗi giai đoạn, vốn của doanh nghiệp hoàn thành một chức năng nhất định. Vốn kinh doanh có thể đồng thời tồn tại ở cả ba hình thức hoạt động là tiền, sản xuất và hàng hoá. Điểm xuất phát và điểm cuối cùng của sự tuần hoàn tuỳ thuộc vào hình thức tồn tại cho các nhu cầu vốn và nộp vào quỹ sau khi hoàn thành việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, quá trình luân chuyển vốn kinh doanh là sự chuyển thường xuyên vật tư hàng hoá vào kho và xuất ra bán cho khách.
Trong quá trình hoạt động, VCĐ vẫn giữ nguyên hình thái vật chất của nó trong thời gian dài (thường lớn hơn một năm). Trong khi đó, VLĐ biến đổi hình thái qua hai giai đoạn:
T - TLSX - SX - H - T; nghĩa là tạo ra giá trị sử dụng mới: ΔT = ΔT+T, trong đó T là tiền cước phí vận chuyển và lãi kinh doanh.
Vốn kinh doanh là một nhân tố quan trọng của kinh doanh. Khác với các doanh nghiệp sản xuất các doanh nghiệp thương mại có nguồn hình thành xuất phát từ đặcthù của lĩnh vực kinh doanh thương mại. Đặc điểm cơ bản nhất của kinh doanh thương mại là gắn liền chặt với quá trình phân phối và lưu thông hàng hoá. Điều này quyết định cơ cấu vốn kinh doanh thương mại. Nếu như trong lĩnh vực sản xuất thành phần chủ yếu của vốn là VCĐ thì trong lĩnh vực kinh doanh thương mại VLĐ lại chiếm một tỉ lệ lớn. Trong doanh nghiệp thương mại VCĐ thường chiếm 20% tổng số vốn kinh doanh, trong 80% VLĐ thì phần dành cho dự trữ vật tư hàng hoá xuất bán thường cũng chiếm tỷ trọng vốn lớn (khoảng 2/3 trong vốn lưu động).
Ngoài việc có vốn mới có thể tiến hành tổ chức hoạt động kinh doanh, vốn còn là điều kiện để sử dụng các nguồn tiềm năng khác để phát triển kinh doanh phục vụ cho qúa trình tái sản xuất mở rộng. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được trong nền kinh tế thị trường cần phải biết 3 điểm sau:
+ Kỹ thuật: Các phương pháp sản xuất hàng hóa và dịch vụ, và việc phân phối lưu thôngv..v..
+ Thay đổi về nhu cầu
+ Quan hệ phẩm chất giá cả của sản phẩm (hay dịch vụ) bán ra.
Tất cả những điều này đòi hỏi phải các nguồn vốn đảm bảo. Theo đó nhu cầu vốn được chia theo 2 khối lượng công việc chính của doanh nghiệp: Đầu tư có tính chất lâu dài và khai thác vận hành (có tính chất kinh doanh trước mắt).
Doanh nghiệp cần vốn để cung cấp tài chính cho các hoạt động của mình. Mục đích là để tiếp tục quá trình kinh doanh, kinh doanh được nhiều hơn, kinh doanh được tốt hơn và phục vụ cho các hoạt động khai thác có hiệu quả.
Các đầu tư
Tiếp tục kinh doanh
Kinh doanh nhiều hơn
Kinh doanh tốt hơn
Hoạt động và khai thác
Khấu hao thay thế trang thiết bị
Các đầu tư về năng lực kinh doanh
Các đầu tư về hiệu xuất
Bảo đảm hoạt động hàng ngày của DN
Các khoản phải trả khác
Cuối cùng vốn kinh doanh là nguồn vốn của cải quý báu tích luỹ được trong suốt quá trình kinh doanh, nó chỉ được phát huy khi người quản lý biết sử dụng.
Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, vốn bị tác động chi phối nhiều yếu tố như cơ chế quản lý của Nhà nước, sức lực, trí tuệ, tài năng, nghệ thuật của người quản lý doanh nghiệp cũng như cơn bão táp "nghiệt ngã" trên thị trường hay cơ hội "vàng". Vì vậy có doanh nghiệp hoạt động kinh doanh rất có hiệu quả nhưng cũng có không ít doanh nghiệp mất vốn và dẫn đến phá sản.
1.1.2. Vai trò của vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh của các doanh nghiệp có vai trò quyết định trong việc thành lập, hoạt động, phát triển của từng loại hình doanh nghiệp ra đời, tồn tại và phát triển các doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp lớn hay nhỏ là một trong những điều kiện quan trọng nhất để xếp doanh nghiệp vào quy mô lớn, trung bình hay nhỏ, siêu nhỏ và cũng còn là một trong những điều kiện để sử dụng các nguồn tiềm năng hiện có và tương lai về sức lao động, nguồn hàng hoá, mở rộng và phát triển thị trường, mở rộng và lưu thông là điều kiện để phát triển kinh doanh.
Vốn kinh doanh thực chất là nguồn của cải của xã hội tích luỹ tập trung lại. Nó chỉ là một điều kiện, một nguồn khả năng để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, nó chỉ phát huy tác dụng khi biết quản lý, sử dụng chúng một các đúng hướng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả.
Trong cơ chế mới, trong điều kiện mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, việc có vốn và tích luỹ tập trung được vốn nhiều hay ít vào doanh nghiệp có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đẩy mạnh kinh doanh. Tuy nhiên nó là một nguồn lực quan trọng để phát huy tài năng của ban lãnh đạo doanh nghiệp; nó là điều kiện để thực hiện các chiến lược, sách lược kinh doanh; nó cũng là chất keo dính để chắp nối, dính kết các quá trình và quan hệ kinh tế và nó cũng là dầu nhớt bôi trơn cho cỗ máy kinh tế vận động.
Vốn kinh doanh là yếu tố giá trị. Nó chỉ phát huy tác dụng khi bảo tồn và được tăng lên sau mỗi kỳ kinh doanh. Nếu vốn đã bị thiệt hại tức là vốn kinh doanh bị sử dụng lãng phí không hiệu quả.
1.2. Nội dung quản trị vốn kinh doanh
Nhiệm vụ quan trọng đầu tiên trong quản trị vốn của doanh nghiệp là lên kế hoạch để xác định nhu cầu về vốn kinh doanh nhằm luôn tạo đủ vốn trong hoạt động kinh doanh và tìm mọi biện pháp để huy động các nguồn vốn đưa vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một nhiệm vụ quan trọng nữa đó là đánh giá việc sử dụng vốn có hiệu quả hay không, từ đó có các biện pháp khắc phục kịp thời. Chính vì vậy nội dung quản trị vốn của doanh nghiệp gồm có bốn bước:
Lập kế hoạch về vốn kinh doanh.
Huy động các nguồn vốn phục vụ kinh doanh.
Tổ chức sử dụng các nguồn vốn đã huy động
Giám sát và kiểm tra tình hình sử dụng vốn kinh doanh.
1.2.1 Lập kế hoạch về vốn kinh doanh
Các doanh nghiệp cần lập kế hoạch sử dụng vốn kinh doanh với mục đích là nhằm tránh tình trạng ứu đóng vốn nếu để lượng dự trữ quá lớn, gây lãng phí nguồn lực. Mặt khác việc lập kế hoạch về vốn cũng giảm thiểu các tác động tiêu cực do thiếu vốn đem lại, tránh tình trạng bị động trong sản xuất và kinh doanh. Trên thực tế các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu rơi vào trạng thái thứ hai vì thiếu vốn là căn bệnh trầm khan của các doanh nghiệp nước ta. Và việc lập kế hoạch ở dạng ngắn hạn hay dài hạn cũng hết sức cần thiết để doanh nghiệp chủ động đối phó với nhiều tình huống xảy ra trong quá trình hoạt động của mình. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng mang tính đặc chủng hoặc có thị phần lớn họ gặp nhiều thuận lợi hơn trong việc lập kếhoạch kinh doanh dài hạn, và thường chủ động hơn trong việc đối phó với các tình huống cụ thể có thể xảy ra trong hoạt động thường nhật.
Thực tế lập kế hoạch về vốn kinh doanh có nội dung chủ yếu là: xác lập số vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh trong một thời gian nhất định là quí, nửa năm hay một năm, xác định khả năng huy động vốn, cân đối giữa nhu cầu và thực tế doanh nghiệp có thể huy động, tiến hành hoạt động phân bổ vốn cho các hoạt động kinh doanh của cả doanh nghiệp và có kế hoạch sử dụng vốn kinh doanh.
Và các doanh nghiệp thường sử dụng hai phương pháp thông thường để ước lượng số vốn cần thiết trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phương pháp thứ nhất là ước lượng nhu cầu vốn theo ngân sách doanh nghiệp. Phương pháp thứ hai là ước lượng theo số vốn cần thiết căn cứ vào các tỉ lệ có sẵn trong các ngành kinh doanh khac nhau. Chi tiết từng phương pháp ước lượng vốn sẽ được trình bày chi tiết ở ngay sau đây:
Ước lượng trực tiếp nhu cầu vốn theo ngân sách của doanh nghiệp
Ngân sách của doanh nghiệp là bảng dự kiến chi tiêu trong tương lai. Có thể tính toán từng nhu cầu cụ thể sau đó tổng hợp lại
Nhu cầu về tiền mặt (Ntm)
Số dự chi Số dự thu
Ntm = -
Tháng Tháng
Ngoài ra cần dự tính thêm để đáp ứng nhu cầu chi tiêu bất thường. Vì vậy gnười ta đề nghị mức tiền mặt theo thiết kế của mô hình Miller – ORR:
Mức tiền giới hạn dưối
Tiền mặt
theo thiết kế
Khoảng giao động tiền mặt
3
+
=
Nhu cầu vốn cho hàng tồn kho (Ntk)
Doanh số bán theo giá vốn Giá mua bình quân 1
Ntk = ---------------------------------- x đơn vị hàng hoá
Số vòng luân chuyển
Hoặc có thể tính theo công thức:
Mức lưu chuyển Thời gian Giá mua
Ntk = bình quân 1 ngày x dự trữ kỳ x 1 đơn vị
đêm trong kỳ kế hoạch hàng hoá
Tiền bán chịu Thời gi._.an
- Các khoản phải thu = bình quân 1 x trung bình
(Npt) ngày thu hồi nợ
- Tiền lương cho cán bộ và nhân viên (Ntl)
Số lượng x Tiền lương bình quân
Ntl = CBCNV tháng 1 người
Nhu cầu tiền chi cho quảng cáo, khuyến mại có thể tính bằng cách:
+ Tính từ đơn giá 1 lần quảng cáo, trên từng phương tiện.
+ Tham khảo chi phí của các doanh nghiệp khác cùng loại trong ngành kinh doanh và nhất là của các đối thủ cạnh tranh.
+ Dựa vào mục tiêu và chiến lược quảng cáo, khuyến mại của doanh nghiệp.
Nhu cầu vốn mua sắm tài sản cố định
Cần được xác danh mục các loại tài sản cố định cần thiết phải mua sắm và cách thức mua sắm ( mua mới, mua lại tài sản cũ và thuê mua) để xác định số vốn cần thiết.
Các tài sản cố định liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản vì vậy cần tính đầy đủ cả vốn cho giải phóng mặt bằng, cho xây lắp và chi phí bảo hành, đào tạo kỹ thuật cho công nhân vân hành. Mặt khác xây dựng cơ bản diễn ra trong thời gian dài nên cần tính đến vốn cho xây lắp cho năm kế hoạch, vốn chuyển sang kỳ sau và số vốn tài sản cố định huy động sử dụng được trong kỳ.
Các phần chi khác của ngân sách cho doanh nghiệp cũng được xác định theo phương pháp tương tự như chi phí điện nước, chi phí thông tin liên lạc, chi phí nộp thuế và mua bảo hiểm hàng hoá, tài sản kinh doanh của doanh nghiệp.
Sau khi tính từng mục ta tổng hợp được yêu cầu vốn ngân sách của doanh nghiệp.
Phương pháp này đem lại kết quả chính xác cao, nhưng mất thời gian tính toán.
Phương pháp ước lượng số vốn cần thiết căn cứ vào các tỉ lệ có sẵn trong các ngành kinh doanh khác nhau
Thực chất phương pháp này vốn kinh doanh được tính theo tỉ lệ phần trăm so với doanh số bán của doanh nghiệp theo từng khâu lưu chuyển hàng hoá.
Thí dụ đối với doanh nghiệp bán buôn
Vốn lưu động = 30% x doanh số bán của doanh nghiệp
Vốn cố định bằng 20% doanh số bán
Đối với doanh nghiệp bán lẻ:
Vốn lưu động = 40% x doanh số bán
Vốn cố định cần từ 10% đến 15% doanh số bán
Phương pháp này cho kết quả nhanh nhưng độ chính xác không cao, vì vậy người ta có thể sử dụng bổ sung để kiểm tra, đối chiếu với kết quả của phương pháp tính trực tiếp ở trên.
Ngoài ra có thể sử dụng phép nhân tính điểm hoà vốn để ước lượng số vốn cần thiết:
Tổng chi phí cố định
Điểm hoà = ----------------------------------------------------------------
vốn Giá bán 1 đơn vị - Chi phí biến đổi 1 đơn vị hàng hoá
Từ đó để xác định số vốn cần thiết cho doanh nghiệp
1.2.2. Các biện pháp huy động vốn kinh doanh
Hiện nay Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có tự chủ về vốn bao gồm huy động và sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp bên cạnh nguồn vốn Nhà nước cấp phát (đối với loại hình doanh nghiệp nhà nước) còn được phép huy động các nguồn khác để phục vụ cho các hoạt động của mình. Thực tế các doanh nghiệp thường huy động từ các nguồn: vay từ các tổ chức tín dụng, liên doanh liên kết với các khách hàng hoặc nhà cung cấp đầu vào cho doanh nghiệp dưới dạng mua trả chậm hoặc trả tiền trước một phần hỗ trợ cho doanh nghiệp. Kể từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì một hình thức huy động vốn mới tỏ có hiệu quả đó là phát hành trái phiếu cổ phiếu thông qua việc cổ phần hoá doanh nghiệp.
Và hiện nay hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để doanh nghiệp huy động có hiệu quả nguồn vốn để phục vụ tốt cho hoạt động kinh doanh của mình. Với nhiều các giải pháp huy động vốn mà các doanh nghiệp đã áp dụng có thể phân chia thành hai loại là: giải pháp huy động vốn ngắn han và dài hạn.
Thứ nhất, đối với các giải pháp huy động vốn dài hạn.
Vốn dài hạn của doanh nghiệp có thể do nhà nước cấp, vốn này được xác định trên cơ sở biên bản giao nhận vốn của nhà nước cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó là vốn nội bộ của doanh nghiệp, bao gồm phần vốn khấu hao cơ bản để lại doanh nghiệp, phần lợi nhuận không chia và phần tiền nhượng bán thanh lý tài sản (nếu có). Vì vậy chính sách phân phối lợi nhuận cho tiêu dùng và tích luỹ phải được nhìn nhận như là một lĩnh vực quyết định tất yếu của quản lý tìa chính. Một khi doanh nghiệp đã khai thác hết nguồn vốn bên trong mà nhu cầu vốn dài hạn vẫn không đáp ứng được thì cần áp dụng một số giải pháp sau:
Giải pháp 1: Phát hành cổ phiếu
Cổ phiếu là giấy chứng nhận góp cổ phần để tạo lập vốn cho doanh nghiệp và chứng nhận lợi tức cổ phần. Cổ phiếu hình thành lên vốn tự có của doanh nghiệp. Cổ phiếu được coi như "lá chắn" chống lại sự phá sản của doanh nghiệp. Các cổ đông không được rút vốn khỏi doanh nghiệp trừ phi doanh nghiệp bị phá sản, nhưng họ có thể chuyển sang đầu tư vào lĩnh vực khác bằng cách nhượng bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu gồm hai loại: Cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu thường (Common Stock/ share) là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì đặc điểm của nó là đáp ứng được cả hai phía người đầu tư và phía công ty phát hành. Lượng cổ phiếu tối đa mà công ty được quyền phát hành gọi là vốn cổ phần được cấp phép. Đây là một quy định của Uỷ ban chứng khoán quốc gia và các cơ quan có thẩm quyền. Con số này cũng được ghi trong điều lệ công ty. Muốn tăng vốn cổ phần của công ty phải được Đại hộ cổ đông cho phép. Tuy nhiên, trên thực tế, việc quản lý và kiểm soát quá trình phát hành chứng khoán tuỳ thuộc vào chính sách cụ thể của nhà nước và Uỷ ban chứng khoán quốc gia.
Vấn đề chống mua công ty, bảo vệ công ty trước sự xâm nhập bằng các cổ phiếu của các công ty khác là một khía cạnh đặc biệt. Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu phải xem xét đến nguy cơ bị mua lại cả công ty. Do đó, phải tính đến tỷ lệ cổ phần tối thiểu cần duy trì để giữ vững quyền kiểm soát công ty.
Cổ phiếu ưu tiên (Preferred Stock) thường chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp dùng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có cổ tức cố định. Người chủ của cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Cổ phiếu ưu đãi có thể được thu hồi lại (chuộc lại) khi công ty thấy cần thiết. Những trường hợp như vậy cần quy định rõ những điểm sau:
Lãi cổ phiếu đó có thể được mua lại hay không.
Giá cụ thể khi công ty mua lại cổ phiếu.
Thời hạn tối thiểu không được phép mua lại cổ phiếu.
Một vấn đề quan trọng cần đề cấp đến khi phát hành cổ phiếu ưu tiên đó là thuế. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty, cổ tức được lấy từ lợi nhuận sau thuế. đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên. Mặc dù vậy, như đã đề cập, cổ phiếu ưu tiên vẫn có những ưu điểm đối với cả công ty phát hành và người đầu tư.
Phát hành cổ phiếu mới:
Trong quá trình hoạt động công ty làm ăn có hiệu quả và muốn mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường trong khi đó vốn của công ty không đáp ứng đủ, do vậy công ty có thể huy động thêm vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Trên cơ sở đề nghị của Hội đồng quản trị, Đại hội cổ đông sẽ quyết định thời gian và cách thức phát hành cổ phiếu. Những cổ đông cũ thường được ưu tiên đăng ký mua trước theo số lượng cổ phiếu mà nọ hiện đang nắm giữ và tất nhiên giá bán trong trường hợp này thấp hơn giá thị trường của loại cổ phiếu đó. Hay nói cách khác, các cổ đông cũ có quyền mua cổ phiếu mới khi công ty phát hành. Trong trường hợp này các công ty có thể trả lãi bằng cổ phần mới.
Về hình thức phát hành, cổ phiếu có thể được bán công khai tại doanh nghiệp hoặc bán thông qua hệ thống ngân hàng thương mại và công ty tài chính.
Theo Nghị định 28/CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 07/05/1996, thì việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước để thu hút vốn trong dân dược tiến hành theo 3 phương pháp:
Phương pháp 1: Phát hành cổ phiếu trên cơ sở giữ nguyên giá trị doanh nghiệp nhà nước hiện có nhằm thu hút vốn của mọi thành phần kinh tế để tăng quy mô của doanh nghiệp.
Phương pháp 2: Nhà nước giữ một phần giá trị doanh nghiệp dưới dạng cổ phần, số còn lại bán cho các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp.
Phương pháp 3: Tách một bộ phận doanh nghiệp nhà nước đủ điều kiện cần thiết để chuyển thành công ty cổ phần.
Giải pháp 2: Phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi:
Các công ty, đặc biệt là các công ty của Mỹ, thường phát hành chứng khoán kèm theo những điều kiện có thể chuyển đổi được. Nói chung sự chuyển đổi và lựa chọn cho phép các bên (công ty, người đầu tư) có thể chọn cách thức đầu tư có lợi và thích hợp.
Có một số hình thức chuyển đổi, ở đây chỉ đề cập hai hình thức:
Giấy bảo đảm (Warrant): Người sở hữu giấy bảo đảm có thể mua số lượng cổ phiếu thường, được quy định trước với giá cả và thời gian xác định.
Trái phiếu chuyển đổi (convertible bond) là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành một số lượng nhất định các cổ phiếu thường.Nếu trị giá của cổ phiếu tăng lên thì người giữ trái phiếu có cơ may nhận được lợi nhuận cao.
Giải pháp 3: Phát hành trái phiếu công ty
Hiện nay ở Việt Nam, theo thống kê chưa đầy đủ của các nhà kinh tế, lượng tiền nhàn rỗi ở trong dân rất lớn. Theo đánh giá của các chuyên gia, trong dân hiện có hơn 20.000tỷ Việt Nam đồng nhàn rỗi.Vì vậy việc phát hành trái phiếu công ty trả rất cần thiết cho việc huy động tiền nhàn rỗi.
Trái phiếu là một tên chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn, bao gồm: trái phiếu Chính phủ (Goverment bond) và trái phiếu công ty (corperate). Trái phiếu này còn được gọi là trái khoán.
Một trong những vấn đề cần được xem xét trước khi phát hành là lựa chọn trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của công ty và tình hình trên thị trường tài chính.
Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp rất quan trọng vì nó liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi. Khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước hiện nay thường lưu hành những loại trái phiếu công ty như sau:
Trái phiếu có lãi suất cố định, là loại trái phiếu được sử dụng nhiều nhất. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó.
Để huy động vốn trên thị trường bằng trái phiếu, cần phải tính đến mức độ hấp dẫn của trái phiếu. Tính hấp dẫn phụ thuộc vào những yếu tố sau:
+ Lãi suất của trái phiếu, lãi suất được đặt ra trong mối tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt phải tính tới sự cạnh tranh với trái phiếu của công ty khác. Trong việc phát hành trái phiếu cần chú ý đến mệnh giá vì nó có thể liên quan đến sức mua của dân chúng. Đặc biệt ở Việt Nam, khi phát hành trái phiếu công ty cần xác định một mức giá vừa phải để nhiều người có thể mua được, tạo sự lưu thông dễ dàng cho trái phiếu trên thị trường.
+ Uy tín tài chính của công ty
+ Kỳ hạn của trái phiếu
Trái phiếu có lãi suất thả nổi
Trái phiếu có lãi suất thả nổi trong điều kiện có mức lạm phát cao và lãi suất thị trường không ổn định thì có thể khai thác tính ưu việt của thể loại này. Tuy nhiên loại này có vài nhược điểm như sau:
+ Công ty không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính.
+ Việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do phải thông báo các lần điều chỉnh lãi.
Trái phiếu có thể thu hồi (callable bond)
Một số công ty lựa chọn cách phát hành những trái phiếu có thể thu hồi, loại này phải được quy định ngay khi phát hành để người mua trái phiếu được biết và phải quy định rõ giá cả và thời gian khi công ty chuộc lại trái phiếu.
Trái phiếu thu hồi có những ưu điểm sau:
+ Có thể sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng khi không cần thiết, công ty có thể mua lại các trái phiếu, tức là gom lại số vốn vay.
+ Công ty có thể thay loại trái phiếu này bằng một nguồn tài chính khác bằng cách mua lại trái phiếu đó.
Trên thực tế, nhiều nhà kinh tế Mỹ bàn luận về vấn đề chọn lựa thời điểm phát hành chứng khoán của công ty. Khi nào nên phát hành cổ phiếu? Khi nào nên phát hành trái phiếu. Câu trả lời liên quan đến sự phản ánh trước sự biến động của thị giá cổ phiếu, nhu cầu tài chính và hiệu quả của việc phát hành. Và khi nào thì công ty thu hồi cổ phiếu. Để trả lời những câu hỏi này cần xem xét kỹ các khía cạnh sau:
+ Các công ty phải xem xét sự cân bằng giữa nợ và vốn cổ phần để giữ vững khả năng thanh toán, củng cố uy tín tài chính khi tỉ lệ nợ ở mức thấp, nếu cần vốn thì công ty thường chọn cách phát hành trái phiếu tức là tăng nợ (mà không tăng cổ phần). Nếu tỷ lệ nợ ở mức cao, công ty phải tránh việc tăng thêm tỷ lệ nợ và chọn cách phát hành cổ phiếu.
+ Tuy nhiên, thực tế các công ty không quan tâm nhiều đến việc giữ một mức cân bằng chính xác. Việc điều chỉnh lượng tiền và các khoản nợ thường ngẫu hứng và linh hoạt kiểu "tuỳ cơ ứng biến".
Các biện pháp huy động vốn như đã đề cập ở trên hiện cũng đã từng bước được thực hiện ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước đang trong giai đoạn chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần với tỉ lệ góp vốn của nhà nước cũng tương đối linh hoạt tuỳ thuộc vào vai trò của từng doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Và có một hình thức cũng tương đối phổ biến đối với các doanh nghiệp Việt Nam đó là huy động vốn nội bộ nhân viên (dạng cho vay nội bộ công ty chứ chưa ở dạng cổ phiếu hay trái phiếu) trong doanh nghiệp phục vụ sản xuất và kinh doanh để lấp vào khoảng tiếu hụt vốn kinh doanh.
1.2.3. Tổ chức sử dụng vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Sử dụng vốn trong kinh doanh xuất phát từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bắt buộc từng doanh nghiệp phải sử dụng vốn đáp ứng các yêu cầu của của hoạt động đó. Và việc sử dụng vốn kinh doanh bao gồm các hoạt động: thứ nhất, tổ chức bộ máy quản lí vốn của doanh nghiệp, thực tế tại Việt Nam việc quản lí vốn của doanh nghiệp do phòng tài chính kế toán theo dõi và quản lí là chủ yếu, các đơn vị khác trong doanh nghiệp cũng có vai trò nhất định, nhưng vai trò chủ đạo vẫn thuộc phòng tài chính kế toán. Thứ hai, phân phối vốn vào từng hoạt động kinh doanh, từng lĩnh vực kinh doanh một cách hợp lí là vấn đề quan trọng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Những mặt hàng hoặc lĩnh vực có khả năng tạo nhiều lợi nhuận hoặc có triển vọng thì vốn cho các mặt hàng hoặc lĩnh vực đó phải được ưu tiên hàng đầu. Còn những mặt hàng hoặc lĩnh vực có hiệu quả thấp thì việc ưu tiên về vốn sẽ đứng ở phía sau. Và tiếp theo là phân bổ vốn cho các đơn vị trực thuộc tuỳ theo chức năng nhiệm vụ của từng đơn vị. Mặt thứ hai của tổ chức sử dụng vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là đưa vốn vào kinh doanh.
Cơ cấu tổ chức quản lí vốn trong doanh nghiệp tuỳ tình hình cụ thể của từng đơn vị mà lập nên bộ máy quản lí có hiệu quả hoạt động cao nhất. Doanh nghiệp có thể tổ chức bộ máy quản lí vốn theo hướng: phòng tài chính kế toán chịu trách nhiệm chung trong hoạt động huy động vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh chung cho toàn đơn vị, sau khi phân bổ vốn cho các phòng ban và đơn vị trực thuộc, thì từng phòng ban và đơn vị phải chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Biện pháp này gắn trách nhiệm cho người sử dụng vốn và từ đó sẽ nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn.
Phân phối vốn vào các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như các đơn vị thành viên của doanh nghiệp một cách hợp lí đóng vai trò rất quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả vốn kinh doanh. Trong hoạt động quản trị vốn của doanh nghiệp bên cạnh việc xác định được vốn cần cho kinh doanh cho các hoạt động đầu tư sản xuất từ đó mới tìm ra biện phát để huy động các nguồn lực phục vụ cho quá trình này, thì còn có một vấn đề cũng cực kì quan trọng đó là phân phối các nguồn lực đang có làm sao cho hợp lí nhất để đạt được hiệu quả cao nhất có thể trong giới hạn có thể.
Thực chất các doanh nghiệp cũng gặp rất nhiều lúng túng trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của từng nghành hàng, nhóm hàng, và các hoạt động khác do chỉ tiêu đánh giá còn nhiều điểm chưa đồng nhất, trong đó có vấn về chỉ tiêu đánh giá giữa các nhóm hàng với nhau. Thông thường lợi nhuận đem lại từ việc kinh doanh mặt hàng nông sản thấp hơn các mặt hàng công nghiệp và các hoạt động kinh doanh dịch vụ. Vậy nếu một công ty tham gia kinh doanh tổng hợp các mặt hàng trên thì nên phân bổ các nguồn lực của mình như thế nào? Đây là một thực tế các doanh nghiệp Việt Nam cũng hay gặp phải.
Các doanh nghiệp sẽ tập chung phân bổ nguồn lực của mình vào nhóm nghành hàng đang đem lại nhiều lợi nhuận cho bản thân doanh nghiệp và thị trường của nghành hàng này tương đối ổn định (tương đương với nhóm mặt hàng nằm ở ô ngôi sao và bò sữa trong bảng đánh giá khả năng sinh lời của sản phẩm ở ma trận BCG). Đối với các mặt hàng kinh doanh có xu hướng tăng giảm nhiều doanh nghiệp đầu tư theo hình thức thăm dò chờ và dự đoán tiếp diễn biến của thị trường (tương đương với nhóm nghành hàng dấu hỏi). Nếu thị trường diễn biến theo chiều hướng không lợi thì doanh nghiệp có thể giảm đầu tư và thậm chí không tham gia kinh doanh nữa (tương đương với nhóm cho ốm). Đối với nhóm mặt hàng đã rơi vào vị trí suy thoái, người tiêu dùng không còn có nhu cầu lớn về các mặt hàng này, doanh nghiệp giảm hẳn việc đầu tư các nguồn lực vào những mặt hàng đó. Lúc này doanh nghiệp có thể phát triển các sản phẩm mới có những tính năng công dụng mới và đưa sản phẩm ra thị trường tạo cho chúng một chu kì sống mới và nếu đi theo hướng này thì cũng phải có một sự đầu tư thích hợp về tài chính.
Ngôi sao Bò sữa
Dấu hỏi Chó ốm
Ma trận BCG
Nói tóm lại, việc phân phối vốn cho các hoạt động kinh doanh cần dựa trên khả năng sinh lời của cá hoạt động đó cũng như mức độ ổn định thị trường đầu ra đối với từng sản phẩm, nhóm hàng, nghành hàng nhất định. Và việc phân phối vốn cho các hoạt động kinh doanh có thể phù hợp với doanh nghiệp trong thời điểm này nhưng cũng không có nghĩa sẽ phù hợp trong thời gian tới vì tính động trong kinh doanh.
Và để đạt được mục tiêu, chiến lược cũng như kế hoạch đặt ra của doanh nghiệp đề ra thì bắt buộc doanh nghiệp cũng phải sử dụng vốn kinh doanh. Các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hoạt động trước hết vì mục tiêu lợi nhuận của mình sau đó là các mục tiêu kinh tế và xã hội khác.
Để cho tất cả các hoạt động được diễn ra một cách có kết quả và cao hơn nữa là có hiệu quả thì doanh nghiệp cần phải có sự kết hợp các yếu tố đầu vào cơ bản như lao động, nhà xưởng, máy móc, thiết bị, và một phần cực kì quan trọng khác đó là vốn. Nói đến hoạt động của bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải đề cập tới một vấn đề cốt lõi đó là vốn cho kinh doanh, vốn cho sản xuất và các hoạt động khác.
Trong quản trị vốn kinh doanh của doanh nghiệp có đề cập đến vấn đề sử dụng vốn trong kinh doanh tức là đưa tiền tệ, hàng hoá vào lưu thông. Và cũng thông qua việc đưa vốn vào lưu thông doanh nghiệp mới đánh giá được tình hình sử dụng vốn có hiệu quả hay không, doanh nghiệp có bảo toàn được vốn và phát triển được vốn kinh doanh sau một kì tài chính hay không.
1.2.4. Giám sát và kiểm tra tình hình sử dụng vốn kinh doanh
Giám sát và kiểm tra tình hình sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện trên các góc độ giám sát và kiểm tra việc sử dụng các nguồn vốn gồm cả vốn cố định và vốn lưu động. Tình hình sử dụng vốn lưu động được đánh giá trên năm chỉ tiêu gồm: thời gian lưu chuyển vốn lưu động, sức sinh lợi của vốn LĐ, hệ số đảm nhiệm vốn lưu động, hệ số doanh lợi doanh thu thuần, và sức sinh lợi doanh thu thuần. Đánh giá tình hình sử dụng vốn cố định được thể hiện ở sức sản xuất tài sản cố định và sức sinh lợi của tài sản cố định. Và đánh giá tình hình sử dụng vốn còn thể hiện trên mặt đánh giá mức độ bảo toàn của các tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động sau một kì kinh doanh. Các doanh nghiệp cũng cần đồng thời đánh giá tình hình thực hiện các qui định quản lí vốn của Nhà nước, các khoản phải nộp cho các đơn vị như thuế, nộp ngân sách…
Thứ nhất, vòng quay vốn lưu động. Chỉ tiêu này cho biết với số vốn lưu động bỏ và mức doanh thu đạt được trong thời kì phân tích, thì số vốn LĐ có thể quay được bao nhiêu vòng.
Vòng quay vốn LĐ = Doanh thu thuần/ VLĐbq
Chỉ tiêu này cho thấy sức sinh lợi của vốn LĐ, nếu số vòng quay càng lớn cho thấy sức sinh lợi của vốn LĐ của doanh nghiệp càng cao, mục tiêu của doanh nghiệp là tăng nhanh số vòng quay vốn lưu động, tránh ứ đọng vốn, gây lãng phí nguồn lực.
Thứ hai, thời gian luân chuyển vốn lưu động là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả chung của doanh nghiệp trong việc quản lí và sử dụng vốn lưu động trong mối quan hệ so sánh giữa kết quả sản xuất kinh doanh (tổng doanh thu thuần) và số vốn lưu động bình quân trong kì nghiên cứu (tháng, quí, năm).
Chỉ tiêu thời gian luân chuyển vốn lưu động cho biết trong một khoảng thời gian của chu kì kinh doanh 1 vòng luân chuyển vốn lưu động cần bảo nhiêu lâu. Về phương diện sức sinh lợi của vốn LĐ thì thời gian này càng ngắn càng tốt vì doanh nghiệp cần ít vốn lưu động cho kinh doanh, và doanh nghiệp có thể giảm mức đi vay vốn lưu động. ý nghĩa của việc tăng nhanh hay rút ngắn thời gian luân chuyển vốn lưu động là nếu để đảm bảo mức lưu chuyển hàng hoá nhu cũ thì chỉ cần một lượng vốn lưu động nhỏ hơn, hoặc với mức vốn lưu động như cũ thì có thể đảm bảo lưu chuyển một khối lượng hàng hoá lớn hơn.
Số vòng luân chuyển VLĐ
Thời gian kì phân tích
Thời gian của 1 vòng luân = chuyển VLD
-
Thời gian luân chuyển vốn phản ánh trình độ kinh doanh, hiệu quả của công tác quản lí và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu có sự gia tăng đột của vòng quay vốn lưu động chứng tỏ hàng hoá của doanh nghiệp được tiêu thụ mạnh. Và nếu không hoàn thành một chu kì luân chuyển có nghĩa là vốn lưu động còn bị ứ đọng ở một khâu nào đó, cần tìm biện pháp khai thông.
Thứ ba, Sức sinh lời của vốn LĐ. Chỉ tiêu này được tính bởi công thức:
Lợi nhuận thuần
Sức sinh lời của VLĐ = -----------------------
VLD bình quân
Chỉ tiêu này còn được gọi là doanh lợi vốn lưu động, chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi của vốn lưu động. Chỉ tiêu này càng cao càng phản ánh hiệu quả trong kinh doanh của doanh nghiệp, và nó cũng cho biết một đồng lợi nhuận được tạo ra cần có bao nhiêu đồng vốn lưu động cần thiết bỏ vào kinh doanh. Các doanh nghiệp đều hướng tới hiệu quả cao trong sử dụng vốn lưu động.
Thứ tư, hệ số đảm nhiệm vốn lưu động. Công thức tính chỉ tiêu này là:
Hệ số đảm nhiệm VLD = VLDbq/ DT thuần
Đây là chỉ tiêu cho biết một đồng vốn lưu động bình quân trong kì nghiên cứu sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Mục tiêu của các doanh nghiệp là tăng doanh thu trên một đồng vốn lưu động.
Thứ tư, hệ số doanh lợi doanh thu thuần. Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Hệ số doanh lợi DT thuần = Lợi nhuận thuần/ DT thuần
Đây là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh doanh càng lớn. Hệ số doanh lợi doanh thu thuần cho biết để tạo ra một đồng lợi nhuận thuần cần có bao nhiêu đồng doanh thu sau khia đã trừ đi các khoản thuế và phải nộp khác.
Đối với nhóm vốn cố định trước hết ta sử dụng chỉ tiêu sức sản xuất tài sản cố định được thể hiện ở chỉ tiêu sau:
Tổng doanh thu thuần
Sức sản xuất TSCĐ = ---------------------------------
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Nguyên giá bình quân TSCĐ được tính bằng trung bình cộng giá trị đầu kì và giá trị cuối kì. Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu cần có bao nhiêu đồng tài sản cố định.
Chỉ tiêu thứ hai đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định là sức sinh lời của tài sản cố định:
Lợi nhuận thuần (lãi gộp)
Sức sinh lời TSCĐ = ----------------------------------
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng lợi nhuận thuần (một đồng lãi gộp) được tạo ra do bao nhiêu đồng tài sản cố định tạo nên.
Một vấn đề nữa trong đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là đánh giá mức độ bảo toàn vốn của doanh nghiệp khi đem ra kinh doanh.
Một vấn đề quan trọng khác nữa là đánh giá mức độ bảo toàn vốn đem vào kinh doanh. Và bảo toàn vốn kinh doanh được hiểu là quá trình thu hồi vốn đã bỏ ra sau thời gian kinh doanh, là quá trình khôi phục vốn đã ứng trước. Bảo toàn vốn kinh doanh không làm mất đi giá trị của đồng vốn bỏ ra, bảo đảm duy trì năng lực sản xuất kinh doanh, khả năng mua sắm, thanh toán của doanh nghiệp. Trong thời kì lạm phát vốn kinh doanh cũng phải tăng lên một cách tương ứng.
Vốn kinh doanh phải bảo toàn được chia thành hai nhóm: vốn cố định và vốn lưu động.
Một là, bảo toàn vốn cố định. Bảo toàn vốn cố định là giữ cho tài sản cố định không bị lạc hậu kĩ thuật và không bị loại khỏi dây chuyền sản xuất kinh doanh trước khi hết hạn sử dụng. Nghĩa là vốn cố định phải bảo toàn cả mặt hữu hình và vô hình.
- Về mặt hữu hình, cần quản lí chặt chẽ không làm mất mát, thực hiện qui chế sử dụng, sửa chữa bảo dưỡng không để tài sản cố định bị hưu hỏng trước thời hạn và nâng cao năng lực hoạt động của tài sản cố định.
- Về mặt vô hình, phải chủ động đổi mới, thay thế tài sản cố định kể cả loại chưa hết khấu hao. Tiến hành khấu hao nhanh để thay thế thiết bị mới hiện đại đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng là một biện pháp quan trọng.
Doanh nghiệp cần thực hiện một số biện pháp cụ thể để tiến hành bảo toàn tài sản cố định:
Xác định cơ cấu vốn cố định và tỉ trọng từng loại tài sản cố định phù hợp với mục tiêu và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Đánh giá lại tài sản cố định trong kì. Xác định tỉ giá hối đoái để phản ánh giá trị của tài sản cố định nhập khẩu.
Xác định số vốn cố định phải bảo toàn trong kì theo công thức:
Tăng giảm VCĐ trong kì
+/-
Hệ số điều chỉnh giá trị TSCĐ
x
-
KH cơ bản trích trong kì
Vốn CĐ được giao đầu kì
=
Số vốn CĐ phải bảo toàn trong kì
Trích khấu hao theo giá hiện hành chứ không theo giá kế hoạch, giá nguyên thuỷ của tài sản cố định. Tài sản cố định đầu tư theo nguồn vốn nào thì khấu hao theo nguồn vốn đó.
Xác định tỉ lệ khấu hao hợp lí vừa bảo đảm tiêu thụ hàng hoá có lợi nhuận vừa cải tiến kĩ thuật.
Không mua sắm thiết bị lạc hậu phục vụ cho hoạt động sản xuất và kinh doanh.
Tăng mức độ sử dụng tài sản cố định trong một đơn vị thời gian.
Có hướng giải quyết kịp thời với tài sản cố định không cần dùng hoặc không có hiệu quả kinh tế.
Hai là, đối với nhóm tài sản lưu động. Để tài sản không bị thất thoát thì doanh nghiệp cần có mức dự trữ phù hợp, có cơ cấu tài sản lưu động phù hợp. Một mặt doanh nghiệp cũng tăng cường mức lưu chuyển hàng hoá để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Thông qua việc thực hiện các biện pháp trên doanh nghiệp sẽ bảo toàn và phát triển được vốn kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Trên đây là những chỉ tiêu cơ bản và thường dùng nhất để đánh giá tình hình sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Việc sử dụng các chỉ tiêu đánh giá này sẽ cho biết doanh nghiệp còn có những vấn đề gì trong hoạt động quản trị vốn từ đó đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong quản trị vốn.
1.3 các Nhân tố ảnh hưởng đến quản trị vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia theo các nhân tố chủ quan và các nhân tố khách quan. Các nhân tố khách quan là các nhân tố tác động đến hoạt động quản trị vốn của doanh nghiệp, nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Các nhân tố chủ quan là các nhân tố nằm trong nội bộ của bản thân doanh nghiệp. Sau đây, chúng ta sẽ nghiên cứu từng nhóm nhân tố:
1.3.1. Nhân tố khách quan
Các nhân tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động quản trị vốn của doanh nghiệp bao gồm các nhân tố sau:
Các vấn đề về chính sách nhà nước, các yếu tố kinh tế vĩ mô tác động đến hoạt động đến hoạt động trực tiếp hay gián tiếp đến quá trình quản trị vốn của doanh nghiệp. Việc quản trị vốn của doanh nghiệp bị chi phối bởi các chính sách về thuế, về tín dụng của ngân hàng, và các chính sách kinh tế khác… Các chính sách tín dụng sẽ tác động đến khả năng huy động vốn, thu hút vốn phuc vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính sách thuế sẽ tác động trực tiếp hoạt động sản xuất, kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của cả doanh nghiệp.
Yếu tố lạm phát, vấn đề tỉ giá hối đoái ảnh hưởng tới nhu cầu về vốn của doanh nghiệp theo các chiều hướng khác nhau. Khi có lạm phát cao các doanh nghiệp cần phải tính tới việc gia tăng tỉ lệ vốn kinh doanh tương ứng để đảm bảo một cách tương đối nhu cầu về vốn. Trong môi trường có lạm phát cao giá cả đầu vào có nhiều biến động theo các chiều hướng phức tạp, chính vì vậy doanh nghiệp cũng cần giành một khoản vốn nhất định đối phó với trường hợp này.
Trong trường hợp có biến động về tỉ giá hối đoái thì tác động lớn nhất lại xảy ra đối với các doanh nghiệp có tham gia xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ hay các đầu vào sản xuất khác và mức độ tác động theo những chiều hướng hoàn toàn khác nhau đối với hoạt động xuất khẩu và hoạt động nhập khẩu. Khi tỉ giá hối đoái giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ giảm thì xuất khẩu có lợi và nhập khẩu lại bất lợi. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp tham gia nhập khẩu cần tăng lượng vốn nội tệ để đối phó với sự biến động bất lợi của tỉ giá hối đoái.
Các nhà cung cấp đầu vào khác. Trong luận văn này có tách yếu tố vốn và các yếu tố đầu vào khác thành những nhóm khác nhau. Ví dụ, vốn vay từ các tổ chức tín dụng được tách ra thành một nhóm riêng, vốn chiếm dụng của các nhà cung cấp đầu vào khác thành một nhóm. Các nhà cung cấp đầu có tác động đến việc sử dụng vốn, huy động vốn của doanh nghiệp bằng việc cho hưởng tín dụng khi mua hàng hoặc doanh nghiệp bắt doanh nghiệp phải tiến hành thanh toán ngay, hoặc thậm chí doanh nghiệp còn phải đặt tiền trước. Các hình thức thanh toán với người cung cấp đầu vào sẽ ảnh hưởng tới nhu cầuvốn lưu động của doanh nghiệp.
Những người mua hàng của doanh nghiệp. Người mua hàng của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng tới nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Khi tham gia vào thị trường doanh nghiệp cũng phải tiến hành đa dạng hoá hình thức bán hàng: bán trả ngay, bán chụi, cũng có trường hợp doanh nghiệp bắt người mua đặt tiền trước. Đối với trường hợp bán chịu, việc thu nợ là một vấn đề đặt ra đối với tất cả các doanh nghiệp là tránh việc nợ đọng dây dưa, giảm các khoản nợ khó đòi.
1.3.2. Nhân tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan bên trong doanh nghiệp tác động đến hoạt động quản trị vốn bao gồm các nhân tố sau:
Vấn đề con người trong quản lí và._.về xúc tiến thương mại có vai trò quan trọng trong việc tăng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Các giải pháp này bắt đầu từ khâu phân tích thị trường mục tiêu, lập kế hoạch marketing, tiến hành thực hiện cho đến việc kiểm tra đánh giá lại kết quả đã đạt được. Và cụ thể là:
Lựa chọn thị trường mục tiêu:
Đối với các sản phẩm chủ đạo trong ngành thị trường mục tiêu của công ty vẫn là thị trường trong nước, phục vụ cho hoạt động kinh doanh vận tải đường sắt. Tìm kiếm thị trường nhập khẩu phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển của ngành đường sắt nội địa là một vấn đề hết sức quan trọng do trình độ phát triển về kĩ thuật và hạ tầng của Việt Nam còn quá thấp. Nhưng bên cạnh đó cũng cần có những cải tiến để từng bước hiện đại hoá trong lĩnh vực này. Trong giai đoạn tới công ty cần tiến hành hợp tác kinh doanh với nhà xuất khẩu khác trong khu vực để đa dạng hoá thị trường nhập khẩu , giảm lệ thuộc vào thị trường hiện tại tìm cơ hội tăng thời hạn thanh toán, giảm chi phí trong nhập khẩu, tiếp cận với công nghệ phù hợp với trình độ phát triển chung của nghành đường sắt Việt Nam và giảm rủi ro trong kinh doanh.
Đối với lĩnh vực sản xuất các phụ tùng cho ngành đường sắt, công ty cần khai thác có hiệu quả các nguồn hàng phục vụ cho hoạt động sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng một cách tốt hơn yêu cầu về kĩ thuật của ngành. Tăng cường cải tiến kĩ thuật, giảm giá thành sản xuất từ đó nâng cao lợi nhuận - một chỉ tiêu quan trọng trong quản trị vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với lĩnh vực xuất khẩu lao động. Bên cạnh những thị trường truyền thống công ty đang khai thác có hiệu quả như thị trường Đài Loan, thị trường Malayxia, công ty cần tiếp tục mở rộng thị trường sang các nước Trung Đông vì đây là thị trường có nhu cầu rất lớn về lao động phổ thông và Nhà nước ta cũng đã có những hiệp định khung về dịch vụ xuất khẩu lao động với các nước trong khu vực.
Lập kế hoạch và tiến hành thực hiện tốt các chiến lược marketing hỗn hợp.
Đây là điều kiện đảm bảo tiêu thụ hàng hoá với khối lượng lớn thời gian nhanh. Vì điều này ảnh hưởng trực tiếp tới vòng quay vốn, tới thời gian chu chuyển hàng hoá. Để thực hiện được công ty Virasimex cần có đội ngũ cán bộ marketing hoạt động có hiệu quả, có chiến lược marketing dài hạn và đồng thời có những kế hoạch ngắn hạn và phương án thay thế khi môi trường kinh doanh thay đổi.
Và để có được mức doanh thu cao như dự kiến thì công ty Virasimex cũng cần phải có những quyết định về tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh và có khả năng thích nghi với đIều kiện môi trường thay đổi. Việc thay đổi thuế xuất từ 1.7.2003 đối với những mặt hàng trong số đó có cả mặt hàng công ty tham gia kinh doanh là một ví dụ đIển hình. Đồng thời mức độ cạnh tranh cũng tăng lên rất nhiều, công ty không còn giữ vai trò độc quyền trong hoạt động xuất nhập khẩu thiết bị đường sắt nữa va lúc này vai trò của hoạt động tài chính, việc quản trị vốn một cách có hiệu quả đóng vai trò rất lớn trong môi trường cạnh tranh như hiện nay.
Thực hiện và đánh giá kết quả đạt được:
Doanh thu bán hàng chỉ có được khi công ty tiến hành hoạt động kinh doanh và việc tiến hành kinh doanh là chỉ tiêu quan trọng để công ty có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay. Hoạt động kinh doanh, thương mại cần được đánh giá tìm ra những khiếm khuyết để bổ xung và thay đổi cho phù hợp với môi trường kinh doanh.
Hoạt động xúc tiến thương mại cần được thực hiện một cách đồng bộ mang tính chuyên nghiệp để công ty có thể xây dựng được chiến lược kinh doanh lâu dài dựa trên sự dự báo phân tích một cách tương đối chính xác và có hệ thống về môi trường kinh doanh, những thuận lợi và những khó khăn công ty đang phải đối mặt. Đây là một vấn đề rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của công ty trong điều kiện ngày nay.
Nói tóm lại, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả kinh doanh công ty cần tiến hành đồng loạt các biện pháp huy động, sử dụng vốn, và các công tác thị trường. Và có làm như vậy thì công ty mới đạt được những mục tiêu và phương hướng như đã đề ra tới năm 2005.
3.2.4. Giải pháp về bảo toàn vốn, quản lí kiểm tra giám sát hoạt động sử dụng vốn kinh doanh
Về công tác quản lí, kiểm tra, giám sát để tạo cơ sở cho quản trị vốn kinh doanh xét ở các góc độ: thứ nhất, quản lí và tổ chức yếu tố con người. Cơ cấu lại bộ máy cán bộ công nhân viên chức trong công ty nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong hoạt động kinh doanh mà cụ thể hơn là đạt hiệu quả cao hơn trong quản trị vốn cuả công ty trong thời gian tới. Thứ hai, tổ chức và quản lí vốn kinh doanh theo hướng hợp lí hơn, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu vốn của công ty trong điều kiện vốn huy động chưa đáp ứng đầy đủ hết yêu cầu của hoạt động kinh doanh và tạo điều kiện cho công ty có thể bảo toàn được vốn trong quá trình kinh doanh.
Thứ nhất, yếu tố con người trong công ty. Như đã trình bày ở mục trước, cơ cấu tổ chức cán bộ công nhân viên của công ty còn có nhiều điều bất hợp lí, một số chỉ tiêu cho thấy hiệu quả làm việc của đội ngũ này chưa cao, đấy là nói chung cho toàn bộ công ty. Xét theo từng phòng ban, cơ cấu tổ chức cũng còn nhiều vấn đề cần tiếp tục đánh giá phân tích kĩ hơn, nhưng đối với việc nghiên cứu về vốn kinh doanh và hoạt động quản trị vốn thì có lẽ chỉ nên dừng lại ở mức độ này. Trình độ chung của các phòng ban trực tiếp tham gia vào hoạt động kinh doanh như phòng xuất nhập khẩu, phòng kinh doanh, hay phòng tham gia vào quá trình huy động và quản lí vốn như phòng tài chính kế hoạch còn hạn chế. Số người được đào tạo qua đại học còn thấp, công ty chưa có chương trình đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ này. Trong thời gian tới cần phải đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ này để họ có thể làm việc tốt hơn và có hiệu quả hơn. Trong khi đó, phòng dự án có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, tham gia xúc tiến hoạt động thương mại lại toàn những nhân viên rất trẻ, mới ra trường trình độ lí thuyết thì có nhưng trình độ thực tiễn đàm phán, đánh giá và xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn lại non yếu. Chính vì lí do này mà công tác dự báo, công tác nghiên cứu thị trường còn nhiều hạn chế.
Tất cả các yếu tố trên hợp thành làm giảm đi hiệu quả kinh doanh của công ty Virasimex trong thời gian qua, và việc giám sát, kiểm tra cũng khó có thể đạt được hiệu quả mong muốn. Tiếp tục trong những năm tới đây, công ty cần nâng cao hơn nữa chất lượng cán bộ chủ chốt, sắp xếp lại các phòng ban theo hướng đan xen giữa cán bộ có trình độ thực tiễn nhưng chưa qua đào tạo nhiều về trường lớp và những nhân viên trẻ để nâng cao hiệu quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn trong toàn công ty.
Thứ hai, tổ chức và quản lí vốn theo hướng hợp lí hơn là nhân tố quan trọng để công ty đảm bảo được vốn trong quá trình kinh doanh. Và yếu tố này được đánh giá ở hai nhóm là vốn lưu động và vốn dưới dạng tài sản cố định.
Đối với nhóm vốn lưu động. Mục đích của quản lí vốn lưu động là làm thế nào đạt được hiệu quả cao nhất trong việc sử dụng vốn lưu động và theo dõi được sự biến động cuả vốn lưu động, từ đó có thể có biện phá thích hợp bảo toàn vốn. Để đạt được mục đích này, người làm công tác quản lí tài chính cần trả lời câu hỏi:
Công ty nên dự trữ bao nhiêu tiền mặt?
Công ty nên bán chịu không? Và nếu có thì nên bán chịu cho đối tượng nào?
Công ty nên đi vay để trả tiền ngay hay nên mua chịu? Nếu vay thì vay ai, vay như thếnào?…
Yếu tố đầu tiên: yếu tố dự trữ. Một vấn đề quan trọng đặt ra đối với công tác quản lí vốn lưu động là cần xác định cho mức đữ trữ tiền mặt một cách hợp lí và có hiệu quả nhất. Và các nhà kinh tế học cho rằng, để có một mức dự trữ tiền mặt hợp lí thì phải dựa vào dự trữ vật tư. Mức dự trữ vật tư hợp lí sẽ quyết định mức cân đối tiền mặt hợp lí.
Giả sử công ty một năm bán ra khoảng cho các đơn vị trong ngành khoảng 10 đầu máy xe lửa và nhập số lượng nhập trong mỗi lần là Q, tức là mỗi năm công ty phải nhập 10/Q lần. Trước khi nhập công ty có dự trữ bằng 0 (do bán hết nên công ty mới phải nhập tiếp), sau khi nhập công ty có số lượng dự trữ là Q. Nên mức dự trữ trung bình của đơn vị là : Q/2
Nếu mỗi lần đặt hàng là 4 thì mức trữ trung bình là 2. Và việc dự trữ hàng hoá cũng sinh ra những chi phí nhất định và được chia làm hai loại:
Chi phí của vốn đầu tư nào vào dự trữ và các chi phí kho tàng, quản lí hàng hoá … có thể coi chúng là chi phí cơ hội.
Chi phí đặt hàng, và đôi khi chúng được coi là khoản chi phí cố định.
Thực tế hai loại chi phí này có những tác động tráI chiều nhau. Khi lượng dự trữ tăng lên, hay nói cách khác mỗi lần đặt hàng có số lượng tăng lên thì chi phí đặt hàng giảm xuống vì chi phí này giảm theo qui mô và được xác định theo công thức:
Mức giảm cận biên của chi phí đặt hàng
Số lượng hàng bán trong năm
Chi phí cho một lần đặt hàng
Q2
X
=
Nhưng chi phí cơ hội lại tăng lên khi số lần đặt hàng giảm xuống. Qui mô đặt hàng tối ưu là đIểm mà hai tác động đó loại trừ lẫn nhau một cách hoàn toàn. và cụ thể hơn nó được xác định bằng công thức:
Q* = {2 x mức tiêu thụ x chi phí một lần đạt hàng/ chi phí cơ hội của một đơn vị dự trữ}1/2
Công ty Virasimex kinh doanh hơn 5000 mặt hàng phục vụ cho ngành đường sắt, và các mặt hàng này đa phần là hàng bổ xung. Nếu đánh giá mức dự trũ tối ưu cho từng mặt hàng thì rất khó khăn và phức tạp. Chính vì vậy, ta có thể đánh giá mức dự trữ tối ưu đối với công ty bằng cách đánh giá chung mức dự trữ những mặt hàng bổ xung cho nhau để cho đơn giản hơn trong việc định ra số hàng dự trữ và từ đó biết được số tiền mặt cần dự trữ tối ưu trong kì là bao nhiêu.
Yếu tố thứ hai: quản lí tiền mặt. Việc dự trữ quá ít tiền mặt gây nên những khó khăn về giao dịch, nhưng nếu dự trữ quá nhiều lại có thể gây ứ đọng vốn, và cũng mất một khoản chi phí cơ hội đó chính là lãi suất lẽ ra công ty sẽ được hưởng nếu gửi ngân hàng hoặc cho vay. Mức giao động tiền mặt của công ty từ giới hạn dưới, điểm mà công ty cần bổ xung tiền mặt cho các hoạt động cần thiết và công ty có thể phải vay hoặc đối với công ty cổ phần thì họ có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu…Mô hình Miller- Orr là một mô hình kết hợp chặt chẽ giữa mô hình đơn giản và mô hình thực tế và cho biết công ty nên nắm giữ một lượng tiền mặt như thế nào là phù hợp an toàn trừ khi nó nằm ở giới hạn trên hoặc giới hạn dưới. Và khoảng giao động của mức dự trữ tiền mặt phụ thuộc vào ba yếu tố: chi phí giao dịch, lãi suất, phương sai của thu chi ngân quĩ.
Khoảngcách giới hạn trên và dưới của cân đối tiền mặt
1/3
3 xChi phí giao dịch x phương sai của
thu chi ngân quĩ
4 x Lãi suất
= 3 x
Mức tiền mặt được thiết kế được xác định như sau:
Khoảng giao động tiền mặt
Mức tiền mặt giới hạn dưới
Mức tiền mặt được thiết kế
=
+
Do công ty Virasimex cũng tham gia hoạt động kinh doanh là chủ yếu nên như ở phần trước cũng có nói là áp dụng phương pháp xác định nhu cầu tiền mặt bằng 30% doanh thu bán hàng, nhưng rõ ràng việc xác định lại phương thức dữ trữ tiền mặt và nhu cầu về tiền mặt theo phương thức trên cũng không quá khó khăn và lại mang tính thực tiễn phù hợp hơn đối với công ty.
Yếu tố cuối cùng trong việc quản lí vốn lưu động là tín dụng thương mại. Công ty Virasimex bán các sản phẩm của mình cho các đơn vị trong ngành nhưng chưa thu được tiền ngay và các khoản phải thu này gọi là tín dụng thương mại. Quản lí tín dụng thương mại chính là quản lí các khoản phải thu- một nhiệm vụ rất quan trọng của quản lí vốn lưu động.
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng tăng việc đa dạng hoá các loại hình bán hàng là rất cần thiết trong đó có hình thức bán chịu. Nếu như công ty không áp dụng hình thức này thì rõ ràng doanh thu tăng thêm sẽ bằng không. Tuy nhiên, rõ ràng việc bán chịu cũng có rất nhiều rủi ro và phải có những chi phí phát sinh thêm trong quá trình thu nợ. Chi phí phát sinh bao gồm có chi phí đòi nợ, lãi suất bị mất đi từ khoản tiền nợ của khách hàng (tính bình quân bằng lãi suất tiền gửi của ngân hàng). Và đồng thời công ty cũng phải chấp nhận rủi ro khi mà khả năng thanh toán của người mua gặp khó khăn. Để giảm bớt yếu tố rủi ro trong thanh toán, công ty khi thực hiện bán hàng trả chậm cần tính đến những nhân tố sau:
Năng lực của khách hàng: khả năng khách hàng trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với các khoản tín dụng thương mại.
Vốn: dữ trữ tài chính của khách hàng
Tài sản thế chấp: Tài sản dùng để cam kết thanh toán đề phòng trường hợp người mua rơi vào cảnh vỡ nợ.
Các điều kiện khác: các điều kiện kinh tế nói chung trong hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Các yếu tố trên là những yếu tố mang tính quyết định đến khả năng thanh toán khách hàng và mức độ rủi ro trong kinh doanh của công ty. Việc xác định tất cả các yếu tố này thực chất cũng không đơn giản nhất là đối với những khách hàng mới, khách hàng có khoảng cách địa lí lớn. Và một điểm tương đối thuận lợi cho công ty đó là các mặt hàng đặc chủng của công ty đều chủ yếu bán cho các doanh nghiệp trong ngành nên công ty nắm khá rõ tình hình tài chính của khách hàng. Và một đIểm thuận lợi nữa là ở miền Bắc chỉ có công ty Virasimex kinh doanh các mặt hàng vật tư thiết bị đường sắt nên công ty tương đối độc quyền trong kinh doanh và phân phối sản phẩm, các đối tác nằm ở thế tương đối bất lợi, chính vì lí do đó mà tình trạng nợ đọng, nợ kéo dài cho tới thời điểm hiện tại chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong tổng số phải thu từ phía khách hàng và nợ quá hạn trong giai đoạn 1999-2002 là không có. Điểm này cho thấy việc quản lí công nợ của công ty có hiệu quả tốt và tiếp tục cần phát huy trong giai đoạn tới.
Yếu tố thứ ba, quản lí các tài sản cố định. Tài sản cố định của công ty có rất nhiều chủng loại nằm phân tán ở nhiều địa điểm khác nhau nên việc quản lí chặt chẽ tài sản cố định đặt ra với công ty Virasimex là một vấn đề hết sức cấp thiết để nâng cao hiệu quả quản lí vốn, bảo toàn vốn cố định trong quá trình kinh doanh. Mục tiêu của quản lí tài sản cố định là giảm mất mát hư hao, giảm chi phí sửa chữa, có quĩ mua sắm thiết bị tăng giá trị tài sản cố định. Và để tăng giá trị của tài sản, công ty cũng không nên tăng thời gian sử dụng các loại tài sản này quá lâu, vì thực thế để cạnh tranh được trên thị trường tăng mức mua sắm mới trang thiết bị hiện đại nhất là đối với máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, nhiều doanh nghiệp còn tiến hành khấu hao nhanh, nâng tỉ lệ khấu hao lên cao. Và đối với các tài sản mua mới, khi bàn giao cho bộ phận sử dụng, công ty nên áp dụng biện pháp sau để quản lí tốt hơn tài sản cố định:
Bộ phận sử dụng tài sản
Tên tài sản, mã số, kí hiệu, năm sản xuất, nơi sản xuất
Ngày tháng nhận tài sản, tên người nhận, tên người quản lí
Mức thưởng phạt
áp dụng mô hình này giúp công ty có căn cứ thưởng phạt hợp lí đối với từng bộ phận và cá nhân tiếp nhận tài sản, gắn trách nhiệm cho họ trong việc bảo quản và sử dụng tài sản. Và đồng thời công ty cũng có căn cứ để quản lí xác định được tình hình sử dụng tài sản để tính khấu hao, và có kế hoạch mua sắm mới.
Bên cạnh việc quản lí tài sản cố định công ty cung nên tiếp tục khai thác các thị trường nghách khác nhằm sử dụng tối đa tài sản cố định. Bên cạnh việc sản phẩm các vật tư kim khí cho ngành đường sắt công ty có thể tiếp tục đa dạng hoá sản xuất kinh doanh theo hướng đồng tâm tức là mở rộng sản xuất kinh doanh sang lĩnh vực sản xuất các sản phẩm vật tư cho ngành ô tô, vì thiết bị sản xuất của công ty có thể cho phép công ty sản xuất và kinh doanh các sản phẩm này. Và còn vì một thực trạng nữa là các thiết bị chỉ dùng cho sản xuất mặt hàng của ngành đường sắt nên không sử dụng hết công suất thiết bị máy móc, điều này gây ra một số hậu quả:
Khấu hao chỉ tính cho một số sản phẩm nhất định trong điều kiện thiết bị máy móc sử dụng không hết công suất gây tình trạng giá của các vật tư hàng hoá đó giá thành đội lên cao.
Gây lãng phí trong việc sử dụng các tài sản cố định.
Làm chậm lại quá trình khấu hao, dẫn đến khó đổi mới thiết bị, máy móc.
Các yếu tố này sẽ làm giảm dẫn khả năng cạnh tranh của công ty nhất là trong điều kiện cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ hơn. Chính vì lí do trên làm công ty trong thời gian tới nên khai thác sản xuất thêm một số vật tư phụ tùng cho ngành ô tô để tận dụng tối đa trang thiết bị hiện có, giảm chi phí sản xuất cho các sản phẩm của ngành đường sắt.
Và để thu hồi nhanh vốn đầu tư công ty cũng cần xem xét cách đánh giá khấu hao tài sản cố định. Có lẽ việc tiếp tục khấu hao theo phương thức khâu hao bình quân khó có khả năng thu hồi vốn nhanh và tạo điều kiện để nhanh chóng thay thế máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất, công ty nên áp dụng phương pháp khấu hao nhanh, tận dụng tối đa công suất máy móc, tiếp tục đa dạng hoá hoạt động sản xuất kinh doanh, và đồng thời đối với những tài sản đã hết thời hạn thanh lí, công ty cũng nên nhanh chóng thanh lí tránh tăng chi phí bảo quản, chi phí trông coi…
3.3 Các điều kiện đảm bảo cho các giải pháp hoàn thiện quản trị vốn kinh doanh của công ty Virasimex
3.3.1. Với Nhà nước và các ngành liên quan
Mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, và chịu sự điều chỉnh của Nhà nước thông qua hệ thống luật pháp và các yếu tố khác. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả điều quan trọng nhất là Nhà nước tạo một môi trường pháp lí và môi trường kinh doanh thuận lợi để các doanh nghiệp có thể phát triển.
Và tất cả các vấn đề này, trong luận văn của mình tôi xin đi sâu vào hai hai vấn đề: thứ nhất, tính ổn định trong hệ thống các chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (chính sách kinh tế, chính sách tài chính tín dụng và các vấn đề liên quan). Thứ hai, các chính sách tín dụng đó là chính sách cho vay, thời hạn cho vay đối với các doanh nghiệp. Đây là nhóm nhân tố tác động rất mạnh mẽ đến từng cá nhân doanh nghiệp và sức khoẻ của nền tài chính của một quốc gia.
Thứ nhất, yếu tố ổn định của các chính sách tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Trên thực tế, trong giai đoạn vừa qua các chính sách thể hiện ở các văn bản pháp qui thay đổi tương đối nhiều và còn thiếu đồng bộ, thậm chí có những trường hợp còn có sự mâu thuẫn với nhau gây cho doanh nghiệp những khó khăn trong việc lập chiến lược kinh doanh dài hạn. Khoảng cách giữa chính sách Nhà nước ban hành và thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh cũng còn tương đối lớn. Một điển hình là trong giai đoạn vừa qua các chi phí các sản phẩm cơ bản có giá quá cao làm giảm sức cạnh tranh của các công ty trong đó có công ty Virasimex, cũng như chính sách về thuế giá trị gia tăng còn nhiều điểm bất hợp lí thời hạn hoàn thuế và khung áp thuế còn nhiều bất cập. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến vốn kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc tăng thuế môn bài, thuế kinh doanh của Bộ tài chính cũng gây ra những phản ứng tiêu cực cho các doanh nghiệp. Và giá các sản phẩm mang tính độc quyền do Nhà nước quản lí tiếp tục tăng, làm cho chi phí sản xuất của các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Trong khi giá bán không có khả năng tăng cao, theo tính toán của Viện quản lí kinh tế trung ưong, trong giai đoạn 1999-2001 chi phí sản xuất của các doanh nghiệp trong nước tăng 22,1% trong khi giá bán chỉ tăng 11.3%. Điều này làm cho nền kinh tế kém sức cạnh tranh, và các công ty thuộc ngành đường sắt cũng nằm trong tình trạng đó. Một chủ doanh nghiệp Đài Loan tham gia kinh doanh trên thị trường Việt Nam đã nói rằng tôi tham gia kinh doanh ở Việt Nam không phải vì yếu tố kinh tế thuận lợi mà vì yếu tố chính trị ổn định. Hoạt động tài chính của các công ty còn gặp quá nhiều rắc rối do các chính sách tài chính không nhất quán.
Trong quá trình chuyển dịch từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, rất nhiều đạo luật mới cần sớm ra đời để điều chỉnh các hành vi kinh doanh của doanh nghiệp. Và đối với việc nâng cao hiệu quả quản trị vốn của doanh nghiệp, Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ trực tiếp liên quan như hoàn thiện Luật Doanh nghiệp, Luật phá sản, Luật lao động và bảo hiểm xã hội,… Hoàn thiện qui trình chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần nhằm thu hút và sử dụng vốn có hiệu quả.
Và vấn đề đặt ra hiện nay là tính ổn định của các văn bản pháp lí còn thấp, để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh cần ổn định chính sách, tạo môi trường hành lang pháp lí thông thoáng cho các công ty tham gia kinh doanh trên thị trường Việt Nam. Đây là điều kiện để thu hút vốn từ nước ngoài khi mà nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp trong nước còn cao nhưng khả năng đáp ứng vốn từ các nguồn bên trong còn nhiều hạn chế. Một điểm nữa là chỉ khi Nhà nước tạo môi trường bình đẳng trong kinh doanh thì mới kích thích được các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh và vốn trong nước mới phát huy hết hiệu quả của nó.
Thứ hai, các chính sách tín dụng đối với doanh nghiệp. Mặc dù trên văn bản qui định các thành phần kinh tế đều bình đẳng về việc thu hút, tiếp cận các nguồn vốn cho kinh doanh, tuy nhiên các doanh nghiệp Nhà nước vẫn có những ưu đãi hơn trong việc vay vốn từ ngân hàng. Đây cũng là lí do mà các công ty Nhà nước cũng làm chậm lại quá trình cổ phần hoá. Tuy rằng các doanh nghiệp loại hình này dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với nguồn vốn từ ngân hàng nhưng cũng chỉ là vốn ngắn hạn và vốn trung hạn, việc vay vốn dài hạn cũng còn gặp rất nhiều khó khăn.
Hiện tại, giữa các ngân hàng và doanh nghiệp đã có sự thoả thuận về lãi suất cho vay, đây là một bước tiến lớn trong chính sách tín dụng của ngân hàng và các tổ chức tín dụng đối với các doanh nghiệp. Nhưng việc thoả thuận vẫn còn nhiều vấn đề phải giải quyết: phía người đi vay luôn ở thế bị động và lãi suất thoả thuận cũng đã nằm trong một khung giao động lãi suất do Ngân hàng Nhà nước qui định, nên thực chất việc thoả thuận giữa hai phía đôi khi chỉ mang tính hình thức. Và một điểm nữa là lãi suất quá cao, theo tính toán của một số chuyên gia kinh tế thì các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng vốn của ngân hàng để kinh doanh chiếm tới hơn 80% và khoản lãi phải trả cho ngân hàng ở rất nhiều đơn vị chiếm tới hơn 2/3 lợi nhuận thu được của doanh nghiệp. Lãi suất cao sẽ không khuyến khích được sản xuất phát triển, là rào cản đối với việc mở rộng sản xuất kinh doanh.
Như vậy trong thời gian tới, Nhà nước và đặc biệt là ngân hàng Nhà nước cần có những chính sách về tín dụng, chính sách lãi suất thích hợp để kích thích sản xuất trong nước, mở rộng diện cho vay hơn nữa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn dài hạn để đầu tư phát triển và tạo sự bình đẳng trong quan hệ giữa người đi vay (ở đây tôi xin nói tới các doanh nghiệp) và ngân hàng.
ổn định chính sách, tạo hành lang pháp lí thông thoáng cho các doanh nghiệp hoạt động, có chính sách tài chính tín dụng phù hợp là những yếu tố then chốt để doanh nghiệp trong nước tiếp cận với các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Và hiệu quả sử dụng vốn cũng như hoạt động quản trị vốn trong từng cá nhân doanh nghiệp cũng bị tác động rất lớn của các yếu tố trên theo các mức độ khác nhau.
3.3.2. Với ngành
Đối với ngành Đường sắt, để tăng cường hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp trong ngành, bản thân Lãnh đạo ngành cũng cần có những biện pháp và cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị thành viên:
Cổ phần hoá những doanh nghiệp thành viên, mà xét thấy việc cổ phần hoá các đơn vị này mà Nhà nước không cần phải chiếm giữ 100% vốn, và Nhà nước vẫn giữ một tỉ lệ nhất định thể hiện vai trò của mình đối với ngành kinh tế trọng yếu này. Đây là một giải pháp cơ bản đối với ngành để giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc thu hút các nguồn vốn phục vụ cho quá trình kinh doanh của bản thân từng cá nhân doanh nghiệp.
Với một doanh nghiệp làm công tác xuất nhập khẩu và trực tiếp tham gia sản xuất các phụ tùng cho ngành nên nhu cầu về vốn là rất lớn. Do vậy, Liên hiệp đường sắt Việt Nam và trực tiếp hơn nữa là Liên hiệp Đường sắt khu vực I cần tăng thêm vốn cho công ty để công ty có điều kiện thuận lợi hơn trong kinh doanh. Và việc tăng vốn cho công ty có thể thông qua việc tăng vốn lưu động từ nguồn ngân sách trực tiếp cho công ty, hoặc Liên hiệp có thể bổ sung các trang thiết bị cho công ty phục vụ cho hoạt động sản xuất và kinh doanh.
Liên hiệp Đường sắt có thể giúp các doanh nghiệp trong Liên hiệp thu hút vốn để doanh nghiệp có vốn để kinh doanh. Sự giúp đỡ này có thể thực hiện theo hai con đường: Liên hiệp đứng ra bảo đảm cho các đơn vị thành viên khi đi vay vốn tại các tổ chức tín dụng với số lượng lớn, hoặc trực tiếp đứng ra vay từ các tổ chức tài chính tín dụng, sau đó cho vay lại vốn đối với các công ty. Tức là Liên hiệp cần có sự giúp đỡ trực tiếp hoặc gián tiếp đối với các đơn vị thành viên trong việc tiếp cận vốn từ các tổ chức tài chính tín dụng.
Và một điểm nữa cũng rất quan trọng đó là, giảm bớt sự can thiệt của liên hiệp vào hoạt động kinh doanh của các đơn vị thành viên, nhằm tạo điều kiện cho những đơn vị này chủ động hơn nữa trong kinh doanh.
Thời gian qua Liên hiệp vẫn có hướng tự chủ sản xuất một phần thiết bị cho nghành, mặc dù nghành cũng không có nhiều lợi thế trong lĩnh vực sản xuất. Vậy để tăng cường hiệu quả sản xuất, Liên hiệp cũng cần có chính sách tăng cường hoạt động cải tiến kĩ thuật, chính sách phát triển công nghệ mới phục vụ cho sản xuất thiết bị đường sắt để sản phẩm trong nước từng bước có thể cạnh tranh được với sản phẩm nước ngoài về chất lượng và giá cả. Việc làm này bản thân chỉ riêng công ty Virasimex khó có thể đảm đương nổi.
Rõ ràng với sự giúp đỡ của Ngành như vậy thì các doanh nghiệp sẽ bớt lo đi việc thiếu vốn trong hoạt động kinh doanh - một căn bệnh trầm khan của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Và doanh nghiệp cũng có điều kiện sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả hơn- một điểm rất quan trọng nâng cao hiệu quả quản trị vốn trong doanh nghiệp. Bản thân công ty Virasimex cũng rất cần sự giúp đỡ ủng hộ của ngành trên các mặt đã trình bày để công ty có điều kiện huy động vốn và tăng hiệu quả sử dụng vốn trong thời gian tới.
Kết luận
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gắn liền với việc sử dụng vốn gồm cả vốn cố định và vốn lưu động. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng là một trong các biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Và khả năng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp lại phụ thuộc vào việc quản trị vốn của bản thân cá nhân mỗi doanh nghiệp. Do đó, quản trị vốn đóng vai trò huyết mạch đối với doanh nghiệp, tạo điều kiện để doanh nghiệp có thể phát triển vững mạnh và lâu dài.
Quản trị vốn là một nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với trình đổi mới hiện nay của đất nước và yếu tố cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa các doanh nghiệp trong cũng như ngoàI nước, yêu cầu quản trị vốn đặt ra đối với các doanh nghiệp Nhà nước đòi hỏi rất cao và là một thách thức đối với sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này trong cơ chế thị trường.
Và việc nghiên cứu, đánh giá, phân tích hoạt động quản trị vốn ở công ty Virasimex cho thấy công ty đã có những thành tích đáng khích lệ: sản xuất kinh doanh luôn đạt kết quả cao, đời sống cán bộ nhân viên công ty không ngừng nâng cao, hoạt động kinh doanh luôn được mở rộng, Công ty đóng vai trò đầu tàu trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thiết bị vật tư đường sắt trong cả nước trong một thời gian rất dài. Và cho đến thời đIểm hiện nay công ty vẫn là đơn vị số một trong lĩnh vực kinh doanh trên. Bên cạnh đó, công ty vẫn gặp phải rất nhiều khó khăn trong kinh doanh bắt nguồn từ yếu tố thiếu vốn, và hạn chế trong việc khai thác huy động vốn cho hoạt động kinh doanh. Đó cũng chính là lí do để tác giả đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quản trị vốn ở công ty Virasimex trong giai đoạn tới.
Trong quá trình làm luận văn tốt nghiệp tác giả cũng nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, góp ý của các thấy giao, cô giáo trong Khoa Thương mại, đặc biệt tác giả nhận được sự giúp đỡ đặc biệt từ PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc. Và một lần nữa tác giả xin chân thanh cảm ơn sự giúp đỡ chân thành và thiết thực đó để tác giả có thể hoàn thành tốt bài luận văn của mình.
Tài liệu tham khảo
Báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo tài chính công ty xuất nhập khẩu cung ứng vật tư thiết bị Đường Sắt giai đoạn 1999-2002.
Cline, W. Managing debt. Oxford university Press. Oxford, 1990.
Bird, G. Commercial Bank Lending and third World Debt. Maxmillan, London, 1989.
4. PGS. TS Đặng Đình Đào. “Giáo trình kinh tế thương mại”. NXB Thống kê 2001.
PGS. TS Đặng Đình Đào. “Những cơ sở pháp lí trong kinh doanh thương mại”. NXB Thống kê 2002.
Dornburch, R. Policy and performance links between debt and coporate bond of company. Brooking paper on economics activity, vol. 2, p. 303-56
7. Frederic Mishkin.”Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính”. Nhà XB Khoa học kĩ thuật, Hà nội 1994.
PGS. TS Hoàng Minh Đường, PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc. “ Giáo trình quản trị doanh nghiệp thương mại”. Nhà XB Giáo dục, 1998.
9. Kathryn Rudie Harrigan. The effect of exit barriers upon strategic flaxibility. Strategice Management Journap Vol1. 1980, p. 165-76
10. TS Lưu Thị Hương. “Giáo trình tài chính doanh nghiệp”. NXB Giáo dục 2001
11. Nguyễn Công nghiệp.”thị trường chứng khoán: trò chơi và những thủ pháp làm giàu”. Nhà XB Thống kê, Hà nội 1995
12. Nguyễn Văn Thuận. “Quản trị tài chính”. Nhà XB Thành phố Hồ Chí Minh 1999.
13. TS Nguyễn Xuân Quang, TS Nguyễn Thừa Lộc. “Giáo trình quản trị doanh nghiệp thương mại” (dùng cho cao học). NXB Thống kê, 1998.
14. Pilbeam,K.S. (1998). Finance and Financial Market. (London: Macmillan)
15. Quản trị doanh nghiệp công nghiệp. Ttrường đại học Kinh tế quốc dân. Nhà XB Giáo dục 1993.
16. Russell L. Acsoff. (1970). A concept of corporate planning. (New York: Wiley- Interscience), p. 36-37
17. Tài chính học. Trường đại học Tài chính kế toán Hà Nội. Nhà XB Thống kê 1998
18. Tài chính doanh nghiệp sản xuất. Trường đại học Tài chính kế toán Hà Nội. Nhà XB Thống kê 1998
19. Thị trường tài chính và thị trường vốn ở châu á. Viện khoa học tài chính 1998.
Võ Đình Hoà. ”thị trường vốn, cơ chế hoạt động và sự hình thành ở Việt Nam”. Nhà XB Thống kê 1992.
Walmsley,J. Money and capital market. Wiley Hall, New York, 1996
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37151.doc