Lời mở đầu
Trong quá trình hội nhập phát triển giữa khu vực và thế giới. Thương mại quốc tế có vai trò đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam. Thương mại quốc tế là một công cụ quan trọng nhằm tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài như: vốn, công nghệ, năng lực quản lý. Thương mại quốc tế giúp cho mỗi nước có cơ hội để bộc lộ, tận dụng những lợi thế cũng như khắc phục những nhược điểm của mình. Tuy vậy Thương mại quốc tế không thể tồn tại độc lập mà cần có sự hỗ trợ từ nhiều lĩnh vực khác trong đó
52 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1594 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện phương thức thanh toán quốc tế bằng tín dụng chứng từ (L/C) tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có các dịch vụ thanh toán quốc tế. Thanh toán quốc tế là khâu cuối cùng để thực hiện một quy trình hoạt độĩnhuất nhập khẩu trong Thương mại quốc tế.
Các phương thức trong thanh toán quốc tế rất phong phú song phổ biến nhất là phương thức tín dụng chứng từ. Xuất phát từ tính an toàn cao của nó đối với các đối tác tham gia. Việc hoàn thiện và phát triển các nghiệp vụ thanh toán nói chung và phương thức tín dụng chứng từ nói riêng là một yêu cầu cấp thiết đối với toàn ngành ngân hàng.
Thời gian tìm hiểu thực tế tại Ngân Hàng Ngoại Thương có hạn với mong muốn hoạt động thanh toán Xuất Nhập Khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ ngày càng được mở rộng và hoàn thiện hơn, em đã lựa chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện phương thức thanh toán quốc tế bằng tín dụng thư tại Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam”.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục mục lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thanh toán quốc tế và phương thức tín dụng chứng từ.
Chương 2: Tình hình áp dụng phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế bằng tín dụng chứng từ tại Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam.
Do trình độ còn hạn chế nên bài viết sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết về mặt nội dung và hình thức diễn đạt. Em rất mong được sự chỉ bảo của các Thầy, các Cô để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Chương I: Lý luận chung về thanh toán quốc tế và tín dụng chứng từ
I- Khái quát chung về thanh toán quốc tế
1. Thanh toán quốc tế
Kinh tế phát triển khiến cho các quan hệ thương mại ngày càng mở rộng vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và hình thành nên Thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế là sự trao đổi mua bán hàng hoá dịch vụ giữa các chủ thể thuộc các quốc gia khác nhau. Để quá trình trao đổi mua bán được hoàn thành người mua phải mua được hàng và người bán thu được tiền về thì cần có sự tham gia của các Ngân Hàng. Vì vậy thanh toán quốc tế ra đời và các Ngân Hàng là trung gian thanh toán.
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả tiền và nhận tiền phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng và dịch vụ phi mậu dịch giữa các tổ chức kinh tế quốc tế, giữa các hành động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại các Ngân Hàng có liên quan.
Thanh toán Quốc tế là một trong những thế mạnh của NHNT thông qua việc sử dụng nhiều loại phương thức thanh toán khác nhau như: nhờ thu, chuyển tiền, thẻ tín dụng, tín dụng chứng từ trên cơ sở áp dụng một hệ thống công nghệ hiện đại.
Sau đây luận văn sẽ tập trung đi sâu làm rõ hoạt động thanh toán xuất khẩu và thanh toán nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ (L/C) tại ngân hàng ngoại thương việt nam.
2. Vai trò của thanh toán quốc tế
Xu hướng toàn cầu hoá Thế Giới hiện nay dường như không cho phép bất kỳ một quốc gia nào phát triển nền kinh tế theo mô hình hoàn toàn đóng. Mối quan hệ giữa các quốc gia ngày càng mở rộng không chỉ trên lĩnh vực văn hoá mà bao gồm cả giao lưu kinh tế quốc tế.
Thanh toán quốc tế là 1 dịch vụ quan trọng của ngân hàng không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Người bán trên cơ sở giao hàng sẽ thu được tiền từ người mua, ngược lại trên cơ sở nhận hàng người mua sẽ thanh toán tiền cho người bán, đó chính là hoạt động thanh toán quốc tế.
Thanh toán quốc tế là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh, phụ thuộc vào việc thực hiện nghiêm túc và đầy đủ mọi điều khoản thanh toán, giao hàng của nhà nhập khẩu, xuất khẩu. Thanh toán quốc tế giải quyết các mối quan hệ hàng hoá thanh toán quốc tế tạo nên sự liên tục của quá trình tái sản xuất và đẩy nhanh quá trình lưư thông hàng hoá quốc tế.
Thanh toán quốc tế đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại của các quốc gia. Nhờ nó mà việc chu chuyển nguồn lực: vốn, công nghệ, nhân lực, tài nguyên và cả thị trường tiêu thụ diễn ra nhanh hơn. Một quốc gia có uy tín tốt trong thanh toán sẽ thu hút được nhiều đối tác hơn so với quốc gia có chất lượng thanh toán thấp.
Đối với ngân hàng
Trong Thương mại quốc tế các bên tham gia không thể trực tiếp thanh toán mà cần phải có sự hỗ trợ của ngân hàng.
Thông qua cung ứng dịch vụ thanh toán ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng, tăng thu nhập qua các khoản phí đồng thời tăng khả năng cạnh tranh của mình trên thương trường.
Ngân hàng mở rộng được hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thu hút được nhiều nguồn vốn đặc biệt là vốn nhà rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ thanh toán quốc tế qua ngân hàng.
Thanh toán quốc tế làm tốt giúp ngân hàng nâng cao được uy tín của mình trên thị trường quốc tế, do đó khai thác được nguồn vốn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài và nguồn vốn trên thị trường tài chính thế giới nhằm đáp ứng cao hơn nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Thanh toán quốc tế giúp ngân hàng phát triển các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ Ngân Hàng quốc tế khác.
3. Các phương thức trong thanh toán quốc tế
Trong bất kỳ hợp đồng ngoại thương nào các bên tham gia đều phải thoả thuận áp dụng một phương thức thanh toán cụ thể. Người ta có thể chọn lựa một trong nhiều phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền về hoặc để trả tiền. Nhưng xét cho cùng việc lựa chọn phương thứcnào cũng phải xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu tiền nhanh, đúng, đủ và từ yêu cầu của người mua là nhập hàng đúng, đủ số lượng, chất lượng phù hợp và đúng thời hạn. Các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay đang áp dụng chủ yếu các phương thức thanh toán quốc tế sau: chuyển tiền, nhờ thu, ghi sổ, tín dụng chứng từ (L/C).
* Phương thức chuyển tiền (Remittance):
Là phương thức thanh toán đơn giản nhất trong đó khách hàng (người mua) uỷ quyền cho ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất địnhh cho người bán (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định và trong một thời gian nhất định. Việc chuyển tiền xem như đã hoàn tất khi thanh toán hết số tiền cho người hưởng lợi. Trước thời điểm này số tiền trong tài koản vẫn thuộc quyền sở hữu của người chuyển tiền và người nay có quyền huỷ bỏ lện chuyển tiền mà người hưởng lợi không thể khiếu nại gì với ngân hàng. Do vậy việc trả tiền hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của người mua, quyền lợi của người bán không được đảm bảo. Ngân hàng chỉ có vai trò là trung gian cung cấp dịch vụ chuyển tiền và thu phí dịch vụ.
* Phương thức nhờ thu (Collection):
Là phương thức thanh toán theo đó, người bán sau khi hoàn thành xong nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ thì người bán uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền hàng của người mua trên cơ sở hối phiếu kèm chứng từ do người bán lập ra gửi ngân hàng.
Phương thức nhờ thu trơn bằng hối phiếu, người xuất khẩu sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng lập chứng từ hàng hoá gửi trực tiếp cho người nhập khẩu để họ nhận hàng và gửi hối phiếu đến ngân hàng nhờ thu tiền. Phương thức nhờ thu trơn không đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu bởi vì giữa việc nhận hàng và thanh toán của người nhập khẩu không có sự ràng buộc nào, người nhập khẩu có thể nhận hàng mà không trả tiền hoặc kéo dài thời gian trả tiền.
Nhờ thu kèm chứng từ là phương thức thanh toán trong đó bên bán uỷ nhiệm cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền ở người mua không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá gửi kèm theo với yêu cầu là ngân hàng chỉ trao bộ chứng từ hàng hoá cho người mua sau khi họ đã thanh toán tiền (nếu là phương thức D/P – Documentary against Payment – Trả tiền trao chứng từ) hoặc ký chấp nhận trả tiền (nếu là phương thức D/A – Documentary against Acceptance – Chấp nhận trả tiền trao chứng từ). Phương thức nhờ thu kèm chứng từ đảm bảo quyền lợi cho bên bán hơn vì đã có sự ràng buộc chặt chẽ giữa việc thanh toán tiền và việc nhận hàng của người mua.
* Phương thức ghi sổ (Open account):
Là phương thức thanh toán mà qua đó bên xuất khẩu khi xuất khẩu hàng hoá cung ứng dịch vụ thì ghi nợ cho bên nhập khẩu vào một cuốn sổ riêng của mình và việc thanh toán các khoản nợ này được thực hiện theo định kỳ (tháng, quý, năm). Đây là phương thức thanh toán không có sự tham gia của ngân hàng với chức năng là người mở tài khoản và thực thi thanh toán. khi thực hiện phương thức này bên xuất khẩu đã thực hiện một tín dụng cho bên nhập khẩu dưới dạng tín dụgn thương mại. Phương thức này thông thường chỉ áp dụng cho thanh toán giữa hai đơn vị quan hệ thường xuyên và tin cậy lẫn nhau.
* Phương thức tín dụng chứng từ (Documentary letter of credit):
Nếu như hai phương thức thanh toán chuyển tiền và nhờ thu chỉ có thể được đảm bảo thực hiện khi hai bên tín nhiệm, tin cậy lẫn nhau thì phương thức tín dụng chứng từ có thể đảm bảo ngay cả trong trường hợp các bên mới giao dịch lần đầu và chưa tin tưởng lẫn nhau. Quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia hợp đồng mua bán được thể hiện một cách bình đẳng. Sự tham gia của các ngân hàng sẽ làm cho rủi ro bị hạn chế và chia đều cho các bên. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ được đánh giá là phương thức thông dụng nhất, an toàn nhất trong thanh toán quốc tế. Vậy phương thức tín dụng chứng từ là gì, quy trình nghiệp vụ, ưu nhược điểm của nó ra làm sao? … sẽ được nghiên cứu trong phần sau của bài luận văn này.
II- Phương thức tín dụng chứng từ:
1. Quy trình nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ:
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền ghi trên thư tín dụng khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng. Theo “quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” (Uniforlm Customs and Practic for Documentary Credit – UCP 500-1993) có thể định nghĩa khái quát thư tín dụng như sau:
Thư tín dụng là một văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở thư tín dụng cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu người xuất khẩu trình được một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung của thư tín dụng.
Trong phương thức tín dụng chứng từ các bên tham gia ít nhất phải bao gồm 4 bên: Người xuất khẩu, Ngân hàng thông báo (Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu), Người nhập khẩu, Ngân hàng phát hành (Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu).
Ngoài ra còn có thể có: Ngân hàng xác nhận, Ngân hàng hoàn trả, Ngân hàng chiết khấu chứng từ, Ngân hàng trả tiền.
2
Ngân hàng nước
nhập khẩu
(issuing Bank)
6
Ngân hàng nước xuất khẩu (Advising Bank)
9
5
3
10
5
3
8
7
1
Hợp đồng
Người Nhập Khẩu (Importer)
4
Người Xuất Khẩu (Exporter)
(Giao hàng)
Sơ đồ quy trình nghiệp vụ tín dụng chứng từ
Sau khi người bán thông báo cho người mua “Hàng sẵn sàng để giao”
Người nhập khẩu (Importer) xin mở thư tín dụng (L/C) cho người xuất khẩu (Exporter) qua ngân hàng của mình (hoặc ngân hàng khác theo thoả thuận) bằng cách xuất trình đơn xin mở L/C.
Ngân Hàng nước nhập khẩu (Issuing Bank) mở thư tín dụng (Letter of Credit) gửi cho người xuất khẩu qua ngân hàng nước xuất khẩu – ngân hàng thông báo (adv Bank) bằng thư, Telex …
Ngân Hàng nước xuất khẩu (Advising Bank) kiểm tra nội dung L/C (mẫu chữ ký, mã khoá test…), thực hiện thông báo L/C cho người xuất khẩu.
Người xuất khẩu (Exporter) kiểm tra nội dung của L/C, nếu chấp nhận thì giao hàng, nếu không chấp nhận diều khoản nào đó thì yêu cầu ngân hàng mở L/C điều chỉnh cho phù hợp với hợp đồng.
Người xuất khẩu giao hàng lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C gửi tới ngân hàng của mình (hoặc các ngân hàng khác nếu L/C cho phép – negosiating Bank) xin thanh toán tiền hàng đã giao.
Ngân hàng nước xuất khẩu kiểm tra kỹ chứng từ của người xuất khẩu, nếu chứng từ không phù hợp với L/C thì yều cầu người xuất khẩu sửa lại, nếu chứng từ hoàn toàn phù hợp với L/C thì tiến hành gửi cho ngân hàng phát hành kèm thư đòi tiền yêu cầu họ trả tiền theo số tiền trên hoá đơn.
Ngân hàng mở L/C (Issuing Bank) kiểm tra lại chứng từ nếu không từ chối gì, thì giao chứng từ cho người nhập khẩu để họ đi lấy hàng, đồng thời đòi tiền người nhập khẩu.
Người nhập khẩu trả tiền người xuất khẩu thông qua ngân hàng của mình (ngân hàng phát hành L/C).
Ngân hàng nhập khẩu trả tiền người xuất khẩu thông qua ngân hàng thông báo L/C (ngân hàng phục vụ bên bán).
Ngân hàng nước xuất khẩu trả tiền cho người xuất khẩu (sau khi đã trừ các khoản phí).
2. Đặc điểm của phương thức tín dụng chứng từ so với các phương thức khác:
- Xét về hình thức:
Thư tín dụng chứng từ được sử dụng phổ biến hơn so với các hình thức thư khác nhờ tính đa dạng của nó (xem phụ lục 1)
Xét về nội dung:
Mặc dù ngân hàng chỉ đóng vai trò là trung gian giao dịch và thu phí dịch vụ nhưng về vai trò của ngân hàng là khác nhau. Nếu như trong phương thức chuyển tiền, nhờ thu ngân hàng chỉ làm theo chỉ thị của người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu thì trong phương thức tín dụng chứng từ ngân hàng còn đảm nhận việc kiểm tra chứng từ và đảm bảo việc thanh toán cho bên xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp.
Như vậy thư tín dụng là trách nhiệm của ngân hàng tiến hành trả tiền theo lệnh người mua cho ngươì bán số tiền hàng đã giao khi người bán (người xuất khẩu) xuất trình đủ chứng từ hợp lệ.
Trong phương thức chuyển tiền, nhờ thu, thanh toán được hoàn tất khi cả hai bên người mua và người bán tin cậy nhau, có quen biết lâu dài, còn trong phương thức tín dụng chứng từ ngay cả khi hai bên mới giao dịch lần đầu vẫn tin rằng đã giao hàng là chắc chắn có tiền trả và nhận tiền
3. Ưu nhược điểm của phương thức tín dụng chứng từ:
a. Ưu điểm:
* Đối với người xuất khẩu:
Khi áp dụng phương thức tín dụng chứng từ người xuất khẩu sẽ được đảm bảo thanh toán, có nhiều thuận lợi hơn so với các phương thức khác. Ngân hàng phát hành sẽ đảm bảo cam kết thanh toán cho người xuất khẩu khi người xuất khẩu trình bộ chứng từ hoàn hảo ngay cả khi người nhập khẩu mất khả năng thanh toán (trừ trường hợp hiếm khi xảy ra là ngân hàng phát hành L/C gặp rủi ro như chiến tranh, động đất, phá sản… không thể thanh toán được).
Ngoài ra việc người xuất khẩu cần tiền để chuẩn bị việc sản xuất kinh doanh có thể đến ngân hàng xin chiết khấu thanh toán ngay sau khi giao hàng.
Người xuất khẩu sẽ thu được một lượng ngoại tệ khi xuất khẩu hàng hoá sang nước khác, tránh được rủi ro do sự quản chế ngoại hối của nước nhập khẩu vì khi mở thư tín dụng người nhập khẩu buộc phải có giấy phép chuyển ngoại tệ của cơ quan quản lý ngoại hôí ở nước mình.
* Đối với người nhập khẩu:
Khi phương thức tín dụng chứng từ đảm bảo an toàn cho nhà xuất khẩu trong khâu thanh toán thì sẽ có nhiều nhà xuất khẩu tham gia vào việc cung cấp hàng hoá, do đó mà nhà nhập khẩu sẽ không phải mất nhiều thời gian, chi phí cho việc tìm đối tác và chất lượng và số lượng của hàng hoá sẽ đảm bảo vì ràng buộc bởi những điều khoản nội dung quy định trong bộ chứng từ.
Nhờ có sự tham gia của ngân hàng, nhà xuất khẩu sẽ giảm bởt được rủi ro khi tham gia quan hệ với đối tác. Ngân hàng sẽ đảm nhận việc kiểm tra chứng từ và nhà nhập khẩu chỉ chịu trách nhiệm thanh toán khi bộ chứng từ được coi là phù hợp.
* Đối với các Ngân Hàng:
Ngân hàng tham gia đóng vai trò là người cung cấp dịch vụ thanh toán nên sẽ không bị ràng buộc bởi những điều khoản trong nội dung của hợp đồng và tình trạng hàng hoá giữa hai bên. Sau khi kết luận về tính chân thực bề ngoài của bộ chứng từ quy định trong bộ chứng từ : tên hàng, ngày giao hàng, số tiền, thời hạn hết hiệu lực L/C, tên Người xuất khẩu, Người nhập khẩu, Ngân hàng thông báo, Ngân hàng phát hành… Ngân hàng sẽ thanh toán cho người xuất khẩu và đòi tiền người nhập khẩu.
Tham gia vào phương thức tín dụng chứng từ ngân hàng sẽ có cơ hội tạo lập và củng cố địa vị của mình đối với các ngân hàng nước ngoài từ đó phát triển các mạng lưới chi nhánh của mình trên toàn thế giới. Điều này sẽ giúp cho ngân hàng đa dạng hoá các loại sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ, học hỏi trao đổi kinh nghiệm với các nước từ đó thu hút được nhiều khách hàng.
b. Nhược điểm:
Bất cứ việc áp dụng một phương thức thanh toán nào cũng không tránh khỏi những vướng mắc trong quá trình thực hiện nghiệp vụ và phương thức tín dụng chứng từ cũng không nằm ngoài đièu đó và ảnh hưởng rất lớn tới uy; tín của khách hàng, tới người xuất khẩu và tới người nhập khẩu.
Như về kĩ thuật nghiệp vụ của các ngân hàng còn hạn chế nếu xảy ra sai sót trong khâu kiểm tra L/C sẽ dẫn tới chậm trễ hay không thanh toán tiền của nhà nhập khẩu qua ngân hàng và gây hậu quả đến người xuất khẩu.
Do sự chậm trễ trong việc giao hàng hay trì hoãn thanh toán tiền hàng của người nhập khẩu với mọi lí do thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng trong việc hoàn thành thanh toán cho đối tác.
Rủi ro trong thanh toán quốc tế bằng L/C làm cho người xuất khẩu không gặp thuận lợi vì sự biến động về tỷ giá giữa đồng tiền thanh toán với đồng nội tệ do thị trường tiền tệ quốc tế biến động. Nếu trong thanh toán đồng ngoại tệ lên giá thì nhà xuất khẩu sẽ có lợi (giá trị ngoại tệ tăng, người xuất khẩu sẽ thu được lợi nhuận cao hơn trong việc quy đổi sang nội tệ) và ngược lại nếu đồng ngoại tệ giảm giá thì nhà xuất khẩu sẽ bất lợi. Bên cạnh đó nếu nhà xuất khẩu kinh doanh bằng vốn đi vay của ngân hàng thì sẽ phải trả suất đi vay và điều đó cũng phụ thuộc vào tỷ giá.
Ngoài ra những yếu kém trong việc nắm bắt thông tin cũng gây trở ngại rất lớn trong việc xử lý, liên lạc thông báo cho đối tác từ phía ngân hàng L/C muốn được đảm bảo xử lý nhanh đầy đủ thì đòi hỏi trung tâm thanh toán, văn thư phải nắm thông tin kịp thời, công nghệ phải được hiện đại hoá theo kịp với công nghệ của hệ thống ngân hàng thế giới nhờ đó mà việc xử lý thông tin, trao đổi với đối tác mới diễn ra dễ dàng nhanh nhẹn.
Nhưng hiện nay công nghệ thông tin cập nhập của ngân hàng Việt Nam thường xuyên chậm hơn so với các nước (đặc biệt so với các nước tiên tiến) nên việc đòi tiền ngân hàng nước ngoài thường là chậm, gây ra bất lợi cho người sản xuất trong nước.
Đó là một số bất lợi trong phương thức L/C.
Chương II: Thực trạng áp dụng phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng ngoại thương việt nam (Vcb)
I- Vài nét khái quát về Ngân hàng ngoại thương
1. Hoàn cảnh ra đời:
Ngân hàng ngoại thương Việt nam được thành lập theo nghị định 115 C/P ngày 30/12/1962 của Hội Đồng Chính Phủ và chính thức thành lập ngày 1/4/1963 tiền thân là cục quản lý ngoại hối của ngân hàng quốc gia việt nam.
NHNT là ngân hàng thương mại phục vụ đối ngoại lâu đời nhất việt nam luôn được biết đến như là một ngân hàng có uy tín trong các lĩnh vực tài trợ, thanh toán xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại hối, bảo lãnh ngân hàng và các dịch vụ tài chính, ngân hàng quốc tế, kể cả nghiệp vụ thẻ tín dụng visa, Mastercard.
Hiện nay NHNT đã phát triển thành một hệ thống rộng khắp có trụ sở giao dịch chính đặt tại 198 Trần Quang Khải- Hà Nội và 23 chi nhánh trên cả nước. Ngoài ra cón có quan hệ với hơn 1200 ngân hàng ở 85 nước trên thế giới. Có đơn vị liên doanh với Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, có văn phòng đại diện tại Nga, Pháp, Singapore và một công ty tài chính tại Hồng Kông.
NHNT được Nhà Nước xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt, là thành viên Hiệp hội ngân hàng Việt nam, thành viên Hiệp hội ngân hàng Châu á.
II- Tình hình hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng tín dụng chứng từ tại NHNT
1. Hoạt động thanh toán xuất khẩu
a. Quy trình nghiệp vụ cụ thể:
Trong quy trình nghiệp vụ thanh toán xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ NHNT đóng vai trò là ngân hàng thông báo phục vụ cho người xuất khẩu đảm nhận nhiệm vụ:
Nhận L/C từ ngân hàng phát hành, thông báo L/C cho người xuất khẩu, sửa đổi L/C.
Kiểm tra chứng từ.
Đòi tiền ngân hàng nước ngoài
Trả tiền cho người xuất khẩu
Mọi nghiệp vụ liên quan đến tiếp nhận L/C từ nước ngoàI đến, nhận tin đến, truyền tin đi… của phòng thanh toán xuất đều được thực hiện thông qua mạng thông tin điện tử được kết nối trong hệ thống ngân hàng.
Nghiệp vụ thanh toán xuất khẩu được tóm tắt theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1
Thanh toán viên
Phòng T.Toán Xuất
(1)
(4)
(7)
(7)
(6) (5) (8) (3) (2)
Ngân hàng phát hành
Người Hưởng lợi
* Nhận L/C, thông báo L/C, sửa đổi L/C
Bước 1: Sau khi ngân hàng mở L/C (ngân hàng phát hành) theo lệnh của người nhập khẩu chuyển L/C sang VCB (ngân hàng thông báo) tại phòng văn thư(nếu L/C dưới dạng thư) hoặc tại trung tâm thanh toán (nếu L/C dưới dạng telex, Swift(điện). Qua phòng văn thư hoặc trung tâm thanh toán L/C sẽ được chuyển tới phòng thanh toán xuất. Phòng thanh toán xuất(cụ thể kiểm soát viên, trưởng/phó phòng) sẽ chuyển L/C đến từng thanh toán viên theo những bộ phận công việc mà họ được đảm nhiệm. Nếu ngân hàng thông báo từ chối thông báo L/C đó thì phảI thông báo ngay cho ngân hàng phát hành.
Bước 2: Thanh toán viên nhận đuợc L/C sẽ kiểm tra tính chân thực của L/C được thể hiện qua chữ ký, mã test xem có đúng chưa, nếu thấy đúng sẽ lập bộ hồ sơ, ghi vào sổ theo dõi thanh toán, đưa số liệu vào máy tính như số liệu L/C, người trả tiền, ngân hàng mở L/C, số tiền, thời hạn giao hàng…và thông báo L/C đến cho người hưởng lợi(nhà xuất khẩu) có đính kèm thư mở L/C.
Trường hợp nhận được điện thông báo sửa đổi L/C thì VCB phải có trách nhiệm thông báo ngay cho người xuất khẩu. Tuy nhiên VCB sẽ không thông báo sửa đổi L/C nếu VCB không phảI là ngân hàng thông báo gốc.
Trường hợp ngân hàng mở L/C yêu cầu VCB xác nhận L/C thì tuỳ từng trường hợp cụ thể để trình giám đốc xem xét có nên chấp nhận hay không?. Nếu không đồng ý thanh toán viên phải thông báo ngay cho ngân hàng phát hành và lập thông báo không kèm xác nhận theo mẫu gửi khách hàng. Nếu đồng ý thanh toán viên sẽ lập thông báo bổ xung việc xác nhận cho người xuất khẩu.
Khi lập thông báo L/C hoặc sửa đổi L/C, thanh toán viên đồng thời lập phiếu thu phí(theo quy định) phí thông báo L/C (22 USD), phí sửa đổi L/C (11 USD), phí xác nhận thì tuỳ theo tỷ lệ % số tiền của L/C đó do VCB quy định.
Trường hợp VCB từ chối thông báo L/C thì cũng phảI thông báo ngay cho ngân hàng mở L/C biết
Thư thông báo L/C, sửa đổi L/C (xem phụ lục 2-3)
* Tiếp nhận, kiểm tra chứng từ và đòi tiền
Bước 3: Người hưởng lợi (nhà xuất khẩu) khi đã nhận được L/C tức là L/C đã đảm bảo về giá trị pháp lý sẽ giao hàng đồng thời lập bộ chứng từ cùng thư đòi tiền theo yêu cầu của L/C gửi tới thanh toán viên của VCB để nhờ đòi tiền hộ.
Trong bộ chứng từ gồm có: thư yêu cầu thanh toán hàng hoá xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ, hoá đơn thương mại, chứng từ vận tải, bảng kê chi tiết hàng hoá và các loại giấy tờ hàng hoá khác theo nội dung quy định trong hợp đồng (xem phụ lục 4)
Bước 4: Khi nhận được bộ chứng từ thanh toán viên sẽ kiểm tra tính chân thực bề ngoài của chứng từ, sau đó đối chiếu kiểm tra chi tiết từng loại chứng từ xem có phù hợp với nội dung quy định trong L/C hay không, giữa chúng có mâu thuẫn gì không. Khi kiểm tra chứng từ thanh toán viên phải ghi ý kiến của mình trên phiếu kiểm tra chứng từ (phụ lục 5) nếu thấy phù hợp. Sau đó thanh toán viên sẽ gửi phiếu kiểm tra chứng từ đến kiểm soát viên phụ trách phòng của mình để xin ý kiến, chữ ký.
Bước 5: Phòng thanh toán xuất sẽ kiểm tra bộ chứng từ trước khi gửi đi. Nếu bộ chứng từ phù hợp thì sẽ tiến hành gửi cho ngân hàng phát hành để đòi tiền(phụ lục 6). Việc đòi tiền có thể được thực hiện bằng thư hoặc bằng điện. Nếu sử dụng bằng điện thì áp dụng mạng Swift theo mẫu điện thích hợp MT 754 hoặc MT 742.
Trường hợp bộ chứng từ có lỗi phòng TTX phải thông báo ngay cho người xuất khẩu biết để kịp thời sửa chữa ví dụ như lỗi chính tả, thiếu từ… Nếu người xuất khẩu không đồng ý với những ý kiến về việc sửa lỗi của ngân hàng trên thì thanh toán viên phải yêu cầu người xuất khẩu xác nhận và có ký bảo lưu và chịu trách nhiệm về những lỗi đó nếu ngân hàng nước ngoài từ chối thanh toán.
Đối với những lỗi không thể sửa chữa được thì trên thư hoặc điện đòi tiền phảI nói rõ những lỗi đó để ngân hàng phát hành xem xét trả tiền. Thanh toán viên phảI có trách nhiệm theo dõi việc trả tiền của ngân hàng nước ngoài(ngân hàng phát hành). Đối với L/C trả ngay là 7 ngày kể từ ngày điện đòi tiền, 10 ngày kể từ ngày đòi tiền bằng thư, gửi chứng từ chuyển phát nhanh, 15 ngày kể từ ngày đòi tiền bằng thư chứng từ đảm bảo, nếu không nhận được giấy báo có của ngân hàng nước ngoàI thì thanh toán viên phải điện nhắc ngân hàng phát hành.
Đối với L/C trả chậm trước ngày đến hạn 3 ngày làm việc, thanh toán viên phảI nhắc ngân hàng nước ngoài thanh toán đúng hạn. Khi đến hạn mà ngân hàng nước ngoài vẫn chưa thanh toán thì thanh toán viên tiếp tục điện nhắc ngân hàng nước ngoàI thực hiện nghĩa vụ của mình.
Bước 6: Ngân hàng phát hành(nước ngoài) khi nhận được điện đòi tiền từ ngân hàng đòi tiền cùng bộ chứng từ sẽ có nghĩa vụ kiểm tra lại bộ chứng từ nếu thấy bộ chứng từ phù hợp theo đúng yêu cầu trong L/C thì ngân hàng nước ngoài sẽ lập điện báo trả tiền đến VCB và chuyển vào phòng xuất qua hệ thống truyền từ phòng văn thư hoặc trung tâm thanh toán. Trường hợp ngân hàng phát hành không phải là ngân hàng trả tiền thì VCB phải lập điện đòi tiền ngân hàng hoàn trả(theo phụ lục 7).
Bước 7: Phòng thanh toán xuất sẽ chuyển điện đến thanh toán viên để thanh toán viên lập báo có để trả tiền cho người bán ghi nợ ngân hàng nước ngoài
+ Trong trường hợp chiết khấu (phụ lục 8)
- Chiết khấu miễn truy đòi là việc VCB mua đứt bộ chứng từ thanh toán và chịu mọi rủi ro trong việc đòi tiền người nhập khẩu nước ngoài đây là hình thức thanh toán ít được sử dụng vì khả năng chịu rủi ro và thiệt hại do phía nước ngoàI không thanh toán là rất lớn.
- Chiết khấu truy đòi là việc ngân hàng chiết khấu chứng từ nhưng nếu nước ngoài từ chối thanh toán thì ngân hàng có thể truy đòi người xuất khẩu. Đây thực chất là nghiệp vụ ứng trước tiền hàng hay cho vay thế chấp L/C chứ chưa phải là nghiệp vụ mua đứt bán đoạn. Bởi vì trong trường hợp ngân hàng chiết khấu 98% trị giá bộ chứng từ khi ngân hàng nước ngoài trả tiền thì VCB sẽ trả lại 2% còn lại sau khi đã thu lãi và phí liên quan. Nếu ngân hàng nước ngoàI không thanh toán được thì VCB sẽ đòi lại số tiền đã chiết khấu, nếu lúc này người xuất khẩu không thể thanh toán được thì VCB sẽ tự động ghi nợ vào tài khoản khách hàng(tàI khoản của người xuất khẩu) và trên tài khoản của khách hàng không có tiền thì trong vòng 7 ngày làm việc ngân hàng sẽ chuyển thành nợ quá hạn và xử lý như với trường hợp cho vay quá hạn.
Hiện nay nếu phải thực hiện hình thức chiết khấu chứng từ thì VCB thường áp dụng hình thức chiết khấu truy đòi.
Bước 8: Thanh toán viên sẽ thông báo trả tiền cho người hưởng lợi bằng cách ghi có số tiền theo như trong L/C vào tàI khoản của người hưởng lợi tại ngân hàng mình.
b. Tình hình hoạt động thanh toán xuất khẩu hàng hoá dịch vụ tai VCB
- Tình hình thị phần thanh toán xuất khẩu qua VCB
VCB là ngân hàng chuyên phục vụ trong lĩnh vực đối ngoại nên được rất nhiều khách hàng tin tưởng. Tỷ trọng thanh toán xuất khẩu qua VCB khá lớn so với tổng kim ngạch thanh toán xuất khẩu của cả nước.
Bảng sau phản ánh tỷ trọng thanh toán xuất khẩu qua VCB trong một vàI năm gần đây:
Bảng 1. Doanh số và tỷ trọng thanh toán xuất khẩu qua VCB
Đơn vị: Triệu USD
Năm
Thanh toán xuất khẩu qua VCB
Doanh số
Tỷ trọng
1998
2533
27
1999
3263
28.3
2000
4163
29.1
2001
5150
31.5
(Nguồn: Báo cáo thanh toán quốc tế của VCB) Qua bảng trên ta thấy doanh số xuất khẩu qua VCB tăng dần qua các năm từ 2533 triệu USD năm 1998 lên 5150 triệu USD năm 2001 làm cho thị phần thanh toán trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước tăng từ 27%(1998) lên tới 31.5% năm 2001. Nguyên nhân năm 1998 doanh số xuất khẩu qua VCB chỉ đạt tới 2533 triệu USD là do VCB phải đối phó với hàng loạt khó khăn như: cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu á làm phá sản nhiều công ty, nhiều doanh nghiệp ở các nước trong khu vực làm cho hoạt động thương mại quốc tế ở nước ta bị ảnh hưởng, bên cạnh đó là do một số cán bộ VCB có liên quan đến một vài vụ án kinh tế nổi cộm làm hạ thấp uy tín của VCB trên thị trường.
Với sự nỗ lực lớn của mình, để khắc phục những khó khăn, lấy lại uy tín VCB đã thu được kết quả khả quan tỷ trọng thanh toán xuất khẩu đạt 28.3% năm 1999 tăng 29.1% năm 2000 và tăng 31.5% năm 2001. Có được kết quả này là nhờ VCB đã nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
Với phương châm hoạt động tất cả vì khách hàng cùng với sự đổi mới về kỹ thuật công nghệ VCB đã tạo được lòng tin của nhiều bạn hàng và thu hút ngày càng nhiều khách hàng. Tỷ trọng và doanh số sử dụng phương thức tín dụng chứng từ VCB chủ yếu áp dụng 3 phương thức thanh toán cơ bản là: chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ trong đó phương thức tín dụng chứng từ được áp dụng phổ biến hơn cả, thể hiện thông qua bảng số liệu sau:
Bảng 2. Doanh số và tỷ trọng sử dụng phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng ngoại thương Việt nam VCB
Đơn vị : Triệu USD
Phương thức thanh toán
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Doanh
số
Tỷ trọng
(%)
Doanh
số
Tỷ trọng
(%)
Doanh số
Tỷ trọng
(%)
Chuyển tiền
236
7.3
226
4.9
230
4.5
Nhờ thu
130
4
194
4.2
140
2.7
Tín dụng chứng từ
2894
88.7
3826
91.9
4788
92.8
(nguồn: Báo cáo thanh toán quốc tế của VCB)
Kim ngạch thanh toán xuất khẩu thực hiện tại VCB chủ yếu là sử dụng phương thức tín dụng chứng từ. Nếu như năm 1999 chỉ đạt 2894 triệu USD thì đến năm 2000 đạt 3826 triệu USD và năm 2001 đạt 4788 triệu USD. Vì vậy tỷ trọng sử dụng phương thức này cũng tăng lên đáng kể từ 88.7%(1998) lên 91.9%(2000) và 92.8% năm 2001. Số khách hàng sử dụng phương thức TDCT nhiều hơn là do: rủi ro đối với nhà xuất khẩu là rất lớn do hoạt động thương mại quốc tế ngày càng trở nên phức tạp do chịu sự tác động mạnh mẽ của những biến động về chính trị, kinh tế đang diễn ra trên thế giới.
Với thế mạnh truyền thống trong thanh toán quốc tế, VCB vẫn là ngân hàng được nhiều nhà xuất khẩu lựa chọn làm ngân hàng để thực hiện thanh toán.VCB có nhiều khách hàng quen thuộc giao dịch với số lượng lớn như: Vinafood, Coalimex, Seafood, Petrolimex, Dệt may…
Giao dịch thường xuyên với các thị trường Châu Âu (đạt trên 850 t._.r USD) với mặt hàng chủ yếu là dệt may, thực phẩm, sản phẩm thủ công mỹ nghệ thị trường Nhật Bản (trên 800 tr USD) với mặt hàng là cà phê, thực phẩm và các thị trường khác như Singapore, Thái Lan, Trung Quốc, Mỹ, Pháp, Italia, Iraq…
2. Hoạt động thanh toán nhập khẩu:
a. Quy trình nghiệp vụ cụ thể:
Trong quy trình thanh toán nhập khẩu sử dụng phương thức tín dụng chứng từ, VCB đóng vai trò cam kết thanh toán cho người hưởng lợi nước ngoài cụ thể là
* Phát hành L/C
* Tiếp nhận chứng từ, kiểm tra chứng từ, giao chứng từ và thanh toán.
Sơ đồ 1.2: Nghiệp vụ thanh toán nhập khẩu
6
1
Người nhập khẩu
Phòng thanh toán nhập
2
4
4
3
3
5
Thanh toán viên
Ngân hàng thông báo
Ngân hàng thông báo là ngân hàng phục vụ người xuất khẩu
*Phát hành L/C
Bước 1:
Sau khi ký kết hợp đồng buôn bán hàng hoá với người xuất khẩu ở nước ngoài, người nhập khẩu sẽ lập bộ hồ sơ chứng từ tại ngân hàng phát hành (VCB). Bộ hồ sơ chứng từ gồm: thư yêu cầu phát hành L/C có đầy đủ chữ ký của chủ tài khoản và kế toán trưởng (phụ lục 9,10); bản sao hợp đồng mua bán ngoại thương hoặc giấy tờ có giá trị tương đương như hợp đồng, bản sao giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp, văn bản cho phép nhập khẩu của bộ thương mại hoặc bộ quản lý chuyên ngành cùng với các giấy tờ khác có liên quan (nếu có).
Phòng thanh toán nhập nhận được chứng từ sẽ kiểm tra số lượng và sự hợp lệ của các giấy tờ trên sau đó ghi rõ ngày và giờ nhân (Thư tín dụng chứng từ có thể làm bằng điện hoặc thư). Hiện nay thư tín dụng chứng từ (L/C) thường được sử dụng phổ biến nhất là thư tín dụng không thể huỷ ngang vì đảm bảo cho cả nhà xuất khẩu, nhập khẩu và ngân hàng.
Bước 2:
Phòng thanh toán nhập kiểm soát viên, trưởng phó phòng sau khi nhận được L/C sẽ chuyển tới từng thanh toán viên theo dõi các khách hàng mà họ đã phân công.
Thanh toán viên kiểm tra nội dung thư yêu cầu phát hành L/C. Nếu nội dung không rõ ràng, các điều kiện chỉ có mâu thuẫn thì thanh toán viên sẽ hương dẫn và yêu cầu khách hàng hoàn chỉnh lại trước khi phát hành L/C chứ không tự động sửa chữa hoặc bổ sung thay cho khách hàng.
Sau đó thanh toán viên sẽ kiểm tra nguồn vốn đảm bảo thanh toán của khách hàng. Trong trường hợp khách hàng và ngân hàng chưa quen biết mới tham gia giao dịch lần đầu L/C được phát hành bằng vốn tự có của khách hàng phải ký quỹ 100%, ngân hàng phải kiểm tra đủ số tiền theo đúng giá trị của hợp đồng.
Trường hợp khách hàng và ngân hàng có quen biết lâu, tin tưởng nhau, khách hàng không ký quỹ hoặc có yêu cầu miễn giảm ký quỹ các bộ phận có liên quan sẽ nghiên cứu đề xuất trình hội đồng tín dụng hoặc lãnh đạo ngân hàng quyết định.
Trường hợp L/C được phát hành bằng vốn vay của VCB thì thanh toán viên sẽ căn cứ vào phiếu duyệt phát hành L/C của bộ phận tín dụng đã được ban lãnh đạo VCB phê duyệt để phát hành L/C.
Trường hợp L/C được phát hành do bên thứ ba bảo lãnh thì thanh toán viên sẽ căn cứ vào thư bảo lãnh của bên thứ ba đã được lãnh đạo ngân hàng duyệt để phát hành L/C.
Nếu các điều kiện trên được người nhập khẩu thực hiện đầy đủ thì VCB sẽ tiến hành mở thư tín dụng (theo phụ lục 11a).
Bước 3:
Thanh toán viên (đại diện cho ngân hàng phát hành VCB) thông báo là đã phát hành L/C cho ngân hàng thông báo và nhà nhập khẩu.
Thanh toán viên mở L/C cho khách hàng đăng ký số tham chiếu L/C và đưa dữ liệu vào máy tính. Nếu L/C được phát hành bằng điện thì phải có testkey hoặc phát hành bằng máy swift thì sử dụng mẫu điện MT700, MT701 hoặc bằng thư thì sử dụng toàn bộ 2 mẫu điện trên kèm thư theo mẫu.
Thanh toán viên sẽ thu phí phát hành L/C
Toàn bộ hồ sơ cùng thu phát hành L/C được trình phụ trách phòng ký duyệt giao một văn bản sao cho khách hàng (người nhập khẩu), lưu hồ sơ theo dõi và đồng thời thông báo cho ngân hàng của người xuất khẩu biết.
Sau khi phát hành L/C nếu khách hàng có yêu cầu sửa đổi thì phải xuất trình thư yêu cầu sửa đổi L/C (phụ lục 10) kèm văn bản thoả thuận giữa người mua và người bán (nếu có) và thu phí sửa đổi. Phí sửa đổi phải ghi rõ do người mua hay người bán chịu. Căn cứ vào yêu cầu của khách hàng thanh toán viên sẽ phát hành sửa đổi gửi ngân hàng thông báo: sửa đổi có thể lập bằng swift MT707, có telex có mã hoặc bằng thư có đầy đủ chữ ký được uỷ quyền.
*Tiếp nhận chứng từ, kiểm tra chứng từ, giao chứng từ và thanh toán:
Bước 4,5:
Ngân Hàng thông báo khi nhận được bộ hồ sơ L/C từ ngân hàng phát hành sẽ kiểm tra thông báo cho người xuất khẩu biết để người xuất khẩu giao hàng đồng thời lập điện đòi tiền tới ngân hàng phát hành. Phòng thanh toán nhập nhận được thông báo đòi tiền sẽ chuyển tới thanh toán viên đảm nhận để kiểm tra.
+ Nếu chứng từ đòi tiền bằng điện:
Thanh toán viên kiểm tra chứng từ xem có phù hợp với nội dung, số lượng so với các điều khoản quy định trong L/C và sửa đổi trong L/C (nếu có). Nếu chứng từ phù hợp thì ghi ý kiến của mình trên phiếu kiểm tra sau đó trình kiểm soát viên hay phụ trách phòng ký duyệt và căn cứ vào quyết định của phụ trách phòng để trả tiền và thông báo cho khách hàng (người nhập khẩu) (phụ lục 11b).
Nếu điện thông báo chứng từ không phù hợp thanh toán viên phải lập thông báo cho người nhập khẩu kèm một bản sao điện cho ngân hàng thông báo rằng chứng từ đòi tiền có sai sót (phụ lục 12).
Trong trường hợp nhà nhập khẩu chấp nhận sai sót và đồng ý thanh toán thì ngân hàng sẽ thanh toán cho nhà xuất khẩu qua ngân hàng thông báo.
Trong trường hợp người nhập khẩu không chấp nhận sai sót hoặc chấp nhận một phần thì thanh toán viên sẽ lập điện từ chối thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán một phần trình phụ trách phòng ký duyệt và gửi lại cho ngân hàng thông báo chờ xử lý ghi rõ “Chúng tối đang giữ chứng từ chờ sự định đoạt của các ông. Chúng tôi giành quyền đòi tiền từ phía các ông, trong vòng 7 ngày làm việc, chậm nhât ngày… không nhận được ý kiến trả lời từ phía các ông, chúng tôi sẽ trả lại chứng từ và các ông phải có trách nhiệm hoàn trả tiền cho chúng tôi đầy đủ cả gốc và lãi phát sinh vào tài khoản…”
Hiện nay thủ tục phí thanh toán tại VCB là tối đa 330 USD và phí bưu điện có thuế VAT cố định là 22 USD.
Đối với những chứng từ mà ngân hàng thông báo điện thông báo có sai sót nhà xuất khẩu chưa chấp nhận sai sót đó VCB đã điện từ chối và qua kiểm tra bộ chứng từ phát hiện thêm lỗi thì thanh toán viên phải lập thông báo trình phụ trách phòng để tiếp tục từ chối thanh toán và ghi rõ chờ sự định đoạt của ngân hàng thông báo đồng thời thông báo để nhà nhập khẩu cho ý kiến. Nếu nhà nhập khẩu đồng ý thanh toán thì thanh toán viên sẽ lập điện trả tiền và thu phí sai sót.
+ Nếu chứng từ đòi tiền bằng thư.
Nếu chứng từ phù hợp, lập thông báo cho người nhập khẩu (phụ lục 13). Sau 3 ngày làm việc mà khách hàng không có ý kiến gì thì thanh toán viên thực hiện trả tiền theo chỉ dẫn của L/C và quy định của VCB.
Nếu chứng từ không phù hợp thanh toán viên sẽ lập điện từ chối thanh toán gửi ngân hàng thông báo và chỉ ra những điểm không hợp lệ đồng thời thông báo cho người nhập khẩu (theo phụ lục12) và yêu cầu người nhập khẩu hoặc ngân hàng thông báo trả lời trong vòng 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo của VCB. Nếu nhà nhập khẩu chấp nhận sai sót và đồng ý thanh toán thì thanh toán viên thanh toán và thu phí sai sót. Nếu nhà nhập khẩu thừ chối thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán một phần thì thông báo cho ngân hàng của người xuất khẩu biết và chờ chỉ thị của họ để xử lý.
Bước 6:
VCB trao bộ chứng từ cho người nhập khẩu để họ đi nhận hàng. Việc giao chứng từ cho khách hàng chỉ được thực hiện khi khách hàng có đủ tiền để thanh toán bộ chứng từ và các chi phí có liên quan (nếu có). Khi giao chứng từ cho khách hàng thì chứng từ phải yêu cầu khách hàng ký nhận ghi rõ ngày giờ nhận và tên người nhận…
b. Tình hình hoạt động thanh toán nhập khẩu hàng hoá dịch vụ tại VCB:
So với nhiều nước trên Thế Giới nền kinh tế Việt Nam có mức tăng trưởng chậm. Hệ thống cơ sở hạng tầng yếu kém cộng với công nghệ sản xuất lạc hậu cùng với một số khó khăn do điều kiện khách quan làm cho nền kinh tế càng trở nên tụt hậu. Chính vì lẽ đó nhu cầu nhập khẩu đối với Việt Nam là rất lớn. Và cơ hội cung cấp dịch vụ thanh toán quá trình quốc tế qua ngân hàng là rất cần thiết.
VCB là ngân hàng chuyên cung cấp các sản phẩm dịch vụ liên quan đến quan hệ với nước ngoài từ 1994 trở về trước do đóng vai trò độc quyền trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại nên 100% các khoản thanh toán ra nước ngoài đều qua VCB. Sau khi mất thế độc quyền khối lượng thanh toán nhập khẩu tuy có giảm song vẫn duy trì ở mức độ lớn.
Trong những năm trở lại đây thị phần thanh toán nhập khẩu qua VCB giảm đáng kể thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3: Thị phần thanh toán nhập khẩu qua VCB
Năm
Thị phần thanh toán nhập khẩu
So với tổng Xuất Nhập Khẩu (%)
So với cả nước (%)
1998
60.37
49.0
1999
61.30
32.0
2000
57.73
30.0
2001
51.50
30.5
(Nguồn: Báo cáo thanh toán quốc tế của VCB)
Kết quả trên cho thấy thị phần thanh toán nhập khẩu qua VCB chiếm 49% lượng thanh toán của cả nước thì đến năm 2000 giảm xuống còn 30% và đến năm 2001 có tăng lên một trút chiếm 30.5%. Có thể là do một số nguyên nhân sau:
Do chính sách hạn chế nhập khẩu của nhà nước đối với một số mặt hàng chưa cần thiết phải nhập khẩu, do tiết kiệm tiêu dùng và bắt đầu quy định việc dán tem đối với các mặt hàng nhập khẩu.
Do số lượng Ngân hàng thương mại quốc doanh, thương mại cổ phần tăng lên đáng kể nên có sự cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng về dịch vụ thanh toán.
So với các Ngân hàng thương mại khác nhìn chung doanh số thanh toán nhập khẩu qua VCB vẫn là lớn nhất. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là xăng dầu đạt (1050 tr USD), máy móc phụ tùng (đạt 550 tr USD), phân bón, xi măng, sắt thép đã được hạn chế nhập khẩu. Đến cuối năm 2000 giá trị thanh toán tăng 7,7% so với năm 1999. Sang năm 2001 giá trị thanh toán vẫn ở mức ổn định (khoảng 7% so với năm 2000).
3. Những kết quả và tồn tại trong thanh toán L/C của VCB
3.1. Kết quả:
Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước cùng với hệ thống Doanh Nghiệp Nhà Nước. VCB đã có nhiều nỗ lực vươn lên và luôn phát huy vai trò là một Ngân hàng thương mại quốc doanh hàng đầu đáp ứng được nhu cầu của khách hàng ở khắp mọi nơi. Trong lĩnh vực thanh toán quốc tế VCB luôn chiếm tỷ trọng, doanh số cao nhất so với các ngân hàng thương mại khác trong nước, thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 4: Doanh số và tỷ trọng thanh toán quốc tế qua VCB
Đơn vị tính: Triệu USD
Ngân Hàng
1998
1999
2000
Doanh số
%
Doanh số
%
Doanh số
%
NH NT VN
9151
44.1
9512
41
10244
39.7
NH CT VN
1080
5.2
1066
4.6
1190
4.6
NH ĐT & PT VN
667
3.2
1045
4.5
1465
5.7
NH NN VN
1708
8.2
2686
11.6
2701
10.4
Các NH TM khác
8135
39.3
8853
38.3
10200
39.6
(Nguồn: Báo cáo qua các ngân hàng)
So với các ngân hàng nói trên tỷ trọng và doanh số thanh toán quốc tế qua VCB chiếm kết quat lớn nhất trung bình chiếm trên 80% tổng các món thanh toán quốc tế qua ngân hàng. Nếu như năm 1998 chỉ đạt 2894 tr USD thì sang năm 2000 là 3826 tr USD và năm 2001 là 4780 tr USD. Những con số khổng lồ trên cho thấy thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại VCB luôn đựơc hấp dẫn và đáng tin cậy đối với hầu hết các khách hàng. Mọi khách hàng đều yên tâm về chất lượng phục vụ cũng như hiệu quả hoạt động của đội ngũ nhân viên ngân hàng có trinh độ nghiệp vụ cao và giàu kinh nghiêm.
3.2. Những tồn tại trong thanh toán L/C của VCB:
a. Đối với hoạt động thanh toán xuất khẩu:
Mặc dù khối lượng khách hàng trong nước thanh toán qua rất lớn nhưng giá trị thanh toán mỗi lần thường thấp làm tăng chi phí giao dịch cho cả ngân hàng và khách hàng khi áp dụng phương thức tín dụng chứng từ. Có nhiều trường hợp trị giá chứng từ quá nhỏ khiến cho ngân hàng không những không thu được phí mà còn phải chịu lỗ chi phí giao dịch.
Đã vậy việc thu hồi và thanh toán tiền đôi khi còn gặp nhiều khó khăn do các nguyên nhân từ phía người thanh toán nước ngoài hoặc từ người xuất khẩu hay từ chính bản thân ngân hàng. Trên thực tế có một số khách hàng trước đây giao dịch với VCB nhưng thời gian gần đây lại chuyển sang hoạt động với ngân hàng khác. bên cạnh đó một số nhà xuất khẩu trong nước khi đã thiết lập được mối quan hệ vững chắc với người nhập khẩu nước ngoài thì họ chuyển sang phương thức thanh toán khác nhằm đạt hiệu quả hơn đơn giản hoá thủ tục và giảm thiểu được chi phí như phương thức nhờ thu chuyển tiền.
Hơn nữa sai sót trong vấn đề lập chứng từ còn tồn tại đối với các đơn vị xuất khẩu. Thực tế chứng từ hàng xuất có tới 70% chứng từ có sai sót phải chờ ngân hàng mở L/C chấp nhận mới được đòi tiền cho nên thường gây ra sự chậm trễ nhiều phiên toái, khó khăn cho ngân hàng làm chậm quy trình thanh toán, dẫn đến giảm chất lượng và uy tín của ngân hàng trong lĩnh vực thanh toán quốc tế.
b. Đối với hoạt động thanh toán nhập khẩu:
Khách hàng là người nhập khẩu thường khó khăn về vốn khi tham gia quan hệ với người xuất khẩu nước ngoài. Hoạt động kinh doanh của họ chủ yếu dựa vào vốn đi vay của ngân hàng nên đặt ngân hàng đứng trước nguy cơ mất vốn lớn bởi vì việc thu hồi vốn lúc này hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả điều kiện của nhà nhập khẩu.
Bên cạnh đó trình độ của người nhập khẩu cũng là vẫn đề gây khó khăn cho công tác thanh toán nhập khẩu. Sự thiếu hiểu biết về thương mại quốc tế của người nhập khẩu luôn gây khó khăn cho ngân hàng trong việc mở và thanh toán L/C. Chẳng hạn người nhập khẩu do trình độ hạn chế không hiểu rõ điều khoản trong hợp đồng hay cố tình làm sai những thoả thuận ban đầu dẫn đến yêu cầu mở L/C có nội dung không khớp với hợp đồng thương mại làm chậm trễ quá trình thanh toán gây ra nhiều chi phí tốn kém cho cả ngân hàng và người nhập khẩu.
c Đối với quan hệ đại lý của VCB:
Trong quan hệ với ngân hàng nước ngoài VCB thường gặp khó khăn trở ngại từ phía bạn hàng do bị ảnh hươngr bởi thực tế: hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chưa có được chất lượng cao và uy tín trên thị trường quốc tế. Do đó các ngân hàng nước ngoài thường áp dụng các biện pháp đảm bảo an toàn cao, thực hiện kiểm soát và bắt lỗi chứng từ chặt chẽ nhằm tăng thu phí và trốn tránh trách nhiệm hoặc trì hoãn thanh toán, chấp người nhập khẩu có thời gian để chấp nhận chứng từ.
Mặc dù VCB có quan hệ đại lý với hơn 1000 ngân hàng nhưng ở một số thị trường VCB vẫn còn thiếu đại lý như: khu vực Trung Nam á, Mỹ La Tinh nên việc giao dịch đối với khu vực này thường phải thực hiện thanh toán qua ngân hàng thứ 3 nên thời gian thanh toán thường kéo dài làm tăng chi phí từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các dn.
d. Đối với trình độ của cán bộ nhân viên Ngân Hàng NT:
Đến nay, VCB đã xây dựng được đội ngũ cán bộ có trình độ học vấn khá gồm 2800 cán bộ trong dó trình độ Đại học và trên Đại học chiếm hơn 70%. Tuy vậy hệ thống VCB còn qú nhỏ bé gọn nhẹ với hơn 23 chi nhánh và một công ty tài chính, mô hình tổ chức hiện tại còn nhiều nhược điểm mang nặng tính hành chính. Tư duy kinh tế thị trường của số đông cán bộ VCB chưa tiến kịp so với đòi hỏi thực tế.
e. Đối với kỹ thuật công nghệ thông tin:
VCB nhận thức công nghệ là nhân tố không thể thiếu được trong hoạt động của mình nên đã không ngừng đầu tư, bỏ ra những khoản vốn khổng lồ để đáp ứng được yêu cầu hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện đại. Tuy nhiên cho đến nay hệ thống công nghệ của VCB còn nhiều bất cập, máy móc còn thiếu, chương trình quản lý và xử lý chưa linh hoạt, còn xảy ra các lỗi làm gián đoạn quá trình giao dịch.
Thêm vào đó kỹ thuật công nghệ hiện đại làm cho toàn bộ hoạt động của VCB trở nên phụ thuộc hoàn toàn. nếu một sự cố kỹ thuật nào đó xảy ra sẽ làm ảnh hưởng tới mọi hoạt động tại VCB. Nhiều khi quá trình thanh toán cũng bị ảnh hưởng bởi những sự cố kỹ thuật máy móc, thiết bị truyền dữ liệu và xử lý thông tin như: điện bị chập, telex bị ngắt quãng, hoặc điện nhập sai số, thất lạc chứng từ… Do vậy đòi hỏi phải có hệ thống công nghệ được trang bị hiện đại và tối tân nhất.
f. Đối với chiến lược mở rộng quan hệ khách hàng:
Hoạt động xuất nhập khẩu tại Việt Nam chịu sự chị phối sâu sắc của các chính sách quản lý của nhà nước như: chính sách quản lý ngoại hối, chính sách hạn chế nhập khẩu để bảo vệ nền sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu những mặt hàng được sự cho phép của nhà nước… Do vậy các hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam diễn ra không sôi động như ở các quốc gia khác nên nhu cầu về sản phẩm thanh toán quốc tế bị hạn chế. Bên cạnh đó thời gian gần đây hoạt động thanh toán quốc tế của VCB diễn ra trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng kể từ khi pháp lệnh ngân hàng năm 1990 ra đời chấm dứt thời kỳ độc quyền trong thanh toán quốc tế của VCB. Thêm vào đó bước sang năm 2002, VCB lại phải đương đầu với một cuộc cạnh tranh mới khốc liệt hơn đó là khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ trở nên có hiệu lực. Trong một thời gian ngắn nữa danh giới giữa ngân hàng trong nước với nước ngoàI sẽ không còn. Phía đối tác Hoa Kỳ sẽ mở chi nhánh ngân hàng tại Việt Nam và cung cấp các dịch vụ của họ với ưu thế có đầy đủ tiềm năng về vốn, công nghệ ngân hàng phát triển, có bề dày kinh nghiệm hoạt động trong cơ chế thị trường, thủ tục làm việc nhanh gọn thông thoáng, thanh toán quốc tế là sản phẩm chất lượng hàng đầu của họ…cho nên đây đang là vấn đề lớn đối với VCB phải giải quyết trong hoạt động thanh toán quốc tế của mình.
g. Đối với chính sách của nhà nước
Hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng còn thiếu và nhiều bất cập. Luật ngân hàng đã đi vào hoạt động song còn quá nhiều điểm chung chung, khó thực hiện. Việc vận dụng UCP500 làm căn cứ quy định trách nhiệm quyền hạn nhưng UCP chỉ là thông lệ quốc tế không thể áp dụng một cách máy móc được nhất là trong điều kiện của nước ta.
Bên cạnh đó, các văn bản quy định về công tác xuất nhập khẩu, thuế quan, hải quan của việt nam còn chưa ổn định, hay thay đổi làm ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng.
Hơn nữa, quy chế quản lý ngoại hối của việt nam còn nhiều điểm chưa rõ ràng ảnh hưởng nhiều đến quá trình thanh toán quốc tế. Tỷ giá là yếu tố phản ánh tương quan giá cả giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Khi nhà nước điều chỉnh tỷ giá theo một mục tiêu vĩ mô nào đó thì sẽ kéo theo sự biến động của trị giá hàng hoá xuất nhập khẩu, làm phát sinh lỗ hoặc lãi đối với các đơn vị kinh doanh.
Do vậy, khó khăn trong chính sách quản lý của nhà nước đang bắt buộc VCB phảI có những phương hướng hoạt động hiệu quả hơn.
Chương III: GiảI pháp nhằm hoàn thiện phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng ngoại thương việt nam
Nhìn nhận con đường đã đi qua trong các năm trước, VCB đã có những bài học kinh nghiệm quý giá trong các hoạt động nói chung cũng như trong thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng. Uy tín và kinh nghiệm trong các nghiệp vụ về thanh toán quốc tế đã đưa VCB trở thành ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cả nước về thị phần thanh toán quốc tế. Để tiếp tục duy trì và phát huy thế mạnh truyền thống của mình trong lĩnh vực này VCB đã hoạch định và đề ra những phương hướng, mục tiêu cụ thể trong những năm tới như sau:
1. Mục tiêu phát triển trong lĩnh vực thanh toán quốc tế tại VCB
Tiếp tục thực hiện định hướng phát triển theo phương châm: an toàn, hiệu quả và phát triển căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà Nước và nhiệm vụ chung của toàn ngành ngân hàng trong những năm tới.
Duy trì thế mạnh trong thanh toán xuất nhập khẩu, phấn đấu giữ vững thị phần và có thể nâng lên cao hơn.
VCB vẫn luôn được coi là ngân hàng năng động trong việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Ngoài việc xử lý thanh toán qua mạng Swift thì VCB còn phát hành và thanh toán thẻ tín dụng như Visa, Mastercard, JCB, Diner Club và Amex, sử dụng hệ thống máy rút tiền tự động đầu tiên ở việt nam, hệ thống ngân hàng bán lẻ Siverlake…
Sớm xem xét việc sáng tạo các sản phẩm mới có giá trị cao và cạnh tranh hơn nhất là thông qua lĩnh vực công nghệ.
Tăng cường duy trì và củng cố mối quan hệ với các ngân hàng nước ngoàI dựa trên phương châm hợp tác- phát triển- bền vững.
Ngoài việc mở rộng quan hệ với ngân hàng nước ngoài, VCB cũng đang có chiến lược mở rộng mạng lưới chi nhánh ở nước ngoài dưới hình thức văn phòng đại diện.
Để phục vụ tốt hơn nữa cho hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu, VCB đã và sẽ tăng cường nguồn vốn trong thanh toán nhằm: với tiềm lực về vốn có thể làm tăng uy tín của mình trên thị trường cũng như có khả năng đáp ứng được những khoản thanh toán có giá trị lớn.
2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng ngoại thương việt nam VCB
2.1. Giải pháp ở tầm vĩ mô
Giải pháp thứ nhất: Soạn thảo và áp dụng hệ thống luật lệ, tạo môi trường pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc tế. Hoạt động thanh toán quốc tế có liên quan đến mối quan hệ kinh tế quốc nội cũng như quốc tế, liên quan đến luật pháp các quốc gia, liên quan đến thông lệ quốc tế. Do vậy mỗi nước cần có những quy định cụ thể để điều chỉnh mối quan hệ này trong sự tương quan với thông lệ quốc tế UCP 500. ở Việt Nam chính phủ cũng mới ban hành một văn bản luật quy định dẫn chiếu sử dụng UCP 500 song mới chỉ dừng lại ở mức độ hướng dẫn chung chung chưa đi vào chi tiết. Nên cần sớm có những văn bản pháp lý quy định cụ thể hơn nữa cho giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu.
Về quản lý ngoại hối, ngân hàng nhà nước cần có những văn bản quy định trách nhiệm, kiểm tra tính pháp lý của các chứng từ trước khi chuyển tiền ra nước ngoài.
Việt nam đã có những quy định về chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu nhưng chưa có quy định về chiết khấu hối phiếu kèm chứng từ theo tín dụng thư. Thêm vào đó, để ngăn chặn những rủi ro trong kinh doanh nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc hành chính quốc gia. Cần có những quy chế, văn bản hướng dẫn giao dịch thanh toán quốc tế có sự kết hợp chặt chẽ của các cơ quan liên quan.
Giải pháp thứ hai:Tổ chức thực hiên tốt thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tiến tới thành lập thị trường hối đoái ở việt nam.
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là thị trường trao đổi, cung cấp ngoại tệ nhằm giải quyết các mối quan hệ về ngoại tệ giữa các ngân hàng với nhau. Việc hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là một trong những điều kiện quan trọng để các ngân hàng thương mại mở rộng nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và tạo điều kiện phục vụ cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế được thực hiên tốt hơn. Để hoàn thiện và phát triển thị trường cần thực hiện ngay các biện pháp sau:
Đa dạng hoá các ngoại tệ, các phương tiện thanh toán quốc tế được mua bán trên thị trường.
Đa dạng hoá các hình thức giao dịch như: Spot (mua bán giao ngay), Forward(mua bán kỳ hạn), Option(giao dịch quyền chọn).
Mở rộng đối tượng tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm tạo cho thị trường hoạt động với tỷ giá sát thực tế hơn.
2.2. Giải pháp ở tầm vi mô
Giải pháp thứ ba: Có chính sách thu hút, khuyến khích đối với khách hàng. Bất cứ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt đều phải xây dựng cho mình một chính sách khách hàng phù hợp để mở rộng và nâng cao số lượng khách hàng đến với mình trong đó việc chủ động tìm đến với khách hàng và gây được lòng tin đối với họ là điều hết sức quan trọng. Do đó VCB cần phải xây dựng và hoàn thiện các chính sách hợp lý đối với khách hàng thể hiện ở các điểm sau:
* Đối với người xuất khẩu
Cấp tín dụng cho người xuất khẩu để giúp người bán trong quá trình thu gom và chuẩn bị xuất khẩu hàng hoá theo hợp đồng ngoại thương, ngân hàng sẽ ứng trước cho người bán một khoản tín dụng hỗ trợ xuất khẩu và sẽ chiết khấu dần các khoản thanh toán của người xuất khẩu khi người mua ở nước ngoài thanh toán tiền hàng.
Ngoài ra ngân hàng có thể cấp tín dụng chứng từ cho người xuất khẩu thông qua nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất hoàn hảo theo tín dụng thư.
Tư vấn cho người xuất khẩu VCB với tư cách là ngân hàng thông báo L/C cần phải giúp đỡ các đơn vị xuất khẩu nghiên cứu và nắm chắc bản chất, nghiệp vụ và quy trình của phương thức L/C như:
+ Tư vấn giúp đỡ cho các đơn vị xuất khẩu trong việc lập và hoàn thiện bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung yêu cầu của L/C
+ Yêu cầu bên nhập khẩu ở nước ngoàI mở L/C dạng dễ hiểu trên cơ sở đó sẽ tư vấn cho nhà xuất khẩu của mình
+ Tư vấn cho nhà xuất khẩu cân nhắc về các điều khoản và yêu cầu bất lợi trong L/C mà người nhập khẩu nước ngoài đưa ra
* Đối với người nhập khẩu:
Với những khách hàng có quan hệ làm ăn lâu dài, có quan hệ uy tín thân thiết với ngân hàng,VCB với vai trò là ngân hàng phục vụ người nhập khẩu có thể cấp khoản tín dụng cho họ để giúp họ mở rộng sản xuất kinh doanh trong điều kiện không đủ vốn. Ngoài ra VCB cũng có thể tăng cường tư vấn cho khách hàng thông qua các hình thức
+ Cử cán bộ có trình độ hiểu biết sâu rộng tham dự cùng khách hàng(khi được yêu cầu) để đàm phán ký kết hợp đồng thương mại nhằm thoả thuận được điều khoản thanh toán có lợi nhất
+ Tư vấn trong việc mở L/C: Căn cứ vào nội dung của hợp đồng ngoại thương VCB tư vấn cho khách hàng nên mở L/C với những điều khoản, nội dung rõ ràng để tránh gây hiểu lầm, tránh việc sửa chữa cho L/C sau này
+ Giúp người nhập khẩu kiểm tra các lỗi cố ý trong bộ chứng từ do bên xuất khẩu lập
Giải pháp thứ tư: Đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ của các cán bộ ngân hàng, trình độ nghiệp vụ của các thanh toán viên phản ánh trực tiếp chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. VCB cần đầu tư trong việc lập ra các khoá đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho các thanh toán viên, cho họ được nghiên cứu, khảo sát tại ngân hàng tiên tiến hiện đại trên thế giới. Các thanh toán viên cần được cập nhật các tài liệu mới nhất liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế và luôn được hướng dẫn sử dụng các công nghệ phần mềm áp dụng trong thanh toán. VCB cần xây dựng cho mình một trung tâm đào tạo riêng, đây sẽ là nơi chuyên để tập huấn nghiệp vụ.
Giải pháp thứ năm: Đổi mới nâng cao về công nghệ
Sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng phụ thuộc vào nhiều khả năng cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Trong tình hình hiện nay hình thức thanh toán mới ưu việt hơn, tiện lợi hơn đó là thanh toán điện tử thông qua hệ thống mạng được nối kết với nhau. Nên VCB cần tăng cường đổi mới và áp dụng các thiết bị, công nghệ hiện đại tối tân nhất nhằm phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của các hoạt động ngân hàng hiện đại.
Giải pháp thứ sáu: Phát triển nâng cao mạng lưới chi nhánh rộng khắp. Hiện nay, hệ thống ngân hàng ngoại thương còn quá nhỏ bé gọn nhẹ chỉ với 23 chi nhánh tại các tỉnh thành phố, một công ty tài chính, ba văn phòng đại diện như vậy tiện lợi cho công tác quản lý nhưng gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hút khách hàng do đó thị phần thanh toán quốc tế sẽ bị thu hẹp nên cần phải phát triển và mở rộng các chi nhánh ngân hàng của mình hơn nữa.
Giải pháp thứ bảy: Tăng cường hoạt động Marketing cho ngân hàng
Marketing ngân hàng là các hoạt động của ngân hàng nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Trong chiến lược Marketing VCB cần chú trọng các vấn đề sau:
+ Nghiên cứu thị trường để nắm bắt được tập quán, thái độ và nhất là động cơ của khách hàng khi lựa chọn ngân hàng như địa điểm giao dịch của ngân hàng, chất lượng phục vụ tại quầy, thái độ của nhân viên giao dịch, hình ảnh về sức mạnh và an toàn của ngân hàng
+ Nghiên cứu khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong hiện tại và tương lai để thấy được điểm mạnh cần phát huy và những thiếu sót cần khắc phục
+ Dự đoán và phân tích hướng phát triển của thị trường, nghiên cứu thử nghiệm để xem xét phản ứng của khách hàng trước những dịch vụ mới của ngân hàng trước khi phổ biến rộng rãi. Các hoạt động marketing xoay quanh 4 chiến lược đó là: chiến lược sản phẩm, chiến lược phân phối, chiến lược giá cả, chiến lược giao tiếp khuyếch trương trong đó chiến lược giao tiếp khuyếch trương là chiến lược mũi nhọn mà VCB cần phải tập trung trước mắt.
Giải pháp thứ tám: Chuẩn bị từng bước dùng máy tính, kiến thức thương mại điện tử trong việc thực hiện thanh toán bằng máy tính giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nước ngoài qua NHNTVN
Giải pháp thứ chin: Mở rộng hiệu quả mạng lưới ngân hàng đại lý
Trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế hệ thống ngân hàng đại lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc triển khai có hiệu quả nghiệp vụ này. Nếu ngân hàng nào có quan hệ đại lý ở khắp mọi nơi sẽ phát triển tốt nghiệp vụ thanh toán quốc tế, giảm thiểu được chi phí giao dịch, tránh được các loại rủi ro đồng thời lại đảm bảo chất lượng của khoản thanh toán. Trong những năm tới VCB cần tiếp tục củng cố và mở rộng hơn nữa hệ thống ngân hàng đại lý nhằm khai thác triệt để hiệu quả các ưu thế này.
Giải pháp thứ mười: Thực hiện đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Ban lãnh đạo VCB cần tập trung nghiên cứu và đưa ra những sản phẩm mới phục vụ nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường trong đó cần chú ý sử dụng nhiều loại thư tín dụng khác nhau. Hiện nay VCB chỉ mở loại L/C không thể huỷ ngang là loại đảm bảo nhất cho người nhập khẩu. Nên VCB cần phải biết tận dụng những loại L/C khác để phát huy được những ưu điểm của chúng như: L/C chuyển nhượng, L/C tuần hoàn, L/C giáp lưng…
Giải pháp thứ mười một: Quản lý và sử dụng tốt L/C trả chậm
Trong những năm trước tại VCB cũng như các ngân hàng thương mại việt nam đều xảy ra tình trạng mở L/C trả chậm một cách tràn lan, kém hiệu quả dẫn đến làm tăng các khoản nợ xấu(nợ bắt buộc) cho ngân hàng làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng đối với các ngân hàng nước ngoài.Nên hiện nay các ngân hàng đã hạn chế tối đa việc mở L/C trả chậm. VCB cần tiếp tục sử dụng loại L/C trả chậm song phải thực hiện quản lý chặt chẽ thông qua một số biện pháp sau:
+ Khi mở L/C trả chậm cần cân nhắc kỹ về loại hàng hoá, chu kỳ lưu thông và tiêu thụ hàng hoá, khả năng khai thác thanh toán của đơn vị để đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với khách hàng nhằm bảo đảm khả năng thanh toán khi đến hạn như: ký quỹ bằng ngoại tệ, thế chấp, có sự bảo đảm của một bên thứ ba…
+ Đề ra những quy định cụ thể về nghiệp vụ L/C trả chậm trên cơ sở văn bản của ngân hàng nhà nước đã ban hành và nghiêm chỉnh chấp hành những quy định đó.
Hoàn thiện thanh toán tín dụng chứng từ là nh._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36975.doc