MỞ ĐẦU
1 - Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển đổi từ cơ chế quản lý nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đổi mới toàn diện nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực tài chính nói chung và thuế nói riêng. Từ năm 1990 đến nay, Nhà nước đã từng bước thực hiện cải cách hệ thống chính sách thuế và bộ máy ngành thuế được tổ chức lại thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến quận huyện. Quản lý thu thuế đã được
124 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1326 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dổi mới căn bản, từng bước hiện đại hóa và phát huy được vai trò tích cực trong việc thực hiện các luật thuế mới và tăng thu cho ngân sách nhà nước.
Trong quản lý thuế các khu vực kinh tế, thì khu vực doanh nghiệp luôn được quan tâm hàng đầu vì đây là khu vực đóng góp lớn nhất vào thu ngân sách nhà nước, mặc dù số doanh nghiệp chỉ chiếm 10% trong tổng số đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp và bằng 1% tổng số đối tượng nộp thuế, nhưng đóng góp gần 2/3 tổng thu nội địa. Số thu của một đối tượng ở khu vực này thường gấp nhiều lần số thu của đối tượng là hộ cá thể hoặc cá nhân. Mặt khác, đây là khu vực đòi hỏi trình độ quản lý cao của cán bộ thuế và là khu vực có nhiều phức tạp nhất trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý.
Quá trình thực hiện đổi mới quản lý thuế khu vực doanh nghiêp cũng bộc lộ nhiều bất cập cả về qui trình quản lý, ứng dụng công nghệ tin học, bố trí nguồn nhân lực, trình độ cán bộ quản lý của cơ quan thuế, chưa tận dụng được kinh nghiệm quản lý thu thuế của các nước tiên tiến. Số lượng đối tượng nộp thuế nói chung và số doanh nghiệp nói riêng tăng lên nhanh chóng; tính tuân thủ, tự nguyện của đối tượng nộp thuế chưa cao, tình trạng trốn thuế, nợ đọng thuế vẫn còn và diễn ra ở nhiều địa phương trong cả nước.
Trước vấn đề đặt ra như trên đòi hỏi phải có những nghiên cứu cơ bản từ lý luận đến thực tiễn để tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục trong đó hoàn thiện quản lý thu thuế được coi là nội dung trọng tâm của cải cách hệ thống thuế. Là người tham gia quản lý lĩnh vực này của Tổng cục Thuế, tôi lựa chọn đề tài: "Hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay" làm luận văn thạc sĩ Kinh doanh và quản lý - chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
2 - Tình hình nghiên cứu
Từ năm 1990 đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu quản lý thu thuế, tập trung vào các nhóm sau:
- Quản lý thu thuế trên địa bàn một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, như: "Công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn Hà Nội", Luận văn thạc sĩ Quản lý kinh tế của Vũ Thị Toản, Hà Nội, 1996; "Các giải pháp nhằm tăng cường công tác thanh tra thuế trên địa bàn Hà Nội", Luận văn thạc sĩ Quản lý kinh tế của Phi Văn Tuấn, Hà Nội, 1997; "Những giải pháp chủ yếu chống thất thu thuế trên địa bàn Nghệ An trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ Quản lý kinh tế của Đoàn Hồng Vũ, Hà Nội, 1999.
- Ngoài ra, nghiên cứu quản lý thu thuế nói chung có đề tài: "Nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế ở Việt Nam trong quá trình đổi mới", Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Trịnh Hoàng Cơ, Hà Nội, 2004.
Các đề tài, bài viết có đề cập ở mức độ nhất định về quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp, nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu độc lập, có hệ thống về lĩnh vực này.
Để thực hiện đề tài, chúng tôi có tham khảo ý tưởng trong các công trình khoa học, bài viết đã công bố, giúp cho việc hệ thống hoá lĩnh vực nghiên cứu từ khi đổi mới đến nay, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện trong thời gian tới.
3 - Mục đích của luận văn
Mục đích chủ yếu của luận văn là nghiên cứu là rõ cơ sở lý luận và thực trạng quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp, chỉ ra kết quả, hạn chế và nguyên nhân, đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay.
4 - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề có liên quan đến quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp bao gồm doanh nghiệp thành lập theo luật doanh nghiệp, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo Luật Đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước theo Luật Doanh nghiệp nhà nước.
- Phạm vi nghiên cứu của Luận văn giới hạn trong lĩnh vực quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp của cơ quan thuế nội địa và trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến nay.
5 - Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử để nghiên cứu và trình bày các nội dung lý luận và thực tiễn. Luận văn sử dụng một số phương pháp khác nhau như kết hợp lịch sử với lôgíc, tổng hợp và phân tích để qua đó rút ra kết luận.
- Nghiên cứu lý luận chung có liên quan đến thuế và quản lý thu thuế đối với đoanh nghiệp; tổng kết quá trình cải cách quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp của Việt Nam. Đồng thời, có kết hợp nêu kinh nghiệm các nước tiên tiến.
6 - Những đóng góp chủ yếu của luận văn
- Hệ thống hoá và có đóng góp bổ sung những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp.
- Tìm hiểu và rút ra bài học kinh nghiệm về quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở một số nước có thể tham khảo vận dụng đối với Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay.
7 - Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được bố cục làm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, YÊU CẦU HOÀN THIỆN QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.1.1. Thuế và các sắc thuế thu đối với doanh nghiệp
* Thuế đối với doanh nghiệp
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thuế ra đời là một sự cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Sự xuất hiện thuế trong kỷ nguyên của nhân loại gắn liền với nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Có nhiều định nghĩa về thuế. Ở nước ta hiện nay cũng chưa có một định nghĩa thống nhất về thuế. Chúng tôi cho rằng định nghĩa trong giáo trình "lý thuyết về thuế" Học viện Tài chính được coi là chính thống thì thuế được định nghĩa như sau: thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật qui định, nhằm sử dụng cho mục đích công cộng [16].
Thuế không những là một phạm trù kinh tế mà còn là phạm trù tài chính: nó biểu hiện những thuộc tính chung vốn có của các quan hệ tài chính. Những đặc trưng để phân biệt thuế với các công cụ tài chính khác đó là: thuế mang tính chất bắt buộc, tính không hoàn trả trực tiếp và tính pháp lý cao. Thuế thực hiện hai chức năng cơ bản: chức năng huy động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh tế.
Thuế đối với doanh nghiệp (DN) là thuế đánh vào các pháp nhân kinh doanh bao gồm: doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, hợp tác xã.
* Các sắc thuế thu vào doanh nghiệp
Thuế Giá trị gia tăng: là một loại thuế tiêu dùng, tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Giá trị gia tăng (GTGT) là phần giá trị mới được tạo ra trong sản xuất kinh doanh. Nó được xác định bằng chênh lệch giữa tổng giá trị sản xuất và tiêu thụ với tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng. Thuế GTGT phải nộp ở mỗi giai đoạn được tính bằng cách lấy số thuế GTGT đầu ra (tính được bằng cách lấy thuế suất x giá hàng hoá dịch vụ bán ra) trừ số thuế GTGT đầu vào (tính được bằng cách lấy thuế suất x giá hàng hoá dịch vụ mua vào).
Thuế GTGT là công cụ có hiệu quả trong việc động viên nguồn thu cho ngân sách nhà nước (NSNN). Số thuế GTGT từ sản xuất kinh doanh nội địa chiếm tỷ trọng cao nhất (so với các loại thuế khác) trong tổng thu NSNN: khoảng 16,8%, (từ kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu chỉ khoảng 9%) và chiểm 36 % trong tổng thu từ doanh nghiệp. Thuế GTGT được áp dụng ở nước ta từ 1/1/1999 thay cho thuế doanh thu trước đây (sắc thuế này hiện đã có trên 120 quốc gia áp dụng).
Thuế tiêu thụ đặc biệt: là loại thuế tiêu dùng, đánh vào một số hàng hoá dịch vụ đặc biệt nằm trong danh mục Nhà nước qui định, được tính căn cứ vào giá cả và thuế suất (giá tính thuế là giá chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt). Đối với hàng nhập khẩu, giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá nhập khẩu cộng với thuế nhập khẩu.
Thuế tiêu thụ đặc biệt là nguồn thu quan trọng của NSNN, là công cụ quan trọng thực hiện mục đích hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ được coi là đặc biệt, thực hiện tái phân phối thu nhập của các tầng lớp có thu nhập cao, đảm bảo công bằng xã hội. Hiện nay, số thuế tiêu thụ đặc biệt từ sản xuất kinh doanh nội địa chiếm khoảng 8-10% trong tổng thu NSNN (từ kinh doanh hàng hoá xuất, nhập khẩu là 1%), và chiếm 20,8 % trong tổng thu từ doanh nghiệp.
Thuế thu nhập doanh nghiệp: là một loại thuế trực thu, đánh vào thu nhập chịu thuế của các DN.
Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) được tính bằng cách lấy thu nhập chịu thuế (bằng doanh thu trừ chi phí+các thu nhập khác) x thuế suất.
Thuế TNDN được sử dụng để điều tiết thu nhập của các nhà đầu tư nhằm góp phần đảm bảo công bằng xã hội, là một trong các nguồn thu quan trọng của NSNN, chiếm khoảng 15% trong tổng thu NSNN và chiếm 35,3% trong tổng thu từ DN năm 2004, cao thứ hai sau thuế giá trị gia tăng và là công cụ có hiệu quả để Nhà nước thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô.
Thuế tài nguyên: là loại thuế đánh vào tài nguyên thiên nhiên khai thác được. Thuế này được tính bằng cách lấy số lượng tài nguyên thực tế khai thác x Giá tính thuế đơn vị tài nguyên x Thuế suất.
Thuế tài nguyên là công cụ để quản lý, kiểm soát, hướng dẫn, điều tiết các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên của đất nước, bảo vệ môi trường sinh thái và động viên một phần thu nhập cho NSNN. Số thuế tài nguyên chiếm khoảng 0,7% trong tổng thu NSNN và chiếm 2 % trong tổng thu từ DN năm 2004.
Thuế môn bài: là thuế đăng ký kinh doanh được tính theo năm. Mức thuế được áp dụng theo số tuyệt đối và được phân biệt theo 2 nhóm: tổ chức kinh tế và hộ kinh doanh cá thể. Đối với DN (tổ chức) thì mức môn bài được qui định từ 1.000.000đ đến 3.000.000đ tuỳ theo vốn đăng ký.
Số thuế môn bài chiếm khoảng 0,4% trong tổng thu NSNN và chiếm 0,6% trong tổng thu từ DN năm 2004.
Ngoài ra còn một số khoản thu khác đối với doanh nghiệp như thuế nhà đất, tiền thuê đất. Những khoản thu này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu từ doanh nghiệp.
Mỗi sắc thuế nêu trên có phương pháp quản lý cụ thể khác nhau, tuy nhiên trong phạm vi luận văn không đi sâu vào quản lý của từng sắc thuế cụ thể mà chỉ đề cập những vấn đề quản lý mang tính chất chung nhất của tất cả các sắc thuế thu vào DN.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, yêu cầu hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
* Khái niệm quản lý thuế và thu thuế đối với doanh nghiệp
- Quản lý thuế là vấn đề đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và có nhiều quan niệm khác nhau. Mỗi quan niệm đều nhìn nhận quản lý thuế ở một góc độ, phạm vi khác nhau và với mục đích, ý nghĩa thực tiễn khác nhau. Theo chúng tôi, các quan niệm về quản lý thuế đều có các điểm chung là:
+ Đều đề cập đến các nội dung của khâu hành pháp về thuế;
+ Đều đề cập đến sự tác động của chủ thể quản lý đối với đối tượng bị quản lý bằng các phương thức, phương tiện nào đó nhằm đạt mục đích nhất định. Chủ thể quản lý là Nhà nước (mà trực tiếp là cơ quan thuế các cấp). Đối tượng bị quản lý là các tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ về thuế. Mục đích quản lý là để đối tượng nộp thuế và các đối tượng có liên quan thực hiện tốt nghĩa vụ luật định về thuế của mình. Phương tiện quản lý là sử dụng các qui định về đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế, thanh tra thuế...với bộ máy, đội ngũ cán bộ, cơ sở chất cần thiết để quản lý.
Quản lý nhà nước về thuế là thuật ngữ dùng để chỉ tổng thể các khâu lập pháp, hành pháp và tư pháp về thuế, còn quản lý thuế gồm những hoạt động có tổ chức trong bộ máy nhà nước, thuộc lĩnh vực hành pháp và tư pháp về thuế của cơ quan thuế các cấp, với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do luật định nhằm thực hiện chính sách thuế đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua. Theo nghĩa rộng, quản lý thuế là hoạt động nhằm đảm bảo sự thực thi nghiêm chỉnh pháp luật về thuế thông qua sự tự giác của chính đối tượng nộp thuế và sự hỗ trợ của cơ quan thuế và các cơ quan nhà nước có liên quan.
- Quản lý thu thuế đối với DN là hoạt động quản lý của Nhà nước mà cơ quan thuế là đại diện để tổ chức hướng dẫn, điều hành, giám sát việc thực thi pháp luật về thuế đối với các doanh nghiệp nhằm động viên nguồn thu vào ngân sách nhà nước.
- Đối với cán bộ thuế, quản lý thu thuế nói chung và quản lý thu thuế DN nói riêng bao gồm ba hoạt động riêng biệt, liên tiếp nhau: xác định đối tượng nộp thuế, xác định số thuế phải nộp và thu thuế. Chức năng chủ yếu của quản lý ở đây là kiểm soát sự tuân thủ và áp dụng các khoản phạt theo luật thuế để răn đe những đối tượng nộp thuế vi phạm. Đồng thời, quản lý thu thuế cũng đảm bảo bên thứ ba có giao dịch mua bán hay cung cấp dịch vụ với đối tượng nộp thuế phải báo cáo đầy đủ, trung thực các giao dịch kinh tế có phát sinh thuế nộp ngân sách nhà nước theo qui định của luật [25, tr. 39].
- Đối với một cơ quan thuế, quản lý thu thuế hay quản lý thu thuế đối với DN là một quá trình giống như quá trình sản xuất. Trong đó, đầu vào gồm nhân công (cán bộ thuế), tài liệu và các thông tin, còn đầu ra là số thu cho Nhà nước và sự công bằng cho người nộp thuế.
- Trên phạm vi cả nước, quản lý thu thuế đối với DN bao gồm các hoạt động: hoạch định mục tiêu, phân cấp quản lý, xây dựng và ban hành qui trình thủ tục, đề ra giải pháp tổ chức thực hiện và kiểm tra, thanh tra, sắp xếp tổ chức bộ máy và nhân sự để thực hiện các khâu công việc [25, tr. 20-22].
* Đặc điểm quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
- Quản lý thu thuế đối với đối với DN là quản lý thu thuế đối với những pháp nhân và là những đối tượng nộp thuế (ĐTNT) lớn. Số thu từ DN chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nội địa (như đã nêu trên) do vậy quản lý thu thuế đối với DN được đặc biệt quan tâm và đặt ưu tiên hàng đầu. Hầu hết cơ quan thuế các nước cũng tập trung không ngừng và đáng kể các nguồn lực vào việc quản lý nhóm đối tượng nộp thuế này.
- Quản lý thu thuế trên cơ sở ĐTNT thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ. Theo chế độ hiện hành, các DN đều phải mở sổ sách kế toán, và hạch toán kế toán theo chế độ qui định và thực hiện nghĩa vụ thuế theo phương pháp kê khai thuế.
- Doanh nghiệp có phạm vi kinh doanh rộng hơn và mức độ phức tạp cao hơn so với đối tượng là hộ cá thể. Ngày nay, nhiều DN có phạm vi kinh doanh toàn cầu. Vì vậy, việc kiểm soát chi phí và thu nhập khi tính thuế là hết sức phức tạp. Nhiều DN lớn không trốn thuế một cách "ngây ngô" như các DN nhỏ hoặc cá nhân kinh doanh bằng cách gian lận hoá đơn hay bán hàng không xuất hoá đơn. Các DN này luôn xuất trình đủ hoá đơn, chứng từ và hạch toán rất bài bản, nhưng đằng sau những số liệu "sạch sẽ" đó, là cả một kế hoạch tránh thuế hết sức tinh vi. Do đó, quản lý thu thuế đối với DN đòi hỏi đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Có như vậy, mới phát hiện được các thủ thuật trốn thuế, tránh thuế hết sức tinh vi của các đối tượng này, từ đó đề xuất hoàn thiện chính sách hoặc xử lý đối tượng vi phạm.
* Yêu cầu hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
Xuất phát từ vị trí của thu từ doanh nghiệp trong thu nội địa
Tỷ trọng thu từ khu vực DN ngày càng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu nội địa, từ 70% giai đoạn 1996-2000 lên 76,8% giai đoạn 2001-2005, tốc độ tăng thu khu vực DN bình quân 5 năm là 19% (trong khi tốc độ tăng tổng thu NSNN bình quân chỉ đạt 13,9%/năm). Các khoản thu khác như phí, lệ phí, các khoản thu từ nhà, đất và thu khác giảm dần, từ 30% giai đoạn 1996-2000 xuống còn 23,2% giai đoạn 2001-2005.
Thu từ khu vực DN là khoản thu quan trọng, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu nội địa, vì vậy việc nghiên cứu để hoàn thiện quản lý thuế từ doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý thuế nói riêng và quản lý tài chính nói chung.
Tác động của việc hoàn thiện chính sách thuế đối với doanh nghiệp
Đối tượng quản lý là một hệ thống phức tạp, luôn vận động và phát triển. Qui luật về sự phù hợp giữa cơ chế quản lý với đối tượng quản lý là một qui luật cơ bản của quản lý mang tính lịch sử cụ thể rõ nét [15, tr.66].
Chức năng quản lý xác định khối lượng các công việc cơ bản và trình tự các công việc của quá trình quản lý. Chức năng quản lý xác định vị trí, mối quan hệ giữa các bộ phận, các khâu, các cấp trong hệ thống quản lý [15, tr.52]
Việc hoàn thiện chính sách thuế chính là làm thay đổi khối lượng công việc và trình tự các công việc trong quá trình quản lý thuế, và làm thay đổi mạnh mẽ đối tượng quản lý. Ví dụ khi ban hành Luật Thuế GTGT, khối lượng công việc quản lý thuế thay đổi như phát sinh thêm các công việc về hoàn thuế, về đối chiếu hóa đơn; đối tượng quản lý thay đổi như một số đối tượng trước đây chịu thuế doanh thu nay không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT...
Từ năm 1986, đất nước ta bắt đầu chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống pháp luật thuế mới bắt đầu được xây dựng và không ngừng được bổ sung sửa đổi. Việc hoàn thiện chính sách thuế nói chung và thuế đối với DN nói riêng đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện về phương pháp, qui trình và tổ chức quản lý thuế.
Tác động của hội nhập kinh tế và hội nhập về thuế đối với doanh nghiệp
Xu thế hội nhập, liên kết kinh tế trong khu vực tiến tới toàn cầu hoá kinh tế là tất yếu khách quan, một mặt tạo cơ hội thuận lợi cho các nước phát huy lợi thế của mình để phát triển kinh tế. Các nước đang phát triển lợi dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới đồng thời thu hút được nguồn vốn từ nước ngoài để tạo bước phát triển nhảy vọt về kinh tế, làm cho nền kinh tế có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, có cơ hội thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển. Ngược lại, xu hướng hội nhập, liên kết kinh tế trong khu vực, tiến tới toàn cầu hoá kinh tế sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh giữa các nền kinh tế. Mỗi nước phải tranh thủ được cơ hội, khắc phục yếu kém vươn lên mới chiến thắng trong cạnh tranh và hội nhập.
Quá trình hội nhập không chỉ đòi hỏi hệ thống thuế nhập khẩu phải được sửa đổi mà hệ thống thuế nội địa cũng phải được sửa đổi phù hợp với thông lệ quốc tế. Quản lý thuế nội địa nói chung và quản lý thuế đối với DN nói riêng cũng phải được cải cách theo các chuẩn mực quốc tế, tiến tới trao đổi thông tin về quản lý thuế đối với các công ty đa quốc gia.
1.2. NỘI DUNG QUẢN LÝ THU THUẾ, CÁC CƠ CHẾ QUẢN LÝ VÀ PHƯƠNG THỨC KÊ KHAI NỘP THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.2.1. Nội dung quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
* Thứ nhất là hoạch định mục tiêu
Mục tiêu là trạng thái tương lai, là đích phải đạt tới mà hệ thống quản lý mong muốn đạt tới. Nó có vai trò chi phối và định hướng hoạt động của toàn bộ hệ thống.
Mục tiêu quản lý phải được xác định trước, nó luôn chi phối, dẫn dắt cả chủ thể và đối tượng quản lý trong toàn bộ quá trình hoạt động. Xác định mục tiêu đúng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hoạt động quản lý.
Mục tiêu của quản lý thuế nói chung thường được xác định bằng các chỉ tiêu cụ thể như: số thuế thu trong một thời gian nhất định; tỷ lệ huy động nguồn thu từ thuế vào ngân sách nhà nước; tốc độ tăng trưởng về số thu của thời kỳ kế hoạch so với thời kỳ trước; tỷ trọng các sắc thuế (thường hay quan tâm đến tỷ trọng của thuế gián thu và thuế trực thu trong tổng thu ngân sách) cần đạt được trong từng thời kỳ vv... [10, tr12]. Tuy nhiên, vì thuế có các chức năng cơ bản là huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước và điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước, do đó xét đến cùng, mục tiêu của quản lý thuế là nhằm làm cho ĐTNT thực hiện đầy đủ kịp thời các nghĩa vụ luật định về thuế của mình, đồng thời Nhà nước thực hiện được các mục tiêu vốn có của mỗi sắc thuế [4].
Mục tiêu cụ thể của quản lý thuế đối với DN, đó là làm cho các DN thực hiện đầy đủ kịp thời các nghĩa vụ luật định về thuế của mình trên cơ sở mức độ tuân thủ tự nguyện pháp luật thuế của các DN ngày càng cao. Điều đó cũng có nghĩa là số thuế thu từ DN sẽ tiến gần đến số thuế tiềm năng, hay thất thu thuế ngày càng giảm thiểu và tiến dần tới 0; số thu của ngân sách nhà nước từ DN sẽ là lớn nhất trong điều kiện chính sách thuế ổn định, đồng thời chi phí của cơ quan thuế giảm khi mức độ tuân thủ của đối tượng nộp thuế ngày càng tăng. Đồng thời mục tiêu vốn có của mỗi sắc thuế cũng được thực hiện.
* Thứ hai là phân cấp quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
Hệ thống quản lý là một hệ thống rất phức tạp, bao gồm nhiều tầng nấc, mỗi tầng nấc là một hệ thống con có sự độc lập tương đối, có mục tiêu riêng và điều kiện vận động đặc thù cả về vật chất và thông tin nhưng lại đặt trong sự quản lý thống nhất chung của toàn hệ thống. Như vậy, toàn bộ hệ thống vừa có một sự quản lý tập trung thống nhất, vừa có sự tự vận động độc lập tương đối. Do đặc thù quản lý của hệ thống, chủ thể quản lý một mặt phải đảm bảo sự quản lý tập trung thống nhất trên những mặt cơ bản chính yếu nhất, mặt khác phân cấp cho cấp dưới xử lý thông tin và ra quyết định với những quyền hạn và trách nhiệm xác định. Việc phân cấp trong quản lý mang lại nhiều lợi ích:
- Giải phóng cho chủ thể quản lý cấp cao những công việc sự vụ, tập trung vào những nhiệm vụ quan trọng, có tầm chiến lược, đảm bảo sự quản lý tập trung, thống nhất.
- Giao quyền và trách nhiệm quản lý cho cấp dưới để tạo điều kiện phát huy tính năng động sáng tạo của cấp dưới, rèn luyện và tập dượt cho cấp dưới trưởng thành, khắc phục tính dựa dẫm, ỷ lại cấp trên.
- Tạo nên bầu không khí tâm lý dân chủ và lành mạnh trong tập thể của hệ thống quản lý, mở rộng dân chủ hoá trong quản lý.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý cũng là nội dung cơ bản của phân cấp, vừa đảm bảo sự quản lý tập trung trên những vấn đề cơ bản và mở rộng dân chủ cho cấp dưới. Trong quản lý hiện đại, nhất là trong điều kiện của hệ thống quản lý ngày càng phức tạp, lượng thông tin cực kỳ lớn và rất nhạy cảm trong xử lý thì yêu cầu phân cấp càng lớn và càng đòi hỏi dân chủ hoá và mở rộng quyền. Tuy nhiên, tập trung quyền lực hay phân quyền đến đâu còn tuỳ thuộc vào điều kiện khách quan và nhất là trình độ, năng lực của cán bộ quản lý ở mỗi cấp [15, tr.69-70].
Trong hệ thống quản lý thuế, việc phân cấp quản lý cho từng cấp là hết sức cần thiết. Ở nhiều nước, hệ thống thuế được tổ chức phù hợp với tổ chức của Nhà nước như thuế Liên Bang, thuế Bang (như Hoa Kỳ, Úc), hoặc thuế Trung ương và thuế địa phương (như Trung Quốc,Nhật Bản, Philipin...). Đối với thuế Liên Bang hoặc thuế Trung ương, xu hướng chung trên thế giới hiện nay là cơ quan thuế được tổ chức theo ngành dọc thống nhất gồm hai hoặc ba cấp. Đối với Việt Nam, Hệ thống thuế được tổ chức lại thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến quận, huyện (từ năm 1990) chịu trách nhiệm quản lý thu tất cả các khoản thu nội địa (không phân biệt thuế Trung ương hay thuế địa phương).
Việc phân cấp quản lý thu trong ngành Thuế thường căn cứ vào đối tượng quản lý (không căn cứ vào sắc thuế). Một đối tượng có thể nộp nhiều loại thuế khác nhau nhưng hầu hết sẽ chỉ chịu sự quản lý của một cơ quan thuế. Điều này tránh được sự phiền hà cho ĐTNT (chỉ phải liên hệ với một cơ quan thuế). Trong tổng số đối tượng nộp thuế hiện nay: khoảng hơn 140.000 doanh nghiệp, gần 1,5 triệu hộ kinh doanh cá thể, hơn 10 triệu hộ nộp thuế nhà đất, hàng trăm nghìn đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân và các loại thuế khác, tất yếu phải được phân cấp quản lý cho từng cấp trong ngành thuế một cách phù hợp. Có như vậy, mới tạo ra sức mạnh tổng hợp để quản lý thu có hiệu quả.
Đối với DN, mặc dù số đối tượng nộp thuế không lớn, tuy nhiên số thu từ đối tượng này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nội địa; qui mô và phạm vi kinh doanh rộng lớn hơn hộ cá thể rất nhiều, đòi hỏi cán bộ quản lý thuế phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao do đó việc phân cấp quản lý đối tượng này cũng phải dựa vào qui mô, ngành nghề kinh doanh, đặc điểm của DN, độ phức tạp của công tác quản lý, cơ sở vật chất và nhân lực của cơ quan thuế.
* Thứ ba là xây dựng, ban hành và thực hiện các qui trình quản lý thu đối với doanh nghiệp
Qui trình quản lý thu thuế qui định trình tự, thủ tục các bước công việc phải làm để quản lý thu thuế.
Việc ban hành qui trình quản lý giúp cho cơ quan thuế chỉ đạo, điều hành hoạt động của cả hệ thống một cách thống nhất, khoa học, theo một trình tự hợp lý, đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật thuế, thực hiện dân chủ hóa, công khai minh bạch và rõ ràng để các cán bộ thuế, đối tượng nộp thuế dễ thực hiện và kiểm soát cơ quan thuế.
Việc thực hiện các qui trình quản lý thuế phản ánh chất lượng quản lý của cơ quan thuế và tác động đến kết quả thu thuế.
Mỗi loại ĐTNT có đặc điểm khác nhau, các sắc thuế áp dụng khác nhau. Vì vậy, qui trình quản lý thuế cũng được qui định cho từng loại đối tượng phù hợp với đặc điểm về chính sách thuế và đặc điểm riêng có của từng loại đối tượng, như qui trình quản lý đối với doanh nghiệp, qui trình quản lý đối với hộ cá thể kinh doanh, qui trình quản lý phí, lệ phí, qui trình quản lý thuế trước bạ...Cùng với cải cách chính sách thuế và yêu cầu quản lý, đòi hỏi các qui trình này cũng phải được bổ sung, sửa đổi hoặc cải cách căn bản qua các giai đoạn.
Qui trình quản lý thu đối với DN bao gồm các qui trình nhỏ như qui trình đăng ký thuế, kê khai nộp thuế, kiểm soát tính thuế, thông báo thuế, thu thuế, tuyên truyền hỗ trợ ĐTNT; cưỡng chế thu nợ thuế; thanh tra, kiểm tra, và xử lý vi phạm pháp luật về thuế. Nội dung của qui trình này bao gồm:
- Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các đơn vị và cá nhân liên quan đến quản lý thu thuế đối với DN trong cơ quan thuế.
- Trình tự, thủ tục hành chính của các bước công việc: đảm bảo hoạt động đồng bộ giữa các bước công việc cũng như về thời gian.
- Mối quan hệ công tác giữa các đơn vị, cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ: phối hợp ngang giữa các bộ phận trong cơ quan, giữa các cơ quan trong ngành; kết hợp các công việc của các cá nhân trong bộ phận.
Việc xây dựng, ban hành và thực hiện các qui trình quản lý thu đối với doanh nghiệp là nội dung cơ bản của quản lý thuế.
Một số khâu cơ bản trong qui trình quản lý:
Tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT:
- Cơ quan thuế thực hiện tuyên truyền giáo dục pháp luật thuế cho doanh nghiệp và mọi tầng lớp dân cư trong xã hội để làm cho các cấp các ngành và mọi người dân hiểu biết về thuế, thực hiện luật thuế và lên án những hành vi vi phạm pháp luật thuế, hỗ trợ cơ quan thuế trong quản lý thu thuế.
- Cơ quan thuế cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho DN: nắm bắt nhu cầu và tổ chức các hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ DN sát với yêu cầu, đặc điểm của từng nhóm ĐTNT với những nội dung, hình thức phù hợp đảm bảo đáp ứng được yêu cầu của DN nhanh nhất và đầy đủ nhất, nhằm hỗ trợ tối đa để DN hiểu biết pháp luật thuế và kê khai thuế, nộp thuế đúng qui định của pháp luật thuế.
Xử lý tờ khai và kế toán thuế:
- Nhận các tờ khai thuế, phát hiện các lỗi kê khai và hướng dẫn ĐTNT sửa lỗi kịp thời, xác định nghĩa vụ thuế theo kê khai của của DN.
- Theo dõi tình hình thực hiện kê khai của DN và cung cấp thông tin này cho các khâu quản lý tiếp theo để các khâu quản lý như hỗ trợ, thu nợ, thanh tra, kiểm tra... có biện pháp xử lý phù hợp như: hướng dẫn người nộp thuế để tránh các lỗi đã mắc trong kê khai nếu việc mắc lỗi là do chưa hiểu rõ; hoặc xem xét sửa đổi mẫu tờ khai nếu tờ khai chưa phù hợp; hoặc đó là một dấu hiệu để xem xét, lựa chọn các trường hợp thanh tra.
- Nhận chứng từ nộp thuế, hạch toán số thuế đã nộp của DN, theo dõi thanh toán thuế, đảm bảo tính đúng nợ thuế của ĐTNT theo từng khoản thuế phải nộp, để khâu cưỡng chế thu nợ thuế thực hiện đôn đốc và cưỡng chế DN nộp thuế vào NSNN.
Cưỡng chế thu nợ thuế:
Mục tiêu của công tác cưỡng chế thu nợ thuế là kịp thời phát hiện và xử lý các đối tượng nộp thuế cố ý chây ỳ, nợ thuế, chiếm đoạt tiền thuế và các khoản tiền phạt liên quan đến thuế, để đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thu vào NSNN, phù hợp với pháp luật thuế.
Nội dung của công tác cưỡng chế thu nợ thuế là:
- Giám sát chặt chẽ việc thực hiện nghĩa vụ kê khai, nộp thuế của DN, có biện pháp kịp thời để đôn đốc, xử phạt việc chậm kê khai, chậm nộp thuế của DN theo qui định của luật thuế.
- Theo dõi được số thuế nợ của DN theo từng loại thuế, mức nợ, tuổi nợ, nguyên nhân của từng khoản nợ thuế và kết hợp với việc phân tích thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính của DN để xây dựng kế hoạch và có biện pháp tổ chức thu nợ phù hợp.
Thanh tra, kiểm tra:
Kiểm tra, thanh tra có liên quan đến mọi cấp quản lý, nhằm đo lường và điều chỉnh hoạt động của các bộ phận cấp dưới căn cứ vào mục tiêu và kế hoạch đã định. Mục đích của kiểm tra nhằm đảm bảo kế hoạch thành công, nhờ phát hiện kịp thời những sai sót, tìm ra nguyên nhân và biện pháp sửa chữa kịp thời những sai sót đó. Kiểm tra là tai mắt của quản lý. Vì vậy cần tiến hành thường xuyên linh hoạt nhiều hình thức kiểm tra. Kiểm tra là việc làm bình thường không được cản trở đối tượng thực hiện mục tiêu [15].
Kiểm tra, thanh tra là một nội dung quan trọng trong quản lý thuế. Lịch sử phát triển của công tác quản lý thuế của các nước trên thế giới đã chứng minh chức năng thanh tra thuế là tất yếu và là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan thuế để bảo đảm chính sách thuế được thi hành nghiêm túc.
Đối tượng của kiểm tra thanh tra thuế là các tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Kiểm tra, thanh tra thuế nói chung và kiểm tra, thanh tra thuế đối với DN nói riêng đều nhằm hướng vào các mục đích chủ yếu sau [14]:
- Phát hiện để từ đó có biện pháp xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật thuế như khai man, trốn thuế, nợ đọng thuế, nhằm hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng thất thu thuế cho Nhà nước và đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế.
- Làm cho các DN tin rằng mọi vi phạm về thuế, đặc biệt là các trường hợp trốn thuế sẽ bị cơ quan thuế phát hiện và xử phạt. Từ đó, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế của ĐTNT.
- Phát hiện những nội dung không phù hợp trong các văn bản pháp qui về thuế, những điểm bất hợp lý trong qui trình quản lý thuế, cơ cấu tổ chức, từ đó kiến nghị các cơ quan chức._. năng sửa đổi, bổ sung kịp thời để không ngừng hoàn thiện chính sách thuế và quản lý thuế.
Nội dung kiểm tra, thanh tra thuế đối với DN gồm: kiểm tra, thanh tra việc chấp hành những qui định về đăng ký, kê khai và nộp thuế, việc chấp hành chế độ sổ sách kế toán và hoá đơn, chứng từ.
Về kỹ thuật thanh tra: có thanh tra theo truyền thống và thanh tra dựa trên cơ sở phân tích rủi ro (là kỹ thuật thanh tra mà các nước tiến tiến đang áp dụng.)
Về hình thức thanh tra: nếu xét theo thời gian có thanh tra đột xuất và thanh tra theo kế hoạch, xét theo phạm vi có thanh tra toàn diện và thanh tra có trọng điểm. Tuỳ theo yêu cầu cụ thể để áp dụng hình thức thanh tra đối với DN một cách phù hợp.
* Thứ tư là xây dựng cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ
Về cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức quản lý là một chỉnh thể gồm các bộ phận có chức năng, nhiệm vụ quyền hạn khác nhau, có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được bố trí thành từng cấp, từng khâu khác nhau, thực hiện các chức năng quản lý được chuyên môn hoá nhằm đạt mục tiêu xác định [15]. Mỗi cơ cấu tổ chức quản lý có hai mối quan hệ cơ bản: quan hệ ngang và quan hệ dọc. Theo quan hệ ngang, cơ cấu tổ chức quản lý chia thành các khâu quản lý khác nhau. Theo quan hệ dọc, cơ cấu tổ chức quản lý được chia thành các cấp quản lý.
Hầu hết mô hình tổ chức cơ quan thuế gồm 3 cấp: Trung ương, vùng, địa phương. Ở nhiều quốc gia, có sự phân chia thuế Trung ương và thuế địa phương hoặc thuế Liên bang, thuế Bang.Thông thường bộ máy thuế Trung ương hay Liên Bang có nhiệm vụ thu những loại thuế quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu của quốc gia, ngược lại bộ máy thuế địa phương hoặc Bang thu những khoản thu nhỏ, gắn với chính quyền địa phương...
Ở một số nước đang phát triển hoặc có nền kinh tế chuyển đổi, cơ quan thuế địa phương chịu sự song trùng lãnh đạo của cơ quan thuế cấp trên và chính quyền địa phương, nhưng xu hướng chung, cơ quan thuế được tổ chức theo ngành dọc độc lập với chính quyền địa phương.
Về mô hình tổ chức cụ thể, có 3 hình mẫu phổ biến nhất, đó là tổ chức theo sắc thuế, tổ chức theo chức năng, tổ chức theo đối tượng nộp thuế (tương ứng với 3 mô hình tổ chức trong khu vực kinh doanh là: tổ chức theo sản phẩm, chức năng và khách hàng).
Mô hình tổ chức bộ máy theo sắc thuế: là mô hình tổ chức các phòng, ban riêng biệt để quản lý một số loại thuế cụ thể (như Cục hay phòng thuế thu nhập, phòng thuế GTGT, phòng thuế TTĐB...). Trong từng phòng ban, được tổ chức các bộ phận thực hiện các khâu công việc quản lý của sắc thuế đó.
Với mô hình này, DN sẽ chịu sự quản lý của nhiều phòng ban, mỗi phòng ban chịu trách nhiệm quản lý một sắc thuế.
Mô hình tổ chức bộ máy theo chức năng: Tổ chức các phòng (bộ phận) thực hiện một hoặc một số chức năng nhất định trong qui trình quản lý thu thuế (Phòng dịch vụ hỗ trợ ĐTNT, phòng xử lý tờ khai, phòng quản lý thu các trường hợp nợ đọng, gian lận, phòng Thanh tra...).
Với mô hình này, DN cũng sẽ chịu sự quản lý của nhiều phòng ban, mỗi phòng ban chịu trách nhiệm quản lý theo chức năng được phân công đối với tất cả các sắc thuế, ví dụ: chịu sự quản lý của phòng Thanh tra về khả năng thanh tra tất cả các sắc thuế đối với DN.
Mô hình tổ chức bộ máy theo nhóm ĐTNT: Tổ chức các đơn vị (Cục) theo nhóm đối tượng. Mỗi Cục chịu trách nhiệm cung cấp toàn bộ các chức năng quản lý thuế cho nhóm đối tượng (như Cục Quản lý thuế các DN lớn, Cục Quản lý thuế các DN vừa, nhỏ, Cục Quản lý tiền công và lương hưu... như ở Australia).
Theo mô hình này DN chỉ chịu sự quản lý của một tổ chức (Cục), gồm các phòng thực hiện các chức năng quản lý thuế.
Mô hình này hiện đang được áp dụng ở một số nước phát triển.
Hiện nay, trên thế giới có 3/4 cơ quan thuế các nước hoạt động với cơ cấu tổ chức theo chức năng hoặc hỗn hợp giữa các mô hình. Cả 3 mô hình nêu trên, mỗi mô hình đều có ưu điểm, nhược điểm. Những ưu điểm không phải tự có và những nhược điểm cũng không phải không hoàn toàn tránh được. Vì vậy, mỗi quốc gia cần nghiên cứu kỹ những đặc điểm của đất nước mình để tổ chức cơ quan thuế phù hợp.
Về cán bộ quản lý
Cán bộ quản lý là người lao động quản lý bao gồm tất cả các cá nhân thực hiện những chức năng quản lý nhất định trong bộ máy quản lý của một hệ thống. Đội ngũ cán bộ nói chung gồm 2 loại chính: cán bộ lãnh đạo và cán bộ chuyên môn nghiệp vụ.
Đội ngũ cán bộ quản lý giữ vai trò cực kỳ quan trọng, là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của một hệ thống quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "cán bộ là cái gốc của mọi công việc... công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém".
Để xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, trước hết phải xác định yêu cầu (yêu cầu về phẩm chất đạo đức, yêu cầu về năng lực, trình độ). Từ đó, kế hoạch hoá đội ngũ cán bộ (xác định số lượng và chất lượng cán bộ, kế hoạch bổ sung, luân chuyển, qui hoạch, đào tạo), phân định chức năng, quyền hạn và trách nhiệm cho cán bộ trong cơ quan quản lý, bố trí, đánh giá, đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ quản lý.
Để nâng cao hiệu lực của bộ máy nói chung và thuế nói riêng, việc lựa chọn, bố trí, qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để đáp ứng yêu cầu công việc, có vai trò rất quan trọng.
Chất lượng của quản lý thuế phụ thuộc vào trình độ cán bộ, việc bố trí nhân lực cho các khâu để quản lý các đối tượng nộp thuế trong qui trình một cách hợp lý.
Đối với các nước có trình độ quản lý thuế tiến tiến thì tỷ lệ cán bộ bố trí cho khâu xử lý tờ khai và kế toán thuế chiếm từ 14-22%, khâu tuyên truyền và dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp chiếm từ 12-24%, khâu thanh tra, kiểm tra chiếm từ 24-40%, khâu cưỡng chế thu nợ thuế chiếm từ 12-17%. (xem biểu 1.1).
Bảng 1.1: Tỷ lệ cán bộ bố trí theo các chức năng ở một số nước
Đơn vị tính:(%)
Quốc gia
TT-hỗ trợ ĐTNT
Xử lý tờ khai
Thanh tra, kiểm tra
Thu nợ thuế
Khác
Canada
8
17
26
17
32
Hoa Kỳ
24
14
27
12
23
Newzeland
19
22
24
14
21
Singapore
20
15
40
13
12
Nguồn: Quĩ Tiền tệ quốc tế
Trong bố trí cán bộ, tỷ lệ cán bộ trực tiếp quản lý thuế phải chiếm tỷ trọng cao thông thường khoảng 80%, tỷ lệ cán bộ làm công tác phục vụ, quản lý nội bộ ngành khoảng 20%. Đồng thời phải xác định được các khâu trọng yếu của quản lý thuế và bố trí cán bộ phù hợp.
Chất lượng và số lượng cán bộ quản lý doanh nghiệp phải được quan tâm hàng đầu, vì đây là khu vực có số thu lớn nhất, do đó khả năng rủi ro về thuế cũng lớn nhất.
Cùng với xác định tỷ lệ cán bộ ở các khâu thì cũng cần bố trí cán bộ có trình độ phù hợp vào quản lý các đối tượng và các khâu công việc. Trong quản lý đối tượng nộp thuế gồm DN, cá nhân kinh doanh, cá nhân nộp thuế thu nhập cá nhân, đối tượng nộp phí, lệ phí thì quản lý DN đòi hỏi cán bộ phải có trình độ cao, có kiến thức đầy đủ về tài chính kế toán, am hiểu hoạt động kinh doanh của DN. Việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ thuế nói chung và đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ quản lý thuế đối DN nói riêng phải được tiến hành thường xuyên, theo hướng chính qui hiện đại.
1.2.2. Các cơ chế quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
* Cơ chế cơ quan thuế tính thuế
Cơ chế cơ quan thuế tính thuế: là cơ chế quản lý thu trong đó các đối tượng nộp thuế phải kê khai thuế và nộp tờ khai cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế nhận tờ khai, kiểm tra tờ khai và tính thuế, thông báo số thuế phải nộp gửi đối tượng nộp thuế. Trong khoảng thời hạn theo thông báo (qui định trong luật), ĐTNT phải có trách nhiệm nộp đầy đủ số thuế theo thông báo vào kho bạc nhà nước.
Theo cơ chế này, tất cả các ĐTNT đều được cơ quan thuế kiểm tra, tính thuế do đó đảm bảo được việc tính toán chính xác số thuế phải nộp trên tờ khai của các đối tượng, phù hợp với một nền kinh tế trong đó ý thức và trình độ hiểu biết về luật pháp nói chung và luật thuế của đối tượng nộp thuế chưa cao. Tuy nhiên, khối lượng công việc mà cơ quan thuế đảm nhận sẽ rất nhiều, đặc biệt khi số lượng ĐTNT tăng lên nhanh chóng sẽ gây áp lực lên cơ quan quản lý thuế, đồng thời trong một số trường hợp, cách quản lý này gây lãng phí nguồn nhân lực; hơn nữa cơ chế này không tạo kiện và khuyến khích các đối tượng nộp thuế tuân thủ tốt nghĩa vụ thuế (vì 100% đối tượng nộp thuế đều được kiểm soát như nhau)
Trên thế giới, hầu hết các nước phát triển đã trải qua cơ chế quản lý này. Tuy nhiên, đến nay các nước phát triển đã chuyển sang cơ chế đối tượng nộp thuế tự kê khai, tự tính, tự nộp thuế (sẽ được giới thiệu dưới đây).
* Cơ chế đối tượng nộp thuế tự kê khai - tự nộp thuế
Cơ chế ĐTNT tự kê khai - tự nộp thuế hay còn gọi là tự khai- tự nộp (TK-TN) là cơ chế quản lý thuế trong đó các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh căn cứ nghĩa vụ thuế được qui định tại luật thuế, tự kê khai thuế và tự nộp thuế đầy đủ, đúng hạn vào ngân sách nhà nước. Cơ quan thuế tăng cường tuyên truyền và cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho ĐTNT, đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trên cơ sở kỹ thuật thanh tra, kiểm tra theo rủi ro (tức là thanh tra, kiểm tra các đối tượng có nguy cơ trốn lậu thuế thông qua việc phân tích các thông tin).
Trong cơ chế TK-TN, cơ quan thuế chủ yếu tập trung vào công tác tuyên truyền phục vụ, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh nhằm tạo điều kiện cho đối tượng nộp thuế hiểu và thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình, đồng thời tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra và cưỡng chế thuế có hiệu quả hơn đối với các đối tượng nộp thuế có khả năng rủi ro cao (khả năng trốn lậu thuế lớn).
Cơ chế TK-TN thường gắn với mô hình tổ chức theo chức năng.
Ưu điểm của cơ chế tự khai - tự nộp:
+ Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế: mục đích của cơ chế này là nhằm nâng cao tính tuân thủ tự nguyện của đối tượng nộp thuế trên cơ sở tăng cường tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế và đẩy mạnh thanh tra và kiểm tra, do đó tỷ lệ đối tượng nộp thuế tuân thủ tự nguyện luật thuế ngày càng cao, có nghĩa là số thu ngày càng lớn, thất thu ngày càng giảm. Hiệu quả quản lý còn được thể hiện ở chỗ: khi đối tượng nộp thuế tăng lên nhanh chóng, sẽ không gây áp lực cho cơ quan quản lý thuế do cơ quan thuế không phải kiểm tra và tính thuế đối với tất cả các tờ khai như cơ chế cơ quan thuế tính thuế mà trách nhiệm kê khai và tính thuế là của ĐTNT, cơ quan thuế chỉ tập trung tăng cường công tác tuyên truyền hỗ trợ ĐTNT và kiểm tra thanh tra các đối tượng nộp thuế có dấu hiệu nghi ngờ gian lận thuế, vì vậy có điều kiện phân bổ nguồn lực có hiệu quả hơn, do đó tiết kiệm được chi phí quản lý. Trường hợp ĐTNT đã thực hiện nghiêm túc luật thuế, kê khai và tính toán chính xác số thuế phải nộp thì rõ ràng việc phải tính toán kiểm tra lại của cơ quan thuế (theo cơ chế cơ quan thuế tính thuế) là thừa và lãng phí thời gian, công sức. Với số lượng các ĐTNT hiện lên đến gần 140.000 doanh nghiệp, sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức cho cán bộ quản lý thu thuế, tiết kiệm được nhân lực quản lý để tăng cường cho các khâu trọng yếu trong quản lý thu đối với DN: thanh tra, kiểm tra và xử lý các đối tượng vi phạm luật thuế. Ngoài ra, nhờ việc hàng tháng không phải gửi thông báo mà ngành thuế tiết kiệm được chi phí giấy, mực, in ấn, cước phí bưu điện...đem lại một hiệu quả kinh tế không nhỏ, giảm chi phí quản lý thu.
+ Thực hiện cơ chế TK-TN, các ĐTNT không phải đợi nhận được thông báo của cơ quan thuế để làm cơ sở cho việc nộp thuế. Đối tượng nộp thuế được giảm bớt các thủ tục hành chính thuế, được chủ động và tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, được cung cấp các dịch vụ hỗ trợ một cách đầy đủ nhất, tốt nhất, giúp họ hiểu và tự kê khai nghĩa vụ thuế; Theo cơ chế này, ĐTNT phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực của số liệu kê khai và cả tính chính xác của việc tính toán số thuế phải nộp. Nói cách khác, ĐTNT được nâng cao trách nhiệm pháp lý trong việc kê khai thuế với Nhà nước.
Một số hạn chế
+ Nguy cơ trốn lậu, thất thoát thuế lớn nếu trình độ dân trí thấp và không có biện pháp quản lý phù hợp
Nếu không có biện pháp quản lý thuế phù hợp, chẳng hạn công tác thanh tra, kiểm tra không kịp thời, việc phổ biến pháp luật kém hiệu quả..., có thể dẫn đến tình trạng lợi dụng việc không kiểm tra, tính toán lại thường kỳ của cơ quan thuế để cố tình kê khai sai nhằm trốn lậu thuế. Trong trường hợp do hiểu biết pháp luật của đối tượng nộp thuế kém thì có thể có tình trạng kê khai sai số thuế phải nộp một cách vô ý.
+ Đòi hỏi cao về cơ sở vật chất và trình độ quản lý của các cơ quan nhà nước
Để áp dụng cơ chế mới một cách hiệu quả, đòi hỏi cơ sở vật chất của ngành Thuế phải được hiện đại hóa, đặc biệt là hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thông tin, hỗ trợ cho việc kiểm tra, đối chiếu số liệu có thể được thực hiện nhanh chóng và chính xác. Nghĩa là, cần có sự đầu tư ban đầu rất lớn, trong khi ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Mặt khác, trình độ quản lý của các cơ quan hành pháp hiện nay còn thấp, nếu không có sự chuẩn bị kỹ càng có thể xẩy ra tình trạng thả nổi, buông lỏng công tác quản lý thuế [10].
- Những điều kiện tiên quyết để thực hiện cơ chế tự khai - tự nộp thành công
+ Xây dựng hệ thống chính sách thuế và qui trình, thủ tục đơn giản, rõ ràng để các ĐTNT dễ dàng hiểu và thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, có thể tự mình điền vào các mẫu tờ khai và hoàn thành các thủ tục qui định.
+ Cơ quan thuế cần tập trung vào việc phục vụ, hỗ trợ ĐTNT để đối tượng nộp thuế hiểu và thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình: ĐTNT phải nhận được các thông tin rõ ràng, chính xác về nghĩa vụ thuế, bao gồm căn cứ tính thuế, thuế suất, thời hạn kê khai nộp thuế, các yêu cầu về chứng từ nộp kèm theo tờ khai... Các mẫu tờ khai cùng với các hướng dẫn rõ ràng cách điền vào tờ khai cần được cung cấp miễn phí và sẵn có ở các địa điểm thuận tiện. Các ĐTNT phải luôn được thông báo và cập nhật những thay đổi trong chính sách thuế và cần được tạo điều kiện dễ dàng tiếp cận với các cán bộ thuế để được hỗ trợ và giải đáp thắc mắc. Hơn nữa, cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho ĐTNT nộp tờ khai thuế và nộp thuế dễ dàng (ví dụ: đồng thời nộp tờ khai và nộp thuế tại ngân hàng hay kho bạc).
+ Tăng cường được công tác thanh tra, kiểm tra ĐTNT cả về số lượng và chất lượng để ngăn ngừa và phát hiện kịp thời những trường hợp không chấp hành nghĩa vụ kê khai, nộp thuế; áp dụng các hình thức xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm về thuế; làm cho ĐTNT tin tưởng rằng các chương trình thanh tra thuế hiệu quả đang tồn tại. ĐTNT phải nhận thức được rằng các trường hợp không tuân thủ và gian lận về thuế sẽ bị phát hiện và khi đó họ sẽ phải chịu các hình thức xử phạt. Đồng thời phải làm cho ĐTNT nhận thức được hệ thống xử phạt nghiêm khắc nhưng công bằng đang được áp dụng. Cùng với hệ thống xử phạt nghiêm khắc là việc xây dựng một quy trình khiếu nại nhằm bảo vệ quyền của ĐTNT và họ phải hiểu về quyền khiếu nại của mình.
+ Cơ quan thuế cần đẩy mạnh việc hiện đại hóa công tác quản lý thu thuế. Việc áp dụng một hệ thống quản lý thuế được tin học hóa sẽ giúp ngành thuế giảm bớt gánh nặng công việc, hợp lý hóa các quy trình thủ tục đồng thời giúp cơ quan thuế tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực quan trọng góp phần làm tăng tính hiệu quả của quản lý thuế.
+ Sắp xếp lại bộ máy tổ chức quản lý thuế chuyên sâu theo các chức năng; phân bổ nguồn lực phù hợp và đào tạo nâng cao năng lực trình độ của đội ngũ cán bộ thuế.
Trên thế giới, cơ chế này không chỉ được áp dụng đối với quản lý doanh nghiệp mà còn được áp dụng phổ biến đối với quản lý thuế thu nhập cá nhân và một số đối tượng khác.
1.2.3. Các phương thức kê khai thuế
Các phương thức kê khai thuế nói chung và kê khai thuế dối với DN hiện nay gồm có: kê khai thuế trên giấy và kê khai thuế thông qua các phương tiện điện tử, chủ yếu là qua mạng Internet sau đây gọi là kê khai thuế qua mạng.
* Kê khai trên giấy là phương thức kê khai trong đó đối tượng nộp thuế kê khai thuế vào các mẫu tờ khai bằng giấy (viết tay hoặc đánh trên máy tính và in lên giấy) và gửi đến cơ quan thuế trực tiếp hoặc qua đường bưu điện. (Mỗi khi có sai sót cần điều chỉnh cũng đều phải thực hiện từng bước thủ tục văn bản và thời gian như gửi lần đầu).
Với phương thức kê khai này cơ quan thuế phải nhập toàn bộ dữ liệu trên tờ khai vào máy tính để lập sổ thuế và theo dõi thu nộp. Do đó, vào kỳ kê khai thuế, lượng tờ khai phải nhập rất lớn đòi hỏi cơ quan thuế phải làm thêm giờ, tăng nhân lực và dễ có sai sót.
Đây là phương thức truyền thống mà nhiều nước đã và đang áp dụng.
* Kê khai thuế qua mạng Internet
Kê khai điện tử là quá trình truyền các dữ liệu kê khai thông qua các phương tiện điện tử, chủ yếu là qua mạng Internet.
Kê khai thuế qua mạng Internet là quá trình truyền tờ khai thuế hoặc thông tin liên quan tới cơ quan quản lý thuế thông qua mạng Internet.
Việc kê khai điện tử đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới và trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: kê khai thuế, kê khai hải quan, kê khai xuất nhập cảnh, đăng ký kinh doanh, gửi đơn khiếu tố - khiếu nại tới tòa án vv…
Ở Việt Nam kê khai qua mạng được áp dụng thí điểm trên một số lĩnh vực và địa phương như: bắt đầu thí điểm đăng ký kinh doanh tại thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) từ ngày 22/12/2000 đối với các DN tư nhân sau đó mở rộng dần với các loại hình DN khác. Đến cuối năm 2003 đã có trên 6000 DN ở TP.HCM được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh qua mạng. Nhờ đó người dân có thể đăng ký kinh doanh mọi lúc mọi nơi, và thời gian đăng ký kinh doanh được rút ngắn. Qua khảo sát cho thấy, thời gian rút ngắn giữa đăng ký kinh doanh qua mạng so với đăng ký trực tiếp đối với DN tư nhân là 6 ngày (chỉ mất có 4 ngày so với 10 ngày nếu đăng ký trực tiếp), đăng ký hoạt động chi nhánh và văn phòng đại diện nhanh hơn 3 ngày; công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần chỉ còn có 7 ngày (so với 15 ngày nếu đăng ký trực tiếp); thực hiện đăng ký thay đổi nội dung kinh doanh chỉ có 4 ngày (so với 7 ngày).
Thí điểm kê khai hải quan ở một số Cục Hải quan từ tháng 9 năm 2004: được học tập theo mô hình của Trung Quốc: thay việc mang hồ sơ đến khai báo tại cơ quan Hải quan, doanh nghiệp chỉ cần khai báo các số liệu của tờ khai theo mẫu, rồi truyền dữ liệu qua mạng đến cơ quan Hải quan. Tiếp theo, doanh nghiệp phải trình bộ tờ khai bằng giấy tại cơ quan Hải quan để đối chiếu và tiếp nhận làm thủ tục. Quy trình khai báo hải quan điện tử có khả năng rút ngắn thời gian làm thủ tục Hải quan còn 15 phút so với thời gian từ 3 đến 4 ngày như trước đây.
- Những ưu điểm của kê khai thuế qua mạng Internet
Đối với cơ quan thuế: thực hiện kê khai thuế qua mạng Internet, cơ quan thuế không còn phải nhập dữ liệu bằng tay, khắc phục được sự nhầm lẫn, sai sót; thông tin nhận được nhanh hơn, đáp ứng tốt hơn cho công tác quản lý; tiết kiệm được thời gian và nhân lực của khâu nhập dữ liệu để tăng cường bố trí cho các khâu quản lý trọng yếu khác hoặc giảm biên chế cơ quan thuế.
Đối với ĐTNT: thực hiện kê khai thuế qua mạng Internet, ĐTNT chỉ cần từ văn phòng truyền dữ liệu lên mạng Internet gửi tới cơ quan thuế. Cơ quan thuế cũng thông qua mạng Internet để tiếp nhận và thông báo cho ĐTNT biết rất nhanh chóng và thuận tiện. Do đó ĐTNT cũng tiết kiệm được cả thời gian và vật chất.
- Điều kiện để thực hiện kê khai thuế qua mạng Internet: trước hết phải có qui định hợp pháp hoá các giao dịch điện tử dưới hình thức văn bản qui phạm pháp luật, có hệ thống công nghệ thông tin tương đối phát triển, trong đó cơ sở vất chất và hệ thống tin học của cơ quan thuế cũng như của DN đạt đến một trình độ nhất định.
Vì vậy, hiện nay, chỉ có các nước phát triển và một số nước đang phát triển có nền công nghệ thông tin ở mức tương đối cao đã áp dụng phương thức kê khai thuế qua mạng Internet. Đặc biệt phương thức này mới phát triển mạnh trong những năm gần đây và trở thành xu hướng tất yếu của kê khai thuế trong quản lý thuế hiện đại.
1.3. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ THU THUẾ DOANH NGHIỆP CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC THAM KHẢO ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Khảo sát kinh nghiệm của một số nước
Khảo sát kinh nghiệm một số nước phát triển như Australia, nước có điều kiện gần tương đồng với Việt Nam như Indonesia và nước có nền kinh tế chuyển đổi như Hungari với mục đích tìm hiểu những cải cách và hướng hoàn thiện quản lý thu thuế nói chung và quản lý thuế đối với DN nói riêng trên những nội dung chủ yếu sau:
* Đăng ký thuế:
Ở bất kỳ một quốc gia nào, DN tiến hành kinh doanh đều phải đăng ký thuế. Đây là bước đầu tiên để cơ quan thuế quản lý được ĐTNT. Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều đưa hệ thống mã số ĐTNT áp dụng trong việc đăng ký thuế.
Đối với Indonesia, trong phạm vi 1 tháng kể từ khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đều phải đăng ký thuế tại cơ quan thuế cấp quận, huyện để được cấp mã số thuế. Tổng số đối tượng nộp thuế GTGT, TNDN là 2,8 triệu trong đó có 812.782 doanh nghiệp. Việc đăng ký và cấp mã số thuế vẫn thực hiện theo phương pháp truyền thống (bằng giấy).
Đối với Hungari, năm 1996, thực hiện cấp mã số cho tất cả ĐTNT. Ngoài ra, cơ quan thuế phải phối hợp với các cơ quan khác để lấy các thông tin liên quan đến việc quản lý thu thuế như đăng ký về dân số, đăng ký về tổ chức có tư cách pháp nhân và không có tư cách pháp nhân, đăng ký về đất đai tài sản khác...
Đặc biệt đối với Australia, với phương châm coi đối tượng nộp thuế là khách hàng, cơ quan thuế đã đưa nhiều hình thức để giúp khách hàng của mình dễ dàng đăng ký thuế, như: việc đăng ký thuế của đối tượng nộp thuế thông qua Internet chiếm gần 25%, thông qua hệ thống điện tử tại các đại lý thuế là 38%, thông qua giấy tờ là 38%.
Cả nước có 3,7 triệu DN, trong đó có 2,2 triệu DN đăng ký nộp thuế hàng hoá và dịch vụ (tương tự thuế giá trị gia tăng-các doanh nghiệp có doanh thu từ 50.000$/năm trở lên thì phải đăng ký nộp thuế hàng hoá và dịch vụ, những đối tượng có doanh thu dưới 50.000$/năm thì không thuộc đối tượng nộp thuế hàng hoá và dịch vụ mà chỉ nộp thuế thu nhập). Đối tượng này sau khi đăng ký được cấp mã số DN.
* Dịch vụ cho đối tượng nộp thuế
Ở các quốc gia bộ phận dịch vụ hỗ trợ ĐTNT được thành lập ở tất cả các cơ quan thuế để tăng cường trợ giúp cho đối tượng nộp thuế dưới nhiều hình thức khác nhau, nhằm cung cấp các sản phẩm dịch vụ chất lượng cao và kịp thời cho ĐTNT, giúp DN thực hiện tốt nghĩa vụ thuế.
Đối với Indonesia, Tổng cục Thuế cam kết cung cấp các dịch vụ tuyệt hảo cho đối tượng nộp thuế để giúp họ hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình. Tổng cục Thuế đã xây dựng trang thông tin điện tử nhằm cung cấp thông tin nhanh cho đối tượng nộp thuế và công chúng, đồng thời có một bộ phận tư vấn điện tử đặt tại Jakata phục vụ trong phạm vi cả nước. Các hình thức dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế hết sức phong phú như: hỗ trợ trực tiếp, trả lời bàng công văn, hướng dẫn hoặc toạ đàm trên đài tiếng nói hoặc truyền hình, phát hành các ấn phẩm, tờ rơi. Đặc biệt có chế độ tờ khai thuế xanh (áp dụng cho ĐTNT chấp hành tốt nghĩa vụ thuế). Đối với những DN này sẽ được ưu đãi hoàn thuế nhanh trong vòng 1 tuần đối với thuế GTGT. Đồng thời, có điều lệ qui định rõ trách nhiệm của cán bộ thuế và ĐTNT trong trường hợp cán bộ thuế hướng dẫn hoặc tư vấn cho ĐTNT sai chính sách.
Đối với Hungari,các hình thức dịch vụ hỗ trợ ĐTNT gồm: dịch vụ trả lời qua điện thoại không mất tiền, Internet, phần mềm kiểm tra việc tính thuế trên Internet và bằng đĩa CD, giảng bài và tư vấn trực tiếp, sổ tay về thuế, phát hành tạp chí...
Đối với Australia, dịch vụ hỗ trợ ĐTNT rất phong phú và hiện đại: Ngoài những nội dung và hình thức nêu trên với chất lượng cao hơn, nội dung phong phú hơn, cơ quan thuế còn cung cấp hướng dẫn trọn gói cho ĐTNT cùng với tờ khai thuế. Các ĐTNT được phân loại theo mức độ tuân thủ để từ đó có biện pháp đối xử và hình thức cung cấp dịch vụ phù hợp với từng loại ĐTNT:
Nhóm 1- đối tượng phản ứng hoặc trốn thuế
Nhóm 2- đối tượng chỉ nộp thuế khi cơ quan thuế ép buộc
Nhóm 3- đối tượng không muốn nộp thuế nhưng vẫn nộp đúng
Nhóm 4- đối tượng luôn mong muốn làm đúng
Theo sự phân loại nói trên, chiến lược cung cấp dịch vụ cho các đối tượng nộp thuế cũng rất khác nhau:
Nhóm 1: Không tuân thủ - "Gặp mặt một đối một bắt buộc tại các quầy dịch vụ".
Nhóm 2: Không muốn tuân thủ nhưng miễn cưỡng thực hiện - "Gặp mặt một đối một có hẹn ước".
Nhóm 3: Tuân thủ nhưng chưa hiểu rõ về pháp luật thuế - Chương trình giáo dục và thông tin "một với nhiều người".
Nhóm 4: Hoàn toàn tuân thủ: đối tượng nộp thuế tự phục vụ thông qua các dịch vụ thông tin được cơ quan thuế cung cấp dưới nhiều hình thức.
Hiện có 20 trung tâm cung cấp dịch vụ thông tin của cơ quan thuế đặt tại các thành phố lớn, nơi tập trung phần lớn đối tượng nộp thuế.
Trong năm 1999-2000 đã có khoảng 500.000 đối tượng nộp thuế đã tới trung tâm để được cung cấp dịch vụ; 529.678 cuộc gặp trực tiếp của cán bộ thuế với đối tượng nộp thuế trong đó có 93% được trả lời trong 15 phút; 10.000 thư điện tử; 2,4 triệu người sử dụng quyển hướng dẫn trọn gói cùng tờ khai; 1 triệu các ấn phẩm tham khảo; 600 cán bộ thuế được huy động vào thời kỳ cao điểm và 400 cán bộ thuế phục vụ đối tượng nộp thuế vào các thời gian còn lại trong năm.
* Thanh tra, kiểm tra:
Thanh tra, kiểm tra là chức năng cơ bản của cơ quan thuế và có vị trí quan trọng để đảm bảo thành công trong việc thực hiện quản lý thuế theo cơ chế TK-TN. Việc thực hiện thanh tra chủ yếu dựa trên kỹ thuật phân tích rủi ro.
Tại Indonesia, thanh tra được phân ra nhiều loại: thanh tra tại cơ quan thuế, thanh tra tại cơ sở. Theo thứ tự ưu tiên, thanh tra được sắp xếp theo thứ tự như sau: Thanh tra thường xuyên, thanh tra chứng cứ ban đầu (được thực hiện để thu thập chứng cứ ban đầu chứng tỏ doanh nghiệp vi phạm luật hình sự), thanh tra tại cơ sở của doanh nghiệp, thanh tra đặc biệt (được thực hiện khi doanh nghiệp có sự bất thường).
Hệ thống tiêu chí để lựa chọn thanh tra trên cơ sở dữ liệu từ tờ khai thuế, báo cáo tài chính DN và các thông tin khác, sau đó được chấm điểm để lựa chọn. Việc thanh tra cũng có thể được mở rộng phạm vi và thời gian, đảm bảo nguyên tắc doanh nghiệp đã được thanh tra thuế sẽ không bao giờ bị thanh tra lại trong phạm vi một năm (trừ những trường hợp rất đặc biệt).
Từ năm 2002, thanh tra thuế được ưu tiên tập trung vào DN qui mô vừa trở lên. Việc thanh tra các DN lớn phải được chấp thuận của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế.
Đối với Hungari, cơ quan thuế chia đối tượng nộp thuế thành 5 nhóm để có chiến lược và kế hoạch thanh tra, kiểm tra: đối với đối tượng nộp thuế lớn (doanh nghiệp lớn), việc kiểm tra được thực hiện một năm một lần. Việc thanh tra thuế được thực hiện 5 năm/lần. Cơ quan thuế có quyền thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ thuế của đối tượng nộp thuế từ 5 năm trở về trước., kể cả kiểm tra bên thứ ba có liên quan.
Đối với Australia, dựa vào cách phân loại ĐTNT thành bốn nhóm như phần dịch vụ hỗ trợ ĐTNT đã nêu trên, cơ quan thuế đưa ra các biện pháp quản lý phù hợp với từng loại đối tượng. Nhóm 1 và 2 là nhóm đối tượng cần tập trung kiểm tra nhiều nhất của cơ quan thuế. Đối với nhóm 1 cơ quan thuế tiến hành kiểm tra tất cả các thông tin đã kê khai. Đây là nhóm đối tượng cần chú ý nhất vì các trường hợp trốn thuế đều thuộc nhóm đối tượng này. Nội dung thanh, kiểm tra được gắn vào các Cục, Vụ và các Phòng, không tổ chức Cục thanh tra thuế ở Trung ương hay phòng thanh tra, kiểm tra tại các Chi nhánh một cách riêng biệt.
Ngoài ra trên thế giới hiện nay, có hơn 1/3 số quốc gia trong đó có Indonesia thực hiện giao quyền điều tra, khởi tố các vụ vi phạm pháp luật thuế cho cơ quan thuế. Đối với Inddonesia, việc điều tra các hành vi vi phạm luật thuế để khởi tố hình sự chỉ được thực hiện bởi các điều tra viên thuế. Điều tra viên thuế là những cán bộ thanh tra thuế giỏi được lựa chọn để đào tạo nghiệp vụ điều tra và được Bộ Tư pháp cấp giấy phép hoạt động điều tra viên. Điều tra thuế nhằm ngăn chặn tội phạm bỏ trốn ra nước ngoài, đưa ra toà xét xử các vụ án trốn thuế, tìm kiếm tịch thu các tài sản phạm tội, công bố rộng rãi trước công chúng về các thông tin liên quan đến việc phạm tội. Điều tra viên có quyền triệu tập các nghi can, người làm chứng và các chuyên gia, soạn thảo báo cáo điều tra, thực hiện các hoạt động khác được pháp luật cho phép. Hầu hết các vụ điều tra về thuế do cơ quan thuế đưa ra đều được xử lý.
Hệ thống chính sách phạt cũng như việc thực hiện phạt đối với đối tượng vi phạm được thực hiện nghiêm minh nhằm mục đích răn đe có hiệu quả. Đối tượng bị phạt không chỉ là các đối tượng nộp thuế vi phạm mà cả cán bộ thuế và bên thứ 3 vi phạm như cố tình không cung cấp thông tin cho cơ quan thuế, thậm chí bị tù kể cả trường hợp tiết lộ bí mất của đối tượng nộp thuế.
* Cơ chế tự khai-tự nộp thuế
Đối với Indonesia và Hunggari đều đã thực hiện cơ chế TK-TN đối với quản lý thu thuế doanh nghiệp (với các sắc thuế giá trị gia tăng, thu nhập doanh nghiệp...) và cả các đối tượng khác như đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân. Bên cạnh cơ chế TK-TN, cơ chế cơ quan thuế tính thuế và ra thông báo thuế vẫn được áp dụng đối với các khoản phí, lệ phí và một số khoản thu khác.
Đối với Australia, năm1986, trước sức ép của Nghị viện yêu cầu cơ quan thuế Liên bang phải nâng cao hiệu quả của bộ máy, giảm chi phí quản lý, Tổng cục trưởng Tổng cục thuế đã quyết định thực hiện cơ chế TK-TN cùng với việc đưa công nghệ thông tin vào trợ giúp quản lý thuế với mục tiêu nhằm tăng thu, tăng sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế, giảm trường hợp khiếu nại về thuế, đảm bảo sử dụng tốt hơn nguồn lực của cơ quan thuế Liên bang. Quy trình này đầu tiên thực hiện đối với đối tượng nộp thuế lớn, như các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sau đó mở rộng dần phạm vi đối với các đối tượng nộp thuế là cá nhân. Cùng với việc áp dụng cơ chế này, việc chuyển đổi cán bộ cũng được thực hiện (1.745 cán bộ thuế đã phải chuyển đổi, sắp xếp lại). Hầu hết số cán bộ đó được chuyển đổi sang làm thanh tra hoặc dịch vụ cho đối tượng nộp thuế. Việc thực hiện cơ chế TK-TN đã đạt được các mục tiêu đề ra.
* Kê khai thuế qua mạng Internet
Tại Indonesia, tháng 7/2002, Tổng cục Thuế bắt đầu áp dụng kê khai thuế qua mạng. Điều này được xem như một bước cải thiện dịch vụ hỗ trợ cho đối tượng nộp thuế. Việc kê khai thuế qua mạng được áp dụng trước hết đối v._.h sách khuyến khích các DN tham gia thí điểm...); các văn bản quy định về xử lý tranh chấp (khi có tranh chấp xảy ra giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp thì cơ quan nào đứng ra giải quyết); Tổng cục Thuế ban hành các văn bản quy định quy trình xử lý dữ liệu kê khai thuế qua mạng vv...
- Tiếp tục hoàn thiện cấu trúc các tờ khai, bảng kê, quy trình thu thập và xử lý tờ khai tại cơ quan thuế để phù hợp với phương thức kê khai thuế qua mạng.
- Tiếp tục hoàn thiện giải pháp kỹ thuật đã được áp dụng trong quá trình thử nghiệm để có thể triển khai thí điểm chính thức và triển khai cho diện rộng.
3.2.4. Cải cách hiện đại hoá hệ thống quản lý thuế hiện hành đối với doanh nghiệp (ngoài đối tượng thí điểm)
Như trên đã đề cập là lấy thực hiện cơ chế TK-TN thuế và tổ chức quản lý thuế theo mô hình chức năng làm xuất phát điểm, mũi nhọn thực hiện cải cách, hiện đại hoá, từ đó mở rộng dần với bước đi vững chắc theo một lộ trình hợp lý. Tuy nhiên, không phải hệ thống hiện hành (khu vực không thực hiện thí điểm) sẽ "đứng im" mà ngược lại: những chức năng nào, những công việc nào áp dụng cho thí điểm nhưng có thể áp dụng được cho hệ thống hiện hành thì cần nhanh chóng triển khai cho toàn bộ hệ thống. Có như vậy mới rút ngắn được khoảng cách và thời gian triển khai cơ chế tự khai-tự nộp cho toàn bộ hệ thống quản lý đối với doanh nghiệp. Chính vì vậy, một số yếu tố của quản lý thuế đối với DN cần được cải cách theo hướng sau:
3.2.4.1. Tuyên truyền, giáo dục và cung cấp dịch vụ hỗ trợ đối với doanh nghiệp
Thông qua công tác tuyên truyền (các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục và dưới nhiều hình thức phong phú khác) làm cho mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội nói chung và DN hiểu rõ bản chất tốt đẹp của thuế: tiền thuế là của dân, do dân đóng góp và được sử dụng vì lợi ích của nhân dân; tiền thuế không chỉ là lợi ích Nhà nước mà chủ yếu là lợi ích của cộng đồng. Mọi tổ chức, cá nhân hiểu rõ được nội dung cơ bản của các chính sách thuế. Trên cơ sở đó, tạo sự đồng tình cao với các chính sách thuế của Nhà nước, sẵn sàng và tự nguyện cung cấp thông tin và phối hợp với cơ quan Thuế để thu thuế, lên án mạnh mẽ các hành vi vi phạm về thuế. Vận động DN thực hiện tốt các chính sách thuế của Nhà nước.
Mục tiêu của công tác tuyên truyền hỗ trợ DN là thông qua việc tuyên truyền và cung cấp đầy đủ các dịch vụ hỗ trợ có chất lượng cao về thuế để nâng cao tính tuân thủ, tự giác chấp hành tốt nghĩa vụ thuế với Nhà nước theo quy định của các luật thuế trên cơ sở hiểu nội dung quy định cụ thể của các chính sách thuế, các thủ tục hành chính về thuế.
Đối với chức năng này, có thể tiến hành song song: vừa triển khai cho các DN thí điểm vừa triển khai cho các DN của hệ thống hiện hành, đó là:
- Tăng cường các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ đối với DN:
+ Trên cơ sở đánh giá kết quả công tác tuyên truyền hỗ trợ trong phạm vi thực hiện thí điểm cơ chế TK-TN về: hình thức áp dụng, nội dung tuyên truyền hỗ trợ, quy trình nghiệp vụ, tiếp tục hoàn thiện và triển khai các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ đối với DN ngoài thí điểm. Điều tra, khảo sát nhu cầu hỗ trợ của DN (cả DN thực hiện thí điểm TK-TN và DN ngoài thí điểm) về hình thức, nội dung yêu cầu hỗ trợ theo từng nhóm lĩnh vực, ngành nghề hoặc mới thành lập. Lập kế hoạch phát triển các hình thức, nội dung tuyên truyền hỗ trợ đối với doanh nghiệp, tập trung tuyên truyền hỗ trợ theo nhu cầu của DN.
+ Nghiên cứu, hệ thống hóa các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ được áp dụng đối với DN ở các nước có trình độ quản lý thuế tiến tiến trên thế giới. Đánh giá và đề xuất phương án áp dụng các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ mới. Triển khai áp dụng một số hình thức tuyên truyền, hỗ trợ hiện đại, hiệu quả như:
Xây dựng và triển khai hình thức trao đổi thông tin trực tuyến và thư điện tử với ĐTNT, thông qua hệ thống mạng ngành Thuế.
Xây dựng nội dung và thiết kế kỹ thuật để nhanh chóng triển khai hệ thống trả lời về thuế tự động qua điện thoại. Ưu tiên trước hết đối với các nội dung về thuế đối với doanh nghiệp.
Xây dựng mô hình và thực hiện triển khai các điểm hỗ trợ trực tiếp ĐTNT theo chuẩn quốc tế tại một số thành phố lớn (Hà Nội, Hồ Chí Minh) để đánh giá và chuẩn bị phương án triển khai tiếp theo.
Xây dựng và triển khai chương trình, nội dung giáo dục về thuế bắt buộc ở các cấp đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc gia: lập kế hoạch, phạm vi, giải pháp thực hiện, xây dựng cơ chế phối hợp và triển khai với Bộ giáo dục và đào tạo; xây dựng nội dung về thuế để đưa vào giáo khoa của các lớp học ở các cấp học trong hệ thống giáo dục quốc gia.
- Chuẩn hóa các nội dung tuyên truyền, hỗ trợ. Từng bước hoàn thiện các nội dung tuyên truyền hỗ trợ và thống nhất triển khai toàn quốc
Rà soát toàn bộ nội dung của hệ thống tài liệu tuyên truyền, hỗ trợ doanh nghiệp bao gồm: các thông tin trên cơ sở dữ liệu của ngành thuế, tài liệu hướng dẫn về đăng ký, kê khai, nộp thuế, các văn bản pháp luật về thuế, các ấn phẩm tuyên truyền về thuế, các bảng áp phích, pa nô...; xây dựng các tài liệu hỗ trợ hướng dẫn kê khai, nộp thuế theo sắc thuế, theo ngành, nhóm DN.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Website của ngành thuế: nâng cao chất lượng thông tin cho các chuyên mục trên Website, cập nhật các thông tin tại các văn bản qui phạm pháp luật về thuế đã sửa đổi, bổ sung, mới ban hành, thủ tục về thuế, câu hỏi thường gặp và tin, bài về thuế đăng trên Website; tiếp tục nghiên cứu, cải tiến về hình thức, nội dung Website cho phù hợp với yêu cầu tra cứu thông tin của trong và ngoài ngành. Nhanh chóng hoàn thiện để khai trương nội dung thông tin của Website ngành Thuế bằng tiếng Anh, đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, các DN và các nhà đầu tư ở nước ngoài muốn tìm hiểu về hệ thống thuế của Việt Nam để đầu tư vào Việt Nam.
Nghiên cứu, triển khai các dịch vụ về thuế trên mạng phù hợp với lộ trình hiện đại hoá ngành Thuế: dịch vụ hỏi đáp qua mạng, dịch vụ đăng ký, kê khai thuế (đã nêu chi tiết ở mục trên), nộp thuế qua mạng...
Triển khai cài đặt, hướng dẫn các Cục Thuế địa phương quản lý, vận hành Website nội bộ của Cục Thuế. Xây dựng cơ chế, quy định chung về nội dung, hình thức, chế độ báo cáo cho các bộ phận quản lý Website các Cục Thuế địa phương.
- Rà soát, hoàn thiện các qui trình, qui chế tuyên truyền hỗ trợ ĐTNT nói chung và xây dựng qui trình và sổ tay nghiệp vụ hướng dẫn công tác tuyên truyền hỗ trợ đối với DN; xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền hỗ trợ. Áp dụng thí điểm các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng này trong phạm vi tuyên truyền hỗ trợ đối với các DN thí điểm cơ chế TK-TN, sau đó đánh giá, hoàn chỉnh, bổ sung và triển khai thực hiện tiêu chuẩn đánh giá chất lượng tuyên truyền hỗ trợ trên phạm vi toàn quốc
Tổ chức xây dựng mẫu biểu, phương pháp điều tra đánh giá chất lượng phục vụ của cơ quan thuế đối với DN. Triển khai điều tra, thu thập thông tin đánh giá hàng năm từ đó có sự điều chỉnh phù hợp.
- Trình cấp có thẩm quyền về cơ chế hoạt động để khuyến khích phát triển các hình thức dịch vụ tư vấn, kế toán thuế, đại lý kê khai thuế.
3.2.4.2. Tăng cường thanh tra, kiểm tra về thuế
Các giải pháp thanh tra, kiểm tra thuế trong thời gian tới là:
- Củng cố công tác thanh tra đối với các DN của hệ thống hiện hành: tập trung vào các biện pháp chống thất thu NSNN theo đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế nhằm đảm bảo cơ quan thuế quản lý đủ DN và đối tượng chịu thuế, tính đúng tiền thuế phải nộp vào NSNN; chuyển dần các DN này sang cơ chế TK-TN và áp dụng phương thức thanh tra mới.
- Phân loại đối tượng để thanh tra, kiểm tra. Tập trung thanh tra, kiểm tra các đối tượng có nhiều rủi ro về thuế hoặc thiếu độ tín nhiệm, thường xuyên gian lận về thuế. Các đối tượng tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế thì có thể 5 năm mới kiểm tra toàn diện một lần. Nói cách khác là xây dựng và thực hiện kỹ thuật thanh tra dựa trên phân tích, đánh giá quản lý rủi ro.
Căn cứ các tiêu chí đánh giá rủi ro của cơ chế TK-TN (như tỷ suất lợi nhuận trên vốn, tốc độ tăng doanh thu, tốc độ tăng lợi nhuận, biến động giá thành đơn vị sản phẩm, biến động tỷ trọng nguyên vật liệu tồn kho trên vốn lưu động)...và các tiêu chí cụ thể khác theo từng ngành, lĩnh vực, để ứng dụng từng bước trong việc lựa chọn đối tượng thanh tra.
Muốn có được các thông tin để phân tích, đánh giá rủi ro, ngành Thuế cần phải xây dựng cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp như đã nêu ở giải pháp 3.2.2 đối với cơ chế TK-TN.
- Xây dựng và triển khai thực hiện các kỹ năng thanh tra thuế đối với từng trường hợp. (thu thập thông tin, đánh giá rủi ro, lập hồ sơ thanh tra, lập chứng cứ, đánh giá sau thanh tra...): xây dựng và triển khai thực hiện kỹ năng phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp trong thanh tra thuế, sử dụng thông tin kinh tế ngành trong thanh tra thuế.
Phát triển các chương trình thanh tra đặc biệt theo chuyên ngành và theo từng lĩnh vực; Xây dựng và thực hiện chương trình, biện pháp thanh tra chống chuyển giá đối với các công ty đa quốc gia và các giao dịch quốc tế; Xây dựng và thực hiện chương trình, biện pháp thanh tra đối với các doanh nghiệp lớn, do số thuế của DN này rất có ý nghĩa đối với thu ngân sách của quốc gia, vì vậy đó là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ cơ quan thuế nào.
- Nghiên cứu và xây dựng Đề án triển khai điều tra thuế, trong đó chú ý mô hình và phương pháp điều tra đối với các trường hợp gian lận, trốn thuế, phối hợp trong quá trình điều tra thuế với các ban ngành khác như: công an, toà án…, chuẩn bị sẵn sàng khi Nhà nước giao chức năng điều tra thuế cho cơ quan thuế.
- Các trường hợp gian lận về thuế phải bị xử phạt nghiêm minh theo quy định của các văn bản pháp luật hiện hành để có tác dụng răn đe và giáo dục các doanh nghiệp khác chấp hành đúng pháp luật thuế.
- Xây dựng chương trình hỗ trợ của máy tính phục vụ cho công tác kiểm tra, thanh tra thuế.
3.2.4.3. Đẩy mạnh thu nợ và cưỡng chế thuế
Các giải pháp thu nợ và cưỡng chế thuế đối với DN là:
- Nghiên cứu và sửa đổi về hướng dẫn phân loại nợ thuế, làm cơ sở cho Cục Thuế, Chi cục Thuế xác định kịp thời, chính xác và phân loại được các khoản nợ thuế của từng DN theo các tiêu chí:
Nợ không có khả năng thu bao gồm các khoản nợ của các DN kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ và mất khả năng thanh toán, các khoản nợ do phá sản, giải thể, bỏ trốn;
Nợ chờ xử lý bao gồm các khoản nợ của DN đang có khiếu nại, đang trong quá trình điều tra, khởi tố hình sự liên quan đến nghĩa vụ thuế, khoản nợ do đang chờ giải quyết miễn giảm thuế, khoanh nợ, xoá nợ, chờ xử lý khác...
Nợ có khả năng thu hồi là những khoản nợ của DN có khả năng thanh toán nhưng chưa nộp vào ngân sách. Trong đó có thể phân ra nợ thu hồi dần và nợ thu hồi ngay.
Xác định nguyên nhân, tình trạng nợ của DN. Từ đó có kế hoạch, biện pháp thu nợ phù hợp, hiệu quả.
- Nghiên cứu, xây dựng và thực hiện qui trình, các biện pháp thu nợ và cưỡng chế thuế trên cơ sở qui định trong các Luật thuế, Nghị định cưỡng chế vi phạm hành chính; Áp dụng ngay một số biện pháp và trình tự thu nợ trong cơ chế TK-TN tại các Cục Thuế thí điểm đối với các DN trong hệ thống hiện hành đang nợ thuế.
Triển khai các biện pháp thu nợ và cưỡng chế thuế theo các điều khoản qui định trong Luật Quản lý thuế khi Luật này được thông qua (dự kiến năm 2007).
- Trong quá trình thu nợ, cần phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan áp dụng các biện pháp thu nợ thuế và cưỡng chế thuế như ngân hàng (chịu trách nhiệm phong toả tài khoản, trích tài khoản), công an, toà án (để kê biên, tịch thu)…
- Áp dụng quản lý rủi ro trong công tác thu nợ và cưỡng chế thuế:
Phối hợp xây dựng cơ sở dữ liệu (bao gồm các thông tin trong và ngoài ngành thuế) cho việc phân tích, đánh giá rủi ro phục vụ công tác thu nợ và cưỡng chế thuế (xây dựng các chỉ tiêu thông tin, cơ chế thu thập thông tin, tổ chức việc thu thập và cập nhật thông tin...)
Xây dựng hệ thống tiêu thức đánh giá rủi ro phục vụ công tác thu nợ và cưỡng chế thuế theo từng mức độ áp dụng.
Áp dụng việc phân tích thông tin về tình hình SXKD và báo cáo tài chính của ĐTNT trong công tác thu nợ và cưỡng chế thuế.
Từ đó, xây dựng kế hoạch thu nợ trên cơ sở phân tích rủi ro và thực hiện thu nợ theo kế hoạch đề ra.
- Phối hợp xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy quản lý thu nợ thuế từ Trung ương đến địa phương. Xây dựng và thực hiện chức năng quản lý thu nợ và cưỡng chế thuế tại từng cấp.
- Phối hợp xây dựng tiêu chuẩn cán bộ thực hiện công tác quản lý thu nợ và phân cấp cán bộ theo mức chuyên gia. Đào tạo cán bộ theo kỹ năng của công tác thu nợ phù hợp với từng cấp quản lý và cơ chế quản lý đảm bảo cán bộ có đủ năng lực và hiệu quả công việc.
- Phối hợp xây dựng và vận hành hệ thống ứng dụng tin học hỗ trợ cho công tác quản lý thu nợ thuế.
- Kiểm soát, đánh giá chất lượng công tác thu nợ và cưỡng chế thuế
Xây dựng các chuẩn mực đánh giá chất lượng công tác thu nợ và cưỡng chế thuế; xây dựng hệ thống hỗ trợ đồng thời theo dõi, giám sát việc thực hiện công tác thu nợ và cưỡng chế thuế.
3.2.4.4. Ứng dụng công nghệ tin học nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế
Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, ứng dụng tin học trong hầu hết các chức năng quản lý của cơ quan thuế với hệ thống thông tin thuế từ cơ sở dữ liệu đối tượng nộp thuế tập trung, đầy đủ theo yêu cầu quản lý của cơ chế TK- TN. Muốn vậy các giải pháp cần tập trung là:
- Thiết kế lại tổng thể hệ thống tin học theo hướng tập trung nhằm đáp ứng các yêu cầu nghiệp vụ cải cách bao gồm: hệ thống mạng và hạ tầng truyền thông; cơ sở dữ liệu, hệ thống phần mềm ứng dụng và trang thiết bị tin học.
- Rà soát các thông tin hiện có của ngành thuế trên các cơ sở dữ liệu quản lý thuế tại tất cả các cấp. Phân tích các yêu cầu về thông tin quản lý thuế của các bộ phận chức năng quản lý thuế, chú trọng yêu cầu về thông tin cho công tác thanh tra thuế. Xác định mô hình hệ thống thông tin thuế và mô hình cơ sở dữ liệu đối tượng nộp thuế của ngành theo hướng tập trung dữ liệu từ trong và ngoài ngành thuế.
- Xây dựng, nâng cấp, tích hợp và chuyển đổi hệ thống các phần mềm ứng dụng xử lý thông tin thuế như: kê khai đăng ký thuế, kê khai thuế và kế toán tài khoản nộp thuế của từng DN.
- Xây dựng các ứng dụng hỗ trợ chức năng kiểm soát tình trạng thực hiện nghĩa vụ thuế, phân tích và quản lý các trường hợp vi phạm về thuế.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu tại từng cấp, mô hình trao đổi dữ liệu trong ngành thuế và tạo lập kho cơ sở dữ liệu tập trung toàn ngành Thuế.
- Xây dựng hệ thống phần mềm phân tích, lựa chọn đối tượng cần thanh tra, kiểm tra thuế hoặc cưỡng chế thuế. Quản lý chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
- Nâng cấp trang thông tin điện tử ngành Thuế; nghiên cứu, thiết kế hệ thống và chuẩn bị các điều kiện để triển khai thực hiện đăng ký thuế, kê khai thuế qua mạng Internet; tạo thêm các kênh giao tiếp giữa ĐTNT với cơ quan Thuế như hệ thống quản lý trao đổi thư tín điện tử, hỏi đáp trực tuyến, điện thoại tự động...
- Phối hợp với Bộ tài chính xây dựng hạ tầng truyền thông thông suốt đảm bảo hệ thống hoạt động 24/24 giờ với hệ thống dự phòng sự cố an toàn, nhanh chóng.
- Xây dựng và thực hiện kế hoạch chuyển đổi một cách hợp lý, có thứ tự ưu tiên đối với các hoạt động nghiệp vụ cốt lõi nhằm chuyển đổi dữ liệu tối đa từ hệ thống cũ sang hệ thống mới một cách hiệu quả, không gây gián đoạn quá trình quản lý trong phạm vi toàn ngành Thuế.
3.2.4.5. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và cán bộ quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
Tổ chức bộ máy quản lý thuế cần được sửa đổi chủ yếu theo mô hình chức năng và và duy trì tổ chức theo hệ thống dọc thống nhất từ Trung ương đến địa phương, nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan thuế một cách đầy đủ, tạo điều kiện để các DN thực hiện cơ chế TK-TN.
- Tăng cường năng lực quản lý, chỉ đạo, điều hành cho cơ quan thuế Trung ương; quá trình chuyển đổi sang mô hình chức năng trước hết phải được thực hiện từ cơ quan thuế Trung ương, tổ chức đầy đủ các bộ phận chức năng đảm bảo quản lý tập trung thống nhất trong toàn ngành thuế, đủ khả năng và hiệu lực tổ chức thực hiện các nhiệm vụ: tham gia xây dựng chính sách pháp luật về thuế; xây dựng chiến lược và kế hoạch hoạt động của ngành; tổ chức nghiên cứu ban hành các qui trình nghiệp vụ, biện pháp quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra triển khai việc thực thi pháp luật thuế và các qui định của ngành tại các cơ quan thuế địa phương.
Đảm bảo cân đối nguồn lực đủ mạnh cho cơ quan thuế cấp Trung ương: số lượng cán bộ chiếm tỷ trọng từ 2-3% tổng số cán bộ toàn ngành thuế (hiện tại chỉ chiếm 1%).
- Cục Thuế, Chi cục Thuế được tổ chức chủ yếu theo mô hình chức năng đảm bảo đủ năng lực quản lý các DN theo cơ chế TK-TN thuế. Tuy nhiên việc chuyển đổi mô hình tổ chức hiện nay sang mô hình chức năng cần theo lộ trình mở rộng cơ chế TK-TN, phù hợp với điều kiện quản lý của từng sắc thuế, đối tượng nộp thuế và phù hợp với trình độ quản lý của một số cơ quan thuế, đặc biệt cơ quan thuế cấp huyện.
- Xây dựng kế hoạch chuyển đổi, sắp xếp chức năng nhiệm vụ trong từng cấp và từng bộ phận của ngành Thuế đảm bảo không gây tiêu cực, hoang mang trong ngành thuế. Phải chuẩn bị quán triệt tư tưởng và thông báo cho cán bộ ngành Thuế về những thay đổi này và thực hiện đào tạo cho cán bộ theo từng chức năng chuyên sâu trước khi thực hiện chuyển đổi.
- Cùng với việc mở rộng cơ chế TK-TN và tổ chức lại bộ máy theo chức năng, cần bố trí nguồn nhân lực phù hợp với cơ chế quản lý mới. Những nguồn thu lớn cần được tập trung đầu tư nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Tăng tỷ lệ cán bộ quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp, giảm tỷ lệ cán bộ quản lý thu thuế đối với các đối tượng nộp thuế nhỏ (như hộ cá thể kinh doanh, hộ nộp thuế nhà đất... Những Đối tượng này dần dần thực hiện uỷ nhiệm thu cho Uỷ ban nhân dân phường xã). Như vậy cần tăng số lượng cán bộ tại cấp Cục Thuế từ 20% hiện nay lên khoảng 25-28% tổng số cán bộ toàn ngành.
Cơ cấu lại cán bộ bố trí cho các khâu trong qui trình quản lý doanh nghiệp: giảm tỷ lệ cán bộ bố trí tại các bộ phận phục vụ nội bộ xuống mức thấp nhất, không quá 25%; bộ phận tuyên truyền,cung cấp dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp từ 12-18%; bộ phận thanh tra, kiểm tra từ 25-35%, bộ phận cưỡng chế thu nợ từ 10-12%; bộ phận xử lý tờ khai và kế toán thuế và tin học 12-18%.
- Xây dựng cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ theo từng chức danh, vị trí công việc. Đảm bảo tạo được một đội ngũ cán bộ chuyên gia theo từng chức năng quản lý thuế. Phân cấp cán bộ theo năng lực và hiệu quả công việc.
- Rà soát, đánh giá năng lực cán bộ toàn ngành thuế, phân loại cán bộ ngành theo trình độ, độ tuổi, năng lực. Xác định số cán bộ có thể bố trí vào các chức năng, bộ phận quản lý theo cơ cấu mới. Lập kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cán bộ phù hợp với yêu cầu mới. Xác định số cán bộ không đủ điều kiện, tiêu chuẩn tiếp tục sử dụng trong bộ máy mới. Xây dựng phương án xử lý, sắp xếp hoặc cho thôi việc đối với các cán bộ này.
- Xây dựng kế hoạch tuyển dụng cán bộ mới, các tiêu chuẩn tuyển dụng, qui trình tuyển dụng đảm bảo chất lượng. Xác định các công việc trọng tâm cần tuyển dụng đảm bảo yêu cầu hiện đại hoá như cán bộ có trình độ tin học, cán bộ bố trí cho các khâu quản lý DN.
- Đào tạo nâng cao năng lực cán bộ, trước hết ở cấp Tổng cục (cơ quan đầu não, chỉ huy toàn ngành) và Cục Thuế (cơ quan quản lý các DN lớn và vừa - nơi tập trung nguồn thu lớn, đối tượng quản lý đòi hỏi cán bộ thuế phải có trình độ cao, đồng thời thực hiện nhiệm vụ chỉ đạo các Chi cục Thuế trong công tác quản lý thu). Tại cấp Cục Thuế cần phải tăng thêm cán bộ tốt nghiệp Đại học chính qui chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế toán. Đối với cán bộ mới tuyển dụng cũng như cán bộ hiện có, sau khi sắp xếp lại, ngoài kiến thức về thuế, cần trang bị đầy đủ các kiến thức chuyên sâu theo từng kỹ năng (tuyên truyền hỗ trợ ĐTNT, thanh tra, kiểm tra, cưỡng chế thu nợ, xử lý thông tin dữ liệu thuế), khả năng sử dụng ứng dụng tin học trong việc phân tích, khai thác thông tin phục vụ cho từng chức năng quản lý.
KẾT LUẬN
Thực hiện đường lối đổi mới, công cuộc cải cách hệ thống thuế ở nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng cả về xây dựng chính sách thuế và quản lý thuế. Đặc biệt quản lý thuế đối với DN được quan tâm và luôn đặt ra vấn đề cải cách hàng đầu: từ quản lý khép kín sang quản lý tách 3 bộ phận và quản lý theo cơ chế TK-TN. Nhờ đó, số thu từ thuế ngày càng tăng và trở thành nguồn thu chủ yếu của NSNN. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Thực hiện chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, hàng năm có thêm hàng chục ngàn DN ra đời; quy mô kinh doanh của DN ngày càng lớn, hoạt động kinh doanh ngày càng đa dạng, quản lý kinh doanh của DN ngày càng tiên tiến và hiện đại, đòi hỏi quản lý thuế đối với DN phải tiếp tục được cải cách phù hợp với quá trình hiện đại hoá kinh doanh của DN.
Đề tài: "Hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay" đã góp phần làm rõ được những nội dung cơ bản sau đây:
Một là, đã hệ thống hoá và phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thuế và quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, đã tìm hiểu kinh nghiệm nước ngoài trên những tiêu chí chủ yếu về quản lý thuế đối với doanh nghiệp theo hướng hiện đại. Từ đó rút ra những bài học có thể tham khảo và vận dụng vào điều kiện của nước ta.
Ba là, đã phân tích quá trình đổi mới và thực trạng quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp theo cơ chế hiện hành; đánh giá kết quả bước đầu thực hiện thí điểm cơ chế TK-TN và thử nghiệm kê khai thuế qua mạng Internet; rút ra kết quả và những vấn đề đang đặt ra hiện nay.
Bốn là, đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện quản lý thu thuế đối với DN trong giai đoạn tiếp theo. Trong đó việc thực hiện cơ chế TK-TN phải được nghiên cứu hoàn thiện, mở rộng dần với bước đi vững chắc theo một lộ trình hợp lý, kết hợp song song giữa quản lý hiện đại và quản lý truyền thống, ứng dụng những chức năng của cơ chế TK-TN cho hệ thống hiện hành. Cùng với cơ chế TK-TN, là việc triển khai về mặt pháp lý và tổ chức thí điểm kê khai thuế qua mạng Internet.
Do thời gian nghiên cứu tương đối ngắn nên nhiều nội dung chưa đi sâu phân tích kỹ hoặc những giải pháp đề xuất chỉ có tính chất gợi mở, vì vậy, luận văn không tránh khỏi những điểm cần được bổ sung, hoàn thiện. Chúng tôi rất mong được sự đóng góp của các nhà khoa học, các nhà quản lý để luận văn có ý nghĩa thiết thực trong quản lý thực tiễn hiện nay./.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH, BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
Những đổi mới cơ bản trong tổ chức quản lý thuế từ 1/1/1999, Tạp chí Tài chính, số tháng 4/1999
Mô hình tổ chức cơ quan thuế trên thế giới, Tạp chí thuế, số tháng 3/2003
Các tiêu chuẩn về hoạt động của hệ thống quản lý thuế, Tạp chí Tài chính, số tháng 4/2003
Kiện toàn tổ chức bộ máy nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế (Vũ Mai – Thanh Mai) Tạp chí Thuế - số tháng 12/2003
Các nội dung cần thiết trong quản lý thuế hiện đại, Tạp chí thuế kỳ 2 tháng 6/2005
Thuế Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử (tập II), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2001
Giáo trình Nghiệp vụ thuế, chương 11, Học viện Tài chính, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội năm 2005
Đề tài: Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2001- 2010- Đề tài Bộ Tài chính-Chủ trì: Trần Xuân Thắng, năm 2000
Đề tài: Một số vấn đề kỹ thuật, công nghệ chủ yếu trong thương mại điện tử với quản lý thuế -Chủ trì: Nguyễn Đình Vu, năm 2003- Đề tài nhánh của Đề tài cấp Nhà nước: "Nghiên cứu một số vấn đề kỹ thuật, công nghệ chủ yếu trong thương mại điện tử và triển khai thử nghiệm"
Tham gia và có báo cáo tại một số hội thảo về thuế trong nước và quốc tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Kế hoạch và đầu tư (2005), dự thảo Báo cáo phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010, Hà Nội.
Bộ Tài chính (2003), Thông tư số 120/2003/TT-BTC ngày 12/12/2003 hướng dẫn thi hành Nghị định số 158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Luật Thuế GTGT và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT, Hà Nội.
Bộ Tài chính (2004), Thông tư số 127/2004/TT-BTC ngày 27/12/2004 về mẫu tờ khai và hướng dẫn lập tờ khai thuế GTGT, Hà Nội.
Bộ Tài chính (2003), Thông tư số 119/2003/TT-BTC ngày 12/12/2003 hướng dẫn thi hành Nghị định số 149/2003/NĐ-CP ngày 4/12/2003 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Luật Thuế TTĐB và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế TTĐB, Hà Nội.
Bộ Tài chính (2003), Thông tư số 128/2003/TT-BTC ngày 22/12/2003 hướng dẫn thi hành Nghị định số 164/2003/NĐ-CP ngày 12/12/2003 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Luật Thuế TNDN và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế TNDN, Hà Nội.
Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Nghị định số 158/2003/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành Luật Thuế GTGT và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT, Hà Nội.
Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Nghị định số 149/2003/NĐ-CP ngày 4/12/2003 qui định chi tiết thi hành Luật Thuế TTĐB và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT, Hà Nội.
Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Nghị định số 148/2004/NĐ-CP ngày 23/7/2004 về sửa đổi, bổ sung khoản Điều 7 Nghị định số 158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003 qui định chi tiết thi hành Luật Thuế GTGT và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế TTĐB, Hà Nội.
Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Nghị định số 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 qui định chi tiết thi hành Luật Thuế TNDN và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế TNDN, Hà Nội.
Trịnh Hoàng Cơ (2004), "Nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế ở Việt Nam trong quá trình đổi mới", Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (2001), Luật Quản lý thuế, Hà Nội.
Đặng Tiến Dũng (2003), "Tìm hiểu khái niệm quản lý và quản lý thuế", Tạp chí Thuế nhà nước (12), tr.15-17.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Vũ Hồng Long (2005), Hoàn thiện cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
Ngô Quang Minh (2000), Khoa học quản lý, Đề cương bài giảng đào tạo cao học và nghiên cứu sinh, Hà Nội.
Đỗ Đức Minh, Nguyễn Việt Cường (2005), Giáo trình lý thuyết thuế, Nxb Tài chính, Hà Nội.
Quĩ Tiến tệ Quốc tế (2000), Sự lựa chọn về tổ chức ngành Thuế, Hà Nội.
Quốc Hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1997, 2003), Luật Thuế giá trị gia tăng, Hà Nội.
Quốc Hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998, 2003), Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Hà Nội.
Quốc Hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998, 2003), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Hà Nội.
Hà Thành (2004), "Kê khai thuế điện tử- bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính nhà nước", Tạp chí Tin học Tài chính (15), tr.18-21.
Đào Thưa (2005), "Cải cách thanh tra thuế", Tạp chí Thuế (5), tr.5-6.
Tổng cục Thuế (2004), Báo cáo kết quả khảo sát về hệ thống chính sách thuế và quản lý thuế của Hungary, Hà Nội.
Tổng cục Thuế (2003), Báo cáo về hệ thống quản lý thuế của Indonesia, Hà Nội.
Tổng cục Thuế (2004), Chuyên đề cải cách hành chính thuế, Thuế Quốc tế (lưu hành nội bộ).
Tổng cục Thuế (2001), Báo cáo khảo sát về tổ chức quản lý thuế tại Australia, Hà Nội.
Tổng cục Thuế (2004), Chiến lược cải cách Hệ thống thuế đến năm 2010, Hà Nội.
Tổng cục Thuế (2005), Kế hoạch thực hiện chiến lược cải cách Hệ thống thuế đến năm 2010, Hà Nội.
Tổng cục Thuế (1993), Quyết định số 291TC/TCT ngày 10/7/1993 ban hành Quy trình quản lý thu thuế tách ba bộ phận, Hà Nội.
Tổng cục Thuế (1998), Quyết định số 1368 TCT/QĐ/TCCB ngày 16/12/1998 ban hành Qui trình Quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp, Hà Nội.
Tổng cục Thuế (2001,2002,2003,2004), Báo cáo Tổng kết công tác thuế hàng năm, Hà Nội.
Tổng cục Thuế (2005), Báo cáo một năm thành lập trang thông tin điện tử ngành Thuế, Hà Nội.
Tổng cục Thuế (2002), Các Qui định pháp lý liên quan đến kê khai điện tử của một số nước, Hà Nội.
Tổng cục Thuế (2004), Báo cáo tình hình triển khai thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp năm 2004, Hà Nội.
Tổng cục Thuế (2005), Báo cáo tình hình triển khai thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp 6 tháng 2005, Hà Nội.
Tổng cục Thuế (2005), Báo cáo kết quả Hội nghị thường niên của Hiệp hội quản lý thuế các nước châu Á lần thứ 34, Hà Nội.
Tổng cục Thuế (2004), Chỉ thị của Tổng cục trưởng về việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý thuế của ngành Thuế, Hà Nội.
Trường đại học kinh tế Quốc dân (2002), Giáo trình quản lý thuế, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Nguyễn Đình Vu (2004) Đề tài: "Một số vấn đề kỹ thuật, công nghệ chủ yếu trong thương mại điện tử với quản lý thuế ", Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh:
Australia Taxation Office (1999-2000), Commisioner of Taxation, Annual Report, Canbera.
International Monetary Fund (2002), Viet Nam Introduction of self- assessment and Reform of the Tax Administration, Hanoi.
Richard M.Bird and Milka Casanegra de Jantscher (1992), Improving Tax Administration In Developing Countries, International Monetary Fund.
33rd SGATAR Meeting (2003), Working Papers, Topic III: Electronic Service, Seoul- Korea.
Một số DN cố ý tìm mọi thủ đoạn, dưới mọi hình thức để gian lận các khoản tiền thuế phải nộp. Đặc biệt, đã xuất hiện loại hình tội phạm mới, không những không nộp thuế mà còn tìm cách chiếm đoạt tiền từ NSNN thông qua việc kê khai khống giá mua nông, lâm, hải sản; kê khai khống hàng xuất khẩu để xin hoàn thuế. Trước hết là do người nộp thuế chưa hiểu sâu sắc về nghĩa vụ và quyền lợi từ khoản tiền thuế mà mình đóng góp; chưa hiểu rõ về nội dung chính sách và nghiệp vụ tính thuế, kê khai và nộp thuế; chưa nhận thức đúng trách nhiệm pháp luật về nghĩa vụ phải kê khai, nộp thuế của mình, cũng như các hình thức xử phạt nếu DN vi phạm luật thuế. Tính tuân thủ, tự nguyện chưa cao trong việc kê khai, tính thuế và nộp thuế.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2496.doc