MỞ ĐÂU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng một cách có hiệu quả các công cụ, chính sách tài chính, tiền tệ, đặc biệt là chính sách thu, chi NSNN. Điều này góp phần khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường thông qua việc sử dụng bàn tay hữu hình, chủ yếu là chính sách tài chính nhằm điều tiết nền kinh tế có hiệu quả. Mặt khác thông qua sử dụng các công cụ này mới có thể quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia,
117 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1805 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện quản lý thu, chi ngân sách nhà nước của thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động viên toàn bộ nguồn lực để phát triển KT-XH, đáp ứng yêu cầu của cuộc đổi mới đất nước.
Trong bối cảnh chung của đất nước, thành phố Nha Trang tỉnh Khánh Hòa những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn về KT-XH, bộ mặt đô thị ngày càng đổi mới. Qua gần 10 năm thực hiện Luật NSNN, cân đối ngân sách thành phố đang ngày càng vững chắc, nguồn thu ngân sách ngày càng tăng, không những đảm bảo được những yêu cầu chi thiết yếu của bộ máy QLNN, SNKT, văn hóa-xã hội, ANQP mà còn dành phần đáng kể cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay công tác quản lý thu, chi ngân sách của thành phố vẫn còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế. Thu ngân sách vẫn chưa bao quát các nguồn thu trên địa bàn, vẫn còn tình trạng thất thu, nguồn thu ngân sách còn hạn chế … Hiệu quả các khoản chi ngân sách còn thấp, chi đầu tư còn dàn trải, thiếu tập trung dẫn đến hiệu quả đầu tư còn thấp, gây lãng phí; chi thường xuyên còn vượt dự toán.
Tăng cường quản lý thu, chi ngân sách nhằm động viên đầy đủ và hợp lý các nguồn thu vào NSNN, tạo nguồn lực tài chính mạnh mẽ, quản lý chi ngân sách có hiệu quả, chính là yếu tố có tính quyết định để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển KT-XH của thành phố trong giai đoạn 2006 – 2010 mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIV đề ra.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện quản lý thu, chi ngân sách nhà nước của thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa” là nhằm góp phần giải quyết vấn đề cấp bách nói trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu quản lý thu, chi ngân sách nhà nước ở nước ta trong những năm qua có rất nhiều các công trình nghiên cứu các nhà khoa học, các cơ quan trung ương và địa phương như:
- Luận án tiến sĩ “Về việc quản lý thu thuế trên địa bàn các tỉnh Duyên hải miền Trung” của tác giả Nguyễn Thế Tràm, Học viện Chính trị quốc gia Hồ chí Minh, năm 1996.
- Luận án tiến sĩ “Sử dụng công cụ chính sách tài chính để phát triển nền kinh tế trong quá trình hội nhập” của tác giả Lê Công Toàn, trường Đại học Tài chính Kế toán Hà Nội, năm 2003.
- Luận án tiến sĩ kinh tế “Hoàn thiện cơ chế phân cấp ngân sách của các cấp chính quyền địa phương” của tác giả Phạm Đức Hồng, trường Đại học Tài chính Kế toán Hà Nội, năm 2002.
- Luận án tiến sĩ kinh tế “Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước” của tác giả Nguyễn Việt Cường, trường Đại học Tài chính Kế toán Hà Nội, năm 2001.
- Luận án thạc sĩ “Các biện pháp tăng cường quản lý thu, chi ngân sách các tỉnh duyên hải miền Trung” của tác giả Phan Văn Dũng, năm 2001.
Riêng đối với quản lý thu, chi ngân sách nhà nước của thành phố Nha Trang đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này. Chỉ có một số bài báo của tỉnh, nhưng chưa đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể nội dung nói trên.
Điều đó cho thấy việc nghiên cứu đề tài này là vấn đề mới đang đặt ra, vừa khó khăn, đòi hỏi phải nghiên cứu những điều kiện đặc thù của thành phố để quản lý thu, chi ngân sách có hiệu quả hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Vận dụng lý luận về ngân sách nhà nước, quản lý thu, chi ngân sách nhà nước để phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý thu, chi ngân sách nhà nước của thành phố Nha Trang. Từ đó đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu, chi NSNN của thành Phố Nha Trang trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ:
+ Khái quát lại những lý luận cơ bản về ngân sách nhà nước, quản lý thu, chi ngân sách.
+ Khảo sát, phân tích thực trạng quản lý thu, chi ngân sách nhà nước trên địa bàn thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa từ năm 2001 đến nay.
+ Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý thu, chi NSNN của Thành phố Nha Trang trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu nghiên cứu công tác quản lý thu, chi ngân sách nhà nước thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà Nước Việt Nam về quản lý tài chính, ngân sách; kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung gần gũi với đề tài.
Về phương pháp nghiên cứu: vận dụng các phương pháp chung, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp so sánh, khái quát hóa vấn đề, bản biểu minh họa.
6. Đóng góp về lý luận thực tiễn của luận văn
Luận văn vận dụng lý luận về quản lý ngân sách nhà nước để phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý thu, chi ngân sách nhà nước của Thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Từ đó đề ra quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu, chi NSNN của Thành phố Nha Trang trong thời gian tới.
Với kết quả nghiên cứu đó, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh đạo, điều hành thu, chi ngân sách nhà nước góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu kham khảo, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THU, CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI
1.1. THU, CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.1. Khái niệm về quản lý thu, chi ngân sách nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
NSNN là một phạm trù kinh tế khách quan, ra đời,tồn tại và phát triển trên cơ sở sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Luật NSNN được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt nam khóa XI, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 16/12/2002 đã xác định: NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. NSNN có thể hiểu là một kế hoạch tài chính quốc gia bao gồm chủ yếu các khoản thu và chi của Nhà nước được mô tả dưới hình thức cân đối bằng giá trị tiền tệ.Phần thu thể hiện các nguồn tài chính được huy động vào NSNN; phần chi thể hiện chính sách phân phối các nguồn tài chính đã huy động được để thực hiện mục tiêu KT-XH. NSNN được lập và thực hiện cho một thời gian nhất định, thường là một năm và được Quốc hội phê chuẩn thông qua.
NSNN là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước. Quỹ này thể hiện lượng tiền huy động từ thu nhập quốc dân để đáp ứng cho các khoản chi tiêu của Nhà nước, có hai mặt đó là: mặt tĩnh và mặt động. Mặt tĩnh thể hiện các nguồn tài chính được tập trung vào NSNN mà chúng ta có thể xác định được vào bất kỳ thời điểm nào. Mặt động thể hiện các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị gắn liền với quỹ tiền tệ tập trung vào NSNN và từ NSNN phân bổ các nguồn tài chính cho các ngành, các lĩnh vực, các địa phương của nền kinh tế quốc dân.
NSNN là một phạm trù kinh tế tài chính, được coi là một hệ thống quan hệ kinh tế tồn tại khách quan.Hệ thống các quan hệ kinh tế này được đặc trưng bởi quan hệ tiền tệ phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính và bằng các quan hệ kinh tế đó mà quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước được tạo lập và sử dụng.Hệ thống các quan hệ kinh tế này bao gồm:
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN với khu vực doanh nghiệp.
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các đơn vị hành chính sự nghiệp.
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các tầng lớp dân cư.
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN với thị trường tài chính.
Như vậy đằng sau hình thức biểu hiện bên ngoài của NSNN là một loại quỹ tiền tệ của Nhà nước với các khoản thu và các khoản chi của nó thì NSNN lại phản ảnh các quan hệ kinh tế trong quá trình phân phối, thể hiện các quan hệ phân phối và các quan hệ lợi ích kinh tế gắn với một chủ thể đặc biệt, đó là Nhà nước nhằm tạo lập và sử dụng nguồn tài chính quốc gia để giải quyết các nhiệm vụ về KT-XH.
Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp ngân sách có quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tổ chức huy động, quản lý các nguồn thu và thực hiện nhiệm vụ chi của mỗi cấp ngân sách.
Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, hệ thống NSNN được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức bộ máy QLHC nhà nước.Ở nước ta bộ máy QLHC Nhà nước được tổ chức 4 cấp: trung ương; tỉnh,thành phố trực thuộc TW; quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và xã, phường, thị trấn. Mỗi cấp chính quyền đều phải có ngân sách để thực hiện các nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật và phù hợp với khả năng quản lý của cấp chính quyền đó.
Quan hệ giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo những nguyên tắc cơ bản sau:
- NSTW và ngân sách mỗi cấp chính quyền được phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể.
- Ngân sách TW đóng vai trò chủ đạo, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, quan trọng của quốc gia và hỗ trợ các địa phương chưa cân đối được ngân sách.
- Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu để chủ động thực hiện những nhiệm vụ được giao.
- Nhiệm vụ chi thuộc cấp ngân sách nào do cấp ngân sách đó cân đối. Trường hợp cơ quan QLNN cấp trên ủy quyền cho cơ quan QLNN cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó.
- Thực hiện phân chia theo tỷ lệ % đối với các khoản thu phân chia giữa ngân sách các cấp và bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương. Tỷ lệ % phân chia các khoản thu và số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới được ổn định từ 3-5 năm. Số bổ sung từ ngân sách cấp trên được coi là khoản thu của ngân sách cấp dưới.
- Ngoài cơ chế bổ sung nguồn thu và cơ chế ủy quyền không được dùng ngân sách của cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp khác.
NSNN được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai minh bạch, có sự phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm, nguyên tắc cân đối. Các nguyên tắc này xuất phát từ các lý do sau:
Tổ chức bộ máy hành chính của Nhà nước Việt Nam là thống nhất từ TW đến địa phương dưới sự lãnh đạo và điều hành của Quốc hội và Chính phủ. Ngân sách cấp dưới là một bộ phận không thể tách rời của ngân sách cấp trên; NSTW và NSĐP hợp thành một chỉnh thể NSNN thống nhất. Nguồn tài chính quốc gia được tạo ra từ một cơ cấu kinh tế thống nhất, được phân bổ trên các vùng lãnh thổ của quốc gia cho nên NSNN là một thể thống nhất, bao gồm toàn bộ các khoản thu, các khoản chi của Nhà nước trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước. Hệ thống tổ chức và quản lý NSNN là thống nhất từ TW đến địa phương dưới sự lãnh đạo và điều hành của Quốc hội và Chính phủ. Các cơ chế, chính sách thu chi và phương thức quản lý NSNN phải được thực hiện thống nhất do Quốc hội, Chính phủ quy định.
Nguyên tắc tập trung được thiết lập nhằm đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống NSNN và tăng cường quyền lực của chính quyền TW. Tuy nhiên để phù hợp với xu thế phát triển nền dân chủ chính trị, đi đôi với việc tăng cường tập trung quyền lực của chính quyền TW cần phải đẩy mạnh thể chế dân chủ thông qua việc phân cấp quản lý NSNN và tăng quyền tự chủ cho các cấp ngân sách trong việc tổ chức và khai thác tối đa nguồn lực của địa phương để thúc đẩy sự phát triển của địa phương. Việc phân cấp mà nội dung cốt lõi của nó là sự phân quyền nhưng đồng thời phải tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chủ thể quản lý đối với NSNN.
Nguyên tắc công khai, minh bạch trong quản lý NSNN xuất phát từ xu hướng mở rộng dân chủ trong hệ thống chính trị. Người dân nộp thuế cho Nhà nước có quyền yêu cầu Chính phủ phải công khai minh bạch các khoản thu, chi của NSNN để đánh giá mức độ hiệu quả và trách nhiệm của các cấp chính quyền Nhà nước trong việc sử dụng nguồn lực tài chính công. Và để thực hiện nội dung này Chính phủ cũng đã có những quy định cụ thể để công khai ngân sách các cấp. NSNN vừa đảm bảo dân chủ, công khai, minh bạch vừa phải được kiểm tra, kiểm soát theo một cơ chế được tổ chức chặt chẽ, thông qua việc sử dụng có hiệu quả các công cụ kế toán, kiểm toán, thanh tra tài chính.
Phân cấp quản lý NSNN:
Khi đã hình thành hệ thống NSNN gồm nhiều cấp thì việc phân cấp ngân sách là một tất yếu khách quan. Thực chất của phân cấp ngân sách là giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính quyền trong toàn bộ hoạt động của NSNN. Thông qua phân cấp NSNN, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền trong thu chi NSNN được xác định cụ thể; đồng thời, phân cấp NSNN còn phản ánh mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa các cấp ngân sách, giữa các địa phương, giữa địa phương với quốc gia. Phân cấp ngân sách gắn liền với nội dung phân cấp hành chính. Phân cấp ngân sách không chỉ tập trung vào việc nâng cao tính tự chủ của chính quyền địa phương mà còn phải hướng đến nâng cao tính trách nhiệm về chính trị, tính hiệu quả và minh bạch.
* Nội dung chủ yếu của phân cấp ngân sách là:
- Giải quyết mối quan hệ quyền lực giữa các cấp chính quyền trong việc ban hành các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức tài chính. Đây là nội dung chủ yếu của phân cấp ngân sách.
- Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân giao nguồn thu, nhiệm vụ chi và cân đối ngân sách. Đây là mối quan hệ lợi ích nên trong thực tế giải quyết mối quan hệ này rất phức tạp, gay cấn. Do đó phải xác định rõ nhiệm vụ kinh tế, chính trị của mỗi cấp chính quyền. Phân cấp này phải ổn định và đảm bảo cho NSTW giữ vai trò chủ đạo, tập trung những nguồn thu lớn để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng trên phạm vi cả nước, đồng thời những nhiệm vụ nào ổn định mang tính thường xuyên, có tính xã hội rộng phân cấp cho chính quyền địa phương.
- Giải quyết mối quan hệ trong quá trình thực hiện chu trình ngân sách. Đó là quá trình lập, chấp hành và quyết toán ngân sách.
* Nguyên tắc phân cấp NSNN:
- Phân cấp NSNN phải phù hợp với Hiến pháp, với Luật tổ chức HĐND và UBND các cấp. Nguyên tắc này đảm bảo tính pháp lý cho mỗi chính quyền về quyền hạn trách nhiệm trong điều hành NSNN các cấp. Đồng thời phân cấp NSNN phải đồng bộ với phân cấp QLKT nhằm đảm bảo sự phù hợp giữa nguồn thu và nhiệm vụ chi được giao.
- Phân cấp NSNN phải đảm bảo tính hiệu quả. Nguyên tắc này yêu cầu phân cấp NSNN không dẫn đến sự chia cắt nguồn thu ngân sách, làm suy yếu và phân tán nguồn tài chính quốc gia. Phân cấp NSNN phải đảm bảo sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp trong hệ thống ngân sách để hướng vào phục vụ lợi ích chung của quốc gia. Bên cạnh đó, phân cấp NSNN phải mang tính ổn định để tạo điều kiện cho các cấp ngân sách chủ động khai thác và bồi dưỡng nguồn thu, tiến đến cân đối ngân sách địa phương nhằm thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao.
- Phân cấp NSNN phải đảm bảo tính công bằng. Mục đích của phân cấp là nhằm sử dụng nguồn lực tài chính công có hiệu quả hơn trong việc cung cấp hàng hóa công cho xã hội. Do đó phân cấp nguồn thu phải tương ứng với nhiệm vụ chi được giao để các cấp chính quyền cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cho dân một cách tốt nhất. Ngoài ra, phân cấp ngân sách phải đảm bảo phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương, tạo cho người dân được hưởng thụ lợi ích phúc lợi công cộng do Nhà nước cung cấp là như nhau giữa các vùng, miền khác nhau.
1.1.1.2. Khái niệm thu ngân sách nhà nước
Thu NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị để thực hiện phân phối các nguồn tài chính dưới hình thức giá trị nhằm hình thành quỹ tiền tệ của Nhà nước.Như vậy,thu NSNN bao gồm toàn bộ các khoản tiền được tập trung vào tay nhà nước để hình thành quỹ NSNN đáp ứng cho các yêu cầu chi tiêu xác định của nhà nước.
Nét nổi bật của việc thu NSNN là: trong bất cứ xã hội nào, cơ cấu các khoản thu NSNN đều gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và quyền lực chính trị của Nhà nước. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước là điều kiện xuất hiện các khoản thu NSNN. Ngược lại, các khoản thu NSNN là tiền đề vật chất không thể thiếu để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Một đặc trưng khác của thu NSNN là luôn luôn gắn chặt với các quá trình kinh tế và các phạm trù gía trị. Kết quả của quá trình hoạt động kinh tế và hình thức, phạm vi, mức độ vận động của các phạm trù giá trị là tiền đề quan trọng xuất hiện hệ thống thu NSNN. Nhưng chính hệ thống thu NSNN lại là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng to lớn đến kết quả của quá trình kinh tế cũng như sự vận động của các phạm trù giá trị.
Thu ngân sách nhà nước trước hết và chủ yếu gắn liền với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Mức độ phát triển kinh tế, tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm là tiền đề đồng thời là yếu tố khách quan hình thành các khoản thu NSNN và quyết định mức độ động viên các khoản thu của NSNN.
Thu ngân sách nhà nước ảnh hưởng lớn đến tốc độ, chất lượng và tính bền vững trong phát triển của một quốc gia. Trong cơ cấu thu, nguồn thu nội địa phải luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Không thể nói đến sự phát triển bền vững nếu thu từ ngoài nước (vay nợ, nhận viện trợ từ nước ngoài) và các khoản thu có liên quan đến yếu tố bên ngoài (thuế nhập khẩu, tiền bán tài nguyên thiên nhiên ra bên ngoài …) chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu.
Trong cơ cấu thu ngân sách của hầu hết các quốc gia trên thế giới, thuế luôn là nguồn thu chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất bởi nó được trích xuất chủ yếu từ những giá trị do nền kinh tế tạo ra và thể hiện rõ nét quyền lực nhà nước. Nền kinh tế quốc dân càng phát triển với tốc độ cao thì nguồn thu của nhà nước từ thuế chiếm tỷ trọng càng lớn trong tổng thu NSNN.Thu NSNN bao gồm thuế, các khoản phí,lệ phí, thu từ các hoạt động kinh tế của nhà nước, thu đóng góp của các tổ chức và cá nhân, các khoản viện trợ và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
1.1.1.3. Khái niệm quản lý thu ngân sách nhà nước
Quản lý thu NSNN là quá trình Nhà nước sử dụng hệ thống các công cụ chính sách,pháp luật để tiến hành quản lý thu thuế và các khoản thu ngoài thuế vào NSNN nhằm đảm bảo tính công bằng khuyến khích SXKD phát triển. Đây là khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách mà không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp ngân sách. Phần lớn các khoản thu NSNN đều mang tính chất cưỡng bức, bắt buộc mọi người dân, mọi thành phần kinh tế phải tuân thủ thực hiện.
Trong việc quản lý các nguồn thu ngân sách, thuế là nguồn thu quan trọng nhất. Thuế không chỉ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số thu NSNN hàng năm mà còn là công cụ của nhà nước để quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Để phát huy tốt tác dụng điều tiết vĩ mô của các chính sách thuế, ở nước ta cũng như các nước khác trên thế giới, nội dung của chính sách thuế thường xuyên thay đổi cho phù hợp với diễn biến thực tế của đời sống KT-XH và phù hợp với yêu cầu của QLKT, tài chính. Các sắc thuế chủ yếu hiện đang được áp dụng ở nước ta hiện nay gồm có: Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp,thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế nhà,đất...
1.1.1.4. Khái niệm chi ngân sách nhà nước
Chi NSNN thể hiện các quan hệ tiền tệ hình thành trong quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm trang trải cho các chi phí của bộ máy QLNN và thực hiện các chức năng KT-XH mà Nhà nước đảm nhận theo những nguyên tắc nhất định.
Chi NSNN là sự phối hợp giữa hai quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN. Quá trình phân phối là quá trình cấp phát kinh phí từ NSNN hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng. Quá trình sử dụng là quá trình trực tiếp chi dùng khoản tiền cấp phát từ ngân sách không trải qua việc hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng.
Luật NSNN đã xác định cụ thể chi NSNN bao gồm: các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng,an ninh; đảm bảo hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Mỗi chế độ xã hội, mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, chi NSNN có những nội dung và cơ cấu khác nhau, song đều có những đặc trưng cơ bản như sau:
Chi NSNN luôn gắn chặt với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế chính trị xã hội mà Nhà nước đó đảm nhiệm. Nội dung chi ngân sách do chính quyền nhà nước các cấp đảm nhận theo quy định hoặc phân cấp quản lý NSNN để đảm bảo thực hiện chức năng quản lý, phát triển KT-XH.
Các cấp của cơ quan quyền lực nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu, nội dung, mức độ của các khoản chi NSNN vì các cơ quan đó quyết định các nhiệm vụ chính trị, KT-XH của vùng, miền, đất nước; thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân.
Chi ngân sách nhằm phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng dân cư ở các vùng hay ở phạm vi quốc gia. Điều này xuất phát từ chức năng quản lý toàn diện nền KT-XH của Nhà nước.
Thông thường các khoản chi của NSNN được xem xét hiệu quả trên tầm vĩ mô. Điều này có nghĩa hiệu quả của các khoản chi ngân sách phải được xem xét toàn diện dựa trên việc hoàn thành các mục tiêu KT-XH đề ra.
Các khoản chi NSNN mang tính không hoàn trả hoặc hoàn trả không trực tiếp và thể hiện ở chỗ không phải mọi khoản thu với mức độ và số lượng của những địa chỉ cụ thể đều được hoàn lại dưới hình thức chi tiêu công. Điều này được quyết định bởi những chức năng tổng hợp về KT-XH của Nhà nước.
Các khoản chi ngân sách gắn chặt với sự vận động của các phạm trù giá trị khác như tiền lương, giá cả, lãi suất, tỷ suất hối đoái… nói chung là các phạm trù thuộc lĩnh vực tiền tệ.
Để đánh giá tính tích cực, tiến bộ của ngân sách một quốc gia người ta thường xem xét đến cơ cấu nội dung chi của ngân sách quốc gia đó. Cơ cấu chi ngân sách thường được hiểu là hệ thống các khoản chi ngân sách bao gồm các khoản chi và tỷ trọng của nó... Nội dung, cơ cấu chi NSNN là sự phản ảnh những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước đó trong từng giai đoạn lịch sử và chịu sự chi phối của các nhân tố sau:
- Chế độ CT-XH là nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến nội dung, cơ cấu chi ngân sách vì nó quyết định bản chất và nhiệm vụ KT-XH của Nhà nước.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất vì nó tạo khả năng và điều kiện cho việc hình thành nội dung, cơ cấu chi, vừa đặt ra yêu cầu thay đổi nội dung cơ cấu chi trong từng thời kỳ nhất định.
- Khả năng tích lũy của nền kinh tế: khả năng này càng lớn thì nguồn chi đầu tư phát triển kinh tế cũng như khả năng đáp ứng yêu cầu chi thường xuyên tăng lên.
- Mô hình tổ chức bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ KT-XH mà nó đảm nhận trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
1.1.1.5. Khái niệm quản lý chi ngân sách nhà nước
Quản lý chi ngân sách là quá trình phân phối lại quỹ tiền tệ tập trung một cách có hiệu quả nhằm thực hiện chức năng của nhà nước trên cơ sở sử dụng hệ thống chính sách, pháp luật. Chi ngân sách mới thể hiện ở khâu phân bổ ngân sách còn hiệu quả sử dụng ngân sách như thế nào thì phải thông qua các biện pháp quản lý. Rõ ràng quản lý chi ngân sách sẽ quyết định hiệu quả sử dụng vốn ngân sách.
Quản lý chi NSNN là quá trình thực hiện có hệ thống các biện pháp phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung nhằm phục vụ chi tiêu cho bộ máy và thực hiện các chức năng của Nhà nước. Thực chất quản lý chi NSNN là quá trình sử dụng các nguồn vốn chi tiêu của Nhà nước từ khâu lập kế hoạch đến khâu sử dụng ngân sách đó nhằm đảm bảo quá trình chi tiết kiệm và hiệu quả, phù hợp với yêu cầu của thực tế đang đặt ra theo đúng chính sách chế độ của nhà nước phục vụ các mục tiêu KT-XH.
Vấn đề quan trọng trong quản lý chi NSNN là việc tổ chức quản lý giám sát các khoản chi sao cho tiết kiệm và có hiệu quả cao, muốn vậy cần phải quan tâm các mặt sau:
- Quản lý chi phải gắn chặt với việc bố trí các khoản chi làm cơ sở cho việc quản lý xây dựng quy chế kiểm tra, kiểm soát.
- Bảo đảm yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả trong việc bố trí và quản lý các khoản chi tiêu ngân sách nhà nước.
- Quản lý chi phải thực hiện các biện pháp đồng bộ, kiểm tra giám sát trước, trong và sau khi chi.
- Phân cấp quản lý các khoản chi cho các cấp chính quyền địa phương và các tổ chức trên cơ sở phải phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển KT-XH của các cấp theo luật ngân sách để bố trí các khoản chi cho thích hợp.
- Quản lý chi ngân sách phải kết hợp quản lý các khoản chi ngân sách thuộc vốn nhà nước với các khoản chi thuộc nguồn của các thành phần kinh tế để tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao hiệu quả chi.
1.1.2. Vai trò của quản lý thu, chi ngân sách nhà nước
1.1.2.1. Vai trò của ngân sách nhà nước
NSNN là khâu tài chính tập trung quan trọng nhất, là kế hoạch tài chính cơ bản, tổng hợp của Nhà nước. Nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính và có vai trò quyết định sự phát triển của nền KT-XH. Vai trò của NSNN được xác lập trên cơ sở chức năng và nhiệm vụ cụ thể của nó trong từng giai đoạn cụ thể. Phát huy vai trò của NSNN như thế nào là thước đo đánh giá hiệu quả điều hành, lãnh đạo của Nhà nước.
Trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, NSNN có các vai trò chủ yếu sau:
Thứ nhất, với chức năng phân phối, ngân sách có vai trò huy động nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và thực hiện sự cân đối thu chi tài chính của Nhà nước. Đó là vai trò truyền thống của NSNN trong mọi mô hình kinh tế. Nó gắn chặt với các chi phí của Nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình.
Thứ hai, NSNN là công cụ tài chính của Nhà nước góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế, điều chỉnh kinh tế vĩ mô. Nhà nước sử dụng NSNN như là công cụ tài chính để kiềm chế lạm phát, ổn định thị trường, giá cả cũng như giải quyết các nguy cơ tiềm ẩn về bất ổn định KT-XH. Muốn thực hiện tốt vai trò này NSNN phải có quy mô đủ lớn để Nhà nước thực hiện các chính sách tài khóa phù hợp (nới lỏng hay thắt chặt) kích thích sản xuất, kích cầu để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội.
Thứ ba, NSNN là công cụ tài chính góp phần bù đắp những khiếm khuyết của KTTT, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển bền vững. KTTT phân phối nguồn lực theo phương thức riêng của nó, vận hành theo những quy luật riêng của nó. Mặt trái của nó là phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng trong xã hội, tạo ra sự bất bình đằng trong phân phối thu nhập, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn định xã hội. Bên cạnh đó do mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận nên các chủ sở hữu nguồn lực thường khai thác tối đa mọi nguồn tài nguyên, môi trường sinh thái bị hủy hoại, nhiều loại hàng hóa và dịch vụ mà xã hội cần nhưng khu vực tư nhân không cung cấp như hàng hóa công cộng. Do đó nếu để KTTT tự điều chỉnh mà không có vai trò của Nhà nước thì sẽ phát triển thiếu bền vững. Vì vậy Nhà nước sử dụng NSNN thông qua công cụ là chính sách thuế khóa và chi tiêu công để phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội, cung cấp hàng hóa dịch vụ công cho xã hội, chú ý phát triển cân đối giữa các vùng, miền đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
1.1.2.2. Vai trò quản lý thu ngân sách nhà nước
Quản lý thu NSNN đóng vai trò rất quan trọng, thể hiện:
Thứ nhất, quản lý thu NSNN là công cụ quản lý của Nhà nước để kiểm soát,điều tiết các hoạt động SXKD của mọi thành phần kinh tế, kiểm soát thu nhập của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm động viên sự đóng góp đảm bảo công bằng, hợp lý. Các nhà nước trong lịch sử đều sử dụng công cụ thuế để ổn định và phát triển nền kinh tế,chống lại các hành vi kinh doanh phạm pháp.
Thứ hai, quản lý thu NSNN là công cụ động viên, huy động các nguồn lực tài chính cần thiết nhằm tạo lập quỹ tiền tệ tập trung của NSNN. Huy động các nguồn tài chính cần thiết vào nhà nước là nhiệm vụ chủ yếu của hệ thống thu dưới bất kỳ chế độ nào, đó là đòi hỏi tất yếu của mọi nhà nước. Nhà nước muốn thực hiện các chức năng, nhiệm vụ lịch sử của mình tất yếu phải có nguồn tài chính. Nguồn tài chính mà Nhà nước có được đại bộ phận do quản lý tốt nguồn thu ngân sách mang lại.
Thứ ba,quản lý thu NSNN là nhằm khai thác, phát hiện, tính toán chính xác các nguồn tài chính của đất nước để có thể động viên được và cũng đồng thời không ngừng hoàn thiện các chính sách, các chế độ thu để có cơ chế tổ chức quản lý hợp lý.Đây là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước trong quá trình tổ chức QLKT.
Thứ tư, quản lý thu ngân sách góp phần tạo môi trường bình đẳng, công bằng giữa các thành phần kinh tế,giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong quá trình SXKD. Với hình thức thu và mức thu thích hợp kèm với các chế độ miễn giảm công bằng, thu NSNN có tác động trực tiếp đến quá trình SXKD của cơ sở. Với sự tác động quản lý thu ngân sách sẽ góp phần tạo nên môi trường kinh tế thuận lợi đối với quá trình SXKD. Đồng thời nó là công cụ quan trọng góp phần thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với toàn bộ hoạt động SXKD của xã hội.
Thứ năm, quản lý thu ngân sách có vai trò tác động đến sản lượng và sản lượng tiềm năng, cân bằng của nền kinh tế. Việc tăng mức thuế quá mức thường dẫn tới giảm sản lượng trong nền kinh tế, tức là thu hẹp quy mô của nền kinh tế. Ngược lại, giảm mức thuế chung có xu thế làm tăng sản lượng cân bằng. Trong nền KTTT, người ta sử dụng tính chất này để điều chỉnh quy mô sản lượng của nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp và hộ kinh doanh.
1.1.2.3. Vai trò quản lý chi ngân sách nhà nước
Quản lý chi NSNN có vai trò rất to lớn, thể hiện:
Thứ nhất, thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản chi NSNN nhằm tăng hiệu quả sử dụng vốn ngân sách, đảm bảo tiết kiệm,có hiệu quả. Thông qua quản lý các khoản cấp phát của chi NSNN sẽ có tác động khác nhau đến đời sống KT-XH,giữ vững ổn định, đặc biệt là giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội như: xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm,các hoạt động mang tính cộng đồng. Quản lý chi tiêu của NSNN có hiệu quả sẽ tác động vào kích cầu khi nền kinh tế bị giảm sút hoặc cắt giảm chi tiêu chính phủ để bình ổn giá cả thúc đẩy sản xuất phát triển, hình thành quỹ dự phòng trong NSNN để ứng phó với những biến động của thị trường.
Thứ hai, thông qua quản lý các dự án đầu tư phát triển nhằm phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Quản lý chi ngân sách góp phần điều tiết thu nhập dân cư thực hiện công bằng xã hội. Trong tình hình phân hoá giàu nghèo ngày càng gia tăng chính sách chi NSNN và quản lý chi NSNN sẽ giảm bớt khoảng cách phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, các khu vực, các tầng lớp dân cư, góp phần khắc phục những khiếm khuyết của KTTT.
Vai trò của quản lý chi ngân sách trong việc phục vụ cho việc chuyển dị._.ch cơ cấu kinh tế ở tầm vĩ mô được thể hiện rất rõ. Đồng thời vai trò của nó còn thể hiện ở chổ thông qua đầu tư và quản lý vốn đầu tư sẽ tạo ra điều kiện rút ngắn khoảng cách nông thôn và thành thị,giữa đồng bằng và miền núi, vùng sâu, vùng xa. Có thể nói quản lý chi ngân sách có hiệu quả là yếu tố góp phần thúc đẩy phát triển bền vững.
Thứ ba, quản lý chi NSNN có vai trò điều tiết giá cả,chống suy thoái và chống lạm phát. Khi nền kinh tế lạm phát và suy thoái nhà nước phải sử dụng công cụ chi ngân sách để khắc phục tình trạng này.Sự mất cân đối giữa cung -cầu sẽ tác động đến giá cả giá cả tăng hoăc giảm. Để đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng, nhà nước sử dụng công cụ chi ngân sách để điều tiết, can thiệp vào thị trường dưới hình thức cắt giảm chi tiêu, cắt giảm đầu tư hoặc tăng đầu tư, tăng chi tiêu cho bộ máy QLNN, cũng như trợ vốn, trợ giá và sử dụng quỹ dự trữ của nhà nước. Trong quá trình điều tiết thị trường việc quản lý chi ngân sách có vai trò rất lớn đến trong viêc chống lạm phát và suy thoái, kích cầu nền kinh tế. Khi nền kinh tế lạm phát nhà nước cắt giảm chi tiêu, thắt chặt chính sách tiền tệ để hạn chế tổng cung tổng cầu, hạn chế đầu tư của xã hội làm cho giá cả dần dần ổn định, chống lạm phát. Khi nền kinh suy thoái, sức mua giảm sút nhà nước tăng chi đầu tư để tăng cung, tăng cầu, tạo việc làm, kích cầu chống suy thoái nền kinh tế.
Thứ tư, để duy trì sự ổn định của môi trường kinh tế, Nhà nước sử dụng công cụ chi ngân sách. Thông qua quản lý các khoản chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, Nhà nước sẽ điều chỉnh phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng cụ thể, tạo ra sự kích thích tăng trưởng nền kinh tế thông qua đầu tư cơ sở hạ tầng, đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn, đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở để nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
1.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUẢN LÝ THU, CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TỈNH
1.2.1. Đặc điểm thu, chi ngân sách nhà nước trên địa bàn thành phố trực thuộc tỉnh
Thứ nhất, thành phố trực thuộc tỉnh là một cấp hành chính rất quan trọng trong hệ thống hành chính ở nước ta hiện nay với những chức năng nhiệm vụ được quy định trong luật tổ chức HĐND và UBND các cấp, tuy nhiên cấp này chỉ mang tính độc lập tương đối, chịu sự lãnh đạo toàn diện của tỉnh.
Thứ hai, theo luật NSNN hiện hành, ngân sách cấp thành phố thuộc tỉnh là một cấp ngân sách hoàn chỉnh với nguồn thu và nhiệm vụ chi được quy định cụ thể để đảm bảo hoàn thành chức năng nhiệm vụ của cấp thành phố thuộc tỉnh. Tuy nhiên do luật ngân sách cũng đã quy định đối với các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách thì Quốc hội quyết định tỷ lệ điều tiết ngân sách giữa Trung ương và địa phương, còn HĐND tỉnh thì quyết định tỷ lệ điều tiết giữa ngân sách tỉnh, ngân sách thành phố (và quận, huyện, thị xã) và ngân sách xã. Do đó có thể thấy rằng quy mô ngân sách, khả năng tự cân đối của ngân sách cấp thành phố thuộc tỉnh hoàn toàn phụ thuộc vào việc phân cấp nguồn thu, phân cấp nhiệm vụ chi của tỉnh đối với thành phố cũng như tỷ lệ điều tiết ngân sách giữa ngân sách tỉnh và ngân sách thành phố. Hay có thể nói ngân sách thành phố có tự cân đối chủ động trong điều hành được hay không phần lớn phụ thuộc vào ý chí của HĐND, UBND tỉnh.
Thứ ba, do không phải là cấp có thể hình thành các chính sách, chế độ về thu, chi ngân sách nên nội dung thu, chi của NSTP do tỉnh (cụ thể là HĐND &UBND tỉnh) quyết định, do đó trong thực tiễn hay phát sinh mâu thuẫn giữa yêu cầu nhiệm vụ phát triển KT-XH ở địa phương cũng như những nhiệm vụ chi được giao thêm với cân đối ngân sách đã được ổn định (với thời gian từ 3-5 năm theo luật ngân sách quy định). Điều này đặt ra yêu cầu là các cơ quan hoạch định chính sách, xây dựng chính sách chế độ thu, chi ngân sách, tham mưu việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ điều tiết cho ngân sách cấp Thành phố phải xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn đầy đủ để tham mưu cơ quan có thẩm quyền của tỉnh quyết định, tránh yếu tố cảm tính, thiếu cơ sở khoa học. Đồng thời phân cấp phải trên quan điểm tăng quyền chủ động của ngân sách thành phố cũng như xã phường để tạo điều kiện cho thành phố và xã phường hoàn thành ngày càng tốt hơn nhiệm vụ phát triển KT-XH ở địa phương.
Thứ tư, cũng vì những đặc điểm trên có thể thấy quy mô ngân sách thành phố thường không ổn định qua các giai đoạn. Đối với nguồn thu của ngân sách thành phố thường chủ yếu là các khoản thu về thuế, phí, lệ phí, thu chuyển quyền sử dụng đất và thu khác, trong đó thu từ thuế và phí, lệ phí là nguồn thu quan trọng chiếm tỷ trọng từ 70-80% tổng thu ngân sách. Tuy nhiên trong thực tế cũng thấy rằng khoản thu thuế được giao chủ yếu là các sắc thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp từ khu vực ngoài quốc doanh, đây là khoản thu rất khó thực hiện, quy mô số thu không lớn nhưng chi phí phải bỏ ra cho công tác thu không nhỏ và đây cũng là địa chỉ của những sai phạm trong việc chấp hành luật thuế như gian lận thương mại, trốn thuế, mua bán hóa đơn… Còn đối với chi ngân sách thường thì xảy ra tình trạng mâu thuẫn giữa nhiệm vụ chi được giao và nguồn để trang trải nhiệm vụ chi (thể hiện qua công tác giao dự toán hàng năm), đôi khi tạo ra cảm giác không bình đẳng, có sự ấn định chưa hợp lý từ cấp tỉnh.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình quản lý thu,chi ngân sách nhà nước
Quản lý thu,chi ngân sách là hoạt động quản lý nhà nước trên lĩnh vực tài chính ngân sách. Quá trình quản lý thu, chi ngân sách thường bị chi phối bởi các nhân tố sau:
Thứ nhất, nhân tố về thể chế tài chính.Thể chế tài chính quy định phạm vi, đối tượng thu, chi của các cấp chính quyền; quy định, chế định việc phân công, phân cấp nhiệm vụ chi, quản lý chi của các cấp chính quyền; quy định quy trình,nội dung lập, chấp hành và quyết toán ngân sách.Quy định chức năng, nhiệm vụ,thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong quá trình quản lý thu,chi ngân sách, sử dụng quỹ ngân sách. Thể chế tài chính quy định, chế định những nguyên tắc, chế độ, định mức chi tiêu. Do vậy, nói đến nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thu, chi ngân sách trước hết phải nói đến thể chế tài chính. Vì nó chính là những văn bản của Nhà nước có tính quy phạm pháp luật chi phối mọi quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước trong quá trình quản lý thu, chi ngân sách. Thực tế cho thấy nhân tố về thể chế tài chính có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lý thu chi ngân sách trên một lãnh thổ địa bàn nhất định, do vậy đòi hỏi phải ban hành những thể chế tài chính đúng đắn phù hợp mới tạo điều kiện cho công tác nói trên đạt được hiệu quả.
Thứ hai, nhân tố về bộ máy và cán bộ.Khi nói đến cơ cấu tổ chức một bộ máy quản lý thu, chi ngân sách người ta thường đề cập đến quy mô nhân sự của nó và trong sự thiết lập ấy chính là cơ cấu tổ chức bộ máy và cán bộ quản lý thu,chi ngân sách và các mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các bộ phận trong quá trình thực hiện chức năng này. Hay nói cách khác, điều quan trọng hơn cả là phải thiết lập cụ thể rõ ràng, thông suốt các “mối quan hệ ngang” và các “mối quan hệ dọc”. Sự thiết lập ấy được biểu hiện thông qua qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp, các bộ phận trong tổ chức bộ máy và cán bộ quản lý thu chi ngân sách. Quy định chức năng nhiệm vụ của bộ máy và cán bộ quản lý thu, chi theo chức năng trách nhiệm quyền hạn giữa bộ phận này với bộ phận khác, giữa cấp trên với cấp dưới trong quá trình phân công phân cấp quản lý đó. Nếu việc quy định chức năng,nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp thành phố không rõ ràng, cụ thể thì dễ xảy ra tình trạng hoặc thiếu trách nhiệm, hoặc lạm quyền trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý thu,chi ngân sách. Nếu bộ máy và cán bộ năng lực trình độ thấp thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý thu, chi ngân sách Do đó tổ chức bộ máy và cán bộ là nhân tố rất quan trọng trong quá trình tổ chức quản lý thu,chi ngân sách.
Thứ ba, nhân tố về trình độ phát triển kinh tế và mức thu nhập.Việc quản lý thu,chi ngân sách luôn chịu ảnh hưởng của nhân tố về trình độ phát triển kinh tế và mức thu nhập của người dân trên địa bàn.Khi trình độ kinh tế phát triển và mức thu nhập bình quân của người dân tăng lên, không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động nguồn ngân sách và sử dụng có hiệu quả, mà nó còn đòi hỏi các chính sách, chế độ, định mức kinh tế - tài chính, mức chi tiêu ngân sách phải thay đổi phù hợp với sự phát triển kinh tế và mức thu nhập, mức sống của người dân. Do đó, ở nước ta cũng như các nước trên thế giới, người ta luôn quan tâm chú trọng đến nhân tố này, trong qúa trình quản lý hoạch định của chính sách thu chi NSNN.
Thực tế cho thấy,khi trình độ phát triển kinh tế và mức thu nhập bình quân trên địa bàn còn thấp cũng như ý thức về sử dụng các khoản chi chưa được đúng mức còn có tư tưởng ỷ lại Nhà nước thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý chi NSNN. Khi chúng ta thực hiện tốt những vấn đề thu ngân sách trong đó có nhiều nhân tố tác động nhưng trình độ mức sống của người dân ngày càng nâng cao thì việc thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước có thể rất dễ dàng. Trường hợp nếu trình độ và mức sống còn thấp thì việc thu thuế cũng rất khó khăn.
1.3. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ THU, CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.3.1. Nội dung cơ bản về quản lý thu ngân sách nhà nước
Việc nghiên cứu toàn diện việc quản lý thu NSNN bao gồm rất nhiều vấn đề và rất rộng, trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chỉ tập trung trình bày một số vấn đề về quản lý thu thuế và các khoản phí, lệ phí. Đây là các khoản thu chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng thu NSNN nhất là NSNN của cấp thành phố thuộc Tỉnh.
1.3.1.1. Nội dung quản lý thu thuế
Như chúng ta đã biết,thuế là nguồn thu chính chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng ngày càng tăng trong tổng thu NSNN.Đồng thời thuế cũng là công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc điều chỉnh kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội. Do vậy quản lý thu thuế nói chung và quản lý thu thuế ở địa phương có ý nghĩa đặt biệt quan trọng trong quản lý NSNN. Quản lý thu thuế là hệ thống các biện pháp nghiệp vụ do cơ quan có chức năng thu ngân sách thực hiện.
Quản lý thu thuế phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, nguyên tắc tuân thủ pháp luật. Quy trình xây dựng các biện pháp quản lý thuế phải xuất phát từ các luật thuế, nằm trong khuôn khổ luật quy định.Nguyên tắc này cũng đòi hỏi các biện pháp quản lý thuế của Nhà nước cũng phải phù hợp với quy định chung về thuế của các tổ chức kinh tế quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhất là sau khi chúng ta gia nhập WTO.
Thứ hai, nguyên tắc thống nhất, tập trung dân chủ.Quy trình tổ chức và quản lý thuế được áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước cho các cơ quan thu và cho các đối tượng nộp thuế là các pháp nhân hay thể nhân. Không cho phép cơ quan thu được đặt ra bất cứ biệt lệ nào và cũng như có sự phân biệt đối xử giữa những người nộp thuế trong quá trình hành thu thuế.
Thứ ba,nguyên tắc công bằng trong quản lý thuế. Đây là nguyên tắc cơ bản của thuế, nghĩa là mọi công dân phải có nghĩa vụ vật chất với Nhà nước phù hợp với khả năng tài chính của mình. Khi xây dựng biện pháp quản lý thuế phải quán triệt nguyên tắc này nhằm động viên sức lực của toàn xã hội cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; qua đó gắn kết nghĩa vụ,quyền lợi của các tổ chức và công dân với nghĩa vụ và quyền lợi của quốc gia.Chỉ có như thế sự phát triển mới mang tính chất cộng đồng và bền vững.
Thứ tư, nguyên tắc minh bạch. Các khâu trong quy trình quản lý thuế đối với các đối tượng nộp thuế phải được công khai hóa.Công tác tuyên truyền, tư vấn,giải thích quy trình quản lý thuế đến việc tổ chức thực hiện từng khâu trong quy trình này đều phải rõ ràng, dễ hiểu, công khai. Hạn chế trường hợp đối tượng nộp thuế thiếu thông tin về các quy định về thuế.
Thứ năm, nguyên tắc thuận tiện,tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý thuế. Quản lý thuế là những biện pháp mang tính nghiệp vụ và hành chính pháp định.Nguyên tắc này đòi hỏi cơ quan hành thu phải xây dựng quy trình quản lý thuế theo luật định một cách hợp lý, phù hợp với tình hình, đặc điểm, điều kiện SXKD, thu nhập phát sinh của người nộp thuế.Việc thực hiện nguyên tắc này phải tạo ra những thuận lợi và tiết kiệm tối đa chi phí về thời gian, vật chất và tiền cho cơ quan thu và cho người nộp thuế.Có như vậy mới phát huy được hiệu quả và hiệu lực của cơ chế hành thu thuế.
Trên cơ sở tuân thủ những nguyên tắc nêu trên, nội dung công tác quản lý thu thuế bao gồm các vấn đề sau:
Thứ nhất,xây dựng dự toán thu về thuế. Đây là khâu cơ sở của quá trình quản lý thu thuế, việc xây dựng dự toán thu này phải dựa trên các căn cứ sau:
- Các văn bản pháp luật về thuế hiện hành. Đây là cơ sở pháp lý của dự toán thu về thuế.
- Kế hoạch phát triển KT-XH của cả nước hay từng địa phương,đơn vị.
- Thực trạng tài chính quốc gia, tình hình thực hiện dự toán thu ngân sách năm báo cáo và yêu cầu động viên vào ngân sách năm kế hoạch.
- Chủ trương,chính sách QLKT của nhà nước đã và sẽ ban hành.
Thứ hai, tổ chức các biện pháp hành thu. Nội dung này bao gồm:
- Quản lý đối tượng nộp thuế thông qua việc đăng ký thuế và cấp mã số thuế.Các tổ chức và cá nhân kinh doanh phải liên hệ với cơ quan thuế địa phương để đăng lý thuế. Các bộ phận của cơ quan thuế sau khi tiếp nhận, kiểm tra sẽ phát giấy chứng nhận đăng ký thuế cùng với mã số thuế cho doanh nghiệp.
- Xây dựng và lựa chọn quy trình quản lý thu thuế. Hiện nay đang có hai loại quy trình đó là:
+ Quy trình kê khai,nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế. Theo quy trình này thì các đối tượng nộp thuế phải kê khai thuế và nộp tờ khai thuế cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế sẽ tiến hành kiểm tra, tính thuế và ra thông báo số thuế phải nộp gởi cho đối tượng nộp thuế. Phương thức này có nhiều hạn chế, gây nhiều khó khăn cho người nộp và cơ quan thuế.
+ Quy trình tự kê khai, tự tính thuế, tự nộp thuế. Theo phương thức này các đối tượng nộp thuế phải tự kê khai, tự tính thuế và tự nộp vào KBNN và phải chịu trách nhiệm pháp lý về tính chính xác, trung thực của việc tự khai tự nộp của mình. Cơ quan thuế sẽ chủ yếu tập trung vào công tác kiểm tra, thanh tra và đôn đốc cũng như tư vấn cho đối tượng nộp thuế. Đây là phương thức tiên tiến được nhiều nước có nền KTTT trên thế giới áp dụng, tạo nhiều thuận lợi cho người nộp thuế cũng như cơ quan thuế,tiết kiệm được chi phí.
- Tổ chức thu nộp tiền thuế. Hình thức chủ yếu hiện nay là nộp trực tiếp vào KBNN. Theo đó đối tượng nộp thuế sẽ nộp trực tiếp vào KBNN dưới dạng tiền mặt hoặc chuyển khoản. Để làm tốt công tác này cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thuế và KBNN để nắm bắt kịp thời tình tình hình nộp thuế từ đó có biện pháp đôn đốc thu nộp kịp thời.
- Tổ chức thanh tra, kiểm tra về thuế. Đây là khâu tất yếu của quy trình quản lý thuế. Mục tiêu chính của công tác này là đảm bảo thi hành pháp luật thuế nghiêm minh từ cả phía đối tượng nộp thuế lẫn cơ quan thuế, giúp loại trừ mọi biểu hiện gian lận thuế,trốn thuế và cả những nhũng nhiễu, tiêu cực của cán bộ thuế. Ngoài ra khi đẩy mạnh việc thực hiện chế độ tự khai tự tính thuế, tự nộp càng phải củng cố và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra.
1.3.1.2. Nội dung quản lý thu phí, lệ phí
Thuế là khoản thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSNN,tuy nhiên nếu chỉ thu thuế thì chính phủ không đủ nguồn tài trợ cho nhiều hoạt động vốn rất đa dạng của mình và cũng không thể buộc người dân sử dụng hàng hóa và dịch vụ công theo cách thức có hiệu quả.Do đó phí,lệ phí đặt ra đối với những tổ chức và cá nhân sử dụng hàng hóa hay dịch vụ công.
Phí thuộc NSNN là khoản tiền mà các tổ chức và cá nhân phải trả cho một cơ quan nhà nước khi nhận được dịch vụ do cơ quan này cung cấp. Trong hoạt động xã hội, nhiều tổ chức thuộc bộ máy công quyền cung cấp ra bên ngoài nhiều dịch vụ. Chúng cần thiết phải thu tiền của đối tượng thụ hưởng để bù đắp chi phí hoạt động. Phí chính là số tiền đó.
Lệ phí là khoản tiền mà các tổ chức và cá nhân phải nộp cho cơ quan nhà nước khi thụ hưởng dịch vụ liên quan đến quản lý hành chính do cơ quan này cung cấp.
Phí, lệ phí không phải là giá cả của dịch vụ công mà chỉ là động viên một phần thu nhập của người thụ hưởng nhằm thực hiện công bằng trong tiêu thụ dịch vụ công.
Mọi khoản phí, lệ phí đều phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Theo quy định hiện hành tại Pháp lệnh phí, lệ phí và Nghị định 57/2002/NĐ-CP của Chính phủ thì chính phủ quy định chi tiết danh mục phí, lệ phí đồng thời với việc quy định nguyên tắc xác định mức thu phí và lệ phí. Đối với một số khoản thu phí, lệ phí quan trọng, chính phủ trực tiếp quy định mức thu, chế độ thu,nộp và chế độ quản lý. Đối với những khoản còn lại, chính phủ giao hoặc phân quyền quy định mức thu, chế độ thu,nộp và chế độ quản lý cho cấp Bộ và tương đương. Căn cứ vào quy định chi tiết của Chính phủ, Bộ Tài chính quy định mức thu cụ thể đối với từng loại phí, lệ phí, hướng dẫn mức thu cho các cơ quan được phân cấp quy định mức thu. HĐND Tỉnh quyết định thu phí, lệ phí được phân cấp. Nghiêm cấm mọi tổ chức, cá nhân tự đặt ra các loại phí, sửa đổi mức thu phí đã được cơ quan có thẩm quyền quy định, thu phí trái với quy định của pháp luật.
Đơn vị thu phí,lệ phí là cơ quan thuế và các cơ quan được pháp luật quy định. Các cơ quan này phải niêm yết công khai tại địa điểm thu về tên gọi, mức thu, phương thức thu và cơ quan quy định thu. Khi thu phải cấp chứng từ thu theo quy định của Bộ Tài chính.
1.3.2. Nội dung cơ bản về quản lý chi ngân sách nhà nước
1.3.2.1. Quản lý chi đầu tư phát triển
Chi đầu tư phát triển của NSNN là quá trình sử dụng một phần vốn tiền tệ đã tập trung vào NSNN để xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH, phát triển sản xuất và thực hiện dự trữ vật tư hàng hóa nhằm thực hiện mục tiêu ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế.
Chi đầu tư phát triển có các đặc điểm sau:
- Chi đầu tư phát triển của ngân sách là khoản chi tích lũy.
- Quy mô và cơ cấu chi đầu tư phát triển của NSNN không cố định và phục thuộc vào chiến lược phát triển KT-XH của Nhà nước trong từng thời kỳ và mức độ phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
- Chi đầu tư phát triển phải gắn chặt với chi thường xuyên nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
Quản lý chi đầu tư phát triển của NSNN là một nội dung rất rộng lớn,trong luận văn này tác giả tập trung vào trình bày về quản lý chi đầu tư XDCB, đây là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong chi đầu tư phát triển và được thực hiện theo phương thức không hoàn trả.
Nhằm đảm bảo nâng cao hiệu quả vốn đầu tư XDCB, việc quản lý cấp phát vốn đầu tư cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Cấp phát vốn đầu tư XDCB phải đảm bảo đúng mục đích và đúng kế hoạch. Đây là nguyên tắc quan trọng do nguồn vốn và phương hướng sử dụng vốn đầu tư đã được trong dự toán ngân sách hàng năm. Nguyên tắc này đòi hỏi việc cấp phát chỉ được tiến hành cho những công trình đã được ghi kế hoạch và phải có đầy đủ thủ tục XDCB theo quy định.
- Vốn đầu tư XDCB được cấp phát trực tiếp. Nguyên tắc này đòi hỏi vốn đầu tư XDCB phải được cấp phát trực tiếp cho từng công trình, từng chủ đầu tư.
- Vốn đầu tư XDCB được cấp phát theo mức độ hoàn thành thực tế của công trình, theo đúng dự toán được duyệt. Chủ đầu tư chỉ thanh toán cho bên nhận thầu khi đã hoản thành bàn giao công trình hay hạng mục công trình hoặc khối lượng hoàn thành theo giai đọan, điểm dừng kỹ thuật. Nguyên tắc này đảm bảo việc cấp phát vốn đầu tư được sử dụng đúng mục đích.
- Cấp phát vốn đầu tư XDCB phải được thực hiện kiểm tra bằng đồng tiền. Việc kiểm tra này được thực hiện trong toàn bộ quá trình đầu tư. Thực hiện kiểm tra bằng đồng tiền trong quá trình cấp phát vốn đầu tư nhằm đảm bảo tính hợp lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Các nguyên tắc này có mối quan hệ mật thiết với nhau nhằm đảm bảo vốn đầu tư của Nhà nước được cấp phát kịp thời, đúng kế hoạch, đúng mục đích và đạt hiệu quả kinh tế cao.
Quản lý cấp phát, thanh toán vốn đầu tư thuộc NSNN bao gồm các nội dung sau:
- Lập, thông báo kế hoạch vốn đầu tư XDCB hàng năm.
Các dự án đầu tư từ NSNN chỉ được ghi vốn kế hoạch khi đủ các điều kiện theo quy định hiện hành của Nhà nước về quản lý đầu tư và xây dựng. Trong thời gian lập dự toán ngân sách hàng năm, căn cứ vào tiến độ và mục tiêu của dự án,chủ đầu tư lập kế hoạch vốn đầu tư của dự án gởi cơ quan quản lý cấp trên để tổng hợp vào dự toán ngân sách theo quy định của luật NSNN.
Sau khi dự toán NSNN được Quốc hội quyết định, trên cơ sở đề nghị của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, Thủ tướng Chính phủ giao UBND Tỉnh,Thành phố trực thuộc TW lập phương án phân bổ vốn đầu tư thuộc địa phương quản lý trình thường trực HĐND cùng cấp quyết định.Thực hiện nghị quyết của HĐND, UBND phân bổ và quyết định giao kế hoạch vốn đầu tư cho từng dự án đã đủ điều kiện thủ tục đầu tư thuộc phạm vi quản lý đảm bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao về tổng mức đầu tư,cơ cấu vốn, cơ cấu ngành kinh tế...Đối với cấp huyện,thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì phòng Tài chính kế hoạch chủ trì phối hợp với các cơ quan chức năng của huyện tham mưu cho UBND cấp huyện phân bổ vốn đầu tư cho từng dự án do huyện quản lý. Sau khi phân bổ UBND huyện gởi kế hoạch vốn đầu tư cho Sở Tài chính.
- Thông báo kế hoạch thanh toán vốn đầu tư XDCB hàng năm. Đối với các dự án do tỉnh, thành phố, huyện quản lý, sở Tài chính hoặc phòng Tài chính kế hoạch huyện thông báo kế hoạch thanh toán vốn đầu tư cho KBNN cùng cấp để làm căn cứ thanh toán vốn cho các dự án đồng thời gửi cho các ngành để theo dõi quản lý.
Chủ đầu tư phải gởi cho cơ quan tài chính các cấp các tài liệu cơ sở của dự án để kiểm tra, thông báo kế hoạch thanh toán vốn đầu tư cho dự án, cụ thể:
+ Văn bản phê duyệt đề cương hoặc nhiệm vụ dự án quy hoạch; văn bản cho phép tiến hành chuẩn bị đầu tư.
+ Dự toán chi phí cho công tác quy hoạch, chuẩn bị đầu tư hoặc chuẩn bị thực hiện dự án.
+ Quyết định đầu tư dự án của cấp có thẩm quyền, quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán.
- Cấp phát vốn đầu tư XDCB thuộc NSNN.
Để được cấp phát vốn đầu tư, các dự án đầu tư phải đảm bảo các điều kiện sau:
+ Phải có đủ thủ tục đầu tư theo quy định.
+ Đã được ghi vào kế hoạch đầu tư XDCB của năm.
+ Đã tổ chức đấu thầu tuyển chọn tư vấn mua sắm vật tư, thiết bị và xây lắp theo quy định.
Phương pháp cấp phát vốn đầu tư XDCB gồm hai khâu:
+ Cấp phát tạm ứng: nhằm đảm bảo vốn cho các đơn vị thực hiện các công việc thi công xây lắp, mua sắm thiết bị, thuê tư vấn, đền bù giải phóng mặt bằng. Do vậy cấp tạm ứng nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị hoàn thành dự án đúng kỳ hạn.
+ Cấp phát khối lượng hoàn thành: đây là nội dung chính của cấp phát vốn đầu tư XDCB và là khâu quyết định nhằm đảm bảo cấp phát đúng thiết kế, đúng kế hoạch và dự toán được duyệt. Nội dung cấp phát theo khối lượng công trình hoàn thành bao gồm: khối lượng công tác quy hoạch hoàn thành, khối lượng công tác chuẩn bị đầu tư hoàn thành, khối lượng thực hiện dự án đầu tư hoàn thành, các chi phí khác của dự án.
- Quyết toán vốn đầu tư XDCB:
Tất cả các dự án đầu tư sử dụng vốn NSNN đều phải thực hiện quyết toán vốn đầu tư xây dựng công trình ngay sau khi công trình hoàn thành bàn giao đưa vào khai thác, sử dụng. Vốn đầu tư được quyết toán là toàn bộ chi phí hợp pháp đã được thực hiện trong quá trình đầu tư để đưa dự án vào khai thác sử dụng.Chi phí hợp pháp là chi phí thực hiện đúng với thiết kế, dự toán được duyệt , đảm bảo đúng định mức,đơn giá, chế độ tài chính kế toán, hợp đồng kinh tế kỹ thuật được ký kết và các quy định của nhà nước có liên quan. Báo cáo quyết toán vốn đầu tư phải xác định đầy đủ, chính xác tổng chi phí đầu tư đã thực hiện; phân định rõ nguồn vốn đầu tư; chi phí đầu tư được phép không tính vào giá trị tài sản hình thành qua đầu tư dự án;giá trị tài sản hình thành qua đầu tư dự án, TSCĐ,TSLĐ; đồng thời phải bảo đảm đúng nội dung,thời gian lập,thẩm tra và phê duyệt theo quy định.
1.3.2.2. Nội dung quản lý chi thường xuyên
Chi thường xuyên là một bộ phận của chi NSNN, nó phản ảnh quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN để thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên về quản lý KT-XH của Nhà nước.Chi thường xuyên của NSNN bao gồm các khoản chi cho các lĩnh vực: SNKT; SNGD,y tế,văn hóa, xã hội;chi bộ máy QLNN; chi ANQP,chi chuyển giao…Cùng với quá trình phát triển KT-XH các nhiệm vụ thường xuyên của nhà nước ngày càng tăng lên làm phong phú thêm nội dung chi thường xuyên của ngân sách. Chi thường xuyên có các đặc điểm cơ bản đó là: đây là những khoản chi có tính chất liên tục; là những khoản chi mang tính chất tiêu dùng; phạm vi, mức độ chi thường xuyên phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước và quy mô cung ứng các hàng hóa công của Nhà nước.
Chi thường xuyên của NSNN phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc quản lý theo dự toán: lập dự toán là khâu đầu tiên và cũng là khâu quan trọng nhất của toàn bộ chu trình ngân sách, nó quyết định chất lượng phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính. Lập dự toán là căn cứ quan trọng cho việc quản lý và kiểm soát chi thường xuyên. Hay nói các khác quản lý theo dự toán đối với chi thường xuyên là cơ sở để đảm bảo cân đối NSNN, tạo điều kiện chấp hành NSNN, hạn chế tính tùy tiện của các đơn vị sử dụng NSNN.Do đó vấn đề là cần phải nâng cao chất lượng lập và xét duyệt dự toán trên cơ sở bố trí NSNN sát đúng với nhiệm vụ của từng đối tượng và các loại hình hoạt động. Dự toán chi sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt có giá trị như chỉ tiêu pháp lệnh. Các ngành, các cấp, các đơn vị phải có trách nhiệm chấp hành dự toán chi thường xuyên được duyệt trong quá trình hoạt động của mình, phải phân bổ và sử dụng cho các khoản, các mục chi theo đúng mục lục ngân sách quy định.
- Nguyên tắc hiệu quả. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong QLKT nói chung và quản lý chi thường xuyên nói riêng. Đối với một nền kinh tế, nguồn lực tài chính là có giới hạn nhất định, cho nên trong quá trình phân bổ và sử dụng nguồn lực cần phải tính toán sao cho đạt được những mục tiêu đề ra.Tính hiệu quả đòi hỏi các đơn vị sử dụng NSNN phải cung cấp hàng hóa và dịch vụ công cho xã hội với mức chi phí hợp lý nhất vì vậy các đơn vị phải sử dụng nguồn lực một cách tiết kiệm. Quán triệt nguyên tắc này đòi hỏi phải xây dựng các định mức tiêu chuẩn chi tiêu phù hợp với từng đối tượng, từng tính chất công việc và phù hợp với thực tế, hình thành các phương thức cấp phát phù hợp với đặc thù của nhóm các đơn vị thụ hưởng ngân sách. Khi đánh giá hiệu qủa cần xem xét một các toàn diện về các mặt: kinh tế, xã hội, môi trường …
- Nguyên tắc đảm bảo sự tự chủ về tài chính của các đơn vị sử dụng ngân sách. Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc hiệu quả ở trên. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là: các đơn vị chủ động xây dựng dự toán chi phù hợp với nhu cầu chi và nhiệm vụ hoạt động của mình; trên cơ sở dự toán được duyệt, các đơn vị chủ động phân bổ và sử dụng kinh phí theo nhu cầu thực tế của đơn vị mình.
- Nguyên tắc chi trả trực tiếp qua KBNN. KBNN là cơ quan tài chính được Nhà nước giao nhiệm vụ quản lý quỹ NSNN, do vậy có nhiệm vụ trực tiếp thanh toán mọi khoản chi ngân sách.KBNN có nhiệm vụ kiểm soát mọi khoản chi ngân sách và có quyền từ chối đối với các khoản chi sai chế độ và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.Các khoản chi ngân sách phải được thanh toán trực tiếp đến các đối tượng thụ hưởng, hạn chế tối đa thanh toán qua trung gian. Để thực hiện tốt nguyên tắc này yêu cầu các đơn vị dự toán phải mở tài khoản tại KBNN để thực hiện các giao dịch của mình, chịu sự kiểm tra của KBNN trong quá trình sử dụng kinh phí do ngân sách cấp phát, sử dụng nguồn thu sự nghiệp của đơn vị,kể cả quá trình lập dự toán và quyết toán của đơn vị.
Quản lý chi thường xuyên bao gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, xây dựng hệ thống định mức chi ngân sách. Đây là công cụ rất quan trọng để cơ quan tài chính các cấp có căn cứ để lập phương án phân bổ ngân sách, kiểm tra quá trình chấp hành ngân sách và thẩm tra xét duyệt quyết toán của các đơn vị sử dụng ngân sách. Bên cạnh đó định mức chi cũng là cơ sở pháp lý để các đơn vị sử dụng ngân sách triển khai thực hiện dự toán ngân sách được giao theo đúng chế độ quy định. Định mức chi bao gồm hai loại: định mức phân bổ và định mức sử dụng ngân sách.
- Định mức phân bổ ngân sách.Đây là định mức mang tính chất tổng hợp. Lọai định mức này biểu hiện như: định mức kinh phí hành chính trên một biên chế,định mức chi tổng hợp cho một học sinh thuộc các cấp học,một giường bệnh; định mức cho sự nghiệp văn hóa thông tin,phát thanh truyền hình,thể dục thể thao tính trên một người dân… Định mức này có thể ban hành hàng năm hoặc tính cho cả một thời kỳ ổn định ngân sách có tính đến yếu tố điều chỉnh tăng hàng năm do trượt giá. Trên cơ sở tổng chi ngân sách địa phương được Chính phủ giao và định mức phân bổ ngân sách của Thủ tướng chính phủ, các địa phương xây dựng và ban hành các định mức phân bổ cho các ngành, các cấp, các đơn vị thụ hưởng ngân sách phù hợp với điều kiện KT-XH và khả năng ngân sách của địa phương mình.
- Định mức sử dụng ngân sách: loại định mức này biểu hiện như chế độ tiền lương, phụ cấp lương, chế độ công tác phí, thanh toán cước phí điện thọai… Loại định mức này khá đa dạng do chi thường xuyên bảo gồm nhiều lĩnh vực khác nhau. Theo quy định hiện hành phần lớn các định mức này do Bộ Tài chính và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phối hợp với Bộ Tài chính ban hành. Đối với địa phương thì HĐND Tỉnh được ban hành một số định mức, chế độ chi tiêu phù hợp với đặc thù địa phương. Đây là cơ sở pháp lý để các đơn vị sử dụng ngân sách chấp hành khi chi tiêu ngân sách được cấp và cũng là cơ sở để KBNN thực hiện kiểm soát chi.
Do tầm quan trọng của định mức đối với công tác quản lý chi thường xuyên nên khi xây dựng định mức cần chú ý các yêu cầu sau:
+ Định mức chi phải được xây dựng một cách khoa học,không mang tính áp đặt chủ quan từ cấp trên, từ trung ương xuống, phải phù hợp với đặc điểm hoạt động của từng đơn vị, với từng nội dung chi.
+ Định mức chi phải mang tính thực tiễn cao, phản ảnh được mức độ phù hợp của các định mức chi với nhu cầu kinh phí cho hoạt động.Phải tổ chức theo dõi và đánh giá tình hình hình thực ._.ạch đầu tư (chủ yếu là khâu thủ tục đầu tư), quản lý dự toán các đơn vị HCSN, quản lý cấp phát ngân sách xã …
- Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý tài chính tại Phòng Tài chính - Kế hoạch để nâng cao hiệu quả tham mưu điều hành ngân sách địa phương. Hiện nay phòng Tài chính - Kế hoạch đã triển khai phần mềm quản lý ngân sách xã, phần mềm quản lý thu chi ngân sách thành phố, quyết toán ngân sách địa phương và triển khai phần mềm kế toán đối với các đơn vị HCSN. Thời gian tới cần tiếp tục triển khai phần mềm kế toán HCSN đến tất cả các đơn vị thuộc Phòng Giáo dục và Phòng y tế (số lượng này là khá lớn), đề xuất thành phố cho phép hợp đồng viết phần mềm quản lý đối với các công tác sau: quản lý đăng ký kinh doanh (trong đó cần chú ý hướng mở để tiến tới thực hiện đăng ký kinh doanh qua mạng), quản lý kế hoạch đầu tư, quản lý dự toán các đơn vị HCSN…
Nâng cao hiệu quả quản lý chi ngân sách của đội ngũ cán bộ tài chính ở thành phố và xã phường. Cán bộ quản lý chi ngân sách đóng vai trò đặc biệt quan trọng đến hiệu quả quản lý chi ngân sách. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ năng lực phẩm chất của đội ngũ cán bộ này nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới quản lý tài chính nói chung và quản lý chi ngân sách nói riêng trên địa bàn thành phố. Nội dung đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ phẩm chất của cán bộ chi ngân sách trên địa bàn thành phố cần tập trung vào những yêu cầu sau:
- Thường xuyên nâng cao phẩm chất cho cán bộ quản lý chi ngân sách trên địa bàn thành phố nhằm củng cố quan điểm lập trường, ý thức giai cấp để đội ngũ này làm công tác chi ngân sách tránh được tiêu cực hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao. Góp phần làm lành mạnh hoá lĩnh vực tài chính trên địa bàn thành phố. Cần rà soát lại số lượng, chất lượng cán bộ tài chính trên địa bàn thành phố và các xã phường cũng như các đơn vị đang hoạt động kinh doanh trên địa bàn để có biện pháp bồi dưỡng nâng cao trình độ. Đặc biệt đối với cán bộ thuộc phòng Tài chính kế hoạch thành phố phải có chiến lược đào tạo để phù hợp với yêu cầu hiện nay và sắp đến trong lĩnh vực này. Phải xây dựng quy hoạch đào tạo cán bộ chi ngân sách trên địa bàn khắc phục tình trạng hẫng hụt về cán bộ và trình độ thiếu tính liên ngành nhằm đảm bảo cho hiệu quả chi ngân sách.Cán bộ quản lý chi ngân sách không chỉ hiểu sâu sắc nghiệp vụ quản lý chi ngân sách mà còn hiểu về nghiệp vụ và kỹ thuật tổ chức thực hiện.
- Nâng cao chất lượng quản lý của cán bộ tài chính để quản lý điều hành các khoản chi có hiệu quả là một yêu cầu và nội dung lớn. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý tài chính nói chung và quản lý chi ngân sách nói riêng giảm bớt đầu mối, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý chi đặc biệt là trong lĩnh vực cấp phát vốn đầu tư XDCB.Cải tiến lề lối làm việc, nâng cao trách nhiệm của mỗi cán bộ ở Phòng tài chính-kế hoạch. Thành phố cần ban hành những quy định về nhiệm vụ, trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ tài chính thành phố. Đồng thời có chính sách đãi ngộ của cán bộ quản lý tài chính, cán bộ kế hoạch, cán bộ kế toán, cấp phát quản lý vốn đầu tư.
- Xây dựng chiến lược quy hoạch cán bộ quản lý chi ngân sách bằng cách đào tạo và đào tạo lại gắn với tiêu chuẩn hóa từng chức danh và yêu cầu công tác. Bên cạnh đào tạo chuyên môn nghiệp vụ còn phải chú ý đào tạo kiến thức về quản lý nhà nước, về kinh tế thị trường, ngọai ngữ, tin học… Gắn việc đào tạo bồi dưỡng với quá trình sử dụng phù hợp với sở trường của cán bộ tài chính. Quan tâm chế độ tiền lương và thu nhập của đội ngũ cán bộ này làm cho họ yên tâm không tìm cách xoay sở bóp méo chính sách của Đảng và Nhà nước thực hiện trên địa bàn của một thành phố. Hàng năm phải đánh giá trách nhiệm nhiệm vụ của cán bộ chi ngân sách và xử lý nghiêm minh các trường hợp cố ý làm sai trong quản lý chi ngân sách.
3.2.2.4. Nâng cao chất lượng công tác kiểm soát chi ngân sách của kho bạc Nhà nước thành phố
Trong xu hướng đổi mới cơ chế quản lý tài chính ngân sách hiện nay, vai trò kiểm soát chi của KBNN giữ một vị trí hết sức quan trọng, là người “gác cửa” các khoản chi ngân sách. Để nâng cao chất lượng công tác kiểm soát chi của KBNN thành phố cần tập trung thực hiện một số biện pháp sau:
- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong công tác kiểm soát chi ngân sách, đảm bảo chặt chẽ nhưng không cứng nhắc, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các đơn vị trong giao dịch với KBNN.
- Xây dựng và ban hành các quy trình công tác về kiểm soát chi thường xuyên cũng như chi đầu tư, trong đó cần quy định rõ về hồ sơ thủ tục cần phải có khi giao dịch, đồng thời quy định rõ thời hạn giải quyết các thủ tục này, niêm yết công khai các thủ tục này tại nơi giao dịch và phải tuân thủ đúng.Đây là một trong những giải pháp rất cơ bản.
- Nâng cao trình độ nghiệp vụ kiểm soát chi của cán bộ KBNN thành phố thông qua thực hiện chiến lược của ngành trong việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ.
- Phối hợp chặt chẽ với cơ quan tài chính trong quản lý chi ngân sách, thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin báo cáo với cơ quan tài chính và các cơ quan hữu quan cũng như với lãnh đạo thành phố.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy, UBND thành phố. Điều này xuất phát từ thực trạng KBNN là đơn vị ngành dọc, trong thực tế việc song trùng lãnh đạo thường chưa được thực hiện tốt.
- Các đơn vị thụ hưởng ngân sách phải chấp hành tuyệt đối các điều kiện về cấp phát, thanh toán các khoản chi tại KBNN. Các khoản chi phải có trong dự toán ngân sách được duyệt, đảm bảo đúng chế độ chính sách, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu NSNN do Chính phủ hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành đã được cơ quan tài chính hoặc thủ trưởng đơn vị chuẩn chi và phải có đầy đủ chứng từ liên quan.làm cơ sở kiểm soát chi của KBNN thành phố. Thực hiện đúng quy trình kiểm soát chi NSNN qua kho bạc. Kiểm tra trước, trong và sau khi chi NSNN. Đây là một khâu rất quan trọng do kiểm soát trước khi chi sẽ ngăn ngừa và loại bỏ được những khoản chi tiêu không đúng chế độ quy định, không đúng định mức tiêu chuẩn, đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả, chống lãng phí và thất thoát tiền vốn của Nhà nước.
3.2.2.5. Tăng cường công tác công tác thanh tra tài chính, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm
Thanh tra tài chính là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước trong công tác quản lý tài chính.Công tác thanh tra tài chính nhằm giúp phát hiện, kịp thời chấn chỉnh và xử lý các sai phạm trên lĩnh vực tài chính, ngân sách, đồng thời qua đó phát hiện những sơ hở của cơ chế, chính sách, chế độ. quản lý chi để kiến nghị sửa đổi bổ sung cho phù hợp.Vì vậy, công tác kiểm tra, kiểm soát đòi hỏi phải đảm bảo chính xác, trung thực và khách quan, khi kết luận phải có căn cứ, có tác dụng tích cực đối với đơn vị được thanh tra, đồng thời chỉ rõ những việc làm được để phát huy và những việc chưa làm được để đơn vị có hướng khắc phục sửa chữa.
Để tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra quản lý chi ngân sách trên địa bàn thành phố cần tập trung vào các giải pháp sau:
- Xác định các lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm cần tập trung thanh tra, đặt biệt là các lĩnh vực dễ xảy ra lãng phí, thất thóat vốn như: công tác xây dựng cơ bản, mua sắm trang bị tài sản, tình hình sử dụng ngân sách của các đơn vị dự toán, công tác quản lý thu chi ngân sách của cấp xã, phường.
- Nâng cao trình độ năng lực và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, thường xuyên đào tạo, cập nhật các kiến thức mới không chỉ trên lĩnh vực kinh tế, tài chính, QLNN mà còn nhiều kiến thức tổng hợp khác.
- Phải đổi mới phương thức thanh tra, kiểm tra theo dự toán chi ngân sách và thực tế đã chi. Qua thanh tra cần kết hợp với việc đánh giá hiệu quả sau thực hiện chi ngân sách.
- Tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan có chức năng thanh tra ở địa phương để tránh chồng chéo, trùng lắp trong quá trình thanh tra, gây khó khắn,ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đơn vị được thanh tra.
- Xử lý nghiêm minh các sai phạm được phát hiện để nâng cao hiệu lực của công tác thanh tra. Tùy theo tính chất, mức độ của sai phạm mà kiến nghị xử lý cho phù hợp nhằm làm cho công tác quản lý tài chính đi vào nề nếp, răn đe sai phạm.
3.2.2.6. Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy và sự điều hành của Uỷ ban nhân dân thành phố Nha Trang đối với quản lý chi ngân sách nhà nước
Việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò điều hành của thành phố trong quản lý chi tiêu ngân sách trên địa bàn là vấn đề cực kỳ quan trọng. Thành ủy cần đề ra đường lối phát triển KT-XH phù hợp với điều kiện thực tế làm cơ sở cho chính quyền cấp thành phố triển khai thực hiện. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và đơn vị có trách nhiệm quản lý ngân sách và chi tiêu, đảm bảo đúng định mức của Nhà nước và giáo dục đảng viên quần chúng thực hiện các khoản chi ngân sách theo đúng chế độ. Thành ủy phải thường xuyên kiểm tra, chỉ đạo thực hiện các khoản chi ngân sách theo đúng chính sách pháp luật của Nhà nước nhằm góp phần nâng cao đời sống của nhân dân trên địa bàn thành phố. Đối với UBND thành phố Nha Trang cần phải đưa nội dung quản lý chi ngân sách vào chương trình công tác thường kỳ hàng tháng, quý để kiểm tra đánh giá cụ thể. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền trên địa bàn thành phố thông qua các biện pháp:
- Đảng bộ phải lãnh đạo các cấp uỷ Đảng và kết hợp với Nhà nước quản lý chi ngân sách ở các cấp.
- Đảng phải có trách nhiệm trong việc quán triệt luật NSNN ban hành đường lối tuyên truyền và thông qua Nghị quyết của Đảng đối với cán bộ đảng viên, nhân dân trên địa bàn để hiểu và thực hiện có hiệu quả.
- Phải có sự chỉ đạo toàn diện của thành phố về vấn đề ngân sách, chi ngân sách phù hợp địa bàn của thành phố
3.2.2.7. Thực hiện nghiêm túc việc công khai tài chính các cấp
Công khai tài chính là biện pháp nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức Nhà nước, tập thể người lao động và nhân dân trong việc thực hiện quyền kiểm tra, giám sát quá trình quản lý và sử dụng vốn, tài sản nhà nước; huy động,quản lý và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp luật; phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vị vi phạm chế độ quản lý tài chính; đảm bảo sử dụng có hiệu quả NSNN, thực hành tiết kiệm,chống lãng phí. Đẩy mạnh việc công khai tài chính các cấp ngân sách cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Xác định đúng nội dung,phạm vi số liệu cần công khai theo quy định. Lựa chọn hình thức công khai phù hợp với từng địa phương,đơn vị để nhân dân, cán bộ, công chức có thể nắm rõ nội dung công khai và giám sát được các nội dung này. Ngoài các hình thức công khai như lâu nay, đối với ngân sách thành phố có thể công khai trên trang thông tin điện tử của UBND thành phố. Đối với xã, phường cần đặt biệt chú ý đến việc công khai các khoản huy động nhân dân đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, đây là một nội dung trong thực tế thường hay bỏ sót gây nhiều thắc mắc trong nhân dân.
- Các cơ quan có chức năng và các đòan thể chính trị cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc công khai ngân sách ở các địa phương, đơn vị. Kịp thời đề xuất xử lý các đơn vị vi phạm chế độ công khai tài chính.
3.2.2.8. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan tài chính, thuế, kho bạc Nhà nước và các cơ quan liên quan trong công tác quản lý ngân sách
Các cơ quan này có trách nhiệm phối kết hợp, cung cấp đầy đủ tin tức, thông tin lẫn nhau về tình hình thu, chi ngân sách,quản lý, kiểm soát chi ngân sách cũng như báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách hàng năm cho HĐND và UBND cùng cấp và cho cơ quan Nhà nước cấp trên để lãnh đạo,điều hành các khoản chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố một cách kịp thời,có hiệu quả. Tăng cường công tác kiểm tra đối chiếu số liệu giữa các cơ quan trong nội bộ ngành tài chính để đảm bảo khớp đúng số liệu, phục vụ công tác lãnh đạo của thành phố.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
* Đối với Chính phủ, Bộ Tài chính
Thứ nhất, cần phải nghiên cứu hoàn thiện chính sách thuế. Trong quá trình hoàn thiện chính sách thuế cần quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới chính sách thuế. Chính sách thuế phải góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế việc hoàn thiện chính sách thuế phải nhằm thiết lập một hệ thống thuế công bằng và hiệu quả, phải đơn giản, ổn định, minh bạch, công khai và có tính luật pháp cao. Áp dụng hệ thống thuế không phân biệt giữa các thành phần kinh tế cũng như giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cần phải tách chính sách xã hội ra khỏi chính sách thuế.
Thứ hai, cần nghiên cứu sửa đổi luật NSNN phù hợp với giai đọan hội nhập kinh tế quốc tế. Theo quy định hiện nay về thời biểu tài chính đối với công tác quyết định, phân bổ, giao dự toán NSNN thì việc thực hiện các công tác này đối với cấp huyện và cấp xã chỉ mang tính hình thức, không thực chất.
Thứ ba, cần nghiên cứu đổi mới phương pháp lập dự toán NSNN theo đầu vào như hiện nay sang lập dự toán NSNN theo kết quả đầu ra. Quản lý NSNN theo kết quả đầu ra được coi là công cụ để Nhà nước tập trung nguồn lực công vào nơi mang lại lợi ích cao nhất cho xã hội, giúp cải thiện chính sách công và góp phần tăng cường hiệu quả quản lý.
Thứ tư, cần nghiên cứu hoàn thiện cơ chế quản lý, cấp phát thanh toán các khoản chi của NSNN. NSNN cần phải được công khai trong quá trình lập, chấp hành và quyết toán. Công khai quy trình cấp phát, kiểm soát chi NSNN. Điều này cho phép xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan tài chính, KBNN và đơn vị thụ hưởng. Phân định rõ trách nhiệm kiểm soát chi trong nội bộ ngành tài chính và xác định quy trình hợp lý quy trình kiểm soát, thanh toán chi trả các khoản chi NSNN đặc biệt là mối quan hệ giữa cơ quan tài chính, KBNN và đơn vị thụ hưởng.
Thứ năm, cần sớm hoàn thiện hệ thống các định mức chi tiêu của ngân sách, cần được cập nhật thường xuyên cho phù hợp với thực tiễn và linh hoạt cho phù hợp với sự khác biệt giữa các vùng, miền .
Thứ sáu, cần sớm ban hành cơ chế tài chính đối với các thành phố là đô thị loại 2 thuộc tỉnh.
Thứ bảy, cần sớm ban hành quy định về xử lý vi phạm hành chính trên lĩnh vực kế hoạch và đầu tư để có cơ sở chế tài các vi phạm,đưa hoạt động đầu tư vào nề nếp.
* Đối với Tỉnh ủy, UBND tỉnh Khánh Hoà
Thứ nhất, để tạo điều kiện thúc đẩy thành phố Nha Trang phát triển mạnh mẽ, vững chắc, trên cơ sở đó làm đầu tàu, tạo động lực cho sự phát triển chung của cả tỉnh, kiến nghị Tỉnh ủy sớm xây dựng và ban hành Nghị quyết chuyên đề về phương hướng,nhiệm vụ phát triển KT-XH của thành phố Nha Trang đến năm 2020, đồng thời tập trung lãnh đạo UBND tỉnh và các cơ quan chức năng nghiên cứu, xây dựng cho thành phố một số cơ chế, chính sách đặc thù, gắn với phân cấp mạnh trên các lĩnh vực, nhất là công tác quy hoạch, quản lý đô thị, du lịch, tạo điều kiện cho Nha Trang phát huy tính năng động, sáng tạo hơn trong quá trình thực hiện chiến lược tăng tốc phát triển hướng tới vị thế của một trung tâm kinh tế, khoa học - kỹ thuật, giáo dục và đào tạo không chỉ của khu vực miền Trung.
Thứ hai, UBND tỉnh chỉ đạo các Sở Tài chính, Sở kế hoạch đầu tư, Cục thuế cần nghiên cứu hoàn thiện cơ chế phân cấp cho thành phố về ngân sách và đầu tư xây dựng cơ bản tương xứng với quy mô thành phố là đô thị loại 2. Cụ thể:
+ Trong phân cấp về ngân sách cần chú ý đến việc đẩy mạnh phân cấp nguồn thu để thành phố có cơ cấu nguồn thu bền vững, chủ động cân đối được ngân sách cho chi thường xuyên và dành phần thích đáng cho chi đầu tư phát triển theo hướng sau: phân cấp toàn bộ việc quản lý thu đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn về Chi cục thuế Nha Trang quản lý thu và điều tiết cho ngân sách thành phố, điều tiết 50% số thu tiền cho thuế mặt đất, mặt nước, và tiền sử dụng đất trên địa bàn về ngân sách thành phố. Tính toán tỷ lệ điều tiết ngân sách các cấp theo hướng đảm bảo toàn bộ khối xã, phường tự cân đối được ngân sách, hạn chế tối đa trợ cấp cân đối bổ sung; tính toán phân cấp nguồn vốn đầu tư phải phù hợp với nhiệm vụ chi đầu tư cấp thành phố và cấp xã do HĐND tỉnh ban hành.
+ Trong phân cấp về đầu tư cần chú ý đến việc phân cấp về thẩm quyền trong đầu tư.
Thứ ba, UBND tỉnh sớm ban hành quy định về phân cấp và ủy quyền trên lĩnh vực đầu tư XDCB trên địa bàn tỉnh nhằm thay thế cho các quy định hiện hành của Tỉnh không còn phù hợp sau khi Chính phủ ban hành các nghị định mới liên quan đến công tác này.
Thứ tư, UBND tỉnh cần điều chỉnh hệ thống định mức phân bổ ngân sách cho phù hợp, cần chú trọng tăng định mức phân bổ chi cho sự nghiệp giao thông, sự nghiệp kiến thiết thị chính, sự nghiệp bảo vệ môi trường, định mức phân bổ chi thường xuyên của cấp xã, định mức phân bổ chi hành chính cho một biên chế để tạo đông lực thực hiện khoán chi hành chính.
Thứ năm, UBND tỉnh cần sớm sửa đổi một số định mức chi tiêu đã lạc hậu như công tác phí, tàu xe phép, đi học …
Thứ sáu, UBND tỉnh sớm trình HĐND phê duyệt điều chỉnh mức thu đối với một số khoản phí, lệ phí ban hành đã lậu nay không còn phù hợp, cũng như xem xét ban hành thêm một số khoản thu phí, lệ phí thuộc thẩm quyền của HĐND tỉnh để tăng nguồn thu ngoài thuế cho ngân sách, tạo thuận lợi cho việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nghiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ bảy, UBND tỉnh cần thực hiện nhất quán chính sách đền bù và giá đền bù giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ đầu tư XDCB trên địa bàn.
Thứ tám, UBND tỉnh ban hành quy chế phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo song trùng giữa chính quyền địa phương với ngành dọc trong quản lý thu chi ngân sách nhất là ngành thuế và kho bạc.
KẾT LUẬN
Hoàn thiện công tác quản lý thu, chi ngân sách nhà nước của thành phố Nha Trang hiện nay là một yêu cầu cấp thiết có tính khách quan. Điều này không chỉ bắt nguồn từ sự hạn chế yếu kém trong quá trình thực hiện công tác này mà còn là sư đòi hỏi của các qui luật, Nghị quyết của Đảng và chính sách Nhà nước về đổi mới cơ chế quản lý thu chi ngân sách. Đây là một hoạt động quản lý có liên quan đến mọi cấp, mọi ngành, mọi lĩnh vực, do vậy cần phải được quan tâm đúng mức. Bởi vì nó có ý nghĩa trên nhiều mặt, tác động, chi phối, quyết định trong phát triển KT-XH ở trên địa bàn Thành phố và luôn gắn với trách nhiệm quản lý, lãnh đạo của Đảng bộ và UBND thành phố cho đến các xã, phường và các cơ quan chức năng. Qua quá trình phân tích, luận giải, luận văn đã làm rõ và khắc hoạ những nét nổi bật sau:
- Khái quát một cách tương đối đầy đủ về cơ sở lý luận để làm nền tảng cho việc thực hiện quản lý thu chi ngân sách của thành phố Nha Trang. Đây không những là yêu cầu của thực tiễn của vấn đề đang đòi hỏi mà còn là mục tiêu, động lực để thúc đẩy thành phố phát triển toàn diện và ngày càng có hiệu quả cao hơn.
- Thực tiễn quản lý thu, chi ngân sách nhà nước trên địa bàn thành phố Nha Trang đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết kịp thời, đòi hỏi các ngành chức năng đặc biệt là ngành tài chính phải đổi mới toàn diện mới có thể đáp ứng yêu cầu đặt ra trong công tác quản lý thu chi ngân sách ở trên địa bàn. Qua phân tích luận giải các mặt mạnh, mặt yếu về công tác quản lý thu chi ngân sách ở trên địa bàn và từ đó đề ra các giải pháp có tính khả thi nhằm thúc đẩy, khai thác mọi tiềm năng phát triển sản xuất kinh doanh trên điạ bàn thành phố. Đó chính là đòi hỏi và thách thức đối với thành phố nói chung và ngành tài chính nói riêng trong việc thực hiện chức năng của mình để nâng cao hiệu quả quản lý thu chi ngân sách cơ sở phát triển nguồn thu và sử dụng các khoản chi có hiệu quả đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nói chung và quản lý thu chi ngân sách nói riêng.
- Thông qua thực hiện quản lý thu chi ngân sách trên địa bàn tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, giải phóng khả năng sản xuất, góp phần thúc đẩy việc tổ chức và sắp xếp lại sản xuất, tăng cường hạch toán kinh doanh, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng tích luỹ. Thực hiện tốt công tác quản lý thu chi ngân sách sẽ phát huy được tiềm năng thế mạnh, khai thác các nguồn lực trên địa bàn thành phố có hiệu quả, tranh thủ vốn mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện để các cơ sở sản xuất kinh doanh có khả năng đóng góp nhiều cho ngân sách. Đồng thời thông qua quản lý chi ngân sách để giúp cho thành phố thực hiện tốt chức năng của mình nhất là việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và hỗ trợ người nghèo, rút ngắn khoảng cách giữa người giàu và người nghèo.
Đề tài đã luận giải những vấn đề có tính cơ bản về vấn đề này từ đó tìm kiếm nguyên nhân khách quan và chủ quan về yếu kém của công tác nói trên để làm cơ sỏ đề ra các giải pháp có tính thực thi. Đây là cơ sỏ về lý luận và thực tiễn về vấn đề quản lý thu chi ngân sách trên địa bàn. sẽ giúp cho thành phố có những quyết sách và biện pháp có hiệu quả.
Để thực hiện các biện pháp hoàn thiện công tác quản lý thu chi ngân sách có hiệu quả đòi hỏi phải thực hiện tổng hơp các giải pháp ở tầm vĩ mô và vi mô. Sự lãnh đạo chỉ đạo của UBND thành phố, các cấp, các ngành chức năng, các tổ chức CT-XH từ thành phố cho đến xã phường cần phải quan tâm đúng mức công tác này coi công tác này là trách nhiệm, là nhiệm vụ trọng tâm của mình chứ không riêng gì các cơ quan tài chính.
Mặt dù đã có những cố gắng nhưng không thể tránh khỏi những hạn chế, kính mong các thầy trong Hội đồng chỉ dẫn, các bạn đồng nghiệp góp ý để luận văn này tiếp tục hoàn thiện có hiệu quả cao hơn có giá trị áp dụng vào công tác quản lý thu, chi ngân sách ở địa phương./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Giáo trình Kinh tế học vĩ mô, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Bộ Tài chính (2003), Luật Ngân sách Nhà nước và các văn bản hướng dẫn thực hiện, Nxb Tài chính, Hà Nội.
Bộ Tài chính (2004), Báo cáo tình hình thực hiện và nội dung sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính, mở rộng cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và các chính sách tài chính khuyến khích thực hiện xã hội hoá, Hà Nội.
Bộ Tài chính (2004), Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010, Hà Nội.
Bộ Tài chính (2004) Báo cáo đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước về tài chính, Hà Nội.
Nguyễn Thị Chắt (2004), “Tăng cường công tác giám sát tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp được giao quyền tự chủ tài chính”, Thanh tra Tài chính, (8), tr. 9, 46.
Phan Thu Cúc (2002), Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đơn vị hành chính sự nghiệp hưởng thụ nguồn ngân sách nhà nước, Nxb Tài chính, Hà Nội.
Phạm Đình Cường (2004), “Phân cấp trong lĩnh vực tài chính – ngân sách ở Việt Nam”, Tài chính, (7), tr. 15 – 16.
Nguyễn Việt Cường (2001), Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Tài chính – Kế toán, Hà Nội.
Vũ Cương – Nguyễn Thị Minh Tâm (2002), “Khuôn khổ chi tiêu trung hạn – một hướng cải cách trong quy trình lập ngân sách”, Tài chính, (2), tr. 11 – 14.
Chi cục thuế thành phố Nha Trang (2001), Báo cáo tình hình thực hiện công tác thu thuế năm 2001.
Chi cục thuế thành phố Nha Trang (2002), Báo cáo tình hình thực hiện công tác thu thuế năm 2002.
Chi cục thuế thành phố Nha Trang (2003), Báo cáo tình hình thực hiện công tác thu thuế năm 2003.
Chi cục thuế thành phố Nha Trang (2004), Báo cáo tình hình thực hiện công tác thu thuế năm 2004.
Chi cục thuế thành phố Nha Trang (2005), Báo cáo tình hình thực hiện công tác thu thuế năm 2005.
Cục Thống kê tỉnh Khánh Hoà (2005) Niên giám thống kê tỉnh Khánh Hoà năm 2005.
Trịnh Tiến Dũng (2002), “Về phương pháp lập và phân bổ ngân sách ở nước ta hiện nay”, Tài chính, (3), tr. 15 – 17.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Đức Hồng (2002), Hoàn thiện cơ chế phân cấp ngân sách của các cấp chính quyền địa phương ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường đại học Tài chính – Kế toán, Hà Nội.
Lưu Hoàng (2004), “Một số cấn đề về khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính”, Quản lý ngân quỹ quốc gia, (30), tr. 12 – 13.
Võ Bích Hồng (2005), “Một số ý kiến về cơ chế giám sát chi ngân sách nhà nước phục vụ quản lý hành chính”, Nghiên cứu tài chính kế toán, (1), tr. 25 – 26.
Nguyễn Sinh Hùng (2005), “Quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước trong tiến trình cải cách tài chính công”, Tạp chí Cộng sản, (3), tr. 36 – 40.
Kiểm toán nhà nước khu vực miền Trung (2002), Báo cáo kết quả kiểm toán ngân sách nhà nước thành phố Nha Trang năm 2002.
Kiểm toán nhà nước khu vực miền Trung (2004), Báo cáo kết quả kiểm toán ngân sách nhà nước thành phố Nha Trang năm 2004.
Nguyễn Đức Kha (2002), “Những vấn đề cần quan tâm khi thực hiện khoán biên chế và chi phí hành chính”, Quản lý nhà nước, (9), tr. 32 – 34.
Trần Minh (2002), “Cần xây dựng mẫu hình khoán biên chế và chi phí hành chính”, Quản lý nhà nước, (9), tr. 28 – 31.
Lê Chi Mai (2003), “Tăng cường cải cách tài chính công nhằm thúc đẩy cải cách hành chính”, Quản lý nhà nước (9), tr. 7 – 11.
Dượng Thị Bình Minh (2005), “Quản lý chi tiêu công ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”, Nxb Tài chính, Hà Nội.
Tào Hữu Phùng (2006), “Về định hướng và giải pháp công tác Tài chính ngân sách – Ngân sách nhà nước giai đoạn 2006 -2010”, Tạp chí Cộng sản, (8), tr. 22 – 27.
Tào Hữu Phùng (2002), “Đôi điều kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật ngân sách nhà nước”, Tài chính, (3), tr. 25 – 27.
Tào Hữu Phùng (2005), “Ngân sách nhà nước với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta”, Tạp chí Cộng sản, (10).
Quách Đức Pháp (2005), “Cải cách hành chính về thuế và hải quan giai đoạn 2001 - 2004 và các năm tiếp theo”, Tạp chí Cộng sản, (20), tr.50 – 54.
Đẵng Hữu Pháp (2002), “Quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân sách theo luật Ngân sách nhà nước”, Quản lý nhà nước, (9), tr. 6 – 14.
Phòng thống kê TP Nha Trang (2004), Niên giám thống kê năm 2004.
Phòng thống kê TP Nha Trang (2005), Niên giám thống kê năm 2005.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2003), Giáo trính Thuế, Nxb Tài chính, Hà Nội
Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2000), Giáo trính về quản lý ngân sách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trường Đại học Ngoại thương (2001), Giáo trình về Kinh tế vĩ mô, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình Tài chính công, Nxb Tài chính, Hà Nội.
Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân (1997), Giáo trính Kinh tế công cộng, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Philip E. Taylor (1961), Kinh tế Tài chính công, bản dịch của Trường Đại học kinh tế TP Hồ Chí Minh.
Đặng Văn Thanh (2005), “Phát triển tài chính Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005 và định hướng giai đoạn 2006 – 2010”, Tạp chí Cộng sản, (19), tr. 18 – 22.
Đặng Văn Thanh (19990, “Khoán chi hành chính: một giải pháp nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý nhà nước”, Quản lý nhà nước, (8), tr. 17 – 21.
Nguyễn Thị Minh Tâm (2004), “Giải pháp nâng cao vai trò của Hội đồng nhân dân trong phân bổ, giám sát ngân sách nhà nước”, Quản lý nhà nước, (5), tr. 38 – 40.
Nguyễn Ngô Thị Hoài Thu (20005), “Nhìn lại 2 năm mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính”, Tài chính, (10), tr. 6 – 18.
Trần Thị Ty (2003), Quản lý tài chính công, Nxb Lao động, Hà Nội.
Nguyễn Đình Tùng (2005), “Phân định chức năng nhiệm vụ quản lý tài chính nhà nước giữa trung ương và địa phương”. Nghiên cứu tài chính kế toán, (1), tr. 7 – 11.
Nguyễn Đình Tùng (2005), “Cơ sở lý luận phân cấp nguồn thu cho ngân sách xã”, Nghiên cứu tài chính kế toán, (8), tr. 7 – 9.
Nguyễn Văn Tạo (2004), “Đổi mới cơ chế tự chủ tài chính và nâng cao hiệu quả quản lý tài chính công đối với đơn vị sự nghiệp có thu”, Nghiên cứu tài chính kế toán, (10), tr. 6 – 8.
Lê Minh Thông, (2001), “Quản lý thu chi ngân sách”, Tài chính, (10).
Nguyễn Văn Tranh (2005), “Quản lý chi ngân sách ở các tỉnh duyên hải miền Trung”, Tạp chí Thuế, (6).
Tỉnh uỷ Khánh Hoà (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Khánh Hoà lần thứ XIV.
Tỉnh uỷ Khánh Hoà (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Khánh Hoà lần thứ XV.
Thành uỷ Nha Trang (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Nha Trang lần thứ XIII.
Thành uỷ Nha Trang (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Nha Trang lần thứ XIV.
Hoàng Công Uẩn (2002), Phương hướng hoàn thiện phân cấp quản lý ngân sách địa phương theo đặc điểm của mỗi cấp chính quyền ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh.
UBND thành phố Nha Trang (2001), Báo cáo quyết toán chi ngân sách thành phố Nha Trang năm 2001.
UBND thành phố Nha Trang (2002), Báo cáo quyết toán chi ngân sách thành phố Nha Trang năm 2002.
UBND thành phố Nha Trang (2003), Báo cáo quyết toán chi ngân sách thành phố Nha Trang năm 2003.
UBND thành phố Nha Trang (2004), Báo cáo quyết toán chi ngân sách thành phố Nha Trang năm 2004.
UBND thành phố Nha Trang (2005), Báo cáo quyết toán chi ngân sách thành phố Nha Trang năm 2005.
UBND thành phố Nha Trang (2001), Báo cáo quyết toán thu ngân sách thành phố Nha Trang năm 2001.
UBND thành phố Nha Trang (2002), Báo cáo quyết toán thu ngân sách thành phố Nha Trang năm 2002.
UBND thành phố Nha Trang (2003), Báo cáo quyết toán thu ngân sách thành phố Nha Trang năm 2003.
UBND thành phố Nha Trang (2004), Báo cáo quyết toán thu ngân sách thành phố Nha Trang năm 2004.
UBND thành phố Nha Trang (2005), Báo cáo quyết toán thu ngân sách thành phố Nha Trang năm 2005.
UBND thành phố Nha Trang (2001), Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch đầu tư và xây dựng năm 2001.
UBND thành phố Nha Trang (2002), Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch đầu tư và xây dựng năm 2002.
UBND thành phố Nha Trang (2003), Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch đầu tư và xây dựng năm 2003.
UBND thành phố Nha Trang (2004), Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch đầu tư và xây dựng năm 2004.
UBND thành phố Nha Trang (2005), Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch đầu tư và xây dựng năm 2005.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2473.doc