Hoàn thiện phương pháp phân tích tài chính của khách hàng tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

Lời mở đầu ít có thiết chế kinh tế nào tác động đến đời sống con người và xã hội mạnh mẽ bằng ngân hàng và hoạt động của nó. Ra đời từ rất sớm và không ngừng phát triển cả về qui mô, số lượng, chất lượng các dịch vụ, cho đến nay ngành ngân hàng đóng một vai trò hết sức quan trọng - là huyết mạch của nền kinh tế, với sự hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp: ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó nền kinh tế thị trường phát triển đã thúc đẩy quá trình xâm nhập và phát triển c

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1361 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện phương pháp phân tích tài chính của khách hàng tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa tư tưởng và tác phong kinh doanh mới trong các ngân hàng, được thể hiện bằng sự có mặt của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh. Trong các hoạt động của ngân hàng, tín dụng là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro cao nhất. Vì vậy, đảm bảo và nâng cao chất lượng tín dụng luôn là nhiệm vụ, mục tiêu hàng đầu của các ngân hàng thương mại. Để đưa ra được một quyết định tài trợ, các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khẳ năng rủi ro và sinh lời dựa trên qui trình phân tích tín dụng. Phân tích tài chính của khách hàng là một trong những nội dung đó. Phân tích tài chính của khách hàng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đánh giá sức mạnh tài chính, khả năng tự chủ tài chính trong kinh doanh, nhu cầu tài trợ và khẳ năng hoàn trả nợ của khách hàng. Nhưng hoạt động này trong các ngân hàng thương mại vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến hiệu quả cho vay chưa cao. Chính vì lẽ đó mà việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác này góp phần quyết định tới hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Qua quá trình thực tập tại Sở giao dịch I- Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, tôi đã chọn đề tài: “ Hoàn thiện phương pháp phân tích tài chính của khách hàng tại Sở giao dịch I- NHĐT&PT Việt Nam” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình với mong muốn áp dụng những kiến thức đã học đưa ra những giải pháp góp phần vào hoàn thiện công tác này tại Sở giao dịch I- Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề này có kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về phương pháp phân tích tài chính của khách hàng tại Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng phân tích tài chính của khách hàng tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện phương pháp phân tích tài chính của khách hàng tại Sở giao dịch I- Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Chương 1: Tổng quan về phương pháp phân tích tài chính của khách hàng tại Ngân hàng thương mại. 1.1.Sự cần thiết phân tích tài chính của khách hàng tại Ngân hàng thương mại(NHTM). 1.1.1.Tổng quan về NHTM. 1.1.1.1. Sự hình thành và phát triển của NHTM. Lúc đầu kinh doanh tiền tệ do nhà thờ đứng ra tổ chức vì đây là nơi tôn nghiêm được dân chúng tin tưởng để ký gửi tài sản và vàng bạc.Về sau, do nhận thấy việc kinh doanh này đem lại nhiều lợi lộc nên nhiều giới nhảy vào. Những tổ chức này được coi là tiền thân của Ngân hàng. Thời kỳ cuối thế kỉ XIV( thời kỳ Phục Hưng) phần lớn còn mang tính chất gia đình, các tổ chức kinh doanh tiền tệ phát triển nhanh và mở rộng thêm nhiều nghiệp vụ mới. Ngân hàng ra đời sớm nhất ở Venise của ý năm 1580. Đầu thế kỉ XVII xuất hiện một số tổ chức kinh doanh tiền tệ lớn, sở hữu tư nhân được coi là thời điểm của kỷ nguyên ngân hàng hiện đại như ngân hàng Amsterdam( Hà Lan), Ngân hàng Hamburg( Đức). Từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX đã có sự phân công thành ngân hàng phát hành và ngân hàng chuyên doanh. Từ thế kỉ XIX cho đến nay hệ thống ngân hàng đã phát triển mạnh mẽ với sự hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp: ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại. Ngày nay, hệ thống NHTM đã phát triển mạnh mẽ cùng với việc đa dạng hoá các nghiệp vụ của mình, các NHTM ngày càng xâm nhập sâu sắc vào mọi hoạt động của nền kinh tế. Ngày 6/5/1951 Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh 15/SL thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam và sau đổi tên thành ngân hàng nhà nước Việt Nam được tổ chức từ trung ương đến quận, huyện. Hệ thống ngân hàng một cấp được duy trì cho đến ngày 26/3/1988, quyết định số 53- QĐ - HĐBT đã đánh dấu sự hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp với ngân hàng trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, thanh toán và các ngân hàng chuyên doanh là: ngân hàng Nông Nghiệp Việt Nam, Ngân hàng Công Thương Việt Nam, ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, ngân hàng Đầu Tư và Xây Dựng Cơ Bản Việt Nam. Ngày 23/5/1990, ban hành hai pháp lệnh ngân hàng : pháp lệnh ngân hàng nhà nước và pháp lệnh pháp lệnh về tổ chức tín dụng có tổ chức nội dung và pháp lý gần giống với hệ thống ngân hàng ở các nước có nền kinh tế thụ trường. Ngân hàng nhà nước Việt Nam có vai trò và nhiệm vụ như ngân hàng trung ương, các tổ chức tín dụng bao gồm NHTM, Ngân hành Đầu Tư và Phát Triển, công ty tài chính và hợp tác xã tín dụng có vai trò như ngân hàng trung gian. Ngày 12/12/1997, luật ngân hàng nhà nước Việt Nam và luật các tổ chức tín dụng được quốc hội thông qua đã tiếp tục củng cố, xây dựng và cải tiến hệ thống ngân hàng hai cấp. Ngân hàng thương mại được định nghĩa: là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng, sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu, thanh toán, … 1.1.1.2.Các chức năng của NHTM Chức năng làm trung gian tài chính. NHTM thực hiện chức năng này xuất phát từ những cơ sở khách quan. Đó là đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tuần hoàn vốn xã hội đã phát sinh hiện tượng trong cùng một lúc có những cá nhân, doanh nghiệp có vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng. Ngược lại, lại có những cá nhân, doanh nghiệp có nhu cầu vốn cần bổ sung trong một thời gian ngắn( như nhu cầu nguyên nhiên liệu nhưng chưa bán được sản phẩm, cần sửa chữa lớn hoặc mua sắm tài sản cố định nhưng thiếu vốn…). Mâu thuẫn này được giải quyết bằng quan hệ tín dụng trực tiếp hoặc gián tiếp. Tuy nhiên quan hệ tín dụng trực tiếp dưới hình thức tín dụng thương mại hoặc doanh nghiệp trực tiếp phát hành trái phiếu có những hạn chế vì các chủ thể khó có thể biết rõ được khả năng và nhu cầu vốn của nhau. Hơn nữa, để có thể chuyển nhượng vốn cho nhau cần có sự tin tưởng. Hạn chế này đòi hỏi phải có ngân hàng đứng ra làm trung gian để giúp chuyển vốn từ nơi thừa vốn sang nơi tạm thời thiếu vốn. Với chức năng này NHTM đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ là người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay và đảm bảo lợi ích của nền kinh tế. Chức năng tạo phương tiện thanh toán Trước đây, các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nhận nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy. Với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc nhà nước tập trung quyền lực phát hành tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ tài chính hoặc là Ngân hàng trung ương. Từ đó chấm dứt các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy bạc của riêng mình. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông(Mo), thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của khách hàng tại ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn…Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán. Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu( tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi( tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay(tạo tín dụng). Chức năng trung gian thanh toán Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng sec, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi qui mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi. 1.1.1.3.Các hoạt động chính của ngân hàng thương mại. Theo luật các Tổ chức tín dụng(12/12/1997), NHTM được tiến hành tất cả các hoạt động kinh doanh theo luật định bao gồm 3 lĩnh vực hoạt động sau: Hoạt động huy dộng vốn Theo luật, NHTM được thực hiện các hình thức huy động vốn sau: Nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng, vay vốn của ngân hàng nhà nước. Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác. Giấy tờ có giá bao gồm chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác được phát hành trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Các NHTM có thể vay vốn của các Tổ chức tín dụng trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức khác nhau: vay theo hợp đồng mua lại, vay theo hình thức bảo lãnh,.. Theo quy định tại Điều 30 của luật NHNN Việt Nam, NHTM được vay vốn của NHNN dưới hình thức tái cấp vốn, theo các loại sau: Cho vay theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu và tái chiết khấu các thương phiếu, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, trong trường hợp đặc biệt khi được thủ tướng chính phủ chấp thuận, NHNN cho vay đối với các NHTM, Tổ chức tín dụng tạm thời mất khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các Tổ chức tín dụng hoặc trong trường hợp có sự chỉ định của thủ tướng chính phủ, NHNH thực hiện bảo lãnh cho tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài. Hoạt động sử dụng vốn. Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong nền kinh tế đều muốn tìm kiếm lợi nhuận. Ngân hàng không ngoại lệ, hoạt động huy động vốn của ngân hàng đã đem lại cho ngân hàng một khoản vốn với tính chất là vốn đi vay. Điều đó có nghĩa là ngân hàng phải trả lãi suất cho các khoản đó đến từng giờ. Vậy ngân hàng sẽ phải sử dụng nguồn vốn đó như thế nào để có được lợi nhuận. Các ngân hàng tìm kiếm lợi nhuận thông qua các hoạt động cho vay, đầu tư vào các dịch vụ sinh lãi. Hiện nay, các NHTM được thực hiện các hoạt động sử dụng vốn sau: Cho vay; chiết khấu thương phiếu và cầm cố các chứng từ có giá; bảo lãnh ngân hàng; cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN. Cho vay là hoạt động chính của ngân hàng để thu lợi nhuận. Nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của NHTM. Hình thức pháp lý của hoạt động cho vay là hợp đồng tín dụng, có hai loại hợp đồng thông dụng: Hợp đồng cho vay có đảm bảo( bằng tài sản, bằng tín chấp) và hợp đồng cho vay không có đảm bảo. Chiết khấu chứng tờ có giá ngắn hạn là nhiệm vụ mà ngân hàng sẽ giao cho khách hàng một lượng tiền bằng mệnh giá chứng từ chiết khấu trừ đi lệ phí chiết khấu trong thời hạn của hiệu lực chứng từ chiết khấu. Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là Tổ chức tín dụng, NHTM với khách hàng thuê là các tổ chức, cá nhân. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn thuê, các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng. Hoạt động trung gian. Hoạt động này còn gọi là dịch vụ thanh toán và ngân quỹ ( có thu phí). Ngân hàng cung cấp phương tiện thanh toán và làm trung gian trong các quan hệ thanh toán. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng là: Séc, uỷ nhiệm thu, chuyển tiền, uỷ nhiệm thu, thư tín dụng, thư thanh toán, ngân phiếu thanh toán. Các hoạt động khác. Hoạt động quan trọng nhất là kinh doanh ngoại hối. Ngoài ra còn có các hoạt động như: góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các Tổ chức tín dụng khác, tham gia thị trường tiền tệ, uỷ thác, nhận uỷ thác, làm đại lý, kinh doanh bất động sản, dịch vụ tư vấn, bảo quản vật có giá, cầm đồ,… Trên đây là những nghiên cứu sơ lược về sự hình thành và phát triển của các NHTM, chức năng và các hoạt động kinh doanh của NHTM. Để làm rõ nội dung phân tích tài chính của khách hàng tại NHTM trong quá trình phân tích tín dụng, chúng ta sẽ nghiên cứu các nội dung sau: 1.1.2.Sự cần thiết phân tích tài chính của khách hàng tại NHTM. Vô số các rủi ro khác nhau khi cho vay: rủi ro tín dụng, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản…bắt nguồn từ nhiều yếu tố khác nhau và có thể dẫn đến việc không hoàn trả nợ khi đến hạn. Các thiệt hại đôi khi nảy sinh từ nguyên nhân thiên tai như bão lụt, hạn hán, hoả hoạn, động đất. Những thay đổi về nhu cầu người tiêu dùng hoặc về kỹ thuật của một ngành công nghiệp có thể làm sụp đổ cả sơ đồ của một hãng kinh doanh và đặt người đi vay cụ thể nào đó đã có thời làm ăn có lãi lâm vào cảnh thua lỗ. Một cuộc đình công kéo dài, việc giảm giá để cạnh tranh, hoặc việc mất một người quản trị giỏi có thể làm giảm thiệt hại nghiêm trọng đến khả năng hoàn trả tiền vay của người vay. Sự hưng thịnh hay suy thoái của chu kỳ kinh doanh ảnh hưởng đến lợi nhuận của người vay và gây nên niềm vui hay nỗi buồn của người kinh doanh, cũng như người tiêu dùng. Một số rủi ro nảy sinh từ các yếu tố riêng rẽ khó giải thích. Để quyết định có chấp nhận cho vay hay không, nhà quản trị ngân hàng phải cố gắng ước lượng rủi ro không hoàn trả. Rủi ro này có thể dự đoán trong một quá trình kéo dài, bằng những phân tích tỉ mỉ về các mặt tài chính, phi tài chính của khách hàng. Trên thực tế, việc xác định các thông số phi tài chính như uy tín, năng lực, đạo đức, mục đích sử dụng vốn vay,… là rất khó, mang tính chất định tính. Vì vậy, những thông tin tài chính định lượng là rất quan trọng đối với ngân hàng trong đánh giá, lựa chọn khách hàng. Phân tích tài chính của khách hàng cho ngân hàng xác định được các yếu tố về lượng của nhu cầu vay vốn tín dụng, xác định được thời hạn hợp lý của khoản vay, xác định kỳ hạn trả nợ …đối với từng khách hàng. Như vậy, phân tích tài chính của khách hàng không chỉ là nhu cầu thiết thực mà còn là đòi hỏi bắt buộc đối với mỗi NHTM. Có thể hiểu phân tích tài chính của khách hàng tại NHTM là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác nhằm đánh giá tình hình tài chính, khẳ năng và tiềm lực của khách hàng giúp ngân hàng đưa ra các quyết định tài trợ. Phân tích tài chính của khách hàng tại các NHTM nhằm đạt được những mục tiêu sau: ỉXác định được tình hình tài chính của khách hàng: giá trị tài sản, tình hình nợ, nhu cầu tài trợ, khả năng thanh toán… ỉDự báo về tài chính trong tương lai của khách hàng: khả năng hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời, khả năng hoàn trả nợ vay… ỉĐảm bảo cho ngân hàng thu được cả lãi lẫn gốc đúng hạn, giảm rủi ro tín dụng, tránh gây thất thoát vốn cho ngân hàng. Phân tích tài chính của khách hàng về cơ bản, giống nhau trong tất cả các NHTM, nhưng ở một số ngân hàng, người ta nhấn mạnh đến một số chỉ tiêu này trong khi đó, các ngân hàng khác lại nhấn mạnh đến một số chỉ tiêu khác. 1.2.Nội dung phân tích tài chính của khách hàng tại Ngân hàng thương mại. 1.2.1.Thu thập thông tin sử dụng trong phân tích tài chính của khách hàng tại NHTM. Thông tin là nguồn quan trọng có ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình phân tích tài chính của khách hàng. Bởi muốn đưa ra một quyết định tài trợ thì ngân hàng phải biết rõ ràng về năng lực tài chính của khách hàng. Các nguồn thông tin mà ngân hàng thu thập được bao gồm các thông tin nội bộ, thông tin bên ngoài, thông tin do khách hàng cung cấp và do cán bộ tín dụng tự điều tra, bao gồm: - Phỏng vấn trực tiếp: Phỏng vấn trực tiếp là rất quan trọng bao gồm việc gặp gỡ trực tiếp giữa ngân hàng và người vay vốn: thăm quan nhà xưởng, văn phòng, nói chuyện với giám đốc,… qua đó giúp cho cán bộ tín dụng có một ý niệm nào đó về tính thật thà và khả năng của người vay. - Mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua các trung gian: như các cơ quan quản lý, các bạn hàng của khách hàng, các cơ quan kiểm toán, cơ quan thuế, hải quan, trung tâm tín dụng của NHNN – CIC,…Qua các trung gian, ngân hàng phân tích được người vay qua các mối liên hệ của họ, cho thấy uy tín, trình trạng rủi ro, phát triển hay suy thoái. - Thông qua hồ sơ vay vốn của khách hàng: Đó là điều kiện bắt buộc đối với mọi khách hàng khi muốn vay vốn của ngân hàng. Với khách hàng là những doanh nghiệp, hồ sơ sẽ bao gồm các báo cáo tài chính như : Bảng cân đối kế toán ( mẫu số B01-DN ), báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh ( mẫu số B02- DN), báo cáo lưu chuyển tiền tệ (mẫu số B03-DN), thuyết minh báo cáo tài chính ( mẫu số B09-DN), và bảng kế hoạch tài chính trong tương lai. Các báo cáo này cho thấy số liệu trong nhiều năm đã qua, vì vậy giúp ngân hàng có cơ sở để dự đoán về tình hình của khách hàng trong tương lai gần. Ngân hàng sử dụng các báo cáo này để ước tính nhu cầu vốn, trong đó có nhu cầu tài trợ, đánh giá khẳ năng sinh lời và khẳ năng trả nợ của khách hàng, các thiệt hại có thể xảy ra nếu khách hanhg không trả, hoặc không trả đầy đủ,… Với các khách hàng là hộ sản xuất kinh doanh, căn cứ trên các mẫu biểu sổ sách theo qui định, ngân hàng hướng dẫn hộ lập báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh và bảng cân đối kế toán của hộ. Với khách hàng là cá nhân, hồ sơ sẽ gồm những tài liệu chứng minh tài sản cá nhân, lương và các thu nhập khác. 1.2.2.Các phương pháp phân tích tài chính của khách hàng. Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tài chính doanh nghiệp Hiện nay các NHTM thường sử dụng hai phương pháp phân tích tài chính đó là phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ. ỗPhương pháp so sánh: Một chỉ tiêu tài chính đơn thuần chưa thể hiện đầy đủ mức độ đạt được của doanh nghiệp như thế nào, chỉ thông qua so sánh ta mới thấy sự tăng trưởng phát triển hay suy thoái của chỉ tiêu đó. Để thực hiện được phương pháp so sánh, cần phải thống nhất các điều kiện so sánh về không gian, thời gian, nội dung, đơn vị tính… và tuỳ theo mục đích so sánh để xác định gốc so sánh là kỳ báo cáo hay kỳ kế hoạch, số tuyệt đối, số tương đối hay số bình quân. Nội dung so sánh gồm: So sánh số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy được xu hướng thay đổi về tài chính của khách hàng, qua đó đánh giá sự tăng trưởng hay đi xuống trong hoạt động kinh doanh của khách hàng. So sánh số liệu của khách hàng với số liệu trung bình của ngành, và với số liệu của khách hàng khác để đánh giá tình hình tài chính của khách hàng là tốt hay xấu. So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của từng chỉ tiêu trong tổng thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số tuyệt đối và số tương đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp. ỗPhương pháp phân tích tỷ lệ: Phương pháp này dựa trên các chuẩn mực của các tỷ lệ đại lượng tài chính. Sự biến đổi của các tỷ lệ phản ánh sự biến đổi của các đại lượng tài chính. Vì vậy thông qua phân tích tỷ lệ để xác định và so sánh các đinh mức hoặc các ngưỡng làm cơ sở đánh giá tình hình, so sánh các tỷ lệ của khách hàng đã tính toán với các tỷ số tham chiếu. Như vậy phương pháp so sánh luôn được phối hợp với phương pháp tỷ lệ. Các nhóm tỷ lệ chủ yếu được dùng trong phân tích tài chính của khách hàng gồm 4 nhóm: Nhóm các tỷ số về khả năng thanh toán Nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn Nhóm tỷ số về khả năng hoạt động Nhóm tỷ số về khả năng sinh lãi 1.2.3.Quy trình phân tích tài chính của khách hàng tại NHTM. 1.2.3.1. Phân tích trước khi cho vay. Phân tích trước khi cho vay là bước quan trọng nhất, quyết định đến chất lượng của phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu là thu thập thông tin và xử lý thông tin liên quan đến khách hàng. Việc phân tích trong giai đoạn này tập trung vào phân tích khả năng sinh lợi, phân tích rủi ro từ đó xác định khả năng trả nợ của khách hàng. Khả năng sinh lợi của khách hàng cao thì khă năng trả nợ là cao và ngược lại vì khả năng sinh lợi của doanh nghiệp cho biết quy mô và tính chất lợi nhuận tạo ra. Để phân tích khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, Ngân hàng dựa vào các chỉ tiêu thể hiện trên báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và các tỷ lệ, chỉ tiêu thể hiện khả năng sinh lợi của của doanh nghiệp như: hệ số sinh lợi doanh thu, hệ số sinh lợi tài sản,… Rủi ro là khả năng mà một sự kiện không thuận lợi nào đó sẽ xuất hiện, rủi ro xảy ra cho doanh nghiệp cũng chính là rủi ro cho ngân hàng. Vì vậy trước khi đưa ra quyết định tài trợ nhất thiết ngân hàng phải phân tích rủi ro cho khoản vay đó. Để phân tích rủi ro, ngân hàng dựa vào các chỉ tiêu thể hiện trên bảng cân đối kế toán và các tỷ lệ thể hiện mức độ rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh như: tỷ lệ về khả năng thanh toán, tỷ lệ về năng lực hoạt động,… 1.2.3.2.Phân tích trong khi cho vay. Trong khi cho vay, quyền sử dụng vốn của ngân hàng đã được chuyển sang cho doanh nghiệp nhưng vẫn có quyền và nghĩa vụ kiểm tra, theo dõi món vay.Dưới góc độ của phân tích tài chính khách hàng, ngân hàng cần quan tâm đến các nội dung như: xác định nguồn trả nợ của doanh nghiệp, phân tích lại các chỉ tiêu thể hiện khả năng sinh lời, độ rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mục đích của việc phân tích trong khi cho vay là nhằm xác định xem khoản vay có vấn đề hay không, có quyết định tiếp tục hay chấm dứt mối quan hệ tín dụng đó. 1.2.3.3.Phân tích sau khi cho vay. Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Nếu một số trường hợp, các khoản tín dụng đã không hoàn trả hoặc hoàn trả không đúng hạn. Việc xem xét tìm nguyên nhân là rất quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định liên quan đến tính an toàn của khoản tín dụng. 1.2.4.Nội dung phân tích tài chính của khách hàng tại NHTM. 1.2.4.1.Phân tích các báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính là những báo cáo được lập dựa vào phương pháp kế toán tổng hợp số liệu từ các sổ sách kế toán, theo các chỉ tiêu tài chính phát sinh tại những thời điểm hoặc thời kỳ nhất định. Các báo cáo tài chính phản ánh một cách có hệ thống tình hình tài sản của đơn vị tại những thời điểm, kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình sử dụng vốn trong những thời kỳ nhất định. Các báo cáo tài chính được sử dụng để phân tích tại NHTM gồm Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Bảng cân đối kế toán: Là 1 báo cáo tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Như vậy bảng cân đối kế toán nhằm mô tả sức mạnh tài chính của doanh nghiệp tại một thời điểm. Người ta coi bảng cân đối kế toán như bức ảnh chụp nhanh, bởi nó được lập vào thời điểm cuối kỳ kế toán. Đây cũng chính là nhược điểm của bảng cân đối kế toán khi chúng ta sử dụng số liệu của nó để phân tích. Khi nhìn vào tổng tài sản và tổng nguồn vốn của doanh nghiệp trên bảng cân đối kế toán, ta có thể xác định được quy mô của doanh nghiệp; nhìn vào vốn chủ sở hữu ta xác định được khả năng tài chính và mức độ tự chủ của doanh nghiệp trên cơ sở đó xác định được khả năng vay nợ của doanh nghiệp vì yêu cầu về số lượng vốn chủ sở hữu là yêu cầu đầu tiên trong quá trình thẩm định tín dụng tại ngân hàng. Nhìn vào TSLĐ và TSCĐ sẽ xác định được lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp chẳng hạn như doanh nghiệp thuộc lĩnh vực thương mại thì phần TSLĐ phải chiếm tỷ trọng lớn hơn. Nhìn vào vốn trung và dài hạn( bao gồm vốn vay và vốn chủ sở hữu) có thể khái quát cơ cấu vốn, cơ cấu tài trợ của doanh nghiệp; nợ ngắn hạn ảnh hưởng tới vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp nên cũng ảnh hưởng tới quyết định của doanh nghiệp. Thông qua phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp, ngân hàng sẽ xác định khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp thông qua khả năng chuyển đổi vật tư, hàng hoá và tài sản thành tiền mặt trong kỳ. Tiếp theo, phân tích vốn lưu động thường xuyên là một nội dung quan trọng nhằm đánh giá xem doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay không? và TSCĐ của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không? Vốn lưu động thường xuyên= nguồn vốn dài hạn – TSCĐ =TSLĐ - nguồn vốn ngắn hạn Khi vốn lưu động thường xuyên < 0 tức là nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho TSCĐ, doanh nghiệp phải dùng một phần vốn ngắn hạn để đầu tư vào TSCĐ, TSLĐ không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, các cân thanh toán của doanh nghiệp mất cân đối, doanh nghiệp phải dùng một phần TSCĐ để thanh toán nợ ngắn hạn. Trong trường hợp này ngân hàng không nên cho vay vì nợ ngắn hạn của doanh nghiệp đang lớn mà TSCĐ thì không dễ chuyển thành tiền mặt để trả nợ Khi vốn lưu động thường xuyên > 0, tức là khả năng thanh toán của doanh nghiệp là tốt, doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng chú ý việc sử dụng lãng phí vốn. Phân tích nhu cầu vốn lưu động thường xuyên nhằm nghiên cứu tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần TSCĐ, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu( TSLĐ không phải là tiền có thể chuyển đổi nhanh để thanh toán). Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên= Tồn kho và các khoản phải thu- nợ ngắn hạn. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên < 0, tức là các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã thừa để tài trợ cho TSLĐ, doanh nghiệp không cần nhận thêm nguồn vốn ngắn hạn nữa. Tuy nhiên nếu vốn lưu động thường xuyên < 0 và nhỏ hơn cả nhu cầu vốn lưu động thường xuyên thì vốn bằng tiền âm, xảy ra tình trạng mất cân đối trong nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn( vốn ngắn hạn nhiều, vốn dài hạn ít) hoặc mất cân đối trong đầu tư dài hạn( đầu tư dài hạn quá nhiều). Cuối cùng, ngân hàng phải kiểm tra xem liệu bảng cân đối kế toán đã được kiểm toán hay chưa, nếu chứ được kiểm toán thì ngân hàng sẽ không thể xác định được liệu nợ phải trả đã quá hạn hay chưa? các tài sản đã cầm cố, thế chấp chưa?. ngoài ra, không thể xác định được bảng cân đối kế toán được lập vào thời điểm nào trong chu kỳ sản xuất kinh doanh. Phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tổng hợp nhất, phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ, chi tiết theo các hoạt động, tình hình thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác và tình hình về thuế giá trị gia tăng. Báo cáo này được trình bày theo mẫu số B02- DN. Mục tiêu của phân tích báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là xác định, phân tích mối quan hệ và đặc điểm của các chỉ tiêu trong báo cáo kết quả kinh doanh, so sánh chúng qua một số niên độ kế toán liên tiếp và số liệu trung bình của ngành để đánh giá kết quả kinh doanh và xu hướng biến động của các chỉ tiêu đó theo thời gian. Về phương pháp phân tích, sử dụng mẫu biểu đã được chuẩn hoá trong báo cáo kết quả kinh doanh, xác định tỷ trọng và tốc độ biến động theo thời gian để đánh giá về kết cấu và biến động, rút ra nhận xét và tìm nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với cán bộ tín dụng cần phân tích doanh thu thuần, lãi từ sản xuất kinh doanh, lãi sau thuế năm báo cáo so với năm trước hay trong 3 năm liên tục thì kết quả đánh giá khách quan hơn. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ(BCLCTT). BCLCTT là một báo cáo tìa chính phản ánh khoản thu và chi tiền trong kỳ của doanh nghiệp theo từng hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. Quản lý tiền đóng vai trò quan trọng trong quản lý tài chính. Nhiệm vụ chính của quản lý tiền là đảm bảo đủ tiền để thanh toán cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi đến hạn thanh toán. Trên góc độ ngân hàng, khi xem xét hiệu quả quản lý tiền của doanh nghiệp, ngân hàng cần phân tích BCLCTT trong mối quan hệ với các báo cáo tài chính khác. Việc theo dõi BCLCTT giúp cho ngân hàng: Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp trong quá khứ. Nguồn tiền của doanh nghiệp phát sinh từ hoạt động nào và có phù hợp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không ? Dự báo hoạt động tương lai của doanh nghiệp + Nếu doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức hiện nay, tình hình lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ như thế nào? +Dòng tiền vào ra của doanh nghiệp diễn ra như thế nào, căn cứ vào đó ngân hàng lên kế hoạch thu nợ phù hợp Đánh giá được sự thịnh vượng hay khó khăn của doanh nghiệp trong từng thời kỳ và nguyên nhân do đâu. Bằng cách nghiên cứu các luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, ngân hàng có thể xác định được khi nào thì doanh nghiệp có thặng dư tiền mặt để trả nợ và khi nào bội chi tiền mặt cần phải vay bù đắp. Đồng thời qua nghiên cứu luồng tiền và các khoản dễ dàng chuyển đổi thành tiền, ngân hàng sẽ xác định được khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp. 1.2.4.2.Phân tích các chỉ tiêu tài chính. Trong phân tích tài chính, các tỷ số tài chính chủ yếu thường được phân thành 4 nhóm: ữNhóm tỷ số về khả năng thanh toán: Đây là nhóm ._.chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. - TSLĐ bao gồm các khoản vốn bằng tiền, đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho và TSLĐ khác. Nợ ngắn hạn là các khoản nợ phải trả trong năm bao gồm: vay ngắn hạn, vay dài hạn đến hạn trả và các khoản phải trả khác. Các TSLĐ và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định-tới một năm. Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngân hàng được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó. Tỷ lệ này > 1 là tốt. Tuy nhiên khi đánh giá chỉ tiêu này cần loại trừ các khoản nợ khó đòi trong TSLĐ. Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi đến hạn, các nhà phân tích còn quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động dòng hay vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp. Nó được xác định là phần chênh lệch giữa tổng tài sản và tổng nợ ngắn hạn, hoặc là phần chêch lệch giữa vốn thường xuyên ổn định với tài sản cố định dòng. Khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và khả năng nắm bắt thời cơ thuận lợi của doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào vốn lưu động dòng. Khả năng thanh toán nhanh = TSLĐ - Dự trữ Nợ ngắn hạn Hệ số này đánh giá khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, thể hiện khả năng về tiền mặt và các loại tài sản có thể chuyển ngay thành tiền để thanh toán cho các khoản nợ đến hạn. Tỷ lệ này cho biết một (đồng) nợ ngân hàng được đảm bảo bằng bao nhiêu đồng TSLĐ dòng cho nên tỷ lệ này càng cao càng tốt. Nhưng nếu quá cao cũng không tốt, thể hiện lượng tiền quá nhiều, gây hiện tượng sử dụng vốn không hiệu quả. Tỷ số dự trữ ( tồn kho) trên vốn lưu động dòng : Tỷ số này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm vốn lưu động dòng. Nó được tính bằng cách chia dự trữ( tồn kho) cho vốn lưu động dòng. ữCác tỷ số về khả năng cân đối vốn. Vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn tự có và vốn đi vay. Nguồn vốn và cấu thành hai loại vốn này xác định sự ổn định tài chính của doanh nghiệp. Thường thì trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp đều muốn sử dụng vốn tự có nhỏ nhất bởi vì: Khi sử dụng vốn vay DN sẽ được hưởng một khoản tiết kiệm nhờ thuế, mặt khác nếu doanh nghiệp chỉ góp 1 phần vốn trong hoạt động kinh doanh thì rủi ro sẽ do người vay gánh chịu là chủ yếu. Trong khi đó doanh nghiệp nắm phần lợi rõ rệt, doanh nghiệp chỉ cần bỏ ra một số vốn ít nhưng được quyền sử dụng một lượng tài sản lớn để kinh doanh mà không phải chia sẻ quyền kiểm soát. Đặc biệt khi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đang phát triển, lãi thu được trên tiền vay lớn hơn lãi suất tiền vay, lợi nhuận dành cho chủ doanh nghiệp tăng gấp bội. Ngược lại đối với người cho vay thì rủi ro tiềm ẩn là rất lớn, nếu hoạt động kinh doanh thua lỗ thì họ sẽ là người gánh chịu tổn thất nặng nề nhất. Vì vậy khi cho vay ngân hàng cần quan tâm đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp xem vốn chủ sở hữu chiếm bao nhiêu, khả năng thanh toán lãi vay đến mức nào. Một số chỉ tiêu mà ngân hàng quan tâm. - Tỷ số nợ trên tổng tài sản( hệ số nợ)= Thông thường các chủ nợ thích tỷ số nợ trên tổng tài sản vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Nếu tỷ số nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Một tỷ số nợ quá hạn có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng 0.5 được coi là lý tưởng vì nó cho thấy có ít nhất phân nửa tài sản của doanh nghiệp được hình thành bằng vốn chủ sở hữu. - Tác dụng phân tích tương tự chỉ tiêu này là chỉ tiêu tỷ lệ tự tài trợ. Tỷ lệ tự tài trợ = Vốn chủ sở hữu Tổng nguồn vốn Tỷ số này cho biết tổng số vốn doanh nghiệp chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng số vốn mà doanh nghiệp đưa vào sản xuất kinh doanh. Tỷ số này càng lớn càng có sự đảm bảo cao cho các khoản nợ vay. -Khả năng thanh toán lãi vay Khả năng thanh toán lãi vay= Lãi vay hàng năm là chi phí tài chính cố định và chúng ta muốn biết công ty sẵn sàng trả lãi đến mức nào. Cụ thể hơn chúng ta muốn biết rằng liệu số vốn đi vay có thể sử dụng tốt đến mức nào, có thể đem lại lợi nhuận bao nhiêu và đủ bù đắp lãi vay hay không. Tỷ lệ này cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo bằng khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Số tiền thu nhập trước khi trả thuế thu nhập doanh nghiệp và các khoản tiền lãi vay là số tiền sẵn sàng để thanh toán tiền lãi cho các khoản nợ vay. Tỷ lệ này càng lớn càng tốt. Ngoài ra có thể xem xét khả năng trả nợ bằng cách so sánh lãi vay với doanh thu thuần. Theo kinh nghiệm thực tế, người ta cho rằng tỷ lệ này phải dưới mức 3%, tỷ lệ này cao sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. ữNhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động. Nhóm chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như TSCĐ, TSLĐ. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp .Chỉ tiêu doanh nghiệp chủ yếu trong tính toán các tỷ số này để xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Vòng quay tiền = Doanh thu thuần TSLĐ bình quân Tỷ số này cho biết vòng quay của tiền trong năm tức là số lần tất cả số vốn đầu tư được chuyển thành thanh toán tiền mặt. Chỉ số này thấp thì vốn đầu tư không được sử dụng một cách có hiệu quả, và có khả năng khách hàng dự trữ hàng hoá quá nhiều hay tài sản không được sử dụng hoặc đang vay mượn quá mức. Vòng quay dự trữ( tồn kho) = Số vòng quay hàng tồn kho là một tiêu chuẩn đánh giá công ty sử dụng hàng tồn kho của mình hiệu quả như thế nào. Hệ số này cao hay thấp còn phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng nói chung nếu vòng quay hàng tồn kho cao thì việc kinh doanh thường được đánh giá là tốt. Nếu hệ số này thấp, có nghĩa là hàng tồn kho nhiều, nguyên nhân có thể là chất lượng hàng hoá thấp, giá thành cao, mẫu mã không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. -Kỳ thu tiền bình quân. Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu Doanh thu bình quân theo ngày Các khoản phải thu là những hoá đơn bán hàng chứ thu tiền về do công ty thực hiện chính sách bán chịu và các khoản tạm ứng chưa thanh toán, khoản trả trước cho người bán. Kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách bán chịu của công ty. Nếu kỳ thu tiền bình quân thấp thì hiệu quả sử dụng vốn kém do vốn bị chiếm dụng nhiều. Nhưng nếu kỳ thu tiền bình quân quá cao thì sẽ giảm sức cạnh tranh dẫn đến giảm doanh thu. - Hiệu suất sử dụng TSCĐ: Chỉ tiêu này cho biết một đồng TSCĐ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm. Hiệu suất sử dụng TSCĐ= TSCĐ ở đây được xác định theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo. Tỷ lệ này thấp thể hiện hoạt động chưa hết khả năng, tỷ lệ này nếu quá cao cho thấy doanh nghiệp đầu tư quá ít cho TSCĐ Hiệu suất sử dụng tổng tài sản. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản= Chỉ tiêu này còn gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. ữCác tỷ số về khả năng sinh lãi: Các tỷ số này phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm= Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng lợi nhuận sau thuế trong doanh thu của doanh nghiệp. Doanh lợi vốn chủ sở hữu(ROE) ROE = Thu nhập sau thuế Vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp Doanh lợi tài sản (ROA) ROA= hoặc ROA= Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Trên đây là những chỉ tiêu và nhóm chỉ tiêu được ngân hàng sử dụng trong phân tích tài chính của khách hàng. Tuỳ thuộc loại cho vay: ngắn hạn hay trung và dài hạn mà ngân hàng có thể có tập trung phân tích vào chỉ tiêu, nhóm chỉ tiêu nào. +Nếu là những khoản cho vay ngắn hạn: Mục đích sử dụng các khoản vay ngắn hạn của doanh nghiệp là để tài trợ cho nhu cầu TSLĐ thời vụ, chủ yếu là hàng tồn kho và các khoản phải thu. Sau khi các khoản này được giải phóng thành tiền thì khoản vay cũng được hoàn trả. Như vậy nguồn trả nợ chính cho các khoản vay ngắn hạn là từ doanh thu bán hàng. Vì vậy, khi phân tích tài chính của khách hàng, ngân hàng phải đánh giá các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, sau đó là các chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho, kỳ thu tiền bình quân. +Nếu là những khoản cho vay trung và dài hạn: Các khoản vay này dùng chủ yếu cho nhu cầu TSCĐ và TSLĐ thường xuyên, nguồn trả nợ chính cho các khoản vay này thường là phần tăng thêm trong vốn chủ sử hữu của doanh nghiệp, được tạo thành từ lợi nhuận sau thuế và nguồn khấu hao. Khi phân tích tài chính, ngân hàng quan tâm đến khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn trả vốn và lãi sẽ tuỳ thuộc vào khả năng sinh lời này. Kỹ thuật phân tích thay đổi theo bản chất và theo thời hạn của khoản vay, nhưng dù cho đó là cho vay dài hạn hay cho vay ngắn hạn thì ngân hàng đều quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay. Tóm lại, thông qua phân tích tình hình tài chính của khách hàng, NHTM có thể biết được một phần tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính khả quan hay khó khăn, xu hướng phát triển của đơn vị như thế nào để từ đó có quyết định cho vay đúng, đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn, đủ cả gốc và lãi. Tuy nhiên, việc phân tích tình hình tài chính của khách hàng chỉ hữu ích khi các số liệu báo cáo phải đảm bảo chính xác. Trong điều kiện nước ta hiện nay, khi mà việc thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê chưa dược chấp hành nghiêm chỉnh thì đòi hỏi cán bộ tín dụng phải thẩm định tính chính xác của số liệu báo cáo và cần phải kết hợp chặt chẽ giữa phân tích tình hình tài chính với các thông số phi tài chính để đưa ra những kết luận xác đáng về doanh nghiệp mà ngân hàng đã và sẽ quan hệ làm ăn với họ. Chương 2. Thực trạng phương pháp phân tích tài chính của khách hàng tại SGDI- NHĐT&PT Việt Nam. 2.1.Giới thiệu khái quát về SGDI- NHĐT&PT Việt Nam. 2.1.1.Lịch sử hình thành và phát triển của SDGI-NHĐT&PT Việt Nam. Được thành lập ngày 26/04/1957, ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) là một doanh nghiệp nhà nước đặc biệt, với chức năng chủ yếu ban đầu là cấp phát theo công trình và dự án nhà nước. Trải qua gần 50 năm, giờ đây BIDV đã phát triển thành một trong những ngân hàng thương mại lớn nhất ở Việt Nam hoạt động kinh doanh đa năng trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng, phục vụ các khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, phục vụ cho đầu tư phát triển từ các nguồn vốn của Chính phủ, các tổ chức kinh tế tài chính - tín dụng trong và ngoài nước. Khi BIDV chuyển sang hoạt động theo mô hình của một ngân hàng thương mại, đòi hỏi cần phải có một mô hình kinh doanh mới và vì thế Sở Giao Dịch ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam (SGD) được thành lập theo QĐ76-TCCB ngày 28/3/1991 của Tổng giám đốc ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam với mô hình gọn nhẹ chỉ có 10 phòng với số nhân viên khoảng 80 người. Hơn nữa, SGD còn là một bộ phận kinh doanh trực tiếp của ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam, có sức mạnh lớn nhất mà không một chi nhánh nào có được, là nơi thử nghiệm mọi nghiệp vụ mới của toàn ngành và của ngân hàng. Quá trình hình thành và phát triển của SGD có thể được chia thành các giai đoạn sau: + Giai đoạn 1991 - 1994: Đây là giai đoạn BIDV thực hiện chức năng của một ngân hàng phát triển, chủ yếu cấp phát và cho vay đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch nhà nước. Trong giai đoạn này, SGD có nhiệm vụ kinh doanh trực tiếp với khách hàng thuộc kinh tế trung ương, khách hàng chính của SGD trong giai đoạn này là các ban quản lý công trình và một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp. + Giai đoạn 1995 - 1997: Năm 1995 như là một bước ngoặt đánh dấu hoạt động kinh doanh của BIDV theo một chiều hướng khác, từ chỗ chủ yếu thực hiện kinh doanh theo kế hoạch của nhà nước , BIDV đã độc lậpđúng ra kinh doanh như một ngân hàng thương mại đa năng, tổng hợp. Đối với SGD đây là gia đoạn mới gia nhập thị trường, bắt đầu thực hiện các hoạt động nghiệp vụ của một ngân hàng thương mại. + Giai đoạn 1998 đến nay: Đây là giai đoạn toàn hệ thống ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam nói chung và SGD nói riêng có cơ cấu tổ chức và quy chế hoạt động tương đối hoàn thiện, chức năng nhiệm vụ được phân định rõ ràng. SGD đã dần dần khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong toàn hệ thống và trên địa bàn. Trong giai đoạn này hoạt động của SGD đã được đa dạng hoá với nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng, thị trường tín dụng và huy động vốn khá rộng, các tiện ích của khách hàng được đáp ứng chu đáo và đầy đủ. Mặt khác, với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, hoạt động của SGD đã được tin học hoá, công nghệ ngân hàng cũng từng bước hiện đại hơn khiến cho SGD đã ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên thị trường. Nói tóm lại, SGD là đại diện pháp nhân của ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam, có con dấu riêng, có trụ sở chính đặt tại 53 Quang Trung, Hà Nội. SGD phải làm tất cả các nhiệm vụ mà trung ương giao, cụ thể là có nghĩa vụ sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn cùng các nguồn lực khác được giao để thực hiện các mục tiêu kinh doanh và các nhiệm vụ do ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam giao; xây dựng kế hoạch dài hạn, kế hoạch hàng năm về hoạt động kinh doanh phù hợp với chiến lược phát triển của toàn ngành và của chính ngân hàng. Bên cạnh đó, SGD còn hoạt động kinh doanh như một chi nhánh lớn của hệ thống ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam. Sở được quyền từ chối quan hệ tín dụng và quan hệ kinh doanh khác đối với khách hàng khi xét thấy việc cho vay hoặc cung cấp dịch vụ ngân hàng không đem lại hiệu quả kinh tế, không có khả năng thu hồi vốn hoặc không an toàn theo quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng. 2.1.2.Cơ cấu tổ chức và các hoạt động chủ yếu của Sở giao dịch 2.1.2.1 Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch Mô hình tổ chức của Sở Giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được xây dựng theo mô hình hiện đại hoá ngân hàng, theo hướng đổi mới và tiên tiến, phù hợp với quy mô và đặc điểm hoạt động của chi nhánh.Với mô hình tổ chức đến cuối năm 2003 gồm 14 đơn vị với 2 phòng giao dịch với đội ngũ hơn 270 cán bộ, nhân viên, Sở giao dich là một chi nhánh thuộc hệ thống BIDV với đầy đủ chức năng của một đơn vị thành viên trong hệ thống BIDV. Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch được trình bày theo sơ đồ sau: Ban giám đốc Phòng tín dụng 1,2 Phòng thanh toán quốc tế Phòng dịch vụ khách hàng cá nhân Phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp Phòng tiền tệ kho quỹ Phòng kế hoạch nguồn vốn Phòng thẩm định quản lý tín dụng Phòng tài chính kế toán Phòng điện toán Phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ Phòng tổ chức hành chính Phòng giao dịch 1,2 Ban Giám đốc của Sở giao dịch hiện nay gồm 4 người (1 Giám đốc và 3 Phó Giám đốc). Các phòng ban của Sở giao dịch được tổ chức sắp xếp theo Quyết định số 916/QĐ-TCHC của Giám đốc Sở Giao dịch ngày 08/09/2003. 2.1.2.2 Khái quát hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch ỉCông tác huy động vốn. SGD luôn coi việc tăng trưởng nguồn vốn là nhiệm vụ hàng đầu, nên luôn chủ trương mở rộng tất cả các hình thức huy động như : + Nhận tiền gửi thanh toán có kỳ hạn, không kỳ hạn. + Nhận tiền gửi tiết kiệm với kỳ hạn đa dạng, phong phú. + Huy động trái phiếu, kỳ phiếu với các loại kỳ hạn. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, quyết liệt giữa các ngân hàng thương mại (đặc biệt là mức huy động vốn VNĐ trên địa bàn Hà Nội trong thời gian gần đây), với vai trò là đơn vị đầu tầu của toàn hệ thống, SGD luôn theo dõi sát sao thị trường tài chính, nhận định và dự trù thu chi để đưa ra mức lãi suất hợp lý với tính hấp dẫn cao. Lãi suất huy động VNĐ và ngoại tệ được áp dụng kể từ ngày 16/10/2003. Kỳ hạn Lãi suất (% năm) Phương thức trả lãi VNĐ USD EUR Không kỳ hạn 2.40 1.00 0.50 Trả lãi 1 lần khi đến hạn. Hết hạn khách hàng không rút, ngân hàng chuyển cả gốc và lãi sang kỳ hạn tiếp theo với lãi suất tại thời điểm chuyển. 01 tháng 4.20 - 1.20 02 tháng 4.80 - 1.40 03 tháng 6.00 1.20 1.60 06 tháng 6.24 1.35 1.80 09 tháng 6.60 1.60 1.80 12 tháng 6.96 1.90 1.90 Nhìn chung mức lãi suất mà SGD đưa ra không phải là cao nhất trong toàn hệ thống ngân hàng (đứng thứ hai trong bốn ngân hàng thương mại quốc doanh nhưng lại thấp hơn so với một số ngân hàng thương mại cổ phần như NHTMCP Quân đội, Vpbank,.. ....). Mặc dù vậy, nhờ vào uy tín của mình, SGD đã khiến cho nó trở thành một mức lãi suất có sức hấp dẫn khá lớn. Bên cạnh đó, các chính sách đãi ngộ khách hàng được thực hiện khá tốt như tài khoản được mở miễn phí, thủ tục mở tài khoản đơn giản và nhanh gọn, việc thanh toán được tiến hành nhanh chóng đến các tỉnh thành phố trên toàn quốc có kèm theo nhiều dịch vụ hỗ trợ khác (như ATM, Home-banking..). Có thể nói BIDV là một trong những ngân hàng có mạng lưới lớn nhất ở Việt Nam, không những thế BIDV còn thực hiện thanh toán liên ngân hàng với gần hết hệ thống ngân hàng, vì thế việc giao dịch và thanh toán được tiến hành rất nhanh chóng và thuận tiện. Chính nhờ những ưu điểm đó đã khiến BID nói chung và SGD nói riêng có kết quả huy động vốn rất khả quan. Tính đến 31/12/2003, số dư huy động của SGD là 10.850 tỷ trong đó hơn 3.000 tỷ là huy động từ dân cư, tăng gần 10% so với năm trước. Công tác nguồn vốn bao gồm cân đối và sử dụng vốn hàng ngày linh hoạt, chặt chẽ đã đảm bảo khá tốt khả năng thanh toán thường xuyên. SGD đã mở thêm 3 điểm huy động vốn mới đồng thời triển khai nhiều hình thức huy động mới, huy động tiền gửi tiết kiệm tích luỹ... nhằm thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trên mọi kênh. Công tác marketing tuy còn chưa được chú trọng nhưng cũng đang từng bước được thực hiện, nhờ vậy mà thị phần huy động vốn trên địa bàn vẫn giữ vững ở mức 7% trong tổng nguồn huy động của ngành ngân hàng Hà Nội (144.100) tỷ. ỉ Công tác tín dụng. Sở thực hiện nghiêm túc luật các TCTD, quy chế uỷ quyền, quy trình nghiêp vụ. Thường xuyên kiểm tra chất lượng tín dụng, nghiên cứu , phân tích, đánh giá khách hàng từ nhiều kênh thông tin, xây dựng các hệ thống chỉ tiêu đánh giá khách hàng, nâng cao chất lượng tín dụng, thực hiện kế hoạch kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay; nắm vững hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tích cực đẩy mạnh cho vay ngắn hạn, mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ, công ty cổ phần, công ty TNHH hoạt động có hiệu quả, có tài sản đảm bảo chắc chắn bên cạnh việc duy trì cho vay các doanh nghiệp nhà nước, đa dạng hoá các loại hình cho vay, phân tán rủi ro tránh tập trung tín dụng vào một loại hình doanh nghiệp. Chú trọng công tác Marketing, chủ động tìm kiếm các khách hàng tốt, các dự án khả thi; thực hiện hoàn thiện hồ sơ vay vốn kịp thời không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Bám sát các dự án trọng điểm lớn như : dự án đầu tư nhà máy xi măng Thái nguyên của TCT XDCN VN, đầu tư nhà máy nhiệt điện Cẩm phả của TCT Than VN. Giải ngân các hợp đồng trung dài hạn đã ký: dự án thuỷ điện Cần Đơn của TCT xây dựng sông Đà, dự án nâng cấp một phần năng lực nhà máy đóng tàu Hạ Long, dự án đầu tư cẩu thép của Constrrexxim Holdings, dự án thiết bị thi công, sản xuất vật liệu xây dựng, đầu tư cơ sở hạ tầng, các công trình thuỷ điện, chế tạo thiết bị...của một số TCT và doanh nghiệp làm ăn có hiệu qủa, tín nhiệm, các doanh nghiệp liên doanh nước ngoài có khả năng trả nợ và có đủ tài sản đảm bảo. Cơ cấu tín dụng theo loại tiền cũng như theo kỳ hạn đã và tiếp tục được cải thiện theo hướng thuận lợi, hợp lý,. Hiện nay cơ cấu tín dụng là: + Năm 2003: Cho vay ngắn hạn/ Tổng dư nợ = 15, 96% (Năm 2002 tỷ trọng này là 13,69%). +Năm 2003: Cho vay trung dài hạn / Tổng dư nợ = 84, 04% ( Năm 2002 tỷ trọng này là 86,31%) + Tỷ lệ dư nợ vay ngoài quốc doanh trung bình chiếm 10% trên tổng dư nợ, tăng 8% so với dư nợ vay năm 2002. - Đến 31/12/2003 tổng dư nợ tín dụng ước đạt 5.440 tỷ đồng (không tính nợ khoanh, nợ TTUT). Trong đó: +Tín dụng trung dài hạn theo KHNN và CĐ là 1.717 tỷ đồng, thu nợ tín dụng ĐTXDCB theo KHNN 179,69 tỷ đồng đạt 109,57% kế hoạch TW giao (164 tỷ); thu nợ chỉ định là 100 tỷ đồng đạt 781,25% kế hoạch giao (12,8 tỷ). + Tín dụng trung dài hạn thương mại đạt 3.348 tỷ đồng, chiếm 61,54% tổng dư nợ ( không tính TTUT) tại Sở giao dịch. + Tín dụng ngắn hạn đạt 977 tỷ đồng, tăng 6,57% so với cuối năm 2002. + Dư nợ TTUT là 40.726 tỷ đồng. + Tổng số nợ quá hạn ước khoảng 82 tỷ đồng, trong đó nợ qúa hạn thương mại là 63 tỷ đồng, tỷ lệ nợ quá hạn tính trên tổng dư nợ là 0.18% Công tác thu nợ: Thực hiện theo chỉ đạo của NHĐT & PT TW, Sở giao dịch đã thực hiện tốt công tác thu nợ, luôn phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao, tính đến 31/12/2003 thu được 179,69 tỷ đồng tín dụng KHNN ( hoàn thành 109,57 % kế hoạch), 100 tỷ đồng tín dụng chỉ định (kế hoạch là 12,8 tỷ ). Tập trung thu nợ, xử lý các khoản nợ có vấn đề, nợ khó đòi, áp dụng các biện pháp linh hoạt để tận thu các khoản nợ tồn đọng. Thường xuyên kiểm tra, xem xét thực trạng tài sản thế chấp tìm biện pháp quản lý chặt chẽ. Cụ thể như sau: Sở giao dịch đã thu được gốc và lãi của khoản nợ quá hạn vay theo chỉ định của Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng 6 triệu USD; thu được 20.000 USD từ nợ khó đòi của Công ty đầu tư và xây dựng Vạn Xuân. Bên cạnh đó, SGD còn có chính sách ưu đãi đặc biệt về lãi suất, hạn mức, phí giao dịch đối với các khách hàng có năng lực, uy tín và quan hệ vay trả sòng phẳng. Tuy nhiên, do đặc thù là một SGD lớn, Sở hầu như chỉ chú trọng đến các khách hàng là những doanh nghiệp lớn, còn những doanh nghiệp vừa và nhỏ, các khách hàng cá nhân vay với số lượng nhỏ thì gần như bỏ ngỏ thị trường này, vì thế kết quả huy động của SGD mới chỉ đạt mức như hiện nay. Với đội ngũ cán bộ năng động, Sở thường xuyên thực hiện đa dạng hoá khách hàng và nâng cao chất lượng tín dụng, công tác kiểm tra việc sử dụng vốn vay nhất là những khoản nợ quá hạn khó đòi được thực hiện sát sao. Đến 31/12/2003 SGD đã thu được từ nợ quá hạn theo tín dụng chỉ định là 100 tỷ, đạt 781% kế hoạch (12,8%). Tỷ lệ dư nợ quá hạn được kiểm soát và cải thiện theo chiều hướng tích cực. Chênh lệch thu chi đạt 200 tỷ, vượt 48% so với kế hoạch được giao. Sở đã thực hiện nghiêm túc các quy định và hướng dẫn của ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam về chuyển nợ quá hạn theo quyết định 1627-NHNN nhờ vậy mà SGD đã trở thành đơn vị hàng đầu trong hệ thống về việc xử lý nợ quá hạn. ỉCông tác dịch vụ khách hàng. Trong năm qua, SGD được đánh giá là một ngân hàng có chất lượng dịch vụ thanh toán tốt, chính xác và nhanh chóng.. .Thu ròng từ hoạt động dịch vụ liên tục tăng trong các năm gần đây. Tính riêng trong năm 2003 lượng thu này đạt 27,4 tỷ đồng tăng 11,48 % so với kế hoạch và tăng 32,24% so với năm 2002. Các dịch vụ như bảo lãnh, thanh toán trong nước, chi trả tiền kiều hối, kinh doanh ngoại tệ có chiều hướng tăng trưởng mạnh. Công tác bảo lãnh: Doanh số bảo lãnh quy đổi đến 31/12/2003 đạt 3.161 tỷ, tăng 255,17% so vớí năm trước. Thu từ dịch vụ bảo lãnh đạt 10.401 tỷ chiếm 47.277% tổng thu dịch vụ. Trên quan điểm hoạt động bảo lãnh là hình thức tín dụng không dùng tiền của ngân hàng, thời gian qua SGD tập trung đẩy mạnh hoạt động bảo lãnh, tăng thu dịch vụ. Với lợi thế là uy tín của SGD đang ngày càng cao đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, nhất là các nhà đầu tư. SGD luôn đáp ứng cao yêu cầu của khách hàng, thực hiện tốt công tác tư vấn. Công tác bảo lãnh đảm bảo an toàn 100%, không pháp sinh rủi ro và các khoản phải thanh toán thay người được bảo lãnh. Công tác thanh toán quốc tế: Năm 2003 khối lượng giao dịch thanh toán hàng xuất khẩu thực hiện tại Sở cũng như số lượng chuyển tiền đi và chuyển tiển đến năm 2003 tăng so với năm 2002 cả về số món và doanh số. Mặc dù hoạt động thanh toán quốc tế tại SGD gặp nhiều khó khăn do mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt cả về lãi suất cũng như mức phí thanh toán làm cho tâm lý khách hàng giao động dẫn tới chuyển địa điểm thanh toán tại nhiều ngân hàng, nhưng SGD vẫn cố gắng và đã giữ ổn định số khách hàng của mình, không những thế còn phát triển thêm được một số khách hàng mới như: công ty sơn Việt Mỹ, công ty XNK khoáng sản ... Với nỗ lực và cố gắng cao, hoạt động thanh toán quốc tế đạt kết quả tương đối tốt: tổng doanh số đạt 480 triệu USD, trong đó doanh số thanh toán XNk đạt 340 triệu USD bằng 102% so với năm 2002 và đặt 125% kế hoạch năm. Lượng phí thu về khoảng 7,65 tỷ VND. Kinh doanh ngoại tệ: Năm 2003 kinh doanh ngoại tệ nói chung trên địa bàn và của SGD nói riêng găp không ít khó khăn do tình hình kinh tế chính trị của một số quốc gia trên không ổn định, thêm vào đó dịch bệnh hoành hành làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn ở trạng thái giao động mạnh và khó kiểm soát. tỷ giá công bố của NHNN với tỷ giá mua bán thực tế trên thị trường liên ngân hàng luôn có sự chênh lệch lớn gây nhiều khó khăn cho hoạt động kinh doanh tiền tệ, đặc biệt là trong khoảng thời gian cuối năm 2003. không chỉ đồng USD mà các ngoại tệ khác như EUR, JPY .. .. cũng có nhiều biến động khó lường. Thêm vào đó, bắt đầu từ thang 10/2003 SGD triển khai chương trình hiện đại hoá ngân hàng, áp dụng theo chương trình BDS nên bước đầu việc phân định chức năng các phòng chưa rõ ràng do đó công tác quản lý nguồn cũng như trạng thái ngoại tệ gặp nhiều khó khăn, tuy vậy SGD vẫn đảm bảo tuân thủ đầy đủ các quy định về trạng thái ngoại tệ của NHNN cũng như của NHĐT&PTTW, định kỳ khái thác và đưa ra các thông tin về biến động tỷ giá cũng như lãi suất của các loại ngoại tệ phục vụ cho hoạt động kinh doanh tại SGD. Kết quả mà SGD đạt được trong hoạt động này nhờ đó cũng rất đáng khích lệ: doanh số mua bán ngoại tệ năm 2003 đạt 388.600 ngàn USD, thu lợi nhuận ròng từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ đạt 5 tỷ đồng; các hoạt động thu đổi ngoại tệ, thanh toán thẻ Visa, Master Card .. ..được thực hiện tốt. Ngoài ra, các dịch vụ như dịch vụ chứng khoán, bảo hiểm, vận chuyển tiền, dịch vụ ngân quỹ - tiền mặt, giữ hộ các giấy tờ có giá và một số các dịch vụ tư vấn khác cũng đem lại kết quả rất khả quan, nó không những đem lại một lượng phí đáng kể mà còn củng cố thêm uy tín cho SGD. 2.2.Thực trạng phân tích tài chính của khách hàng tại Sở giao dịch I- NHĐT&PT Việt Nam. Rủi ro tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu của tất cả các chủ thể kinh doanh tiền tệ trong nền kinh tế thị trường, không nằm ngoài quy luật đó Sở giao dịch I-NHĐT&PT Việt Nam bên cạnh những thành tích và kết quả kinh doanh đạt được thì vấn đề rủi ro tín dụng đối với ngân hàng là không thể tránh khỏi. Chính vì thế mà trong hoạt động cho vay của mình Sở giao dịch phải tuân thủ những quy trình, hướng dẫn của NHNN nói chung và của NHĐT&PT Việt Nam nói riêng. Hiện nay, tại sở giao dịch I- NHĐT&PT Việt Nam nói riêng và các ngân hàng khác trong hệ thống NHĐT&PT Việt Nam, trình tự và thủ tục cấp một khoản vay được ban hành chính thức bằng các văn bản có liên quan như: “Quy trình nghịêp vụ cho vay “, “Hướng dẫn thực hiện quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng”.... Việc phân tích tài chính của khách hàng nhằm : Đánh giá chính xác năng lực tài chính của khách hàng Khả năng độc lập, tự chủ tài chính trong kinh doanh Khả năng thanh toán và hoàn trả nợ của người vay Ngoài ra còn phải xác định chính xác số vốn của chủ sở hữu thực tế tham gia vào phương án xin vay ngân hàng theo quy định của chế độ cho vay. Đối tượng để tiến hành phân tích tài chính của khách hàng được hệ thống NHĐT&PT Việt Nam sử dụng là các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp trong hồ sơ vay vốn của mình, bao gồm Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, thuyế minh báo cáo tài chính, báo cáo lưu chuyển tiền tệ của ít nhất hai năm và quý gần nhất đối với khách hàng là pháp nhân. Đối với khách hàng là hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, cá nhân thì cần phải có bản thuyết trình khả năng tài chính. Nội dung phân tích tài chính của khách hàng được thực hiện theo quy trình trước-trong-sau khi cho vay. Phương pháp được sử dụng là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ. 2.2.1.Nội dung phân tích tài chính của khách hàng tại SGDI-NHĐT&PT . Nội dung phân tích tài chính của khách hàng tại Sở giao dịch I- NHĐT&PT Việt Nam được thực hiện trước hết là thẩn định các thông số trên báo cáo tài chính, sau đó là tính toán và phân tích các tỷ số tài chính. Đối với bảng cân đối kế toán ngân hàng quan tâm đến các chỉ tiêu: ỉ Vốn chủ sở hữu: Khả năng tài chính của mỗi một doanh nghiệp được thể hiện ở vốn chủ sở hữu, tuỳ thuộc vào ngành nghề kinh doanh mà quy mô vốn chủ sở hữu đến đâu là phù hợp, vốn chủ sở hữu cũng là hình thức tự bảo hiểm cho hoạt động của doanh nghiệp. Sở giao dịch phân tích vốn chủ sở hữu tập trung vào các nội dung: quy mô, tình hình tăng giảm vốn chủ sở hữu và nguyên nhân dẫn đến sự tăng giảm đó để từ đó xác định chính xác giá trị vốn chủ sử hữu. Xác định chính xác giá trị vốn chủ sở hữu còn có ý nghĩa trong phân tích tính toán các tỷ lệ sau này. ỉ Nợ phải trả, trong đó có nợ vay các tổ chức tín dụng-ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, có nợ quá hạn không; nợ vay cá nhân hoặc các tổ chức khác, các khoản nợ phải trả khác- trong đó có nợ ngân sách. Số dư bảo lãnh tại các ngân hàng-trong đó ngân hàng phải trả thay, các khoản phải thu,...cũng là những nội dung được phân tích. Đối với báo cáo kết quả kinh doanh: Sở giao dịch chú ý đến các chỉ tiêu chính như lợi nhuận trước thuế, doanh thu thuần, chí phí trả lãi vay... Sau khi phân tích đánh giá khái quát các nội dung trên, Sở giao dịch tiến hành phân tích các chỉ tiêu tài chính. Các nhóm chỉ tiêu và chỉ tiêu Sở giao dịch thường sử dụng phân tích là: @Đối với các khoản cho vay ngắn hạn. Nhóm chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán. F Thước đo tiền mặt= tồn quỹ tiền mặt bình quân + nhưng tài sản có thể chuyển thành tiền nhanh chóng. Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ thường xuy._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0135.doc