LỜI MỞ ĐẦU
Không ai có thể phủ nhận, DNVVN đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế của các quốc gia. Ở Việt Nam, DNVVN chiếm 90% trong tổng số 90 vạn doanh nghiệp của cả nước, mỗi năm đóng góp khoảng 30% GDP. Họ góp khoảng 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá và 100% giá trị sản lượng hàng hoá một số ngành như: chiếu cói, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ.
Trước đây, các ngân hàng tranh giành gay gắt thị phần doanh ng
95 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1210 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện phương pháp chấm điểm tín dụng Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (HabuBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệp nhà nước, các tổng công ty lớn. Đến nay, tình thế có nhiều thay đổi, tất cả ngân hàng cổ phần Việt Nam đều nhằm thị trường mục tiêu là khách hàng cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các ngân hàng thương mại quốc doanh cũng bắt đầu mở rộng cho vay ngoài quốc doanh.
Thế nhưng ở nước ta, vấn đề vốn tín dụng ngân hàng cho DNVVN lại luôn là một thực tế bức xúc. Thiếu vốn là khó khăn lớn nhất cản trở sự phát triển của DNVVN. Rủi ro khiến các ngân hàng phải dè chừng. Các món vay mà DNVVN nhận được thường có thời hạn ngắn, giá trị nhỏ, mâu thuẫn với nhu cầu đầu tư thiết bị công nghệ; và luôn cần đến tài sản đảm bảo có giá trị lớn so với số lượng xin vay…
Habubank được thành lập từ năm 1989, qua 17 năm hoạt động, hiện có quy mô vốn và thị phần ở mức trung bình trong khối ngân hàng TMCP. Khách hàng mục tiêu của Habubank, như đã nói ở trên, là dân cư đô thị và DNVVN. Để giành được lợi thế trong việc phục vụ đối tượng khách hàng này, Habubank cần phải có “một chiến lược rõ ràng về khách hàng mục tiêu, sản phẩm và khu vực hoạt động” phải có biện pháp quản trị rủi ro hữu hiệu; nâng cao chất lượng thẩm định, giảm thời gian xét duyệt khoản vay…
Trên cơ sở nhận thức các thực trạng đó, em lựa chọn vấn đề: “Hoàn thiện phương pháp chấm điểm tín dụng DNVVN tại ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội” làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Chấm điểm tín dụng DNVVN khác với doanh nghiệp lớn, cần một hệ thống riêng. Để xây đựng hệ thống này, cần phân tích tổng hợp một khối lượng lớn các món cho vay DNVVN, ít nhất là toàn bộ cơ sở dữ liệu của Habubank. Việc phân tích phải được thực hiện bởi các chuyên gia giàu kinh nghiệm và các cán bộ tín dụng của chính Ngân hàng. Trong khuôn khổ bài viết này, người viết hướng tới chứng minh việc phát triển chấm điểm tín dụng DNVVN là có thể thực hiện được và sẽ giúp giải quyết một số hạn chế trong tín dụng DNVVN của Ngân hàng. Được sự giúp đỡ của thầy Đặng Anh Tuấn, kết hợp nghiên cứu lý luận chấm điểm tín dụng với thực tế Habubank, người viết cũng mạnh dạn đưa ra hướng xây dựng nội dung bảng chấm điểm, mong rằng sẽ là một gợi ý hữu ích với Ngân hàng.
Thích hợp với mục tiêu về nội dụng này, kết cấu của luận văn được xây dựng như sau:
Chương 1. Chấm điểm tín dụng và hoạt động tín dụng ngân hàng với khách hàng Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chương 2. Thực trạng hoạt động tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội.
Chương 3. Phát triển phương pháp chấm điểm tín dụng nâng cao chất lượng nghiệp vụ tín dụng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội.
Vấn đề nghiên cứu còn khá mới mẻ, thời gian và năng lực nghiên cứu còn hạn chế, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn.
Hà Nội, ngày 17 tháng 6 năm 2006.
Chương 1. Chấm điểm tín dụng và chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng với khách hàng Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1. Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nói DNVVN tức là đã nhìn nhận doanh nghiệp bởi các tiêu chí về quy mô như: vốn và lao động, doanh thu thuần, giá trị nộp cho ngân sách...., và theo đó, loại doanh nghiệp này là những doanh nghiệp có các yếu tố quy mô nằm trong một giới hạn nào đó.
Theo NĐ 90 ngày 23/11/2001, DNVVN được định nghĩa như sau: “DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động bình quân hàng năm không quá 300 người (linh hoạt áp dụng với một trong hai chỉ tiêu vốn hoặc lao động hoặc cả hai chỉ tiêu).
1.1.1.2. Đặc điểm các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Kể từ năm 2000, hàng năm, có khoảng hơn 20000 doanh nghiệp được thành lập mới. Những doanh nghiệp này đa phần gia nhập vào đội hình DNVVN khiến cho hầu như 190 ngàn DNVVN của Việt Nam hiện nay là doanh nghiệp trẻ ngoài quốc doanh. Yếu tố “trẻ”, “ngoài quốc doanh” chính là nguyên nhân quyết định nhất tới các đặc điểm dưới đây của DNVVN.
Đặc điểm nổi bật đầu tiên phải nói tới là các DNVVN có tính tự chủ cao nhưng quy mô vốn thấp. Ở các doanh nghiệp này, chủ sở hữu cũng thường là người quản lý. Họ phải tự bươn chải để duy trì và phát triển đồng vốn của mình. Do vậy, người quản lý doanh nghiệp thường rất nỗ lực trong kinh doanh. Doanh nghiệp đói vốn, muốn vay vốn nhưng không có điểm tựa tài chính là Nhà nước để dễ dàng được Ngân hàng chấp nhận cho vay như các doanh nghiệp trong khu vực quốc doanh. DNVVN luôn chỉ được vay khi có tài sản đảm bảo. Hơn nữa, đúng kiểu đã nghèo lại mắc cái eo, giá trị tài sản thấp, chủ yếu là đất ở của chủ doanh nghiệp, nên lượng vốn được phép vay cũng nằm trong giới hạn rất khiêm tốn so với nhu cầu vốn.
Thứ hai, lĩnh vực hoạt động của các DNVVN rất đa dạng và phong phú. Các doanh nghiệp này thâm nhập vào rất nhiều ngành nghề kinh tế như thương mại dịch vụ, sản xuất, gia công chế biến…. Nhờ vậy, việc mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp này sẽ giúp Ngân hàng phân tán được rủi ro hoặc rủi ro gây biến động không lớn đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Do quy mô nhỏ bé, nên khi diễn biến thị trường bất lợi, một chủ doanh nghiệp nhanh nhậy sẽ dễ dàng chuyển hướng kinh doanh mới có lợi. Tuy nhiên, nhìn dưới giác độ khác, tính chất “đa dạng, phong phú” lại trở thành “nhỏ lẻ manh mún”. Có những doanh nghiệp mà danh mục các hoạt động đăng ký kinh doanh gồm đến hàng chục khoản mục từ xuất nhập khẩu, cung cấp dịch vụ thiết kế, tư vấn,…nên tính chuyên nghiệp không cao. Không ít các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có định hướng lâu dài trong hoạt động kinh doanh mà hoạt động chạy theo thương vụ, thường xuyên thay đổi cơ cấu mặt hàng, sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp nhiều về chủng loại nhưng không lớn về số lượng.
Thứ ba, như đã nói ở trên, DNVVN thường được quản lý theo kiểu “gia đình”. Giám đốc các doanh nghiệp chính là chủ doanh nghiệp; nhân viên kế toán là anh em họ hàng đi học các lớp ngắn hạn rồi về “giúp”... Kiểu quản lý như vậy có yếu tố tích cực nhưng cũng nhiều yếu tố tiêu cực.
Điểm tốt là ở chỗ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận cao. Doanh nghiệp có số lao động ít nên cơ cấu tổ chức cũng gọn nhẹ, linh hoạt. Công tác điều hành mang tính trực tiếp và quan hệ giữa người quản lý và người lao động khá chặt chẽ. Do quy mô nhỏ, số lượng lao động ít nên không có nhiều các khâu trung gian. Lãnh đạo doanh nghiệp dễ nắm bắt tình hình tác nghiệp của đơn vị mình; các quyết định, chỉ đạo của họ cũng nhanh chóng đến với người lao động, giảm độ trễ giữa các khâu tạo ra; công tác kiểm tra, giám sát cũng nhanh chóng, hiệu quả và ít chi phí hơn.
Không tốt ở chỗ, cũng chính vì quy mô vừa và nhỏ nên nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc xây dựng nội quy lao động để đưa người lao động vào một “khuôn khổ, quy củ” nhất định. Doanh nghiệp được quản lý chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, nên ngoài hạn chế về vốn, còn bị hạn chế cả về trình độ, công nghệ. Phần lớn các DNVVN hiện nay hoạt động trong tình trạng thiếu cập nhật thông tin. Do thiếu am hiểu về thị trường và luật pháp, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nên khả năng tiếp cận với thị trường rất khó khăn. Hiện nay, Việt Nam đang vận động gia nhập WTO, điều đó đồng nghĩa với cạnh tranh khốc liệt gấp bội ngay cả trên sân nhà nhưng thực sự các doanh nghiệp vẫn chưa có sự chuẩn bị hợp lý.
Để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao độ như hiện nay, các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương pháp, bí quyết sản xuất. Thế nhưng hầu hết công nghệ đang được sử dụng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam hiện được đánh giá là lạc hậu. Đại đa số những người chủ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa không có kiến thức, thông tin, kinh nghiệm về những vấn đề liên quan đến lựa chọn, mua và chuyển giao công nghệ. Với nhiều người, mua công nghệ chỉ đơn giản là mua máy móc, thiết bị. Họ không quan tâm hoặc quan tâm không đầy đủ đến các phương pháp, bí quyết sản xuất. Do ảnh hưởng của tư duy sản xuất nhỏ và một phần là do thiếu vốn, rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư nhỏ giọt, làm từng phần, mỗi năm mua thêm một số máy móc, thiết bị rồi vừa làm vừa cải tiến... Những yếu điểm này, thêm vào đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn phải gánh chịu những thông lệ và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng nên không ít doanh nghiệp đã thất bại. Đặc điểm này của doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho Ngân hàng khi cho vay.
Nhiều DNVVN lập báo cáo tài chính chưa rõ ràng, không minh bạch do yếu kém về quản trị doanh nghiệp, nên các báo cáo tài chính không đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, vẫn còn có những doanh nghiệp lập báo cáo tài chính chỉ để đối phó với cơ quan thuế, nên đã cố tình làm giảm khấu hao, tăng sản phẩm dở dang, nợ treo…Một số doanh nghiệp khác còn làm trái chức năng được cấp phép, làm trái pháp luật, sử dụng giấy tờ có giá để lừa cơ quan quản lý nhà nước trong việc xin hoàn thuế hoặc góp vốn liên doanh, liên kết…Những “tai tiếng” này khiến DNVVN khó tiếp cận vốn ngân hàng, còn ngân hàng thì dù muốn nhưng vẫn ngại cho DNVVN vay vốn.
1.1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế.
Không ai có thể phủ nhận, doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế của các quốc gia. Theo các con số thống kê, ở hầu hết các quốc gia, doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chiếm trên 90% số lượng các doanh nghiệp trong nền kinh tế, đồng thời doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo công ăn việc làm cho hơn 50% hoặc thậm chí tới 2/3 lực lượng lao động ở mỗi quốc gia, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đóng góp từ 1/4 đến 1/3 giá trị GDP hàng năm, con số này lần lượt ở Pháp, Mỹ, Bỉ là 45%, 39%, 36%. Ở Việt Nam, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 90% trong tổng số 9 vạn doanh nghiệp của cả nước, mỗi năm đóng góp khoảng 30% GDP. Doanh nghiệp nhỏ và vừa góp khoảng 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá và 100% giá trị sản lượng hàng hoá một số ngành như: chiếu cói, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ.
DNVVN là bộ phận sử dụng rất có hiệu quả và tiết kiệm nguồn lực sẵn có của đất nước. Các doanh nghiệp này đặc biệt có khả năng khai thác các nguồn vốn nhỏ lẻ nhàn dỗi trong dân cư, thu hút nhiều lao động chưa có việc làm hoặc lao động tạm thời nhàn rỗi do công việc có tính chất thời vụ, nhanh chóng tiếp thu và làm chủ kỹ thuật thủ công và kỹ thuật phổ biến.
Phát triển DNVVN là cách tốt nhất để giảm tỷ lệ thất nghiệp và tệ nạn xã hội. Thực tế cho thấy toàn bộ các doanh nghiệp Nhà nước thời gian qua, năm cao nhất cũng chỉ thu hút được khoảng 1.6 triệu lao động. Trong khi đó theo số liệu hàng năm doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng tạo ra việc làm cho khoảng 50 – 80% lao động trong các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ, khi các doanh nghiệp lớn sa thải số lượng lớn công nhân thì khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ lại là nơi tái tạo lại công việc cho họ.
Phát triển DNVVN là giảm cách biệt giữa thành thị và nông thôn. Các DNVVN thu hút lượng lớn nguồn vốn trong dân. Tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán, do yêu cầu vốn yêu cầu ban đầu không nhiều nên chủ DNVVN có thể tận dụng vốn của bản thân, bạn bè, gia đình…Mặt khác, các DNVVN ở nông thôn sẽ thu hút nhiều lao động chưa có việc làm, lao động tạm thời nhàn rỗi theo thời vụ vào sản xuất – kinh doanh, rút dần lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp - dịch vụ nhưng vẫn sống ở quê hương mà không di chuyển, theo phương châm: “ly nông bất ly hương”. Một điều hết sức quan trọng nữa là: các DNVVN cũng là yếu tố chủ đạo giúp phát huy nghề truyền thống, làm thay đổi bộ mặt làng quê; trong các làng nghề truyền thống đã hình thành nhiều DNVVN nhằm tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, tổ chức tiêu thụ sản phẩm, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của làng nghề.
Phát triển DNVVN làm mạnh thêm các doanh nghiệp lớn, tạo ra sự phân cấp sản xuất (Doanh nghiệp lớn thiết kế, lắp ráp; doanh nghiệp nhỏ gia công phụ kiện).
Theo báo “Người lao động”, 12/9/2002: Ở Việt Nam cũng như các nước, DNVVN là xương sống của nền kinh tế, đóng góp hơn 70% tổng sản lượng quốc nội (GDP), tạo công ăn việc làm cho 90% lao động xã hội.
1.1.2. Tín dụng ngân hàng với khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.2.1. DNVVN, thị trường mục tiêu hiện tại của rất nhiều NHTM
Trước đây, các ngân hàng tranh giành gay gắt thị phần khách hàng doanh nghiệp nhà nước, các tổng công ty lớn. Hiện nay, cơ chế ngày càng mở theo hướng nâng cao năng lực tự chủ của doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng hơn, khu vực kinh tế tư nhân đang mở rộng và phát triển rất năng động. Đa phần các ngân hàng đã tiến công vào đối tượng DNVVN đang đói vốn và chưa được phục vụ đúng mức.
Ngoài hệ thống mạng lưới rộng khắp của các ngân hàng thương mại quốc doanh, tính đến 31/7/2005, trên địa bàn Hà Nội, khối ngân hàng TMCP, có 6 hội sở chính, 19 chi nhánh cấp 1, 71 chi nhánh cấp 2, 27 phòng giao dịch. Cuộc chiến giữa các ngân hàng đang rất quyết liệt. Tất cả các ngân hàng cổ phần đều nhằm thị trường mục tiêu là khách hàng cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn tập trung chăm sóc các tổng công ty, các doanh nghiệp lớn nhưng cũng bắt đầu mở rộng cho vay DNVVN.
Xin đưa ra 4 lý do giải thích về việc các ngân hàng thương mại chú trọng thị trường DNVVN như sau:
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước giới hạn khả năng cho vay một khách hàng doanh nghiệp trong phạm vi 15% vốn tự có của Ngân hàng thương mại. Các Ngân hàng cổ phần có quy mô vốn tự có thấp, thì khả năng cho vay cũng nhỏ, phù hợp với nhu cầu của DNVVN và cá nhân.
Thứ hai, DNNN chủ yếu tìm đến các ngân hàng thương mại quốc doanh không chỉ bởi mối quan hệ từ nhiều năm mà còn bởi sự tương xứng về quy mô. Ngoài ra, còn một lý do tế nhị, tại các ngân hàng này, sự hậu thuẫn vay vốn của Nhà nước là lớn nhất. Nhưng so với khối doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, tỷ trọng số đầu DNNN đang nhỏ dần. Thị trường DNVVN mới là thị trường rộng lớn và phát triển nhanh chóng. Các ngân hàng thương mại quốc doanh không thể thờ ơ với DNVVN mãi.
Thứ ba, thực tế đã chứng minh, DNVVN mới chính là động lực của nền kinh tế. Nhiều doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu tổ chức cồng kềnh, quan liêu. Do còn bất cập trong giải quyết mối quan hệ giữa người sở hữu và người quản lý, nên nỗ lực kinh doanh của DNNN không bằng DNVVN. Hiệu quả sử dụng vốn giảm dần theo quy mô, các DNVVN tự chủ hơn nên dám dấn thân vào các hoạt động rủi ro hơn. Tỷ suất lợi nhuận của khối DNVVN cao hơn hẳn.
Thứ tư, các DNVVN đang nhận được nhiều hơn các chính sách ưu đãi cả từ Nhà nước và các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IFC. Ở nhiều nước đã có các tổ chức đứng ra nhận bảo lãnh vay vốn cho các DNVVN khi đáp ứng được một số điều nhất định mà tổ chức này đặt ra. Chính sách thuế hay hành lang pháp lý cũng được các chính phủ quan tâm sao cho ngân hàng thương mại có thể nới lỏng hơn điều kiện cho vay DNVVN của mình. Tại Việt Nam, với những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế trong những năm qua, các DNVVN đã được qua tâm hơn và nhìn nhận bình đẳng hơn. Đảng, Nhà nước đã đánh giá đúng đắn tiềm năng, vai trò và tầm quan trọng của các DNVVN. Vì vậy, gần đây đã có nhiều chính sách nhằm khuyến khích và kích thích sự phát triển của các DNVVN: Nghị định 90/2001/NĐ –CP (ngày 23/11/2001) về việc trợ giúp phát triển DNVVN, quyết định 12/2003/QĐ – TTg (ngày 17/01/2003) về hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN, ngành ngân hàng cũng đã đề ra nhiều chính sách thích ứng cho việc tài trợ cho DNVVN.
1.1.2.2. DNVVN khó tiếp cận vốn tín dụng Ngân hàng
Hiện nay, thị trường OTC, thị trường chứng khoán dành cho DNVVN, đã ra đời. Các DNVVN đã có thêm một kênh huy động vốn mới. Tuy nhiên, thị trường OTC nói riêng và thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung chưa có ảnh hưởng đáng kể đến thị phần tín dụng của các ngân hàng thương mại. Vậy mà, nguồn tín dụng ngân hàng vẫn chỉ xếp thứ hai sau nguồn huy động từ gia đình bạn bè hay từ chính các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Điều này có vẻ như mâu thuẫn với thực tế các Ngân hàng thương mại chú trọng thị trường DNVVN, vậy nguyên nhân do đâu?
Nguyên nhân đầu tiên kể đến xuất phát chính từ các DNVVN, trong phần đặc điểm DNVVN, người viết đã lồng ghép vào đó phần đánh giá ảnh hưởng của các đặc điểm tới khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp, ở đây xin không nhắc lại.
Nguyên nhân thứ hai đến từ phía ngân hàng. Ngân hàng đã xác định DNVVN là thị trường mục tiêu, tất nhiên họ mong muốn cấp được nhiều khoản vay cho các DNVVN. Nhưng cho vay DNVVN, với những đặc điểm trên, là hoạt động khá nhiều rủi ro. Trong khi năng lực quản trị rủi ro của các ngân hàng còn yếu.
Thứ nhất, hệ thống thông tin khách hàng của ngân hàng còn thiếu và bị sai lệch. Doanh nghiệp vừa và nhỏ uy tín còn thấp, hơn nữa, đây là khu vực chứa đựng các doanh nghiệp ma, tồn tại thực hư không xác định, cộng thêm đó là tấm gương kinh điển từ vụ Minh Phụng – Epco khiến các DNVVN bị ngân hàng “ngại”.
Cũng do thông tin thiếu và sợ rủi ro, nên các loại hình cho vay mà ngân hàng cung cấp chưa thoả mãn nhu cầu của DNVVN, hơn nữa thời gian xét duyệt khoản vay còn quá dài, DNVVN lại thường yếu thế trong đàm phán các điều kiện vay vốn do không thông thạo thủ tục, chính sách của ngân hàng, điều này đẩy nhiều doanh nghiệp đến lựa chọn nguồn tài trợ phi ngân hàng.
Khả năng thẩm định năng lực khách hàng chưa cao, các ngân hàng chưa có cái sàng để lọc ra đâu là khách hàng tốt, đâu là khách hàng xấu nên nhiều doanh nghiệp làm ăn chân chính, hiệu quả vẫn bị bác đơn vay.
1.1.2.3. Đặc điểm các khoản tín dụng ngân hàng dành cho DNVVN.
Để bảo vệ mình trong việc cho vay, các ngân hàng đặt ra những điều kiện khá khó với DNVVN, như lãi suất cao, phải có TSĐB, …mặc dù có những doanh nghiệp kinh doanh tốt, đạt doanh số và nộp thuế rất cao nhưng các ngân hàng vẫn không dám mạnh dạn cho vay, nhất là đối với khoản vay lớn không có tài sản thế chấp. Các khoản tín dụng mà DNVVN hiện nay nhận được từ ngân hàng thường có đặc điểm sau:
Về mức cho vay DNVVN: Theo nguyên tắc, mức cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD) đối với doanh nghiệp phụ thuộc vào tổng mức đầu tư dự án và hiệu quả cũng như hệ số nợ của doanh nghiệp. Nhưng theo điều tra thực tế, mức cho vay đối với DNVVN lại phụ thuộc vào giá trị tài sản thế chấp và thành phần kinh tế. DNNN được vay vốn với mức cao hơn doanh nghiệp dân doanh trong khi hiệu quả kinh doanh của DNNN lại thấp hơn, mặc dù về mặt lý thuyết thì không có sự phân biệt này. Do giá trị tài sản cầm cố, thế chấp thấp nên mức vốn được vay nhỏ, vì vậy hầu hết các DNVVN đều thiếu vốn nghiêm trọng cả hiện tại và tương lai. Mặc dù cho đến nay đã có nhiều ngân hàng cung cấp vốn tín dụng và hoạt động khá sôi nổi, nhưng dường như phần đông DNVVN vẫn còn xa lạ với kênh dẫn vốn quan trọng này. Do vậy để có đủ vốn cho sản xuất kinh doanh, DNVVN phải vay từ nhiều nguồn khác nhau với lãi suất cao và bị động, nên nhiều cơ hội đầu tư đã không được đón bắt kịp thời hoặc bị bỏ qua.
Về thời hạn vay vốn: Hầu hết các DNVVN vay vốn để đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị, nên cần những khoản vốn vay dài hạn. Trong khi đó ngân hàng thích cung cấp các khoản vay ngắn hạn nhằm tạo cân đối với nguồn huy động và tránh rủi ro tiềm tàng từ đối tượng khách hàng này. Tình trạng doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích cũng có phần từ chính những bất cập này.
Về đảm bảo tiền vay: Hầu như toàn bộ các khoản tín dụng Ngân hàng cấp cho DNVVN đều yêu cầu tài sản đảm bảo.
Về lãi suất cho vay: Lãi suất mà các ngân hàng áp dụng với DNVVN còn cao, một phần vì yếu tố rủi ro, một phần vì khoản vay quy mô nhỏ thì chi phí trên một đồng vốn cho vay càng lớn trong khi ngân hàng chưa có biện pháp hữu hiệu để tiết kiệm.
1.2. Phương pháp chấm điểm tín dụng tại NHTM
1.2.1. Khái niệm và mục đích chấm điểm tín dụng doanh nghiệp
Chấm điểm tín dụng là một quá trình đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của một doanh nghiệp đối với ngân hàng cho vay như trả lãi và gốc nợ vay khi đến hạn nhằm xác định mức rủi ro trong hoạt động cung cấp tín dụng của ngân hàng cho vay. Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng khách hàng và được xác định thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm, dựa vào thông tin tài chính và phi tài chính sẵn có của doanh nghiệp tại thời điểm chấm điểm. Điểm mấu chốt của hệ thống chấm điểm tín dụng là quy việc đánh giá khách hàng vay vốn từ nhiều yếu tố về chỉ một yếu tố “điểm tín dụng”, từ điểm tín dụng có thể đánh giá đâu là khoản cho vay tốt, xấu.
Chấm điểm tín dụng giúp đưa ra những nhận xét, đánh giá về tình hình hoạt động, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán trong hiện tại và tương lai của doanh nghiệp, căn cứ vào đó ngân hàng ra các quyết định cho vay như hạn mức tín dụng, số tiền cho vay, thời hạn, lãi suất.
Chấm điểm tín dụng cũng giúp quản lý toàn bộ danh mục tín dụng, có thể giám sát và đánh giá khách hàng, nhận biết các dấu hiệu xấu và có biện pháp đối phó kịp thời, ước lượng mức vốn đã cho vay không thể thu hồi về để trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đồng thời phát triển chiến lược Marketing hướng tới khách hàng có ít rủi ro hơn.
1.2.2. Nội dung phương pháp chấm điểm tín dụng
1.2.2.1. Nguyên tắc chấm điểm tín dụng
Bảng chấm điểm phải gồm cả chỉ tiêu tài chính và phi tài chính, số lượng và nội dung các chỉ tiêu phải lựa chọn ở mức hợp lý để đảm bảo đánh giá chính xác khả năng và thiện chí trả nợ của doanh nghiệp.
Thang điểm tín dụng phải được phân chia thành các khoảng hạng mức tín nhiệm. Các khoảng điểm này phải được mô tả bằng các đặc tính rủi ro tương ứng.
Thông tin về doanh nghiệp vay vốn được đưa vào bảng chấm điểm phải chuẩn xác, các tiêu chí phải được xác định với thái độ độc lập và thận trọng cần thiết.
Trong quy trình chấm điểm tín dụng, cán bộ chấm điểm tín dụng sử dụng các bảng tiêu chuẩn đánh giá các tiêu chí để chấm điểm tín dụng:
+ Đối với mỗi tiêu chí trên bảng tiêu chuẩn đánh giá các tiêu chí, chỉ số thực tế gắn với trị số nào gần nhất thì áp dụng cho loại xếp hạng đó, nếu nằm giữa hai trị số thì ưu tiên nghiêng về phía loại tốt nhất.
+ Trong trường hợp khách hàng có bảo lãnh toàn phần (lớn hơn hoặc bằng 100% giá trị khoản tín dụng) của một tổ chức có năng lực tài chính mạnh hơn, thì cả doanh nghiệp và bên bảo lãnh cùng được NH cho vay chấm điểm tín dụng; khách hàng đã có thể được xếp hạng tín dụng tương đương hạng tín dụng của bên bảo lãnh. Quy trình chấm điểm tín dụng của bên bảo lãnh cũng giống như quy trình áp dụng cho khách hàng. Trường hợp bảo lãnh một phần thì chỉ cần tiến hành chấm điểm tín dụng và xếp hạng cho chính khách hàng.
Phải có sự kết hợp giữa kết quả chấm điểm tín dụng tự động trên máy và phân tích đánh giá của chính cán bộ tín dụng để có cái nhìn toàn diện nhất về khả năng của khách hàng.
1.2.2.2. Quy trình chấm điểm tín dụng
Quy trình gồm các bước cơ bản sau:
Bước 1: Thu thập thông tin
Để có thông tin sử dụng cho chấm điểm, cần phải thu thập thông tin toàn diện về khách hàng. Có thể thu thập thông tin từ các nguồn như hồ sơ vay vốn của khách hàng, thông tin lưu trữ tại ngân hàng (đây sẽ là nguồn đáng tin cậy nếu hoạt động xử lý và lưu trữ thông tin trước đó chính xác, an toàn), thông tin từ các cuộc điều tra phỏng vấn trực tiếp, thông tin thu thập được từ các nguồn khác như Ngân hàng bạn, bạn hàng hay đối thủ cạnh tranh của khách hàng, qua trung tâm thông tin tín dụng quốc gia, phương tiện thông tin đại chúng, hay thông tin từ các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan thuế, kiểm toán….
Nguồn thông tin chính thức chủ yếu và quan trọng nhất là từ hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp, bao gồm: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Cần lưu ý số liệu trên báo cáo tài chính chưa hẳn đã tin cậy nếu chưa được kiểm toán, do vậy, các số liệu này phải được xem xét cẩn thận với thái độ nghi ngờ cần thiết, thông tin được thu thập từ những nguồn như trực tiếp khảo sát thực tế, thông tin từ công ty kiểm toán, từ cơ quan quản lý, dịch vụ thông tin… sự chính xác và toàn diện của thông tin là yếu tố quyết định đến chất lượng kết quả chấm điểm.
Các nguồn thông tin không chính thức như: Thông tin từ các đối thủ cạnh tranh, các nhà cung cấp yếu tố đầu vào, khách hàng, các đại lý tiêu thụ… của doanh nghiệp. Thông tin thu thập từ các nguồn này đòi hỏi phải được gạn lọc, xác định độ tin cậy bằng các phương pháp khác nhau, để đảm bảo tính khách quan trong chấm điểm tín dụng.
Bước 2: Xác định lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Việc phân loại ngành nghề sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là rất cần thiết. Vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ không được thấy rõ nếu chỉ dựa vào kết quả riêng biệt của doanh nghiệp. Chẳng hạn một doanh nghiệp có tỷ lệ tăng trưởng 20%/năm có thể được coi là có vị thế tốt song nếu ngành nghề nó hoạt động có mức tăng trưởng 40%/năm thì dẫn đến một kết luận khác, doanh nghiệp có vị thế cạnh tranh yếu. Chính vì thế, việc chấm điểm tín dụng của doanh nghiệp phải được đặt trong bối cảnh ngành.
Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể mà phân chia nhóm ngành theo mức độ chi tiết khác nhau. Báo cáo tín dụng có thể phân chi tiết tới 9, 10 ngành nghề kinh tế (Ví dụ, hiện nay Habubank quản lý dư nợ phân theo 9 ngành nghề kinh tế là Nông lâm nghiệp; thuỷ sản; công nghiệp mỏ; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước; công nghiệp; xây dựng; thương nghiệp; khách sạn, nhà hàng; vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc) nhưng có thể chỉ cần xây dựng khoảng bốn biểu điểm khác nhau cho các gói ngành nghề lớn hơn như nông, lâm và ngư nghiệp; thương mại và dịch vụ; xây dựng; công nghiệp.
Ví dụ: Bảng hướng dẫn phân loại doanh nghiệp theo ngành nghề trong quy trình chấm điểm tín dụng của Ngân hàng Công thương
Nông, lâm ngư nghiệp
Chăn nuôi
Trồng trọt: cây lương thực, hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp
trồng rừng
Khai thác lâm sản
Đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản
Làm muối
Thương mại, dịch vụ
Cảng sông, biển
Khách sạn, nhà hàng, giải trí. Du lịch
Siêu thị, đại lý phân phối, kinh doanh , bán buôn bán lẻ các loại nông sản, lâm sản, thuỷ sản, thực phẩm, rượu bia, dược phẩm, mỹ phẩm…
In ấn, xuất bản sách, báo chí
sửa chữa nhà cửa, các loại máy móc, phương tiện truyền thông
Chăm sóc sức khoẻ, làm đẹp
Tư vấn, môi giới
Thiết kế thời trang, gia công máy móc
Bưu chính viễn thông
Vận tải đường bộ, đường sông, đường biển, đường không
Vệ sinh môi trường, văn phòng…
Xây dựng
Hạ tầng giao thông, khu công nghiệp
Hạ tầng đô thị và nhà ở
Xây lắp (XDCB)
Công nghiệp
Chế biến các loại nông sản, lâm sản, thuỷ sản, thực phẩm rượu bia..
Sản xuất thuốc lá, dược phẩm, thiết bị y tế, mỹ phẩm, văn hoá phẩm, hàng tiêu dùng, mỹ nghệ…
Sản xuất lắp ráp hàng điện tử, máy móc…
Sản xuất điện, khí đốt
Khai thác khoáng sản
Khai thác than, vật liệu xây dựng (cát, đá, …)
Việc phân loại doanh nghiệp theo ngành nghề/lĩnh vực sản xuất kinh doanh căn cứ vào ngành nghề/lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lưu ý, ít doanh nghiệp chuyên sâu vào một hoạt động mà đăng ký đa ngành nghề, thực hiện rất nhiều các hoạt động khác nhau. Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường rất linh hoạt để thích ứng với diễn biến của thị trường nên nhiều khi kết quả xác định có thể khác với lĩnh vực đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp.
Bước 3: Chấm điểm quy mô doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có quy mô về vốn, tài sản, lao động khác nhau cũng có sự khác biệt tương đối rõ nét. Những doanh nghiệp có ưu thế về quy mô sản xuất, tiềm năng nhân sự và tiềm lực tài chính thì việc thực hiện nghĩa vụ nợ với ngân hàng được đánh giá là có khả năng tốt hơn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Vì vậy việc xếp loại doanh nghiệp là việc so sánh doanh nghiệp này với doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác để đưa ra sự phân định thứ hạng về tín dụng giữa các doanh nghiệp, việc so sánh đó phải đặt trong điều kiện quy mô cùng loại.
Quy mô của doanh nghiệp có thể xác định dựa vào các tiêu chí như vốn, lao động, doanh thu thuần hay giá trị nộp ngân sách.
Vốn có thể được xác định dựa vào vốn chủ sở hữu trong bảng tổng kết tài sản.
Lao động là số lao động thực tế sử dụng (được nêu trong thuyết minh báo cáo tài chính) tính bình quân trong 3 năm gần nhất, nếu doanh nghiệp mới đi vào hoạt động chưa đến 3 năm thì tính bình quân cho toàn bộ số năm hoạt động.
Giá trị nộp NSNN: Căn cứ bảng Tình hình thực hiện nghĩa vụ NSNN trong báo cáo tài chính. Lấy theo số thực nộp vào NSNN theo số phát sinh trong kỳ (không kể số thiếu của kỳ trước nộp kỳ trước nộp kỳ này) bao gồm các loại thuế và các khoản nộp khác theo quy định của Nhà nước trong năm báo cáo (không tính các khoản thuế xuất nhập khẩu, đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, các khoản tiền phạt, phụ thu).
Ví dụ: Bảng chấm điểm quy mô doanh nghiệp Ngân hàng Ngoại thương
STT
Tiêu chí
Nội dung
Điểm
Điểm đạt được
1
Vốn
Hơn 50 tỉ đồng
Từ 40 đến 50 tỉ đồng
Từ 30 đến 40 tỉ đồng
Từ 20 đến 30 tỉ đồng
Từ 10 đến 20 tỉ đồng
Dưới 10 tỉ đồng
30
25
20
15
10
5
2
Lao động
Hơn 1.500 người
Từ 1000 đến 1500 người
Từ 500 đến 1000 người
Từ 100 đến 500 người
Từ 50 đến 100 người
Ít hơn 50 người
15
12
9
6
3
1
3
Doanh thu thuần
Hơn 200 tỉ đông
Từ 100 đến 200
Từ 50 đến 100
Từ 20 đến 50
Từ 5 đến 20
Dưới 5 tỉ đồng
40
30
20
10
5
2
4
Nghĩa vụ đối với nhà nước
Hơn 10 tỉ đồng
Từ 7 đến 10 tỉ đồng
Từ 5 đến 7 tỉ đồng
Từ 3 đến 5 tỉ đồng
Từ 1đến 3 tỉ đồng
Dưới 1 tỉ đồng
15
12
9
6
3
1
Bước 4: Chấm điểm tài chính.
Hệ thống chấm điểm tín dụng sẽ chứa các bảng chấm điểm tài chính. Căn cứ vào lĩnh vực SXKD và quy mô của doanh nghiệp để lựa chọn bảng chấm cho thích hợp và tiến hành chấm điểm theo bảng.
Để đánh giá độ an toàn tài chính của một doanh nghiệp các tổ chức và ngân hàng thương mại trên thế giới sử dụng nhiều hệ số tài chính khác nhau tuỳ theo từng quốc gia, chủ thể và khách thể chấm điểm cụ thể.
Theo nghiên cứu của tiến sỹ Trần Thị Kỳ - trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, bảng chấm điểm phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay nên có 11 chỉ tiêu tài chính, chia thành 4 nhóm, gồm: nhóm chỉ tiêu thanh toán, nhóm chỉ tiêu hoạt động, nhóm chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh và cơ cấu tài chí._.nh và nhóm chỉ tiêu về sự tăng trưởng quy mô.
Nhóm chỉ tiêu thanh toán
Phân tích các chỉ tiêu trong nhóm này, là cơ sở để ngân hàng thương mại, đánh giá khả năng thanh toán khoản vay ngắn hạn của doanh nghiệp trong tương lai gần và khả năng thanh toán ngay các khoản vay ngắn hạn đến hạn.
Nhóm này gồm hai chỉ tiêu: Hệ số thanh toán ngắn hạn được thiết kế trên cơ sở so sánh tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn với nợ ngắn hạn; và hệ số thanh toán nhanh: so sánh giữa tài sản có tính thanh khoản cao với nợ ngắn hạn.
Hệ số thanh toán ngắn hạn =
Hệ số này phản ánh mức đảm bảo tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số này càng lớn thì khả năng thanh toán càng cao và ngược lại.
Hệ số thanh toán nhanh =
Hệ số thanh toán nhanh phản ánh mức đảm bảo của các tài sản có tính thanh khoản cao (tiền, đầu tư tài chính, phải thu) cho các khoản nợ ngắn hạn đến hạn. Khi tính chỉ tiêu này để đưa vào bảng chấm, ngoài loại trừ Hàng tồn kho còn nên loại trừ dự phòng phải thu khó đòi, trả trước người bán….
Khi phân tích hai chỉ tiêu này cần chú ý đến đặc điểm hoạt động kinh doanh của các ngành khác nhau và phải loại trừ một số khoản ra khỏi công thức phân tích để đảm bảo độ chính xác.
Nhóm chỉ tiêu hoạt đông
Nhóm này gồm 2 chỉ tiêu: thời gian luân chuyển hàng tồn kho (hoặc vòng quay hàng tồn kho) và kỳ thu tiền bình quân, những chỉ tiêu này cần đưa vào hệ thống chỉ tiêu chấm điểm và xếp hạng doanh nghiệp vay vốn, vì thông qua phân tích 2 chỉ tiêu trên sẽ giúp ngân hàng đánh giá chất lượng sử dụng và quản lý hàng tồn kho và nợ phải thu, khả năng chuyển đổi những tài sản này ra tiền nhanh hay chậm, kết hợp với nhóm chỉ tiêu A, sẽ giúp ngân hàng đánh giá chính xác hơn khả năng thanh toán nợ vay ngân hàng.
Khi phân tích các chỉ tiêu này cần chú ý đến đặc điểm kinh doanh của ngành, chính sách bán hàng của doanh nghiệp.
Nhóm chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh và cơ cấu tài chính
Chấm điểm các chỉ tiêu trong nhóm này, sẽ giúp ngân hàng đánh giá khả năng trả nợ vay ngân hàng của doanh nghiệp bao gồm cả vốn gốc và lãi vay, trên cơ sở phân tích tiềm lực tài chính của doanh nghiệp mạnh hay yếu, hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt hay xấu, mức độ đảm bảo vững chắc cho việc hoàn trả các khoản nợ vay trước những biến cố bất lợi, bất ngờ có thể xảy ra đối với doanh nghiệp.
Nhóm này gồm các chỉ tiêu: Hệ số nợ, Hệ số lợi nhuận trên tài sản, Hệ số lãi vay, xu hướng tăng lợi nhuận và hệ số lợi nhuận trên doanh thu
D- Nhóm chỉ tiêu về quy mô và sự tăng trưởng
Nhóm chỉ tiêu này gồm 4 chỉ tiêu: Tốc độ tăng trưởng về doanh thu, lợi nhuận, quy mô vốn và doanh thu.
Phân tích các chỉ tiêu trong nhóm này sẽ giúp ngân hàng đánh giá mức độ an toàn của khoản tín dụng, qua việc xem xét sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh có vững mạnh và ổn định không? Điều này không chỉ là cơ sở cho khoản tín dụng được hoàn trả ở mức độ nào.
Tham khảo bảng chấm điểm của một số các ngân hàng lớn, Ngân hàng Công thương Việt Nam và ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư và phát triển, Nông nghiệp đều lựa chọn 11 chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu thanh khoản:
Khả năng thanh toán hiện hành
Khả năng thanh toán nhanh
Chỉ tiêu cân nợ:
Nợ phải trả/Tổng tài sản
Nợ phải trả/ Nguồn vốn CSH
Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ NH
Chỉ tiêu hoạt động:
Vòng quay hàng tồn kho
Kỳ thu tiền bình quân
Doanh thu/ Tổng tài sản
Chỉ tiêu thu nhập:
Tổng TNTT/ Doanh thu thuần
Tổng TNTT/ Tổng tài sản
Tổng TNTT/ Nguồn vốn CSH
Trong khi đó, thậm chí các Ngân hàng thương mại cổ phần còn có xu hướng giảm bớt số lượng các chỉ tiêu tài chính để phân tích khả năng trả nợ của khách hàng. Bảng chấm điểm của các ngân hàng này đơn giản chỉ chấm các chỉ tiêu về thanh khoản kết hợp với chỉ tiêu hệ số nợ trên tổng nguồn, chỉ tiêu lợi nhuận ròng và ROE hay một tập hợp con khác của bảng 11 chỉ tiêu trên mà đơn vị chấm điểm đánh giá thấy phù hợp.
Ví dụ, Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank) sử dụng 5 chỉ tiêu sau để phân tích:
Nhóm chỉ tiêu tỷ số thanh khoản
Khả năng thanh toán ngắn hạn
Khả năng thanh toán nhanh
Nhóm chỉ tiêu cân nợ
Tỷ số nợ = Tổng nợ/Tổng nguồn vốn
Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời
Lợi nhuận ròng
Tỷ suất lợi nhuận ròng/Vốn chủ sở hữu
Vậy tại sao lại không chấm điểm toàn bộ các chỉ tiêu tài chính? Đó là do mối quan hệ giữa các chỉ tiêu. Có thể thấy ngay cả khi giới hạn trong 11 chỉ tiêu mà bảng châm điểm của các NHTMQD sử dụng, vẫn tồn tại ít nhất một quan hệ giữa các chỉ số: Doanh thu thuần/tổng tài sản (chỉ số 5); tổng số nợ/Tổng tài sản (chỉ số 6); Tổng số nợ/Vốn chủ sở hữu (chỉ số 7); Tổng thu nhập trước thuế/vốn chủ sở hữu (chỉ số 10). Dễ nhận thấy rằng:
x x = x
Tức là:
Chỉ số 5 x Chỉ số 7 x Chỉ số 9 = Chỉ số 6 x Chỉ số 10
Qua đó thấy rằng một trong các chỉ số đó là do các chỉ số còn lại quy định. Trong khi đó, để đảm bảo cho mô hình có khả năng dự đoán tốt, yêu cầu quan trọng là các biến giải thích phải độc lập với nhau hoặc có hệ số tương quan rất nhỏ. Nên nếu trong mô hình tồn tại các biến giải thích không độc lập với nhau sẽ làm giảm tính chính xác và dự đoán và ta hoàn toàn có thể phá vỡ chuỗi tương quan bằng cách bỏ bớt chỉ số đi.
Việc lựa chọn chỉ số nào để phản ánh độ vững mạnh tài chính của doanh nghiệp, sẽ không chỉ là sự lựa chọn, phân tích mang tính chất định tính mà cần phải có sự bám sát, sử dụng mô hình kinh tế lượng. Tuy nhiên, dù bảng chấm điểm các chỉ số tài chính có giảm xuống 10 chỉ số hay ít hơn, thậm chí cũng có thể tăng thêm một vài chỉ số tài chính khác thì việc đánh giá năng lực thực hiện nghĩa vụ tài chính của khách hàng với ngân hàng ít nhất phải đảm bảo thông qua 4 nhóm chỉ tiêu cơ bản về thanh toán, cơ cấu vốn, khả năng sinh lời, hiệu quả hoạt động như trên.
Ví dụ: Bảng chấm điểm tài chính các doanh nghiệp trong ngành Thương mại và dịch vụ của Ngân hàng Ngoại thương (phụ lục 1)
Bước 5: Chấm điểm phi tài chính
Bên cạnh chỉ tiêu tài chính, chỉ tiêu phi tài chính là rất cần thiết đối với ngân hàng. Bởi vì chỉ tiêu tài chính mới chỉ là thông tin số phản ánh chủ yếu tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm nào đó, nó có rất ít căn cứ để dự báo về doanh nghiệp trong tương lai. Trong khi đó,“sức khoẻ” doanh nghiệp trong thời gian sử dụng tài trợ mới là quan trọng để nhà đầu tư phán đoán tình huống có thể xảy ra rủi ro dẫn đến không thu hồi được vốn. Vì vậy, việc chấm điểm các chỉ tiêu này cũng nhằm góp phần đánh giá các khả năng tài chính của doanh nghiệp trong tương lai.
Các phương diện phi tài chính cần chấm điểm:
Chấm điểm tín dụng theo tiêu chí lưu chuyển tiền tệ, hay còn gọi là chấm điểm dòng tiền.
Ví dụ: Bảng chấm điểm dòng tiền ngân hàng Ngoại thương (phụ lục 2)
Tiêu chí dòng tiền hết sức quan trọng, bảng lưu chuyển tiền tệ là công cụ cực kỳ hữu hiệu trong việc tính toán cơ cấu dòng thu chi tiền tệ, ảnh hưởng đến vận mệnh một doanh nghiệp. Nó không bị ảnh hưởng bởi nguyên tắc kế toán như giá trị hàng tồn kho, hay giá vốn hàng bán….Không có cách nào (trừ khi doanh nghiệp cố tình gian lận) che dấu lưu chuyển tiền tệ đối với nhân viên phân tích tín dụng. Yêu cầu hàng đầu của phân tích tín dụng là đánh giá khả năng và thiện chí hoàn trả tín dụng đối với người vay. Mà trị giá tài chính của bất cứ doanh nghiệp hoặc tài sản nào cũng đều bắt nguồn từ dòng tiền tệ mà người ta mong đợi doanh nghiệp hoặc tài sản đó đem lại. Khoản tiền vay sẽ chỉ được trả nợ từ tiền mặt chứ không phải từ các con số ghi sổ của doanh thu, hệ số lợi nhuận hay lợi nhuận. Cho nên ngân hàng trước hết quan tâm đến năng lực của doanh nghiệp trong việc làm ra tiền mặt.
Khi đánh giá về dòng tiền của doanh nghiệp, người ta quan tâm đến các nội dung như tổng số lưu chuyển tiền mặt, khả năng trang trải lãi vay từ kết quả hoạt động kinh doanh, khả năng thanh toán lãi vay, nợ gốc từ nguồn tiền mặt, xu hướng lưu chuyển tiền tệ thuần trong quá khứ hay trạng thái lưu chuyển tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh…
Tổng số lưu chuyển tiền mặt được phản ánh thông qua chỉ tiêu lợi nhuận hoạt động trước khấu hao (1) .
Lợi nhuận hoạt động trước khấu hao = Lợi nhuận hoạt động + Khấu hao
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá nguồn hình thành tiền mặt đảm bảo khả năng trả nợ.
Khả năng trang trải lãi vay từ kết quả hoạt động kinh doanh (2)
(2) = =
Khả năng thanh toán lãi vay từ nguồn tiền mặt (3)
(3) =
Đánh giá khả năng nguồn tiền mặt để trả nợ ngân hàng, không chỉ xem xét khả năng nguồn tiền mặt để trả lãi tiền vay, mà phải xem xét khả năng nguồn tiền mặt để hoàn trả vốn gốc thông qua chỉ tiêu: Lưu chuyển tiền tệ trên tổng nợ gốc.
Khả năng thanh toán nợ gốc từ nguồn tiền mặt (4)
(4) =
Xu hướng lưu chuyển tiền tệ thuần trong quá khứ (5) được xác định dựa trên việc so sánh số liệu dòng tiền thuần của ít nhất 3 năm gần nhất; nếu không có số liệu thì 2 năm. Tuỳ theo mức trung bình ngành hoạt động mà ta có ngưỡng để dựa vào đó đánh giá xu hướng lưu chuyển tiền tệ thuần là tăng nhanh, tăng, ổn định, giảm hay âm. Ví dụ, xu hướng này được coi là tăng nhanh khi tăng liên tục với tỷ lệ tăng trên 30%, là tăng khi vẫn tăng liên tục nhưng dưới 30% và là ổn định nếu mức dao động tăng hoặc giảm hàng năm trong vòng 10% nhưng năm cuối tăng, xu hướng xấu nhất là khi giảm …Lưu chuyển tiền thuần càng tăng nhanh là tốt nhất và âm là xấu nhất.
Trạng thái lưu chuyển tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh (6) được xác dựa vào việc so sánh dòng tiền thuần dương từ hoạt động sản xuất kinh doanh với lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu dòng tiền thuần không dương thì trạng thái được xác định là âm hoặc gần điểm hoà vốn. Trạng thái tốt nhất là dòng tiền lớn hơn lợi nhuận thuần, trạng thái xấu nhất là dòng tiền âm.
Ngoài ra, một chỉ tiêu nữa cũng được quan tâm khi đánh giá dòng tiền của doanh nghiệp là tỷ số giữa tiền và các khoản tương đương tiền/vốn chủ sở hữu.
Chấm điểm tín dụng theo tiêu chí quản lý
Tiêu chí này đặc biệt có ý nghĩa với việc đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp, theo nhận định của các chuyên gia thì tiêu chí này có mức độ ảnh hưởng mạnh đối với khả năng vỡ nợ của doanh nghiệp ngoài quốc doanh hơn là doanh nghiệp Nhà nước. Có thể giải thích về điều này như sau, ở các DNNN, hoạt động quản lý điều hành được thực hiện trực tiếp bởi Tổng giám đốc, nhưng có chỉ đạo từ xa của các cơ quan chức năng nên tính chủ động và linh hoạt trong quản lý không cao. Ngược lại, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, như đã phân tích ở trên, thường được quản lý theo kiểu gia đình, chủ doanh nghiệp chính là giám đốc doanh nghiệp, nên yếu tố năng lực điều hành, đạo đức của giám đốc, ban quản lý quyết định trực tiếp đến sự thành công hoặc thất bại của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đến khả năng và thiện chí trả nợ vay ngân hàng.
Các nội dung đánh giá về quản lý của doanh nghiệp như số năm kinh nghiệm nói chung và kinh nghiệm trong ngành của Ban quản lý liên quan trực tiếp đến phương án kinh doanh cần ngân hàng tài trợ vốn; các bằng chứng thành tích hay thất bại của ban quản lý; về môi trường kiểm soát nội bộ; tính khả thi của Phương án kinh doanh và dự toán tài chính…
Ví dụ: Bảng chấm điểm Quản lý ngân hàng Đầu tư và Phát triển (phụ lục 3)
Chấm điểm tín dụng theo tiêu chí tình hình và uy tín giao dịch với ngân hàng.
Tình hình và uy tín trong giao dịch tín dụng và phi tín dụng đều cần được đánh giá. Với giao dịch tín dụng, lịch sử vay vốn của doanh nghiệp tốt, trả nợ đúng hạn trong một khoảng thời gian dài liên tục đến hiên tại khoảng từ ba năm trở lên có thể là chứng minh cụ thể nhất cho năng lực kinh doanh và thiện chí trả nợ của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp như vậy rất có khả năng thực hiện phương án kinh doanh đề xuất vay vốn có hiệu quả, đảm bảo hoàn trả tín dụng đúng hạn cho ngân hàng. Ngược lại, một doanh nghiệp thường xuyên xin gia hạn nợ, trả nợ không đúng hạn hay không cung cấp thông tin đầy đủ và đúng yêu cầu của ngân hàng không phải là đối tượng tin cậy để cho vay. Tuy nhiên, một doanh nghiệp luôn hoàn trả nợ đúng hạn với ngân hàng chưa hẳn đã đáng tin cậy. Trong điều kiện chia sẻ thông tin giữa các ngân hàng thương mại chưa tốt thì việc kiểm tra các giao dịch phi tín dụng như theo dõi tài khoản của doanh nghiệp, việc lưu chuyển tiền của doanh nghiệp, cực kỳ có ý nghĩa.
Ví dụ: Bảng chấm điểm uy tín giao dịch của VCB (phụ lục 4)
Chấm điểm tín dụng theo tiêu chí môi trường kinh doanh.
Cần phải phân tích tiêu chí này vì: tình hình cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường mạnh hay yếu đều ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp, nên sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của ngân hàng.
Vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp phải được phân tích không chỉ trong hiện tại mà còn phải xét cả trong tương lai.
Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra trên cả hai phương diện giá cả và chất lượng sản phẩm, phụ thuộc chủ yếu vào số lượng đối thủ cạnh tranh và đặc điểm công nghệ, độc quyền hay không độc quyền…
Đánh giá các điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp như cấu trúc, số lượng nhà cung cấp nguyên vật liệu, hàng hoá cùng những thoả thuận về giá cả, chất lượng, sự ổn định, mạng lưới bán hàng, hệ thống sản xuất…Các điều kiện cho kinh doanh và chất lượng sản phẩm tốt hay không đều sẽ ảnh hưởng tới yếu tố cạnh tranh, doanh thu, lợi nhuận… của doanh nghiệp và ảnh hưởng liên đới tới khả năng trả nợ vay ngân hàng của doanh nghiệp.
Bước 6: Tổng hợp điểm cuối cùng và xếp hạng
Cán bộ chấm điểm tín dụng tổng hợp điểm bằng cách cộng tổng số điểm đã chấm theo hướng trên. Sau khi tổng hợp điểm, Cán bộ chấm điểm tín dụng xếp hạng khách hàng dựa vào quy đổi mức điểm ra hạng mức tín nhiệm.
VD: Bảng quy đổi điểm ra hạng mức tín nhiệm của NHCTVN
Tổng điểm tín nhiệm
Xếp hạng
Mô tả hạng tín nhiệm
76 – 100
AAA
66 – 75
AAa
56 – 65
BBB
46 – 55
BBb
36 – 45
CCC
26 – 35
CCc
0 – 25
DDD
Bước 7: Trình phê duyệt kết quả
Sau khi hoàn tất việc chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng, CBCĐTD lập tờ trình đề nghị Tổng giám đốc phê duyệt. Tờ trình phải được trưởng (phó) phòng phát triển kinh doanh và giám đốc/ phó giám đốc quản lý tín dụng tại chi nhánh kiểm tra và ký trước khi trình Giám đốc. Nội dung của tờ trình phải có những ý cơ bản sau:
giới thiệu thông tin cơ bản về khách hàng
Phương pháp/mô hình áp dụng để chấm điểm tín dụng
Tài liệu làm căn cứ để chấm điểm tín dụng
Nhận xét /đánh giá của CBCĐTD dẫn tới kết quả chấm điểm và xếp hạng khách hàng.
Khi tờ trình được phê duyệt, kết quả chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng phải được cập nhật ngay vào hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng.
Trong mọi trường hợp, hồ sơ về khách hàng phải được lưu trữ một bản Bảng các tiêu chí cơ bản để đánh giá điểm tín dụng của khách hàng và bảng Tỷ lệ tài chính chuẩn.
1.2.3. Sự cần thiết phải chấm điểm tín dụng doanh nghiệp vay vốn
1.2.3.1. Chấm điểm tín dụng xác định hạng mức rủi ro của doanh nghiệp đi vay là cơ sở để quản trị rủi ro tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của hệ thống các ngân hàng thương mại. Đối với hầu hết các ngân hàng thì dư nợ tín dụng thường chiếm tới hơn 1/2 tổng tài sản có và thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng từ 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Song tín dụng cũng là hoạt động chứa đựng rủi ro lớn nhất trong ngân hàng
Rủi ro tín dụng là hiện tượng ngân hàng không thu hồi được đầy đủ , đúng hạn hoặc mất khả năng thu hồi các khoản cho vay đã ghi trong hợp đồng tín dụng, dẫn đến toàn bộ hoặc một phần gốc và lãi vay bị tổn thất.
Hậu quả của rủi ro tín dụng:
Hoạt động tín dụng là hoạt động chiếm khoảng 80% sử dụng vốn, 70% thu nhập Ngân hàng thu được. Việc xảy ra rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến những hậu quả sau:
Làm cho thu nhập của ngân hàng giảm sút, giảm phần nộp ngân sách, hạn chế tích luỹ để đầu tư hiện đại hoá công nghệ và đầu tư đào tạo lại cán bộ, nâng cao trình độ. Ngân hàng mất vốn phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí là phải xoá nợ, bởi vì ngoài một phần được ngân sách nhà nước cấp bù thì phần chủ yếu do các ngân hàng phải trích lập phòng ngừa rủi ro, giảm thu nhập.
Hạn chế sức mạnh cạnh tranh do năng lực tài chính yếu kém, công nghệ và trình độ hạn chế, uy tín với khách hàng giảm sút.
Thu nhập của ngân hàng giảm dẫn tới tỷ suất lợi tức và thị giá cổ phiếu của ngân hàng giảm. Việc cổ phiếu giảm giá nếu không kịp thời chấn chỉnh, sẽ có thể kéo theo việc bán hàng loạt cổ phiếu trên thị trường, là điểm mở đầu của quá trình mua lại, sáp nhập hoặc thay thế ban quản lý ngân hàng.
Do hệ thống ngân hàng có vai trò đặc biệt với sự phát triển kinh tế xã hội, và do rủi ro vỡ nợ của ngân hàng một khi đã xảy ra thường mang tính dây chuyền có thể gây đổ vỡ hệ thống tài chính của một quốc gia. Những hậu quả này đưa nền kinh tế vào tình trạng khó khăn: thất nghiệp gia tăng, đời sống dân chúng bị bần cùng, hoạt động kinh tế - xã hội bị rối loạn.
Đo lường rủi ro tín dụng là điều mà tất cả những người quản lý ngân hàng rất quan tâm, bởi vì nếu đo lường được các rủi ro thì việc quản trị và phòng ngừa rủi ro trở nên dễ dàng hơn. Mục tiêu của quản trị rủi ro tín dụng là nhằm hạn chế và giới hạn rủi ro ở mức nhất định, để đạt lợi nhuận tối đa và bảo vệ sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Để đạt mục đích trên, ngân hàng phải xác định được rủi ro hiện có và rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng. Chấm điểm tín dụng là phương pháp đo lường tín dụng hiệu quả mà các ngân hàng trên thế giới áp dụng từ hơn hai thập kỷ nay. Mức điểm tín dụng mà doanh nghiệp đạt được sẽ cho biết hạng mức rủi ro tín dụng của doanh nghiệp. Việc tiến hành chấm điểm tín dụng được duy trì định kỳ cho khách hàng trong suốt thời kỳ khách hàng có quan hệ với ngân hàng. Ảnh hưởng của chấm điểm tín dụng tới công tác quản trị rủi ro tín dụng được thể hiện qua các giai đoạn như sau:
Giai đoạn trước khi cấp tín dụng
Khi doanh nghiệp đề nghị vay vốn, ngân hàng dựa trên nguồn thông tin thu thập được về doanh nghiệp, sử dụng bảng chấm điểm tín dụng tự động phân tích các yếu tố định lượng và định tính, để đo lường khả năng trả nợ và thiện chí trả nợ của doanh nghiệp. Số điểm mà doanh nghiệp đạt được là cơ sở để xác định hạng tín nhiệm các doanh nghiệp và kết quả này là một căn cứ quan trọng để đưa ra quyết định cho vay hay từ chối cho vay. Đồng thời dựa vào hạng mức để áp dụng các chính sách tín dụng thích hợp. Ví dụ, nếu doanh nghiệp ở mức rủi ro tín dụng thấp thì ngân hàng áp dụng lãi suất cho vay ưu đãi, ký quỹ để mở L/C thấp; cho vay có thể không cần đảm bảo, áp dụng các điểu kiện trong hợp đồng tín dụng nới lỏng hơn. Ngược lại, doanh nghiệp có mức rủi ro cao, Ngân hàng thấy khó kiểm soát được thì ngân hàng có thể không cho vay, hoặc cho vay nhưng phải thận trọng, đưa ra biện pháp giám sát thường xuyên chặt chẽ khoản vay đó.
Như vậy, kết quả chấm điểm tín dụng doanh nghiệp trước khi cấp tín dụng là một trong các cơ sở để ngân hàng đưa ra quyết định tín dụng, định giá các khoản vay, áp dụng chính sách tín dụng thích hợp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.
Khi đang có quan hệ tín dụng, tái xét chấm điểm và xếp hạng tín dụng doanh nghiệp theo định kỳ.
Định kỳ 3 tháng, 6 tháng hoặc một năm ngân hàng tiến hành chấm điểm để đánh giá khả năng trả nợ gốc và lãi của doanh nghiệp cho ngân hàng về các khoản đã cho vay, dựa trên nguồn thông tin thu thập được về doanh nghiệp đi vay từ lúc phát tiền vay đến thời điểm tái xét xếp hạng nhằm đánh giá việc thực hiện các cam kết của doanh nghiệp trong hợp đồng tín dụng, chú trọng đến những vi phạm hợp đồng, từ đó so sánh, đánh giá sự thay đổi rủi ro tín dụng so với ban đầu. Qua đó, có thể điều chỉnh mức hạng của doanh nghiệp. Đồng thời, là cơ sở để đưa ra giải pháp xử lý các khoản nợ có vấn đề, nhằm giảm thiểu nguy cơ gây rủi ro tín dụng. Nếu rủi ro tín dụng thay đổi theo chiều hướng tăng, ngân hàng có thể yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải bổ sung vốn tự có hoặc tăng tài sản thế chấp, hoặc yêu cầu bảo lãnh, cũng có thể ngân hàng cùng doanh nghiệp tìm giải pháp để giải quyết khó khăn để tăng khả năng trả nợ.
Như vậy, chấm điểm tín dụng đinh kỳ tái xét hạng rủi ro doanh nghiệp vay vốn để xem xét sự thay đổi rủi ro so với ban đầu, nhằm đưa ra biện pháp xử lý tổng hợp có hiệu quả, giảm nguy cơ rủi ro tín dụng. Từ đó, tạo điều kiện tăng thu nhập cho ngân hàng, mở rộng và đa dạng hoá hình thức tài trợ… và điều này đặc biệt có ý nghĩa trong xu hướng đi vay tín chấp ngày càng gia tăng, giúp ngân hàng lựa chọn những khách hàng tốt để cho vay. Đó cũng là cơ sở để doanh nghiệp soi lại mình, vươn lên tốt hơn.
Khi doanh nghiệp không hoàn trả nợ đúng hạn
Việc chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp không hoàn trả nợ đúng hạn là cơ sở để xác định mức dự phòng tổn thất tín dụng hoặc đưa ra các biện pháp để giảm tổn thất cho ngân hàng.
Tóm lại, chấm điểm tín dụng sẽ giúp ngân hàng quản lý tốt hơn rủi ro tín dụng.
1.2.3.2. Chấm điểm tín dụng doanh nghiệp cung cấp chuỗi thông tin có hệ thống về quá khứ và hiện tại về doanh nghiệp làm cơ cở giúp các nhà quản trị ngân hàng đưa ra quyết định chính xác, kịp thời, có hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt, yêu cầu các quyết định tín dụng phải vừa nhanh vừa ít rủi ro, đem lại hiệu quả tối ưu. Nếu không ngân hàng dễ mất đi cơ hội tăng thu nhập và mở rộng quy mô tín dụng do khách hàng sẽ tìm đến với ngân hàng khác hoặc tìm nguồn tài trợ ngoài ngân hàng.
Muốn có quyết định nhanh và chính xác, ngân hàng phải dự đoán tương đối chính xác về khả năng và thiện chí trả nợ của doanh nghiệp. Điều này phụ thuộc vào yếu tố quan trọng là hệ thống thông tin về doanh nghiệp trong quá khứ và hiện tại được thu thập chính xác, đầy đủ và kịp thời đến mức độ nào, xử lý thông tin nhanh hay chậm? Vì thực tế cho thấy, việc kinh doanh của các doanh nghiệp khó có thể thất bại qua một đêm, mà bao giờ cũng có dấu hiệu báo trước. Có dấu hiệu có thể mờ nhạt, có dấu hiệu biểu hiện rõ ràng. Yêu cầu đặt ra là ngân hàng phải có hệ thống thông tin đáng tin cậy, để có thể nhận biết được các dấu hiệu đó qua một quá trình, chứ không phải là tại một thời điểm và kết quả xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp vay vốn qua một chuỗi thời gian sẽ đáp ứng đáng kể yêu cầu trên.
7 yếu tố chính của một quy trình tín dụng lý tưởng
Tiếp thị
Khởi đầu QH
tín dụng
Thẩm định tín dụng
Hoạt động nội bộ
Dịch vụ khách hàng
Giám sát rủi ro
Bán chéo
Thông tin phân loại xếp hạng tín dụng khách hàng
Nếu áp dụng phương pháp Chấm diểm tín dụng
Chấm điểm tín dụng
Để thấy hiệu quả của hệ thống thông tin tốt hơn nhờ tiến hành chấm điểm tín dụng, ta sử dụng một mô hình trong đó diễn tả cách thức mà những hệ thống TTTD sử dụng hiệu ứng chặn để thu hẹp phạm vi lựa chọn người vay cũng như để giải quyết những vấn đề về rủi ro đạo đức.
Bảng 1. Số liệu phân tích chứng minh tác động chặn TTTD.
Mức độ chấp nhận Khoản vay
Tỷ lệ quá hạn
TTTD đầy đủ
TTTD không đầy đủ
40%
1.08%
2.92%
60%
1.90%
3.35%
75%
3.04%
4.07%
100%
9.31%
9.31%
(nguồn: thử nghiệm Guatemalan của các chuyên gia Hoa Kỳ, tài liệu hội thảo đổi mới hoạt động tín dụng VCB – 8/2004)
Với việc cho phép 60% khoản vay được chấp nhận, khi sử dụng TTTD không đầy đủ sẽ phát sinh tỷ lệ nợ quá hạn là 3.35% so với 1.90% khi sử dụng TTTD đầy đủ.
Nói cách khác, tỷ lệ nợ quá hạn khi sử dụng TTTD không đầy đủ cao hơn 76.3% khi sử dụng TTTD đầy đủ.
Bảng 2. Số liệu phân tích chứng minh tác động đẩy TTTD
Tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ chấp nhận khoản vay
TTTD đầy đủ
TTTD không đầy đủ
3%
74.80%
39.80%
4%
83.20%
73.7%
5%
88.9%
84.60%
6%
93.10%
90.80%
(nguồn: thử nghiệm Guatemalan của các chuyên gia Hoa Kỳ, tài liệu hội thảo đổi mới hoạt động tín dụng VCB – 8/2004)
Với việc chọn tỷ lệ nợ quá hạn là 4%, khi sử dụng TTTD đầy đủ bạn sẽ chấp nhận được tỷ lệ 83.20% các khoản xin vay, trong khi đó bạn sẽ chỉ chấp nhận được 73.70% các khoản vay nếu bạn sử dụng TTTD không đầy đủ.
Như vậy, nếu có 100 000 khoản xin vay bạn sẽ từ chối 11 000 khoản xin vay một cách lãng phí (không phát sinh nợ quá hạn) nếu bạn sử dụng TTTD không đầy đủ.
Mô hình này đã chứng minh, với hiệu ứng chặn, nó giúp ngăn chặn những khách hàng xấu trong việc tiếp cận tín dụng ngân hàng và hiệu ứng đẩy thì ngược lại, nó giúp các khách hàng tốt có nhiều cơ hội tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng, với mức lãi suất thấp hơn (do giảm chi phí điều tra thông tin). Đặc biệt, nó hỗ trợ đắc lực cho việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, loại hình chiếm trọng lớn và có vai trò quan trọng đối với các nước đang phát triển. Ngoài ra, nó còn có tác dụng tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu người vay từ khu vực không chính thức sang khu vực chính thức.
Bên cạnh đó, chấm điểm tín dụng là cơ sở để ngân hàng xây dựng danh mục khách hàng, chính sách khách hàng và chính sách tín dụng thích hợp.
1.2.3.4. Xây dựng danh mục khách hàng và chính sách khách hàng
Trên cơ sở kết quả chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp, ngân hàng xây dựng chính sách khách hàng như: chính sách về lãi suất, hạn mức tín dụng, thời hạn cấp tín dụng…
Đối với những doanh nghiệp có mức điểm cao, tức là độ an toàn cao, ngân hàng sẽ áp dụng chính sách ưu đãi: cho vay với lãi suât thấp, số lưọng cho vay nhiều hơn, điều kiện cho vay được nới lỏng. Ngược lại, đối với những doanh nghiệp độ tín nhiệm thấp, cũng đồng nghĩa với những khoản cấp tín dụng hàm chứa nhiều rủi ro, ngân hàng sẽ áp dụng chính sách cho vay và biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn, nhằm hạn chế khả năng rủi ro xảy ra.
1.2.3.5. Xây dựng chính sách tín dụng
Dựa trên cơ sở điểm tín nhiệm tín dụng của doanh nghiệp vay vốn, và danh mục khách hàng, chính sách khách hàng, ngân hàng xây dựng chính sách tín dụng, áp dụng các kỹ thuật cho vay phù hợp đối với mỗi loại khách hàng như: Đối với khách hàng có độ tín nhiệm thấp, ngân hàng sẽ áp dụng kỹ thuật cấp tín dụng có đảm bảo. Ngược lại, những khách hàng có độ tín nhiệm cao, ngân hàng áp dụng kỹ thuật cấp tín dụng không đảm bảo (cho vay tín chấp). Ví dụ như tại Việt Nam, trong những năm 90, các ngân hàng chỉ được phép cho vay có đảm bảo trừ với các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả và cho vay hộ nông dân dưới 5 triệu đồng. Đến nay, nghị định 178/1999/NĐ – CP ngày 22/12/1999 về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng quy định, việc cho vay không đảm bảo được mở rộng hơn, các tổ chức tín dụng được lựa chọn khách hàng để cho vay không đảm bảo. Khi cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển, hoặc phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ đời sống. Tuy nhiên, khách hàng vay không đảm bảo phải hội đủ một số điều nhất định, trong đó có điều kiện là: doanh nghiệp phải có tín nhiệm với tổ chức cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi, phải có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ…
1.2.3.6. Chấm điểm tín dụng doanh nghiệp vay vốn giúp góp phần thực hiện nguyên tắc cho vay của ngân hàng.
Khi cấp tín dụng, ngân hàng thương mại phải yêu cầu doanh nghiệp thực hiện nguyên tắc cho vay. Theo quyết định số 284/2000/QĐ – NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng như sau:
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng
- Hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng
- Việc đảm bảo tiền vay thực hiện theo quyết định của chính phủ và của thống đốc ngân hàng nhà nước.
Các nguyên tắc cho vay được thể hiện cụ thể trong hợp đồng tín dụng. Việc chấm điểm tín dụng như đã phân tích ở trên, được tiến hành trước khi cấp tín dụng (tức là trước khi hợp đồng tín dụng được thiết lập) và việc tái xét xếp hạng được tiến hành theo định kỳ (tức là sau hợp đồng tín dụng đã được ký kết), dựa trên cơ sở phân tích khả năng và thiện chí trả nợ khách hàng với mục đích hạn chế rủi ro. Đây là biện pháp phòng bệnh nhằm thực hiện tốt các nguyên tắc cho vay của ngân hàng đặc biệt là nguyên tắc: Hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Kết luận mục 1.2.3.
Chấm điểm tín dụng là phương pháp đo lường rủi ro tín dụng tiến tiến, với những hiệu quả cụ thể chứng tỏ sự cần thiết nên áp dụng phương pháp chấm điểm tín dụng như:
Giảm chi phí & tiết kiệm thời gian quyết định cho vay
Cấp được nhiều khoản vay hơn
Kiểm soát rủi ro có hiệu quả
Thu hẹp những chênh lệch có yếu tố con người khi quyết định cho vay
Tập trung thời gian vào việc thẩm định các khoản vay lớn và giải quyết những khoản vay có vấn đề.
Phương pháp này đã được nhiều ngân hàng trên thế giới và các ngân hàng hàng đầu Việt Nam đã áp dụng nhằm:
Nâng cao chất lượng, rút ngắn thời gian thẩm định
Chủ động trong quản lý khách hàng: định kỳ đánh giá, áp dụng các biện pháp thích hợp trong quá trình cho vay
Cơ sở để xây dựng chính sách khách hàng ( ví dụ giá cả, )
Chuẩn hoá việc thu thập và quản lý thông tin khách hàng.
1.2.4. Ứng dụng kết quả chấm điểm tín dụng.
Có thể ứng dụng ngay
Ra quyết định tín dụng (cấp hay không cấp, giới hạn, lãi suất…)
Như đã nói ở trên, mấu chốt của việc chấm điểm tín dụng là quy việc đánh giá khoản vay từ nhiều yếu tố về duy nhất một yếu tố là điểm tín dụng hoặc hạng tín nhiệm. Nên ứng dụng hàng đầu của kết quả chấm điểm tín dụng là phục vụ cho việc ra quyết định cấp tín dụng và giám sát khoản vay.
Ví dụ, khách hàng có hạng tín nhiệm cao nhất (AA+) được ưu tiên đáp ứng tối đa nhu cầu tín dụng và mức ưu đãi về lãi suất, phí, thời hạn và biện pháp đảm bảo tiền vay.
Hoàn thiện chính sách tín dụng
Gợi ý về ứng dụng trong tương lai
Thang điểm tín dụng tạo điều kiện dễ dàng cho việc chứng khoán hoá các khoản vay dựa trên đặc tính chung về rủi ro. Có thể thấy tiềm lực của việc chứng khoán hoá những khoản vay của DNVVN trên thị trường thế chấp thứ cấp khi nhìn vào các thị trường chứng khoán phát triển như Mỹ, nơi mà thang điểm của Fair, isaac “trở thành ngôn ngữ chung của thị trường những thế chấp lớn của phố Wall”
Công nghệ internet cho phép làm điều này: một công ty đánh giá yêu cầu vay của một doanh nghiệp nhỏ khác về tín dụng thương mại có thể mua thông tin đánh giá rủi ro tín dụng trực tuyến trong vòng một phút. Những nhà cho vay truyền thống tham gia bằng cách cung cấp thông tin dịch vụ này trên những trang Web được xây dựng đăc biệt cho các DNVVN, khách hàng của họ có thể dùng dịch vụ này để giảm tổn thất từ những việc trao đổi nợ xấu.
Tóm lại, những ứng dụng trong tương lai, khi các điều kiện kinh tế nói chung, điề._.xây dựng mô hình phải huy động toàn bộ dự liệu của hệ thống Habubank nhưng trong giai đoạn đầu thử nghiệm, chấm điểm chỉ nên áp dụng tại hội sở chính và một số chi nhánh cấp 1. Khi hệ thống được hoàn thiện mới triển khai rộng khắp.
Tổ chức bộ máy chấm điểm tín dụng
Hoạt động chấm điểm tín dụng phải được tiến hành bởi những cán bộ có phẩm chất đạo đức và năng lực tốt và có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin hiện đại.
Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại
Trong xu hướng hội nhập, cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng. Nắm bắt đầy đủ chính xác, kịp thời những thông tin có liên quan đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng là chìa khoá quan trọng dẫn đến sự thành công, nhưng sự thành công này không thể thiếu ứng dụng công nghệ thông tin. Công tác chấm điểm tín dụng đòi hỏi việc thu thập, xử lý thông tin với khối lượng lớn. Các thông tin và kết quả cùng thực tế khoản tín dụng của khách hàng phải được liên kết và thuận tiên cho thống kê. Từ đó, cung cấp thông tin nhanh, chính xác, đầy đủ để nhà quản trị có thông tin hữu hiệu đưa ra quyết định tín dụng hiệu quả, vừa giảm rủi ro vừa mở rộng tín dụng.
Ngân hàng nên có kế hoạch và phát triển công nghệ thông tin phù hợp với chiến lược hoạt động kinh doanh của mình, nhưng phải đảm bảo thông tin phù hợp với chiến lược hoạt động kinh doanh của mình, đảm bảo định hướng chung của ngân hàng Nhà nước hoặc hiệp hội ngân hàng để có thể tạo được sự liên kết với toàn bộ hệ thống, cung cấp và khai thác thông tin nhanh và chính xác
Lựa chọ mô hình áp dụng công nghệ thông tin hiện đại, có hiệu quả nhưng phải phù hợp khả năng tài chính và quy mô ngân hàng.
Phát triển công nghệ thông tin phải trên cơ sở đầu tư thiết bị đồng bộ.
Song song với đầu tư thiết bị công nghệ thông tin, phải chú ý tuyển chọn, đào tạo cán bộ để khai thác sử dụng tối ưu các tiện ích.
Tổ chức bộ máy thực hiện
Việc chấm điểm tín dụng tự động không có nghĩa là hoàn toàn bỏ qua các hoạt động đánh giá thủ công. Hơn nữa, con người vận hành máy móc. Do vậy, cán bộ chấm điểm tín dụng phải thông thạo việc thu thập và xác minh thông tin, thông thạo việc vận hành chương trình chấm điểm tín dụng. Trong quá trình làm việc phải luôn giữ thái độ thận trọng cần thiết để tránh ra quyết định tín dụng một cách máy móc.
Hiện tại, điều kiện về con người và vật chất đều còn hạn chế, habubank có thể để cán bộ tín dụng tự mình thực hiện chấm điểm tín dụng. Tuy nhiên, điều này sẽ làm giảm tính khách quan trong thực hiện. Khi có điều kiện, ngân hàng nên có riêng một bộ phận chuyên tiến hành chấm điểm tín dụng.
Để có được chất lượng thông tin tốt, cần tổ chức hướng dẫn nghiệp vụ và tạo điều kiện vật chất, kỹ thuật để cán bộ tín dụng có thể khai thác tốt các nguồn thông tin sau:
Nguồn từ doanh nghiệp vay vốn: Yêu cầu doanh nghiệp cung cấp báo cáo tài chính theo định kỳ, (báo cáo tài chính cho phép ta có cái nhìn khái quát về quá khứ, từ đó dự đoán khả năng trả nợ của doanh nghiệp trong tương lai). Tuy nhiên không lệ thuộc quá vào các báo cáo này, do báo cáo tài chính chưa được kiểm toán.
Một số thông tin có thể thu thập thông qua thực tế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vay nợ như: thăm quan của cán bộ tín dụng nơi sản xuất, văn phòng làm việc của doanh nghiệp vay vốn, kết hợp trao đổi với những nhà cung cấp và công nhân viên của doanh nghiệp được quan sát và ghi chép lại, nhằm tìm hiểu uy tín, năng lực lãnh đạo, số lượng chất lượng nguồn nhân lực…
Nguồn thông tin thu thập từ nội bộ ngân hàng: Hồ sơ khách hàng tại ngân hàng: số tiền vay, tình hình thanh toán tiền vay gốc và lãi, tình hình hoạt động từ tài khoản tiền gửi (lấy thông tin từ phòng tín dụng, phòng kế toán). Ngân hàng nên thực hiện chia sẻ thông tin giữa các chi nhánh trong hệ thống và xây dựng ngân hàng dữ liệu.
Nguồn thông tin bên ngoài:
Các tổ chức kinh tế đã từng có quan hệ với doanh nghiệp: đơn vị cung cấp nguyên vật liệu, đơn vị mua hàng hoá sản phẩm của doanh nghiệp, cơ quan thuế
Sách báo tạp chí chuyên ngành
Các doanh nghiệp cạnh tranh
Dữ liệu kinh tế của từng ngành do hiệp hội đoàn thể, hội nghị hội thảo ngành…
Thông tin từ CIC
Thẩm định lại nguồn thông tin: Kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp, tính thống nhất (số liệu có đầy đủ, liên tục, thống nhất), có thể dựa vào xác minh của Kiểm toán
Để có nhân sự tiến hành chấm điểm tốt cần chú trọng việc đào tạo nguồn nhân lực một cách bài bản, nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức
Xây dựng và triển khai chương trình đào tạo và đào tạo cán bộ làm công tác phân tích, chấm điểm xếp hạng doanh nghiệp
Quy hoạch, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ hiện có cho phù hợp công tác và mô hình tổ chức có chấm điểm tín dụng. Bố trí những cán bộ có đạo đức và năng lực làm công tác phân tích xếp hạng doanh nghiệp, và có chế độ đãi ngộ phù hợp
Có như vậy, việc chấm điểm tín dụng mới đem lại nhiều thông tin hữu ích.
Phối hợp đồng bộ với các nghiệp vụ khác
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, các loại rủi ro được quản lý bởi những bộ phận khác nhau sẽ không thấy được tác động tổng thể của rủi ro nên khó xác định phương pháp đo lường rủi ro và đưa ra quyết định phù hợp. Do đó ngân hàng nên xây dựng hệ thống thông tin quản lý thuộc bộ phận quản lý rủi ro (trực thuộc hoạt động quản trị) có nhiệm vụ đo lường và cung cấp thông tin về các loại rủi ro cho hội đồng quản trị
Phát triển các dịch vụ ngân hàng như dịch vụ thanh toán, trả lương, giao nhận tiền, dịch vụ quản lý tài sản, … nhằm thu hút khách hàng quan hệ thanh toán và gửi tiền tại ngân hàng. Điều này vừa nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngân hàng vừa tạo nguồn vốn cho hoạt động tín dụng, đặc biệt nó giúp cho ngân hàng hiểu rõ hơn về doanh nghiệp.
Sử dụng kết quả chấm điểm tín dụng
Trong các hệ thống hoàn toàn tự động, điểm tín dụng là tiêu chí duy nhất để xác định khoản cho vay có được thực hiện hay không? Tuy nhiên, trong bối cảnh của Việt Nam, có thể có những doanh nghiệp hoạt động tốt nhưng thiếu thông tin lịch sử về tín dụng và có ít thông tin tài chính, do đó, không đủ tiêu chuẩn theo hệ thống chấm điểm cứng nhắc.
Do vậy, kết quả chấm điểm tín dụng DNVVN mà Habubank thu được không phải là tiêu chí duy nhất để quyết định cho vay. Ảnh hưởng của nó tới quyết định cho vay có thể đạt ở mức 50% tới 80%. Nó được sử dụng để xem xét mức độ cần tập trung vào khách hàng. Với những khách hàng có điểm hạng ưu hoặc kém, có thể nhanh chóng đi đến duyệt vay hoặc từ chối. Tập trung việc xem xét thêm vào những khách hàng có điểm ở mức trung bình.
Tuy nhiên trong giai đoạn đầu thực hiện, kết quả chấm điểm tín dụng chỉ nên dùng để tham khảo và phục vụ hoàn chỉnh mô hình.
Kết quả chấm điểm này cần được tập trung vào ngân hàng dữ liệu trên máy vi tính để thuận tiện cho thống kê, tổng hợp thông tin phục vụ cho hoàn thiện hệ thống chấm điểm, quản trị rủi ro, chính sách khách hàng, chính sách marketing.
3.2.3. Đánh giá khả năng áp dụng chấm điểm tín dụng KH DNVVN tại Ngân hàng Nhà Hà Nội
Nội dung bảng chấm:
Về các chỉ tiêu sử dụng thông tin cá nhân của chủ doanh nghiệp, Habubank đã có 4 năm kinh nghiệm chấm điểm tín dụng tiêu dùng. Thực tế cho thấy, các chỉ tiêu mà Habubank lựa chọn tương đối phù hợp, thuận tiện cho thu thập thông tin, khả năng dự báo của bảng chấm khá tốt. Với các chỉ tiêu sử dụng thông tin của doanh nghiệp, dựa vào điều kiện cơ sở dữ liệu của Habubank, kết hợp với chuyên gia có thể cho bảng chấm có chất lượng.
Thông tin:
Hệ thống được xây dựng nhằm mục đích chấm điểm DNVVN. Như đã phân tích về đặc điểm của các DNVVN là đối tượng khách hàng của Habubank, việc có được thông tin tài chính đáng tin cậy của các doanh nghiệp này là khó khăn. Nhưng Ngân hàng có thể thu thập một số thông tin quan trọng thông qua các quyết toán thuế năm, và báo cáo của doanh nghiệp hàng tháng nộp qua cơ quan thuế để tham chiếu độ chính xác và điều chỉnh hợp lý.
VD: hàng tháng để xác định chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế, Ngân hàng dựa vào báo cáo nhập, xuất, tồn vật tư; bảng thanh toán lương, báo cáo quyết toán năm trước (để ước tính chí phí khấu hao tài sản cố định) và thông qua tờ kê khai thuế có thể biết được doanh thu. Từ doanh thu và chi phí sẽ tính được lợi nhuận trước thuế. Ngoài ra, ngân hàng có thể thu thập thông tin về doanh nghiệp từ nội bộ Ngân hàng, tạp chí chuyên ngành, thông tin phi tài chính.
Còn nguồn số liệu cá nhân chủ doanh nghiệp và các thông tin phi tài chính khác thì ngay cả tại các nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam cũng vẫn khá sẵn có.
Với kết cấu bảng chấm điểm giản lược, chú trọng dữ liệu cá nhân và dữ liệu phi tài chính của doanh nghiệp, thông tin có thể thu thập được là đủ cung cấp dữ liệu cho chấm điểm.
Con người:
Sau 17 năm hoạt động, Habubank đã có khá nhiều cán bộ tín dụng vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào đội ngũ này thì chưa đủ. Bù lại, những cán bộ tín dụng có tuổi đời và tuổi nghề trẻ tại habubank do được tuyển chọn kỹ càng nên đều năng động và ham học hỏi. Hiện nay, số cán bộ tín dụng tại Habubank vào khoảng 150 người, 75% có trình độ đại học và 25% có trình độ trên đại học. Trong giai đoạn 2006 – 2010 Habubank dự tính tuyển dụng thêm khoảng 120 cán bộ tín dụng nữa. Quy mô cán bộ tín dụng của Habubank tuy nhỏ nhưng toàn bộ số nhân viên này đều thành thạo tin học văn phòng, khả năng khai thác cập nhật thông tin cao. Mỗi cán bộ tín dụng Habubank đều được trang bị một máy tính nối mạng. Từ đó kết luân, Habubank hoàn toàn có thể huy động được nguồn cán bộ chuyên thực hiện chấm điểm tín dụng có đủ năng lực.
Cơ sở vật chất:
Như đã nói ở trên, công tác tin học hoá đã được Habubank chú trọng từ 10 năm trở lại đây. Tuy nhiên, do những hạn chế về tài chính nên hệ thống phần mềm banking, phần mềm quản lý thông tin của ngân hàng chưa được thay thế để bắt kịp được tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin. Năm 2005, với quyết tâm nâng cao chất lượng cơ sở vật chất phục vụ quản lý và cung cấp dịch vụ, phù hợp với định hướng mở rộng mạng lưới, quy mô ngân hàng, Habubank đang mời thầu lắp đặt phầm mềm tin học mới, hiện đại và sẽ đưa vào ứng dụng trong năm 2006 này. Đây là điều kiện thuận lợi để triển khai công tác chấm điểm tín dụng.
Kinh nghiệm
Ngân hàng đã kết hợp chấm điểm tín dụng vào quy trình tín dụng cá nhân. Việc kết hợp này đem lại những kết quả đáng kể như chuẩn hoá và đơn giản hơn việc đánh giá khách hàng, bên cạnh đó cũng còn hạn chế do cách tổ chức chấm điểm và quản lý thông tin chấm điểm. Đây có thể là những kinh nghiệm quan trọng để Habubank có thể kết hợp chấm điểm tín dụng vào quy trình tín dụng DNVVN tốt hơn.
3.2.4. Lợi ích của việc ứng dụng chấm điểm tín dụng DNVVN có thể đạt tới.
Thực tế đã chứng minh, phát triển tín dụng cho các DNVVN có thể đem lại lợi ích to lớn cho ngân hàng. Tại các nước phát triển, các ngân hàng không có sự lựa chọn nào khác ngoài phát triển cho vay đối với các DNVVN bởi ưu thế nổi bật của DNVVN trong nền kinh tế. Đối với các nền kinh tế chuyển đổi, cho vay DNVVN ngày càng trở nên quan trọng, đặc biệt khi cạnh tranh đang tăng lên để giành các khách hàng lớn, do đó các ngân hàng phải phát triển thị trường DNVVN.
Trong khi nhận thức của các ngân hàng về rủi ro của DNVVN (đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập) so với các công ty lớn (thường bị áp lực bởi các thông tin tài chính đáng tin cậy, ký quỹ và theo dõi tín dụng ) là không hợp lý, việc sử dụng kỹ thuật quản lý rủi ro hiện đại cho phép đánh giá tổn thất có thể xảy ra và việc sử dụng công nghệ thông tin để ước tính tổn thất và quản lý rủi ro (không phải là phòng ngừa rủi ro) có thể giúp cho việc xây dựng danh mục cho vay và cho thuê hợp lý.
Trong lĩnh vực cho vay đối với DNVVN, ưu thế của hệ thống tính điểm tín dụng là:
a. Bằng việc chuẩn hoá quy trình đánh giá tín dụng tại các ngân hàng, tính điểm tín dụng cho phép giảm bớt chi phí và thời gian cho vay (hay cho thuê) đối với các DNVVN, do đó cho phép các tổ chức tín dụng mở rộng vốn vay và khách hàng.
b. Nó cho phép các ngân hàng xây dựng được quy trình thẩm định tín dụng chặt chẽ hơn, qua đó, kiểm soát tín dụng được chính xác hơn.
c. Tính điểm tín dụng sẽ giúp giảm bớt sự phụ thuộc nặng nề của ngân hàng vào ký quỹ, bằng việc đánh giá chủ doanh nghiệp hay nhà quản lý. Điều này đăc biệt có lợi cho doanh nghiệp trẻ trong tình trạng thiếu báo cáo thống kê về kinh doanh và các yêu cầu bảo đảm tín dụng khác.
d. Nó cho phép dỡ bỏ các thiên vị cá nhân (đặc biệt trở ngại đối với các DNVVN) đang tồn tại trong quá trình thẩm định tín dụng tại các ngân hàng.
e. Bằng việc giảm bớt các công việc liên quan đến thẩm định, nó cho phép giảm bớt nhân sự trong các tổ chức tín dụng để tập trung nhiều hơn vào quản lý các khoản vay khó, và kết quả là, tính điểm tín dụng sẽ giúp cho việc cho vay của các tổ chức tín dụng hướng vào các DNVVN hiệu quả và có lãi.
f. Công ty tài chính quốc tế (IFC) cho rằng cho vay theo kiểu quan hệ và cho vay với các công ty truyền thống không thể thu được lợi nhuận từ cho vay các DNVVN vì chi phí đánh giá các khoản vay nhỏ khá cao. Tuy nhiên, những tiến bộ nhanh chóng về công nghệ thông tin và hệ thống tính điểm tín dụng thu được từ kinh nghiệm cho vay khách hàng có thể là cơ sở cho hoạt động cho vay DNVVN có lợi nhuận. Kĩ thuật tính điểm tín dụng có thể làm giảm chi phí giao dịch và cải thiện quản lý rủi ro. Tuy nhiên, do phải đầu tư vào công nghệ thông tin, điều này đòi hỏi quy mô và những cam kết nghiêm túc đối với việc cho vay các DNVVN.
g. Thực tiễn cho thấy, cách tiếp cận quy mô và hợp lý đối với cho vay DNVVN giờ đây được thực hiện cùng với việc sử dụng hệ thống tính điểm tín dung.
h. Các thông tin thu được từ hệ thống này có thể được dùng một cách hiệu quả để phân đoạn khách hàng, ví dụ có thể đưa ra ranh giới giữa những khách hàng được coi là khách hàng DNVVN và những khách hàng là doanh nghiệp lớn. Phương pháp chấm điểm tín dụng cũng cho phép ngân hàng định giá các khoản cho vay theo mức độ rủi ro.
3.3. Một số kiến nghị với các cơ quan hữu quan.
Những nhân tố ảnh hưởng tới xếp hạng tín nhiệm các doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng thương mại như hệ thống chỉ tiêu chuyên gia để tham khảo, chất lượng báo cáo tài chính của doanh nghiệp khách hàng, tinh thần trách nhiệm của cán bộ chấm điểm….
Để công tác chấm điểm tín dụng được thực hiện thuận lợi và hiệu quả, cần có sự cải thiện đồng bộ cả các yếu tố bên trong và bên ngoài ngân hàng. Đặc biệt là vấn đề về tiêu chuẩn so sánh và chất lượng thông tin.
Tiêu chuẩn để so sánh, đánh giá có phù hợp không? Theo kinh nghiệm các ngân hàng trên thế giới thường sử dụng hệ số trung bình ngành, nhóm ngành do cơ quan thống kê thông báo hàng năm, là một trong các tiêu chuẩn để so sánh. Các kết quả chấm điểm và xếp hạng tín nhiệm của các tổ chức chuyên nghiệp cũng rất được ưa chuộng.
Thông tin thu thập có đầy đủ, chính xác đến mức độ nào? Thông tin là vấn đề quyết định đến kết quả xếp hạng tín nhiệm các doanh nghiệp. Để có được thông tin đầy đủ, chính xác cần có hệ thống chuẩn mực kế toán và hệ thống tài khoản quốc gia về phân ngành kinh tế trong thống kê phải tương thích. Bên cạnh đó, cần có sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại để vừa giúo cho việc thu thập thông tin, vừa giúp cho việc xử lý, phân tích chấm điểm doanh nghiệp vay vốn đảm bảo yêu cầu nhanh, chính xác và hiệu quả.
Do vậy trong thời gian tới, các đơn vị hữu quan cần thực thi một vài biện pháp nhằm hỗ trợ cho việc chấm điểm tín dụng các doanh nghiệp vay vốn tại các ngân hàng thương mại, cụ thể:
Bộ tài chính phát triển công ty kiểm toán độc lập và hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kế toán
Chính phủ thành lập tổ chức chuyên nghiệp xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp, có thể giao cho CIC của Ngân hàng Nhà nước hoặc từ Uỷ ban chứng khoán Nhà nước thực hiện.
Tổng cục thống kê xây dựng và công bố các chỉ tiêu tài chính trung bình ngành.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần tăng cường hơn nữa hiệu quả công tác thông tin tín dụng.
KẾT LUẬN
DNVVN để có thể tồn tại và phát triển thì phải không ngừng nâng cao quy mô cũng như chất lượng hoạt động kinh doanh của mình. Do đó các DNVVN cần có vốn, thậm chí rất nhiều vốn. Vốn tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các DNVVN thực hiện những mục tiêu này và qua đó giúp DNVVN thực hiện vai trò của mình đối với nền kinh tế.
Mở rộng cho vay DNVVN là định hướng chiến lược của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội. Nhưng cũng như hầu hết các ngân hàng khác, năng lực tài chính, năng lực quản lý, uy tín thấp của DNVVN đặt ra nhu cầu cấp thiết về một giải pháp nâng cao năng lực đo lường rủi ro cho DNVVN, rút ngắn thời gian xét duyệt, giảm chi phí nghiệp vụ….
Đưa nội dung chấm điểm tín dụng vào quy trình tín dụng DNVVN của habubank là một hướng mà ta có cơ sở để khẳng định đó là lựa chọn hợp lý cho để hoàn thiện quy trình tín dụng của habubank nhằm thoả mãn các yêu cầu trên. Việc áp dụng chấm điểm tín dụng sẽ giúp: (i)Giảm chi phí & tiết kiệm thời gian quyết định cho vay; (ii)Cấp được nhiều khoản vay hơn; (iii) Kiểm soát rủi ro có hiệu quả; (iv)Thu hẹp những chênh lệch có yếu tố con người khi quyết định cho vay; (v)Tập trung thời gian vào việc thẩm định các khoản vay lớn và giải quyết những khoản vay có vấn đề.
Thực tế, phương pháp này đã được nhiều ngân hàng trên thế giới và các ngân hàng hàng đầu Việt Nam đã áp dụng nhằm: (i)Nâng cao chất lượng, rút ngắn thời gian thẩm định; (ii)Chủ động trong quản lý khách hàng: định kỳ đánh giá, áp dụng các biện pháp thích hợp trong quá trình cho vay; (iii)tạo cơ sở để xây dựng chính sách khách hàng ( ví dụ giá cả, ); (iv)Chuẩn hoá việc thu thập và quản lý thông tin khách hàng và họ đã thành công.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Công Nghiệp, Lê Phúc Tiến, 1999, Xếp hạng tín nhiệm – Nguyên lý và thực tiễn, NXB Tài Chính.
2. Tiến sỹ Trần Đắc Sinh, 2002, Định mức tín nhiệm tại Việt Nam, NXB Tp Hồ Chí Minh.
3. Sổ tay tín dụng ngân hàng Công thương Việt Nam
4. Báo cáo hội nghị tổng kết công tác tín dụng ngân hàng Ngoại thương Việt Nam năm 2004.
5. Giáo trình Ngân hàng thương mại, TS Phan Thị Thu Hà, ĐH kinh tế quốc dân.
6. Giáo trình nghiệp vụ tín dụng, PGS. TS Nguyễn Văn Tiến, Học viện Ngân hàng.
7. Peter S.ROSE, 2001, Quản trị NHTM, NXB tài chính
8. David Cox, 1997, Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Chính trị quốc gia,
9. F.S Miskin, 1999, Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học kỹ thuật
10. Báo cáo thường niên Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội 2002, 2004.
11. Các văn bản về quy trình, quy chế, định hướng tín dụng, báo cáo tín dụng của Habubank.
12. Tài liệu hướng dẫn chấm điểm tín dụng của một số NHTMCP (Á Châu, Đông Á, Techcombank, VP Bank)
13. Giáo trình tài chính doanh nghiệp, 2003, PGS. TS. Lưu Thị Hương, ĐH Kinh tế quốc dân.
14. Nguyến Tấn Bình, 2002, Phân tích quản trị tài chính, NXB ĐHQG Tp Hồ Chí Minh.
15. Một số tạp chí chuyên ngành tài chính ngân hàng năm 2002 – 2005.
16. Một số trang tin tức điện tử.
17. Website Habubank, viện kinh tế Tp Hồ Chí Minh, VCCI, cơ quan hỗ trợ DNVVN Việt Nam).
18. Giáo trình quản lý chất lượng trong các tổ chức, GS. TS. Nguyễn Đình Phan, NXB Giáo Dục, 2002.
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1. Chấm điểm tín dụng và chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng với khách hàng Doanh nghiệp vừa và nhỏ. 3
1.1. Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 3
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ 3
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ 3
1.1.1.2. Đặc điểm các doanh nghiệp vừa và nhỏ 3
1.1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế. 5
1.1.2. Tín dụng ngân hàng với khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ 7
1.1.2.1. DNVVN, thị trường mục tiêu hiện tại của rất nhiều NHTM 7
1.1.2.2. DNVVN khó tiếp cận vốn tín dụng Ngân hàng 8
1.1.2.3. Đặc điểm các khoản tín dụng ngân hàng dành cho DNVVN. 9
1.2. Phương pháp chấm điểm tín dụng tại NHTM 10
1.2.1. Khái niệm và mục đích chấm điểm tín dụng doanh nghiệp 10
1.2.2. Nội dung phương pháp chấm điểm tín dụng 11
1.2.2.1. Nguyên tắc chấm điểm tín dụng 11
1.2.2.2. Quy trình chấm điểm tín dụng 11
1.2.3. Sự cần thiết phải chấm điểm tín dụng doanh nghiệp vay vốn 23
1.2.3.1. Chấm điểm tín dụng xác định hạng mức rủi ro của doanh nghiệp đi vay là cơ sở để quản trị rủi ro tín dụng. 23
1.2.3.2. Chấm điểm tín dụng doanh nghiệp cung cấp chuỗi thông tin có hệ thống về quá khứ và hiện tại về doanh nghiệp làm cơ cở giúp các nhà quản trị ngân hàng đưa ra quyết định chính xác, kịp thời, có hiệu quả. 26
1.2.3.4. Xây dựng danh mục khách hàng và chính sách khách hàng 28
1.2.3.5. Xây dựng chính sách tín dụng 29
1.2.3.6. Chấm điểm tín dụng doanh nghiệp vay vốn giúp góp phần thực hiện nguyên tắc cho vay của ngân hàng. 29
1.2.4. Ứng dụng kết quả chấm điểm tín dụng. 30
1.2.5. Nhân tố ảnh hưởng và điều kiện áp dụng phương pháp chấm điểm tín dụng 31
1.2.5.1. Nhân tố ảnh hưởng 31
1.2.5.2. Điều kiện áp dụng 31
Kết luận chương I 32
Chương 2. Thực trạng hoạt động chấm điểm tín dụng cá nhân và nhu cầu phát triển chấm điểm tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội 33
2.1. Khái quát về Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (Habubank) và các Doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn. 33
2.1.1. Khái quát về Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội 33
2.1.1.1. Sự hình thành và phát triển 33
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức và quản lý rủi ro 35
2.1.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2001 – 2005 37
2.1.2. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn hoạt động 42
2.2. Thực trạng việc áp dụng chấm điểm tín dụng tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội. 44
2.3. Thực trạng hoạt động tín dụng trung dài hạn khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội 47
2.3.1. Định hướng đối tượng tín dụng doanh nghiệp của ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội. 47
2.3.2. Bộ sản phẩm tín dụng trung dài hạn phục vụ khách hàng DNVVN 50
2.3.3. Quy trình tín dụng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ - nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn. 51
2.3.4. Đánh giá kết quả hoạt động tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội. 56
2.3.4. Những vấn đề cần giải quyết để nâng cao chất lượng tín dụng DNVVN của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội 62
Kết luận chương 2 63
Chương 3. Phát triển phương pháp chấm điểm tín dụng nâng cao chất lượng nghiệp vụ tín dụng với khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội. 64
3.1. Phương hướng hoạt đông tín dụng của ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội 64
3.1.1. Phương hướng chung. 64
3.1.2. Phương hướng đối với hoạt động tín dụng khách hàng doanh nghiệp trong giai đoạn 2005 – 2010 65
3.1.3. Những mục tiêu cụ thể trong giai đoạn 2005 -2010 66
3.1.4. Phương hướng tín dụng của Habubank vừa đặt ra yêu cầu vừa tạo điều kiện tiến hành chấm điểm tín dụng. 67
3.2. Giải pháp xây dựng bảng chấm điểm tín dụng với khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội. 67
3.2.1 Cơ sở dữ liệu KH DNVVN hiện có phục vụ cho xây dựng bảng chấm điểm 67
3.2.2. Đề xuất hướng xây dựng bảng chấm điểm tín dụng DNVVN tại Habubank 70
3.2.2.1. Cơ sở đi tới đề xuất. 70
3.2.2.2. Hướng xây dựng bảng chấm diểm tín dụng DNVVN tại Habubank 74
3.2.2.3. Đề xuất việc tổ chức và sử dụng kết quả chấm điểm tín dụng 76
3.2.3. Đánh giá khả năng áp dụng chấm điểm tín dụng KH DNVVN tại Ngân hàng Nhà Hà Nội 79
3.2.4. Lợi ích của việc ứng dụng chấm điểm tín dụng DNVVN có thể đạt tới. 81
3.3. Một số kiến nghị với các cơ quan hữu quan. 83
KẾT LUẬN 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 1. Số liệu phân tích chứng minh tác động chặn TTTD. 27
Bảng 2. Số liệu phân tích chứng minh tác động đẩy TTTD 28
Bảng 3. Tình hình huy động vốn của Habubank giai đoạn 2002 - 2005 37
Bảng 4. Tình hình cho vay của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2001 – 2005 38
Bảng 5. Số lượng khách hàng vay trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2001 - 2005 56
Bảng 6. Tình hình dư nợ tín dụng DNVVN của Ngân hàng TMCP Nhà Hà nội giai đoạn 2001- 2005. 57
Bảng 7. Cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế của Ngân hàng TMCP Nhà Hà nội 58
Bảng 8. Lãi vay thu từ tín dụng trung dài hạn DNVVN của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2001 – 2005. 58
Bảng 9. Tình hình gia hạn nợ trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội 59
Bảng 10. Tình hình nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà hà Nội 61
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNNQD : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
Habubank : Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội
Ngân hàng : Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội
TTTD : Thông tin tín dụng
CIC : trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước.
Phụ lục 1
Bảng chấm điểm tài chính đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành thương mại và dịch vụ
Tên doanh nghiêp Quy mô
Tổng điểm tài chính Ngành
Điểm
Trọng số
Phân loại các loại chỉ số cho các doanh nghiệp
Điểm ban đầu
Điểm theo trọng số
Quy mô lớn
Quy mô trung bình
Quy mô nhỏ
100
80
60
40
20
100
80
60
40
20
100
80
60
40
20
Chỉ tiêu thanh khoản
1. Khả năng thanh khoản
8%
2.1
1.6
1.1
0.8
<0.8
2.3
1.7
1.2
1
<1
2.9
2.3
1.7
1.4
<1.4
2. Khả năng thanh toán nhanh
8%
1.4
0.9
0.6
0.4
<0.4
1.7
1.1
0.7
0.6
<0.6
2.2
1.8
1.2
0.9
<0.9
Chỉ tiêu hoạt động
3. Vòng quay hàng tồn kho
10%
5
4.5
4
3.5
<3.5
6
5.5
5
4.5
<4.5
7
6.5
6
5.5
<5.5
4. Kỳ thu tiền bình quân
10%
39
45
55
60
>60
34
38
44
55
>55
32
37
43
50
>50
5. Doanh thu trên tổng tài sản
10%
3
2.5
2
1.5
<1.5
3.5
3
2.5
2
<2
4
3.5
3
2.5
<2.5
Chỉ tiêu cân nợ
6. Nợ phải trả/tổng tài sản
10%
35
45
55
65
<65
30
40
50
60
<60
25
35
45
<55
7. Nợ phải trả/VCSH
10%
53
69
122
185
<185
42
66
100
150
<150
33
54
81
122
<122
8. Nợ quá hạn/tổng dư nợ ngân hàng
10%
0
1
1.5
2
<2
0
1.6
1.8
2
<2
0
1.6
1.8
2
<2
Chỉ tiêu thu nhập
9. EBIT/doanh thu
8%
7
6.5
6
5.5
<5.5
7.5
7
6.5
6
<6
8
7.5
7
6.5
<6.5
10. EBIT/tổng tải sản
8%
6.5
6
5.5
5
<5
7
6.5
6
5.5
<5.5
7.5
7
6.5
6
<6
11. EBIT/VCSH
8%
14.2
12.2
10.6
9.8
<9.8
13.7
12
10.8
9.8
<9.8
13.3
11.8
10.9
10
<10
Total
100%
Phụ lục 2
Bảng chấm điểm dòng tiền (VCB)
Tên doanh nghiệp
Tổng điểm về dòng tiền
Điểm chuẩn
20
16
12
8
4
Điểm
Hệ số khả năng trả lãi (từ thu nhập thuần)
> 4 lần
>3 lần
>2 lần
>1 lần
<1 lần hoặc âm
Hệ số khả năng trả nợ gốc (từ thu nhập thuần)
> 2 lần
> 1,5 lần
> 1 lần
< 1 lần
Âm
Xu hướng của lưu chuyển tiền tệ thuần trong quá khứ
Tăng nhanh
Tăng
Ổn định
Giảm
Âm
Trạng thái lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động
> Lợi nhuận thuần
Bằng lợi nhuận thuần
< Lợi nhuận thuần
Gần điểm hoà vốn
Âm
Tiền và các khoản tương đương tiền/VCSH
> 2,0
> 1,5
> 1,0
> 0,5
gần bằng 0
Phụ lục 3
Bảng chấm điểm quản lý ngân hàng đầu tư và phát triển
Điểm chuẩn
20
16
12
8
4
Điểm
1
Kinh nghiệm trong ngành của ban quản lý trực tiếp liên quan đến dự án đề xuất
> 20 năm
>10 năm
> 5 năm
> 1 năm
Mới thành lập
2
Kinh nghiệm của ban quản lý
> 10 năm
> 5năm
> 2 năm
> 1 năm
Mới được bổ nhiệm
3
Môi trường kiểm soát nội bộ
Được xây dựng, ghi chép và kiểm tra thường xuyên
Được thiết lập
Tồn tại nhưng không được chính thức hoá hay được ghi chép
Kiểm soát nội bộ hạn chế
Kiểm soát nội bộ đã thất bại
4
Các thành tựu đạt được và các bằng chứng về những lần thất bại trước của ban quản lý
Đã có uy tín/thành tựu cụ thể trong lĩnh vực liên quan đến dự án
Đang xây dựng uy tín/thành tựu trong lĩnh vực dự án hoặc ngành liên quan
Rất ít hoặc không có kinh nghiệm/thành tựu
Rõ ràng thất bại trong lĩnh vực liên quan đến dự án trong quá khứ
Rõ ràng ban quản lý có thất bại trong công tác quản lý
5
Tính khả thi của Phương án kinh doanh và dự toán tài chính
Rất cụ thể và rõ ràng với dự toán tài chính cẩn trọng
Phưong án kinh doanh và dự toán tài chính tương đối cụ thể và rõ ràng
Có phương án kinh doanh và dự toán tài chính nhưng không cụ thể rõ ràng
Chỉ có 1 trong 2: Phương án kinh doanh hoặc dự toán tài chính
Không có cả Phưong án kinh doanh và dự toán tài chính
Phụ lục 4
Chấm điểm uy tín giao dịch (Lấy mẫu của ngân hàng Ngoại thương)
a.quan hệ tín dụng
Điểm chuẩn
20
16
12
8
4
Điểm
1
Trả nợ đúng hạn
Luôn đúng hạn trong hơn 36 tháng vừa qua
Luôn đúng hạn trong khoảng từ 12 – 36 tháng qua
Luôn trả nợ đúng hạn trong khoảng 12 tháng vừa qua
Không có thông tin (khách hàng mới)
Không trả nợ đúng hạn
2
Số lần giãn nợ hoặc gia hạn
Không
1 lần trong 36 tháng qua
1 lần trong 12 tháng vừa qua
2 lần trong 12 tháng vừa qua
3 lần trở lên trong 12 tháng vừa qua
3
Nợ quá hạn trong quá khứ
Không
1x30 ngày quá hạn trong vòng 36 tháng qua
1x30 ngày quá hạn trong vòng 12 tháng qua, hoặc 2x30 ngày quá hạn trong vòng 36 tháng qua
2x30 ngày quá hạn trong vòng 12 tháng qua, hoặc 1x90 ngày quá hạn trong vòng 36 tháng qua
3x30 ngày quá hạn trong vòng 12 tháng qua hoặc 2x90 ngày quá hạn trong vòng 36 tháng qua
4
Số lần các cam kết mất khả năng thanh toán(thư tín dụng, bảo lãnh, các cam kết khác)
Chưa từng có
Không mất khả năng thanh toán trong vòng 24 tháng qua
Không mất khả năng thanh toán trong vòng 12 tháng qua
Đã từng bị mất khả năng thanh toán trong vòng 24 tháng qua
Đã từng bị mất khả năng thanh toán trong vòng 12 tháng qua
5
Cung cấp thông tin đầy đủ và đúng hạn cho VCB
Có, trong thời gian trên 36 tháng vừa qua
Có, trong thời gian từ 12 đến 36 tháng qua
Có, trong thời gian dưới 12 tháng qua
Chưa có thông tin gì (khách hàng mới)
Không
b.quan hệ phi tín dụng
Điểm chuẩn
20
16
12
8
4
Điểm
1
thời gian duy trì tài khoản với VCB
>5 năm
3 -5 năm
1 – 3 năm
<1 năm
Chưa có
2
Số lượng NH khác mà khách hàng duy trì tài khoản
Không
1
2 - 3
4 – 5
>5
3
Số lượng giao dịch trung bình hàng tháng với tài khoản tại VCB
>100 lần
60 -100
30 - 60
15 – 30
< 15
4
Số lượng các loại giao dịch với VCB
>6
5 - 6
3 - 4
1- 2
Chưa có
5
Số dư tiền gửi trung bình tháng tại VCB
>300 tỷ
100 – 300 tỷ
50 -100 tỷ
10 – 50 tỷ
<10 tỷ
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36483.doc