MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
KBNN Kho bạc Nhà nước
NSNN Ngân sách Nhà nước
XDCB Xây dựng cơ bản
ODA Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
CĐT Chủ đầu tư
TTVĐT Thanh toán vốn đầu tư
UBND Ủy ban nhân dân
TW Trung ương
ĐTKB/LAN Chương trình đầu tư Kho bạc chạy trên mạng LAN
EPC (Engineering - Procurenment - Construction) Hợp đồng Thiết kế - Cung ứng vật tư thiết bị - Xây lắp
TABMIS Hệ thống thông
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1737 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện quản lý kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước của Kho bạc Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tin quản lý ngân sách và kho bạc
PFMRP Dự án Cải cách Quản lý Tài chính công
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng, biểu số liệu:
Bảng 2.1: Tình hình thanh toán vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn NSNN giai đoạn 2001-2008
Bảng 2.2: Kế hoạch vốn đầu tư thông báo sang KBNN giai đoạn 2001- 2008
Bảng 2.3: Tình hình kiểm soát thanh toán đầu tư XDCB của NSNN của KBNN
Sơ đồ
Sơ đồ 2.1: Quy trình thông báo kế hoạch vốn hàng năm cho các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách trung ương
Sơ đồ 2.2: Quy trình thông báo kế hoạch vốn hàng năm cho các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách địa phương
Sơ đồ 2.3: Quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản và luân chuyển chứng từ của Kho bạc Nhà nước
Sơ đồ 3.1: Quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản và luân chuyển chứng từ của Kho bạc Nhà nước
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cạnh thị trường hiện nay, Việt Nam đang gặp phải suy thoái kinh tế do ảnh hưởng của sự suy thoái toàn cầu bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng địa ốc xảy ra ở Mỹ năm 2007. Để kích cầu nền kinh tế nhằm đưa Việt Nam quay trở lại mức tăng trưởng như cũ thì Chính phủ phải sử dụng một gói gồm nhiều giải pháp, trong đó có đẩy mạnh đầu tư công bằng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn Ngân sách Nhà nước. Để nguồn vốn này được sử dụng hiệu quả đòi hỏi phải có một quy trình kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện giải ngân vốn sao cho phù hợp, chính xác và đúng mục đích.
Quá trình quản lý vốn đầu tư trong những năm vừa qua đã mang lại những thành tựu thực tiễn đóng góp đáng kể vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội như hiện đại hóa cơ sở hạ tầng đất nước như giao thông đường xá, bệnh viện, trường học, tạo công ăn việc làm cho người dân thông qua xây dựng các công trình mới, làm tăng phúc lợi xã hội… Tuy vậy trong quá trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư vẫn còn một số hạn chế vướng mắc theo đó cần phải giải quyết để hoàn thiện quá trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản nhằm sử dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn vốn này.
Xuất phát từ thực tiễn trên, em xin chọn đề tài nghiên cứu “Hoàn thiện quản lý kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước của Kho bạc Nhà nước”.
Đề tài tập trung nghiên cứu công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước, giai đoạn 2001 - 2008.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung nghiên cứu của luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận.
Chương II: Thực trạng kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước của Kho bạc Nhà nước.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện quản lý kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước của Kho bạc Nhà nước.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản
1.1.1. Khái niệm Bộ môn kinh tế đầu tư Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2003), NXB Thống kê, Kinh tế đầu tư, trang 49-62.
Vốn đầu tư theo một cách tổng quát nhất là những chi phí bỏ ra để thực hiện một mục đích đầu tư nào đó. Chi phí ở đây có thể là tiền hay những tài sản hợp pháp khác có thể sử dụng để đầu tư được. Chi phí trong đầu tư gồm các khoản sau:
Chi phí để tạo ra các tài sản cố định mới hoặc bảo dưỡng sự hoạt động của các tài sản cố định có sẵn;
Chi phí để tạo ra hoặc tăng thêm các tài sản lưu động;
Chi phí chuẩn bị đầu tư;
Chi phí dự phòng cho các khoản chi phát sinh không dự kiến trước được.
Chủ đầu tư là những cá nhân hoặc tổ chức có tư cách pháp nhân bỏ vốn đầu tư hoặc đại diện hợp pháp của người bỏ vốn đầu tư. Đối với các dự án sử dụng vốn Nhà nước thì Chủ đầu tư là những tổ chức có tư cách pháp nhân được Nhà nước giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý, sử dụng vốn đầu tư theo quy định của pháp luật. Chủ đầu tư trong các dự án Nhà nước không phải là người trực tiếp bỏ vốn đầu tư mà người bỏ vốn đầu tư là Nhà nước, còn Chủ đầu tư chỉ là người đại diện hợp pháp của người bỏ vốn đầu tư. Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Khoa Khoa học quản lý, Hiệu quả và quản lý dự án nhà nước, NXB Khoa học và Kỹ thuật, trang 239-240.
Nếu phân loại đầu tư theo nội dung kinh tế thì đầu tư được chia thành 3 loại:
Đầu tư vào lực lượng lao động nhằm mục đích tăng về số lượng và chất lượng, đó là sức lao động thông qua việc tuyển mộ, thuê mướn và đào tạo chuyên gia cán bộ quản lý và công nhân.
Đầu tư vào tài sản lưu động nhằm bảo đảm sự hoạt động liên tục nhịp nhàng của quá trình sản xuất kinh doanh, đó là tư liệu sản xuất giá trị nhỏ, nguyên vật liệu, tiền tệ phục vụ cho quá trình kinh doanh.
Đầu tư xây dựng cơ bản: xây dựng mới hay tái xây dựng (còn gọi là Sửa chữa lớn) cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình trọng điểm của đất nước như đường xá, bến cảng, hầm mỏ, các khu quân sự… các tài sản cố định của doanh nghiệp như nhà xưởng, các công trình hạ tầng và đầu tư cho thiết bị máy móc, công nghệ…
Đầu tư xây dựng cơ bản đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực sản xuất của từng ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tạo điều kiện phát triển và giải phóng sức lao động, tăng thu nhập quốc dân dẫn tới biến đổi đáng kể mọi mặt của nền kinh tế cả về vật chất và tinh thần. Chính vì vai trò to lớn của đầu tư xây dựng cơ bản nên cần phải có một lượng vốn lớn dành cho nó, gọi là vốn đầu tư xây dựng cơ bản, đó là những chi phí bằng tiền để xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế quốc dân. Do hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản luôn cần một số lượng vốn rất lớn để sử dụng cho nên số vốn này cần phải được tính toản một cách chuẩn xác, nếu không sẽ dẫn tới sự lãng phí tiền của rất lớn.
1.1.2. Đặc điểm
Đặc điểm vốn đầu tư xây dựng cơ bản gắn liền với đặc điểm của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản và công tác xây dựng cơ bản.
Do nhu cầu và mức độ đầu tư xây dựng cơ bản phụ thuộc và chịu sự quyết định bởi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước, phụ thuộc vào số dự án và mức độ đầu tư cho các dự án trong năm, phụ thuộc vào khả năng nguồn vốn của nhà nước, vì vậy đầu tư xây dựng cơ bản đòi hỏi một lượng vốn lớn song lượng vốn đó không mang tính ổn định hàng năm
Chất lượng và giá cả sản phẩm xây dựng chịu ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện tự nhiên vì sản phẩm xây dựng có tính cố định, nơi sản xuất gắn liền với nơi tiêu thụ sản phẩm, phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện địa chất, thuỷ văn, khí hậu. Do vậy, quản lý thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản là một công việc hết sức phức tạp, việc hạn chế thất thoát, lãng phí vốn đầu tư xây dựng cơ bản do nguyên nhân khách quan đặt ra cho các nhà quản lý vốn đầu tư phải có những biện pháp, cơ chế chính sách quản lý phù hợp.
Sản phẩm xây dựng có quy mô lớn, kết cấu phức tạp. Do vậy, vốn đầu tư bỏ vào để xây dựng dễ bị ứ đọng, gây lãng phí, hoặc nếu thiếu vốn sẽ làm công tác thi công bị gián đoạn, kéo dài thời gian xây dựng.
Sản phẩm xây dựng được tạo ra trong một thời gian dài, vốn đầu tư được cấp theo tiến độ thi công của công trình, nên quá trình cấp vốn và giám sát việc sử dụng vốn phải được thực hiện theo những nguyên tắc chặt chẽ, tiết kiệm, đẩy nhanh tiến độ thi công công trình, đưa công trình vào khai thác sử dụng đúng thời gian nhằm phát huy hiệu quả của vốn đầu tư.
Sản phẩm xây dựng cơ bản có thời gian xây dựng dài, nên phải thanh toán khối lượng hoàn thành thành từng phần theo từng hạng mục hay bộ phận công trình hoàn thành có thể đưa vào sử dụng. Vì vậy việc quản lý thanh toán vốn đầu tư phải phù hợp với đặc điểm này để đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và hiệu quả. Từ đặc điểm này làm cho công tác quản lý thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản gặp nhiều khó khăn vì thời gian giải ngân cũng dài theo chu kỳ sản xuất và biến động giá vật liệu xây dựng, biến động về tỷ giá ngoại hối đối với các dự án được đầu tư bằng ngoại tệ, biến động về cơ chế chính sách. Nếu chờ xây dựng xong công trình mới thanh toán vốn đầu tư sẽ làm cho các đơn vị thi công không có vốn hoạt động hoặc phá sản vì nợ ngân hàng (vay vốn lưu động để mua vật tư, vật liệu, trả lương công nhân,…trong quá trình thi công công trình). Từ đó, đòi hỏi phải có các phương thức thanh toán thích hợp.
Giá cả công trình xây dựng cơ bản không thể xác định một cách đơn giản vì sản phẩm xây dựng cơ bản mang tính chất đơn chiếc, riêng lẻ. Mỗi sản phẩm đều có thiết kế riêng theo yêu cầu nhiệm vụ của thiết kế, mỗi công trình có yêu cầu riêng về công nghệ, về quy phạm, về tiện nghi, mỹ quan và an toàn, khối lượng và chất lượng, chi phí xây dựng công trình đều khác nhau, mặc dù về hình thức có thể giống nhau khi xây dựng trên những địa điểm khác nhau. Vì thế cần phải xây dựng giá dự toán riêng cho từng công trình với sự cấu thành của nhiều yếu tố phức tạp tuỳ theo kết cấu công trình và theo từng khu vực, địa phương. Do vậy, khi công trình hay hạng mục công trình, bộ phận công trình hoàn thành, vốn phải được cấp sát với giá trị khối lượng thực tế hoàn thành và đúng giá dự toán của khối lượng thực tế hoàn thành.
Sản phẩm xây dựng cơ bản không qua thị trường tiêu thụ, nó chỉ được kiểm nhận bàn giao giữa chủ đầu tư và đơn vị thi công xây dựng công trình tại địa điểm xây dựng. Đặc điểm này đòi hỏi khi cấp vốn đầu tư từng lần theo khối lượng hoàn thành phải đúng theo thiết kế của công trình, để đảm bảo chất lượng và tiết kiệm.
1.1.3. Vai trò của Vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Tùy theo đặc điểm kinh tế xã hội mà mỗi nước có thể dành ra một tỷ lệ khác nhau của vốn đầu tư xây dựng trong tổng Ngân sách Nhà nước. Đối với Việt Nam trong những năm gần đây, Nhà nước thường dành trên 30% tổng thu Ngân sách để thanh toán cho đầu tư xây dựng cơ bản.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản chiếm một phần khá lớn trong số thu Ngân sách của Nhà nước, vai trò của vốn đầu tư xây dựng cơ bản trước hết đó là nhân tố quan trọng tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Với vai trò là một đầu vào không thể thiếu của quá trình sản xuất, vốn đầu tư xây dựng cơ bản cùng với các nguồn lực khác tạo ra của cải vật chất cho xã hội, quá trình sản xuất này thúc đẩy tích lũy và tiêu dùng ngày càng tăng lên làm cho tốc độ tăng trưởng cao dần đồng thời theo đó là nền kinh tế đạt tới những mốc phát triển mới.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản còn xác định giá trị tài sản cố định của quốc gia, của doanh nghiệp từ đó xác định quy mô tài sản cố định trong nền kinh tế quốc dân. Với tốc độ và quy mô ngày càng lớn thì nó sẽ gây ra chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển cần thiết. Nếu vốn đầu tư xây dựng cơ bản được ưu tiên sử dụng vào những ngành kinh tế phù hợp thì sẽ dẫn tới sự chuyển dịch cơ cầu kinh tế theo hướng hợp lý và ngược lại.
1.2. Các nguồn hình thành Vốn đầu tư xây dựng cơ bản
1.2.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước Bộ môn kinh tế đầu tư Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2003), NXB Thống kê, Kinh tế đầu tư, trang 49-62.
1.2.1.1. Nguồn vốn Nhà nước
Nguồn vốn Ngân sách Nhà nước
Đây chính là nguồn chi của Ngân sách Nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản. Vốn Ngân sách Nhà nước được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau như thuế, phí, lệ phí, lợi nhuận từ các hoạt động kinh tế, vay, viện trợ…
Theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 7 năm 1999 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng thì các dự án sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước bao gồm:
Các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh không có khả năng thu hồi vốn và được quản lý sử dụng theo phân cấp về chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển;
Hỗ trợ các dự án của các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật;
Chi cho công tác điều tra, khảo sát, lập các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép;
Cho vay của Chính phủ để đầu tư phát triển;
Vốn khấu hao cơ bản và các khoản thu của Nhà nước để lại cho doanh nghiệp nhà nước để đầu tư.
Nguồn vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước:
Trong giai đoạn 2001-2005 nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển chiếm khoảng 14% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và nó có xu hướng cái thiện về mặt chất lượng và phương thức tài trợ trong những năm tới.
Nguồn vốn này có tác đụng tích cực trong việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Vốn của các Doanh nghiệp Nhà nước
Doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, quy mô và tốc độ tăng đầu tư của doanh nghiệp phụ thuộc vào quy mô và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phụ thuộc vào chính sách của nhà nước đối với doanh nghiệp (chính sách thuế) và phụ thuộc vào chính sách khuyến khích đầu tư.
Nguồn vốn này chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước, chủ yếu được dùng để đầu tư vào các dự án, công trình mở rộng sản xuất, đối mới tài sản cố định, thiết bị, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp
1.2.1.2. Nguồn vốn của khu vực tư nhân và dân cư
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. nguồn vốn đầu tư phát triển của dân cư phụ thuộc thuộc vào thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình. Mức độ động viên của nhà nước thông qua các chính sách tiền tệ, tài chính khác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn vốn đầu tư của dân cư.
Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đã khuyến khích, động viên và tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các thành phần kinh tế đã làm tăng tỷ lệ đầu tư trực tiếp và gián tiếp của dân cư, từ đó góp phần thúc đẩy nguồn vốn này tham gia vào đầu tư phát triển, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Nguồn vốn của dân cư và tư nhân chủ yếu dùng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh như phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp hoặc đầu tư gián tiếp như mua cổ phiếu, trái phiếu...
1.2.2. Nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài Kho bạc Nhà nước 2008, Tổng hợp bài giảng tập huấn Thanh toán vốn đầu tư tại Huế, trang 28-35.
Ngoài những nguồn vốn trong nước, một quốc gia không thể thiếu được sự hỗ trợ từ những nguồn vốn bên ngoài quốc gia nhằm củng cố hơn nữa Ngân sách của mình cũng như để bù đắp thâm hụt trong cán cân ngoại hối.
Hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt là ODA) là sự hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà tài trợ, bao gồm chính phủ nước ngoài và các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia.
Hình thức sử dụng ODA gồm 2 hình thức: ODA không hoàn lại và ODA vay ưu đãi.
ODA không hoàn lại được ưu tiên sử dụng đối với các dự án:
Xoá đói giảm nghèo, trước hết là nông thôn vùng sâu vùng xa.
Y tế, dân số và phát triển.
Giáo dục, phát triển nguồn nhân lực.
Các vấn đề xã hội (tạo việc làm, cấp nước sinh hoạt, phòng chống dịch bệnh, tệ nạn xã hội,...).
Bảo vệ môi trường, bảo vệ và phát triển tài nguyên thiên nhiên; nghiên cứu khoa học và công nghệ.
Nghiên cứu chuẩn bị các dự án phát triển (quy hoạch, điều tra cơ bản).
Cải cách hành chính, tư pháp, tăng cường năng lực của cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương, địa phương và phát triển thể chế.
Một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
ODA vay ưu đãi được ưu tiên sử dụng trong các dự án:
Xoá đói giảm nghèo, nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Giao thông vận tải, thông tin liên lạc.
Năng lượng.
Cơ sở hạ tầng xã hội (các công trình phúc lợi công cộng, y tế, giáo dục đào tạo, cấp thoát nước, bảo vệ môi trường).
Hỗ trợ một số lĩnh vực sản xuất nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội.
Hỗ trợ cán cân thanh toán.
Một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
1.3. Quản lý nhà nước về vốn đầu tư XDCB từ NSNN
Quản lý của Nhà nước về vốn đầu tư XDCB từ NSNN là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên hoạt động XDCB nhằm sử dụng có hiệu quả nhất nguồn vốn NSNN để đạt được các mục tiêu về phát triển kinh tế, xã hội.
Vốn đầu tư XDCB từ NSNN là một phần trong tổng chi của NSNN, nhà nước là chủ sở hữu vốn. Do vậy, nhà nước có thẩm quyền quản lý và kiểm soát việc sử dụng nguồn vốn này vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, Theo Luật NSNN (2002) quy định: “Mọi tài sản đuợc đầu tư, mua sắm từ nguồn Ngân sách Nhà nước và tài sản khác của Nhà nước phải được quản lý chặt chẽ theo đúng chế độ quy định.” Vì vậy, vốn đầu tư XDCB từ NSNN phải thực hiện theo đúng nguyên tắc, quy định của Pháp luật hiện hành.
Thứ hai, Vốn đầu tư XDCB từ NSNN là khoản chi rất lớn, thường chiếm gần 30% tổng chi NSNN bao quát hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội với những khác biệt khá lớn. Điều đó cho thấy tính chất phức tạp trong công tác kiểm soát thanh toán cho các đối tượng sử dụng vốn đầu tư XDCB từ NSNN.
Thứ ba, Vốn đầu tư XDCB bao quát nhiều dự án, công trình. Hàng năm, cả nước có hơn 20.000 dự án, công trình, trong đó có khoảng 4.000 dự án, công trình do ngân sách Trung ương đầu tư.
Thứ tư, Vốn đầu tư XDCB từ NSNN đuợc phân chia thành nhiều nguồn khác nhau, rất đa dạng, gồm vốn trong nước, vốn ngoài nước. Trong đó lại được chia ra vốn XDCB tập trung, vốn đầu tư chương trình mục tiêu, vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư,…
Thứ năm, Việc quản lý vốn đầu tư phải được thực hiện thống nhất, có sự phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng. Đối với các cơ quan tổng hợp nhà nước như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng… tuỳ theo chức năng nhiêm vụ được Nhà nước giao mà thực hiện việc nghiên cứu ban hành cơ chế chính sách, quy phạm quy chuẩn xây dựng, đơn giá định mức, tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật xây dựng thuộc lĩnh vực quản lý để thực hiện thống nhất trong cả nước. Đối với các Bộ quản lý chuyên ngành nghiên cứu ban hành cơ chế, chính sách, định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá theo từng chuyên ngành. Các Bộ, ngành khác thuộc trung ương và địa phương thì theo chức năng nhiệm vụ được Nhà nước giao mà thực hiện việc quản lý đầu tư và xây dựng thuộc phạm vi mình đảm nhận, như thẩm quyền phê duyệt quyết định đầu tư, duyệt thiết kế kỹ thuật - Tổng dự toán, dự toán, phê duyệt kế hoạch đấu thầu, kết quả đấu thầu, phê duyệt quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành.
Đối tượng sử dụng vốn đầu tư từ NSNN là các công trình, dự án phục vụ lợi ích công cộng, phát triển kinh tế - xã hội… Các dự án, công trình có đặc điểm:
Có tính chất cố định, mang tính đơn nhất, mỗi dự án, công trình đều có thiết kế riêng, yêu cầu riêng về công nghệ, quy phạm, tiện nghi, mỹ quan, an toàn… do địa điểm xây dựng khác nhau, bị chi phối bởi các điều kiện khác nhau.
Có quy mô lớn, kết cấu phức tạp; mang tính tổng hợp về kỹ thuật, kinh tế, văn hoá, xã hội…
Thời gian sử dụng lâu dài và có thể liên quan đến nhiều ngành, vùng, địa phương.
Vì vậy, Nhà nước thống nhất quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN nhằm mục đích sử dụng các nguồn vốn đầu tư do Nhà nước quản lý đạt hiệu quả cao nhất, chống tham ô, lãng phí, đồng thời định hướng, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
1.4. Kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn Ngân sách Nhà nước của Kho bạc Nhà nước
1.4.1. Khái niệm kiểm soát thanh toán vốn đầu tư
Kiểm soát có nghĩa là xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định. Chủ thể trong vai trò kiểm soát có thể sử dụng những công cụ nhất định để thực hiện công tác này, các công cụ để kiểm soát có thể là những công cụ về luật pháp, cưỡng chế; các công cụ về hành chính, thủ tục, giấy tờ, hồ sơ… Kiểm soát được thực hiện trong mọi mặt của một nền kinh tế, từ các hoạt động trong doanh nghiệp tới các hoạt động trong nền kinh tế.
Trong mối quan hệ giữa các cá nhân với tổ chức hay doanh nghiệp thì kiểm soát đóng vai trò như là một công cụ để đánh giá các hoạt động của con người trong một tổ chức, dựa trên quá trình giám sát chặt chẽ trong từng khâu của quá trình sản xuất kiểm soát cho ta một tập hợp các thông tin cần thiết về cả ưu điểm và khuyết điểm trong mỗi khâu, dựa vào đó người ta có thể phát hiện ra những khuyết điểm và sửa chữa kịp thời, đảm bảo cho đầu ra là những sản phẩm hoàn thiện.
Đối với các hoạt động trong nền kinh tế, kiểm soát nhằm tránh những thất thoát, lãng phí không mong muốn nhằm định hướng cho định rõ số chấp nhận tạm ứng hoặc thanh toán, sau đó thực hiện tạm ứng hoặc thanh toán vốn cho các dự án, công trình theo số đã được KBNN chấp nhận.
Tùy theo từng loại dự án và gói thầu cụ thể mà KBNN căn cứ vào đó quy định việc tạm ứng vốn, mức vốn tạm ứng và thu hồi tạm ứng như: gói thầu thi công xây dựng; gói thầu mua sắm thiết bị; gói thầu hoặc dự án thực hiện theo hợp đồng EPC; các hợp đồng tư vấn, quy hoạch; công việc đền bù giải phóng mặt bằng; các dự án cấp bách như xây dựng và tu bổ đê điều, công trình vượt lũ, thoát lũ, công trình giống, các dự án khắc phục ngay hậu quả lũ lụt thiên tai; một số cấu kiện, bán thành phẩm trong xây dựng có giá trị lớn.
Việc thanh toán được thực hiện theo tiến độ hoàn thành của dự án, công trình trên cơ sở khối lượng hoàn thành được nhà thầu và CĐT nghiệm thu, chia theo cơ cấu như thanh toán khối lượng xây lắp hoàn thành, thanh toán khối lượng thiết bị hoàn thành, thanh toán khối lượng công tác tư vấn hoàn thành, thanh toán khối lượng hoàn thành khác.
1.4.2. Vai trò của Kho bạc Nhà nước trong công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư
Do trong một quá trình thực hiện dự án đầu tư XDCB gồm rất nhiều khâu, nhiều bước phức tạp, tính chất của mỗi khâu lại không giống nhau, nội dung thanh toán cho thực hiện dự án, công trình là khoản chi rất khó xác định chính xác, vì thế Nhà nước cần giao cho một cơ quan có thẩm quyền thống nhất thực hiện chức năng kiểm soát thanh toán vốn đầu tư từ NSNN cho các chương trình, dự án đầu tư XDCB. Ngày 20/9/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 145/1999/NĐ-CP về việc tổ chức lại hệ thống Tổng cục Đầu tư phát triển, theo đó từ ngày 01/01/2000 hệ thống KBNN thực hiện nhiệm vụ kiểm soát thanh toán, kế toán, quyết toán vốn đầu tư, vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư và xây dựng thuộc nguồn vốn NSNN các cấp.
Do hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản thường đòi hỏi phải thực hiện trong một thời gian dài, lại mang tính rủi ro cao, mọi kết quả và hiệu quả của quá trình đầu tư chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian do đó nếu không có một sự kiểm soát chặt chẽ dòng chảy của vốn đầu tư thì rất dễ gây ra thất thoáng lãng phí trong quá trình đầu tư. Chính vì thế KBNN thay mặt Bộ Tài chính giữ vai trò thanh toán vốn cho các đơn vị thụ hưởng để thực hiện hoạt động đầu tư theo đúng hợp đồng đã ký kết.
Quỹ ngân sách nhà nước được hình thành chủ yếu từ lợi tức của nhân dân, của những người chịu thuế, của những người đóng góp hay là tiền tiết kiệm của người dân. Hiện nay, một phần lớn số thanh toán đầu tư phát triển được bù đắp bằng nguồn thu từ khai thác dầu khí, tài nguyên rừng, thu cấp quyền sử dụng đất, tài trợ quốc tế…Do vậy, việc quản lý thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước đảm bảo cho việc chi tiêu đúng mục đích, đúng chế độ và có hiệu quả, hạn chế tình trạng lãng phí, tiêu cực. Áp dụng đối với các dự án đầu tư do Kho bạc Nhà nước kiểm soát thanh toán (trừ một số dự án được đầu tư bằng nguồn vốn đặc biệt có hướng dẫn riêng). Đối với các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn khác, nếu chưa có hướng dẫn cụ thể thì Kho bạc Nhà nước vận dụng để kiểm soát thanh toán vốn cho dự án.
1.4.3. Nguyên tắc Kiểm soát thanh toán vốn đầu tư của KBNN
Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn NSNN phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Một là, phân định rõ chức năng quản lý của Nhà nước và phân cấp quản lý về đầu tư và xây dựng phù hợp với từng loại nguồn vốn đầu tư và chủ đầu tư. Thực hiện quản lý đầu tư và xây dựng theo dự án, quy hoạch và pháp luật.
Hai là, quản lý chặt chẽ theo trình tự đầu tư và xây dựng quy định đối với từng loại vốn đối với các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn NSNN, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn do doanh nghiệp nhà nước đầu tư.
Ba là, các khoản thanh toán vốn đầu tư xây dụng cơ bản từ NSNN phải được kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau quá trình cấp phát thanh toán. Các khoản thanh toán phải có trong dự toán NSNN được giao, được phân bổ kế hoạch vốn đầu tư hàng năm, phải đúng chế độ, định mức, được đấu thầu hoặc chỉ định thầu theo quy định của pháp luật và phải được quyết toán vốn đầu tư hàng năm và quyết toán vốn đầu tư khi dự án, công trình hoàn thành đưa vào sử dụng theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các quy định khác của pháp luật về đầu tư và xây dựng.
1.5. Phạm vi, Nội dung kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản của KBNN
1.5.1. Phạm vi
Công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư của Kho bạc Nhà nước được thực hiện đối với các dự án được đầu tư từ nguồn vốn Ngân sách nhà nước và được kiểm soát thanh toán theo các quy định tại Quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư trong nước Quyết định số 297/QĐ-KBNN ngày18/5/2007 và Quyết định số 1539/QĐ-KBNN ngày 11/12/2007 của KBNN; quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư ngoài nước số 25/QĐ-KBNN ngày 14/01/2008 của Tổng giám đốc KBNN; quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách xã, thị trấn theo Quyết định số 1243 /QĐ-KBNN ngày 21/09/2007 của Tổng giám đốc Kho bạc Nhà nước; Công văn số 1290/KBNN-TTVĐT ngày 27/06/2008 của Kho bạc Nhà nước hướng dẫn Kiểm soát thanh toán dự án quy hoạch.
Việc kiểm soát thanh toán áp dụng đối với các dự án đầu tư do Kho bạc Nhà nước kiểm soát thanh toán (trừ một số dự án được đầu tư bằng nguồn vốn đặc biệt). Đối với các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn khác, nếu chưa có hướng dẫn cụ thể thì Kho bạc Nhà nước vận dụng để kiểm soát thanh toán vốn cho dự án.
Quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư quy định việc giao dịch giữa KBNN và chủ đầu tư được thực hiện theo nguyên tắc một cửa, có nghĩa là việc giải quyết công việc từ khâu hướng dẫn, tiếp nhận giấy tờ, hồ sơ và trả kết quả được thực hiện tại một đầu mối là bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của Kho bạc Nhà nước bảo đảm giải quyết công việc nhanh chóng, thuận tiện cho đơn vị giao dịch và Chủ đầu tư.
1.5.2. Nội dung kiểm soát thanh toán vốn đầu tư của KBNN
Về nguyên tắc tất cả các khoản thanh toán đều được kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau quá trình cấp phát thanh toán, đảm bảo các khoản thanh toán phải có trong dự toán được duyệt, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan có thẩm quyền quy định và được thủ trưởng đơn vị sử dụng vốn ngân sách hoặc được người ủy quyền chuẩn chi.
Thanh toán ngân sách cho đầu tư XDCB có những đặc điểm riêng, khác với các khoản thanh toán khác nên kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB có những yêu cầu riêng về căn cứ kiểm soát, bộ máy kiểm soát, trình tự kiểm soát và hồ sơ kiểm soát. Trong đó đáng chú ý là:
Bộ máy kiểm soát phải được tổ chức gọn nhẹ từ Trung ương đến tỉnh, huyện, nơi các dự án, công trình xây dựng, có như vậy cán bộ kiểm soát thanh toán mới có điều kiện, thời gian bám sát tình hình diễn biễn tại hiện trường. Bộ máy kiểm soát thanh toán được tổ chức đầy đủ các phòng ban nghiệp vụ (kế hoạch tổng hợp, kiểm soát thanh toán, kế toán,…) và yếu tố con người. Cán bộ thực hiện nhiệm vụ kiểm soát thanh toán đầu tư phải được tiêu chuẩn hoá, có kiến thức quản lý kinh tế, là người vừa nắm chắc chế độ quản lý đầu tư XDCB, vừa phải là cán bộ kỹ thuật, đồng thời là người có đức tính liêm khiết, trung thực, có phong cách giao tiếp văn minh, lịch sự.
Về thể chế: Các văn bản chế độ quy định về kiểm soát thanh toán đầu tư XDCB phải được ban hành đầy đủ, đồng bộ, mang tính nhất quán xuyên suốt và ổn định lâu dài, bao gồm đầy đủ những quy định, những chế tài. Các quy định cơ bản, đó là các quy định về quy hoạch ngành, vùng, lãnh thổ, các quy định về trình tự, thủ tục đầu tư XDCB, các quy định về chế độ lập, phân bổ NSNN cho đầu tư XDCB,…các hồ sơ dự toán chi tiết…
Về cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc phải được áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Việc kiểm soát thanh toán vốn đầu tư của KBNN được thực hiện theo hai bước sau đây:
1.5.2.1. Kiểm soát hồ sơ ban đầu:
Khi nhận được Tài liệu dự án, KBNN kiểm tra ngay hồ sơ về một số tiêu chí sau:
Kiểm tra sự đầy đủ của hồ sơ: về số lượng các hồ sơ tài liệu theo quy định. Yêu cầu về bản chính, bản sao..
Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ: Hồ sơ phải được lập đúng mẫu quy định (trường hợp có mẫu được cấp có thẩm quyền ban hành); chữ ký, đóng dấu của cấp có thẩm quyền; các hồ sơ phải được lập, ký duyệt theo đúng trình tự đầu tư XDCB (phản ảnh về mặt thời gian trên các hồ sơ).
Kiểm tra tính thống nhất về nội dung giữa các hồ sơ, đảm bảo sự trùng khớp các hạng mục, nội dung đầu tư trong trong dự toán chi phí với các hạng mục đầu tư trong báo cáo khả thi hoặc báo cáo đầu tư đã được phê duyệt.
1.5.2.2. Kiểm soát hồ sơ từng lần tạm ứng hoặc thanh toán
Ngoài việc kiểm tra sự đầy đủ, tính pháp lý của hồ sơ thì tuỳ từng nội dung tạm ứng hoặc thanh toán (như chi xây lắp , mua sắm thiết bị, đền bù giải phóng mặt bằng, …) mà nội dung kiểm tra khác nhau. Nhưng nói chung, việc kiểm tra hồ sơ tạm ứng hoặc thanh toán từng lần được thực hiện thông qua:
Kiểm tra nội dung tạm ứng xem có đúng đối tượng được tạm ứng; kiểm tra mức vốn tạm ứng (tỷ lệ tạm ứng %) phù hợp với chế độ tạm ứng theo quy định phù hợp với quy định của hợp đồng.
Kiểm tra nội dung thanh toán, tức là kiểm tra xem các hạng mục, công trình, các nội dung thanh toán có đúng với dự toán, ._.đúng với báo cáo khả thi hay báo cáo đầu tư đã được duyệt không. Việc kiểm tra này để đảm bảo thanh toán đúng đối tượng, đúng mục đích đã đề ra.
Kiểm tra số vốn đề nghị thanh toán trên nguyên tắc, số vốn đề nghị thanh toán phải phù hợp với khối lượng XDCB hoàn thành được nghiệm thu; có trong giá hợp đồng, giá trúng thầu; kiểm tra số học (phép cộng, tính tỷ lệ %) có đúng không;
Kiểm tra, xác định số vốn đã ứng để thu hồi (chuyển vốn đã ứng sang thanh toán khối lượng XDCB hoàn thành).
Kiểm tra các chế độ mà dự án được hưởng tại thời điểm lập, phê duyệt dự toán, cũng như khi nghiệm thu khối lượng hoàn thành thanh toán.
Kiểm tra danh mục, chủng loại thiết bị có đúng với dự toán được duyệt, kế hoạch đầu tư năm đã giao.
Tổng số vốn thanh toán, bao gồm cả tạm ứng không được vượt hợp đồng, dự toán, tổng dự toán và kế hoạch vốn đầu tư năm của dự án.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT THANH TOÁN VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN THUỘC NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CỦA KHO BẠC NHÀ NƯỚC
2.1. Cơ sở pháp lý về kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản
2.1.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước
Quan điểm định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện thông qua mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế xã hội đến 2010 và định hướng đến năm 2020 của đất nước ta được Đại hội X của Đảng xác định là: Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
Để thực hiện theo chủ trương ến lược của Nhà nước để đảm bảo tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội thì một trong những điều kiện cực kỳ quan trọng là phải mở rộng đầu tư.
Theo Luật đầu tư số 59/2005/QH11 thì Nhà nước ta đã phát triển đầu tư theo hướng ưu tiên vào các lĩnh vực như:
Sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới; sản xuất sản phẩm công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin; cơ khí chế tạo.
Nuôi trồng, chế biến nông, lâm, thuỷ sản; làm muối; sản xuất giống nhân tạo, giống cây trồng và giống vật nuôi mới.
Sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại; bảo vệ môi trường sinh thái; nghiên cứu, phát triển và ươm tạo công nghệ cao.
Sử dụng nhiều lao động.
Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, các dự án quan trọng, có quy mô lớn.
Phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục, thể thao và văn hóa dân tộc.
Phát triển ngành, nghề truyền thống.
Những lĩnh vực sản xuất, dịch vụ khác cần khuyến khích.
Với việc thực hiện chính sách đầu tư trên thì các cơ quan tham mưu của Nhà nước không ngừng nghiên cứu, đổi mới, hoàn thiện các cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng công trình để nhằm hạn chế tiêu cực, thất thoát, lãng phí vốn của Nhà nước, đặc biệt trong khâu thiết kế, xác định định mức đơn giá xây dựng, nghiệm thu công trình; sử dụng tốt các biện pháp thẩm định chất lượng, giá cả vật tư, thiết bị nhập khẩu, kiểm toán các dự án, công trình xây dựng. Thực hiện chủ trương các dự án, công trình phải thu hồi vốn thì phải thu hồi vốn đủ đúng hạn cho Nhà nước; khai thác mọi khả năng tiết kiệm và đầu tư phát triển của dân, của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế bằng nhiều hình thức đa dạng sao cho mọi tiềm năng đều được huy động, mọi đồng vốn đều được sinh lời, nâng dần tỷ trọng của nguồn vốn này trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
2.1.2. Những quy định của Chính phủ về quản lý vốn đầu tư XDCB từ Ngân sách Nhà nước
Từ năm 2000 tới nay, Nhà nước ta đẩy mạnh đầu tư như là một điều kiện thiết yếu để phát triển kinh tế xã hội. Theo đó Chính phủ đã xây dựng và ban hành các cơ chế về lĩnh vực đầu tư cũng như sửa đổi và hoàn thiện qua các giai đoạn, ví dụ như Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 của Chính phủ, Nghị định số 07/2003/NĐ-CP ngày 30/01/2003 của Chính phủ, Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ, Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/2/2006 của Chính phủ, Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 của Chính phủ, Nghị định số 03/2008/NĐ-CP của chính phủ và mới đây nhất là Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10/02/2009 của Chính phủ về Quản lý dự án đầu tư và xây dựng công trình.
Những Nghị định trên đây được bổ sung, sửa đổi khá hoàn thiện, trong đó quản lý đầu tư và xây dựng được phân cấp mạnh cho các Bộ, ngành và địa phương và chủ đầu tư, đồng thời thực hiện việc phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng theo từng nguồn vốn cụ thể, nhiều thủ tục hành chính trong quá trình đầu tư và xây dựng đã được đơn giản hóa; quy định về quản lý sử dụng vốn, tạm ứng vốn, thanh toán vốn cho các dự án sử dụng vốn đầu tư XDCB từ NSNN được rõ ràng và minh bạch hơn, cụ thể trong Nghị định số 12/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định:
Chi phí dự án đầu tư xây dựng công trình của các dự án sử dụng vốn NSNN phải được lập và quản lý trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế-kỹ thuật, định mức chi phí trong hoạt động xây dựng, hệ thống giá xây dựng và cơ chế chính sách có liên quan do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Tổng mức đầu tư dự án được ghi trong quyết định đầu tư là cơ sở để lập kế hoạch và quản lý vốn đầu tư, xác định hiệu quả đầu tư của dự án. Đối với dự án sử dụng vốn NSNN, tổng mức đầu tư là giới hạn chi phí tối đa mà Chủ đầu tư được phép sử dụng để đầu tư xây dựng công trình. Việc điều chỉnh tổng mức đầu tư phải đước người quyết định đầu tư cho phép và được thẩm định lại đối với các phần thay đổi so với tổng mức đầu tư đã được phê duyệt.
Khi khởi công xây dựng công trình phải có thiết kế, tổng dự toán và dự toán được duyệt. Đối với các dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A nếu chưa có tổng dự toán được duyệt nhưng cần thiết phải khởi công thì công trình, hạng mục công trình khởi công phải có thiết kế và dự toán được duyệt.
Mức tạm ứng vốn không được vượt quá kế hoạch vốn hàng năm của dự án, tùy theo từng loại hợp đồng mà mức tạm ứng vốn sẽ khác nhau.
Việc thanh toán vốn đầu tư cho các công việc, đầu công việc hoặc toàn bộ công việc lập dự án, khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng, giám sát và các hoạt động xây dựng khác phải căn cứ theo giá trị khối lượng thực tế hoàn thành và nội dung phương thức thanh toán trong hợp đồng đã ký kết.
Thời hạn thanh toán được quy định: trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ đề nghị thanh toán hợp lệ của nhà thầu, chủ đầu tư phải hoàn thanh đầy đủ các thủ tục và chuyển đề nghị giải ngân tới cơ quan cấp phát, cho vay vốn. Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan cấp phát, cho vay vốn có trách nhiệm thanh toán. Cơ quan cấp phát, cho vay vốn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại việc thanh toán chậm do lỗi của mình gây ra. Trong quá trình thực hiện dự án, nếu chủ đầu tư chậm thanh toán khối lượng công việc đã hoàn thành thì phải trả khoản lãi theo lãi suất ngân hàng do các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng cho nhà thầu đối với khối lượng chậm thanh toán.
Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết việc tạm ứng, thanh toán vốn đầu tư xây dựng công trình các dự án sử dụng vốn NSNN.
Chủ đầu tư có trách nhiệm thực hiện quyết toán vốn đầu tư xây dựng công trình ngay sau khi công trình hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng theo yêu cầu của người quyết định đầu tư. Vốn đầu tư được quyết toán là toàn bộ chi phí hợp pháp đã được thực hiện trong quá trình đầu tư để đưa dự án vào khai thác, sử dụng và phải nằm trong giới hạn tổng mức đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
2.2. Thực trạng kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn Ngân sách Nhà nước của Kho bạc Nhà nước
2.2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy thực hiện kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản của hệ thống KBNN
2.2.1.1. Cơ cấu tổ chức
Ngày 04/01/1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ký Quyết định số 07/HĐBT thành lập hệ thống Kho bạc Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính.
Theo Quyết định 235/2003/QĐ-TTg ngày 13/11/2003 thì Kho bạc Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về quỹ ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước và các quỹ khác của Nhà nước được giao theo quy định của pháp luật; thực hiện việc huy động vốn cho ngân sách nhà nước, cho đầu tư phát triển qua hình thức phát hành công trái, trái phiếu theo quy định của pháp luật.
Về cơ cấu tổ chức thì Kho bạc Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất, thành hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương, theo đơn vị hành chính:
Ở trung ương có Kho bạc Nhà nước;
Ở tỉnh, thành phố có Kho bạc Nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trực thuộc Kho bạc Nhà nước;
Ở các quận, huyện có Kho bạc Nhà nước quận, huyện trực thuộc Kho bạc Nhà nước tỉnh.
Do cơ cấu được tổ chức ở cả ba cấp như vậy nên rất thuận lợi cho việc kiểm soát thanh toán vốn đầu tư, vì các dự án thuộc cấp nào sẽ do chính cấp đó kiểm soát, như vậy sẽ giảm bớt gánh nặng cho Kho bạc Trung ương. Đối với các dự án được thực hiện trên nhiều tỉnh hay địa bàn khác nhau thì sẽ do Sở Giao dịch kiểm soát thanh toán.
Theo Quyết định số 145/1999/QĐ-BTC ngày 26/11/1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về nhiệm vụ và tổ chức bộ máy thanh toán vốn đầu tư thuộc hệ thống Kho bạc Nhà nước:
Tại Kho bạc Nhà nước thành lập Vụ Thanh toán vốn đầu tư (nay là Ban Thanh toán vốn đầu tư) và Phòng thanh toán vốn đầu tư công trình liên tỉnh (nay thuộc Sở Giao dịch Kho bạc Nhà nước);
Tại Kho bạc tỉnh thành lập Phòng thanh toán vốn đầu tư;
Tại Kho bạc huyện việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm soát thanh toán vốn đầu tư do bộ phận kế hoạch tổng hợp thực hiện.
2.2.1.2. Phân công nhiệm vụ kiểm soát thanh toán
Trước đây chỉ tập trung kiểm soát thanh toán ở cấp tỉnh và một số ít dự án liên tuyến, liên tỉnh được kiểm soát, thanh toán trực tiếp tại trung ương. Đến nay, Kho bạc Nhà nước đã tổ chức triển khai phân cấp quản lý, kiểm soát thanh toán vốn đầu tư ở 3 cấp trung ương, tỉnh, huyện cho tất cả các nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước phù hợp trình độ quản lý, qui mô của các dự án đầu tư và theo yêu cầu của nhà tài trợ đối với từng dự án ODA. Tuy nhiên, sự phân công ở mỗi Kho bạc tỉnh có sự khác nhau, có Kho bạc hình thành riêng một bộ phận (thuộc Phòng thanh toán vốn đầu tư) chuyên trách thực hiện nhiệm vụ kiểm tra hồ sơ, tài liệu thanh toán và bộ phận thực hiện nhiệm vụ làm thủ tục thanh toán vốn cho dự án, như ở Kho bạc Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,... Đa số những Kho bạc khác thì cán bộ làm nhiệm vụ kiểm soát thanh toán vốn đầu tư trực tiếp thực hiện việc kiểm tra hồ sơ và làm thủ tục thanh toán.
2.2.2. Quản lý kế hoạch vốn
Theo Thông tư 27/2007/TT-BTC ngày 03/4/2007 của Bộ Tài chính và Thông tư 130/2007/TT-BTC ngày 02/11/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước thì việc lập và phân bổ Kế hoạch vốn của các dự án đầu tư được quy định như sau:
Các dự án chỉ được bố trí kế hoạch vốn đầu tư hàng năm của Nhà nước khi có đủ các điều kiện sau:
Đối với các dự án quy hoạch: có đề cương hoặc nhiệm vụ dự án quy hoạch được duyệt theo thẩm quyền.
Đối với các dự án chuẩn bị đầu tư: phải phù hợp với quy hoạch phát triển ngành và lãnh thổ được duyệt theo thẩm quyền.
Đối với các dự án thực hiện đầu tư: phải có quyết định đầu tư từ thời điểm trước 31 tháng 10 năm trước năm kế hoạch.
Thời gian và vốn bố trí để thực hiện các dự án nhóm B không quá 4 năm, các dự án nhóm C không quá 2 năm.
Lập kế hoạch:
Theo quy định của Luật NSNN về việc lập dự toán NSNN hàng năm, căn cứ vào tiến độ và mục tiêu thực hiện dự án, chủ đầu tư lập kế hoạch vốn đầu tư của dự án gửi cơ quan quản lý cấp trên.
Các Bộ tổng hợp, xem xét và lập kế hoạch vốn đầu tư gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính. Ủy ban nhân dân các tỉnh lập dự toán ngân sách địa phương về phần kế hoạch vốn đầu tư xin ý kiến Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh trước khi gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội quyết định và giao chỉ tiêu kế hoạch vốn đầu tư cho các Bộ và các tỉnh.
Thời gian lập, trình, duyệt, giao kế hoạch vốn đầu tư theo quy định của Luật NSNN.
Phân bổ kế hoạch vốn
Đối với vốn đầu tư thuộc Trung ương quản lý: các Bộ phân bổ kế hoạch vốn đầu tư cho từng dự án thuộc phạm vi quản lý đã đủ các điều kiện quy định, đảm bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao về tổng mức đầu tư; cơ cấu vốn trong nước, vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế; mức vốn các dự án quan trọng của Nhà nước và đúng với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ về điều hành kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán NSNN hàng năm.
Sơ đồ 2.1: Quy trình thông báo kế hoạch vốn hàng năm cho các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách trung ương
Bộ Tài chính
Bộ, ngành
chủ quản
Kho bạc
Nhà nước
Kho bạc tỉnh,
thành phố
Kho bạc huyện
Sở Giao dịch
(1a)
(1b)
(2)
(2)
(3)
(1a) Bộ Tài chính thông báo kế hoạch thanh toán vốn đầu tư sang Kho bạc Nhà nước.
(2) Kho bạc Nhà nước tiếp chuyển thông báo kế hoạch thanh toán vốn về Sở Giao dịch và Kho bạc tỉnh, thành phố kiểm soát thanh toán dự án đầu tư.
(3) Kho bạc tỉnh, thành phố tiếp chuyển thông báo kế hoạch thanh toán vốn về Kho bạc huyện (trường hợp KBNN tỉnh, TP phân cấp cho Kho bạc huyện kiểm soát thanh toán dự án đầu tư).
(1b) Bộ, ngành chủ quản thông báo kế hoạch vốn đầu tư cho từng dự án và gửi đến Kho bạc tỉnh, thành phố hoặc Kho bạc huyện nơi dự án mở tài khoản thanh toán vốn đầu tư;
- - - - Bộ, ngành chủ quản gửi bản phân bổ kế hoạch cho Bộ Tài chính thẩm tra; Bộ Tài chính gửi thông báo kế hoạch thanh toán vốn đầu tư cho các bộ, ngành chủ quản để theo dõi và quản lý.
Đối với vốn đầu tư thuộc địa phương quản lý: Ủy ban nhân dân các cấp lập phương án phân bổ vốn đầu tư trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Theo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân phân bổ và quyết định giao kế hoạch vốn đầu tư cho từng dự án thuộc phạm vi quản lý đã đủ các điều kiện quy định, đảm bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao về tổng mức đầu tư; cơ cấu vốn trong nước, vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế; mức vốn các dự án quan trọng của Nhà nước và đúng với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ về điều hành kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán NSNN hàng năm.
Sở Tài chính có trách nhiệm cùng với Sở Kế hoạch và Đầu tư dự kiến phân bổ vốn đầu tư cho từng dự án do tỉnh quản lý trước khi báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định.
Phòng Tài chính Kế hoạch huyện có trách nhiệm cùng với các cơ quan chức năng của huyện tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện phân bổ vốn đầu tư cho từng dự án do huyện quản lý.
Riêng đối với các dự án được đầu tư bằng các nguồn vốn được để lại theo Nghị quyết của Quốc hội và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và vốn bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương còn phải tuân thủ các quy định về đối tượng đầu tư và mục tiêu sử dụng của từng nguồn vốn đầu tư.
Sơ đồ 2.2: Quy trình thông báo kế hoạch vốn hàng năm cho các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách địa phương
Phòng
Tài chính
UBND tỉnh
Sở Tài chính
UBND huyện
KBNN tỉnh, thành phố
KBNN huyện
(1)
(1)
(2)
(4)
(4)
(5)
(3)
(1) Uỷ ban nhân dân tỉnh giao kế hoạch vốn đầu tư cho các dự án đầu tư (ngân sách tỉnh).
(2) Sở Tài chính thông báo kế hoạch thanh toán vốn đầu tư cho Kho bạc tỉnh, thành phố.
(3) Kho bạc tỉnh, thành phố tiếp chuyển thông báo kế hoạch thanh toán vốn đầu tư về Kho bạc huyện (dự án ngân sách tỉnh giao cho Kho bạc huyện kiểm soát thanh toán).
(4) Uỷ ban nhân dân huyện giao kế hoạch vốn đầu tư cho các dự án đầu tư (ngân sách huyện).
(5) Phòng Tài chính thông báo kế hoạch thanh toán vốn đầu tư cho Kho bạc huyện.
Nguyên tắc phân bổ vốn cho các dự án trong kế hoạch năm:
Bố trí đủ vốn để thanh toán cho các dự án đã đưa vào sử dụng và đã được phê duyệt quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành mà còn thiếu vốn; bố trí vốn để thanh toán chi phí kiểm toán, thẩm tra phê duyệt quyết toán của các dự án hoàn thành nhưng chưa được thanh toán do chưa phê duyệt quyết toán.
Trường hợp dự án được bố trí vốn trong kế hoạch thực hiện đầu tư nhưng chỉ để làm công tác chuẩn bị thực hiện dự án thì cần ghi chú rõ trong bản phân bổ vốn.
Sau khi phân bổ vốn đầu tư, các Bộ và UBND các tỉnh, thành phố gửi kế hoạch vốn đầu tư cho Bộ Tài chính; các huyện gửi kế hoạch vốn đầu tư cho Sở Tài chính.
Giao kế hoạch vốn cho các chủ đầu tư:
Sau khi việc phân bổ vốn đã được cơ quan Tài chính thẩm tra, chấp thuận, các Bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, các huyện giao chỉ tiêu kế hoạch cho các chủ đầu tư để thực hiện, đồng gửi Kho bạc nhà nước nơi dự án mở tài khoản để theo dõi, làm căn cứ kiểm soát, thanh toán vốn.
Điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư hàng năm:
Nguyên tắc:
Định kỳ, các Bộ, địa phương rà soát tiến độ thực hiện và mục tiêu đầu tư của các dự án trong năm để điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư theo thẩm quyền hoặc trình Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư, chuyển vốn từ các dự án không có khả năng thực hiện sang các dự án thực hiện vượt tiến độ, còn nợ khối lượng, các dự án có khả năng hoàn thành vượt kế hoạch trong năm.
Trước khi gửi kế hoạch điều chỉnh vốn đầu tư từng dự án cho cơ quan Tài chính, các Bộ, địa phương làm việc với Kho bạc nhà nước để xác định số vốn thuộc kế hoạch năm đã thanh toán cho dự án, số vốn còn thừa do không thực hiện được, đảm bảo cho kế hoạch của dự án sau khi điều chỉnh không thấp hơn số vốn Kho bạc nhà nước đã thanh toán.
Trường hợp sau khi đã điều chỉnh mà còn thừa vốn so với kế hoạch giao thì số vốn thừa được điều chỉnh cho đơn vị khác theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Cơ quan Tài chính các cấp rà soát để thông báo danh mục và vốn của các dự án điều chỉnh theo quy định trên đây.
Thời hạn điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư hàng năm kết thúc chậm nhất là ngày 31 tháng 12 năm kế hoạch.
2.2.3. Kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Việc thanh toán vốn cho dự án luôn được thực hiện theo một nguyên tắc nhất quán là kiểm soát trước, trong và sau quá trình cấp phát thanh toán, tức là Kho bạc Nhà nước sẽ dựa trên một số điều kiện cụ thể để kiểm soát số tiền sẽ thanh toán, đảm bảo số tiền thanh toán là phù hợp, đúng đắn, hạn chế tối đa sự lãng phí, thất thoát cho Ngân sách Nhà nước. Nguyên tắc này được soi theo trong hầu hết các quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB của Kho bạc Nhà nước từ trước tới nay. Qua mỗi giai đoạn, các cơ quan chức năng lại nghiên cứu, xây dựng những quy trình mới dựa trên sự cải biến, hoàn thiện các quy trình cũ để việc thực hiện công tác kiểm soát thanh toán ngày càng tinh giản, gọn nhẹ mà vẫn đạt hiệu quả. Quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư của Kho bạc Nhà nước cụ thể hóa các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước quy định về quản lý, cấp phát vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn NSNN bao gồm các quy trình sau:
Quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư và xây dựng trong nước (ban hành theo Quyết định số 601/QĐ/KB/TTVĐT ngày 28/10/2003 của Tổng giám đốc Kho bạc Nhà nước);
Quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghệp có tính chất đầu tư trong nước qua hệ thống kho bạc nhà nước (ban hành theo Quyết định số 297/QĐ-KBNN ngày 18/5/2007 của Tổng Giám đốc Kho bạc nhà nước)
Quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách xã, thị trấn (Ban hành kèm theo Quyết định số 1243 /QĐ-KBNN ngày 21/09/2007 của Tổng giám đốc Kho bạc Nhà nước)
2.2.3.1. Sơ đồ và diễn giải
Sơ đồ 2.3: Quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản và luân chuyển chứng từ của Kho bạc Nhà nước
Bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả
Phòng
Thanh toán vốn đầu tư
Lãnh đạo KBNN
Phòng
Kế toán
Chủ đầu tư
1
8
0
9
7
4
2
3
6
5
Bước 1: (0) Chủ đầu tư gửi hồ sơ đề nghị TTVĐT;
Bước 2: (1) Bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả chuyển hồ sơ đến Phòng TTVĐT;
Bước 3: (2,3) Phòng TTVĐT sau khi chấp nhận thanh toán trình lãnh đạo ký hồ sơ thanh toán;
Bước 4: (4) Phòng TTVĐT chuyển giấy rút vốn đầu tư sang phòng Kế toán;
Bước 5: (5,6) Phòng Kế toán trình lãnh đạo ký giấy rút vốn đầu tư;
Bước 6: (7) Phòng Kế toán hạch toán kế toán và chuyển tiền thanh toán cho đơn vị thụ hưởng; chuyển giấy rút vốn đầu tư cho phòng TTVĐT;
Bước 7: (8) Phòng TTVĐT chuyển giấy rút vốn đầu tư và hồ sơ về Bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả;
Bước 8: (9) Bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả trả giấy rút vốn đầu tư và hồ sơ cho chủ đầu tư.
2.2.3.2. Đối tượng điều chỉnh của quy trinh kiểm soát
Áp dụng đối với các dự án đầu tư do Kho bạc Nhà nước kiểm soát thanh toán (trừ một số dự án được đầu tư bằng nguồn vốn đặc biệt có hướng dẫn riêng). Đối với các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn khác, nếu chưa có hướng dẫn cụ thể thì Kho bạc Nhà nước vận dụng để kiểm soát thanh toán vốn cho dự án.
2.2.3.3. Hồ sơ tài liệu và Nội dung kiểm soát
Tài liệu làm căn cứ kiểm soát thanh toán:
Chủ đầu tư gửi cơ quan KBNN; KBNN các tỉnh, thành phố trực thuộc TW; KBNN quận, huyện, thị xã trực thuộc tỉnh, thành phố và các điểm giao dịch của hệ thống KBNN (nếu có) các tài liệu sau đây:
Tài liệu gửi 1 lần: bản chính hoặc sao y bản chính, riêng hợp đồng kinh tế phải là bản chính.
Tài liệu để mở tài khoản;
Dự án đầu tư xây dựng công trình (hoặc báo cáo kinh tế-kỹ thuật đối với dự án chỉ lập báo cáo kinh tế-kỹ thuật) kèm quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền, các quyết định điều chỉnh dự án (nếu có);
Văn bản lựa chọn nhà thầu theo quy định của Luật đấu thầu;
Hợp đồng giữa chủ đầu tư và nhà thầu
Dự toán và quyết định phê duyệt dự toán của từng công việc, hạng mục công trình, công trình đối với trường hợp chỉ định thầu hoặc tự thực hiện và các công việc thực hiện không thông qua hợp đồng (đối với vốn Thực hiện đầu tư).
Tài liệu bổ sung hàng năm:
Kế hoạch vốn hàng năm do Bộ, ngành chủ quản thông báo (đối với các dự án do Trung ương quản lý); Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh thông báo (sau đây gọi chung là UBND các cấp đối với các dự án do địa phương quản lý).
Thông báo danh mục dự án và vốn hàng năm do KBNN thông báo (đối với các dự án do Trung ương quản lý) ; Kế hoạch vốn của UBND các cấp và ý kiến bằng văn bản về việc phân bổ kế hoạch của Sở Tài chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng Tài chính huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thông báo (nếu có).
Tài liệu tạm ứng vốn: ngoài các tài liệu quy định trên đây khi đến tạm ứng vốn chủ đầu tư gửi các tài liệu sau đây:
Giấy đề nghị thanh toán vốn đầu tư;
Giấy rút vốn đầu tư ;
Bảo lãnh khoản tiền tạm ứng của nhà thầu (nếu trong hợp đồng chủ đầu tư và nhà thầu thoả thuận có bảo lãnh tiền tạm ứng).
Tài liệu Thanh toán khối lượng hoàn thành:
Bảng xác định giá trị khối lượng công việc hoàn thành theo hợp đồng;
Giấy đề nghị thanh toán vốn đầu tư;
Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng vốn đầu tư (nếu có thanh toán tạm ứng);
Giấy rút vốn đầu tư.
Trong mỗi khâu trên KBNN luôn luôn phải kiểm tra sự đầy đủ, tính hợp pháp, hợp lệ của mỗi tài liệu, hồ sơ phải được lập đúng mẫu quy định (trường hợp có mẫu được cấp có thẩm quyền ban hành); chữ ký, đóng dấu của người có thẩm quyền, cấp có thẩm quyền; các hồ sơ phải được lập, ký duyệt theo đúng trình tự đầu tư xây dựng cơ bản.
Đối với vốn tạm ứng, trước khi làm thủ tục tạm ứng, cán bộ thanh toán kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ, đối chiếu mức vốn đề nghị tạm ứng với các điều khoản quy định trong hợp đồng và kế hoạch vốn quy hoạch hàng năm.
Trường hợp sau khi kiểm tra, số vốn chấp nhận tạm ứng có sự chênh lệch với số vốn đã tạm ứng cho chủ đầu tư, KBNN thông báo cho chủ đầu tư biết và trừ vào những lần tạm ứng tiếp theo (nếu số vốn chấp nhận tạm ứng nhỏ hơn số vốn đã tạm ứng) hoặc thu hồi số vốn đã tạm ứng vượt nếu hợp đồng quy định chỉ tạm ứng một lần.
Trường hợp chủ đầu tư đề nghị tạm ứng nhiều lần theo quy định của hợp đồng thì cán bộ thanh toán phải theo dõi luỹ kế số vốn đã tạm ứng, đảm bảo không vượt kế hoạch vốn hàng năm của dự án; nếu kế hoạch vốn hàng năm bố trí không đủ theo mức vốn tạm ứng của hợp đồng thì tiếp tục tạm ứng vào kế hoạch năm sau cho đủ mức tạm ứng của hợp đồng.
Đối với khâu Thanh toán khối lượng hoàn thành, cán bộ thanh toán vốn đầu tư thực hiện kiểm tra, việc lựa chọn nhà thầu theo quy định, đối chiếu công việc, khối lượng hoàn thành, các điều khoản thanh toán được quy định trong hợp đồng (số lần thanh toán, giai đoạn thanh toán, điều kiện thanh toán), đối chiếu với kế hoạch vốn năm được thông báo. Trường hợp kết quả kiểm soát có sự chênh lệch, số vốn chấp nhận thanh toán khác với số vốn đã thanh toán, KBNN sẽ thông báo cho chủ đầu tư và trừ vào những lần thanh toán tiếp theo (nếu số chấp nhận thanh toán nhỏ hơn số vốn đã thanh toán).
Trong kiểm soát thanh toán Quy trình kiểm soát thanh toán 297 và 1539 đã quy định phương thức kiểm soát thanh toán là KBNN thực hiện thanh toán trước kiểm soát sau đối với từng lần thanh toán của gói thầu và hợp đồng thanh toán nhiều lần (trừ lần thanh toán cuối cùng) và kiểm soát trước, thanh toán sau đối với gói thầu, hợp đồng thanh toán một lần và lần cuối cùng của gói thầu và hợp đồng thanh toán nhiều lần. Thanh toán trước là trong phạm vi 03 ngày kể từ khi chủ đầu tư gửi hồ sơ tạm ứng, thanh toán đến là KBNN giải ngân ngay, sau đó mới kiểm soát tính đúng, sai của số liệu.
Thời gian tạm ứng, thanh toán:
Thời gian tạm ứng vốn chuẩn bị đầu tư cho đơn vị nhận thầu tối đa là 4 ngày làm việc; vốn chuẩn bị thực hiện dự án và vốn thực hiện dự án tối đa là 5 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ tạm ứng hợp lệ của chủ đầu tư.
Thời gian thanh toán khối lượng hoàn thành tối đa là 7 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ thanh toán hợp lệ của chủ đầu tư.
Trường hợp cần thiết cán bộ thanh toán của Kho bạc Nhà nước có thể kiểm tra tại hiện trường nơi thực hiện dự án, để đảm bảo việc thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản là có cơ sở.
2.3. Kết quả công tác thanh toán vốn đầu tư
Đầu tư xây dựng cơ bản trong những năm vừa qua đang đóng góp tích cực vào sự phát triển của lĩnh vực đầu tư trên cả nước, thể hiện qua số vốn thanh toán cho đầu tư xây dựng cơ bản tăng lên không ngừng qua các năm. Nó đáp ứng tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội của nước ta, đồng thời cũng đúng với mục tiêu, chủ trương chính sách của Chính phủ về chính sách đầu tư. Tình hình thanh toán vốn đầu tư XDCB qua các năm được thể hiện thông qua bảng số liệu như sau:
Bảng 2.1: Tình hình thanh toán vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn
NSNN giai đoạn 2001-2008
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Vốn XDCB tập trung
Ngân sách TW
Ngân sách địa phương
Vốn trong nước
Vốn ngoài nước
Vốn trong nước
Vốn ngoài nước
Vốn trong nước
Vốn ngoài nước
2001
30.042
6.899
8.655
6.178
21.387
721
36.941
14.833
22.108
2002
37.803
4.285
10.266
3.434
27.537
851
42.088
13.700
28.388
2003
41.364
4.360
10.546
3.685
30.818
675
45.724
14.231
31.493
2004
47.408
6.775
8.266
5.364
39.143
1.411
54.183
13.630
40.553
2005
58.937
7.513
10.775
6.230
48.162
1.283
66.450
17.005
49.445
2006
62.457
7.225
11.203
5.992
51.254
1.233
69.682
17.195
52.487
2007
75.487
7.078
12.947
4.616
62.540
2.462
82.565
17.563
65.002
2008
85.769,5
7.897,5
9.794,6
4.760,5
75.974,9
3.137
93.667
14.555,1
79.111,9
[Nguồn: Theo Báo cáo tình hình thanh toán vốn đầu tư XDCB của KBNN qua các năm]
Qua số liệu của bảng trên cho thấy vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn NSNN thanh toán qua KBNN hàng năm đều tăng lên, năm sau cao hơn năm trước, tỉ lệ phần trăm năm sau tăng so với năm trước được thể hiện như sau:
02/01
03/02
04/03
05/04
06/05
07/06
08/07
%
13,93
8,6
18,5
22,63
4,86
18,4
13,44
Trong giai đoạn trên trung bình số vốn được thanh toán cứ năm sau lại tăng so với năm trước là 14,33%. Riêng trong năm 2006, tình hình giải ngân vốn chỉ tăng 4,86% là một sự gia tăng khá chậm, nguyên nhân của việc này là do các dự án đầu tư năm 2006 đang trong giai đoạn hoàn thiện thủ tục về đầu tư và xây dựng như: trình duyệt tổng dự toán, dự toán chi tiết, đấu thầu hoặc vướng mắc về công tác giải phóng mặt bằng, hoặc khối lượng phát sinh chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt, đặc biệt là thiếu nguồn vốn để thanh toán đối với các dự án do địa phương quản lý.
Việc số vốn giải ngân qua các năm gia tăng cũng nhằm đáp ứng yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng đặc biệt mạnh mẽ trong hai năm 2007 và 2008 do đó số vốn thanh toán cho các dự án đầu tư lên tới 82.565 tỷ đồng (năm 2007) và 93.667 tỷ đồng (năm 2008). Dự kiến kế hoạch vốn của năm 2009 sẽ lên tới khoảng 125.000 tỷ đồng.
Một điểm chú ý đó là vốn đầu tư được thanh toán thuộc Ngân sách địa phương nhiều hơn nhiều lần so với vốn thanh toán thuộc Ngân sách Trung ương bởi vì địa phương đầu tư vào rất nhiều công trình và dự án, tuy giá trị trung bình của một dự án do địa phương quản lý không lớn bằng giá trị trung bình của một dự án do trung ương quản lý nhưng do số lượng các dự án của địa phương nhiều nên số vốn được thanh toán cho địa phương cũng nhiều hơn. Ví dụ đối với năm 2007 kế hoạch vốn đầu tư 99.762 tỷ đồng được bố trí cho 101.941 dự án, công trình, bình quân 978 triệu đồng/dự án, công trình; trong đó các dự án, công trình Trung ương quản l ý là 22.067 tỷ đồng được bố trí cho 3024 dự án, công trình, bình quân 7.300 triệu đồng/dự án, công trình; các dự án, công trình địa phương quản lý (bao gồm cả Ngân sách tỉnh, huyện, xã) là 77.698,2 tỷ đồng được bố trí cho 98.917 dự án, công trình, bình quân 785 triệu đồng/dự án, công trình.
Tuy nhiên số vốn đầu tư được thanh toán luôn phải dựa trên một loại thông số làm điểm tựa đó số Kế hoạch vốn đầu tư. Vì có thể số vốn được giải ngân qua các năm tăng lên nhưng so với kế hoạch thì nó luôn chỉ đạt được một mức độ tỷ lệ thấp thì số vốn được giải ngân đó cũng chưa chắc đã hiệu quả. Hàng năm các Bộ gửi Kế hoạch vốn lên Bộ Tài chính, sa._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1975.doc