Hoàn thiện quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tỉnh Quảng Nam

Mở ĐầU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo dựa trên những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ thực tiễn đất nước, được toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện một cách chủ động và sáng tạo. Từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, Đảng ta đã liên tục đề ra những nhiệm vụ và giải pháp chiến lược cho phát triển KT-XH ở Việt Nam kể từ Đại hội VI (năm 1986) cho đến các Đại hội VII, VIII, IX và X của Đảng, nhằm tiến t

doc116 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1863 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". ĐTPT luôn được xem là nhân tố quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển KT-XH của đất nước. Trong điều kiện nguồn vốn còn hạn hẹp, nhu cầu cho ĐTPT ngày càng lớn, bên cạnh việc huy động vốn, bài toán quản lý chi ĐTPT từ NSNN đã và đang trở thành mối quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ bước vào thế kỹ XXI, thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH và tiến đến nền kinh tế tri thức. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006 - 2010: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại [30, tr.23]. Muốn phát triển nhanh không còn con đường nào khác là phải gia tăng đầu tư. Quản lý chi ĐTPT một cách hiệu quả sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, gia tăng xuất khẩu, tăng tích luỹ của nền kinh tế... Bằng định hướng và chính sách phát triển vùng miền, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định: Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung cần chú trọng tăng cường các biện pháp hữu hiệu để phòng, chống thiên tai; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, khai thác cảng biển, vận tải biển, công nghiệp chế biến xuất khẩu, lọc hoá dầu, sản xuất vật liệu xây dựng, thuỷ điện, du lịch, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản, trồng cây công nghiệp; phát triển có hiệu quả các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển gắn với các cảng biển, các đô thị mới và các tuyến hành lang Đông- Tây [30, tr.225-226]. Quảng Nam là địa bàn nằm giữa hai vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, do vậy chủ trương của Đảng về việc tập trung và ưu tiên đầu tư cho khu vực kinh tế trọng điểm miền Trung, trong đó có Quảng Nam, nhằm tạo nên sự phát triển cân đối của đất nước... Trong những năm gần đây, Quảng Nam đã huy động và đưa vào sử dụng một lượng vốn tương đối lớn cho ĐTPT. Riêng trong giai đoạn 2001-2005, tổng VĐT toàn tỉnh khoảng trên 13.200 tỷ đồng, chiếm 40% GDP, tỷ lệ tăng bình quân hàng năm xấp xỉ 32%. Trong đó vốn NSNN chiếm 44,4% (riêng NSNN tỉnh 29%), vốn tín dụng chiếm 7,2%, vốn doanh nghiệp 29,1%, vốn FDI 4,3%, các nguồn vốn khác 15% [29]. Tuy nhiên, từ một điểm xuất phát thấp, nguồn thu NSNN hạn hẹp, quy mô VĐT không lớn, cơ chế quản lý đầu tư thay đổi liên tục..., bên cạnh những giải pháp về huy động, thu hút VĐT, vấn đề hoàn thiện công tác quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam cần phải được quan tâm hơn, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển một cách bền vững... ở góc độ quản lý, việc nâng cao chất lượng quản lý chi ĐTPT có tầm quan trọng và khả thi hơn là các biện pháp tăng vốn. Đó là lý do thúc đẩy tôi chọn đề tài: "Hoàn thiện quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tỉnh Quảng Nam" làm luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý, chuyên ngành: Quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Quản lý chi ĐTPT từ NSNN nói chung đã được một số nhà khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên, đề tài quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam chưa được quan tâm nhiều. Năm 1998, nhà xuất bản Đà Nẵng phát hành đề tài khoa học "Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá miền Trung" do TS Phạm Hảo chủ biên; Luận án "Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp” của Tiến sĩ Nguyễn Đẩu. Nhìn chung, chưa có tác phẩm luận giải một cách đầy đủ và có hệ thống quá trình quản lý, đề xuất các giải pháp mang tính khoa học nhằm hoàn thiện quản lý chi ĐTPT từ NSNN riêng cho tỉnh Quảng Nam. Vì vậy, tôi chọn đề tài này với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào công tác quản lý ngân sách của tỉnh nhà. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về chi và quản lý chi ĐTPT từ NSNN; Phản ánh và đánh giá đúng thực trạng, đề xuất những giải pháp hoàn thiện quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam. Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Hệ thống hóa cơ sở lý luận chi và quản lý chi ĐTPT từ NSNN, kinh nghiệm của một số địa phương trong nước và nước ngoài. - Phân tích thực trạng của chi và quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam. Từ đó, rút ra nguyên nhân của những thành công và hạn chế. - Đề xuất một hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Quá trình quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam. Do nội dung chi ĐTPT từ NSNN tỉnh chủ yếu là chi xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, nên luận văn dành sự quan tâm nhiều hơn đến quá trình chi ĐTXD từ NSNN tỉnh Quảng Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Thời gian nghiên cứu: từ 2001-2005 - Theo quy định của Luật NSNN, chi ĐTPT bao gồm chi ĐTXD; hỗ trợ vốn doanh nghiệp nhà nước và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. Thực tế tại Quảng Nam, trong giai đoạn 2001-2005, chi ĐTXD chiếm 97,2% trong tổng chi ĐTPT từ NSNN tỉnh. Do đó, để nghiên cứu quản lý chi ĐTPT, nội dung luận văn tập trung nghiên cứu quản lý chi ĐTXD từ NSNN tỉnh Quảng Nam. Đồng thời, có tham khảo thêm một số kinh nghiệm của các địa phương trong nước và nước ngoài. 5. Phương pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu luận văn, trước hết dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê nin; quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp thống kê, phân tích- tổng hợp, so sánh, đối chứng, mô hình hóa, kết hợp nghiên cứu lý luận với khảo sát thực tiễn để thực hiện đề tài. 6. Đóng góp của đề tài - Hệ thống hoá cơ sở lý luận về quản lý chi ĐTPT từ NSNN - Phân tích thực trạng quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam thời kỳ 2001-2005 - Đề xuất một số giải pháp quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam thời kỳ 2006-2010 Hy vọng, kết quả nghiên cứu có thể làm tư liệu tham khảo, vận dụng hoàn thiện quá trình quản lý chi ĐTPT từ NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 7. Kết cấu luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu luận văn gồm 3 chương, 11 tiết. Chương 1: Một số nội dung cơ bản về chi và quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước. Chương 2: Thực trạng quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tỉnh Quảng Nam. Chương 3: Những giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tỉnh Quảng Nam. Chương 1 Một số nội dung cơ bản về chi và quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1. Ngân sách nhà nước NSNN là phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử. Sự hình thành và phát triển của NSNN gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của kinh tế hàng hoá- tiền tệ trong những phương thức sản xuất của các cộng đồng và Nhà nước của từng cộng đồng. Nói cách khác, sự tồn tại của kinh tế hàng hoá- tiền tệ là những tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của NSNN. NSNN luôn gắn liền với Nhà nước, nó được dùng để chỉ các khoản thu nhập và chi tiêu của Nhà nước được thể chế hoá bằng pháp luật. Quốc hội thực hiện quyền lập pháp về NSNN, còn quyền hành pháp do Chính phủ thực hiện. Xét về hình thức, NSNN là một bản dự toán thu và chi do Chính phủ lập ra, đệ trình Quốc hội phê chuẩn và giao cho Chính phủ tổ chức thực hiện. Xét về thực thể, NSNN bao gồm những nguồn thu, khoản chi cụ thể và được định lượng. Các nguồn thu đều được nộp vào một quỹ tiền tệ- quỹ NSNN, và các khoản chi đều được xuất ra từ quỹ tiền tệ ấy. Thu và chi quỹ này có quan hệ ràng buộc với nhau gọi là cân đối. Cân đối thu chi NSNN là một cân đối lớn trong nền kinh tế thị trường và được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Vì lẽ đó, có thể khẳng định NSNN là một quỹ tiền tệ lớn của Nhà nước. Xét về các quan hệ kinh tế, các nguồn thu, khoản chi trong NSNN đều phản ánh những quan hệ kinh tế nhất định giữa Nhà nước với đối tượng nộp, giữa Nhà nước với đối tượng thụ hưởng. Vì thế, "Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước" [48, tr.8]. NSNN bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. 1.1.1.2. Chi ngân sách nhà nước Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. Chi NSNN là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã được tập trung vào NSNN và đưa chúng đến mục đích sử dụng. Vì thế, chi NSNN là những việc cụ thể, không chỉ dừng lại trên các định hướng mà phải phân bổ cho từng mục tiêu, từng hoạt động và từng công việc thuộc chức năng của Nhà nước. "Chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật" [48, tr.8-9]. Do NSNN gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, nên chi NSNN cấp tỉnh thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương, gồm: Chi ĐTPT; Chi thường xuyên; Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền huy động cho đầu tư; Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính cấp tỉnh; Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới. 1.1.1.3. Chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tỉnh Chi ĐTPT từ NSNN tỉnh là các khoản chi làm tăng cơ sở vật chất, với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại địa phương. Chi ĐTPT là các khoản chi mang tính chất chi tích luỹ như chi đầu tư CSHT, chi hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, chủ yếu là ĐTXD các công trình kết cấu hạ tầng KT-XH ít hoặc không có khả năng thu hồi vốn. Trong nhiệm vụ chi của NSNN tỉnh Quảng Nam, chi ĐTPT là một khoản chi chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi hàng năm của NSNN tỉnh (Phụ lục 01). 1.1.2. Đặc điểm của chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước - Chi ĐTPT từ NSNN gắn liền với định hướng phát triển KT-XH của đất nước, của địa phương theo từng thời kỳ Chi NSNN phải bảo đảm các hoạt động của Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực. Nhưng nguồn lực NSNN có hạn, buộc Nhà nước phải lựa chọn phạm vi chi, tập trung nguồn tài chính vào chiến lược, định hướng phát triển KT-XH, để giải quyết những vấn đề lớn của đất nước, của địa phương trong từng thời kỳ cụ thể. - Chi ĐTPT từ NSNN gắn liền với quyền lực của Nhà nước Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất quyết định quy mô, nội dung, cơ cấu chi và phân bổ nguồn VĐT cho các mục tiêu quan trọng, bởi vì Quốc hội là cơ quan quyết định nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia. Chính phủ là cơ quan hành pháp, có nhiệm vụ quản lý, điều hành các khoản chi ĐTPT từ NSNN. Đối với NSNN cấp tỉnh, HĐND tỉnh quyết định dự toán chi NSNN tỉnh, chi tiết theo các lĩnh vực chi ĐTPT, chi thường xuyên, chi trả nợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính; quyết định phân bổ; quyết định các chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách. UBND tỉnh lập, phân bổ, quyết định và tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch chi ĐTPT theo từng lĩnh vực và địa bàn. - Hiệu quả chi ĐTPT khác với hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, nó được xem xét trên tầm vĩ mô và là hiệu quả kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng... dựa trên cơ sở hoàn thành các mục tiêu ĐTPT từ NSNN. - Chi ĐTPT từ NSNN chủ yếu ĐTXD các công trình kết cấu hạ tầng KT-XH không có khả năng thu hồi vốn. Chính vì vậy, chi ĐTPT từ NSNN là các khoản chi không hoàn trả trực tiếp. Đặc điểm này, giúp phân biệt với các khoản tín dụng đầu tư, VĐT của doanh nghiệp, tư nhân... - Chi ĐTPT gắn với hoạt động ĐT&XD, chính vì thế chi ĐTPT có đặc điểm quy mô quản lý lớn, thời gian quản lý dài, tính rủi ro cao, sản phẩm đầu tư đơn chiếc, phụ thuộc đặc điểm, tình hình KT-XH, điều kiện địa hình, địa chất, thời tiết khí hậu của từng địa phương... 1.1.3. Vai trò của chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước Chi ĐTPT từ NSNN có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển KT-XH của một quốc gia. Sự gia tăng nguồn vốn, phân bố và sử dụng chúng một cách hiệu quả, sẽ tác động rất lớn đến tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, gia tăng xuất khẩu và tăng tích luỹ của nền kinh tế. 1.1.3.1. Chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tác động đến tổng cung, tổng cầu và tác động hai mặt đến sự ổn định của nền kinh tế - Về mặt cầu: Chi ĐTPT tạo ra lượng cầu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của nền kinh tế. Theo số liệu của WB, đầu tư thường chiếm khoảng 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của các nước trên thế giới [73]. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Trong ngắn hạn, khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của chi ĐTPT làm cho tổng cầu tăng, kéo sản lượng cân bằng tăng và giá cả các yếu tố đầu vào tăng. - Về mặt cung: Khi thành quả của chi ĐTPT phát huy tác dụng, năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng lên và giá cả sản phẩm giảm. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất phát triển hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển KT-XH, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. - Do tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung, nên một sự thay đổi của đầu tư đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế. 1.1.3.2. Chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế Chi ĐTPT có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển KT-XH của mỗi quốc gia. Sự gia tăng nguồn vốn, phân bổ và sử dụng có hiệu quả sẽ tác động rất lớn đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để xem xét tác động của chi ĐTPT đối với tăng trưởng kinh tế ta có thể sử dụng mô hình Harrod- Domar, với các giả định: - Nền kinh tế luôn cân bằng ở dưới sản lượng tiềm năng. Để có thể huy động được các nguồn lực dư thừa cần phải đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất. - Công nghệ không đổi, sự kết hợp giữa vốn và lao động được thực hiện theo một hệ số cố định. Hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio) phản ánh hiệu quả đầu tư, là nhu cầu VĐTPT toàn xã hội để tăng thêm một đồng GDP. ICOR = = Mức tăng GDP = Hoặc có thể tính hệ số ICOR theo phương pháp thứ hai: ICOR = Iv: Tỷ lệ vốn đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước Ig: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước Hệ số ICOR tính theo phương pháp này thể hiện: để tăng thêm 1% tổng sản phẩm trong nước đòi hỏi phải tăng tỷ lệ VĐT so với GDP là bao nhiêu phần trăm. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy, muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15-20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào VĐT. ở các nước phát triển, ICOR thường lớn từ 5-7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển, ICOR thấp từ 2-3 do thiếu vốn, thừa lao động, nên phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn VĐT đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. Thực vậy, ở nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một "cái hích ban đầu", tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế (các nước NICs, các nước Đông Nam á...). Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực. Do đó, các nước phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp. 1.1.3.3. Chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (từ 9-10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và khả năng sinh học, để đạt được tốc độ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy, chính đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. 1.1.3.4. Chi đầu tư phát triển với việc tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều so với thế giới và khu vực. Với thực trạng đó, quá trình CNH, HĐH đất nước sẽ gặp khó khăn nếu không đề ra chiến lược ĐTPT công nghệ nhanh và vững chắc. Hai con đường cơ bản để đạt được công nghệ là tự nghiên cứu phát minh và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là sự nghiên cứu phát minh hay nhập từ nước ngoài cũng cần phải có VĐT. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn VĐT sẽ là những phương án không khả thi. 1.1.3.5. Chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước góp phần phát triển con người và giải quyết các vấn đề xã hội Theo các nhà kinh tế thì chi đầu tư cho giáo dục cũng là một dạng đầu tư - đầu tư vốn con người (human capital). Garry Becker- người nhận giải thưởng Nobel kinh tế năm 1992 khẳng định: "Không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục" [60]. Đầu tư cho giáo dục cũng nhằm tăng cường năng lực sản xuất cho tương lai của nền kinh tế, vì khi con người được trang bị kiến thức tốt hơn thì sẽ làm việc hiệu quả hơn, năng suất sẽ cao hơn. Đồng thời, đầu tư tạo ra tăng trưởng kinh tế và bản thân tăng trưởng kinh tế tác động trực tiếp đến việc góp phần giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, giảm khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, thực hiện đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội và các hoạt động từ thiện khác... Khi đã giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đến lượt nó lại là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra sự phát triển bền vững trong tương lai. 1.1.3.6. Chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tạo tiền đề và điều kiện để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư khác Chi ĐTPT từ NSNN là công cụ kinh tế quan trọng để Nhà nước trực tiếp tác động đến các quá trình KT-XH, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Chi ĐTPT từ NSNN được coi là "vốn mồi" để thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước ĐTPT trên tất cả các lĩnh vực KT-XH, là hạt nhân thúc đẩy xã hội hoá đầu tư, thực hiện CNH,HĐH đất nước. Nhìn chung, chi ĐTPT từ NSNN đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng nhằm tạo ra một CSHT có sức thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nhà nước tập trung các dự án lớn, ít hoặc không có khả năng thu hồi vốn, lĩnh vực đầu tư chủ yếu là các công trình công cộng, phát triển CSHT... với chính sách phân bổ hợp lý đã góp phần khuyến khích đầu tư với nhiều thành phần kinh tế tạo điều kiện hình thành nên các ngành, vùng kinh tế quan trọng. 1.2. Nội dung quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tỉnh Chi ĐTPT từ NSNN là hoạt động có tính liên ngành, do đó, quản lý chi ĐTPT từ NSNN là yêu cầu khách quan nhằm hạn chế thất thoát, lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN, đáp ứng các mục tiêu phát triển KT-XH trên địa bàn. Quản lý, theo nghĩa chung, là sự tác động có mục đích của chủ thể vào các đối tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu quản lý đã đề ra. Quản lý chi ĐTPT từ NSNN là một trong những nội dung cơ bản của quản lý NSNN. Do đó, quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh cũng phải tuân theo trình tự quản lý NSNN theo đúng Luật NSNN: Lập, chấp hành và quyết toán NSNN. Đồng thời, do ĐTPT là một quá trình kéo dài từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư đến kết thúc đầu tư đưa dự án vào khai thác sử dụng, vì vậy hiệu quả chi ĐTPT phụ thuộc lớn vào chất lượng quá trình ĐTXD, và được chi phối bởi Luật Xây dựng. Chính vì thế, nội dung quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh, bên cạnh việc tuân thủ những quy định cơ bản từ Luật NSNN, cần xem xét tác động từ Luật Xây dựng. Quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh là sự tác động liên tục, có tổ chức, định hướng mục tiêu vào quá trình phân bổ, sử dụng và quyết toán VĐT từ NSNN tỉnh bằng hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và các biện pháp khác nhằm đạt được các kết quả, hiệu quả đầu tư và các mục tiêu theo chiến lược phát triển KT-XH tại địa phương. Quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh gồm những nội dung cơ bản sau: 1.2.1. Quản lý về kế hoạch vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tỉnh 1.2.1.1. Khái niệm về kế hoạch vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tỉnh Kế hoạch VĐT là dự toán chi cho từng chương trình, dự án ĐTPT, được cấp thẩm quyền phê chuẩn theo từng thời kỳ, thường là một năm. Kế hoạch VĐT vừa là nội dung, vừa là công cụ để quản lý hoạt động đầu tư nói chung, quản lý chi ĐTPT từ NSNN nói riêng. Kế hoạch VĐT từ NSNN tỉnh phản ánh khả năng huy động, bố trí sử dụng vốn NSNN tỉnh, theo tiến độ thời gian và từng chương trình, dự án. Kế hoạch VĐT từ NSNN tỉnh cho phép phối hợp hoạt động giữa các ngành, các địa phương trên địa bàn toàn tỉnh. Một kế hoạch VĐT hợp lý sẽ giảm bớt những thất thoát và lãng phí; hạn chế những khuyết tật của nền kinh tế thị trường; điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng ngày càng hợp lý... 1.2.1.2. Nguyên tắc lập kế hoạch vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tỉnh Công tác lập kế hoạch VĐT từ NSNN tỉnh phải quán triệt những nguyên tắc: - Kế hoạch VĐT từ NSNN tỉnh phải dựa trên cơ sở quy hoạch, định hướng phát triển KT-XH của tỉnh. Các chiến lược, quy hoạch phát triển là cơ sở khoa học để lập kế hoạch đầu tư. "Đối với chi đầu tư phát triển, việc lập dự toán phải căn cứ vào quy hoạch, chương trình, dự án đầu tư đã có quyết định của cấp có thẩm quyền, ưu tiên bố trí đủ vốn phù hợp với tiến độ triển khai thực hiện các chương trình, dự án" [48, tr.44]. - Đẩy mạnh công tác kế hoạch hoá VĐT theo các chương trình, dự án. Điểm mới của công tác kế hoạch trong cơ chế thị trường là việc lập kế hoạch theo chương trình phát triển và dự án. Chương trình phát triển là công cụ thực hiện kế hoạch, là tập hợp các mục tiêu, biện pháp nhằm phối hợp thực hiện một cách hiệu quả nhất mục tiêu kế hoạch đề ra trong điều kiện thời gian và nguồn lực nhất định. Thực chất của công tác kế hoạch hoá VĐT theo chương trình và dự án là lập các kế hoạch ĐTPT trên cơ sở các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch, lựa chọn các vấn đề vào chương trình phát triển và xây dựng các dự án đầu tư để thực hiện chương trình đó. Thực hiện tốt các chương trình phát triển và dự án là cơ sở thực hiện thành công kế hoạch đầu tư từ NSNN. - Kế hoạch VĐT từ NSNN tỉnh phải đảm bảo tính khoa học, đồng bộ, kịp thời và linh hoạt. Kế hoạch VĐT phải dựa trên những căn cứ khoa học về chiến lược, định hướng phát triển KT-XH, chiến lược đầu tư chung của nền kinh tế, ngành, địa phương, vào khả năng và thực trạng của NSNN... Kế hoạch VĐT phải đồng bộ giữa các nội dung đầu tư, giữa mục tiêu và biện pháp, đảm bảo tạo ra một cơ cấu đầu tư hợp lý, đồng thời có tính linh hoạt cao. Kế hoạch sẽ được điều chỉnh khi thay đổi nhu cầu và nguồn lực thực hiện. - Kế hoạch VĐT từ NSNN tỉnh phải đảm bảo mục tiêu kết hợp tốt giữa vốn NSNN và các nguồn vốn khác, kết hợp hài hoà giữa lợi ích hiện tại với lợi ích lâu dài, lấy hiệu quả KT-XH làm tiêu chuẩn để xem xét đánh giá. Kế hoạch VĐT từ NSNN là một bộ phận rất quan trọng của kế hoạch đầu tư nói chung, tạo điều kiện phát huy tiềm năng đầu tư của các thành phần kinh tế khác,thu hút VĐT nước ngoài. - Kế hoạch VĐT từ NSNN tỉnh phải được xây dựng theo nguyên tắc từ dưới lên nhằm đảm bảo tính thực thi cao. Dự án đầu tư là công cụ thực hiện kế hoạch đầu tư từ NSNN tỉnh. Điều kiện tiên quyết đối với các dự án được ghi kế đầu tư hàng năm là dự án phải có quyết định đầu tư từ thời điểm tháng 10 của năm trước năm kế hoạch, có thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán được duyệt của cấp có thẩm quyền. 1.2.1.3. Nội dung lập, kiểm tra và thông báo kế hoạch vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tỉnh Trong thời gian lập dự toán NSNN hàng năm, căn cứ vào tiến độ và mục tiêu thực hiện dự án, CĐT lập kế hoạch VĐT của dự án gửi cơ quan quản lý cấp trên để tổng hợp vào dự toán NSNN theo quy định của Luật NSNN. UBND tỉnh lập dự toán ngân sách địa phương về phần kế hoạch VĐT trình Thường trực HĐND tỉnh xem xét có ý kiến trước khi gửi Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Sau khi dự toán NSNN được Quốc hội quyết định và Thủ tướng Chính phủ giao, UBND tỉnh lập phương án phân bổ VĐT thuộc địa phương quản lý trình HĐND tỉnh quyết định. Theo Nghị quyết của HĐND, UBND tỉnh phân bổ và quyết định giao kế hoạch VĐT cho từng dự án đã đủ thủ tục đầu tư thuộc phạm vi quản lý, đảm bảo khớp đúng với chỉ tiêu được giao về TMĐT; cơ cấu vốn trong nước, vốn ngoài nước; cơ cấu ngành kinh tế; mức vốn các dự án quan trọng của Nhà nước và đúng với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ về điều hành kế hoạch phát triển KT-XH và dự toán NSNN hàng năm. Sở TC phối hợp với Sở KH&ĐT dự kiến phân bổ VĐT cho từng dự án do tỉnh quản lý trước khi báo cáo UBND tỉnh quyết định. Sau khi phân bổ VĐT từng dự án, UBND tỉnh gửi kế hoạch VĐT cho Bộ Tài chính, đồng thời giao chỉ tiêu kế hoạch cho các CĐT để thực hiện, đồng gửi KBNN nơi dự án mở tài khoản để theo dõi, làm căn cứ KSTTV. Trên cơ sở kế hoạch VĐT của UBND tỉnh, Sở TC thông báo kế hoạch thanh toán VĐT cho KBNN tỉnh làm căn cứ thanh toán vốn cho các dự án, đồng gửi cho các ngành quản lý có dự án đó theo dõi, phối hợp quản lý. Kế hoạch thanh toán VĐT là kế hoạch phân bổ vốn cho từng dự án thuộc nguồn VĐT NSNN theo từng loại nguồn vốn, loại vốn, vốn trong nước, ngoài nước. CĐT phải gửi Sở TC các tài liệu cơ sở của dự án để kiểm tra, thông báo kế hoạch thanh toán VĐT cho các dự án, bao gồm: Văn bản phê duyệt đề cương hoặc nhiệm vụ dự án quy hoạch; Văn bản cho phép tiến hành CBĐT; Dự toán chi phí cho công tác quy hoạch, CBĐT hoặc CBTHDA; Quyết định đầu tư dự án của cấp có thẩm quyền; Quyết định phê duyệt TKKT và TDT. 1.2.2. Quản lý nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tỉnh 1.2.2.1. Khái niệm nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tỉnh Nguồn VĐT là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho ĐTPT kinh tế, đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội. Nguồn VĐT bao gồm nguồn VĐT trong nước (vốn NSNN, vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước, VĐT từ doanh nghiệp nhà nước, nguồn vốn từ khu vực tư nhân, thị trường vốn) và nguồn VĐT ngoài nước. Xét về bản chất, nguồn hình thành VĐT chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Nguồn VĐT từ NSNN tỉnh là tiết kiệm từ NSNN, là phần được giành để chi cho ĐTPT từ thu NSNN tỉnh không tính đến các khoản viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho địa phương. Nguồn VĐT từ NSNN tỉnh là nguồn vốn quan trọng trong chiến lược phát triển KT-XH của mỗi địa phương. Quy mô tiết kiệm của NSNN tỉnh về cơ bản tùy thuộc vào sự thay đổi tổng thu và chi thường xuyên của NSNN tỉnh. Bởi lẽ "Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển" [48, tr.13]. Tổng thu NSNN tỉnh lại phụ thuộc vào quy mô và sự tăng trưởng kinh tế, chính sách động viên thu nhập vào NSNN (chủ yếu là thuế, phí và lệ phí), hiệu lực và hiệu quả tổ chức thu trên thực tế. "Chi đầu tư phát triển phải bảo đảm cấp đủ và đúng tiến độ thực hiện trong phạm vi dự toán được giao. Đối với những dự án, nhiệm vụ chi cấp thiết được tạm ứng trước dự toán để thực hiện" [48, tr.57]. 1.2.2.2. Nội dung quản lý nguồn vốn đầu tư từ ngân sách tỉnh "Cơ quan tài chính có trách nhiệm bố trí nguồn để thực hiện kịp thời các khoản chi theo dự toán, kiểm tra việc thực hiện chi tiêu và có quyền tạm dừng các khoản chi vượt nguồn cho phép hoặc sai chính sách, chế độ, tiêu chuẩn" [48, tr.58]. Do đó, đối với chi ĐTPT từ NSNN tỉnh, trên cơ sở tồn quỹ NSNN tỉnh, Sở TC có trách nhiệm chuyển kịp thời và chuyển đủ nguồn vốn qua cơ quan KBNN tỉnh thực hiện tạm ứng, thanh toán theo tiến độ thực hiện của các dự án được UBND tỉnh thông báo kế hoạch VĐT. Công tác quản lý nguồn vốn của cơ quan tài chính đảm bảo tập trung và đáp ứng nguồn vốn kịp thời theo tiến độ thực hiện kế hoạch của các dự án, bố trí đủ vốn theo quy định- không quá 2 năm đối với dự án nhóm C, 4 năm đối với nhóm B. Theo thông báo hạn mức VĐT hoặc lệnh chi tiền do cơ quan tài chính chuyển sang, KBNN tỉnh có trách nhiệm theo dõi, kiểm soát, thực hiện tạm ứng, thanh toán, hạch toán kế toán và quyết toán vốn theo từng CĐT, dự án, từng loại nguồn vốn, loại vốn, từng cấp ngân sách, theo đúng niên độ, mục lục NSNN. 1.2.3. Kiểm soát thanh toán vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tỉnh Theo quy định, hệ thống KBNN có trách nhiệm kiểm soát, tạm ứng, thanh toán vốn kịp thời, đầy đủ, đúng chế độ cho các ._.dự án khi đã có đủ điều kiện. Mục tiêu của việc KSTTVĐT qua hệ thống KBNN là nhằm bảo đảm việc sử dụng kinh phí NSNN đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả. Thực hiện KSTT VĐT có ý nghĩa rất lớn trong việc phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính của đất nước; tạo điều kiện giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng; tăng cường kỷ luật tài chính... Để nhận vốn tạm ứng, thanh toán cho các dự án được UBND tỉnh thông báo kế hoạch, CĐT hoặc BQLDA (theo uỷ quyền) được mở tài khoản tại KBNN tỉnh. 1.2.3.1. Tài liệu cơ sở Để phục vụ cho công tác KSTTVĐT, CĐT hoặc BQLDA gửi đến KBNN nơi mở tài khoản thanh toán các tài liệu cơ sở của dự án (các tài liệu này chỉ gửi một lần cho đến khi dự án kết thúc đầu tư, trừ trường hợp phải bổ sung, điều chỉnh) gồm: - Dự án đầu tư (hoặc Báo cáo đầu tư, hoặc Báo cáo kinh tế- kỹ thuật) và Quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền; - TDT hoặc dự toán kèm theo quyết định phê duyệt của cấp thẩm quyền; - Quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu (trường hợp đấu thầu), Quyết định chỉ định thầu hoặc quyết định giao nhiệm vụ; - Hợp đồng kinh tế giữa CĐT với nhà thầu và các tài liệu đi kèm. 1.2.3.2. Tạm ứng và thu hồi vốn tạm ứng - Đối tượng được tạm ứng vốn và mức vốn tạm ứng: * Dự án hoặc gói thầu thực hiện theo hình thức chìa khoá trao tay (thiết kế, cung cấp thiết bị và xây lắp) thông qua hợp đồng EPC: Tạm ứng cho việc mua sắm thiết bị căn cứ vào tiến độ thanh toán; Phần còn lại tạm ứng 15% giá trị hợp đồng, nhưng nhiều nhất không vượt kế hoạch vốn cả năm đã bố trí cho các công việc này. * Dự án hoặc gói thầu xây lắp tổ chức đấu thầu theo hợp đồng trọn gói hoặc hợp đồng điều chỉnh giá: Giá trị gói thầu dưới 10 tỷ đồng, mức tạm ứng bằng 20% giá trị hợp đồng; Giá trị gói thầu từ 10 tỷ đồng đến dưới 50 tỷ đồng, mức tạm ứng 15% giá trị hợp đồng; Giá trị gói thầu từ 50 tỷ đồng trở lên, mức tạm ứng 10% giá trị hợp đồng. Mức tạm ứng không vượt kế hoạch VĐT hàng năm của gói thầu. * Gói thầu mua sắm thiết bị: Mức vốn tạm ứng là số tiền mà CĐT phải thanh toán theo hợp đồng nhưng nhiều nhất không vượt kế hoạch VĐT trong năm bố trí cho gói thầu. Vốn tạm ứng được thanh toán theo tiến độ thanh toán tiền của CĐT đối với nhà thầu cung ứng, gia công chế tạo thiết bị được quy định trong hợp đồng kinh tế và được thực hiện cho đến khi thiết bị đã nhập kho của CĐT (đối với thiết bị không cần lắp) hoặc đã được lắp đặt xong và nghiệm thu (đối với thiết bị cần lắp). * Đối với các hợp đồng tư vấn: Mức vốn tạm ứng tối thiểu là 25% giá trị gói thầu, nhưng không vượt kế hoạch VĐT cả năm đã bố trí cho công việc tư vấn. * Đối với công việc ĐBGPMB và một số công việc thuộc chi phí khác của dự án được cấp vốn tạm ứng, mức vốn tạm ứng theo yêu cầu cần thiết nhưng không vượt kế hoạch VĐT cả năm đã được bố trí cho công việc đó. Để được tạm ứng, CĐT gửi KBNN nơi mở tài khoản các tài liệu đối với từng loại công việc: công tác ĐBGPMB phải có phương án đền bù và dự toán được duyệt; chi phí lệ phí cấp đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất,...phải có thông báo của cơ quan chuyên môn yêu cầu CĐT nộp tiền; chi phí của bộ máy quản lý dự án phải có dự toán được duyệt. - Thu hồi vốn tạm ứng: * Dự án hoặc gói thầu thực hiện theo hình thức chìa khoá trao tay thông qua hợp đồng EPC: Vốn tạm ứng để mua sắm thiết bị được thu hồi vào từng lần thanh toán khối lượng thiết bị hoàn thành; Vốn tạm ứng cho phần còn lại của dự án hoặc gói thầu được thu hồi như quy định đối với khối lượng xây lắp. * Dự án hoặc gói thầu xây lắp tổ chức đấu thầu theo hợp đồng trọn gói hoặc hợp đồng điều chỉnh giá, vốn tạm ứng được thu hồi dần khi thanh toán khối lượng hoàn thành. Thời điểm bắt đầu thu hồi được quy định khi thanh toán đạt 30% giá trị hợp đồng (đối với gói thầu có giá trị dưới 10 tỷ đồng); khi thanh toán đạt 25% giá trị hợp đồng (gói thầu có giá trị từ 10 tỷ đồng đến dưới 50 tỷ đồng); khi thanh toán đạt 20% giá trị hợp đồng (gói thầu có giá trị từ 50 tỷ đồng trở lên). Vốn tạm ứng được thu hồi hết khi gói thầu thanh toán khối lượng hoàn thành đạt 80% giá trị hợp đồng. * Gói thầu mua sắm thiết bị: Vốn tạm ứng mua sắm thiết bị được thu hồi vào từng lần thanh toán khối lượng thiết bị hoàn thành. Đối với thiết bị không cần lắp, khi thiết bị đã được nghiệm thu và nhập kho CĐT, CĐT có trách nhiệm gửi ngay chứng từ đến KBNN để làm thủ tục thanh toán khối lượng thiết bị hoàn thành và thu hồi hết số vốn đã tạm ứng. Đối với thiết bị cần lắp, khi thiết bị đã về đến kho CĐT, CĐT thông báo với KBNN để theo dõi; khi thiết bị đã lắp đặt xong, CĐT gửi ngay chứng từ đến KBNN làm thủ tục thanh toán khối lượng thiết bị hoàn thành, thu hồi hết số vốn đã tạm ứng. * Đối với các hợp đồng tư vấn: Vốn tạm ứng được thu hồi vào từng lần thanh toán cho khối lượng công việc tư vấn hoàn thành theo nguyên tắc: + Thời điểm thu hồi bắt đầu khi thanh toán khối lượng hoàn thành. + Số vốn thu hồi bằng số vốn thanh toán nhân với tỷ lệ cấp vốn tạm ứng. * Đối với công việc ĐBGPMB và một số công việc thuộc chi phí khác của dự án được cấp vốn tạm ứng, vốn tạm ứng được thu hồi vào kỳ thanh toán khối lượng hoàn thành của công việc này. - Thanh toán vốn tạm ứng: Ngoài hồ sơ cơ sở, CĐT (hoặc Ban QLDA) gửi đến KBNN giấy đề nghị tạm ứng VĐT và chứng từ rút VĐT. KBNN kiểm soát, cấp vốn cho CĐT, đồng thời thay CĐT thanh toán trực tiếp cho nhà thầu hoặc người thụ hưởng khác. 1.2.3.3. Thanh toán khối lượng hoàn thành - Thanh toán khối lượng xây lắp hoàn thành: * Khối lượng xây lắp hoàn thành theo hình thức chỉ định thầu hoặc tự thực hiện dự án được thanh toán là giá trị khối lượng thực hiện được nghiệm thu theo giai đoạn (hoặc hàng tháng) theo hợp đồng đã ký kết và có đủ điều kiện sau: + Khối lượng nghiệm thu phải đúng thiết kế bản vẽ thi công được duyệt và có trong kế hoạch đầu tư năm được giao; + Dự toán chi tiết được duyệt theo đúng định mức đơn giá của Nhà nước. * Khối lượng xây lắp hoàn thành theo hình thức đấu thầu hoặc theo hợp đồng EPC được thanh toán là khối lượng thực hiện đã được nghiệm thu theo tiến độ trong hợp đồng như sau: + Đối với hợp đồng trọn gói và hợp đồng EPC mà trong hợp đồng không quy định thêm các điều kiện thanh toán thì khối lượng nghiệm thu theo tiến độ là khối lượng có trong hợp đồng đã ký, được tính theo đơn giá trúng thầu, có trong kế hoạch đầu tư năm được giao. + Đối với hợp đồng điều chỉnh giá, hợp đồng EPC mà trong hợp đồng có quy định cụ thể về điều kiện, giới hạn, phạm vi các công việc, hạng mục được điều chỉnh và công thức điều chỉnh thì khối lượng nghiệm thu thanh toán là khối lượng và giá trị nghiệm thu trong hợp đồng đã ký, có trong kế hoạch đầu tư năm được giao. Trường hợp khối lượng phát sinh tăng, giảm so với khối lượng trong hợp đồng thì khối lượng nghiệm thu thanh toán là khối lượng được cấp thẩm quyền phê duyệt, phù hợp với các điều kiện cụ thể quy định trong hợp đồng, được tính theo đơn giá trúng thầu, không vượt giá trị hợp đồng và có kế hoạch đầu tư năm được giao. * Khi có khối lượng hoàn thành được nghiệm thu, CĐT lập hồ sơ đề nghị thanh toán gửi KBNN, bao gồm: Biên bản nghiệm thu khối lượng xây lắp hoàn thành kèm theo bản tính giá trị khối lượng được nghiệm thu; Phiếu giá thanh toán; Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng VĐT (nếu có); Chứng từ rút VĐT. Đối với khối lượng xây lắp hoàn thành theo hình thức đấu thầu, KBNN căn cứ vào tiến độ thực hiện do CĐT và nhà thầu xác định trên cơ sở hợp đồng và khối lượng nghiệm thu để thanh toán. CĐT và nhà thầu chịu trách nhiệm trước pháp luật về chất lượng và tiến độ thực hiện. - Thanh toán khối lượng thiết bị hoàn thành: * Khối lượng thiết bị hoàn thành được thanh toán là khối lượng thiết bị có đủ các điều kiện sau: Danh mục thiết bị phải phù hợp với quyết định đầu tư và có trong kế hoạch VĐT được giao; Có trong hợp đồng kinh tế giữa CĐT và nhà thầu; Đã được CĐT nhập kho (đối với thiết bị không cần lắp) hoặc đã lắp đặt xong và đã được nghiệm thu (đối với thiết bị cần lắp đặt). * Khi có khối lượng hoàn thành được nghiệm thu, CĐT lập hồ sơ đề nghị thanh toán gửi KBNN, bao gồm: Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho (đối với thiết bị mua trong nước); Bộ chứng từ nhập khẩu (đối với thiết bị nhập khẩu); Biên bản nghiệm thu thiết bị chạy thử tổng hợp đối với thiết bị cần lắp; Phiếu nhập kho (nếu là doanh nghiệp), biên bản nghiệm thu (nếu là đơn vị hành chính sự nghiệp) đối với thiết bị không cần lắp; Các chứng từ vận chuyển, bảo hiểm, thuế, phí lưu kho (trường hợp chưa được tính trong giá thiết bị); Bảng kê thanh toán hoặc phiếu giá thanh toán; Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng VĐT (nếu có); Chứng từ rút VĐT. - Thanh toán khối lượng công tác tư vấn hoàn thành: * Khối lượng công tác tư vấn hoàn thành được thanh toán là khối lượng thực hiện được nghiệm thu có trong hợp đồng kinh tế và kế hoạch VĐT được giao. * Khi có khối lượng hoàn thành được nghiệm thu, CĐT lập hồ sơ đề nghị thanh toán gửi KBNN, bao gồm: Biên bản nghiệm thu khối lượng tư vấn hoàn thành; Phiếu giá thanh toán; Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng; Chứng từ rút VĐT. - Hình thức thanh toán: Căn cứ hồ sơ đề nghị thanh toán do CĐT gửi đến, trong vòng 7 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, KBNN kiểm soát, cấp vốn cho CĐT đồng thời thay mặt CĐT thanh toán trực tiếp cho các nhà thầu, thu hồi vốn tạm ứng theo đúng quy định. - Nguyên tắc thanh toán: Số vốn thanh toán cho từng công việc, hạng mục công trình không được vượt dự toán hoặc giá trúng thầu; Tổng số vốn thanh toán cho dự án không được vượt TDT và TMĐT đã được phê duyệt; Số vốn thanh toán cho dự án trong năm (bao gồm cả tạm ứng và thanh toán khối lượng hoàn thành) nhiều nhất không vượt kế hoạch vốn cả năm đã được thông báo cho dự án. 1.2.4. Quyết toán 1.2.4.1. Quyết toán vốn đầu tư hàng năm Kết thúc năm kế hoạch, CĐT lập báo cáo quyết toán VĐT năm theo biểu mẫu quy định trong chế độ kế toán áp dụng cho CĐT do Bộ Tài chính ban hành. KBNN tỉnh lập báo cáo quyết toán VĐT theo danh mục dự án kèm theo kế hoạch VĐT được thông báo, theo từng loại nguồn vốn, cơ cấu (xây lắp, thiết bị, khác), đúng mục lục NSNN gửi Sở TC thẩm định, báo cáo UBND tỉnh trình HĐND tỉnh phê chuẩn. 1.2.4.2. Quyết toán vốn đầu tư hoàn thành VĐT được quyết toán là toàn bộ chi phí hợp pháp đã thực hiện trong quá trình đầu tư để đưa dự án vào khai thác sử dụng. Chi phí hợp pháp là chi phí được thực hiện đúng với hồ sơ thiết kế- dự toán đã phê duyệt, bảo đảm đúng quy chuẩn, định mức, đơn giá, chế độ tài chính- kế toán, hợp đồng kinh tế đã ký kết và những quy định của Nhà nước có liên quan. VĐT được quyết toán phải nằm trong giới hạn TMĐT được cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc điều chỉnh (nếu có). Khi hạng mục công trình, tiểu dự án, dự án thành phần và dự án đầu tư hoàn thành, CĐT có trách nhiệm lập báo cáo quyết toán VĐT; người có thẩm quyền (người quyết định đầu tư) tổ chức thẩm tra và phê duyệt quyết toán theo quy định về chế độ quyết toán VĐT. 1.3. Sự cần thiết hoàn thiện quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước 1.3.1. Thành công trong việc quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước trong những năm qua trên địa bàn cả nước Những năm qua, trong bối cảnh hết sức khó khăn cả ở trong và ngoài nước, nhưng nền kinh tế vẫn duy trì được mức tăng trưởng nhanh và bền vững; nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2001-2005 đạt 7,5%, riêng năm 2005 tăng 8,4%, là một cố gắng rất lớn. Tăng trưởng kinh tế trong các năm qua có sự đóng góp của nhiều yếu tố, trong đó yếu tố chủ yếu là đầu tư. Với việc không ngừng hoàn thiện và ban hành nhiều chủ trương, chính sách thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn VĐT trong xã hội; nhờ đó nguồn VĐT xã hội tăng trưởng khá, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn bước đầu được quan tâm hơn. Cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất của các ngành kinh tế tăng đáng kể, góp phần to lớn trong sự nghiệp phát triển của đất nước trong những năm qua. Trước hết là nguồn VĐT toàn xã hội tăng khá, tạo khả năng hoàn thành tốt kế hoạch ĐTPT đã đề ra, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Tổng vốn ĐTPT toàn xã hội giai đoạn 2001-2005 đạt 1.200 nghìn tỷ đồng, bằng 37,5% GDP, tăng 30% so với kế hoạch và gấp hai lần so với 5 năm trước. Trong đó, VĐT từ NSNN là 274,3 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 22,8% tổng VĐT toàn xã hội và chiếm 28% tổng chi NSNN. Đây là nguồn vốn rất quan trọng góp phần định hướng, tạo ra cơ cấu kinh tế và thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Hai là, cơ cấu đầu tư đã có sự dịch chuyển theo hướng tích cực, tập trung hơn cho những mục tiêu quan trọng về phát triển KT-XH, đồng thời quan tâm đầu tư nhiều hơn cho vùng nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc. Ba là, năng lực nhiều ngành KT-XH tăng lên đáng kể, nhất là năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp, năng lực tưới tiêu thủy lợi, năng lực giao thông vận tải... Bốn là, cơ chế quản lý ĐT&XD đã có nhiều đổi mới, thực hiện phân cấp, giao quyền và tạo chủ động cho các Bộ, ngành, địa phương trong việc quyết định chủ trương và phê duyệt các dự án đầu tư và bố trí VĐT cụ thể cho các công trình, dự án, không phân biệt là dự án nhóm A, B, C. Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị 29/2003/CT-TTg nhằm chấn chỉnh quản lý ĐT&XD bằng nguồn vốn NSNN. Kết quả tình trạng dự án phải điều chỉnh nội dung và TMĐT đã giảm mạnh; tình trạng chậm tiến độ đã được khắc phục một bước. Về công tác quy hoạch, đã xây dựng và rà soát lại các quy hoạch được duyệt, trong đó có quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của các vùng kinh tế, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; quy hoạch phát triển một số lĩnh vực về kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội; quy hoạch phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, các khu đô thị; các khu công nghiệp, các ngành công nghiệp, quy hoạch một số sản phẩm chủ yếu và quy hoạch phát triển một số ngành dịch vụ, du lịch... Chất lượng công tác quy hoạch đã được nâng lên do đã cập nhật, rà soát bổ sung theo hướng gắn với thực tế, bám sát hơn nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế; coi trọng mối quan hệ liên ngành, liên vùng, khai thác tốt hơn tiềm năng, thế mạnh của từng ngành, vùng.... Các quy hoạch phát triển là căn cứ để các Bộ, ngành và các địa phương xây dựng định hướng phát triển KT-XH, kế hoạch sử dụng đất đai của cả nước, cũng như của các tỉnh, thành phố; đồng thời, làm căn cứ cho việc kêu gọi đầu tư nước ngoài, đầu tư của các thành phần kinh tế trong nước. 1.3.2. Những tồn tại trong quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước Trước hết, công tác xây dựng và phê duyệt kế hoạch đầu tư từ nguồn vốn NSNN còn mang tính dàn trải. Tình trạng này đã được phân tích nguyên nhân và có nhiều giải pháp xử lý, nhưng đến nay vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. Đây là hệ quả được tích tụ từ nhiều năm trước đây, gây lãng phí lớn và dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Kế hoạch VĐT thiếu tập trung là điểm yếu và lặp đi lặp lại trong nhiều năm. Số dự án dự kiến kết thúc đưa vào sử dụng trong kỳ tăng chậm, trong khi đó số dự án có quyết định đầu tư mới trong kỳ vẫn tiếp tục tăng cao hơn, bình quân vốn bố trí cho một dự án qua các năm có xu hướng giảm dần. Một số Bộ, ngành và địa phương vẫn chưa chấp hành đúng quy định về quản lý ĐT&XD, bố trí vốn cho một số công trình, dự án chưa đủ thủ tục đầu tư. Chính phủ có quy định bố trí vốn cho các dự án nhóm B không quá 4 năm, nhóm C không quá 2 năm, nhưng nhiều Bộ, địa phương không thực hiện. Hai là, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư chưa cao, nhất là VĐT từ NSNN. Cơ cấu đầu tư còn nhiều điểm chưa hợp lý như đầu tư từ NSNN cho một số ngành và sản phẩm được bảo hộ; đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn còn thấp... trong khi đó đầu tư vào các công trình thủy lợi chiếm hơn 70% VĐT của ngành, việc xây dựng các công trình thủy lợi tưới cho các loại cây công nghiệp còn ít, còn coi nhẹ đầu tư thủy lợi cấp nước cho công nghiệp và dân sinh, cho nuôi trồng thủy sản. Một số lĩnh vực như công nghiệp sản xuất vật liệu, công nghiệp chế tạo, công nghiệp công nghệ cao chưa được đầu tư đúng mức. Nhìn chung mặt bằng công nghệ của ta còn thấp, khả năng cạnh tranh của sản phẩm chưa cao. Ba là, việc giải ngân, thanh toán khối lượng VĐT hoàn thành còn chậm, chủ yếu do các thủ tục thanh toán phức tạp, công tác nghiệm thu của các CĐT và BQLDA không kịp thời, nhất là các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, công trái giáo dục đã làm chậm việc đưa công trình vào sử dụng. Chất lượng công tác tư vấn thiết kế chưa đảm bảo yêu cầu, nên trong quá trình triển khai thi công đã phát sinh nhiều khối lượng không được CĐT bổ sung kịp thời, ảnh hưởng đến công tác thanh toán. Các CĐT, BQLDA sử dụng nguồn vốn NSNN chưa khẩn trương cùng các nhà thầu hoàn tất các thủ tục nghiệm thu, thanh quyết toán. Nhiều dự án đã hoàn thành nghiệm thu, đưa vào sử dụng trong nhiều năm nhưng không quyết toán công trình. Bốn là, tình hình nợ khối lượng các công trình XDCB hoàn thành do chưa có vốn thanh toán diễn ra ở một số Bộ và nhiều địa phương đang là vấn đề rất bức xúc. Các khoản nợ XDCB vượt quá khả năng cân đối NSNN đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các nhà thầu, dẫn đến việc chiếm dụng vốn lẫn nhau, nợ quá hạn ngân hàng tăng... Năm là, cơ chế chính sách trong lĩnh vực ĐTPT còn chậm được sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế của công tác quản lý hiện nay. Sáu là, chất lượng một số dự án quy hoạch chưa cao, chưa có tầm nhìn xa; quy hoạch chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chưa theo kịp với quá trình thay đổi của các yếu tố khách quan, các dự báo tác động của các yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm... nên tính định hướng cho các doanh nghiệp còn hạn chế. Tính cục bộ, xu hướng khép kín trong các quy hoạch (cả quy hoạch lãnh thổ và quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch sản phẩm) đã gây nên sự lãng phí các nguồn lực do sự phát triển chồng chéo, dư thừa công suất... hoặc tạo ra độc quyền trong ngành, sử dụng quy hoạch để cản trở các thành phần kinh tế khác tham gia. Quy hoạch chưa được thường xuyên cập nhật, bổ sung và điều chỉnh kịp thời, do đó một số quy hoạch bị lạc hậu với tình hình thực tiễn, không đáp ứng yêu cầu; không đủ căn cứ để xây dựng kế hoạch. Bảy là, tình hình thất thoát, lãng phí còn lớn, dẫn đến hiệu quả đầu tư chưa cao đang là vấn đề bức xúc hiện nay. Hiện tại, vì chưa thể kiểm toán, thanh tra đánh giá toàn bộ các dự án đầu tư xây dựng nên chưa thể khẳng định chính xác con số thất thoát mà dư luận lâu nay đề cập. Tuy nhiên, kết quả thanh tra các dự án cho thấy: số sai phạm về tài chính phát hiện chiếm 14-19% tổng số VĐT được thanh tra, kiểm tra. Trong tổng số vốn được phát hiện có sai phạm nói trên, số vốn kiến nghị thu hồi chiếm 5-6% tổng số vốn được thanh tra. 1.3.3. Sự cần thiết của việc hoàn thiện quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra mục tiêu tổng quát phát triển KT-XH giai đoạn 2006-2010: Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020...[30]. Để đạt được các mục tiêu chiến lược trên, VĐT toàn xã hội phải đạt khoảng 2.200 nghìn tỷ đồng- theo giá 2005, tương đương gần 140 tỷ USD (nếu tính theo giá hiện hành, VĐT toàn xã hội là 2.677 nghìn tỷ đồng, bằng 160 tỷ USD), chiếm 40% GDP. Trong đó, vốn trong nước chiếm 65% và vốn bên ngoài chiếm 35% [4]. Với quy mô đầu tư gấp đôi giai đoạn 2001-2005, rút kinh nghiệm từ công tác quản lý, sử dụng VĐT trong những năm qua, việc tổ chức huy động, quản lý và sử dụng VĐT, đặc biệt là hoàn thiện quản lý chi ĐTPT từ NSNN là hết sức cần thiết. Hơn thế, trong thời kỳ hội nhập, hoàn thiện quản lý chi ĐTPT từ NSNN sẽ góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tạo tiền đề và điều kiện kích thích, thu hút các nguồn vốn khác, nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, sớm hoàn thành các mục tiêu phát triển KT-XH. 1.4. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước VĐT là yếu tố vật chất quyết định tốc độ tăng trưởng và nâng cao sức cạnh tranh của một nền kinh tế. Nhưng tăng trưởng kinh tế và khả năng cạnh tranh của một quốc gia không chỉ dựa vào lượng VĐT nhiều hay ít, mà quan trọng hơn là hiệu quả sử dụng VĐT như thế nào. Hiệu quả chi ĐT-PT từ NSNN là phạm trù kinh tế biểu hiện mối quan hệ so sánh giữa các kết quả KT-XH đạt được của hoạt động chi ĐTPT từ NSNN với các chi phí phải bỏ ra để có các kết quả đó trong một thời kỳ nhất định. 1.4.1. Hiệu quả tài chính: Chỉ tiêu tỷ số lợi ích - chi phí (B/C) Chỉ tiêu này phản ánh tỷ số giữa lợi ích (Benefit) thu được với chi phí (Cost) phải bỏ ra. Dự án có hiệu quả khi B/C 1. Dự án không có hiệu quả khi B/C 1. 1.4.2. Hiệu quả KT-XH của hoạt động đầu tư * Số lao động có việc làm: Bao gồm số có việc làm trực tiếp cho dự án và số lao động có việc làm ở các dự án liên đới (số lao động có việc làm gián tiếp). Các dự án liên đới là các dự án khác được thực hiện do sự đòi hỏi của dự án đang được xem xét. Tổng số lao động trực tiếp và gián tiếp có việc làm là tổng số lao động có việc làm nhờ thực hiện dự án. * Số lao động có việc làm tính trên 1 đơn vị giá trị vốn đầu tư: - Số lao động có việc làm trực tiếp tính trên một đơn vị VĐT trực tiếp (Id): Id = Ld / Ivd Ld: Số lao động có việc làm trực tiếp của dự án Ivd: Vốn đầu tư trực tiếp của dự án - Toàn bộ số lao động có việc làm tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư đầy đủ (IT): IT = LT / IvT LT: Toàn bộ số lao động có việc làm trực tiếp và gián tiếp IvT: Số VĐT đầy đủ của dự án đang xem xét và các dự án liên đới LT= Ld + Lind IvT= Ivd + Ivind Lind : Số lao động có việc làm gián tiếp Ivind : VĐT gián tiếp * Mức giá trị gia tăng của mỗi nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ: Chỉ tiêu này phản ánh tác động điều tiết thu nhập giữa các nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ. Để xác định chỉ tiêu này, trước hết phải xác định nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ được phân phối giá trị tăng thêm (NNVA) của dự án. Tiếp đến xác định phần giá trị tăng thêm do dự án tạo ra mà nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ thu được. Cuối cùng tính chỉ tiêu giá trị gia tăng của mỗi nhóm dân cư hoặc mỗi vùng lãnh thổ thu được trong tổng giá trị gia tăng ở năm hoạt động bình thường của dự án. So sánh tỷ lệ này của các nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ với nhau sẽ thấy được tình hình phân phối giá trị gia tăng do dự án tạo ra giữa các nhóm dân cư và vùng lãnh thổ trong nước. 1.4.3. Hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio- Tỷ số vốn/sản lượng tăng thêm) Mô hình tăng trưởng đơn giản nhất và rất nổi tiếng được sử dụng khá phổ biến trên thế giới để phân tích sự phát triển kinh tế, do các nhà kinh tế Roy Harrod ở Anh và Evsey Domar ở Mỹ nêu ra từ những năm bốn mươi của thế kỷ trước, đã chỉ ra mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng như sau: ICOR = - V1: Tổng vốn đầu tư trong năm báo cáo - G1: GDP tính theo giá thực tế năm báo cáo - G0: GDP tính theo giá thực tế năm gốc (năm trước) Đây là một chỉ tiêu tổng hợp được sử dụng phổ biến để đánh giá hiệu quả sử dụng VĐT. Thực chất, hệ số ICOR phản ánh nhu cầu VĐT toàn xã hội để tăng thêm một đồng GDP. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy, muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15-20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. Hệ số ICOR ở Quảng Nam qua các năm được trình bày ở Biểu 1.1. Biểu 1.1: Hệ số ICOR ở Quảng Nam qua các năm Năm Vốn Đầu Tư (triệu đồng) giá hiện hành GDP (triệu đồng) giá hiện hành DGDP (triệu đồng) ICOR 2000 4.243.477 2001 1.867.652 4.679.492 436.015 4,28 2002 1.989.540 5.242.401 562.909 3,53 2003 2.425.011 5.991.177 748.776 3,23 2004 2.956.188 7.096.771 1.105.594 2,67 2005 4.017.459 8.802.368 1.705.597 2,36 Nguồn [18], [19], [20], [21], [22] 1.5. Một số kinh nghiệm về quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước 1.5.1. Kinh nghiệm trong nước 1.5.1.1. Kinh nghiệm quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước ở các khu công nghiệp ở Thanh Hoá Đến nay, Thanh Hoá đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập 4 KCN đó là KCN Lễ Môn, KCN Đình Hương, KCN Bỉm Sơn và KCN Nghi Sơn. Các KCN Bỉm Sơn, Nghi Sơn đã lập quy hoạch chi tiết và đang xây dựng dự án đầu tư. Riêng KCN Lễ Môn, KCN Đình Hương đã được phê duyệt dự án ĐTXD kết cấu hạ tầng từ NSNN và được đầu tư tương đối đồng bộ, đã đi vào hoạt động, thu hút hàng trăm nhà đầu tư đăng ký đầu tư sản xuất kinh doanh, góp phần tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm và tăng trưởng kinh tế địa phương. Thành công của Thanh Hoá trong việc chi NSNN tỉnh để ĐTXD các KCN, có thể rút ra các bài học sau: Một là, địa điểm quy hoạch đã thoả mãn yêu cầu sử dụng đất cho phát triển công nghiệp một cách bền vững; phù hợp với quy hoạch chung và khai thác được các hạ tầng ngoài hàng rào phục vụ KCN: điện, nước, giao thông; quy hoạch KCN gắn với quy hoạch tái định cư, quy hoạch dân cư KCN; đảm bảo quy hoạch vừa thực hiện nhiệm vụ đô thị hoá nông nghiệp nông thôn vừa phục vụ tốt nhất cho KCN; tạo điều kiện đô thị hoá trong thực hiện quy hoạch. Hai là, ở những khu vực khó khăn, Nhà nước phải là bà đỡ cho sự ra đời các KCN. Để đảm bảo cho ĐTPT bền vững, việc lựa chọn hình thức đầu tư vào các KCN là cách làm thông minh, đúng đắn giúp nhà nước vừa thu hút được đầu tư cho sự phát triển, vừa quản lý được môi trường, vừa quản lý được các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, để các KCN hội tụ các điều kiện thuận lợi cho sự ra đời ở những khu vực khó khăn, Nhà nước cần phải có sự hỗ trợ, đặc biệt là vốn NSNN, đất đai, cơ chế... Ba là, quy hoạch di dân tái định cư của KCN và giải quyết chỗ ở cho lao động KCN. Khu TĐC phục vụ GPMB KCN tốt nhất được xây dựng ngay gần với KCN, tạo điều kiện cho nhân dân bị thu hồi đất được ổn định chỗ ở gần KCN, làm dịch vụ nhà ở, phục vụ đời sống cho người lao động trong KCN, đáp ứng lao động cho KCN. Người dân được TĐC tại địa phương mình, chuyển việc làm cho KCN, con em họ sẽ trở thành lao động trong KCN, việc xây dựng KCN kết hợp với đô thị hoá sẽ được thực hiện một cách hài hoà và hiệu quả. Bốn là, thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế một cửa tại BQLKCN. Mọi vấn đề liên quan đến các ngành, BQL các KCN có trách nhiệm phối hợp giải quyết trên cơ sở Quy chế phối hợp được xây dựng giữa BQL các KCN với các ngành. Quy định này đã tránh được rất nhiều phiền hà cho nhà đầu tư. Năm là, chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực. Các dự án đầu tư vào Việt Nam, ngoài vấn đề về môi trường đầu tư ổn định và thị trường rộng lớn, thị trường nhân lực cũng đóng một vai trò quan trọng. Do đó, cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ một cách có hệ thống và quy mô nhằm đáp ứng được yêu cầu tiếp nhận và chuyển giao công tác quản lý mới, vận hành công nghệ sản xuất tiên tiến. 1.5.1.2. Kinh nghiệm từ đầu tư phát triển khu công nghiệp ở Bình Định Sau gần 8 năm, từ năm 1998, Bình Định đã chi ĐTPT từ nguồn vốn NSNN tỉnh cho 2 KCN: KCN Phú Tài 348 ha và KCN Long Mỹ giai đoạn 1 là 110 ha, thu hút được 114 dự án đầu tư với tổng VĐT gần 2.000 tỷ đồng, lấp đầy trên 80% diện tích cho thuê. Hiện có 80 doanh nghiệp đang hoạt động hàng năm tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp chiếm trên 30% và kim ngạch xuất khẩu chiếm trên 45% so với tổng giá trị toàn tỉnh; giải quyết việc làm cho gần 20.000 lao động. Từ thực tiễn ĐTPT các KCN tại Bình Định, có thể rút ra các bài học: Một là, khi quy hoạch KCN đã được xác định, cần tập trung chỉ đạo đảm bảo cân đối các nguồn lực cho ĐTPT. Trong lựa chọn địa điểm xây dựng KCN, nên chọn khu vực ít dân cư, nhằm tạo thuận lợi cho công tác GPMB và triển khai các dự án trong KCN. Hai là, khi triển khai ĐTXD KCN cần tuân thủ quy trình: xây dựng khu TĐC để di dời dân phải đi trước một bước và phải đồng bộ với tiến độ GPMB cùng với việc thực hiện trong việc cuốn chiếu trong GPMB. Ba là, trong ĐTXD kết cấu hạ tầng KCN và khu TĐC cần lựa chọn tổ chức có uy tín, năng lực và kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm hợp đồng thi công. Bốn là, CCHC, nhất là cải cách thủ tục hành chính với yêu cầu thông thoáng, thuận lợi và đúng pháp luật là ưu tiên hàng đầu. 1.5.2. Kinh nghiệm nước ngoài Sự thành công trong phát triển kinh tế của các nền kinh tế công nghiệp mới (NICs) châu á cho chúng ta nhiều bài học lớn trong việc huy động, sử dụng có hiệu quả VĐT. Tại những nước này, trong giai đoạn CNH, HĐH, nền kinh tế đều có nhiều nét đặc trưng giống nước ta, đều gặp phải mâu thuẫn giữa nhu cầu ĐTXD lớn với khả năng vốn trong nước có hạn, chính sách đầu tư, sử dụng vốn đều có nét đặc trưng giống nhau, mặc dù chiến lược phát triển và mục tiêu kinh tế của mỗi nước có khác nhau. Kết quả, các nước này đều thành công trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước với trình độ công nghiệp hoá ở giai đoạn cao [27], [33]. Trong phạm vi đề tài, chúng ta xem xét kinh nghiệm sử dụng vốn trong nước, đặc biệt là nguồn vốn NSNN cho ĐTPT kinh tế ở một số nước: - Đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp: Trong giai đoạn đầu của sự phát triển, việc ĐTPT cho nông nghiệp được coi trọng. Năm 1975, tỷ lệ VĐT cho nông nghiệp ở Indonesia là 18,9%; Malaysia là 20,2%; Philippine là 25,7%. Nguồn vốn này chủ yếu được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp và xây dựng CSHT như điện, giao thông nông thôn, thuỷ lợi nhằm phục vụ cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Cùng với quá trình mở rộng và phát triển sản xuất nông nghiệp, chính phủ các nước đã tiến hành đầu tư mở mang các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp, cung ứng vật tư cho nông nghiệp, trọng tâm là sản xuất phân bón. - Đầu tư cho công nghiệp: Từ những năm bảy mươi của thế kỷ trước, các nước ASEAN đã chuyển sang chiến lược khuyến khích sử dụng tốt nguồn vốn và lao động trong nước hướng tới xuất khẩu. Sự chuyển đổi này được coi như một chiến lược phát triển công nghiệp. Ưu tiên trước hết là đầu tư vốn vào các ngành sử dụng lợi thế và khai thác nguồn tài nguyên trong nước. Thông thường đó là các mặt hàng có lợi th._. bằng cho CĐT khởi công dự án xây lắp. Trước mắt, nên có quy định phải bảo đảm có 70-80% mặt bằng bàn giao mới được khởi công xây dựng công trình. Đồng thời phải xây dựng cơ chế cấp vốn, cho vay vốn, ứng vốn để thực hiện TĐC, ĐBGPMB. Cần có quy chế phối hợp và hoạt động cụ thể, tăng cường phối hợp giữa các BQLDA và các địa phương trong công tác ĐBGPMB. Kiện toàn bộ máy, nâng cao năng lực trình độ chuyên môn các Ban ĐBGPMB tại các địa phương, đẩy mạnh phân cấp cho các địa phương trong khâu phê duyệt phương án ĐBGPMB. Trong bố trí kế hoạch phải đảm bảo cân đối trước và đủ vốn thực hiện ĐBGPMB. * Tăng cường quản lý đấu thầu theo Luật Đấu thầu UBND tỉnh cần chỉ đạo việc tổ chức tập huấn, hướng dẫn thực hiện Luật Đấu thầu (có hiệu lực từ 01/4/2006) và Nghị định 111/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ v/v hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu. Tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động đấu thầu, thực hiện mục tiêu của công tác đấu thầu là cạnh tranh, công khai, minh bạch và hiệu quả kinh tế. Chỉ đạo thực hiện kiên quyết các biện pháp chế tài theo quy định như cảnh cáo, phạt tiền, cấm tham gia hoạt động đấu thầu hoặc kết hợp các hình thức trên để xử phạt các trường hợp vi phạm quy chế đấu thầu nhằm tránh xảy ra tình trạng không tổ chức đấu thầu đầy đủ theo quy định, chia nhỏ dự án để chỉ định thầu, tổ chức đấu thầu hạn chế thiếu cơ sở pháp lý, xác định khối lượng mời thầu không chính xác... Xử lý kiên quyết các hành vi dàn xếp, thông đồng giữa các nhà thầu, giữa nhà thầu với CĐT, kể cả các hành vi của cơ quan, tổ chức thẩm định, phê duyệt kết quả đấu thầu dẫn đến kết quả sai lệch hoặc lựa chọn nhà thầu không đủ năng lực. Khắc phục ngay tình trạng nhà thầu nhận thầu cùng lúc nhiều công trình, dàn trải xe máy, thiết bị, nhân lực làm kéo dài tiến độ thi công; hoặc sau khi trúng thầu, ký hợp đồng lại với đơn vị khác không đủ tiêu chuẩn thi công dự án; hoặc dự thầu giá thấp để trúng thầu, sau đó tìm cách phát sinh, nâng giá hợp đồng... Các Sở, ban ngành, địa phương cần chỉ đạo để các BQLDA, các đơn vị có liên quan cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ giúp cho quá trình đấu thầu được thông suốt và đảm bảo tính công khai, minh bạch. Tăng cường việc chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền theo đúng quy định của Luật Đấu thầu. Trong quá trình phê duyệt kế hoạch đấu thầu cần lưu ý áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi là chủ yếu, hạn chế việc áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế hoặc hình thức chỉ định thầu. 3.3.2.3. Tăng cường quản lý giai đoạn thực hiện đầu tư * Chấn chỉnh và tăng cường giám sát, đánh giá đầu tư Mọi công trình xây dựng phải thực hiện chế độ giám sát theo đúng Luật Xây dựng trên tất cả các mặt chất lượng, khối lượng, tiến độ, chủng loại vật tư thiết bị, an toàn lao động và vệ sinh môi trường. CĐT phải thuê tư vấn giám sát hoặc tự thực hiện khi có đủ điều kiện về năng lực. Người thực hiện giám sát phải có chứng chỉ hành nghề giám sát thi công phù hợp loại hình, cấp công trình. Khuyến khích các CĐT thuê các đơn vị tư vấn giám sát giỏi, có uy tín, kinh nghiệm kể cả trong nước và nước ngoài để giám sát các công trình sử dụng nguồn vốn NSNN. Các Sở KH&ĐT, Xây dựng, Tài nguyên- Môi trường và các địa phương thực hiện giám sát ngay từ khâu bố trí đầu tư đảm bảo tuân thủ theo quy hoạch, kế hoạch được duyệt, thực hiện giám sát trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư; tổ chức tốt việc đánh giá đầu tư của ngành và địa phương trong thời kỳ 2001- 2005, nhằm xem xét, đánh giá cụ thể tình hình và kết quả đầu tư của ngành và địa phương, tìm các biện pháp nâng cao hiệu quả đầu tư, kịp thời rút kinh nghiệm và chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư. Cần quy định việc đánh giá hiệu quả là khâu cuối cùng của quy trình ĐTXD dự án. Đồng thời, các tổ chức và đơn vị liên quan cần tổ chức thực hiện nghiêm túc Quy chế giám sát đầu tư cộng đồng ban hành kèm theo Quyết định 80/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ. Cơ quan quyết định đầu tư, CĐT, nhà thầu thi công, tư vấn giám sát... các dự án sử dụng vốn NSNN có ảnh hưởng trực tiếp đến cộng đồng có nghĩa vụ trả lời, cung cấp thông tin phục vụ việc giám sát cho công dân sinh sống trên địa bàn thông qua Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. * Củng cố các biện pháp quản lý chất lượng công trình, trong đó lưu ý công tác nghiệm thu, thí nghiệm Các CĐT, nhà thầu, tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát... có trách nhiệm tổ chức quản lý chất lượng công trình theo đúng quy định tại Nghị định 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 của Chính phủ và hệ thống tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam. CĐT phải thuê tư vấn giám sát công trình, hoặc tự thực hiện khi có đủ điều kiện năng lực hoạt động giám sát thi công. Người giám sát phải có chứng chỉ hành nghề giám sát thi công xây dựng phù hợp với công việc, loại và cấp công trình. Tăng cường công tác giám sát nhân dân đối với công trình được xây dựng trên địa bàn. Bổ sung quy chế bắt buộc có giám sát chất lượng của nhà thầu, nhằm loại bỏ tình trạng khoán trắng giữa các công ty xây dựng và đội xây dựng, hiện được xem như kẽ hở rất lớn trong việc giám sát và quản lý chất lượng công trình xây dựng. Đối với những công trình ngầm, bộ phận che khuất, kết cấu chịu lực quan trọng, điểm dừng kỹ thuật..., cần có ý kiến xác nhận giám sát tác giả của đơn vị thiết kế trước khi nghiệm thu chuyển giai đoạn xây lắp. Nghiêm cấm và xử lý nghiêm việc thông đồng khai man khối lượng nghiệm thu, nghiệm thu khống để chạy vốn hoặc nghiệm thu trùng khối lượng... Duy trì công tác giám định độc lập và chứng nhận chất lượng phù hợp cho các công trình. Đây là công cụ hữu hiệu hỗ trợ chính quyền và các tổ chức, cá nhân trong việc quản lý chất lượng các công trình. Bên cạnh công tác đào tạo, tập huấn quản lý chất lượng, cần xử lý nghiêm các vi phạm trong quản lý chất lượng xây dựng công trình bằng các chế tài cụ thể, nhằm góp phần lập lại kỷ cương trong quản lý ĐTXD. * Thực hiện thanh tra, kiểm tra định kỳ, thường xuyên Thường xuyên có kế hoạch cụ thể về kiểm tra, thanh tra, kiểm toán các dự án, công trình được đầu tư từ NSNN tỉnh, tập trung vào những khâu yếu kém và có nhiều dư luận xã hội, phản ánh của giám sát cộng đồng; làm rõ sai phạm, quy trách nhiệm và xử lý nghiêm minh, triệt để và kiên quyết thay thế những cán bộ, công chức thiếu năng lực, thiếu tinh thần trách nhiệm gây lãng phí, thất thoát, dẫn đến hậu quả chất lượng công trình kém, hoàn thành chậm tiến độ... Thực hiện nghiêm túc các kiến nghị của thanh tra, kiểm toán Nhà nước, các cơ quan chức năng khác, công khai kết quả giải quyết, xử lý những vi phạm đã được phát hiện. áp dụng cơ chế thuê tư vấn kiểm tra, thẩm tra tư vấn công trình, chống thông đồng, móc ngoặc giữa CĐT và tổ chức tư vấn, chống khép kín trong công tác giám sát, đánh giá đầu tư. * Tăng cường các biện pháp đẩy nhanh tiến độ thi công Đẩy nhanh tiến độ thi công nhằm thúc đẩy các bên liên quan, đặc biệt là nhà thầu xây dựng, tập trung nhân lực, thiết bị, nguyên vật liệu, tổ chức quản lý thi công theo đúng tiến độ quy định tại quyết định đầu tư. Đẩy nhanh tiến độ thi công sẽ sớm đưa dự án vào vận hành, khai thác theo đúng các mục tiêu của dự án, phục vụ các mục tiêu phát triển KT-XH của địa phương. Mức độ lợi ích của việc thực hiện dự án hoàn thành vượt tiến độ tuỳ thuộc vào quy mô và tầm quan trọng của dự án. Theo tính toán của các nhà kinh tế cho thấy, điều kiện tiên quyết để có thể tiến hành đầu tư các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông là các dự án đó phải có chỉ số nội hoàn kinh tế lớn hơn 12%. Nghĩa là, sau khi đưa dự án vào khai thác sử dụng, hàng năm lợi ích mang lại từ dự án đó sẽ là 12% giá trị VĐT vào dự án. Hoặc có thể hiểu rằng, dự án sẽ được hoàn vốn sau hơn 8 năm vận hành. Theo những phân tích trên, có thể thấy rằng, nếu dự án chậm tiến độ 1 năm, con số thiệt hại sẽ là 12% TMĐT dự án. Một giá trị thiệt hại không nhỏ so với quy mô đầu tư của NSNN tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến. Đó là chưa tính đến các thiệt hại vô hình do điều kiện KT-XH đã khác so với thời điểm lập dự án, tính năng kỹ thuật của thiết bị lỗi thời, giá đất tăng kéo theo chi phí ĐBGPMB & TĐC sẽ tăng, ảnh hưởng đến đến TMĐT của dự án... Để tránh những khoản thiệt hại do chậm tiến độ, đồng thời đảm bảo thực hiện đạt mục tiêu tăng trưởng như phương hướng đã nêu, việc nghiên cứu và đưa ra các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ thi công là rất cần thiết. Trong đó, việc thưởng phạt tiến độ được xem là một trong những giải pháp quan trọng. UBND tỉnh cần có chỉ đạo các ngành, địa phương, các CĐT triển khai thực hiện việc thưởng phạt tiến độ theo quy định tại điểm 2, điều 110, Luật Xây dựng 2003: "Đối với công trình xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước, mức thưởng không vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng làm lợi, mức phạt không vượt quá 12% giá trị hợp đồng bị vi phạm"[49]. * Thực hiện cải cách hành chính trong quản lý đầu tư xây dựng - Bên cạnh việc công khai quy hoạch đến với cộng đồng dân cư, các địa phương và đơn vị liên quan cần chấp hành tốt việc công khai phân bổ, quản lý sử dụng vốn ĐTXD từ NSNN tỉnh. Hàng năm, UBND các địa phương trong tỉnh, các CĐT, BQL thực hiện công khai tổng mức chi ĐTPT và phân bổ kế hoạch vốn từ NSNN các cấp; tổng mức vốn; TDT; kế hoạch vốn cho từng dự án; kết quả lựa chọn nhà thầu; số liệu quyết toán chi ĐTPT từ NSNN, số liệu quyết toán VĐT khi dự án hoàn thành được phê duyệt; số liệu kiểm toán đối với dự án được kiểm toán... Việc công khai phải được niêm yết tại trụ sở cơ quan và công bố trong các hội nghị cơ quan. Các đơn vị phải trả lời chất vấn bằng văn bản sau 10 ngày khi nhận được văn bản chất vấn của các tổ chức chính trị- xã hội, đoàn thể, mặt trận tổ quốc và nhân dân. - Tăng cường phân cấp đồng bộ công tác quản lý ĐTXD; phân bổ kế hoạch vốn; quản lý chi ĐTPT từ NSNN cho các địa phương. - Công khai việc định mức phân bổ kế hoạch vốn ĐTXD theo các tiêu chí dân số, đơn vị hành chính, diện tích tự nhiên, trình độ phát triển, tiêu chí đặc thù. - Từng bước tách chức năng quản lý sản xuất ra khỏi chức năng quản lý nhà nước của các ngành, địa phương nhằm xoá bỏ tình trạng khép kín trong các khâu lập, thẩm định, phê duyệt, tổ chức đấu thầu, thi công, giám sát... trong cùng một ngành, một địa phương. - Quy định rõ tiêu chí, tiêu chuẩn trong thẩm tra, thẩm định dự án; Mẫu hoá tất cả các thủ tục, hồ sơ từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến kết thúc xây dựng, công khai đầy đủ trên mạng. - UBND tỉnh cần xem xét ban hành một cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng đồng bộ từ các ngành, các cấp. Bởi vì đầu tư XDCB là một quá trình kéo dài từ giai đoạn CBĐT, thực hiện đầu tư, kết thúc xây dựng đưa công trình vào khai thác sử dụng. Để có thể đẩy nhanh tiến độ thi công, tiến độ thanh toán vốn, sớm đưa dự án vào vận hành khai thác, ngoài Quy trình kiểm soát thanh toán vốn ở ngành KBNN (đã được ban hành theo Quyết định 601, 602 KB/QĐ/TTVĐT ngày 28/10/2003 của Tổng Giám đốc KBNN), UBND tỉnh cần xem xét ban hành đồng bộ các quy trình theo từng công đoạn trong suốt quá trình đầu tư, bởi vì nếu xảy ra ách tắc ở bất kỳ một công đoạn nào sẽ có ảnh hưởng dây chuyền đến cả quá trình ĐT&XD. Căn cứ trình tự theo Quy chế quản lý ĐTXD của Chính phủ, UBND tỉnh cần nghiên cứu ban hành một số quy trình sau: Œ Quy trình lập, thẩm định và phê duyệt các dự án Quy hoạch  Quy trình lập, thẩm định và Quyết định đầu tư Ž Quy trình lập, thẩm định và phê duyệt Thiết kế - Tổng dự toán  Quy trình lập và thông báo Kế hoạch vốn đầu tư  Quy trình triển khai thực hiện kế hoạch của Chủ đầu tư ‘ Quy trình Đấu thầu ’ Quy trình Giám sát kỹ thuật; Giám sát cộng đồng và Đánh giá đầu tư “ Quy trình Nghiệm thu và Thanh toán ” Quy trình điều hành Nguồn vốn của cơ quan Tài chính • Quy trình Quyết toán vốn và Quyết toán dự án hoàn thành Trong mỗi quy trình cần quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm, tiêu chuẩn, điều kiện bắt buộc đối với tất cả những cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình đầu tư của bất kỳ dự án nào; Quy định rõ trình tự, nội dung, thời gian hoàn thành bắt buộc đối với từng loại công việc trong tất cả giai đoạn đầu tư. Bên cạnh đó cần tạo ra cơ chế để nhân dân và báo chí giám sát, phát hiện các tiêu cực trong ĐTXD... Có như thế, mới phát hiện nhanh ách tắc ở khâu nào, nguyên nhân từ đâu, trách nhiệm thuộc về ai, từ đó mới có giải pháp xử lý, tháo gỡ kịp thời, giúp cho quá trình đầu tư được thông suốt từ khâu đầu đến khâu cuối theo đúng trình tự đã được quy định. Và có như thế, mới có thể xử lý dứt điểm các tồn tại, bất cập trong thời gian qua, tạo nên môi trường thuận lợi trong đầu tư và sản xuất, nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế ở địa phương. 3.3.2.4. Đổi mới công tác quản lý xây dựng cơ bản Trên cơ sở Luật Xây dựng, Nghị định 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 "về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình" và Nghị định 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ "về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 16/2005/ NĐ-CP"; căn cứ thực trạng quản lý giai đoạn 2001-2005 và những kiến nghị trong tất cả các khâu thuộc quy trình ĐTXD, UBND tỉnh cần nghiên cứu và ban hành Quy chế quản lý đầu tư sử dụng vốn NSNN tỉnh theo hướng loại bỏ dần tình trạng khép kín trong ĐTXD; tách chức năng quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh trong tất cả các khâu trong quản lý ĐTXD. Người ra quyết định đầu tư không kiêm nhiệm CĐT; thực hiện đấu thầu chọn tư vấn quản lý dự án; xây dựng, ban hành tiêu chí, tiêu chuẩn làm CĐT, BQLDA kèm theo chức năng và trách nhiệm cụ thể cho từng chức danh công việc; tăng cường sử dụng các tổ chức tư vấn giám sát độc lập trong quá trình thực hiện dự án, đặc biệt đối với các dự án lớn; các tổ chức tư vấn thiết kế, các nhà thầu xây dựng, các tư vấn giám sát không thuộc cùng một ngành, một địa phương; từng bước hình thành tổ chức tư vấn độc lập; xây dựng lộ trình xoá bỏ tình trạng khép kín hiện nay. Đồng thời với việc phân cấp trong quản lý ĐTXD, tiếp tục bổ sung các chế tài về quản lý nhà nước đủ mạnh để tăng cường trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động ĐTXD: Đối với người quyết định đầu tư: Song song với việc đẩy mạnh phân cấp, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các ngành, địa phương, trong cơ chế quản lý đầu tư của tỉnh cần bổ sung các chế tài đủ mạnh để nâng cao trách nhiệm của người ra quyết định đầu tư. Người quyết định đầu tư sẽ phải bị xử phạt hành chính, cách chức hoặc miễn nhiệm khi quyết định những dự án đầu tư sai, gây lãng phí NSNN, kiên quyết chấm dứt tình trạng người quyết định đầu tư sai nhưng vẫn đứng ngoài cuộc như hiện nay. Đối với chủ đầu tư: CĐT phải chịu trách nhiệm toàn diện về hiệu quả, chất lượng, tiến độ xây dựng và phải là người quản lý sử dụng dự án khi hoàn thành. Giám đốc điều hành dự án cần lựa chọn là người có đủ điều kiện về năng lực, phù hợp với từng loại và cấp công trình theo quy định. Nếu CĐT không có đủ điều kiện năng lực, thì phải thuê các tổ chức tư vấn quản lý dự án theo quy định của Luật Xây dựng. Kiện toàn, sắp xếp lại các BQLDA, tiến tới xoá bỏ các BQL không đủ điều kiện năng lực, thành lập các BQL chuyên nghiệp hoạt động theo mô hình tư vấn quản lý dự án. Đối với nhà thầu: Trong quy chế cần quy định chặt chẽ về năng lực hành nghề của nhà thầu, quy định các loại hình và quy mô công trình các nhà thầu được phép tham gia phù hợp với trình độ và năng lực của nhà thầu. Chấm dứt tình trạng nhà thầu nhận thầu bằng mọi giá hoặc giao thầu lại cho các nhà thầu không có đủ điều kiện năng lực thi công, xây dựng công trình. Trường hợp phát hiện có hiện tượng thông đồng, móc ngoặc giữa CĐT với tổ chức tư vấn hoặc nhà thầu xây dựng, thì theo mức độ sai phạm có cơ chế đủ mạnh như phạt tiền, thi hành kỷ luật hành chính, phạt không cho tham gia hoạt động xây dựng ít nhất 1 năm, thông báo trên trang web Quảng Nam. Đối với tổ chức tư vấn thiết kế và tư vấn giám sát thi công: Tổ chức tư vấn thiết kế kỹ thuật phải có đủ năng lực chuyên môn và có đủ tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm trước CĐT và trước pháp luật về thiết kế kỹ thuật và TDT của công trình, dự án phù hợp với các quy định hiện hành. Nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân thực hiện việc giám sát thi công theo đúng thiết kế kỹ thuật, đúng quy trình, quy phạm và tiêu chuẩn kỹ thuật, chủng loại và chất lượng vật tư... Từng bước chuyển dần các tổ chức tư vấn, nhà thầu sang hoạt động độc lập đối với các công trình, dự án do ngành, địa phương làm CĐT. Trong quy chế, cũng cần xây dựng cơ chế phối hợp các ngành liên quan trong chỉ đạo điều hành công tác ĐTXD trên địa bàn toàn tỉnh, từ công tác quản lý quy hoạch, kế hoạch, nguồn vốn, đến các khâu trong quy trình xây dựng như CBĐT, CBTHDA, thực hiện dự án, kết thúc xây dựng đưa dự án vào khai thác, vận hành. Kết luận Vốn đầu tư từ NSNN đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cho xã hội, là nhân tố quyết định làm thay đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển KT-XH của một đất nước hay địa phương. Chi ĐTPT từ NSNN chủ yếu tập trung vào lĩnh vực CSHT, cung ứng các dịch vụ công cộng, dịch vụ xã hội, những lĩnh vực mà các nguồn vốn khác ít tham gia, tạo điều kiện cho một sự phát triển hài hòa, ổn định và bền vững. Đồng thời, chi ĐTPT từ NSNN có vai trò tích cực thúc đẩy xã hội hóa đầu tư, là “vốn mồi”, “vốn bảo đảm”, “vốn đối ứng”, nhằm kích thích, tạo tiền đề thu hút các nguồn vốn khác tham gia đầu tư, đảm bảo nguồn lực tài chính, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, sớm hoàn thành các mục tiêu phát triển KT-XH. Tuy nhiên, đối với Quảng Nam- một tỉnh có điểm xuất phát thấp, VĐT từ NSNN luôn hạn hẹp, nhu cầu cho ĐTPT ngày càng lớn, bên cạnh việc huy động vốn, vấn đề hoàn thiện quản lý chi ĐTPT từ NSNN đã và đang trở thành mối quan tâm đặc biệt của toàn xã hội. ở góc độ quản lý, việc nâng cao chất lượng quản lý chi ĐTPT có tầm quan trọng và khả thi hơn là các biện pháp tăng vốn. Từ thực tiễn khảo sát, thu thập tình hình quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn 2001-2005, luận văn đã đề xuất nhiều giải pháp hoàn thiện quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh giai đoạn 2006-2010, từ khâu lập và phê duyệt quy hoạch, kế hoạch hóa, quản lý nguồn vốn, tổ chức KSTTVĐT, quyết toán vốn và quyết toán dự án hoàn thành, đến nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, xuyên suốt quá trình ĐTXD: từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án, giai đoạn xây dựng đến nghiệm thu hoàn thành đưa công trình vào khai thác sử dụng. Trong đó, nhiều lĩnh vực đã được tập trung luận giải đầy đủ và hệ thống trên cơ sở kết hợp giữa lý luận và thực tế quản lý tại địa phương như: cơ cấu đầu tư; trọng điểm đầu tư; tình trạng dàn trải, phân tán trong đầu tư; nợ đọng kéo dài; phân cấp trong quản lý chi ĐTPT; tập trung thu, đáp ứng nhiệm vụ chi ĐT; phương thức quản lý nguồn vốn, cấp phát chi ĐTXDCB từ NSNN tỉnh; nâng cao chất lượng kiểm soát thanh toán và đẩy nhanh tiến độ giải ngân VĐT; thực hiện tin học hóa; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quản lý ĐTPT từ NSNN tỉnh. Bên cạnh đó, để đạt được mục tiêu hoàn thiện quản lý, cần có những giải pháp hỗ trợ trong công tác lập và phê duyệt dự án; thiết kế, dự toán; quản lý chi phí; đổi mới công tác đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư; tăng cường quản lý đấu thầu; chấn chỉnh giám sát, đánh giá đầu tư; củng cố các biện pháp quản lý chất lượng, nghiệm thu; thanh tra, kiểm tra định kỳ; quản lý tiến độ; cải cách hành chính trong quản lý ĐTXD; đổi mới công tác quản lý XDCB... Trên cơ sở phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT-XH tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2006-2010, tác giả kỳ vọng rằng những nội dung nghiên cứu, những giải pháp cơ bản và giải pháp hỗ trợ được trình bày trong luận văn sẽ góp phần hoàn thiện quản lý chi ĐTPT từ NSNN tỉnh, một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quy trình quản lý NSNN và ĐTXDCB, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sớm đưa Quảng Nam trở thành tỉnh công nghiệp phát triển vào năm 2015 như Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX đã xác định. Danh mục công trình liên quan đến luận văn Đoàn Ngọc Tài (2006), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng quản lý và đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư XDCB tại các dự án thuộc khu kinh tế mở Chu Lai”, Quản lý Ngân quỹ quốc gia, (45), tr.34-38. Đoàn Ngọc Tài (2006), “Hoàn ứng vốn đầu tư- Thực trạng và giải pháp”, Quản lý Ngân quỹ quốc gia, (47), tr.34-35. Đoàn Ngọc Tài (2006), “Một số nhận định về tình hình giải ngân tại Quảng Nam 6 tháng đầu năm 2006”, Quản lý Ngân quỹ quốc gia, (49), tr.46-47. Đoàn Ngọc Tài (2006), “Đối thoại trực tiếp với các chủ đầu tư”, Website Kho bạc Nhà nước, ngày 15/12/2006. Danh mục tài liệu tham khảo I. Phần tiếng Việt G. Ashauer (1993), Những kiến thức cơ bản về kinh tế, Nxb Thống kê, Hà Nội. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Báo cáo số 799/BKH-TĐ&GSĐT ngày 16/02/2004 về công tác giám sát, đánh giá đầu tư, Hà Nội. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Báo cáo cập nhật tình hình thực hiện Chỉ thị số 29/2003/CT-TTg ngày 23/12/2003 của Thủ tướng Chính Phủ, Hà Nội. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006-2010, Hà Nội. Bộ Tài chính (2003), Chế độ tài chính về Quản lý đầu tư và xây dựng (tập 1), Nxb Tài chính, Hà Nội. Bộ Tài chính (2003), Chế độ tài chính về Quản lý đầu tư và xây dựng (tập 2), Nxb Tài chính, Hà Nội. Bộ Tài chính, Dự án Việt Nam- Canada (2001), Những bài giảng về tài chính công, Nxb Tài chính, Hà Nội. PGS.TS. Thái Bá Cẩn (2003), Quản lý tài chính trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, Nxb Tài chính, Hà Nội. Chính Phủ (2004), Báo cáo số 1679/CP-KTTH ngày 10/11/2004 trình bày về việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ trong cả nước, kết quả khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, tình hình nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, hiệu quả thấp và chống thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản, Hà Nội. Chính phủ (2005), Báo cáo triển khai thực hiện Nghị quyết 36/2004/QH11 của Quốc Hội về công tác xây dựng cơ bản sử dụng vốn Nhà nước, Hà Nội. Chính Phủ (2005), Quyết định số 148/2005/QĐ-TTg ngày 17/6/2005 Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội tỉnh Quảng Nam đến năm 2015, Hà Nội. GS.TSKH. Nguyễn văn Chọn (2003), Kinh tế đầu tư xây dựng, Nxb Xây dựng, Hà Nội. GS.TS. Nguyễn văn Chọn (1998), Phương pháp lập dự án đầu tư trong ngành xây dựng, Nxb Xây dựng, Hà Nội. PTS Kim văn Chính (1999), Tập bài giảng Phân tích và quản lý dự án đầu tư, Hà Nội. Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2004), Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam(Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam), Hà Nội. Cục Thống kê Quảng Nam (2006), Điều tra Vốn đầu tư thực hiện năm 2005- Những kết quả chủ yếu, Quảng Nam. Cục Thống kê Quảng Nam (1998), Niên giám thống kê 1997, Quảng Nam. Cục Thống kê Quảng Nam (2002), Niên giám thống kê 2001, Quảng Nam. Cục Thống kê Quảng Nam (2003), Niên giám thống kê 2002, Quảng Nam. Cục Thống kê Quảng Nam (2004), Niên giám thống kê 2003, Quảng Nam. Cục Thống kê Quảng Nam (2005), Niên giám thống kê 2004, Quảng Nam. Cục Thống kê Quảng Nam (2006), Niên giám thống kê 2005, Quảng Nam. Cục Thống kê Quảng Nam (2005), Quảng Nam 30 năm xây dựng và phát triển, Quảng Nam. Cục Thống kê Quảng Nam (2006), Số liệu thống kê chủ yếu năm 2001-2005, Quảng Nam. Diễn đàn phát triển Việt Nam- VDF (2005), Tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Những rào cản cần phải vượt qua, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. TSKH. Nguyễn Văn Đáng (2005), Quản lý dự án xây dựng, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, TP Biên Hòa- Đồng Nai. Lưu Vĩnh Đoạn (1999), Kinh tế châu á bước vào thế kỷ XXI, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Nguyễn Đẩu (2005), Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế thành phố Đà Nẵng- Thực trạng và giải pháp, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX, Quảng Nam. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Xuân Hải (2004), Quản lý dự án xây dựng nhìn từ góc độ Nhà nước, nhà đầu tư, nhà tư vấn, nhà thầu, Nxb Xây dựng, Hà Nội. Đỗ văn Huân (2006), Hệ số ICOR và vận dụng trong lập kế hoạch, đánh giá mục tiêu tăng trưởng kinh tế, Viện Khoa học Thống kê. TS. Bạch Minh Huyền (1996), Một số giải pháp huy động vốn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Hà Nội. Bùi Mạnh Hùng (2003), Kinh tế xây dựng trong cơ chế thị trường, Nxb Xây dựng, Hà Nội. Học viện Tài chính (2003), Giáo trình lý thuyết tài chính, Nxb Tài chính, Hà Nội. Học viện Tài chính- Đại học Nhân dân Trung Quốc (2002), Chính sách tài chính vĩ mô trong phát triển và hội nhập, Nxb Tài chính, Hà Nội. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình Khoa học quản lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình Kinh tế học phát triển, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Quản lý kinh tế, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Kho bạc Nhà nước Quảng Nam (2006), Báo cáo dự án, công trình hoàn thành chưa tất toán tài khoản, Tam Kỳ. Kho bạc Nhà nước Quảng Nam (2004), Báo cáo số 279KB40/TTVĐT ngày 19/5/2004 Tổng kết 5 năm Kiểm soát thanh toán vốn đầu tư, Tam Kỳ. Kho bạc Nhà nước Quảng Nam (2004), Báo cáo số 283KB40/TTVĐT ngày 21/5/2004 Tổ chức chỉ đạo, điều hành của Kho bạc Nhà nước trong quản lý, Kiểm soát thanh toán vốn đầu tư thuộc nguồn vốn NSNN, Tam Kỳ. Kho bạc Nhà nước Trung ương (2003), Kiểm soát thanh toán vốn đầu tư, Nxb Tài chính, Hà Nội PGS.TS. Dương thị Bình Minh (1997), Lý thuyết tài chính- tiền tệ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Ngân hàng thế giới (2005), Công bằng và phát triển, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội. Ngân hàng thế giới (2005), Mười bước tiến tới hệ thống giám sát và đánh giá dựa trên kết quả, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội Jonh A. Quelch (9/2006), “Chu Lai là một dự án tiềm năng và đầy hy vọng”, Tạp chí Chu Lai, (số 7), tr.4-5. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ hai (từ ngày 12/11 đến ngày 16/12/2002), Luật Ngân sách Nhà nước 2002, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ bốn (từ ngày 21/10 đến ngày 26/11/2003), Luật Xây dựng 2003, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ tám (2005), Luật Đấu thầu số 61/ 2005/QH11, Nxb Lao động- Xã hội, Hà Nội. Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Nam (2006), Báo cáo nâng cao hiệu quả đầu tư, chống thất thoát, lãng phí, đầu tư dàn trải, nợ đọng vốn xây dựng cơ bản năm 2005 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ. Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Nam (2005), Báo cáo tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết 36/2004/QH11 của Quốc Hội về công tác đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước năm 2005, Tam Kỳ. Sở Kế hoạch và Đầu tư (2006), Báo cáo tình hình nợ đọng xây dựng cơ bản, Tam Kỳ. Sở Tài chính Quảng Nam (2005), Báo cáo tồn tại quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành giai đoạn 2001-2005 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ. Sở Tài chính Quảng Nam (2006), Báo cáo tình hình nợ xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ. Tổng cục Thống kê (2004), Một số thuật ngữ thống kê thông dụng, Hà Nội. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2003), Giáo trình Kinh tế đầu tư, Nxb Thống kê, Hà Nội. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2006), Giáo trình Quản lý dự án đầu tư, Nxb Lao động- Xã hội, Hà Nội. Trường Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh (2006), Lý thuyết Tài chính công, Nxb Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. TS Trần văn Tùng (1996), Phát triển nguồn nhân lực- Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2004), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Giải pháp thu hút các nguồn lực đầu tư phát triển khu kinh tế mở Chu Lai, Tam Kỳ. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2005), Báo cáo tình hình triển khai thực hiện Chỉ thị 21/2005/CT-TTg ngày 15/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ, Tam Kỳ. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2004), Báo cáo về tình hình đầu tư XDCB những năm qua và một số biện pháp chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư và xây dựng trong thời gian đến, Tam Kỳ. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2001), Quyết định số 13/2001/QĐ-UB ngày 15/03/2001 về ban hành một số chủ trương, biện pháp điều hành kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2001 trên địa bàn tỉnh, Tam Kỳ. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2002), Quyết định số 04/2002/QĐ-UB ngày 19/01/2002 về ban hành một số chủ trương, biện pháp điều hành kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2002 trên địa bàn tỉnh, Tam Kỳ. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2003), Quyết định số 03/2003/QĐ-UB ngày 10/01/2003 về ban hành một số chủ trương, biện pháp điều hành kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2003 trên địa bàn tỉnh, Tam Kỳ. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2003), Quyết định số 125/2003/QĐ-UB ngày 13/12/2003 về một số chủ trương, biện pháp quản lý điều hành dự toán ngân sách nhà nước năm 2004 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2004), Quyết định số 91/2004/QĐ-UB ngày 11/12/2004 về một số chủ trương, biện pháp quản lý điều hành dự toán ngân sách nhà nước năm 2005 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2006), Quyết định số 631/QĐ-UBND ngày 01/3/2006 về việc phê duyệt tạm thời Định hướng phát triển bền vững của tỉnh Quảng Nam, Tam Kỳ. Viện Ngân hàng thế giới- WBI (2002), Phân tích kinh tế các hoạt động đầu tư- Công cụ phân tích và ứng dụng thực tế, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương- CIEM (2006), Kinh tế Việt Nam 2005, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Viện nghiên cứu Tài chính (1998), Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính phục vụ mục tiêu tăng trưởng, Nxb Tài chính, Hà Nội. II. Phần tiếng nước ngoài World Bank (1998), Finance and Development, WB.  Phụ lục Phụ lục 1 Chi nsnn trên địa bàn tỉnh quảng nam Đơn vị tính: Triệu đồng Năm Tổng chi NSNN Trong đó Chi ĐTPT Tỷ lệ (%) 2001 1.050.975 465.836 44 2002 1.228.108 541.054 44 2003 1.734.558 710.611 41 2004 2.025.636 1.029.280 51 2005 2.765.311 1.057.058 38 Tổng số 8.859.588 3.803.839 43 Nguồn [18], [19], [20], [21], [22]. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2711.doc
Tài liệu liên quan