LỜI NÓI ĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Đã được đảng và nhà nước ta quan tâm rất nhiều, ngay từ khí thành lập nước đến nay, bởi vì BHXH đã góp phần rất lớn trong việc đảm bảo vật chất, góp phần ổn định đời sống cho cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động...thanh gia BHXH và gia đình khi bị ốm đau, thai sản, suy giảm khả năng lao động, hết tuổi lao động hoặc chết. Góp phần ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng ph
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện quản lý thu quỹ bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện Sơn Dương - Tỉnh Tuyên Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át triển đất nước và bảo vệ tổ quốc Xã hội chủ nghĩa. Chính vì thấy rõ được tầm quan trọng của BHXH mà đảng và nhà nước đã không ngừng đổi mới chính sách từ năm 1995 các chế độ, chính sách BHXH đã được quy định tại Bộ luật lao động được Quốc hội thông qua ngày 23 tháng 6 năm1994 và bắt đầu có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/1995.
Qua 10 năm tổ chức thực hiện và đi vào hoạt động, hệ thống BHXH Việt Nam đã từng bước được củng cố, hoàn thiện và không ngừng phát triển đặc biệt là công tác thu, khai thác thu BHXH và quản lý quỹ BHXH. Đồng thời giải quyết đầy đủ chế độ chính sách BHXH cho các đối tượng tham gia BHXH theo luật định đi vào nền nếp, tạo điều kiện thuận lợi cho những người tham gia được hưởng các chế độ BHXH kịp thời, đầy đủ. Ngày nay đất nước ta đang trong thời kỳ phát triển mạnh về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì vậy đòi hỏi các chế độ chính sách BHXH phải được coi trọng hàng đầu để các chủ sử dụng lao động và người lao động thấy rõ được các quyền lợi trước mắt và lâu dài của mình, từ đó có nghĩa vụ tham gia đóng góp đầu đủ, kịp thời. Tuy nhiên trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế quản lý BHXH hiện nay còn rất nhiều chủ sử dụng lao động còn thiếu hiểu biết hoặc cố tình nhận thức chưa đầy đủ về ý nghĩa, bản chất, quyền lợi và những quy định của luật pháp về chế độ, chính sách BHXH; cho nên việc tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về các chế độ chính sách BHXH trong giai đoạn hiện nay cả về mọi mặt, về cả chiều rộng lẫn chiều sâu là hết sức quan trọng và cần thiết.
Chính vì vậy chính sách BHXH và việc làm cho người lao động là một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ đổi mới năm 2001 đến 2010; nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động góp phần làm tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân. Bên cạnh đó hệ thống bảo đảm an sinh xã hội với nòng cốt là chính sách Bảo hiểm Xã hội đã được nhiều quốc gia coi trọng nhằm đảm bảo về mặt thu nhập cho người lao động khi họ tạm thời; hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động. Chính sách BHXH ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm coi trọng ngay từ khi mới thành lập nước và nó đã góp phần rất lớn cho sự phát triển của đất nước.
Trong những năm qua BHXH huyện Sơn Dương thuộc BHXH tỉnh Tuyên Quang đã thu đạt được nhiều thành tựu, kết quả như: thu BHXH bắt buộc và thu BHYT tự nguyện ngày càng nhiều đã góp phần không nhỏ cho sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Nhưng trong quá trình quản lý thu BHXH vẫn còn tồn tại một số khó khăn vướng mắc như: chưa khai thác hết lực lượng lao động, ở các cơ quan, đơn vị. doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các hợp tác xã, tổ hộ sản xuất kinh doanh cá thể vẫn còn tồn tại tình trạng trốn tránh không nộp BHXH cho người lao động. Điều này đã làm cho hiệu quả hoạt động của quỹ BHXH đạt chưa cao, do vậy để không ngừng mở rộng đối tượng thu BHXH trên nhiều mặt khác nhau thì phải cải cách tốt thủ tục hành chính trong việc giải quyết các chế độ chính sách BHXH; đồng thời nêu cao tinh thần đoàn kết, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức viên chức BHXH huyện Sơn Dương trong thực hiện nhiệm vụ thuận tiện, đầy đủ và kịp thời. Chính vì vậy mà trong quá trình thực tập để làm đề tài tốt nghiệp em đã chọn đề tài :
" Hoàn thiện quản lý thu quỹ BHXH trên địa bàn huyện Sơn Dương - tỉnh Tuyên Quang".
Đề tài gồm có 3 chương:
Chương I : Cơ sở lý luận về BHXH và công tác quản lý thu quỹ
Bảo hiểm xã hội.
Chương II : Thực trạng công tác thu và quản lý thu quỹ BHXH ở BHXH huyện Sơn Dương, Tuyên Quang thời gian qua.
Chương III : Các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu quỹ BHXH huyện Sơn Dương.
Đề tài được thực hiện với sự giúp đỡ của: PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà.
Khoa: Khoa học Quản lý.
Chuyên ngành: Quản lý Kinh Tế
Trường: Đại học Kinh tế Quốc dân.
Cùng Ban Giám Đốc và tập thể cán bộ công chức viên chức BHXH huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình đó, đã giúp Em hoàn thành tốt chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Chương I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BHXH VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU QUỸ BHXH
I- BẢO HIỂM XÃ HỘI
1. Tính tất yếu của Bảo hiểm xã hội:
Đất nước ta ngày nay, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là định hướng chủ đạo nó tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động. Các khu công nghiệp mới tăng nhanh đã làm hoàn thiện cơ cấu kinh tế vùng, nền kinh tế Quốc dân bằng những chính sách ưu đãi, hỗ trợ của mình nhà nước đã định hướng thực hiện được các mục tiêu nhiệm vụ cụ thể làm động lực thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của cả nước và từng bước hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta.BHXH mang tính nhân văn sâu sắc, vì cuộc sống an lành, an sinh xã hội.
BHXH được Nhà nước ta quan tâm rất nhiều ngay từ ngày đầu thành lập và được cụ thể hóa bằng các sắc lệnh của Chính phủ, các chính sách này đã giúp cho đội ngũ cán bộ công nhân viên chức, người lao động và người làm việc trong lực lượng vũ trang như công an, quân đội yên tâm, nhiệt tình trong công tác góp phần không nhỏ vào việc xây dựng, đấu tranh thống nhất đất nước. Trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước ngày nay chính sách BHXH càng được củng cố, hoàn thiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa (XHCN). Quỹ BHXH được bảo tồn tăng trưởng và phát triển đồng thời được sử dụng có hiệu quả để chi trả các chế độ, trợ cấp BHXH cho người lao động tham gia đóng BHXH ở các thành phần kinh tế một cách ổn định lâu dài. Sự xuất hiện nhanh chóng của các loại hình Bảo hiểm, các quỹ tương hỗ, đã đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình tồn tại và phát triển xã hội loài người. Từ đó những nỗi lo toan, phiền muộn về các biến cố, sự cố bất lợi xảy ra trong cuộc sống hàng ngày của con người đã được giải toả. Tâm lý con người cảm thấy an toàn vui vẻ hơn với sự giúp đỡ của các công ty, các doanh nghiệp, các đơn vị ,các tổ chức BHXH, hoạt động của các loại hình Bảo hiểm này đã đem lại chỗ dựa, niềm tin vững chắc trong cuộc sống của người lao động, tạo sự ổn định của các doanh nghiệp, các công ty và các tổ chức. Như vậy có thể thấy sự xuất hiện của BHXH là một nhu cầu tất yếu khách quan của cuộc sống. việc quản lý quỹ BHXH là việc làm rất cần thiết bởi vì BHXH là chi phí giúp đỡ về mặt tài chính cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho người lao động.
Xét từ các doanh nghiệp: các Doanh nghiệp phải thực hiện đóng góp đầy đủ, thường xuyên vào quỹ BHXH theo mức quy định chung của nhà nước và pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần hiện nay mối quan hệ cơ bản giữa các chủ Doanh nghiệp và người lao động là mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó ràng buộc nhau bởi các quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên. Các doanh nghiệp vừa phải tạo điều kiện làm việc tốt cho người lao động vừa phải trả tiền lương, tiền công cho họ vừa phải có trách nhiệm bảo vệ, giúp đỡ khi họ không may gặp phải những rủi ro trong quá trình lao động, trong cuộc sống. Chính từ các chi phí phát sinh này đã làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của các doanh nghiệp, đặc biệt là những khi dịch bệnh, rủi ro mang tính thảm hoạ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp khi phải trang trải cho các chi phí đó. Đối với chủ sử dụng lao động cũng phải tham gia đóng góp đầy đủ và thường xuyên vào quỹ BHXH theo mức quy định chung của nhà nước của pháp luật. Sau đó người sử dụng lao động có quyền yêu cầu về quyền lợi hưởng các chế độ trợ cấp về BHXH căn cứ vào sự đóng góp và theo chế độ quy định.
Xét từ nhà nước và xã hội: xây dựng hệ thống pháp luật về chính sách BHXH, tổ chức thực hiện tốt các chính sách về BHXH đồng thời cũng có trách nhiệm tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm để đảm bảo quỹ BHXH tăng trưởng phát triển thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động. Việc tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm quỹ BHXH của nhà nước là thể hiện cụ thể vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết kinh tế xã hội và trách nhiệm của Nhà nước thể hiện trong việc giữ gìn ổn định chính trị xã hội. Sự vận động của các quy luật trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là quy luật cạnh tranh nhiều trường hợp một số doanh nghiệp vào rơi vào tình trạng bất ổn về tài chính, thậm trí phá sản dẫn đến một loạt người lao động bị mất công ăn việc làm, không đảm bảo được cuộc sống hàng ngày và tạo ra nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong xã hội.
Cùng với sự phát triển kinh tế, tiến bộ của xã hội việc quản lý thu BHXH được coi như là nhu cầu tất yếu của con người nó có thể thấy được xem như là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, được Đại hội đồng liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào tuyên ngôn nhân quyền ngày 10 tháng 12 năm 1948 " Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội đều có quyền hưởng BHXH. quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người" (trích từ: Một số vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Hà Nội tháng 4/2001);
2. Chức năng của BHXH.
BHXH có một số chức năng chủ yếu như sau :
+ Chức năng hạn chế bớt một phần khó khăn về kinh tế của người lao động. Với chức năng này BHXH cho phép tất cả các hoạt động kinh tế xã hội hoặc các đối tượng đã tham gia trong quá trình kinh tế xã hội trước đây hoặc tất cả các công dân...hình thành các quyền lợi đảm bảo để duy trì một chuẩn mực sống tương đối ổn định ngay cả khi trong trường hợp có sự cố bất ngờ rủi ro xảy ra.
+ Chức năng hình thành một hệ thống an sinh, an toàn xã hội. Với chức năng này rất cần thiết cho người lao động, Người sử dụng lao động mà còn đảm bảo sự ổn định chính trị, an toàn xã hội cho quốc gia, đảm bảo chắc chắn đối với mọi thành viên trong xã hội gặp cảnh nghèo đói đều được cung cấp một khoản thu nhập bằng tiền cũng như các dịch vụ chăm sóc về ytế và dịch vụ xã hội đầy ý nghĩa.
+ Hai chức năng trên này hỗ trợ cho nhau. Đảm bảo ổn định kinh tế tài chính cho người lao động, khuyến khích họ yên tâm làm việc phát huy hết khả năng, năng lực chuyên môn giúp cho nền kinh tế phát triển, ổn định xã hội, đảm bảo an toàn cho quốc gia về kinh tế chính trị và an ninh quốc phòng. Chính vì thế mà hiện nay đã có 182 nước có luật về BHXH. Có thể nói BHXH là một trong những hoạt động mà tất cả các quốc gia đều quan tâm không phân biệt thể chế chính trị, trình độ phát triển kinh tế xã hội.
Bảo hiểm xã hội đã đóng góp vai trò to lớn trong việc bảo đảm an sinh xã hội, ổn định và phát triển kinh tế, được thể hiện thông qua các tác động chủ yếu cụ thể sau:
-Bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm thu nhập hoặc bị mất thu nhập do bị suy giảm sức khỏe hoặc mất khả năng lao động bị mất việc làm. Đây là sự đảm bảo chắc chắn sẽ xảy ra vì mọi người sẽ mất khả năng lao động khi họ hết tuổi lao động, theo các điều kiện quy định của BHXH. Đây là chức năng cơ bản của BHXH nó quyết định tính chất, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của hệ thống BHXH.
-Thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia đóng góp quỹ BHXH. Tham gia BHXH có người sử dụng lao động, người lao động và nhà nước hỗ trợ đóng góp hình thành xây dựng lên quỹ BHXH . Quỹ BHXH này được sử dụng để chi trả trợ cấp BHXH cho những người tham gia BHXH không may gặp tai nạn, rủi ro. Thực tế chỉ ra rằng số tiền trợ cấp được hưởng thường nhỏ hơn rất nhiều so với số số tiền mình tham gia, do áp dụng theo quy luật số đông bù ít, quỹ BHXH đã thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều ngang lẫn chiều dọc. Sự phân phối này thể hiện phân phối thu nhập giữa những người có thu nhập cao với những người có thu nhập thấp, giữa những người đang làm việc khoẻ mạnh với những người tuổi cao sức yếu, già cả, ốm đau đang nghỉ việc. chức năng này của BHXH đã góp phần tạo nên sự công bằng trong xã hội mang tính nhân văn sâu sắc.
- Góp phần thúc đẩy, kích thích tinh thần lao động, khuyến khích người lao động hăng hái sản suất nâng cao chất lợng, năng xuất lao động tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Quỹ BHXH thực hiện chức năng này là do họ không may gặp phải các tai nạn rủi ro, phần thu nhập của họ bị giảm sút hoặc không còn nhưng sự suy giảm này đã được bù đắp một phần, hay toàn bộ từ quỹ BHXH. Vì vậy mà đời sống sinh hoạt hàng ngày của người lao động và gia đình họ không còn bị sáo trộn. Hay nói một cách khác là họ luôn luôn được bảo đảm ổn định cuộc sống và có chỗ dựa về mặt vât chất, tinh thần. Chính vì vậy họ luôn yên tâm để sản xuất nâng cao chất lượng, năng xuất lao động và đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Gắn bó lợi ích giữa người sử dụng lao động và người lao động giữa người sử dụng lao động với xã hội. Thông qua BHXH những mâu thuẫn giữa những người lao động và người sử dụng lao động. Như mâu thuẫn về tiền lương, tiền thưởng, thời gian lao động … sẽ được hoà giải và giải quyết kịp thời. Đặc biệt nhờ có BHXH mà cả hai bên này đều thấy được quyền lợi của mình được quan tâm bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó chặt chẽ lợi ích với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội thì chi hỗ trợ cho BHXH là khoản chi rất nhỏ nhưng lại đem lại hiệu quả đạt được rất cao đảm bảo ổn định đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần ổn định sản xuất và phát triển kinh tế xã hội.
3. Tính chất của bảo hiểm xã hội.
BHXH ra đời gắn liền với đời sống của người lao động do vậy BHXH có một số tính chất cơ bản sau:
- BHXH mang tính tất yếu khách quan trong đời sống kinh tế xã hội.
- BHXH mang tính ngẫu nhiên phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian. Những rủi ro không may đem lại trong BHXH đã hình thành nên tính ngẫu nhiên của nó. Bởi vì các rủi ro này được áp dụng BHXH đều không thể lường trước được sự việc xảy ra, các rủi ro này thường xảy ra một cách bất ngờ. Do vậy mà không phải tất cả những người lao động của một tổ chức hay tất cả các tổ chức đều phải chịu chung một rủi ro hay nhiều rủi ro cùng một lúc, cùng một thời điểm.
- BHXH vừa mang tính xã hội, vừa mang tính kinh tế và có cả tính chất dịch vụ. Tính chất kinh tế của BHXH được biểu hiện thông qua cơ chế hình thành và sử dụng quỹ BHXH, Quỹ BHXH khi được hình thành, bảo toàn và tăng trưởng quỹ thì nhất thiết phải có sự tham gia đóng góp tài chính của tất cả các bên liên quan. Mức tham gia đóng góp của các bên được xác định rất cụ thể dựa trên nguyên tắc hoạt động cơ bản của Bảo hiểm xã hội tr ên cơ sở lấy số đông bù cho số ít vì thực chất mức tham gia đóng góp của từng nguời lao động là không đáng kể so với mức họ được thụ hưởng quyền lợi. Xét về góc độ kinh tế thì người sử dụng lao động, được lợi rất nhiều khi quan hệ BHXH, khi tham gia BHXH người sử dụng lao động sẽ không phải chi trả các khoản chi phí cho người lao động bị suy giảm sức khỏe hoặc mất khả năng lao động. Xét về phía Nhà nước thì việc tạo lập, hoạt động của quỹ BHXH đã góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho Ngân sách nhà nước (NSNN). Đồng thời nó còn góp phần đầu tư phát triển cho nền kinh tế. Do vậy cơ chế tạo lập và sử dụng, hoạt động của quỹ BHXH đã đem lại rất nhiều quyền lợi, lợi ích cho nguời lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
BHXH là một bộ phận quan trọng chủ yếu trong hệ thống đảm bảo an toàn xã hội, vì tính chất xã hội của BHXH được thể hiện rất rõ nét về tính chất lâu dài mọi nguời lao động trong xã hội đều có quyền tham gia đóng góp vào quỹ BHXH. Ngược lại BHXH phải có trách nhiệm Bảo hiểm đảm bảo quyền lợi cho mọi người lao động và gia đình họ kể cả khi họ đang còn trong độ tuổi lao động. Tính chất xã hội của BHXH luôn gắn chặt chẽ với tính dịch vụ của nó, khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển mạnh thì tính chất dịch vụ, tính chất xã hội hoá của hệ thống BHXH ngày càng được nâng cao.
3.1, Đặc điểm của quỹ BHXH:
+ Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập chung giữ vị trí trong khâu tài chính nằm giao thoa giữa ngân sách Nhà nước với các Tổ chức tài chính doanh nghiệp, tài chính Nhà nước, tài chính dân cư.
+ Việc phân phối quỹ BHXH vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn trả. Tính chất không hoàn trả của quỹ BHXH được áp dụng đối với những người lao động đã tham gia BHXH trong suốt quá trình lao động nhưng không bị ốm đau, sinh con, tai nạn lao động.
+ Sự ra đời tồn tại và phát triển ngày càng lớn mạnh của quỹ BHXH gắn liền với chức năng vốn có của Nhà nước là vì nó đảm bảo quyền lợi cho người lao động chứ không vì mục đích lợi nhuận, kiếm lời. Đồng thời quỹ BHXH cũng phụ thuộc vào trình độ phát triển của kinh tế xã hội và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ của mỗi một quốc gia. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển lớn mạnh thì càng có nhiều các chế độ BHXH được thực hiện hơn và các chế độ cũng sẽ được áp dụng rộng rãi hơn, thoả mãn nhu cầu về BHXH của người lao động ngày càng được nâng cao.
Mặt khác khi nền kinh tế phát triển mạnh thì mức thu nhập của người lao động càng cao, họ sẽ tham gia vào nhiều chế độ BHXH.
+ Ngoài ra quỹ BHXH mang tính chất tiêu dùng được thể hiện thông qua các mục tiêu, mục đích của nó là chi trả đầy đủ các chế độ BHXH. Ngoài ra quỹ BHXH lại mang tính chất dự trữ và thông thường khi người lao động tham gia đóng góp vào quỹ BHXH thì họ không được quỹ BHXH này chi trả ngay khi gặp tai nạn rủi ro mà phải có thời gian dự bị đủ thủ tục mới thanh toán.
+ Hoạt động của quỹ BHXH đã đặt ra yêu cầu tất yếu sẽ hình thành chế độ tiết kiệm bắt buộc của xã hội và của người lao động để dành khi ốm đau, tai nạn, hưu trí, Đây cũng là quá trình phân phối lại thu nhập của cá nhân người lao động và cộng đồng xã hội.
3.2, Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn cơ bản sau:
- Sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động.
- Sự đóng góp của người lao động tham gia BHYT bắt buộc và tự nguyện.
- Sự đóng góp Nhà nước đóng để đảm bảo thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động.
- Nhà nước hỗ trợ về BHYT đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
- Tiền sinh lời từ đầu tư do thực hiện các biện pháp bảo toàn, tăng trưởng quỹ BHXH.
- Các nguồn thu hợp pháp khác
Phần lớn đối với các nước trên thế giới hiện nay thì quỹ BHXH đều được tạo lập hình thành từ các nguồn trên. Tuy nhiên do từng điều kiện hoàn cảnh lịch sử của mỗi quốc gia mà tỉ lệ tham gia đóng góp giữa các bên, mức độ tham gia đóng góp của từng bên, mức độ can thiệp của Nhà nước, hay hình thức tham gia đóng góp sẽ khác nhau.
Phương thức đóng góp vào quỹ BHXH của người sử dụng lao động và người lao động hiện nay còn có hai quan điểm đó là:
+Việc xác định mức đóng góp phải căn cứ vào mức lương của từng cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp.
+ Phải căn cứ vào thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định nên mức đóng góp.
Việc chọn lựa quan điểm nào là tuỳ thuộc ở mỗi quốc gia nhưng phải bảo đảm rằng mức tham gia đóng góp của mỗi bên phải đủ để cân đối việc thu, chi của quỹ BHXH. Trong thực tế việc xác định mức tham gia đóng góp của các bên ( thực chất là xác định mức phí BHXH) được tính toán một cách khoa học cho việc xác định mức phí. BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu và người ta thường dùng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Phí BHXH được xác định theo công thức:
P = f1 + f2 + f3
Trong đó: f1: là phí thuần BHXH
f2: là phí quản lý
f3: là phí dự trữ
Phí thuần của BHXH là một bộ phận cấu thành quan trọng nhất của phí BHXH, phí thuần được xác định để bảo đảm chi trả đầy đủ cho tất cả các chế độ BHXH. Chính vì vậy việc xác định mức phí BHXH là rất khó, phức tạp nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: Cơ cấu lao động theo các độ tuổi, kết cấu giới tính trong lực lượng lao động, đặc điểm cấu tạo sinh học của con người trong một nước, tuổi thọ bình quân của người dân, điều kiện làm việc chung của người lao động…
Ngoài sự tham gia đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước. Quỹ BHXH còn được hình thành từ các nguồn khác như: tiền sử phạt đối với các đơn vị vi phạm theo điều lệ BHXH, các khoản hỗ trợ, viện trợ của các tổ chức trong và ngoài nước, các khoản lãi từ hoạt động đầu tư tài chính từ phần quỹ BHXH nhàn rỗi…
3.3, Mục đích sử dụng quỹ BHXH .
Như ta đã biết phí BHXH bao gồm 3 bộ phận đó là: phí thuần, phí dự trữ, phí quản lý, như vậy rõ ràng ta thấy quỹ BHXH được sử dụng cho 3 mục đích đó là: chi trả cho các chế độ trợ cấp BHXH, chi cho việc quản lý hệ thống BHXH, chi trích lập quỹ dự phòng, dự trữ giải quyết trong trường hợp gặp những tổn thất lớn.
Trong cơ cấu chi từ quỹ BHXH thì chi trả cho các chế độ BHXH là rất lớn, chiếm phần lớn nguồn quỹ BHXH vì đây là mục tiêu cơ bản nhất của BHXH là: bảo đảm ổn định cuộc sống cho người lao động, cho các hoạt động của các đơn vị, tổ chức. Trong thực tế việc chi trả cho các chế độ BHXH diễn ra thường xuyên, liên tục với số lượng chi phí lớn trên phạm vi rộng lớn. Một trong những khoản chi thường xuyên hàng tháng đó là chi lương hưu cho những người lao động đã nghỉ công tác và chi trả trợ cấp BHXH hàng tháng cho thân nhân của người lao động, người đang nghỉ hưu khi họ không may qua đời .
Nguồn chi thứ hai trong quỹ BHXH đó là chi phí dự trữ, thực chất đây là quá trình tích luỹ lâu dài trong qúa trình sử dụng quỹ BHXH. định kỳ hàng tháng, quý, năm cơ quan BHXH giữi hay trích lại một phần quỹ BHXH của mình để thành lập nên quỹ dự phòng, dự trữ BHXH. Quỹ này chỉ được sử dụng trong những trường hợp khi nhu cầu chi trả quá lớn dẫn đến thâm hụt quỹ BHXH như trong lúc đồng tiền mất giá và do hội đồng quản lý quyết định.
3.4, So sánh quỹ BHXH và ngân sách Nhà nước.
Nguồn Ngân sách nhà nước là tổng thể các mối quan hệ kinh tế xã hội phát sinh, trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực, chính trị của mình để tập trung lại một phần thu nhập của quốc gia, nhằm tạo lập lên một quỹ tiền tệ chung của Nhà nước và dùng cho việc thực hiện các chức năng phát triển kinh tế xã hội theo mục tiêu kế hoạch của Nhà nước.
Qua khái niệm trên về quỹ NSNN chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm giống nhau và khác nhau giữa quỹ BHXH và nguồn NSNN, từ đó ta sẽ hiểu rõ hơn, được đầy đủ hơn về quỹ BHXH cụ thể:
+ Sự giống nhau giữa quỹ BHXH và NSNN:
- Việc tạo lập và sử dụng của mỗi nguồn quỹ đều được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ, quá trình này đều được thực thi theo các văn bản quy định của pháp luật và việc quản lý, sử dụng quỹ được tiến hành theo nguyên tắc cơ bản cân bằng giữa thu, chi.
- NSNN và Quỹ BHXH là những khâu tài chính quan trọng, độc lập trong hệ thống tài chính mỗi quốc gia, chức năng nhiệm vụ của NSNN mang tính rộng hơn so với quỹ BHXH.
- Hoạt động của cả NSNN và quỹ BHXH đều không phải là nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời, mà hoạt động của chúng đều mang đậm nét tính chất xã hội, tính cộng đồng dân tộc và trong nhiều trường hợp hoạt động của hai quỹ này còn mang tính nhân văn sâu sắc.
+ Sự khác nhau giữa quỹ BHXH và NSNN:
- Về điều kiện ra đời, tồn tại và phát triển của quỹ NSNN, gắn liền với sự ra đời tồn tại và phát triển của Nhà nước và thực hiện đầy đủ các chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước. Còn sự ra đời, tồn tại và phát triển của quỹ BHXH, gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với các quan hệ thuê mướn nhân công. Khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển thu nhập của người lao động ngày càng cao thì phạm vi các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, mức độ thoả mãn về nhu cầu của người lao động khi tham gia BHXH càng nhiều.
- Tính chất pháp lý của NSNN cao hơn so với quỹ BHXH, quá trình phân phối của NSNN chủ yếu dựa vào quyền lực chính trị, kinh tế của Nhà nước. Nhà nước ban hành các văn bản luật để thực hiện việc thu, chi quỹ NSNN. Quá trình này được sự kiểm tra, giám sát và quản lý chặt chẽ của Quốc hội. Còn đối với quỹ BHXH thì hoạt động thu, chi quỹ BHXH cũng được thực hiện dựa vào các văn bản quy định pháp luật, nhưng chủ yếu dựa vào mối quan hệ kinh tế, quan hệ về lợi ích của những người lao động tham gia theo nguyên tắc có đóng góp mới được hưởng và ngược lại người lao động không tham gia đóng góp thì sẽ không được hưởng quyền lợi.
- Trong quan hệ phân phối thì NSNN chủ yếu là phân phối lại và không mang tính chất hoàn trả. Chủ thể tham gia đóng góp và hưởng thụ từ NSNN thông thường là tách rời nhau, còn quan hệ phân phối quỹ BHXH thì mang tính chất hoàn trả. Việc hoàn trả lại cho người tham gia đóng góp là không thể biết trước được chính xác về quy mô, về thời gian và không gian.
- Trong quan hệ phân phối của NSNN thường phản ánh đến quan hệ lợi ích của xã hội, lợi ích quốc gia và việc chi phối các quan hệ lợi ích bộ phận, lợi ích cá nhân nhằm bảo đảm cho sự ổn định của nền kinh tế xã hội.
Trong quan hệ phân phối của quỹ BHXH thì ngược lại, trước hết vì lợi ích của từng cá nhân sau người lao động tham gia, sau đó là lợi ích của đơn vị và cuối cùng mới đến lợi ích xã hội.
II- QUẢN LÝ THU QUỸ BHXH
1. Khái niệm :
+ Quỹ BHXH là : Một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành từ các bên tham gia BHXH, ở nước ta hiện nay thì quỹ được hình thành từ:
- Người sử dụng lao động tham gia đóng bằng 15 % quỹ tiền lương.
- Người lao động đóng bằng 5% tiền lương hàng tháng.
Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để góp phần bảo đảm thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động ngoài ra quỹ BHXH còn hình thành từ khoản lãi do đầu tư tăng trưởng và các khoản thu khác.
Quỹ BHXH được hình thành do ba bên đóng góp đó là (nguời lao động, người sử dụng lao động và nhà nước) chính vì vậy quỹ BHXH là của ba bên nhưng hiểu rộng ra đó là Nhà nước là của dân. Người lao động, người sử dụng lao động cũng là người dân, do vậy thực chất quỹ BHXH là quỹ xã hội của Nhà nước. Quỹ BHXH không phải của bất kỳ một tổ chức nào, một ngành nào, quỹ cũng không thuộc Ngân sách nhà nước. Về nguyên tắc cơ bản quỹ của ai thì người đó có quyền quản lý, chính vì thế mà quỹ BHXH là quỹ chung, được điều hành thông qua một hội đồng quản lý, hội đồng đó có đầy đủ đại diện của ba bên.
Mô hình quỹ BHXH do hội đồng quản lý có đại diện của các bên tham gia là mô hình phổ biến được áp dụng ở tất cả các nước trên thế giới .
Ở nước ta hiện nay các thành viên trong hội đồng quản lý quỹ BHXH bao gồm: Đại diện có thẩm quyền của Bộ Tài chính, Bộ lao động Thương binh và xã hội, Tổng giám đốc BHXH Việt Nam. Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam có nhiệm vụ chỉ đạo và giám sát, chỉ đạo để thực hiện thu, chi quản lý quỹ của BHXH Việt Nam.
Người sử dụng lao động và người lao động khi tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc đóng. Nguời sử dụng lao động và người lao động tham gia bảo hiểm Y tế bắt buộc, tự nguyện đóng và đóng góp bằng tiền của các bên tham gia bảo hiểm gồm Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước nhằm mục đích chi trả đầy đủ các chế độ BHXH và bảo đảm các hoạt động của hệ thống BHXH.
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập tập chung nằm ngoài Ngân sách nhà nước.
2- Nội dung quản lý thu BHXH.
2.1, theo quy trình quản lý thu:
Bảo hiểm xã hội huyện Sơn Dương là một đơn vị trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh Tuyên Quang, do đó phải thực hiện tốt các nhiệm vụ, các chỉ tiêu kế hoạch thu BHXH hàng năm do BHXH tỉnh Tuyên Quang giao cho đến các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn mình quản lý cụ thể:
Hàng năm BHXH huyện căn cứ vào danh sách lao động, quỹ tiền lương trích nộp BHXH tháng 9 của các đơn vị sử dụng lao động do BHXH huyện trực tiếp quản lý thu BHXH. Thực hiện kiểm tra, đối chiếu tổng hợp và lập kế hoạch thu BHXH trên địa bàn cho năm sau (theo mẫu số 4 - KHT), đồng thời gửi về BHXH Tỉnh Tuyên Quang trước ngày 20/10.
Lập kế hoạch thu BHXH đến các đơn vị sử dụng lao động hàng quý;
Tổ chức thực hiện tốt các chỉ tiêu kế hoạch thu BHXH trong năm do BHXH tỉnh Tuyên Quang giao.
Hướng dẫn đơn vị lập danh sách lao động, quỹ tiền lương đóng BHXH từ đầu năm và danh sách chỉnh tăng giảm mức lương đóng BHXH hàng tháng;
Kiểm tra đối chiếu danh sách, điều chỉnh tăng giảm hàng tháng, có biên bản đối chiếu kết quả tham gia đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động;
Vào sổ sách theo dõi chi tiết kết quả thu nộp BHXH đến từng người lao động ở từng cơ quan, đơn vị sử dụng lao động phát sinh hàng tháng;
Thông báo kịp thời cho các đơn vị sử dụng lao động còn nợ đọng tiền BHXH.
Xác nhận các mức đóng, thời gian đóng BHXH khi thực hiện giải quyết chế độ BHXH cho người lao động hoặc di chuyển nơi làm việc của người lao động.
Tổng hợp số liệu báo cáo kết quả thu BHXH trong tháng, quý, năm về BHXH tỉnh Tuyên Quang theo định kỳ quy định:
+ Báo cáo nhanh 10 ngày/lần;
+ Báo cáo tháng vào ngày 02 tháng sau;
+ Báo cáo quý vào ngày 10 tháng đầu quý sau;
+ Báo cáo năm vào ngày 20 tháng đầu năm sau;
+ Kiểm tra danh sách chứng từ thu tổng hợp số liệu thu BHXH của các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn huyện quản lý lập báo cáo quyết toán thu BHXH hàng quý gửi BHXH tỉnh Tuyên Quang
+ Hàng quý, năm BHXH tỉnh Tuyên Quang tổ chức kiểm tra thẩm định số liệu thu BHXH trong kỳ của BHXH huyện Sơn Dương. Việc tổ chức kiểm tra thẩm định số liệu thu được thực hiện sau kỳ báo cáo, biên bản kiểm tra số liệu thu BHXH sau khi được thẩm định là tài liệu gốc kèm theo hồ sơ quyết toán tài chính quý, năm của BHXH các cấp.
BHXH Các huyện, thị xã
BHXH
Tỉnh Tuyên Quang
Các đơn vị
sử dụng
lao động
Chú thích:
: Lập và giao chỉ tiêu kế hoạch thu BHXH hàng năm.
: Lập kế hoạch, báo cáo số thu BHXH định kỳ.
: Hướng dẫn, theo dõi các đơn vị thực hiện tham gia đóng BHXH, chuyển tiền thu BHXH vào tài khoản của BHXH kịp thời, giải quyết đầy đủ quyền lợi cho đơn vị, người lao động.
: Kiểm tra các đơn vị sử dụng lao động tham gia đóng BHXH theo quy định của pháp luật.
2.2, Theo các khối thu BHXH:
Công tác thu BHXH tại BHXH huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang chủ yếu ở các khối như sau:
- Khối các cơ quan hành chính sự nghiệp;
- Khối Doanh nghiệp nhà nước;
- Khối Doanh nghiệp ngoài quốc doanh;
- Khối cán bộ xã, thị trấn;
- Khối sự nghiệp giáo dục;
- khối ytế;
3- Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thu BHXH:
3.1, Công tác thu BHXH ở khối cơ quan hành chính sự nghiệp:
Khối các cơ quan hành chính sự nghiệp có nhiều thuận lợi do đặc thù là 100% người lao động đều hưởng lương từ ngân sách nhà nước cấp; hơn nữa cán bộ được giao nhiệm vụ làm công t._.ác thu BHXH đều có trình độ chuyên môn tốt, có nghiệp vụ kế toán. Việc lập danh sách, đăng ký lao động và quỹ tiền lương tham gia BHXH, đến việc lập danh sách tăng, giảm lao động, hàng tháng luôn đầy đủ, chính xác, đúng văn bản quy định của nhà nước. Song bên cạnh đó đơn vị còn trích nộp tiền BHXH không kịp thời theo tháng mà thường dồn vào cuối mỗi quý.
3.2, Công tác thu BHXH ở khối Doanh nghiệp nhà nước:
Công tác thu BHXH ở khối Doanh nghiệp nhà nước tương đối phức tạp vì còn phụ thuộc vào các đơn vị làm ăn có hiệu quả hay không. Chính vì vậy mà BHXH huyện Sơn Dương cần phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp để tuyên truyền các chế độ chính sách BHXH, đối chiếu tăng, giảm kịp thời cho đối tượng tham gia, đối chiếu với quỹ tiền lương, hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động trích nộp BHXH đúng quy định;
3.3, Khối Doanh nghiệp ngoài quốc doanh :
Công tác thu ở khối Doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn gặp rất nhiều khó khăn bởi còn phụ thuộc vào các đơn vị làm ăn có hiệu quả hay không, ngoài ra các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều trốn tránh không đăng ký thực thiện đầy đủ nghĩa vụ BHXH cho người lao động theo quy định tại điều 149 của bộ luật lao động.
+ Về phía chủ doanh nghiệp: chủ sử dụng lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhận thức chưa đầy đủ về nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm trong việc thực hiện đóng BHXH cho người lao động; Còn cố tình né tránh việc thực hiện chế độ BHXH cho người lao động. Khi sử dụng người lao động các doanh nghiệp không có hợp đồng lao động cụ thể, luôn lợi dụng kẽ hở của pháp luật, như không hợp đồng với người lao động, hợp đồng miệng, hợp đồng theo công trình, hợp đồng ngắn hạn dưới 3 tháng, hợp đồng theo mùa vụ …
Do đó BHXH huyện Sơn Dương không có cơ sở để xác định hợp đồng lao đồng lao động, để khai thác các đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Bên cạnh đó đa số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều chưa có tổ chức công đoàn. Do vậy chưa có người đại diện hợp pháp để bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của người lao động .
Chính vì thế mà công tác thu BHXH ở khối Doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn rất nhiều hạn chế, số thu BHXH không đạt theo quy định.
3.4, Công tác thu BHXH Khối cán bộ xã , thị trấn :
Công tác thu BHXH còn rất nhiều hạn chế trong việc trích nộp tiền BHXH cho cán bộ xã còn chậm, có xã còn nộp thiếu tiền BHXH, lý do thường các xã nộp BHXH dồn vào cuối năm. Trình độ của các bộ của kế toán ngân sách còn nhiều hạn chế bất cập, nên công tác thu gặp rất nhiều khó khăn trong việc đối chiếu tăng, giảm số lao động. Việc báo cáo số người tăng, giảm không kịp thời lập danh sách trích nộp tiền BHXH không chính xác, do vậy phải làm đi, làm lại nhiều lần.
3.5, Công tác thu BHXH ở khối giáo dục.
Đây là khối có số lao động tham ra BHXH so với các khối khác là rất lớn, Các trường đã tích cực phối hợp với Bảo hiểm xã hội huyện lập bảng danh sách tăng, giảm trích nộp BHXH theo quy định hàng tháng đối chiếu tăng, giảm để cấp phiếu khám chữa bệnh kịp thời cho người lao động. Cuối mỗi quý đều lập biên bản đối chiếu với Bảo Hiểm Xã Hội để xác định số tiền phải nộp BHXH trong quý đầy đủ, đúng quy định.
Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế do cán bộ kế toán trường học không có nghiệp vụ kế toán, chỉ là kế toán kiêm nhiệm cho nên còn lúng túng về nghiệp vụ chuyên môn và trích nộp BHXH nhiều lúc còn chậm thường dồn vào cuối quý.
3.6, Về Công tác thu ở khối Y tế :
Các trạm y tế xã đã thực hiện tốt việc trích nộp bảo hiểm cho người lao động do tỉnh Tuyên Quang đã chuyển tiền khối ytế về nguồn ngân sách của xã, ủy ban nhân dân các xã có trách nhiệm cân đối thu, chi cho các trạm. Kế toán xã duyệt chi và cấp chuyển mọi khoản kinh phí thay cho trạm ytế.
Tuy nhiên cũng có những bất cập khó khăn là sau khi trạm đề nghị thanh toán, phải lập dự toán nộp cho ủy ban nhân dân xã và đề nghị duyệt chi do vậy, cũng làm chậm việc trích nộp BHXH.
Chương II:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THU VÀ QUẢN LÝ THU QUỸ BHXH CỦA BHXH HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG TRONG THỜI GIAN QUA
I- GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HUYỆN SƠN DƯƠNG VÀ BHXH HUYỆN SƠN DƯƠNG
1- Đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội huyện Sơn Dương ảnh hưởng đến thu BHXH:
Sơn Dương là một huyện nằm ở phía nam của tỉnh Tuyên Quang, có diện tích tự nhiên 789,26 km2; trong đó đất nông nghiệp có 195,77 km2 chiếm 24,8% đất lâm nghiệp có 396,81km2 chiếm 50,27%; còn lại 24,93% là các loại đất khác; với số dân là: 165.188 người, bao gồm 10 dân tộc anh em: Kinh, Tày, Cao lan, Dao, Sán chín, Sán dìu, Nùng, Mông, Hoa, Mường sống đoàn kết gắn bó trong 33 xã, thị trấn với 424 thôn bản.
Sơn Dương có địa bàn tiếp giáp với các huyện và các tỉnh như sau:
Phía bắc giáp huyện Yên Sơn, phía nam và phía tây giáp với ba huyện Đoan Hùng, Phong Châu (tỉnh Phú Thọ), Lập thạch (tỉnh Vĩnh Phúc), phía đông giáp hai huyện Đại Từ, Định Hóa (tỉnh Thái Nguyên).
Địa hình huyện Sơn Dương khá phức tạp, rừng núi chiếm tới ba phần tư diện tích toàn huyện và chi phối điều kiện tự nhiên bởi bốn dãy núi lớn hiểm trở gồm: hai dãy núi hồng Tam Đảo (phía Đông Bắc) theo hướng bắc nam tạo thành ranh giới giữa Sơn Dương và Thái Nguyên, dãy núi sáng (phía Nam) chạy từ đông sang tây là ranh giới giữa Sơn Dương và Vĩnh Phúc. Dãy núi bầu lịch theo hướng đông nam - tây bắc kéo dài từ xã Sơn Nam đến xã Đông Thọ chia huyện Sơn Dương thành hai khu vực có điều kiện tự nhiên tương đối khác biệt. Phía bắc mang đậm nét địa hình miền núi với nhiều núi đá, núi đất cao hiểm trở, xen kẽ là các thung lũng nhỏ. Phía nam chủ yếu là núi đất, địa hình mang dáng dấp của vùng trung du.
Huyện Sơn Dương với địa thế ba bề núi non hiểm trở, lại có đường bộ nối liền với thị xã Tuyên Quang, Thái Nguyên, Vĩnh Yên và đường thủy xuyên xuốt về trung du tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển ổn định: các xí nghiệp, nhà máy, các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các hộ kinh doanh... thu hút các nhà đầu tư và nhiều lao động trong và ngoài tỉnh.
Với địa hình phức tạp như vậy đã ảnh hưởng rất lớn đến công tác thu BHXH ở các khối như Hành chính sự nghiệp, Doanh nghiệp nhà nước , Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, khối giáo dục...bởi các các khối nằm rải rác, đường xá không thuận lợi làm cho công tác thu BHXH gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt còn làm ảnh hưởng đến thời gian công tác thu ở các khối.
2- Giới thiệu về BHXH huyện Sơn Dương
Thực hiện Nghị định số 12/CP ngày 16/01/1995 của Chính phủ về việc ban hành điều lệ Bảo hiểm xã hội.
Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 của Thủ tướng chính phủ thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Quyết định số 606/TTg ngày 26/9/1995 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế tổ chức và hoạt động BHXH Việt Nam.
Thông tư số 58 TC/HCSN ngày 24/7/1995 của Bộ Tài chính hướng dẫn phương thức thu nộp bảo hiểm xã hội.
Nhằm thống nhất quản lý, tổ chức thu BHXH trong toàn hệ thống BHXH Việt Nam, từ đó BHXH được thành lập từ Trung Ương đến địa phương.
Bảo hiểm xã hội huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang được thành lập dựa trên cơ sở được hợp nhất công tác BHXH cuả Sở lao động Thương binh xã hội và Liên đoàn lao động tỉnh Tuyên Quang, cũng từ đó BHXH các huyện, thị xã trực thuộc được thành lập.
Bảo hiểm xã hội huyện Sơn Dương là một trong những đơn vị BHXH trực thuộc BHXH tỉnh Tuyên Quang, nằm trong hệ thống Bảo hiểm Việt Nam và chịu sự quản lý theo ngành dọc của BHXH tỉnh Tuyên Quang theo quy định của pháp luật.
BHXH huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang nằm trong Bảo hiểm xã hội Việt Nam như sau:
Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Bảo hiểm xã hội Tỉnh Tuyên Quang
Trực thuộc BHXH Việt Nam
(có 8 phòng chức năng và 6 huyện, thị)
Bảo hiểm xã hội
huyện, thị
Thị xã Tuyên Quang
Huyện Na
Hang
Huyện Chiêm
Hóa
Huyện Hàm
Yên
Huyện Yên
Sơn
Huyện Sơn Dương
Như vậy, BHXH huyện Sơn Dương cũng thư BHXH các huyện khác đều là những đơn vị trực thuộc nhỏ nhất của BHXH Việt Nam, hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp từ BHXH Việt Nam.
Bảo hiểm xã hội huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang chính thức được thành lập theo quyết định số 94 ngày 4/8/1995 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và đi vào hoạt động kể từ tháng 8/1995, BHXH huyện được đặt trụ sở làm việc tại trung tâm thị trấn Sơn Dương, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Do vậy hoạt động của BHXH huyện Sơn Dương có nhiều thuận tiện cơ bản.
* Chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
a, Chức năng nhiệm vụ:
BHXH huyện Sơn Dương, là một đơn vị trực thuộc BHXH tỉnh Tuyên Quang, do vậy phải thực hiện tốt các nhiệm vụ, các chỉ tiêu kế hoạch do BHXH tỉnh giao cho cụ thể như sau:
+ Hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc các cơ quan đơn vị đóng trên địa bàn huyện Sơn Dương, lập danh sách lao động quỹ tiền lương thuộc diện áp dụng loại hình bắt buộc để thực hiện việc tham gia đóng BHXH theo luật định.
+ Theo dõi, đôn đốc các cơ quan đơn vị tham gia BHXH trích nộp đủ tiền BHXH và BHYT theo quy định so với tổng quỹ tiền lương.
+ Tổ chức thực hiện công tác chi trả trợ cấp BHXH như: lương hưu, mất sức lao động, tai lạn lao động, tử tuất, trợ cấp ốm đau, thai sản, dưỡng sức phụ hồi sức khỏe...Trên địa bàn huyện quản lý.
+ Tổ chức theo dõi biến động tăng, giảm về số lao động để xác nhận thu BHXH giải quyết chế độ hưu trí, cấp thẻ phiếu khám chữa bệnh Bảo hiểm y tế cho đơn vị.
+ Tiếp nhận quản lý các cơ quan, đơn vị, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã, các tổ hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp tham gia đóng BHXH trên địa bàn Huyện.
+ Thực hiện tiếp nhận hồ sơ tuất, hướng dẫn thủ tục giải quyết các chế độ tử tuất đối với người tham gia BHXH, cán bộ hưu trí và trợ cấp khác theo quy định.
+ Thực hiện thông báo, hướng dẫn điều chỉnh lương hưu và trợ cấp BHXH theo quy định của ngành của Nhà nước và theo hướng dẫn của BHXH tỉnh Tuyên Quang.
+ Tiếp nhận và báo cáo kịp thời với BHXH tỉnh Tuyên Quang các trường hợp hưởng lại trợ cấp BHXH và có điều chỉnh lương hưu.
+ Lập dự toán và quyết toán tài chính hàng năm theo quy định tài chính hiện hành của nhà nước.
+ Quản lý lưu trữ hồ sơ, sổ sách và danh sách tham gia đóng BHXH, hồ sơ hưởng chế độ BHXH của đối tượng theo quy định.
+ Thanh tra, kiểm tra xác minh các đơn thư khiếu nại, khiếu tố của công dân để có kết luận trả lời kịp thời.
+ Quản lý tốt cán bộ trong đơn vị, tài sản, quỹ tiền lương và kinh phí hoạt động thường xuyên của cơ quan BHXH.
b, Cơ cấu tổ chức của BHXH huyện Sơn Dương.
Tháng 8/1995 BHXH huyện Sơn Dương đi vào hoạt động độc lập với chỉ tiêu biên chế là 5 người, do mới thành lập nên các cán bộ viên chức phải làm việc với một khối lượng công việc rất lớn. Hơn nữa cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn, đội ngũ cán bộ mới chuyển sang chưa có kinh nghiệm nên gặp không ít những khó khăn. Nhưng với sự quyết tâm cố gắng, với nhận thức đúng đắn của cán bộ về công tác BHXH là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, liên quan đến các chế độ chính sách của người lao động trong xã hội. Do vậy BHXH huyện Sơn Dương đã luôn được sự quan tâm, gúp đỡ của của các cấp ủy đảng và BHXH tỉnh Tuyên Quang. BHXH huyện Sơn Dương đã luôn phấn đấu và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được cấp trên giao, tạo sự tin tưởng cho người lao động tham gia BHXH.
Trong suốt 10 năm qua mọi cán bộ trong cơ quan luôn đoàn kết, nỗ lực cố gắng vượt qua những thách thức, khó khăn, vướng mắc để dần dần từng bước phát triển đi lên không ngừng lớn mạnh về mọi mặt. Đến nay, đội ngũ cán bộ công nhân viên chức dần dần được tăng cường, hiện tại số cán bộ công nhân viên của BHXH huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang là 12 người Trong đó Nam là 6 người, nữ có 6 người. Tất cả số cán bộ viên chức này đều có trình độ Đại học, cao đẳng chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có đầy đủ phẩn chất đạo đức và năng lực tận tụy với công việc, nhiệm vụ được giao.
Hiện nay với 12 cán bộ công chức viên chức BHXH huyện Sơn Dương không chia thành các phòng ban cụ thể như BHXH tỉnh Tuyên Quang, mà chỉ phân cấp chia thành các bộ phận chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Đó là các bộ phận như: quản lý thu bắt buộc, quản lý thu tự nguyện, quản lý chế độ chính sách, Kế hoạch Tài chính, giám định chi BHYT. Tất cả các bộ phận này được đặt dưới sự quản lý, lãnh đạo trực tiếp của giám đốc, sự phân chia về nhiệm vụ, công việc được thể hiện theo sơ đồ sau:
GIÁM ĐỐC
Phó giám đốc
Phó giám đốc
Bộ phận
thu
bắt
buộc
Bộ phận
kho
quỹ,
văn
thư
Bộ phận
Kế hoạch Tài chính
Bộ
phận
giám định
chi
Bộ
phận
chính sách
Bộ phận
thu
tự nguyện
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của BHXH huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
II- THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THU VÀ QUẢN LÝ THU QUỸ BHXH HUYỆN SƠN DƯƠNG
1. Cơ chế tạo lập và quản lý quỹ BHXH:
Ngày 23 tháng 11 năm 1999 Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã Ban hành quyết định số :2902/1999/QĐ-BHXH của tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam "Về quản lý thu bảo hiểm xã hội thuộc hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam".
Các cơ quan đơn vị, Doanh nghiệp (gọi chung là người sử dụng lao động). Cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động (gọi chung là người lao động), phải tham gia đóng BHXH để thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động theo quy định của điều lệ Bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ. Điều lệ bảo hiểm xã hội đối với sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân ban hành kèm theo nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ. Nghị định số 09/1998/NĐ - CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã phường, thị trấn và Nghị định số 152/1999/NĐ - CP ngày 20/9/1999 của Chính phủ quy định việc người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Định kỳ hàng tháng các đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm tham gia đóng đầy đủ phần đóng BHXH của người sử dụng lao động và của người lao động kịp thời vào quỹ BHXH, ngay sau khi thanh toán tiền lương cho người lao động.
Bảo hiểm xã hội Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là BHXH Tỉnh), Bảo hiểm xã hội các Quận huyện thị xã, thành phố trực thuộc Tỉnh (sau đây gọi chung là BHXH huyện) có trách nhiệm hướng dẫn tổ chức thu BHXH đúng kỳ, đủ số lượng, theo đúng quy định, cấp đối chiếu và xác nhận trên sổ BHXH cho người lao động tham gia BHXH.
Có thu, mới có chi là nguyên tắc hoạt động của các cơ quan BHXH, nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Chính vì vậy mà công tác thu BHXH và quản lý nguồn thu BHXH có vai trò quan trọng trong hoạt động của ngành BHXH. Do vậy, BHXH Việt Nam đã triển khai thực hiện thu BHXH theo mô hình 3 cấp từ cấp Trung ương đến Thành phố, Tỉnh và đến các Quận huyện.
Hàng năm BHXH Việt Nam dựa vào kết quả công tác thu BHXH, số lượng lao động trên địa bàn Tỉnh để đề ra kế hoạch nhiệm vụ chung của ngành trong các năm tiếp theo. Đồng thời BHXH Việt Nam cũng căn cứ dựa vào đó để đề ra phương hướng, chỉ tiêu thu BHXH cho các cơ quan BHXH Tỉnh, thành phố.
Trên cơ sở các chỉ tiêu kế hoạch này, các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố. sẽ xem xét đối chiếu lại quỹ tiền lương, số lượng lao động của các đơn vị tổ chức tham gia đóng góp trên địa bàn Tỉnh, thành phố và các quận huyện để triển khai kế hoạch cụ thể đến từng cơ quan BHXH các quận huyện; Để có được các chỉ tiêu kế hoạch ở trên thì hàng quý các cơ quan BHXH các Quận huyện phải tổng hợp đầy đủ kế hoạch thu BHXH của các đơn vị do mình chịu trách nhiệm. Tổ chức thu, ghi sổ BHXH gửi cho cơ quan BHXH Tỉnh vào ngày 22 của tháng cuối quý trước theo biểu 2- BCT. Các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố cũng tổng hợp đầy đủ kế hoạch thu của tất cả các đơn vị trên địa bàn theo mẫu 3- BCT và gửi kịp thời về BHXH Việt Nam vào ngày 30 của tháng cuối quý trước.
Sau khi kế hoạch, nhiệm vụ đã được tổ chức triển khai thực hiện thì các cơ quan BHXH các Tỉnh, Thành phố, Quận huyện tiến hành hướng dẫn các đơn vị trên địa bàn mình quản lý lập danh sách và quỹ tiền lương hàng tháng, quý để xác định số tiền BHXH mà các đơn vị phải đóng góp; Số tiền này được nộp tập trung vào một tài khoản thu của BHXH Tỉnh, thành phố, sau đó chúng lại được tập trung chuyển vào tài khoản thu của BHXH Việt nam.
Việc Phân cấp quản lý thu BHXH đối với các đơn vị sử dụng lao động
do Giám đốc BHXH tỉnh có trách nhiệm tổ chức thực hiện thu BHXH và chỉ giao cho BHXH Huyện, Thị xã thu BHXH của tất cả các đơn vị sử dụng lao động có tài khoản và trụ sở đóng trên địa bàn tỉnh, huyện theo phân cấp quản lý như sau:
1.1, Đối với Bảo Hiểm Xã Hội Tỉnh Tuyên Quang:
Bảo hiểm xã hội tỉnh Tuyên Quang tổ chức thu BHXH của các đơn vị sử dụng lao động đóng trên địa bàn tỉnh bao gồm:
+ Các đơn vị do Trung ương quản lý;
+ Các đơn vị do Tỉnh trực tiếp quản lý;
+ Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
+ Các đơn vị, tổ chức quốc tế;
+ Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng lao động với số lượng lớn;
+ Các cơ quan tổ chức, doanh nghiệp đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài;
Ngoài ra đối với những đơn vị sử dụng lao động mà BHXH huyện, thị không đủ điều kiện thu BHXH thì BHXH tỉnh trực tiếp quản lý thu.
* Đối với cán bộ thu của BHXH tỉnh:
Hàng năm BHXH tỉnh căn cứ vào danh sách lao động, quỹ tiền lương trích nộp BHXH tháng 9 của các đơn vị sử dụng lao động do BHXH tỉnh trực tiếp quản lý thu. Thực hiện kiểm tra, đối chiếu tổng hợp và lập kế hoặch thu BHXH trên địa bàn cho năm sau (theo mẫu số 4 - KHT). Đồng thời tổng hợp kế hoặch thu BHXH của BHXH các huyện, thị xã gửi lên, để lập kế hoặch cho năm sau (theo mẫu số 5- KHT) gửi BHXH Việt Nam trước ngày 31/10.
+ Lập kế hoạch thu BHXH hàng quý, năm;
+ Hướng dẫn đơn vị lập danh sách lao động, quỹ tiền lương đóng BHXH và danh sách chỉnh mức lương đóng BHXH hàng tháng;
+ Kiểm tra danh sách, điều chỉnh tăng giảm hàng tháng, biên bản đối chiếu kết quả tham gia đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động do BHXH các huyện, thị xã gửi lên;
+ Vào sổ sách theo dõi chi tiết kết quả thu nộp BHXH đến từng người lao động ở từng cơ quan đơn vị phát sinh hàng tháng;
+ Thông báo kịp thời cho các đơn vị nợ đọng tiền BHXH.
+ Xác nhận các mức đóng, thời gian đóng BHXH khi thực hiện giải quyết chế độ BHXH; hoặc di chuyển nơi làm việc của người lao động.
+ Báo cáo kết quả thu BHXH về BHXH Việt Nam theo định kỳ quy định:
- Báo cáo nhanh 10 ngày/lần;
- Báo cáo tháng vào ngày 05 tháng sau;
- Báo cáo quý vào ngày 15 tháng đầu quý sau;
- Báo cáo năm vào ngày 20 tháng đầu năm sau;
Bảo hiểm xã hội tỉnh Tuyên Quang lập báo cáo thu BHXH theo mẫu số 7- BCT đối với các đơn vị sử dụng lao động do BHXH tỉnh quản lý và báo cáo tổng hợp thực hiện thu toàn tỉnh theo mẫu số 8 - BCT, gửi BHXH Việt Nam trước ngày 25 tháng đầu quý sau, nếu là báo các quý và trước ngày 31 tháng 1 năm sau nếu là báo cáo năm.
+ Kiểm tra công tác thu, thẩm định số liệu thu BHXH.
+ Hàng quý, năm BHXH tỉnh Tuyên Quang tổ chức kiểm tra thẩm định số liệu thu BHXH trong kỳ của BHXH các huyện, thị xã. Việc tổ chức kiểm tra thẩm định số liệu thu được thực hiện sau kỳ báo cáo, biên bản kiểm tra số liệu thu BHXH sau khi được thẩm định là tài liệu gốc kèm theo hồ sơ quyết toán tài chính quý, năm của BHXH các cấp.
1.2, Đối với Bảo Hiểm Xã Hội huyện Sơn Dương:
- Hàng năm BHXH huyện căn cứ vào danh sách lao động , quỹ tiền lương trích nộp BHXH tháng 9 của các đơn vị sử dụng lao động do BHXH huyện quản lý thực hiện kiểm tra, đối chiếu tổng hợp và lập kế họach thu BHXH trên địa bàn huyện cho năm sau (theo mẫu số 4 - KHT) gửi cho BHXH tỉnh tước ngày 20/10;
Lập báo cáo thu, BHXH huyện báo cáo nhanh tình hình thực hiện thu BHXH trên địa bàn huyện hàng tháng theo mẫu 6 - BCT.
Thời gian gửi báo cáo, BHXH huyện gửi báo cáo cho BHXH Tỉnh trước ngày 10, ngày 20 và ngày 2 tháng sau.
Báo cáo quý, năm BHXH huyện lập báo cáo theo mẫu số 7- BCT gửi cho BHXH Tỉnh trước ngày 10 tháng đầu quý sau nếu là báo cáo quý và trước ngày 20/1 năm sau nếu là báo cáo năm.
* Đối với cán bộ chuyên thu BHXH huyện Sơn Dương:
+ Tổ chức khai thác thu các đối tượng thuộc diện thu bắt buộc phải tham gia BHXH trên địa bàn mình quản lý.
Đây là công việc có vị trí quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của BHXH nói chung và BHXH các tỉnh, huyện nói riêng.
Bởi vì có phát hiện, khai thác thêm các đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH thì số lượng người lao động sẽ tăng lên khi đó nguyên tắc "lấy số đông bù số ít" trong hoạt động của BHXH càng thực hiện tốt hơn, có hiệu quả cao hơn, có tính chất xã hội, nhân văn của BHXH càng được thể hiện rõ. Ngoài ra công việc này còn làm tăng trưởng nguồn thu về quỹ BHXH làm cho quỹ BHXH thoát rần ra khỏi sự nâng đỡ, hỗ trợ, trợ giúp của Ngân sách Nhà nước.
+ Tiếp xúc với các cơ quan đơn vị sử dụng lao động, hướng dẫn tuyên truyền vận động tham gia BHXH.
Nhằm tạo điều kiện cho cán bộ chuyên quản lý thu BHXH tiếp xúc và làm việc với các đơn vị sử dụng lao động được dễ dàng, thuận lợi. Giám đốc BHXH huyện Sơn Dương nên có các cuộc tiếp xúc trước với lãnh đạo đơn vị sử dụng lao động. Đặt mối quan hệ ngay từ ban đầu giữa người tham gia BHXH với đơn vị BHXH.
Sau đó cán bộ chuyên quản lý thu BHXH được phân công phụ trách đơn vị sử dụng lao động nào sẽ trực tiếp gặp gỡ cán bộ phụ trách công tác BHXH đơn vị đó, để thực hiện theo công văn số 480/LĐ - TBXH ngày 24 tháng 3 năm 1999 của Bộ lao động - Thương binh và Xã hội về việc bố trí cán bộ làm công việc như sau:
- Tuyên truyền, giải thích các chế độ chính sách về BHXH, quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động.
- Hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động lập danh sách lao động và quỹ tiền lương tham gia đóng BHXH.
- Hướng dẫn đơn vị làm đối chiếu danh sách tăng giảm mức đóng BHXH hàng tháng đến từng người lao động, lập bảng đối chiếu thu nộp BHXH;
- Thông báo cho các đơn vị sử dụng lao động về số tài khoản thu BHXH tại ngân hàng, kho bạc huyện, mức thu phí BHXH;
- Thống nhất với các đơn vị sử dụng lao động về lịch làm việc hàng tháng giữa cán bộ chuyên quản với các đơn vị sử dụng lao động;
- Kiểm tra sổ lương, bảng thanh toán lương để đối chiếu với danh sách đơn vị sử dụng lao động đã đăng ký tham gia BHXH nhằm yêu cầu đơn vị đăng ký đóng BHXH cho những người lao động trong diện đóng BHXH bắt buộc (nếu đơn vị sử dụng lao động chưa đăng ký đóng);
+ Đôn đốc, kiểm tra, theo dõi, ghi chép kết quả đóng BHXH:
- Hàng tháng căn cứ vào danh sách lao động và quỹ tiền lương đơn vị đã đăng ký và danh sách tăng giảm mức độ tham gia đóng BHXH để xác định số tiền BHXH phải đóng. Đôn đốc đơn vị đóng BHXH theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời thông báo kịp thời những đơn vị sử dụng lao động nợ tiền đóng BHXH từ 02 tháng trở lên;
- Ghi chép các kết quả đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị vào đầy đủ các cột mục trong sổ, hàng tháng đối chiếu với cán bộ tổng hợp thu của Tỉnh về kết quả đóng BHXH của từng đơn vị được cơ quan phân công theo dõi, quản lý.
- Hàng tháng đối chiếu kết quả tham gia đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị được cơ quan phân phân công theo dõi.
- Số lao động và qũy tiền lương tham gia đóng BHXH của các tháng trong kỳ đối chiếu (có đối chiếu với bảng thanh toán tiền lương hoặc sổ lương của đơn vị) để xác định số tiền đơn vị sử dụng lao động phải đóng theo luật định.
- Hàng quý tổng hợp kết quả thu BHXH theo khối mình quản lý.
Ngoài ra cán bộ thu BHXH cũng phải kiểm tra xác nhận số thu BHXH để thanh toán 3 chế độ ốm đau, thai sản,dưỡng sức và hướng dẫn cho các đơn vị viết các tờ khai đề nghị cấp sổ BHXH, ghi chép vào sổ BHXH.
Như vậy, cơ chế thực hiện thu và quản lý quỹ BHXH được thể hiện qua sơ đồ :
BHXH
Việt Nam
BHXH Các huyện, thị xã
BHXH
Tỉnh Tuyên Quang
Các đơn vị
sử dụng
lao động
Chú thích:
: Lập và giao chỉ tiêu kế hoạch.
: Giao nộp báo cáo kế hoạch.
: Cơ quan BHXH hướng dẫn đơn vị nộp BHXH.
: Nộp BHXH vào tài khoản của các cơ quan BHXH.
1.3, Quản lý quỹ BHXH :
Căn cứ vào điều 40 Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ đã quy định rõ: Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ, quỹ được thực hiện các biện pháp bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo quy định của chính phủ.
Căn cứ vào điều 1 Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ quy định rõ: Thành lập BHXH Việt nam để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chế độ, chính sách theo pháp luật của Nhà nước. Đây là thể hiện nguyên tắc tập trung trong quản lý quỹ (trích từ: Các văn bản quy định chế độ Bảo hiểm xã hội - Bộ lao động và thương binh và xã hội - tháng 10 năm 1995).
Căn cứ vào các quy định trên BHXH huyện Sơn Dương đã thực hiện tốt và quản lý tốt nguồn thu quỹ BHXH của các đơn vị sử dụng lao động tham gia đóng góp, (trong đó chủ yếu là sự đóng góp của người lao động bằng 5% tiền lương và người sử dụng lao động bằng 15% tổng quỹ tiền lương của đơn vị) đều được tập trung thống nhất vào một tài khoản thu BHXH mở tại ngân hàng, kho bạc nhà nước. Hàng tháng định kỳ vào ngày 10, 20, 30 BHXH huyện Sơn Dương chuyển hết toàn bộ số tiền thu BHXH kịp thời về BHXH tỉnh Tuyên Quang. Đồng thời đối chiếu kiểm tra chốt số liệu chính xác số dư trên tài khoản thu BHXH tại ngân hàng, kho bạc kịp thời đúng quy định.
BHXH huyện Sơn Dương đã thực hiện tốt việc quản lý chặt chẽ công tác thu BHXH nhằm phát triển tăng trưởng quỹ BHXH, đặc biệt 9 tháng đầu năm 2006 cơ quan BHXH huyện đã phối kết hợp với thường trực huyện uỷ, UBND huyện Sơn Dương lãnh đạo,chỉ đạo các cơ quan chức năng khác đơn vị sử dụng lao động thực hiện thu BHXH theo Nghị định số 01NĐ/CP của chính phủ về thu BHXH ở các đơn vị ngoài quốc doanh, hợp tác xã, tổ hộ sản xuất kinh doanh cá thể trên địa bàn huyện. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc phát triển và tăng trưởng thu quỹ BHXH.
1.4, Các kết quả đạt đựợc:
Các thành tựu đã đạt được của BHXH huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang:
Trong mười năm qua, ngành BHXH nói chung và BHXH huyện Sơn Dương nói riêng đạt được kết quả cao như bây giờ là do đã có những bước tiến đột phá ,đã biết tận dụng được sự quan tâm giúp đỡ của Thường trực Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, UBND huyện Sơn Dương và sự phối hợp của các cơ quan ban ngành và tập thể cán bộ, công nhân viên chức BHXH đã không ngừng nỗ nực phấn đấu, tu dưỡng rèn luyện bản thân sáng tạo trong công tác để không ngừng phát triển mạnh mẽ toàn nghành BHXH về thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Quỹ tài chính của BHXH đã được ổn định và phát triển trên cơ sở hình thành được quỹ BHXH độc lập với NSNN.
Với nguồn đóng góp chủ yếu từ người sử dụng lao động và người lao động, quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH được tiến hành trên nguyên tắc có đóng mới có hưởng. Vì vậy mà các quan hệ tài chính trong BHXH đã rõ ràng, việc quản lý sử dụng quỹ BHXH được hình thành tốt, phục vụ tốt hơn đến quyền lợi của người lao động. Do đó trong thời gian qua BHXH huyện Sơn Dương đã gặt hái được rất nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực như:
a, Về Công tác đối chiếu thu quỹ BHXH :
BHXH huyện Sơn Dương đã thực hiện tốt công tác đối chiếu thu quỹ BHXH với các số liệu tính toán chính xác, cập nhật đầy đủ, kịp thời, đảm bảo được tính thống nhất, ổn định hơn, trong việc thực hiện nghĩa vụ thu nộp, đóng BHXH của người sử dụng lao động và người lao động theo điều 141, 149 của bộ luật lao động.
+ Ngoài ra đã tuyên truyền vận động, giải thích các chế độ chính sách về BHXH, quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động.
+ Đã hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động lập danh sách lao động và quỹ tiền lương tham gia đóng BHXH đầy đủ.
+ Đã hướng dẫn đơn vị làm đối chiếu danh sách tăng giảm mức đóng BHXH hàng tháng đến từng người lao động, lập bảng đối chiếu thu nộp BHXH kịp thời;
+ Đã kiểm tra sổ lương, bảng thanh toán lương để đối chiếu với danh sách đơn vị sử dụng lao động đã đăng ký tham gia BHXH nhằm yêu cầu đơn vị đăng ký đóng BHXH cho những người lao động trong diện đóng BHXH bắt buộc.
+ Đã đôn đốc, kiểm tra, theo dõi, ghi chép kết quả đóng BHXH trên sổ BHXH kịp thời. Ghi chép các kết quả đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị vào đầy đủ các cột mục trong sổ, hàng tháng đối chiếu với cán bộ tổng hợp thu của Tỉnh về kết quả đóng BHXH của từng đơn vị được cơ quan phân công theo dõi, quản lý.
+ Đã bám sát được số lao động và qũy tiền lương tham gia đóng BHXH của các tháng trong kỳ đối chiếu để xác định số tiền đơn vị sử dụng lao động phải đóng theo luật định.
+ Đã tổ chức khai thác tốt đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của Nhà nước.
b, Kết quả của công tác thu quỹ BHXH Sơn Dương:
Ngay từ khi mới thành lập, tập thể cán bộ công nhân viên cơ quan BHXH huyện Sơn Dương đã tập trung vào chuyên môn chú trọng cho công tác thu BHXH. Chính vì vậy mà các chỉ tiêu thu theo kế hoạch của BHXH tỉnh Tuyên Quang giao hàng năm luôn luôn hoàn thành xuất sắc, kết quả thu BHXH năm sau luôn cao hơn năm trước với tốc độ ngày càng phát triển cao.
Sau đây là một số kết quả cụ thể :
* Về tổng thu BHXH
Bảng 1 : Số thu BHXH tại BHXH huyện Sơn Dương qua các năm
Đơn vị tính: (Triệu đồng)
Năm
Số thu theo
kế hoạch
Số thu
thực hiện
tỷ lệ
đạt(%)
1995
6.200
6.250
100,86
1996
6.452
6.465
100,20
1997
7.110
7.165
100,77
1998
9.290
9.397
101,15
1999
11.013
11.120
100,97
2000
11.572
11.585
100,11
2001
12.753
12.785
100,25
2002
12.980
12.992
100,09
2003
13.235
13.338
100,78
2004
13.986
14.005
100,14
2005
14.673
14.876
101,38
Cộng
119.264
119.978
“ Nguồn Số liệu: tại BHXH huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang”.
Như vậy, sau 10 năm hoạt động BHXH huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang đã tạo lập được nguồn quỹ BHXH rất lớn với số tiền là 119.264 triệu đồng, tức là bình quân mỗi năm thu được 11.926,4 triệu đồng. Đây là số thu rất có ý nghĩa của ngành BHXH nói chung và của BHXH huyện Sơn Dương nói riêng. Nó phản ánh lên được sự cố gắng, nỗ lực, tinh thần đoàn kết, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công chức và ban giám đốc cơ quan BHXH huyện Sơn Dương ,tỉnh Tuyên Quang. Đã làm cho số thu BHXH không ngừng tăng lên qua các năm.
Để đạt được kết quả thu BHXH như trên, ngoài sự nỗ lực, cố gắng của cơ quan BHXH huyện Sơn Dương, còn có thêm một số yếu tố cơ bản sau:
+Mức tiền lương là căn cứ đóng BHXH: đối với khối hành chính sự nghiệp và khối doanh nghiệp nhà nước thì người lao động càng làm việc lâu năm thì mức lương càng tăng dẫn đến hệ số lương để tính nộp BHXH cũng tăng lên. Mặt khác, do nền kinh tế xã h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5374.doc