Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kể từ khi ban hành (năm 1987) đến nay Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung và ngày càng tạo điều kiện hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả là thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần tăng trưởng kinh tế của cả nước nói chung và các vùng kinh tế cả nước nói riêng. Cùng với các tỉnh, thành phố trong nước, những năm qua thành phố Đà Nẵng đã có nhiều cố gắng trong vi

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệc thu hút vốn đầu tư nước ngoài để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Nét nổi bật trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Đà Nẵng là ngay từ đầu, Thành phố đã tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội địa bàn, xác định các khu, các cụm công nghiệp để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đến với Đà Nẵng để làm ăn, kinh doanh. Đến nay, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có 82 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và 112 chi nhánh, văn phòng đại diện, kho trung chuyển. Nhìn chung, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động có hiệu quả, góp phần vào tăng trưởng kinh tế và kim ngạch xuất khẩu của thành phố, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý hiện đại; giải quyết việc làm cho người lao động; làm tăng thu nhập và cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân thành phố. Song so với yêu cầu thì hoạt động trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng chưa đồng đều, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn những mặt yếu kém, thủ tục hành chính còn phiền hà, làm nản lòng nhà đầu tư hoặc có những sơ hở gây tổn hại cho thành phố cũng như cả nước. Do vậy, hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn, để các doanh nghiệp này hoạt động hiệu quả hơn, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của thành phố vừa là vấn đề cấp bách, đồng thời cũng là vấn đề cơ bản lâu dài đối với Đà Nẵng. Đây cũng là lý do chủ yếu để tác giả lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng” làm Luận văn Thạc sỹ kinh doanh và quản lý chuyên ngành quản lý kinh tế làm luận văn thạc sĩ Kinh doanh và quản lý chuyên ngành Quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được nhiều nhà khoa học và hoạt động thực tiễn trong và ngoài nước nghiên cứu. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu: - Các bài báo:“Kỳ vọng đầu tư nước ngoài vào Đà Nẵng” (Phạm Hảo, Giám đốc Học viện chính trị khu vực III, Báo Đà Nẵng –11/2005); “Làm thế nào để tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng” (Phan Quỳnh Hương, Trung tâm xúc tiến đầu tư – Báo Đà Nẵng – 11/2005); Môi trường và chính sách đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” (Trần Xuân Giá, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư, Tạp chí Kinh tế và dự báo số 3/2001)... Trong các công trình này tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư. - Các đề tài nghiên cứu như: "Đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Đồng Nai” (Phan Thị Mỹ Hạnh, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Hà Nội, 2000); “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt Nam hiện nay” (Nguyễn Văn Hùng, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001); “Hoàn thiện cơ chế tổ chức và quản lý hoạt động FDI ở Việt Nam” (Nguyễn Chí Dũng, Luận án Phó tiến sĩ kinh tế - Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 1996)… Các đề tài này đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như: vai trò, nội dung, yêu cầu quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và phân tích và quản lý nhà nước đối với hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài các doanh nghiệp này trong những năm qua, nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước để từ đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam hoặc ở các địa phương mà đề tài tiến hành nghiên cứu. Như vậy, các công trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu cơ bản, hệ thống về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở phạm vi quốc gia cũng như ở địa bàn cấp tỉnh, luận văn đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này tại thành phố Đà Nẵng đến năm 2010. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đặt ra, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau: + Làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh. + Tìm hiểu kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số địa phương trong nước và quốc tế. + Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian qua. + Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, bao gồm doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong thời gian từ 1997 đến nay, đề xuất và phương hướng, giải pháp hoàn thiện công tác này ở địa phương đến năm 2010. Ngoài ra, luận văn cũng nghiên cứu kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số địa phương trong nước và quốc tế. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận văn sử dụng các phương pháp khảo sát thực tế, phỏng vấn chuyên gia, phân tích, tổng hợp, so sánh… trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đồng thời kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số công trình nghiên cứu có liên quan. 6. Đóng góp mới về lý luận và thực tiễn Luận văn có những đóng góp mới sau đây: - Góp phần hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh. - Rút ra được những bài học có thể vận dụng vào thực tiễn ở thành phố Đà Nẵng từ kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số địa phương trong nước và quốc tế. - Đánh giá đúng thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng, rút ra được những thành công, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng. - Đề xuất được phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng đến năm 2010. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết. Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng đến năm 2010. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐỊA BÀN CẤP TỈNH 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1.1.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Tìm hiểu, nghiên cứu khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài chúng ta thấy có nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mỗi khái niệm đều cố gắng khái quát hoá bản chất và nhấn mạnh đến một khía cạnh nào đó của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có thể thấy rõ qua một số khái niệm sau: Theo Synthia Day, Wallace đưa ra khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể định nghĩa theo nghĩa rộng là: việc thiết lập hay giành được quyền sở hữu đáng kể trong một loạt công ty ở nước ngoài hay sự gia tăng khối lượng của một khoảng đầu tư nước ngoài nhằm đạt được quyền sở hữu đáng kể. Khái niệm này nhấn mạnh đến quyền sở hữu. Ủy ban Liên hợp Quốc về Thương mại và phát triển (UNCTAD) định nghĩa đầu tư trực tiếp nước ngoài là: “một khoản đầu tư bao gồm mối quan hệ trong dài hạn, phản ánh lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của một thực thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hoặc công ty mẹ nước ngoài) trong một doanh nghiệp thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trực tiếp, doanh nghiệp liên doanh hoặc chi nhánh nước ngoài) [27, tr.465]. Khái niệm do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra năm 1997 được chấp nhận khá rộng rãi về đầu tư trực tiếp nước ngoài là: “số vốn đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là có được tiếng nói hiệu lực và đạt hiệu quả cao trong quản lý doanh nghiệp” [26, tr.1]. Khái niệm này cho thấy, sự khác nhau cơ bản giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài với đầu tư gián tiếp là mục đích của các nhà đầu tư. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (năm 1996) đã nêu: đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này” [1, tr.8]. Năm 2005, Luật đầu tư được điều chỉnh và đã đưa ra định nghĩa đầu tư nước ngoài như sau: “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư”. Luật đầu tư năm 2005 không đề cập cụ thể đến khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư nước ngoài gián tiếp mà chỉ đưa ra khái niệm đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp. Hai khái niệm trên được hiểu: “đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư”, “đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”. Dù có nhiều khái niệm khác nhau, nhưng xét về bản chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn. Để tham gia trực tiếp vào việc quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn, nhà đầu tư nước ngoài phải có một lượng vốn nhất định và tuân theo các hình thức đầu tư nhất định do pháp luật nước sở tại quy định. Nói cách khác, trong đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài sẽ sử dụng vốn, tài sản, kinh nghiệm, uy tín và nhãn hiệu sản phẩm của mình để tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh ở nước sở tại nhằm thu lợi nhuận và để đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. về thực chất đây là hình thức xuất khẩu vốn, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Với những trình bày trên, đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc trưng sau: - Đầu tư trực tiếp nước ngoài không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế của nước chủ nhà nhưng có đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế và là một bộ phận hữu cơ trong cơ cấu đầu tư của nền kinh tế nước chủ nhà; - Trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, có sự thiết lập quyền sở hữu về tư bản thực của công ty ở một nước khác; đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện bằng vốn của cá nhân hoặc tập thể do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất, kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về các khoản lỗ, lãi. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển gắn liền với sự ra đời và hoạt động của các công ty xuyên quốc gia; - Đầu tư trực tiếp nước ngoài có mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng nhằm mở rộng, chiếm lĩnh thị trường của các công ty xuyên quốc gia và thu về lợi nhuận tối đa cho nhà đầu tư; - Đầu tư trực tiếp nước ngoài có sự kết hợp quyền sở hữu với quyền quản lý các nguồn vốn đã được đầu tư. Khác với hình thức đầu tư gián tiếp, trong đầu tư trực tiếp, chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình; - Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có kèm theo việc chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý... Đây là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được; - Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài gắn liền với sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại quốc tế. Trong hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, các công ty mẹ thường chuyển giao vốn của mình qua các công ty chi nhánh. Do đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài có liên quan chặt chẽ với dòng lưu chuyển vốn quốc tế, trong đó một công ty ở một nước tạo ra hoặc mở rộng chi nhánh ở nước khác. Những đặc trưng trên cho thấy bản chất và những lợi thế nổi bật của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong phát triển kinh tế của các nước đang phát triển nói riêng và của nền kinh tế thế giới nói chung. Hiện nay, trong bối cảnh hầu hết các quốc gia đều hoạt động theo cơ chế thị trường, xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa các hoạt động kinh tế đang ngày càng phổ biến và diễn ra với tốc độ nhanh, khoa học – kỹ thuật, công nghệ đạt đến trình độ phát triển cao... Đầu tư trực tiếp nước ngoài được sử dụng như một trong những hình thức hợp tác kinh tế, phương tiện thực hiện phân công lao động quốc tế, và được xem là một trong các điều kiện quyết định sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Trong hoạt động FDI, các nhà đầu tư nước ngoài là chủ thể quan trọng thành lập nên doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (hay còn gọi là doanh nghiệp FDI) và có thể nói không có FDI tất yếu không có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là phương tiện, là cách thức để nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp bỏ vốn và tham gia quản lý kinh doanh ở một nước khác. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Đến nay vẫn có nhiều quan niệm khác nhau về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: - Doanh nghiệp FDI là những pháp nhân mới được thành lập tại nước nhận đầu tư. Trong đó, các đối tác có quốc tịch khác nhau và bên nước ngoài có tỷ lệ góp vốn tối thiểu đủ để trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp [10, tr.59]. Quan niệm này nhấn mạnh đến vai trò sáng lập của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp FDI. - Doanh nghiệp FDI là những loại hình doanh nghiệp có vốn của bên nước ngoài và có sự quản lý trực tiếp của bên nước ngoài. Doanh nghiệp này hoạt động theo luật pháp của nước sở tại để tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm thu được lợi ích cho tất cả các bên [10, tr.59]. Theo các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp FDI là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, trong đó nhà đầu tư nước ngoài sở hữu từ 10% trở lên số cổ phần thường hay quyền bỏ phiếu (đối với doanh nghiệp có tư cách pháp nhân) hoặc tương đương (đối với doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân) [29, tr.8]. Những quan niệm đã trình bày ở trên cho thấy sự không thống nhất trên bình diện quốc tế trong quan niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, do đặc thù của mỗi quốc gia mà có các quy định khác nhau về mô hình doanh nghiệp cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Ở Việt Nam, đến nay chưa có khái niệm chính thức nào khác về doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài những ghi nhận về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được đề cập trong Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 và Luật đầu tư năm 2005. Tuy nhiên, Luật đầu tư nước ngoài 1996 cũng không đưa ra khái niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà chỉ thừa nhận doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Và về mặt pháp lý, cả doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đều hoạt động với tư cách công ty trách nhiệm hữu hạn. Như vậy, khác với Luật doanh nghiệp và Luật doanh nghiệp nhà nước quan tâm đến tiêu chí trách nhiệm của doanh nghiệp (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) và tiêu chí nguồn gốc vốn của doanh nghiệp (công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước khác), thì qui định của Luật đầu tư nước ngoài về doanh nghiệp lại nhấn mạnh theo tiêu chí tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp. Điều này không phù hợp với thực tiễn về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, bởi vì điều mà các bên thứ ba quan tâm ở doanh nghiệp không phải là nhà đầu tư có tỷ lệ góp vốn bao nhiêu,... mà là doanh nghiệp chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản trước đối tác, trước Nhà nước và các chủ thể khác như thế nào. Đây chính là điểm hạn chế trước đây của pháp luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Để khắc phục hạn chế trên, Luật doanh nghiệp 2005 đã phân loại doanh nghiệp theo tiêu chí cách thức góp vốn và chịu trách nhiệm (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) mà không phụ thuộc vào nguồn gốc vốn góp (tức là không phân biệt doanh nghiệp của nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài, của một nhà đầu tư hay nhiều nhà đầu tư). Luật đầu tư 2005, khi định nghĩa về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng không còn sử dụng khái niệm doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh nữa mà thay vào đó đã sử dụng khái niệm: “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam; doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại”. Vậy, theo luật doanh nghiệp 2005 và Luật đầu tư 2005, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh về bản chất vẫn tồn tại nhưng tên gọi pháp lý của chúng đã thay đổi. Tùy theo cách thức góp vốn và chịu trách nhiệm trong các doanh nghiệp này, chúng có thể là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh hoặc doanh nghiệp tư nhân. Qua phân tích ở trên, có thể hiểu: “Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (hay còn gọi là doanh nghiệp FDI) là một hình thức tổ chức kinh doanh, trong đó có một bên hoặc các bên mang quốc tịch khác nhau cùng góp vốn, cùng quản lý cơ sở kinh tế đó vì mục tiêu sinh lời, phù hợp với các quy định luật pháp của nước sở tại và thông lệ quốc tế”. 1.1.2. Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có nhiều loại hình, nhiều cách thức tổ chức hoạt động khác nhau. Do vậy, nhận thức các đặc điểm hoạt động của các doanh nghiệp này có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước đối với chúng. Doanh nghiệp FDI ở Việt Nam có các đặc điểm cơ bản sau: - Doanh nghiệp FDI là những tổ chức kinh doanh có yếu tố quốc tế, chủ yếu được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, thuộc một phần sở hữu nước ngoài (doanh nghiệp liên doanh) hoặc thuộc toàn bộ sở hữu nước ngoài (doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài). Quá trình thành lập và vận hành của doanh nghiệp FDI luôn có sự cộng đồng trách nhiệm của các bên, đại diện cho lợi ích của các quốc gia khác nhau và được các bên lấy phương châm “cùng có lợi” làm nguyên tắc cơ bản để giải quyết các vấn đề trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp; - Doanh nghiệp FDI có sự tham gia quản lý trực tiếp của nước ngoài, quyền quản lý của các bên phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp đều là những pháp nhân Việt Nam, ra đời và hoạt động theo luật pháp của Nhà nước Việt Nam, đồng thời chịu sự chi phối của nhiều hệ thống pháp luật (bao gồm luật pháp của các quốc gia xuất thân của các bên và luật pháp quốc tế); - Doanh nghiệp FDI thường có phần sở hữu của các công ty đa quốc gia, nên các quyết định của nó không hoàn toàn phụ thuộc vào khuôn khổ pháp lý của Việt Nam. Phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài càng cao, thì hoạt động của doanh nghiệp FDI có thể càng chịu nhiều sự ảnh hưởng của bên nước ngoài. Mặt khác, xu hướng tự nhiên của doanh nghiệp FDI bao giờ cũng coi lợi nhuận là mục tiêu duy nhất hàng đầu; trong khi đó, nước chủ nhà lại quan tâm nhiều đến hiệu quả kinh tế - xã hội, đến sự phát triển tổng thể nền kinh tế. Do vậy, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải dung hòa được hai lợi ích này, phải cho doanh nghiệp FDI trong khi phục vụ lợi ích của họ cũng đồng thời phải mang lại lợi ích cho bên Việt Nam nói riêng và Nhà nước Việt Nam nói chung; - Doanh nghiệp FDI nằm trên lãnh thổ Việt Nam, chịu sự quản lý vĩ mô, chịu ảnh hưởng của tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của Nhà nước Việt Nam trên các phương tiện môi trường sinh thái, môi trường chính trị, kinh tế - xã hội..., đồng thời cũng có tác động trở lại đối với đất nước Việt Nam, có thể tích cực hoặc tiêu cực, tuỳ thuộc vào tình hình hoạt động đúng hay chệch hướng, hiệu quả, hay thua lỗ của doanh nghiệp. - Doanh nghiệp FDI hoạt động trong một thời hạn nhất định do Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam quyết định đối với từng dự án, thường không quá 50 năm, trường hợp đặc biệt có thể dài hơn nhưng tối đa không quá 70 năm. Hết thời hạn qui định, doanh nghiệp FDI phải giải thể hoặc chuyển cho phía Việt Nam (theo hình thức bồi hoàn hoặc không bồi hoàn). Như vậy, chế độ sở hữu đối với bên nước ngoài chỉ giới hạn trong thời gian hoạt động của doanh nghiệp, trừ số doanh nghiệp phải giải thể, khi hết thời hạn hoạt động những doanh nghiệp FDI đó dù tốt, xấu đều trở thành đơn vị kinh doanh và sở hữu của phía Việt Nam; - Doanh nghiệp FDI là nơi gặp gỡ và cọ xát giữa các nền văn hoá khác nhau, phản ánh sự pha trộn các yếu tố văn hoá của nhiều nước, thể hiện qua triết lý kinh doanh, tập quán, sự hiểu biết pháp luật, ngôn ngữ, lối sống, thói quen, lòng tin, thái độ, phong cách ứng xử của các bên tham gia. Văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp FDI tương đối phức tạp, nhiều khi mang sắc thái chính trị, tôn giáo rõ rệt, làm cho quá trình triển khai và vận hành doanh nghiệp FDI hết sức phức tạp đòi hỏi Việt Nam phải chuẩn bị đủ các điều kiện cần thiết để tham gia kinh doanh với các nhà đầu tư nước ngoài một cách bình đẳng và đảm bảo hiệu quả, đồng thời hạn chế tới mức thấp nhất những thua thiệt có thể xẩy ra đối với nước mình; Doanh nghiệp FDI được coi là loại doanh nghiệp không có cơ quan chủ quản, cơ quan lãnh đạo cao nhất và có quyền quyết định mọi vấn đề của doanh nghiệp là Hội đồng quản trị. Giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp trước Hội đồng quản trị. Hoạt động của doanh nghiệp FDI là hoạt động theo luật, trong khuôn khổ pháp luật và các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam chỉ thực hiện chức năng quản lý về mặt Nhà nước đối với các hoạt động của loại hình doanh nghiệp này. Những đặc điểm trên cho thấy, để có thể tham gia kinh doanh với các nhà đầu tư nước ngoài một cách bình đẳng, đồng thời các doanh nghiệp FDI hoạt động đúng định hướng, có hiệu quả cao, phát huy được tác dụng tích cực đến đời sống chính trị, kinh tế - xã hội ở trong nước, ngăn ngừa và hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực, những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hợp tác đầu tư. Việt Nam phải chuẩn bị đủ các điều kiện cần thiết như hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách, phương thức và biện pháp quản lý thích hợp. 1.1.3. Tác động kinh tế - xã hội của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến địa bàn tiếp nhận đầu tư 1.1.3.1. Tác động tích cực Doanh nghiệp FDI góp phần gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, kích thích các công ty khác tham gia đầu tư vào nước chủ nhà, là một tác nhân để thu hút vốn ODA; tăng thêm tỷ lệ huy động vốn trong nước; là phương tiện để tiếp nhận công nghệ hiện đại; tạo thêm nhiều việc làm và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước... Cụ thể là: - Thu hút vốn cho đầu tư phats triển: đối với những địa bàn thiếu vốn, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế thấp (thường là ở các nước đang phát triển) thì việc thành lập các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, là biện pháp thu hút vốn đầu tư có hiệu quả. Lượng vốn này, đôi khi là “cú hích” từ bên ngoài khá hữu hiệu tạo nên một loạt sự thay đổi theo chiều hướng tích cực của nền kinh tế. - Tạo điều kiện tiếp nhận công nghệ hiện đại: Hoạt động của FDI tác động rất lớn đối với quá trình phát triển khoa học, công nghệ. Bởi vì, các doanh nghiệp FDI khi được thành lập luôn gắn liền với công nghệ, máy móc thiết bị, kỹ năng quản lý đảm bảo năng lực sản xuất và năng suất lao động nhằm thu được lợi nhuận tối đa. Đối với những địa bàn kinh tế lạc hậu, chủ yếu dựa vào khu vực nông nghiệp thì việc chuyển giao công nghệ thông qua các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài là một giải pháp khá tiết kiệm và an toàn. Việc tiếp thu được các công nghệ tiên tiến của nước ngoài tạo điều kiện cho địa bàn nhận đầu tư mở những bước “đột phá” sâu vào những ngành nghề sản xuất kinh doanh quan trọng như điện tử, ô tô, công nghệ luyện kim, công nghệ hóa chất, khai thác dầu khí... - Tạo điều kiện học tập kinh nghiệp quản lý tiên tiến của nước ngoài: không những trong doanh nghiệp liên doanh mà ngay cả trong doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, các nhân viên của địa bàn nhận đầu tư nước ngoài có dịp tiếp xúc với một phong cách quản lý tiên tiến của nước ngoài, qua đó từng bước học tập được các mô hình quản lý, kỹ năng kinh doanh và thích nghi với cạnh tranh, thích nghi với công nghệ... đặc biệt là kỹ năng điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài còn góp phần hình thành thế hệ doanh nhân mới trong nước có đầy đủ bản lĩnh và khả năng để thành lập và điều hành các doanh nghiệp đương đầu với cạnh tranh trên thị trường. Từ những bài học được tích lũy đó, địa bàn nhận đầu tư nước ngoài có thể áp dụng các mô hình quản lý tiên tiến dựa trên các công cụ hiện đại vào công ty điều hành các cơ sở sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả việc áp dụng các kinh nghiệm quản lý tiến tiến này phụ thuộc rất lớn vào bản lĩnh và trình độ của đội ngũ cán bộ của địa bàn tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Việc áp dụng dập khuôn đôi khi gây ra hậu quả phản tác dụng không phải là nhỏ. Tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài chính là một khoản lợi ích vô hình mà địa bàn đầu tư nước ngoài có được, nhưng nó cũng yêu cầu chính địa bàn nhận đầu tư nước ngoài phải có những điểu chỉnh phù hợp trong việc áp dụng. - Khai thác được nguồn tài nguyên thiên nhiên, phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển thị trường và kích thích tăng trưởng kinh tế trên địa bàn nhận đầu tư: Đối với địa bàn có nhiều tài nguyên khoáng sản nhưng không đủ khả năng khai thác thì việc thành lập các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo điều kiện để khai thác lợi thế về tư nhiên. Sự phát triển của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng tạo sức ép và điều kiện để hiện đại hoá kết cấu hạ tầng như hệ thống đường xá, kho tàng, sân bay, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc, cung cấp điện, nước... đồng thời tăng năng lực sản xuất và năng suất lao động cho các cơ sở sản xuất hiện có. - Tạo thêm việc làm, góp phần bồi dưỡng đội ngũ lao động có kỹ năng và tay nghề cao cho địa bàn tiếp nhận đầu tư: Chính hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và sự tăng trưởng kinh tế mà nó mang lại đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm, làm giảm thất nghiệp. Bài toán khó về việc làm được giải quyết một phần đáng kể nhờ vào doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài và những ảnh hưởng dây chuyền của nó đối với các ngành cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, thông qua quá trình lao động trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài mà người lao động của địa bàn nhận đầu tư trực tiếp sẽ tiếp thu được những kỹ năng sản xuất mới, tiên tiến góp phần nâng cao tay nghề và tạo được thu nhập ổn định, đảm bảo đời sống. - Tiếp cận với thị trường thế giới: Thông qua doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, địa bàn tiếp nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thế giới. Bởi vì hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đều do các công ty đa quốc gia thực hiện, mà các công ty này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở những thân thế và uy tín của họ về chất lượng, kiểu dáng của sản phẩm. Những tác động tích cực nói trên cho thấy vai trò quan trọng của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn tiếp nhận đầu tư. 1.1.3.2. Tác động tiêu cực Bên cạnh những tác động tích cực, doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có các tác động tiêu cực đến kinh tế - xã hội của địa bàn tiếp nhận đầu tư: - Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài có mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, vì thế họ có thể bất chấp những đòi hỏi tôn trọng truyền thống văn hoá, xã hội của dân tộc, khai thác tài nguyên quá mức, không quan tâm tới việc xử lý ô nhiễm môi trường, đẩy mạnh bóc lột người lao động bằng các hình thức tăng cường độ lao động đối với công nhân, kéo dài thời gian làm việc, cắt xén điều kiện bảo hộ lao động, làm phân hoá đội ngũ cán bộ, “chảy máu chất xám”. Điều đó có thể gây nên mâu thuẫn và làm nảy sinh nhiều vấn đề mới trong xã hội. - Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài thường lợi dụng, khai thác những mặt yếu kém của Chính phủ và các doanh nghiệp sở tại, đặc biệt họ thường chú ý khai thác những sơ hở, yếu kém về luật lệ, thủ tục và cán bộ trong khâu quản lý, sự nắm bắt không kịp thời các thông tin thị trường về cô._.ng nghệ, giá cả của nước chủ nhà để khai khống giá trị máy móc thiết bị công nghệ góp vốn, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ không thích hợp, lạc hậu, làm thiệt hại đến lợi ích của phía nhận đầu tư. - Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể làm tăng sự phụ thuộc về vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ của địa bàn nhận đầu tư vào phía nước ngoài, vì các qui trình kỹ thuật, công nghệ sản xuất cũng như thị trường tiêu thụ hàng hoá do các nhà đầu tư nắm giữ và chỉ được chuyển giao dần dần. Sự phụ thuộc càng nhiều thì tính chủ động của địa bàn nhận đầu tư càng yếu. Do vậy, nếu không tranh thủ được những tác động tích cực của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài để nhanh chóng phát triển công nghiệp nội địa, tạo nguồn tích lũy, đa dạng hóa thị trường tiêu thụ, tiếp nhận kỹ thuật mới, thì địa bàn tiếp nhận đầu tư khó có khả năng giảm và loại bỏ được sự phụ thuộc. - Các nhà đầu tư nước ngoài có thể bằng nhiều cách làm tổn hại đến chủ quyền kinh tế của địa bàn tiếp nhận đầu tư. Thông qua các công ty xuyên quốc gia, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có thể gây ảnh hưởng tới chính trị của địa bàn tiếp nhận đầu tư, gây sức ép đối với Chính phủ, tác động không lành mạnh đến cơ cấu xã hội. Mục tiêu chiến lược của họ không phải bao giờ cũng thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế của địa bàn nhận đầu tư, do đó, các nhà đầu tư nước ngoài có thể có quan điểm, ý kiến trái ngược hoặc có hành vi vi phạm các chính sách quản lý tài chính, tiền tệ của địa bàn tiếp nhận đầu tư. - Trong điều kiện nền kinh tế mở, nếu sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa trên địa bàn tiếp nhận đầu tư nước ngoài yếu thì sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI có thể dẫn đến sự lũng đoạn và làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước. Bởi vì, các doanh nghiệp FDI thường chiếm ưu thế về kỹ thuật, vốn và kinh nghiệm tổ chức quản lý so với doanh nghiệp trong nước. Như vậy, doanh nghiệp FDI không chỉ mang lại những tác động tích cực mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên quá lo ngại về điều này, bởi lẽ bất kỳ một loại hình doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường cũng đều có mặt trái của nó. Vấn đề đặt ra là, quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phải ngăn chặn, giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực các doanh nghiệp này, đồng thời tạo điều kiện hấp thu tối đa các tác động tích cực của chúng, thu hút ngày càng nhiều hơn lượng vốn FDI, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế của địa bàn tiếp nhận đầu tư trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI trên thế giới diễn ra ngày một khốc liệt. 1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐỊA BÀN CẤP TỈNH 1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh Quản lý là một chức năng bắt nguồn từ tính xã hội của lao động trong điều kiện phát triển kinh tế quản lý được xem là thước đo của hầu hết các hoạt động xã hội. Từ khái niệm về quản lý chúng ta có thể hiểu, quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thi hành pháp luật. Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù các quốc gia trên thế giới có nhiều chế độ chính trị khác nhau, nhưng đều có điểm chung là ngày càng coi trọng vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước. Như vậy, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước, trong đó có quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp ngày càng được tăng thêm. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp là một bộ phận, đồng thời là nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về kinh tế, nên Nhà nước có chức năng và nhiệm vụ quản lý đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, nhưng không được can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nói chung, doanh nghiệp FDI nói riêng hoàn toàn có quyền tự chủ khi tiến hành hoạt động kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm. Doanh nghiệp FDI cũng như các đơn vị kinh doanh khác, ngoài sự chi phối của thị trường, còn chịu sự điểu chỉnh bởi hệ thống pháp luật và quản lý vĩ mô của Nhà nước kể từ khi thành lập cho đến khi giải thể. Quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp FDI trong nền kinh tế thị trường chủ yếu là quan hệ quản lý bằng pháp luật, cơ chế chính sách, kế hoạch, định hướng, hỗ trợ, điều chỉnh và không chế trong phạm vi cần thiết để đảm bảo lợi ích chung của quốc gia. Như vậy, Nhà nước với doanh nghiệp FDI có mối quan hệ qua lại với nhau và tác động lẫn nhau, bởi vì: Về phía Nhà nước, việc thiết lập quản lý đối với các doanh nghiệp FDI là cần thiết vì quan hệ giữa từng doanh nghiệp với nền kinh tế nói chung là quan hệ giữa bộ phận và tổng thể, nhiều khi quyền lợi giữa bộ phận và tổng thể là không thống nhất, thậm chí còn mâu thuẫn nhau. Vai trò của quản lý nhà nước là để cho lợi ích của từng doanh nghiệp FDI không lấn át nhau, không làm tổn hại tới lợi ích các quốc gia và của doanh nghiệp khác. Về phía các doanh nghiệp FDI, cũng cần có sự quản lý của Nhà nước, vì đó chính là chỗ dựa về mặt pháp lý để doanh nghiệp hoạt động. Nhà nước không những đóng vai trò trong việc tạo lập môi trường kinh doanh, mà còn hỗ trợ, khuyến khích thúc đẩy doanh nghiệp FDI phát triển. Phần lớn hoạt động này thực hiện thông qua sự điều tiết, quản lý của Nhà nước. Mặt khác, trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp FDI, mỗi bước đi từ khi khởi đầu đến kết thúc đều phải gắn liền vào quá trình quản lý liên tục cả dưới góc độ vĩ mô và vi mô. Doanh nghiệp FDI có thành công hay không, hoạt động có theo chiến lược phát triển chung của xã hội hay không, không những phụ thuộc vào quản lý kinh tế vi mô của bản thân doanh nghiệp, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Với những trình bày ở trên cho thấy, Nhà nước với các doanh nghiệp FDI có mối quan hệ qua lại chắt chẽ với nhau. Nhà nước có ảnh hưởng quyết định tới cách thức hoạt động của doanh nghiệp FDI; ngược lại, sự phát triển và lớn mạnh của các doanh nghiệp FDI ảnh hưởng tới sức mạnh của Nhà nước và tác động đến kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước có nhiệm vụ hướng các doanh nghiệp FDI sản xuất kinh doanh theo định hướng mà nhà nước đã chọn, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, trên cơ sở pháp luật cho phép. Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý có những tác động đến hoạt động của doanh nghiệp, có thể khuyến khích giúp đỡ doanh nghiệp nếu đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội; hoặc có thể ngăn cản, hạn chế nếu hoạt động của doanh nghiệp FDI không theo định hướng hay làm tổn hại đến lợi ích quốc gia. Trong hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI, yếu tố quan trọng có nghĩa quyết định đến mức độ thành công của quản lý là xác định rõ mục tiêu quản lý, từ đó làm rõ nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI. 1.2.2. Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Việc xác định mục tiêu quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là điểm khởi đầu và là khâu rất quan trọng của quá trình quản lý. Mục tiêu quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI là nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản trong quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài và suy cho cùng là làm thế nào để cho các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa bàn tiếp nhận đầu tư. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là tạo điều kiện để doanh nghiệp FDI phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Trên cơ sở đó, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI nhằm đạt các mục tiêu sau: Thông qua quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI nhằm không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách thu hút, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực sự trở thành một bộ phận quan trọng đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “ Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp của nước ngoài”[4, tr.240], “xoá bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư”[4, tr.239], “Đơn giản hoá thủ tục cấp giấp phép đầu tư đối với đầu tư nước ngoài”, “ Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển” [4, tr.240]. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI nhằm kết hợp tối ưu giữa nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước, vừa mở cửa rộng rãi với bên ngoài nhằm tranh thủ các lợi thế của nhà đầu tư, vừa tính đến bảo hộ một cách hợp lý để các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước có thời gian thích ứng để phát triển và đủ khả năng hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, quản lý nhà nước phải làm sao phát huy hết khả năng tiềm tàng của doanh nghiệp FDI, tạo ra nhịp sống kinh tế cần thiết để khơi dậy nguồn nội lực của địa bàn tiếp nhận đầu tư. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI còn nhằm thực hiện các mục tiêu cụ thể, trong đó việc thu hút vốn, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài phải đặt lên hàng đầu như: “thu hút nhiều doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới đầu tư cho sản phẩm xuất khẩu và công nghệ cao” [4, tr.240]. Đồng thời, công tác quản lý nhà nước cần phải tạo ra động lực và ý thức cho các doanh nghiệp FDI thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, góp phần xây dựng các ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, tạo ra các thế mạnh của nền kinh tế nước sở tại khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI nhằm đảm bảo sự hình thành và hoạt động của doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu chuyển đổi và tạo dựng cơ cấu hợp lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận đông theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI không thể coi cơ cấu FDI là hình ảnh thu nhỏ cơ cấu chung của nền kinh tế quốc dân; không thể sao chép cơ cấu đầu tư trong quy hoạch tổng thể và thu hẹp lại để xác định cơ cấu FDI; mà cần có quy hoạch tổng thể để từ đó tạo nên một cơ cấu FDI phù hợp nhất trong tổng thể nền kinh tế. Việc thẩm định dự án FDI, lựa chọn đối tác để hình thành nên các doanh nghiệp FDI, cần dựa trên chiến lược, quy hoạch tổng thể dài hạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, có tính đến các yếu tố cơ cấu ngành, vùng, thành phần kinh tế, kinh tế trong nước, kinh tế đối ngoại, tính toán phân tích toàn diện lợi ích kinh tế - xã hội trước mặt cũng như lâu dài, những ảnh hưởng về môi trường sinh thái. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI nhằm tạo môi trường pháp lý, môi trường chính trị, kinh tế - xã hội ổn định, những điều kiện cần thiết và thuận lợi cho sự ra đời và hoạt động kinh doanh có hiệu quả của doanh nghiệp FDI; chú trọng cả từ khâu “tiền kiểm” cho đến “hậu kiểm” để vừa pháp huy mặt tích cực, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp FDI; bảo hộ sở hữu, bảo vệ lợi ích hợp pháp của chủ đầu tư nước ngoài, khuyến khích họ hăng hái, yên tâm đầu tư, kinh doanh và hợp tác rộng rãi có hiệu quả với nhà đầu tư trong nước. 1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI là việc Nhà nước sử dụng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật và thông qua bộ máy hành chính để quản lý doanh nghiệp FDI. Đồng thời, quản lý nhà nước tạo môi trường kinh doanh ổn định, các điều kiện cần thiết đảm bảo cho sự hình thành và hoạt động của doanh nghiệp FDI. Vậy, Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI có các nội dung cơ bản sau: 1.2.3.1 Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam, doanh nghiệp FDI có quyền tự chủ kinh doanh và các nhà đầu tư nước ngoài chỉ muốn đầu tư vào những nơi có thể khai thác được nhiều lợi thế so sánh nhất. Do đó, nhà đầu tư nước ngoài chỉ đầu tư vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, khả năng thu hồi vốn nhanh, ở những nơi có cơ sở hạ tầng vật chất có thuận lợi. Những điều đó dễ dẫn đến tình trạng mất cân đối đối trong cơ cấu đầu tư và thiệt hại chung cho nền kinh tế. Để các doanh nghiệp FDI phát triển theo hướng “lành mạnh”, cân đối trong phạm vi địa bàn tiếp nhận đầu tư, giữa các ngành kinh tế và giữa các vùng thì việc xây dựng chiến lược, qui hoạch và kế hoạch thu hút FDI đóng một vai trò rất quan trong trong quản lý nhà nước. Nhiệm vụ của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI là phải định hướng, điều tiết vốn FDI trên cơ sở có quy hoạch một cách chi tiết và rõ ràng sao cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của địa bàn tiếp nhận đầu tư. Xây dựng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch là phải thỏa mãn các nguyên tắc về chính trị, kinh tế - xã hội, văn hoá, an ninh, quốc phòng mà Nhà nước Việt Nam đề ra; phải thể hiện được thành các danh mục dự án đầu tư cụ thể để truyền đến các nhà đầu tư nước ngoài những lĩnh vực, địa bàn đang cần gọi vốn; chỉ rõ những ngành nghề, vùng được phép đầu tư hoặc không được phép đầu tư. Trong chiến lược thu hút FDI phải thể hiện được quyết tâm chính trị cao, mục tiêu tương xứng với yêu cầu, đòi hỏi của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát huy được lợi thế so sánh của đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, song cần tuân thủ nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Chiến lược thu hút FDI cũng phải thỏa mãn nhu cầu và lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài, cũng không thể buộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoàn toàn theo ý muốn của địa bàn tiếp nhận đầu tư, mà phải quan tâm tới lợi ích của họ khi ban hành chính sách, khéo léo hài hoà lợi ích giữa các bên. Nếu không, e rằng sẽ khó thu hút được nhiều nguồn vốn FDI và các nhà đầu tư lớn, các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới. Chiến lược thu hút FDI là cơ sở để xây dựng quy hoạnh và kế hoạch thu hút FDI theo ngành, lĩnh vực kinh tế và vùng lãnh thổ. Do đó, việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thu hút FDI cần phải có tính động, không được khép kín mà phải mang tính hợp pháp hoá, có sự liên kết giữa các vùng và các địa phương với nhau. Quy hoạch không thể chạy theo dự án mà cần theo quy luật cung - cầu của thị trường. Nhà nước quản lý quy hoạch nhưng cần đưa ra quy hoạch rõ ràng để các nhà đầu tư nước ngoài được tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh, trừ những lĩnh vực cấm. Chất lượng của quy hoạch và kế hoạch thu hút FDI được nâng cao hay không, phù hợp với nền kinh tế thị trường và có đảm bảo quản lý vĩ mô của Nhà nước phụ thuộc vào rất nhiều khâu xây dựng chiến lược trong lĩnh vực này. Để xây dựng chiến lược có chất lượng, sát với tình hình thực tế, cần chú trọng công tác dự báo, cấp nhật thông tin thị trường trong nước và quốc tế, tăng tính mở, tính linh hoạt trong các phương án để dễ thích ứng được sự thay đổi nhanh chóng của thị trường và xu hướng vận động của FDI dài hạn, công tác quy hoạch, kế hoạch phải được xây dựng đồng bộ và cụ thể hoá cho từng giại đoạn. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã đề ra nhiệm: “Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả nguồn FDI”[4, tr.205]. Trên cơ sở chủ trương, quan điểm của Đảng, chiến lược phải đề ra được mục tiêu cụ thể cho từng thời kỳ, bao gồm cả mục tiêu về tăng số lượng vốn đăng ký, vốn thực hiện, đặc biệt cần chú ý đến mục tiêu về chất lượng, hiệu quả trong thu hút và quản lý FDI. Xây dựng kế hoạch thực hiện lộ trình cho từng giai đoạn cụ thể với hệ thống các giải pháp tích cực có tính khả thi cao; chú ý tới các cơ chế chính sách thực sự hấp dẫn có sức cạnh tranh cao. Chính sách thu hút FDI cần phải thể hiện được tính linh hoạt, mềm dẻo, ổn định, minh bạch cao nhằm tạo điều kiện, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của chiến lược phát kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Để doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển mạnh, lâu dài và thực sự là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam thì việc xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch thì ngày càng cần phải được nâng cao. 1.2.3.2. Ban hành chính sách và pháp luật Bên cạnh việc xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, Nhà nước còn phải xây dựng các chính sách đầu tư nước ngoài. Bởi vì sự tác động của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là thông qua hình thức gián tiếp hơn là cách thức tác động trực tiếp mang tính chất hành chính. Tác động gián tiếp mang tính mềm dẻo, uyển chuyển, vừa bảo đảm tính tự chủ của các doanh nghiệp, vừa bảo đảm mục tiêu chung về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời cho phép tôn trọng các qui luật của thị trường. Vì thế, việc xây dựng, hoàn thiện chính sách và pháp luật đối với doanh nghiệp FDI, được xem như là công cụ hữu hiệu nhất của Nhà nước trong việc quản lý loại hình doanh nghiệp này, nhằm khai thác vai trò tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của nó. Hệ thống chính sách và pháp luật phải tạo điều kiện thuận lợi, cơ hội bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư khai thác cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật mà qua đó đạt hiệu quả cao nhất ở cả thị trường trong nước và thị trường thế giới. Chính sách và phát luật đối với hoạt động FDI phải phù hợp với những nguyên tắc thông lệ chủ yếu của thế giới, đặc biệt là của các nước công nghiệp phát triển. Chính sách và pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI. Bởi vì, chính sách mang tính định hướng và nền tảng để xây dựng pháp luật; còn pháp luật là phương tiện để cụ thể hoá và thực thi chính sách. Vậy, chính sách và pháp luật là hai phạm trù song hành và gắn kết chắt chẽ với nhau; giải quyết đúng đắn mối quan hệ này sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quản quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI. Trong mối quan hệ giữa chính sách và pháp luật đối với doanh nghiệp FDI, thì chính sách bao giờ cũng đi trước một bước. Chính sách phải phản ánh một cách trung thực, khách quan về khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và dự báo khả năng, khuynh hướng phát triển của loại hình kinh tế này trong tương lai. Nếu chính sách không đảm nhận được vai trò của mình, thì tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng khi luật hoá các chính sách thành các văn bản pháp luật, pháp luật hoặc sẽ không có tính khả thi, hoặc sẽ kìm hãm sự phát triển của khu vực doanh nghiệp FDI. Do đó, khi xây dựng chính sách và pháp luật đối với doanh nghiệp FDI, đòi hỏi phải được đúc kết từ thực tiễn và dự báo được tương lai. Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm tạo chuyển biến mới trong công tác thu hút FDI. Hàng loại pháp lệnh, nghị định và văn bản pháp lý được ban hành nhằm sửa đổi những điểm chưa phù hợp, bổ sung và đưa ra các quy định mới làm cho Việt Nam hấp dẫn hơn đối với đầu tư nước ngoài. Đặc biệt vào cuối năm 2005, Việt Nam đã ban hành nhiều đạo luật quan trọng nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư kinh doanh. Trong đó có hai luật liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp FDI, đó là luật đầu tư (chung và luật doanh nghiệp (thống nhất). Luật đầu tư (chung) sẽ góp phần hình thành một luật chơi chung cho tất cả các nhà đầu tư trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của WTO như nguyên tắc đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc, công khai, minh bạch; tháo gỡ và loại bỏ những khó khăn, rào cản trong việc tham gia thị trường, đảm bảo cho nhà đầu tư được tự do đầu tư vào những lĩnh vực mà pháp luật không cấm; củng cố vai trò quản lý nhà nước, tách bạch quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh; theo đó Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ và không can thiệp trực tiếp vào quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Còn Luật doanh nghiệp (thống nhất) sẽ xoá bỏ những phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng quyền lựa chọn về loại hình doanh nghiệp, lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh. 1.2.3.3 Cấp và điều chỉnh giấy phép đầu tư Thẩm định dự án FDI là một khâu quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI. Thông qua thẩm định, Nhà nước đánh giá được mức độ phù hợp với quy hoạch phát triển chung của ngành, địa phương; các mặt lợi hại của FDI; cũng như thực hiện tốt hơn vai trò điều tiết vĩ mô đối với doanh nghiệp FDI trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kết quả của việc thẩm định dự án FDI là căn cứ để quyết định cho doanh nghiệp FDI hoạt động trong nền kinh tế tại địa bàn tiếp nhận đầu tư. Vì vậy, chất lượng của công tác thẩm định dự án FDI sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI. Nếu thẩm định dự án FDI không tốt thì trong tương lai sẽ có những doanh nghiệp FDI hoạt động kém hiệu quả, nguy cơ các doanh nghiệp giải thể trước thời hạn rất cao. Thẩm định cấp giấp phép đầu tư cho doanh nghiệp FDI là việc nghiên cứu, phản biện một cách có tổ chức, khách quan và khoa học những nội dung cơ bản của một dự án FDI nhằm đánh giá tính hợp lý, mức độ hiệu quả và tính khả thi của dự án trước khi quyết định cấp giấp phép đầu tư. Qua đó góp phần làm sáng tỏ các vấn đề về: thị trường, công nghệ, kỹ thuật, tài chính, xem doanh nghiệp có khả năng hoạt động đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cũng như giúp cho địa bàn tiếp nhận đầu tư đạt hiệu quả kinh tế - xã hội hay không và để tránh thu hút phải doanh nghiệp nước ngoài hoạt động không có hiệu quả, không phù hợp. Doanh nghiệp FDI được cấp giấp phép đầu tư hoặc được đăng ký cấp giấp phép đầu tư khi nó đáp ứng đầy đủ yêu cầu của bên tiếp nhận đầu tư và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội, phù hợp với quy hoạch của từng ngành, từng vùng, từng địa phương cũng như chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, doanh nghiệp FDI cũng phải thể hiện được, lợi ích của họ không tách rời lợi ích cộng đồng xã hội. Do đó, công tác thẩm định cấp giấy phép đầu tư đối với doanh nghiệp FDI cần phải xuất phát từ lợi ích chung của toàn xã hội, chú trọng đến phương châm hai bên cùng có lợi và bảo đảm tính độc lập tự chủ của nhau trong quá trình hợp tác đầu tư. Khi thẩm định, Nhà nước cần tôn trọng, đảm bảo lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp FDI trong quan hệ hài hoà với lợi ích chung xã hội và cần phải đưa ra các kết luận rõ ràng sau khi từng nội dung và toàn bộ dự án FDI được thẩm định xong. Trong quá trình thẩm định, các cơ quan cấp giấp phép thường xem xét kỹ các nội dung sau: tư cách pháp lý, năng lực tài chính của đầu tư nước ngoài; mức độ phù hợp của mục tiêu dự án FDI với quy hoạch chung; trình độ kỹ thuật, công nghệ áp dụng phù hợp với địa bàn tiếp nhận đầu tư; hiệu quả kinh tế - xã hội do doanh nghiệp FDI đi vào hoạt động tạo ra. Các nội dung thẩm định cấp phép đối với doanh nghiệp FDI nhiều hay ít và là những vấn đề gì tùy thuộc vào tình hình và sự lựa chọn của mỗi địa bàn tiếp nhận đầu tư trong từng thời kỳ nhất định. Ngoài bốn nội dung trên, ở Việt Nam các doanh nghiệp FDI trước khi được cấp phép còn phải xem xét đến mức độ hợp lý của việc sử dụng đất, phương án đền bù giải phóng mặt bằng và vấn đề định giá tài sản. 1.2.3.4. Kiểm tra, thanh tra và giám sát Hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà nước kiểm tra và giám sát chặt chẽ trên nhiều hình thức và phương pháp. Mục đích của công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát là hướng dẫn doanh nghiệp FDI chấp hành đúng pháp luật, phát hiện những sai sót trong quá trình thực hiện pháp luật để Nhà nước kịp thời có biện pháp uốn nắn, sửa chữa và ngăn chặn sai phạm của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đồng thời thông qua việc thanh tra, kiểm tra và giám sát, còn tạo ra nguồn thông tin phản hồi từ doanh nghiệp FDI để các cơ quan quản lý nhà nước có căn cứ đánh giá hiệu quả và mức độ hợp lý của hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách đã ban hành. Thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp FDI là hoạt động thường xuyên liên tục của các cơ quan quản lý nhà nước, nhưng không can thiệp quá sâu vào hoạt động tác nghiệp, làm mất quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, Nhà nước thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra và giám sát đối với doanh nghiệp FDI không chỉ đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật mà nhằm tạo điều kiện giúp đỡ và hỗ trợ doanh nghiệp FDI tháo gỡ khó khăn. 1.3. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ 1.3.1. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước Trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã được đổi mới và từng bước hoàn thiện; môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhiều địa phương có tốc độ phát triển kinh tế cao, ổn định và thành công trong thu hút các dự án đầu tư nước ngoài. 1.3.1.1. Kinh nghiệm của thành phố Hà Nội Thành công của Hà Nội trong quản lý các doanh nghiệp FDI là do các nguyên nhân sau: Một là, Hà Nội đã xây dựng được quy hoạch tổng thể và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, đây là cơ sở quan trọng cho việc định hướng chiến lược thu hút đầu tư và đề ra các quyết sách quản lý hoạt động FDI. Căn cứ vào chiến lược tổng thể, Hà Nội đã xác định nhu cầu về vốn FDI đến năm 2020, đề ra chiến lược thu hút vốn FDI. Xác định và phân loại các ngành, nghề ưu tiên khuyên khích đầu tư. Nhờ đó, đã tạo dựng được cơ sở thông tin chính xác, đáng tin cậy có tính dài hạn cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh tại Hà Nội. Hai là, từ tình hình thực tế, Hà Nội đã xây dựng qui hoạch và lập danh mục dự án gọi vốn FDI, và coi đó là nguồn vốn quan trọng vì nó không chỉ tạo nguồn vốn mà còn là cơ hội đổi mới công nghệ, đào tạo cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, tiếp thu cách quản lý hiện đại và mở rộng thị trường. Ba là, ban hành một số chính sách ưu đãi đối với FDI. Hà Nội đã ban hành chính sách ưu đãi các nhà đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp, chính sách ưu đãi về giá đất, xây dựng kết cấu hạ tầng và giảm, miễn thuế đối với các lĩnh vực đang là đòn bẩy kinh tế quan trọng. Hệ thống chính sách đối với doanh nghiệp FDI cụ thể, chi tiết đối với từng lĩnh vực hoạt động, từng khu vực và được chính quyền thành phố Hà Nội quan tâm củng cố, hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu của các nhà đầu tư cũng như lợi ích của thành phố, của đất nước. 1.3.1.2. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp của Quảng Nam Khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc thuộc tỉnh Quảng Nam được xem là hình mẫu của các khu công nghiệp ở miền Trung. Trong vòng 4 năm (từ 1999 đến 2002) đã thu hút được 31 dự án đầu tư, với lượng vốn ban đầu 1.300 tỷ đồng và giải quyết được 10.000 lao động.Thành công của khu công nghiệp này là do các nhân tố sau: - Sự đồng thuận cùng với những quan tâm, ưu đãi đặc biệt của chính quyền các cấp trong việc thu hút vốn. Đồng thời Quảng Nam đã đầu tư xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng khu công nghiệp; - Hồ sơ, thủ tục của các nhà đầu tư được hoàn tất nhanh gọn chỉ trong vòng 3 ngày; - Miễn tiền thuê đất cho doanh nghiệp trong suốt thời gian dự án. Hỗ trợ thuế thu nhập doanh nghiệp trong một số năm (tuỳ theo từng loại dự án) kể từ khi doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế; - Giúp các nhà đầu tư tuyển dụng lao động và hỗ trợ 60% chi phí đào tạo nhân công. Đảm bảo giá và chi phí về các loại dịch vụ ở mức thống nhất chung. 1.3.1.3. Kinh nghiệm ở Đồng Nai Đồng Nai là tỉnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài thành công nhất trong cả nước. Từ năm 1998 đến 2002, Đồng Nai đã thu hút được 409 dự án với tổng vốn đầu tư lên đến 5.488,2 triệu USD, chiếm 14,03% lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Hiện nay, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Đồng Nai chiếm từ 45 – 50% tổng vốn đầu tư của toàn tỉnh. Thành công đó được đúc kết thành bài học sau: Thứ nhất, Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân đồng tâm nhất trí tìm các biện pháp hợp lý nhất để thu hút vốn FDI trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Trong công tác quản lý nhà nước, các cơ quan đã thực hiện thành công quy chế quản lý một cửa, thời gian cấp phép cho doanh nghiệp nước ngoài nhanh chóng (năm 2003 đã cấp giấp phép cho công ty Mainetti Vietnam 100% vốn Singapore chỉ mất 3 giờ đã được vào khu công nghiệp Amata). Thứ hai, vận dụng sáng tạo chủ trương thu hút vốn FDI, từ năm 1988 Đồng Nai đã quy hoạch các khu công nghiệp đáp ứng cho nhu cầu bố trí dự án đầu tư và đã thu hút được các dự án tập trung vào khu công nghiệp. Đồng thời, linh hoạt cho phép công ty phát triển kết cấu hạ tầng đàm phán thoả thuận với nhà đầu tư ứng trước phí sự dụng hạ tầng, đã tạo được nguồn vốn rất quan trọng để xây dựng kết cấu hạ tầng ban đầu. Chú trọng công tác xúc tiến, vận động đầu tư. Thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư đóng góp ý kiến, làm cầu nối giữa doanh nghiệp và các bộ ngành Trung ương, kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh, qua đó các cơ quan quản lý địa phương cải tiến dần lề lối làm việc. Thứ ba, chú trọng công tác đào tạo nghề, hướng nghiệp cho người lao động. Các trung tâm xúc tiến việc làm trước khi giới thiệu người lao động để doanh nghiệp phỏng vấn tuyển dụng, bồi dưỡng cho người lao động biết được quy định của Bộ luật lao động. Riêng đội ngũ cán bộ quản lý được đào tạo bồi dưỡng, khá về chuyên môn nghiệp vụ và có trách nhiệm đối với công việc. Thứ tư, huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển song hành với thu hút FDI: tích cực tác động và huy động các nguồn vốn trong xã hội để đầu tư cải thiện kết cấu hạ tầng phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho các nhà đầu tư. 1.3.2. Kinh nghiệm quốc tế 1.3.2.1. Bài học kinh nghiệm của Trung Quốc trong quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI Từ năm 1992, khi Đại hội lần thứ 14 của Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định đẩy nhanh tốc độ cải cách và mở cửa, đẩy mạnh các hoạt động tài chính - tiền tệ đến nay, Trung Quốc đ._.phát triển cơ sở hạ tầng từ nhiều nguồn vốn như: ngân sách nhà nước, vay ODA, vay thương mại, phát hành trái phiếu trong nước và quốc tế khuyến khích vốn tư nhân đầu tư cho các dự án nhà nước, khuyến khích nhà ĐTNN đầu tư vào các dự án BOT, BTO, BT để phát triển hạ tầng theo quy hoạch thống nhất, bảo đảm tính liên tục đồng bộ và hiện đại của hệ thống cơ sở hạ tầng cả trên phạm vi Thành Phố cũng như quốc gia và liên thông với quốc tế. Đà Nẵng cần có cơ chế ưu đãi đặc thù, rõ ràng, cụ thể và mang tính đột phát hơn nữa đối với các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT vào các khu vực quy hoạch KCN-KCX, khu đô thị mới để cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng. Chẳng hạn như hỗ trợ lãi suất tín dụng cho dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, miễn giảm thuế đến mức thấp nhất trong thời gian công trình đã đi vào hoạt động nhưng chưa hoàn vốn. Theo kinh nghiệm của các quốc gia khác trên thế giới, nên để cho chủ đầu tư được kinh doanh thêm đường giao thông thì nhà đầu tư được kinh doanh trạm xăng dầu hoặc mở các trung tâm phục vụ khách bộ hành trên con đường đó. Để tạo thuận lợi thu hút đầu tư vào KCN, thành phố cần thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp KCN; cải thiện chất lượng hệ thống dịch vụ hiện tại và phát triển một hệ thống dịch vụ rộng khắp, đa dạng và có chất lượng cao như y tế, giáo dục, quảng cáo, kỹ thuật. Thành lập và phát triển các trung tâm thông tin KT-XH trên địa bàn và nối mạng toàn quốc, nối mạng Internet để cung cấp các thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật trên thế giới cũng như trong nước và đại phương để giúp các nhà ĐTNN, các DNFDI nắm bắt kịp thời, đầy đủ thông tin cần thiết liên quan đến hoạt động FDI theo giác độ của mình. Phát triển cơ sở hạ tầng ngoài khu công nghiệp, chú trọng đến vấn đề nhà ở và dịch vụ cho công nhân. Thời gian qua Thành phố Đà Nẵng chưa chú trọng đến vấn đề này nên ảnh hưởng rất nhiều đến việc hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Thiếu nhà ở và dịch vụ cho người làm việc ở khu công nghiệp, ảnh hưởng đến thu hút lao động có trình độ cao và ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất sức lao động. Từng bước nâng cấp và cải tạo các Cảng của Thành phố như Cảng Đà Nẵng, Cảng Tiên Sa, Cảng Sông Hàn, Cảng Liên Chiểu để đủ sức tiếp nhận các luồng hàng hoá ra vào Thành phố. Nâng cấp và cải tạo cảng hàng không, ga đường sắt, hoàn thiện hệ thống giao thông đường bộ nội thành. Trong tương lai xa, phải có chiến lược hình thành trung tâm thị trường chứng khoán miền Trung ở Đà Nẵng. Hình thành mạng lưới tài chính ngân hàng, đảm bảo nhu cầu lượng tiền ra vào được thuận tiện, thanh toán nhanh gọn, chính xác. Hiện nay trên địa bàn Thành phố nhiều ngân hàng không đủ nguồn ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ của các doanh nghiệp FDI. Vì thế các doanh nghiệp FDI thường gặp khó khăn trong việc giao dịch với khách hàng bằng ngoại tệ. 3.3.4. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong công tác quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Đà Nẵng. Trên cơ sở Luật đầu tư, các quy định khác có liên quan của Chính phủ và các ngành hữu quan, quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phải nhằm vào mục tiêu hướng dẫn tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình quản lý không chỉ ở một khâu nào mà ở tất cả các khâu, các bước của quá trình đầu tư, từ việc tìm kiếm xúc tiến đầu tư đến khâu thủ tục lập hồ sơ và thẩm định cấp phép đầu tư và sau cùng là quá trình triển khai hoạt động của các dự án được cấp phép. Cả quá trình từ khâu đầu đến khâu cuối như vậy, quá trình quản lý phải biết vận dụng các quy định của pháp luật, chính sách của Nhà nước tạo những điều kiện thuận lợi, thông thoáng cho nhà đầu tư đến Đà Nẵng đầu tư và sản xuất kinh doanh. UBND Thành phố Đà Nẵng là cơ quan quản lý cao nhất ở địa phương có thẩm quyền quyết định và đề xuất trực tiếp với Chính phủ cũng như các Ngành liên quan về toàn bộ hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài trên địa bàn thành phố. Để hoạt động đầu tư nước ngoài được nhanh chóng, công tác chỉ đạo của UBND thành phố phải tập trung hơn nữa, kịp thời và chính xác. UBND Thành phố cần thường xuyên hơn nữa trong việc gặp gỡ các doanh nghiệp FDI không chỉ để tháo gỡ các vướng mắc của các doanh nghiệp mà thông qua đó có thể quản lý tốt hơn các doanh nghiệp FDI sau cấp phép. Sở Kế Hoạch và Đầu tư là đơn vị chuyên ngành tham mưu giúp UBND thành phố trực tiếp thực hiện công tác quản lý Nhà nước về toàn bộ hoạt động đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố. Sở Kế Hoạch và Đầu tư có trách nhiệm phối hợp với các ngành chuyên môn để thực hiện vai trò quản lý Nhà nước của mình. Các ngành chuyên môn liên quan trực tiếp như tài chính, thuế, địa chính, xây dựng, công nghiệp, du lịch phải đề cao trách nhiệm quản lý chuyên ngành và cần có bộ phận chuyên trách với đội ngũ cán bộ am hiểu chuyên môn, có đạo đức tốt, có năng lực đối ngoại để làm việc và giải quyết trực tiếp với các doanh nghiệp FDI. Nâng cao năng lực, trách nhiệm sự phối hợp chặt chẽ và thống nhất của các cơ quan hữu quan trong việc tiếp nhận, thẩm định xét duyệt các dự án đầu tư, tránh tình trạng các cơ quan chức năng thiếu sự phối hợp và ý kiến khác nhau khi tiếp nhận một dự án. Quy trình làm việc phải thông thoáng, nhanh chóng và trên tinh thần phục vụ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và vì sự nghiệp phát triển của thành phố. Tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong việc thẩm định và cấp giấy phép. Cải tiến mạnh mẽ các thủ tục cấp giấy phép đầu tư, đơn giản hoá các thủ tục hành chính theo nguyên tắc “một cửa”. Với các dự án phải lập báo cáo, cơ quan thẩm định phải tiến hành khẩn trương và bảo đảm độ chính xác cao để vừa rút ngắn thời gian đăng ký, vừa hạn chế được các công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Thu thập các thông tin về công nghệ tiên tiến của thế giới. Tạo điều kiện cho các DNFDI sau khi được cấp phép triển khai nhanh và sớm đi vào hoạt động SX-KD, UBND Thành phố Đà Nằng cần nhanh chóng giải quyết một số vấn đề sau : - Giao Sở Tài nguyên, Môi trường và Nhà đất tiến hành đo đạc, lập bản đồ địa chính một làn và đơn giản hoá mọi thủ tục khác về giao đất, cho thuê đất; - Tiến hành nhanh chóng công tác đền bù, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án FDI đã cấp giấy phép, hoãn hoặc miễn tiền thuê đát đối với các dự án xin dừng hoặc giãn tiến độ thực hiện do khó khăn; cấp giấy chứng nhận lại cho các doanh nghiệp thuê lại đất trong các KCN để đẩy nhanh tiến độ lấp đầy KCN. - Về thủ tục quản lý xây dựng cơ bản theo thiết kế đã đăng ký, cần được tổ chức chặt chẽ nhưng không được can thiệp quá sâu; cơ quan QLNN về xây dựng cơ bản cần thực hiện đúng chức năng, thẩm quyền của mình, đồng thời cải tiến các thủ tục theo hướng gọn nhẹ và hiệu quả; coi trọng công tác kiểm tra giám sát thực hiện tiến độ đầu tư theo đúng quy định khi cần có thể điều chỉnh ngay, tránh gây phiền hà, lãng phí. Thành phố Đà Nẵng cần giải quyết kịp thời các kiến nghị của doanh nghiệp FDI, tháo gỡ các ách tắc, điều chỉnh, bổ sung các chính sách biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời tập trung chỉ đạo điều hành xử lý nghiêm hành vi vi phạm của các nhà ĐTNN tại thành phố Đà Nẵng. Đối với các DNFDI chưa đi vào sản xuất kinh doanh, Thành phố cần phối hợp với doanh nghiệp tìm ra các nguyên nhân gây ách tắc từ đó tập trung tháo gỡ. Bãi bỏ các thủ tục không cần thiết, công bố rõ ràng quy trình, trách niệm, thời gian xử lý các thủ tục. Xử lý công bằng, nghiêm minh, kịp thời các hiện tượng vòi vĩnh gây sách nhiễu đối với các nhà đầu tư; cung cấp, giới thiệu cho các nhà ĐTNN những đối tác trong nước có tiềm lực tài chính phù hợp với từng dự án. Đối với những dự án sắp hết hạn hoạt động cần chủ động tiếp xúc với các doanh nghiệp này để vận động họ gia hạn hoạt động, hoặc hướng họ đầu tư vào dự án mới. Có như vậy, hoạt động FDI liên tục được phát triển, thể hiện quan điểm của Đà Nẵng là luôn luôn bám sát, hỗ trợ các nhà ĐTNN cả khi khó khăn và khi thành công. 3.3.5. Tăng cường giám sát các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được cấp phép và hoạt động Hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các dự án sau khi hoàn thành xây dựng công trình đi vào hoạt động có ý nghĩa rất lớn đến tăng trưởng phát triển kinh tế - xã hội của Đà Nẵng. Việc tạo môi trường như nhau cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh bình đẳng, công bằng, đúng pháp luật trên thị trường để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh cho doanh nghiệp FDI. Môi trường đó phải bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp, cho xã hội và cho người lao động. Nắm bắt, đánh giá và khuyến khích các doanh nghiệp FDI hoạt động có lãi, tăng giá trị xuất khẩu, thực hiện đúng định hướng và quy định của Nhà nước, đồng thời ngăn chặn kịp thời những tiêu cực, gian lận trong hoạt động kinh doanh thương mại của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là rất cần thiết. Nhìn chung, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là những chi nhánh của các tập đoàn kinh tế hoạt động trên địa bàn rộng khắp thế giới, với nhiều kinh nghiệm và sự hiểu biết sâu sắc về thị trường, những quy định của pháp luật sở tại và cũng có nhà đầu tư tận dụng các kẽ hở của pháp luật, thậm chí một số còn lợi dụng trình độ quản lý non kém của các cơ quan quản lý Nhà nước để thu lợi nhuận bất hợp pháp hoặc trốn tránh nghĩa vụ, hoặc gian lận thương mại, vi phạm các quy định trong pháp luật gây thiệt hại cho Việt Nam hoặc phía Việt Nam trong liên doanh. Trước tình hình đó, việc tăng cường theo dõi, giám sát và nâng cao trình độ quản lý, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sau cấp giấy phép là một đòi hỏi hết sức cần thiết. Nó xuất phát từ cả phía Nhà nước và phía các doanh nghiệp, các chủ đầu tư để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh. Vừa kiểm soát nhưng đồng thời vừa phải có những giải phá xử lý, ngăn chặn kịp thời những tiêu cực trước khi phát sinh, vừa có những giải pháp trợ giúp cần thiết, hợp lý để các doanh nghiệp FDI hoạt động theo đúng quy định, mục đích như trong giấy phép đã được cấp. Hoàn thiện quy trình quản lý kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp FDI tại Đà Nẵng sau khi được cấp giấy phép đầu tư cần tập trung vào: Quản lý, theo dõi chặt chẽ khâu đầu tư xây dựng cơ bản, thực hiện triển khai dự án trong giai đoạn đầu. Vấn đề rất quan trọng là phải đảm bảo thực hiện dự án đúng tiến độ, đúng quy định về thiết kế, kiến trúc công trình; đúng mục đích thực hiện dự án được phê duyệt và giám sát được những đảm bảo về trình độ kỹ thuật, công nghệ lựa chọn, về mặt giá trị thiết bị công nghệ nhập và những vấn đề tài chính có liên quan trong triển khai thực hiện dự án... Tạo điều kiện để các dự án được triển khai nhanh chóng và theo dõi sát tình hình thực hiện dự án về tiến độ và giá trị thực hiện công trình. Tăng cường theo dõi, quản lý hoạt động xây dựng cơ bản các công trình đầu tư nước ngoài, phát hiện xử lý kịp thời những vi phạm về xây dựng, thết kế đã được duyệt, kể cả các hạng mục đã được phê duyệt như chiều cao, kiểu cách thiết kế. Hạn chế tối đa tình trạng vi phạm xảy ra sau khi công trình đã xây dựng xong, bởi vì việc giải quyết hậu quả sau khi xây dựng xong công trình vừa gây tốn kém nguồn lực, vừa gây dư luận không tốt trong xã hội. Đảm bảo trách nhiệm và sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước về trật tự xây dựng, thanh tra thành phố, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở địa chính... Quy định rõ trách nhiệm khi buông lỏng quản lý, không theo dõi thường xuyên, phát hiện chậm hoặc để xảy ra những hậu quả phải khắc phục đối với từng tổ chức, cá nhân và cán bộ lãnh đạo. Nâng cao trách nhiệm trước Uỷ ban nhân dân Thành phố của các trưởng ban, ngành có chức năng quản lý trực tiếp, không để tình trạng đổ lỗi cho nhau. Cùng với giám sát chặt chẽ hoạt động thi công công trình cần tăng cường kiểm tra, giám sát công tác thanh quyết toán công trình sau khi hoàn thành xây dựng công trình, xác nhận vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tất cả các dự án đều phải có báo cáo đầy đủ theo đúng quy định về tình hình đầu tư xây dựng, nguyên vật liệu đầu vào và công nghệ nhập khẩu. Đây là khâu còn yếu do trình độ cán bộ quản lý và sự hiểu biết, nắm bắt thông tin về công nghệ trên thị trường thế giới còn hạn chế của đội ngũ cán bộ quản lý. Thực hiện tốt công tác giám định, đánh giá, kiểm soát các chi phí đầu vào. Đánh giá đúng giá trị thực của nguồn nguyên liệu. Tránh tình trạng để các doanh nghiệp khai khống giá trị nguyên liệu đầu vào, giảm giá đầu ra và thực hiện chuyển lợi nhuận ra bên ngoài. Tổ chức đánh giá đúng giá trị thực của thiết bị, không để nâng giá quá cao. Kiểm soát chặt chẽ về giá cả và trình độ công nghệ. Trong trường hợp chúng ta chưa đủ khả năng thẩm định chi phí, trình độ công nghệ, cần mạnh dạn thuê các tổ chức nước ngoài để đánh giá. Tuy chi phí kiểm định có tăng lên nhưng bù lại lợi ích từ hoạt động đó lớn hơn nhiều khi nhập phải công nghệ không thích hợp hoặc lạc hậu hoặc giá cả bị khai khống lên. Xây dựng và triển khai thực hiện chế tài xử lý các doanh nghiệp FDI không nộp báo cáo hoặc có báo cáo nhưng nội dung sơ sài, không đúng yêu cầu hoặc nộp chậm so với quy định. Đối với các doanh nghiệp FDI đã đi vào hoạt động cần tiếp tục tăng cường giám sát, theo dõi quá trình hoạt động một cách thường xuyên, đảm bảo doanh nghiệp hoạt động đúng quy định của pháp luật, đúng mục đích; phát hiện và ngăn chặn kịp thời những vi phạm quy định trong giấy phép đầu tư và pháp luật của Nhà nước. Việc theo dõi, kiểm soát của Nhà nước ngoài việc nắm bắt tình hình hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật còn tạo cơ sở thông tin cần thiết cho giải quyết kịp thời những vướng mắc phát sinh trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp này. Khi thực hiện theo dõi, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần tuân thủ những yêu cầu sau : + Việc theo dõi, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh cần tuân thủ nguyên tắc nắm bắt được tình hình chung về những chỉ tiêu kinh tế chủ yếu, cần thiết theo đúng quy định, nhưng không gây cản trở cho hoạt động của các doanh nghiệp. + Phục vụ việc giải quyết, tháo gỡ kịp thời những khó khăn của các doanh nghiệp đang hoạt động. + Giảm bớt đầu mối kiểm tra, kiểm soát nhưng tăng cường quy định hệ thống báo cáo định kỳ về những vấn đề chính. Trong những năm gần đây tại một số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài xảy ra việc công nhân đình công tự phát, không tổ chức làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng. Tại Đà Nẵng, mặc dù chưa xảy ra tình trạng này, song qua bài học của các Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Hải Phòng, Thành phố Đà Nẵng nên rút kinh nghiệm chú trọng hơn nữa vào các hoạt động Đảng, Đoàn thể trong các doanh nghiệp FDI. Việc làm tốt công tác Đảng, Công đoàn và các Đoàn thể quần chúng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tạo điều kiện phát huy tốt nội lực từ lực lượng công nhân của Việt Nam đang làm việc ở đây. Nó không chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi của công nhân mà còn giúp đấu tranh chống lại những sai trái của chủ đầu tư, làm lành mạnh môi trường đầu tư. Đà Nẵng nên chủ động, để sớm có quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, các Ngành trong việc quản lý hoạt động FDI theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan QLNN. Đặc biệt cần phân định rõ chức năng nhiệm vụ của Ban QLKCN Đà Nẵng với Sở KH-ĐT Thành phố. Cần quy định cụ thể chế độ kiểm tra của các cơ quan QLNN để chấm dứt sự kiểm tra tuỳ tiện, nhưng vẫn đảm bảo được sự giám sát của các cơ quan QLNN. 3.3.6. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực Đầu tư trực tiếp nước ngoài không còn là lĩnh vực mới mẻ song kiến thức và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ nhìn chung chưa có nhiều. Từ thực tế công tác này trong những năm qua đã chỉ rõ sự yếu kém của cán bộ. Vì vậy để có đủ một lực lượng cán bộ cho công tác này cần phải có kế hoạch đào tạo một cách thường xuyên liên tục. Đối với cán bộ, công chức đang làm công tác QLNN đối với hoạt động FDI, cần tổ chức đào tạo theo nhiều hình thức như tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp, ngoại ngữ, nhằm nâng cao trình độ hiểu biết chuyên môn, tinh thần trách nhiệm trong công việc và đào tạo nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu công việc trong tình hình mới. Về lâu dài, cần tuyển chọn các sinh viên tốt nghiệp đại học loại giỏi thuộc các chuyên ngành như: kinh tế đối ngoại, luật kinh tế... vào làm việc theo chế độ công chức dự bị tại Sở KH-ĐT, Ban Quản lý các KCN; sau đó tổ chức cho thi công chức và nếu trúng tuyển cho đi đào tạo tiếp ở nước ngoài. Đây là nguồn nhân lực có chất lượng cao bổ sung cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác QLNN đối với hoạt động FDI, đồng thời có thể cử họ tham gia vào Hội đồng quản trị các DNLD mà đối tác phía Việt Nam là các doanh nghiệp nhà nước. Công tác cán bộ và đào tạo phải hướng vào việc nâng cao trình độ quản lý của cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi để đảm trách những công việc trong các DNFDI. Không chỉ thông qua hệ thống các trường chuyên ngành trong nước để đào tạo cán bộ chuyên trách hoạt động trong lĩnh vực FDI mà cần mạnh dạn gửi ra nước ngoài đào tạo cũng như thuê các chuyên gia hàng đầu của nước ngoài vào làm việc ở những khâu mà ta chưa đảm đương được hoặc còn yếu (chẳng hạn kiểm toán...). Điều chỉnh mạnh về nhân sự, nhất là cán bộ chủ chốt liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại và đặc biệt là trong lĩnh vực FDI. Có đề án dài hạn về đào tạo và sử dụng cán bộ nguồn trẻ, được tạo cơ bản và xuất thân từ những sinh viên tốt nghiệp xuất sắc các trường đại học trong nước hoặc ngoài nước. Đó cũng chính là cách để nhanh chóng tiếp cận được những kỹ năng trong hoạt động đầu tư đáp ứng tốt hơn cho công việc trước mắt và lâu dài. Song song, với công tác đào tạo cán bộ, cần chú trọng tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các DNFDI theo các chương trình phù hợp nhu cầu và triển vọng sử dụng thực tế số lao động này. Khuyến khích và có quy định cụ thể đối với các DNFDI về đào tạo tay nghề, nhất là huấn luyện kỹ thuật; có chính sách yêu cầu các DNFDI có kế hoạch đào tạo công nhân và cán bộ quản lý doanh nghiệp. Coi trọng chính sách đón đầu trong giáo dục đào tạo nhân lực về lâu dài cần thiết phải đưa vào chương trình cải cách giáo dục chương trình đào tạo kỹ thuật và các kỹ năng kinh doanh. Xây dựng thêm một số trung tâm đào tạo cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề mà trước hết là phục vụ cho các DNFDI. Tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục và giảm bớt các phí tổn về thị thực nhập cảnh, tạo điều kiện thuận lợi về thu nhập, nhà ở... để thu hút các cán bộ kỹ thuật, các nhà khoa học và những người điều hành kinh doanh nước ngoài đến làm việc tại thành phố Đà Nẵng. 3.3.7. Phát triển công nghiệp phụ trợ Công nghiệp phụ trợ (CNPT) là khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là những linh kiện, phụ kiện, phụ tùng... Do sự phân công lao động quốc tế ngày càng cao nên không phải tất cả các công ty trên thế giới đều sản xuất ra một sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó. một sản phẩm có thể được lắp ráp từ các bộ phận khác nhau do các nước khác nhau sản xuất. Xu hướng chung là sản phẩm cuối cùng đưa ra thị trường phải gần thị trường tiêu thụ lớn để giảm bớt chi phí sản xuất, vận chuyển, vận hành bảo dưỡng... Do vậy trong thời gian đến, Thành phố Đà Nẵng cần tập trung kêu gọi các nhà đầu tư (trong và ngoài nước) đầu tư vào các ngành công nghiệp phụ trợ. Bởi vì ngoài hiệu quả tạo công ăn việc làm, CNPT còn đóng vai trò rất quan trọng trong việc tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp. CNPT còn đóng vai trò rất quan trọng trong việc tăng sức cạnh tranh sản xuất sản phẩm cuối cùng sẽ phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, phí tổn tiền chuyên chở và bảo hiểm sẽ làm tăng phí tổn đầu vào làm giá thành sản phẩm mất tính cạnh tranh. Khảo sát thực tế về doanh nghiệp FDI hoạt động ở Đà Nẵng cho thấy, do tình hình hoạt động kém hiệu quả của doanh nghiệp nội địa, các doanh nghiệp FDI rất muốn tăng tỷ lệ nội địa hoá để giảm giá thành sản phẩm nhưng ít tìm được nguồn cung cấp CNPT đáng tin cậy. Đặc biệt những doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc những doanh nghiệp hướng vào xuất khẩu có khuynh hướng dùng linh kiện và nguyên liệu nhập khẩu hoặc do các công ty FDI khác sản xuất. Chẳng hạn trường hợp của công ty liên doanh may mặc xuất khẩu Đà Nẵng sản xuất hàng may mặc tại khu công nghiệp Hoà Khánh, tỷ lệ nội địa hoá về nguyên vật liệu chính (sợi và vải) chỉ là 1% đến 3%. Như vậy, trong thời gian đến Thành phố Đà Nẵng cần phải tăng cường tìm kiếm các nguồn FDI đầu tư vào CNPT, phát triển các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật. KẾT LUẬN Đề tài “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng” là quá trình nghiên cứu những vấn đề về QLNN đối với DN ĐTNN, nhất là về hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách, bộ máy quản lý của Nhà nước đối với DNĐTNN ở thành phố Đà Nẵng. Trong phạm vi của luận văn Thạc sỹ kinh tế, đề tài đã giới hạn và chỉ tập trung phân tích nội dung cơ bản nhất về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, những tác động tích cực và ảnh hưởng tiêu cực của DN ĐTNN đối với kinh tế thành phố Đà Nẵng kể từ khi ban hành Luật ĐTNN đến nay. Đánh giá những kết quả đạt được của quá trình quản lý nhà nước đối với DN ĐTNN cũng như phân tích thực trạng QLNN đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua, chỉ ra những vấn đề tồn tại trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp này như về: công tác quy hoạch; hệ thống phát luật và cơ chế chính sách; bộ máy QLNN; công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra. Trên cơ sơ đó đề xuất nhưng giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới. Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành Đề tài, được sự hướng dẫn, giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa và đặc biệt là của thầy giáo trực tiếp hướng dẫn. Đề tài mang tính khởi đầu, chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết, mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và các bạn đọc. Xin cảm ơn ! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Kế hoạch và đầu tư (2001), Các quy định pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cục Thống kê Đà Nẵng (2005), Thành phố Đà Nẵng 30 năm xây dựng và đầu tư (1975-2005), Nxb Đà Nẵng. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (2006), Văn kiện Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ thành phố Đà Nẵng. Trần Xuân Giá (2005), "Môi trường và chính sách đầu tư nước ngoài tại Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (3). Phạm Hảo (2005), "Kỳ vọng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam", Báo Đà Nẵng, (11). Phan Quỳnh Hương (2005), "Làm thế nào thu hút đầu tư TTNN tại Đà Nẵng", Báo Đà Nẵng, (11). Phan Thị Mỹ Hạnh (2000), Đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư TTNN tại tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Nguyễn Thị Hường ( ), Giáo trình quản trị dự án và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, Tập 1, Nxb Thống kê, Hà Nội. Hoàng Văn Huấn (1995), Hoàn thiện chính sách và giải pháp thu hút FDI ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. TS. Hoàng Văn Huấn (2001), "Chính sách khuyến khích DDTNN của Việt Nam", Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 25/12/2001. TS. Vũ Chí Lộc (1997), Giáo trình ĐTNN, Nxb Giáo dục, Hà Nội. TS. Vũ Chí Lộc, TS. Phạm Sỹ Chung, TS. Nguyễn Văn Hoa (2001), Tiếp tục hoàn thiện công tác QLNN về XNK đối với các doanh nghiệp ĐTNN, Đề tài nghiên cứu khoa học, Bộ Thương mại, Hà Nội. Hồ Vĩnh Lộc (2001), Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. TS. Lê Chi Mai (1998), "Đổi mới quản lý nhà nước đối với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài", Tạp chí Quản lý nhà nước, (5), tr.14-19. Nguyễn Nhạc (1999), "Tiếp tục phân cấp, uỷ quyền đối với quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài", Kinh tế và dự báo, (1), tr.6-9. Phùng Xuân Nhạ (2001), Đầu tư quốc tế, Nxb Đại quốc Quốc gia, Hà Nội. Đặng Đức Quy (1999), "Đầu tư trực tiếp nước ngoài những gam màu sáng tối", Tạp chí Cộng sản, (2), tr.29-32. Đào Xuân Sâm (2000), Viết theo dòng đổi mới tư duy kinh tế, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Ngô Công Thành (2000), Thực trạng và xu hướng phát triển của các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Luận văn tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Võ Thanh Thu (2004), Kỹ thuật đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nxb Thống kê, Hà Nội. Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2001), Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng thời kỳ 2001-2010. Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (4-2004), Quyết định số 50/2004/QDD-UB về việc ban hành văn bản quy định một số chính sách ưu đãi nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư FDI vào thành phố Đà Nẵng. Phan Thế Vinh (2003), "Rút giấy phép của các dự án FDI", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (3). Imad A.Moosa (2002), FDI Theory, Evidece and Practice, Nxb Palgrade. UNCTAD (1999), World Investment Report, New York and Geneve. FDI GLOSSARY IMF/CECD. OECD Benchmark (1999), Denefition of FDI. MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 5. Phương pháp nghiên cứu 4 6. Đóng góp mới về lý luận và thực tiễn 4 7. Kết cấu của luận văn 5 Chương 1 6 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐỊA BÀN CẤP TỈNH 6 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 6 1.1.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 6 1.1.2. Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 12 1.1.3. Tác động kinh tế - xã hội của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến địa bàn tiếp nhận đầu tư 14 1.1.3.1. Tác động tích cực 14 1.1.3.2. Tác động tiêu cực 17 1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐỊA BÀN CẤP TỈNH 19 1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh 19 1.2.2. Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 21 1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 23 1.2.3.1 Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 23 1.2.3.2. Ban hành chính sách và pháp luật 26 1.2.3.3 Cấp và điều chỉnh giấy phép đầu tư 28 1.2.3.4. Kiểm tra, thanh tra và giám sát 29 1.3. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ 30 1.3.1. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước 30 1.3.1.1. Kinh nghiệm của thành phố Hà Nội 30 1.3.1.2. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp của Quảng Nam 31 1.3.1.3. Kinh nghiệm ở Đồng Nai 32 1.3.2. Kinh nghiệm quốc tế 33 1.3.2.1. Bài học kinh nghiệm của Trung Quốc trong quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI 33 1.3.2.2. Kinh nghiệm của Thái Lan 35 1.3.3. Những bài học có thể vận dụng vào thực tiễn của Đà Nẵng 36 Chương 2 38 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 38 2.1. THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 38 2.1.1. Khái lược điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng 38 2.1.2. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng 41 2.1.2.1. Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn năm 1997 – 2000 (xem bảng 2.1) 41 2.1.2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2001 – 2005 48 2.1.3. Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng 55 2.1.3.1. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI giai đoạn 1997 đến 2000 55 2.1.3.2. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI giai đoạn 2001 – 2005 57 2.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP FDI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 59 2.2.1. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 59 2.2.2. Xây dựng và ban hành danh mục dự án thu hút FDI 60 2.2.3. Cấp và điều chỉnh giấy phép đầu tư 61 2.2.4. Kiểm tra, thanh tra và giám sát 62 2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 63 2.3.1. Những kết quả đạt được 63 2.3.2. Những hạn chế 66 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế 67 Chương 3 69 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 69 3.1. BỐI CẢNH TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 69 3.1.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế tác động đến quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng 69 3.1.2. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu thu hút FDI của thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn 2006 -2010 72 3.1.3. Mục tiêu thu hút FDI vào Đà Nẵng đến 2010 73 3.2. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 75 3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 78 3.3.1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch 78 3.3.2. Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư 82 3.3.3. Hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, dịch vụ 85 3.3.4. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính 87 3.3.5. Tăng cường giám sát các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được cấp phép và hoạt động 90 3.3.6. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực 94 3.3.7. Phát triển công nghiệp phụ trợ 95 KẾT LUẬN 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2668.doc
Tài liệu liên quan