mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta không ngừng đổi mới, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng hiện nay của Nhà nước là phải đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, chú trọng đến việc xây dựng v
131 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1724 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhằm đảm bảo cho các cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng hoạt động hiệu quả. Trong đó, việc đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân, hoàn thiện hệ thống pháp luật thực hành quyền công tố là một mắt khâu quan trọng.
Ngày 2/1/2002, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW, về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết chỉ rõ:
Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội...Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác [16].
Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, trong đó có nội dung: “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên cứu hướng tới chuyển thành Viện công tố” [17].
Ngày 2/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định: “Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra” [18].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục ghi nhận các nội dung: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện hệ thống pháp luật; xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh; đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra…
Hiện nay, trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt khi Việt Nam đã chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới, việc giao lưu, ảnh hưởng giữa các nền kinh tế thế giới tất yếu dẫn đến sự ảnh hưởng đan xen lẫn nhau về văn hoá, chính trị, xã hội, trong đó có pháp luật. Quá trình hội nhập, hệ thống pháp luật của mỗi nước ít nhiều có ảnh hưởng đến hệ thống pháp luật của các nước khác trên thế giới; và lẽ tất nhiên hệ thống pháp luật của nước ta phải tự hoàn thiện để dần phù hợp với hệ thống pháp luật chung của thế giới.
Thời gian qua, các cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân dân nói riêng đã có nhiều cố gắng trong việc góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống pháp luật về thực hành quyền công tố còn thiếu đồng bộ, thiếu tính cụ thể, minh bạch, chưa phù hợp, chưa tương thích trong điều kiện hội nhập.
Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài "Hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay" có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn đáp ứng yêu cầu bức xúc của nước ta trong thời kỳ đổi mới.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nhằm hiện thực hoá chủ trương về cải cách tư pháp, trong đó Viện kiểm sát nhân dân sẽ hướng chuyển thành Viện công tố, những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến vấn đề này. Qua tìm hiểu các tài liệu hiện hành cho thấy các công trình khoa học tập trung nghiên cứu theo những khía cạnh sau:
- Nhóm nghiên cứu chung về đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân:
Những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, điển hình như: Lê Minh Thông (Chủ biên): Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (Nxb Khoa học xã hội), Hà Nội, 2001; Ngô Văn Đọn (Chủ biên): Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong các công tác kiểm sát hình sự, (Đề tài khoa học cấp bộ), Hà Nội, 2004; La Thị Sức: Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay (Luận văn thạc sỹ luật học), Hà Nội, 1998; Hoàng Thế Anh: Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam (Luận văn thạc sỹ luật học), Hà Nội, 2006; Khuất Văn Nga: Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thời kỳ đổi mới (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2005; Lê Cảm: Bàn về tổ chức quyền tư pháp-nội dung cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2005; Phạm Hồng Hải: Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2006; Đỗ Văn Đương: Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2006…
- Nhóm nghiên cứu về quyền công tố:
Những công trình là đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, sách chuyên khảo, các bài viết liên quan đến quyền công tố: Lê Hữu Thể (Chủ biên): Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra (Sách tham khảo), Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005; Lê Thị Tuyết Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, (Luận án tiến sỹ luật học), Hà Nội, 2002; Lê Hữu Thể: Bàn về khái niệm quyền công tố, (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2000; Lê Cảm: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2000...
Những công trình khoa học, những bài viết trên đây đã tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói chung; đồng thời đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu về quyền công tố, thực hành quyền công tố trên một số lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện việc “hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay". Mặc dù vậy, các công trình khoa học, các bài viết trên đây là những tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật thực hành quyền công tố, luận văn nêu ra một số quan điểm, phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
+ Phân tích cơ sở lý luận về hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố Việt Nam.
+ Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật thực hành quyền công tố ở Việt Nam.
+ Đề xuất những quan điểm, phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận về quyền công tố và pháp luật thực hành quyền công tố ở Việt Nam và một số nước trên thế giới.
- Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là pháp luật thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân, tập trung chủ yếu từ thời kỳ đổi mới (năm1986) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật nói chung và tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích- tổng hợp, lịch sử- cụ thể; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như: So sánh, thống kê, điều tra xã hội học.
6. Điểm mới khoa học của luận văn
Luận văn là tài liệu chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố ở Việt Nam. Vì vậy có một số điểm mới sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền công tố; thực hành quyền công tố; khái niệm, các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố.
- Chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân của pháp luật và áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố ở Việt Nam hiện nay.
7. ý nghĩa của luận văn
- Kết quả luận văn góp phần làm sáng tỏ, phong phú thêm lý luận về pháp luật nói chung và lý luận hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố nói riêng.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu cho việc nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố đối với các nhà hoạch định chính sách, xây dựng luật và những ai quan tâm đến vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương 8 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận về hoàn thiện pháp luật
thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam
1.1. Khái niệm, nội dung, vai trò của pháp luật về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
1.1.1. Khái niệm pháp luật về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố
Trên thế giới, “quyền công tố” đã xuất hiện từ thời kỳ xa xưa của xã hội loài người. Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của Nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời khỏi công quyền. Quyền công tố có trong tất cả các kiểu Nhà nước; nó ra đời, tồn tại và mất đi cùng với Nhà nước và pháp luật. Khi mới có Nhà nước, quyền công tố chỉ giới hạn trong phạm vi rất hẹp để bảo vệ các lợi ích của giai cấp thống trị. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhận thức về lợi ích công và lợi ích tư, về trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân ngày càng có những thay đổi: Lợi ích cá nhân liên quan đến lợi ích công, tác động qua lại với nhau; chính vì vậy, cần có sự can thiệp của Nhà nước vào đời sống của cá nhân. Từ đó, vai trò công tố càng được đề cao trong xã hội.
Tại Việt Nam, khoa học Luật tố tụng hình sự nói riêng cũng như khoa học pháp lý nói chung, chế định “quyền công tố” chưa được nghiên cứu một cách toàn diện; chính vì vậy, chưa có khái niệm chính thống về quyền công tố. Mặc dù vậy, quyền công tố là một quyền năng quan trọng đã được Viện công tố thực hiện ở nước ta từ năm 1945; từ 1960 đến nay do Viện kiểm sát nhân dân thực hiện. Tuy nhiên, hiểu thế nào là “công tố”, “quyền công tố”, bản chất và nội dung của nó là gì, thì hiện nay vẫn chưa có nhận thức, quan điểm thống nhất chung.
Có quan điểm cho rằng, công tố là “hoạt động tố tụng đối với các vụ án mà trong đó động chạm trực tiếp hay gián tiếp đến các lợi ích của Nhà nước khi mà người đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật” [8].
Theo từ điển tiếng Việt, công tố có nghĩa là “điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước Toà án” [50, tr.204].
Từ điển luật học lại ghi: Công tố "là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội" [51, tr.188].
Thuật ngữ "quyền công tố" lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1980; sau đó tại Hiến pháp năm 1992, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1998, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tổ chức Viện KSND năm 1981, Luật tổ chức Viện KSND năm 1992, Luật tổ chức Viện KSND năm 2002, Pháp lệnh kiểm sát viên năm 2002...
Từ điển luật học định nghĩa về quyền công tố như sau: "Quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh Nhà nuớc đối với người phạm tội" [50, tr.188].
Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước giải thích chính thức nội dung quyền công tố. Có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung, lĩnh vực cũng như phạm vi chủ thể tham gia thực hành quyền công tố. Nhưng về nội dung và phạm vi thực hành quyền công tố (những yếu tố cấu thành quyền công tố) là những yếu tố không thể thay đổi ở bất kỳ quốc gia nào.
Nghiên cứu các tài liệu hiện hành có thể thấy một số quan điểm về quyền công tố như sau:
- Quan điểm thứ nhất đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân (trước khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001). Quan điểm này xuất phát từ chức năng của Viện kiểm sát nhân dân để xem xét quyền công tố; theo đó, tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền công tố. Có nghĩa là ngay cả khi Viện kiểm sát kiến nghị, yêu cầu các cơ quan nhà nước khắc phục, sửa chữa những sai phạm của mình trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội thì đó cũng là hoạt động thực hành quyền công tố. Quan điểm này cho rằng công tố không phải là một chức năng độc lập của Viện kiểm sát, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức hoạt động chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Đây là quan điểm khá phổ biến, đặc biệt là trong ngành Kiểm sát nhân dân từ năm 1960 cho đến khi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 được ban hành. Cơ sở lập luận của quan điểm này chủ yếu dựa vào nội dung các điều luật được quy định trong Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992. Mặt khác, quan điểm này cũng chịu ảnh hưởng của các nhà tố tụng hình sự Liên Xô trước đây.
Khái niệm quyền công tố theo quan điểm trên là chưa chính xác, vì đã đánh đồng quyền công tố với quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đồng thời cũng không phù hợp với các quy định của Hiến pháp và các Luật. Theo quy định của pháp luật nước ta trước khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi thì Viện kiểm sát có hai chức năng: Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chức năng thực hành quyền công tố. Hai chức năng có một số nội dung đan xen, liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau, nhưng về nội dung và phạm vi áp dụng thì giữa chúng vẫn có sự độc lập với nhau. Vì vậy không thể đồng nhất hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát.
- Quan điểm thứ hai cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Toà án, thực hiện sự buộc tội tại phiên toà (Thực hành quyền công tố). Quan điểm này cho rằng việc thực hiện quyền công tố chỉ diễn ra trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự.
Quan điểm này quá thu hẹp khái niệm, nội dung cũng như phạm vi của quyền công tố. Về lý luận cũng như trên thực tế, hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát tại Toà án chỉ là một bộ phận trong nhiều hoạt động thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát.
- Quan điểm thứ ba cho rằng quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật. Quan điểm này cho rằng quyền công tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong tố tụng hình sự; cùng với sự phát triển của xã hội và của các ngành luật, quyền công tố được mở rộng sang các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động. Theo quan điểm này thì nội dung quyền công tố là tổng hợp các biện pháp pháp lý đặc trưng theo luật định mà Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hiện trong hoạt động tố tụng tư pháp; quyền công tố là một nội dung của hoạt động chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và các lĩnh vực tư pháp khác, nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội đều bị phát hiện, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, tăng cường pháp chế thống nhất.
Đây là quan điểm được đưa vào chương trình giảng dạy chính thức của Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội và thường xuyên được nhắc đến trong các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, các chuyên đề tổng kết trước đây của ngành Kiểm sát. Quan điểm này quá mở rộng quyền công tố, dẫn đến xoá nhoà ranh giới và tính đặc thù giữa tố tụng hình sự và các lĩnh vực tố tụng khác; đồng nhất quyền công tố với các quyền năng khác của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động.
- Quan điểm thứ tư cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội. Đó là hoạt động tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác được pháp luật quy định có trách nhiệm xác định kẻ phạm tội cũng như các căn cứ để kết tội và áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội.
Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên tắc tố tụng hình sự đã được thừa nhận ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo đó, mọi tội phạm xảy ra đều xâm phạm đến các lợi ích chung của toàn xã hội, do đó kẻ phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị trừng trị bằng các chế tài hình sự. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đó là Cơ quan điều tra, Cơ quan công tố, Cơ quan xét xử và Cơ quan thi hành án. Như vậy, Toà án, Cơ quan thi hành án cũng là chủ thể thực hành quyền công tố. Quan điểm này đã xoá nhoà ranh giới giữa các chức năng buộc tội và chức năng xét xử trong tố tụng hình sự.
- Quan điểm thứ năm cho rằng quyền công tố bao gồm quyền khởi tố, điều tra vụ án, quyền truy tố và buộc tội bị cáo trước Toà án. Đại diện cho quan điểm này là các luật gia theo truyền thống pháp luật của Pháp. Theo họ, quyền công tố luôn gắn liền với hoạt động buộc tội nhân danh Nhà nước (nhân danh công quyền). Do vậy quyền công tố chỉ được thực hiện trong một lĩnh vực duy nhất, đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Chủ thể tham gia vào hoạt động thực hành quyền công tố chỉ bao gồm Cơ quan điều tra (Điều tra viên) và Cơ quan công tố (Công tố viên). Riêng quyền truy tố kẻ phạm tội ra Toà và thực hành quyền buộc tội nhân danh Nhà nước tại phiên toà chỉ thuộc về Cơ quan công tố. Quyền công tố được sử dụng để bảo vệ không chỉ các lợi ích công (lợi ích chung của toàn xã hội), mà cả lợi ích của cá nhân khi bị hành vi phạm tội xâm hại.
- Quan điểm thứ sáu cho rằng công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm Luật hành chính, Luật dân sự, Luật kinh tế và Luật hình sự; quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó. Theo quan điểm này, quyền công tố chỉ thuộc Nhà nước; Nhà nước không thể không thực hiện quyền công tố khi chính Nhà nước là người ban hành pháp luật, người có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, và đồng thời là chủ thể tham gia vào nhiều quan hệ pháp luật khác nhau. Với tính cách là một quyền năng của Nhà nước, quyền công tố được thực hiện trong tất cả các quá trình giải quyết các vi phạm pháp luật: Tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính. Sự tồn tại quyền công tố trong các hoạt động tố tụng nêu trên là do nhu cầu khách quan, vì Nhà nước không thể không thực hiện quyền lực của mình trong việc giải quyết các vi phạm pháp luật và sự hiện diện công tố như một điều kiện bảo đảm tính hiệu quả của việc giải quyết các vi phạm pháp luật của cơ quan tài phán. Như vậy, quyền công tố trong các hoạt động tố tụng được biểu hiện cụ thể ở các quyền của Viện kiểm sát như quyền khởi tố vụ án (dân sự, hành chính, hình sự, lao động), quyền tham gia tố tụng ở bất cứ giai đoạn nào khi xét thấy cần thiết, quyền yêu cầu Toà án hoặc tự mình điều tra, xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án…Quyền công tố trong các hoạt động tố tụng khác nhau thì không giống nhau về nội dung và hình thức thực hiện. Trong tố tụng hình sự, thực hiện quyền công tố có nghĩa là Nhà nước thực hiện sự buộc tội đối với một con người phạm tội cụ thể, còn trong các hoạt động tố tụng khác, thực hành quyền công tố được hiểu là việc Nhà nước trực tiếp hay gián tiếp quy lỗi cho một người, một pháp nhân nào đó vi phạm pháp luật tương ứng.
- Quan điểm thứ bảy cho rằng, quyền công tố là quyền của Nhà nước đưa các việc làm vi phạm pháp luật liên quan đến lợi ích chung ra Toà để xét xử, vì Nhà nước nhân danh xã hội duy trì trật tự chung bằng pháp luật. Sự can thiệp của Nhà nước vào các việc phạm pháp nói trên là do nhu cầu duy trì mọi xung đột xã hội gắn với trật tự công cộng mà trách nhiệm của Nhà nước phải đứng ra điều hoà; đó là bản chất của quyền lực công. Quyền công tố là quyền Nhà nước nhân danh xã hội truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những người có hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật, nhằm mục đích duy trì trật tự của cộng đồng, trật tự pháp luật, củng cố và phát triển các quan hệ xã hội. Như vậy quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực hình sự, mà còn có cả trong dân sự, hành chính, kinh tế, lao động.
Quan điểm thứ sáu và thứ bảy coi mọi việc đưa ra Toà án để giải quyết đều là do vi phạm pháp luật (liên quan đến trật tự xã hội chung). Trong thực tiễn, hoạt động của Toà án và Viện kiểm sát không phải lúc nào cũng nhằm truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với một người nào đó, mà có những trường hợp chỉ nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ví dụ Viện kiểm sát khởi tố vụ án dân sự, hành chính, lao động vì lợi ích chung hoặc liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần…Hoạt động trên của Viện kiểm sát hoàn toàn không phải là hoạt động thực hành quyền công tố, mà chỉ là hoạt động nhằm thực hiện các thẩm quyền luật định của Viện kiểm sát.
- Quan điểm thứ tám cho rằng, Công tố quyền là quyền được hành xử nhân danh xã hội, vì lợi ích chung cho xã hội, với mục đích là Toà án tuyên một hình phạt đối với người phạm pháp. Đại diện cho quan điểm này là các luật gia miền Nam nước ta trước năm 1975. Theo quan điểm này thì "hành vi đưa các phạm nhân ra Toà để xét xử là sự truy tố. Cái quyền truy tố ấy là công tố quyền, vì là quyền của cộng đồng xã hội trừng trị kẻ phạm pháp qua các đại diện của xã hội và các Thẩm phán được giao phó nhiệm vụ xử hành công tố quyền là những Thẩm phán công tố” [48,tr.6]. Họ phân biệt rõ khái niệm công tố quyền và dân tố quyền. Một tội phạm hình sự xảy ra, phát sinh tố quyền; tố quyền này nhân danh xã hội yêu cầu Toà án tuyên phán một biện pháp chế tài hình sự đối với vi phạm trật tự xã hội do tội phạm gây ra; đây gọi là công tố quyền. Nhưng tội phạm có thể làm phát sinh bên cạnh công tố quyền một tố quyền của tư nhân bị tội phạm gây thiệt hại, đó là quyền yêu cầu Toà án buộc kẻ phạm tội bồi thường thiệt hại cho mình; đó là dân tố quyền theo các luật gia miền Nam. Về bản chất, quyền công tố thuộc về xã hội; do đó phạm vi quyền công tố chỉ giới hạn trong tố tụng hình sự và trước Toà án.
Những quan điểm nêu trên về quyền công tố đều có sự hợp lý ở những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên mỗi quan điểm đều có những nội dung còn bất cập, thể hiện:
- Hoặc là đánh đồng quyền công tố với các chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát, dẫn đến mở rộng phạm vi quyền công tố vượt khỏi lĩnh vực tố tụng hình sự sang các lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, hành chính, kinh tế, lao động.
- Hoặc là coi quyền công tố chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của quyền công tố như là hoạt động độc lập của Viện kiểm sát nhân danh quyền lực công.
- Hoặc là quá thu hẹp phạm vi quyền công tố, coi quyền công tố là quyền của Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Toà án và thực hiện việc buộc tội tại phiên toà hình sự sơ thẩm.
Mặt khác, các quan điểm đó đều có hạn chế là không phân định rõ ràng khái niệm, bản chất, nội dung, phạm vi quyền công tố, hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Nhiều quan điểm cho rằng hai chức năng của Viện kiểm sát (công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật) vừa có tính độc lập tương đối, vừa liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại, bổ sung cho nhau, giữa chúng có những nội dung xâm nhập, đan xen lẫn nhau không thể tách rời; tạo nên sự thống nhất trong chức năng của Viện kiểm sát.
Bên cạnh đó, để đưa ra được quan niệm đúng về quyền công tố, cần phải xem xét nó trong mối liên hệ với tính đặc thù của một lĩnh vực pháp luật cụ thể. “Quyền công tố chỉ có thể được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật mà từ cội nguồn lịch sử của nó đã gắn liền, không thể tách rời với việc nhân danh Nhà nước (nhân danh công quyền) chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự” [46, tr.37]. Tội phạm là vi phạm pháp luật nguy hiểm nhất; kẻ phạm tội xâm phạm trước hết đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội (an ninh, trật tự xã hội), sau đó mới đến lợi ích của người bị hại. Nhà nước nhân danh xã hội dành cho mình quyền trừng trị kẻ phạm tội.
Còn tố tụng dân sự thì đối tượng của nó là các tranh chấp dân sự liên quan đến lợi ích của từng cá nhân. Một trong những nguyên tắc đặc thù của tố tụng dân sự là nguyên tắc tự định đoạt của các đương sự. ý chí, lợi ích, sự tự thoả thuận của các đương sự quyết định sự xuất hiện, vận động và chấm dứt hoạt động tố tụng. Trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh trước hết thuộc về các đương sự; trong khi cốt lõi của tố tụng hình sự là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm phát hiện, khám phá tội phạm, xác định và xử lý kẻ phạm tội.
Trong hoạt động tố tụng hình sự luôn tồn tại ba chức năng tố tụng cơ bản, đó là chức năng buộc tội (kết quả điều tra xác minh hành vi phạm tội), chức năng bào chữa (gỡ tội) và chức năng xét xử.
Với tư cách là một chức năng tố tụng luôn nhằm chống lại một cá nhân cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, chức năng buộc tội thực chất chính là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với kẻ phạm tội. Trong chức năng buộc tội, hình thức buộc tội nhân danh Nhà nước (nhân danh quyền lực công) giữ vai trò là động lực của hoạt động tố tụng; nó thu hút hoạt động của tất cả các chủ thể tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự. Khi đề cập đến vị trí, vai trò của Công tố viên thì các nhà làm luật nước ngoài thường gọi họ là “người buộc tội nhân danh Nhà nước”, dịch ra tiếng Việt là “công tố”.
Như vậy, có thể hiểu:
Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan Viện kiểm sát) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên toà [46].
Quan niệm này đã lột tả được bản chất của quyền công tố, đó là quyền năng đặc biệt của Nhà nước trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Từ những nội dung trình bày trên, có thể rút ra định nghĩa: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, trên cơ sở bảo đảm việc thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội.
Với những phân tích và định nghĩa nêu trên, có thể xác định đối tượng, nội dung, phạm vi của quyền công tố như sau:
* Đối tượng quyền công tố:
Đối tượng quyền công tố là cái mà quyền công tố tác động vào, nhằm mục đích cuối cùng là buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm. Như vậy, đối tượng của quyền công tố chính là tội phạm và người phạm tội.
* Nội dung quyền công tố:
Nội dung của quyền công tố là sự buộc tội (sự cáo buộc của Nhà nước) đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm.
* Phạm vi quyền công tố:
Phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện đến khi tội phạm ấy bị xử lý theo trình tự pháp luật tố tụng hình sự. Về bản chất, quyền công tố xuất hiện đồng thời với thời điểm xuất hiện tội phạm; quyền này chỉ kết thúc khi người thực hiện tội phạm đó bị áp dụng một chế tài hình sự do Toà án tuyên.
1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố
Về khái niệm thực hành quyền công tố hiện nay cũng có nhiều quan điểm khác nhau, chẳng hạn: Có quan điểm đã đồng nhất quyền công tố với thực hành quyền công tố trên các phương diện về đối tượng, nội dung, phạm vi. Quan điểm khác lại gắn việc thực hành quyền công tố với việc thực hiện những nhiệm vụ khác của Công tố viên trong tố tụng hình sự. Có quan điểm mở rộng phạm vi quyền công tố được thực hiện trong một giai đoạn tố tụng hình sự bao gồm cả điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Quan điểm khác lại cho rằng thực hành quyền công tố là một số biện pháp pháp lý như lập cáo trạng và luận tội bị cáo trước phiên toà sơ thẩm hình sự; thậm chí có quan điểm còn coi thực hành quyền công tố chỉ là việc buộc tội bị cáo trước phiên toà sơ thẩm.
Trong khi đó, Từ điển Luật học giải thích: "Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử" [51, tr.188].
Trên cơ sở các quan niệm khác nhau về thực hành quyền công tố nêu trên, theo chúng tôi, để làm rõ hơn khái niệm thực hành quyền công tố cần xuất phát từ những quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố mà pháp luật đã trao cho Viện kiểm sát; quyền năng pháp lý này được thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đối với kẻ phạm tội.
Pháp luật quy định một loạt những nhiệm vụ, quyền hạn nhằm xác lập cho Viện kiểm sát các quyền năng pháp lý cần thiết để thực hiện chức năng của mình trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử kẻ phạm tội, như khởi tố vụ án, bị can; yêu cầu điều tra; trực tiếp điều tra; áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra; quyết định truy tố bị can; đọc cáo trạng; luận tội đối với bị cáo; tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác; kiểm sát xét xử._.; kháng nghị… (Điều 13-19 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).
Việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân như nêu trên nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với kẻ phạm tội gọi là thực hành quyền công tố.
Vậy, Thực hành quyền công tố là việc cơ quan nhà nước thẩm quyền tiến hành các hoạt động do Nhà nước quy định nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm.
Mục đích của tố tụng hình sự đòi hỏi mọi tội phạm đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời theo pháp luật. Về lý luận, cứ có tội phạm xảy ra là phải có sự phát động của quyền công tố. Tuy nhiên trong thực tế, không phải tất cả tội phạm đều được phát hiện, xử lý triệt để; tức là việc khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan chức năng không thể bao trùm hết được số vụ án hình sự đã xảy ra trên thực tế. Quyền công tố xuất hiện đồng thời với việc xuất hiện tội phạm và kết thúc khi tội phạm ấy đã bị xử lý bởi Toà án; trong khi đó, hoạt động thực hành quyền công tố thì chỉ xuất hiện khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi tội phạm ấy đã bị xử lý bởi Toà án hoặc được đình chỉ theo quy định của pháp luật.
Do đó, phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự đến khi bản án có hiệu lực pháp luật hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
1.1.1.3. Khái niệm pháp luật về thực hành quyền công tố
Pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính khách quan, nó ra đời và tồn tại cùng với Nhà nước. Có nhiều cách quan niệm, nhận thức khác nhau về pháp luật. Từ điển luật học ghi: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, phục vụ và bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp dân cư trong xã hội” [51, tr.66]. Trên bình diện phổ biến, có thể định nghĩa về pháp luật như sau:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng Nhà nước nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội [47, tr.288].
ở nước ta, ngay từ khi mới giành độc lập, đã có nhiều văn bản được ban hành quy định về Cơ quan tư pháp nói chung cũng như về hoạt động thực hành quyền công tố nói riêng. Nội dung về thực hành quyền công tố lần đầu tiên được quy định tại Sắc lệnh số 13C-SL ngày 13/9/1945; trong đó có ghi: “Đứng buộc tội là một Uỷ viên quân sự hay một Uỷ viên của Ban trinh sát”. Sau đó, một loạt các văn bản pháp luật quan trọng được ban hành, quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có Viện công tố như: Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946; Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946; Sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1946; Sắc lệnh số 131 ngày 20/7/1946; Thông tư số 772/TTg ngày 15/5/1956 …
Các văn bản pháp luật nêu trên chủ yếu quy định về chức năng của Toà án; trong đó có đề cập đến nhiệm vụ thực hành quyền công tố của một bộ phận trong Toà án (hình thức sơ khai của Viện công tố).
Ngày 29/4/1958, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra Nghị quyết thành lập hệ thống Viện công tố và hệ thống Toà án tách khỏi Bộ Tư pháp; đặt Viện Công tố trung ương trực thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm và quyền hạn như một Bộ. Ngày 1/7/1959 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 256-TTg, quy định nhiệm vụ và tổ chức của Viện công tố.
Giai đoạn này, ngoài nhiệm vụ giám sát việc tuân thủ pháp luật, Viện công tố còn có nhiệm vụ truy tố theo luật hình những kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh…
Từ năm 1960, trên cơ sở Hiến pháp 1959, Viện kiểm sát nhân dân ra đời. Theo đó, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 đã quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân. Ngoài chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân còn có các nhiệm vụ và quyền hạn sau: Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước Toà án nhân dân những người phạm pháp về hình sự…
Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981; Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 quy định Viện kiểm sát nhân dân vừa kiểm sát việc tuân theo pháp luật, vừa thực hành quyền công tố.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 là văn bản pháp lý quan trọng quy định quyền hạn, chức trách, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có Cơ quan thực hành quyền công tố là Viện kiểm sát.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định chức năng của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Như vậy từ năm 2002, Viện kiểm sát thôi không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội.
Tuy có một số thay đổi về tổ chức bộ máy, cũng như chức năng nhiệm vụ của Cơ quan thực hành quyền công tố trong từng giai đoạn, song nhận thức về quyền công tố của cơ quan này thì cơ bản không có gì thay đổi so với các quan niệm truyền thống. Theo đó, pháp luật về thực hành quyền công tố quy định vị trí, chức năng, tổ chức, bộ máy của Cơ quan thực hành quyền công tố; chức trách, nhiệm vụ cụ thể của Cơ quan thực hành quyền công tố; trình tự tiến hành các biện pháp thực hiện chức năng của Cơ quan thực hành quyền công tố; mối quan hệ giữa Cơ quan thực hành quyền công tố với các cơ quan tiến hành tố tụng khác, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng…
Vậy, có thể định nghĩa như sau: Pháp luật về thực hành quyền công tố là hệ thống những quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm xác lập quyền năng pháp lý cho Cơ quan thực hành quyền công tố; đồng thời điều chỉnh các mối quan hệ giữa cơ quan này với các cơ quan tiến hành tố tụng khác, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, với mục đích cuối cùng là truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, trên cơ sở đảm bảo quy trình chặt chẽ về việc chứng minh tội phạm.
1.1.2. Nội dung pháp luật về thực hành quyền công tố
Thực hành quyền công tố là việc sử dụng những quyền năng tố tụng do pháp luật quy định nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội. Để đảm bảo cho Cơ quan thực hành quyền công tố thực hiện tốt quyền năng của mình, pháp luật quy định cho cơ quan này chức năng, vị trí, tổ chức bộ máy cụ thể, độc lập, rõ ràng. Theo đó, nội dung pháp luật thực hành quyền công tố có thể phân chia thành hai nhóm: Nhóm quan hệ xác lập chức năng, vị trí, tổ chức bộ máy của Cơ quan thực hành quyền công tố và nhóm quan hệ điều chỉnh các hoạt động cụ thể của Cơ quan thực hành quyền công tố.
1.1.2.1. Nhóm quan hệ xác lập chức năng, vị trí, tổ chức bộ máy của Cơ quan thực hành quyền công tố
Tuỳ thuộc vào đặc thù của mỗi quốc gia mà Cơ quan thực hành quyền công tố ở mỗi nước có sự khác nhau nhất định. Tuy nhiên chức năng cơ bản, quy định nội hàm của tất cả các Cơ quan thực hành quyền công tố trên thế giới là nhân danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Pháp luật thực định nước ta xác định chức năng của Cơ quan công tố (Viện kiểm sát nhân dân) là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp (Điều 137 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi; Điều 1 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).
Mỗi quốc gia có cách thức tổ chức, sắp xếp khác nhau về Cơ quan công tố trong chỉnh thể Bộ máy nhà nước. Tuy nhiên tính độc lập là yếu tố bắt buộc của cơ quan này, xuất phát từ quyền năng đặc biệt của Nhà nước về hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Vì vậy cho dù trực thuộc cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp hay cơ quan tư pháp nhưng hoạt động của Cơ quan thực hành quyền công tố luôn luôn độc lập với tất cả các cơ quan nhà nước khác. Về bản chất, quyền công tố thuộc về nhánh quyền lực hành pháp, do đó hiện nay trên thế giới, phần lớn các Cơ quan công tố trực thuộc cơ quan hành pháp là Chính phủ. ở Việt Nam, có giai đoạn Cơ quan công tố trực thuộc cơ quan lập pháp, có giai đoạn trực thuộc cơ quan hành pháp. Hiện nay Cơ quan công tố của nước ta (Viện kiểm sát nhân dân) là cơ quan độc lập với cơ quan hành pháp; Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội (Điều 138-140 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi).
Về tổ chức, bộ máy: Pháp luật thực định quy định hệ thống Viện kiểm sát gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát cấp tỉnh, các Viện kiểm sát cấp huyện và các Viện kiểm sát quân sự; về cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm Uỷ ban kiểm sát, các Cục, Vụ, Viện, Văn phòng, Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát, Viện kiểm sát quân sự trung ương; Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, các Kiểm sát viên và các Điều tra viên (Điều 30-41 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).
Trước yêu cầu về cải cách tư pháp và trước tiến trình hội nhập quốc tế, việc nghiên cứu, xác định đúng đắn, khoa học chức năng, vị trí, tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp nói chung và Cơ quan thực hành quyền công tố nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước...
1.1.2.2. Nhóm quan hệ điều chỉnh các hoạt động cụ thể của Cơ quan thực hành quyền công tố
Các hoạt động cụ thể của Cơ quan thực hành quyền công tố bao gồm: Hoạt động phát động công tố; hoạt động của Cơ quan công tố trong giai đoạn điều tra; hoạt động của Cơ quan công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự.
* Những hoạt động phát động công tố
- Khởi tố vụ án: Là việc Nhà nước (ủy quyền cho cơ quan thực hành quyền công tố) chính thức công khai trước toàn xã hội về việc có tội phạm xảy ra và bắt đầu triển khai các hoạt động thực hành quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện tội phạm đó.
Trong tố tụng hình sự, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội.
Khởi tố vụ án là giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự. Giai đoạn này bắt đầu từ khi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, đơn vị Bộ đội biên phòng, Cơ quan hải quan, Kiểm lâm và các cơ quan có thẩm quyền khác nhận được tin báo hoặc tố giác về tội phạm, hoặc trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm và kết thúc bằng việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Việc khởi tố vụ án hình sự đòi hỏi phải có căn cứ, đúng thẩm quyền và đúng trình tự, thủ tục tố tụng. Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên cơ sở: Tố giác của công dân; tin báo của cơ quan, tổ chức; tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm; người phạm tội tự thú. Điều đó đòi hỏi việc khởi tố vụ án phải trên cơ sở xác định bản chất trái pháp luật hình sự của hành vi phạm tội; có nghiã là các tình tiết, sự kiện xảy ra phải chứng tỏ hành vi bị khởi tố có dấu hiệu của tội phạm hình sự. Các dấu hiệu của tội phạm thể hiện qua các tình tiết đã được xác định như: Hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực tế xảy ra; hành vi đó bị pháp luật ngăn cấm được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm; hành vi đó đã gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội; các tình tiết khách quan chứng tỏ người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có lỗi...
Khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án hoặc các cơ quan thẩm quyền khác (Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự (Khoản 1 Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự).
Theo pháp luật hiện hành thì Quyết định khởi tố và các tài liệu liên quan đến việc khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra và các cơ quan thẩm quyền khác phải được gửi tới Viện kiểm sát (Khoản 3 Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự).
Như vậy, hiện nay ở nước ta nhiều cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, chỉ Viện kiểm sát mới là cơ quan duy nhất thực hành quyền công tố. Do đó, mọi quyết định khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan khác không hoàn toàn độc lập; các quyết định này chỉ thực sự có hiệu lực sau khi đã được Viện kiểm sát xem xét, quyết định. Có nghĩa là việc khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự là do Cơ quan thực hành quyền công tố (Viện kiểm sát) quyết định.
- Khởi tố bị can: Là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chính thức tuyên bố về mặt pháp lý một người nào đó có dấu hiệu phạm tội và đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo pháp luật Việt Nam, khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đều có quyền khởi tố bị can.
Quyết định khởi tố bị can là văn bản áp dụng pháp luật; theo đó, Cơ quan điều tra xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội, làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giữa Cơ quan điều tra với bị can. Đây là cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động điều tra.
Về mặt thời gian, việc ra quyết định khởi tố bị can phải được tiến hành sau hoặc đồng thời với việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Khi xác định có dấu hiệu tội phạm nhưng chưa xác định được người đã thực hiện hành vi phạm tội thì cơ quan thẩm quyền chỉ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Sau khi khởi tố vụ án, nếu xác định được người đã thực hiện hành vi phạm tội thì cơ quan thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can. Nếu cơ quan thẩm quyền xác định có dấu hiệu tội phạm, đồng thời xác định được người thực hiện hành vi phạm tội thì ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và quyết định khởi tố bị can.
Khoản 1 Điều 126 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can.
Căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội là những tài liệu, chứng cứ đủ để chứng minh một người đã thực hiện hành vi thoả mãn những dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự và không có các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm của hành vi do người đó thực hiện.
Từ thời điểm ra quyết định khởi tố bị can, giữa cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và bị can xuất hiện quan hệ tố tụng hình sự, mà các chủ thể có những quyền và nghĩa vụ nhất định: Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có trách nhiệm và quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, tiến hành các biện pháp điều tra đối với bị can theo quy định của pháp luật.
Khoản 4, 5, 6 Điều 126 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can đó cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn việc khởi tố; trường hợp phát hiện có người đã thực hiện hành vi phạm tội chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can; sau khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra mà Viện kiểm sát phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố bị can.
Như vậy, mặc dù pháp luật thực định quy định việc khởi tố bị can của Cơ quan điều tra, nhưng về thực chất quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra chỉ có hiệu lực khi có sự phê chuẩn của Cơ quan thực hành quyền công tố là Viện kiểm sát. Việc xem xét phê chuẩn là một thủ tục quan trọng để kiểm tra, xem xét quyết định khởi tố của Cơ quan điều tra có căn cứ hay không (nếu có căn cứ thì Viện kiểm sát phê chuẩn, nếu không có căn cứ thì Viện kiểm sát hủy bỏ). Khi quyết định khởi tố bị can bị huỷ bỏ thì tất cả các biện pháp tố tụng áp dụng đối với bị can cũng phải được hủy bỏ.
Tóm lại, khởi tố vụ án, khởi tố bị can là những biện pháp phát động quyền công tố. Sau khi quyền công tố được phát động, đòi hỏi Cơ quan điều tra phải tiến hành điều tra để làm rõ có tội phạm xảy ra hay không, lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội…Tuy nhiên, quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can chỉ có hiệu lực trên cơ sở phê chuẩn của Viện kiểm sát. Nói cách khác, hoạt động phát động công tố (khởi tố vụ án, khởi tố bị can) là một trong những nội dung thực hành quyền công tố của Cơ quan thực hành quyền công tố (Viện kiểm sát).
* Những hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi Viện kiểm sát quyết định việc truy tố hoặc không truy tố người phạm tội ra Toà, hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Mục đích của hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra là nhằm chứng minh tội phạm và người phạm tội, cũng như các hành vi phạm tội của họ. Hoạt động này phải hết sức đầy đủ, chính xác, khách quan theo đúng các trình tự, thủ tục, nội dung do pháp luật quy định. Giai đoạn này Viện kiểm sát giữ vai trò chủ đạo: Có trách nhiệm áp dụng các biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố được kịp thời, nhanh chóng, hiệu quả, không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm cho hoạt động điều tra được tiến hành đúng quy định của pháp luật.
Các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra như sau: Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra khi xét thấy cần thiết; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra; huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can; quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án (Điều 112 Bộ luật tố tụng hình sự).
Như vậy, trong giai đoạn điều tra, mặc dù Cơ quan điều tra trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra là chủ yếu (trừ những trường hợp cần thiết thì Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra), nhưng nhìn một cách toàn diện và xét đến cùng, Viện kiểm sát là cơ quan có vai trò chủ đạo, quyết định và chịu trách nhiệm đến cùng về toàn bộ quá trình thực hành quyền công tố; Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát (Điều 114 Bộ luật tố tụng hình sự).
Nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra còn thể hiện qua các quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên. Theo pháp luật hiện hành, Viện trưởng Viện kiểm sát có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo và quán xuyến toàn bộ hoạt động thực hành quyền công tố, quyết định những vấn đề quan trọng nhất đối với việc giải quyết vụ án hình sự như: Quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án; quyết định khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; quyết định gia hạn điều tra, quyết định gia hạn tạm giam; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra; quyết định chuyển vụ án; quyết định việc truy tố, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định trưng cầu giám định...(Khoản 2 Điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự). Về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên, Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Kiểm sát viên có quyền và nhiệm vụ kiểm sát chặt chẽ việc chấp hành các thủ tục về khởi tố, về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, về việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; đề ra các yêu cầu điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra khi cần thiết...
Tóm lại, toàn bộ quá trình điều tra (các hoạt động điều tra cụ thể; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; việc đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra, phục hồi điều tra, truy nã bị can; quyết định truy tố...), Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng có vai trò chủ đạo và quyết định.
* Những hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử
Xét xử là giai đoạn điều tra công khai, trực diện, có sự tham gia của nhiều cơ quan tiến hành tố tụng và nhiều người tiến hành tố tụng. Đây là giai đoạn chuyển hoá toàn bộ chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra, kết hợp với thẩm vấn và tranh luận trực tiếp tại phiên toà, nhằm mục đích chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự được quy định tại các điều từ 206 đến 221 và các điều từ 245 đến 247 Bộ luật tố tụng hình sự. Giai đoạn này, Viện kiểm sát thay mặt Nhà nước thực hành quyền công tố bằng sự tham gia trực tiếp vào quá trình xét xử vụ án. Đây là một hoạt động tố tụng trực tiếp nằm trong hoạt động thực hành quyền công tố- quyền nhân danh Nhà nước, nhân danh cộng đồng xã hội để thực hiện việc cáo buộc đối với người phạm tội trước Toà án.
Theo trình tự pháp luật quy định, trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên đọc Bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung (nếu có). Tiếp đó, Kiểm sát viên tham gia xét hỏi cùng với Hội đồng xét xử; luận tội bị cáo; đưa ra lập luận; tranh luận với luật sư, đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...
Bản cáo trạng của Viện kiểm sát thể hiện rõ nội dung vụ án, kết quả của việc điều tra; đánh giá, phân tích những chứng cứ buộc tội, gỡ tội, những thiệt hại đã xảy ra, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; lý lịch, nhân thân, tiền án, tiền sự của bị cáo...; quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật cụ thể...
Trong quá trình xét hỏi, tất cả các tài liệu, chứng cứ, vật chứng...được thẩm tra lại tính có căn cứ, tính hợp pháp nhằm chuyển hoá từ chứng cứ tố tụng sang chứng minh tội phạm. Giai đoạn này, Kiểm sát viên theo dõi, ghi chép đầy đủ diễn biến của phiên toà; chủ động thẩm vấn, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến tội trạng của bị cáo mà Hội đồng xét xử chưa làm rõ, hoặc bị cáo chối tội...
Kết thúc xét hỏi, Kiểm sát viên chuyển sang phần luận tội bị cáo. Bản luận tội đánh giá những chứng cứ buộc tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; những vấn đề về vai trò, trách nhiệm và nhân thân bị cáo; nguyên nhân, điều kiện phạm tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm; thủ đoạn phạm tội, hậu quả xảy ra... và các điều, khoản áp dụng đối với bị cáo. Đây là hoạt động có ý nghĩa hết sức quan trọng- là quá trình tổng kết, đúc rút, so sánh những tài liệu trong giai đoạn điều tra ban đầu với quá trình thẩm vấn công khai tại phiên toà, giúp cho Hội đồng xét xử xác định, đánh giá đúng đắn vụ án.
Sau phần luận tội là tranh luận: Kiểm sát viên đưa ra ý kiến để bảo vệ quan điểm của mình, cũng như bác bỏ những quan điểm của bị cáo, người bào chữa hoặc những người tham gia tố tụng khác, nếu quan điểm đó thiếu căn cứ, không chính xác...
Đối với phiên toà phúc thẩm, sự tham gia của Kiểm sát viên cùng cấp là bắt buộc, nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên toà. Trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên toà, Kiểm sát viên có thể bổ sung chứng cứ mới. Sau khi Hội đồng xét xử trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị thì chuyển sang tranh luận; Kiểm sát viên phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án…
Như vậy, theo quy định của pháp luật thực định, thì nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự rất phức tạp và phong phú. Kết quả các hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn này có ý nghĩa rất quan trọng đối với Toà án trong việc ra một bản án chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
1.1.3. Vai trò của pháp luật thực hành quyền công tố
1.1.3.1. Pháp luật thực hành quyền công tố thể chế hoá chủ trương của Đảng về thực hành quyền công tố
Cùng với các chế định pháp luật và các ngành luật khác của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật thực hành quyền công tố thực hiện tư tưởng nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật; thể chế hoá đầy đủ các chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn đổi mới.
Tháng 12 năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, bao gồm đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ…và nhiều vấn đề lớn về chính sách hình sự, dân sự, làm cơ sở tạo ra những tiền đề căn bản cho sự hoàn thiện và phát triển các cơ quan tư pháp cũng như hệ thống pháp luật. Thể chế hoá đường lối của Đảng, tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khoá VIII (ngày 28/6/1988), Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành, trong đó quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan thực hành quyền công tố nói riêng, cũng như nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự tiến hành hoạt động chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung…
Tiếp tục thể chế hoá chủ trương của Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 1991), Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã xác định rõ tổ chức, bộ máy, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá IX chỉ rõ: “cần sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo hướng Viện kiểm sát nhân dân chỉ thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp…”[15].
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị ghi: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng…” [16].
Để thể chế những nội dung quan trọng nêu trên về cải cách tư pháp, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã điều chỉnh một bước về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân. Theo đó, Viện kiểm sát thôi không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội; đồng thời nhấn mạnh việc tăng cường chức năng thực hành quyền công tố và ghi nhận chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, trên cơ sở thể chế chủ trương của Đảng, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã thể hiện sâu sắc những tư tưởng mới về cải cách tư pháp hình sự. Đối với Viện kiểm sát, Bộ luật quy định cụ thể như sau: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà án…; nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW, trong đó có nêu: “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo hướng đảm bảo thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nghiên cứu hướng tới chuyển thành Viện công tố” [17].
Ngày 02 tháng 6 năm 2005, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW, trong đó có nội dung:
Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân vẫn giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Toà án. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra [18].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định phương hướng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó có việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp; Văn kiện nêu: “…hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật…
Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra” [19].
Tiếp tục thể chế các chủ trương của Đảng, pháp luật thực hành quyền công tố nói riêng cũng như hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung đang được khẩn trương nghiên cứu, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong thời kỳ đổi mới.
1.1.3.2. Pháp luật về thực hành quyền công tố có vai trò quan trọng trong việc xác lập cơ sở pháp lý về tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Cơ quan thực hành quyền công tố
Tổ chức và hoạt động thực hành quyền công tố luôn dựa trên những cơ sở, nền tảng pháp lý nhất định, đó là pháp luật về thực hành quyền công tố. Để hoạt động thực hành quyền công tố đạt hiệu quả, đòi hỏi phải xác định một cách khoa học về cách thức tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan thực hành quyền công tố cũng như mối quan hệ giữa cơ quan này với các cơ quan tiến hành tố tụng khác và người tham gia tố tụng.
._.các nội dung quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, đảm bảo cho hoạt động xét xử dân chủ, hiệu quả, phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Trước yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, trên cơ sở truyền thống pháp luật Việt Nam, tố tụng xét xử của nước ta nên hoàn thiện theo hướng kết hợp giữa mô hình tranh tụng và mô hình thẩm vấn: Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan công tố và Cơ quan xét xử; việc xét hỏi chủ yếu do Hội đồng xét xử; trách nhiệm của Công tố viên phải được quy định chặt chẽ hơn, đặc biệt là việc tranh luận tại phiên toà. Trong tất cả các giai đoạn tố tụng cần có quy định thể hiện vai trò quan trọng của luật sư, quyền bào chữa phải được mở rộng và cụ thể hơn. Theo đó, cần quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự các nội dung tranh tụng cụ thể, rõ ràng, dân chủ, khách quan giữa bên buộc tội và bên gỡ tội (đưa ra chứng cứ, tranh luận, đối đáp về chứng cứ, tội danh, áp dụng pháp luật...). Việc hoàn thiện pháp luật phải nhằm tạo điều kiện cho luật sư tham gia tố tụng ngay từ khi khởi tố bị can; người bào chữa có quyền áp dụng mọi biện pháp (hợp pháp) để thu thập chứng cứ; nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng phải được quy định một cách cụ thể, rõ ràng...
3.3.3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng và hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố
Trong quá trình nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố, phải luôn đề cao sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở tuân thủ các đường lối, chủ trương của Đảng, đặc biệt là các chủ trương về cải cách tư pháp, về hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của chính mình, trong đó có việc lãnh đạo công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xứng đáng với trọng trách là ngọn cờ tiên phong của dân tộc trong sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Song song với việc nghiên cứu, ban hành những chủ trương lớn đối với từng lĩnh vực trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau, Đảng thường xuyên cụ thể hoá các chủ trương đó, biến thành những nhiệm vụ cụ thể để triển khai, thực hiện, nhằm đảm bảo tính khả thi trong thực tế.
Lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của Đảng: Để có được hệ thống pháp luật hiện đại, khoa học, minh bạch, khả thi, Đảng luôn thực hiện việc chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ thực thi xây dựng pháp luật; đào tạo, lựa chọn những cán bộ, chuyên gia giỏi trong từng lĩnh vực để tham gia vào nghiên cứu, xây dựng pháp luật.
Trên cơ sở ban hành các chủ trương, Đảng lãnh đạo trực tiếp các cơ quan nhà nước nói chung cũng như các cơ quan pháp luật nói riêng trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình để thực hiện các chủ trương đó; không ngừng nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật của Quốc hội.
Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, đây cũng là một trong những phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng. Thông qua kiểm tra, giám sát, Đảng rút ra những tồn tại trong quá trình thực hiện, đồng thời có thể phát hiện những bất cập từ chủ trương của mình để nghiên cứu, khắc phục kịp thời.
Trong từng giai đoạn, Đảng chỉ đạo việc tổng kết, đánh giá, tìm ra những ưu điểm, tồn tại, từ đó xác định giải pháp thực hiện tiếp theo. Bất kỳ một chủ trương, chính sách nào của Đảng hay Nhà nước, sau một giai đoạn triển khai trong thực tiễn cũng phải tổng kết nhằm đánh giá cả quá trình thực hiện. Qua tổng kết, thấy được tính khách quan, tầm quan trọng của chủ trương, chính sách đã đề ra; kết quả triển khai, thực hiện chủ trương đó; những ưu điểm, tồn tại, những bài học kinh nghiệm; đề ra phương hướng trong thời gian tới.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo qua đường lối, chủ trương, qua công tác tổ chức cán bộ, qua công tác kiểm tra, giám sát...; nhưng Đảng không bao biện, làm thay Nhà nước. Chính vì vậy, các cơ quan nhà nước nói chung và cơ các cơ quan tư pháp nói riêng phải chủ động thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình trên cơ sở thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
kết luận
Trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước pháp quyền, trước hết phải là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn thiện, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất để thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật. Như vậy, để xây dựng Nhà nước pháp quyền, vấn đề cốt lõi là phải khẩn trương xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật; đây cũng là một trong những nội dung quan trọng về cải cách tư pháp mà Đảng ta đã xác định trong thời kỳ đổi mới.
Hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố nhằm tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng hình sự, đồng thời cũng chính là việc thể chế hoá chủ trương của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
"Bất kỳ nhà nước nào cũng phải sử dụng quyền công tố để chống lại những hành vi gây nguy hại đến sự thống trị và những lợi ích căn bản của giai cấp cầm quyền, đồng thời cũng là để nhân danh xã hội duy trì trật tự công cộng" [21]. Về bản chất, quyền công tố là quyền của Nhà nước, nhân danh lợi ích của giai cấp thống trị xã hội quyết định đưa người phạm tội ra Toà, thực hiện sự buộc tội của Nhà nước đối với họ. Trên cơ sở phân tích quyền công tố, Luận văn đề cập đến thực hành quyền công tố và pháp luật thực hành quyền công tố; nghiên cứu thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố ở Việt Nam để đánh giá những hạn chế; tìm hiểu tổ chức và hoạt động của một số mô hình công tố trên thế giới, rút ra những kinh nghiệm về hoàn thiện pháp luật. Với thực trạng trong nước, trước yêu cầu hội nhập quốc tế và trên cơ sở chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, Luận văn đưa ra quan điểm, phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật thực hành quyền công tố ở Việt Nam.
Pháp luật thực hành quyền công tố là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật Việt Nam, vì vậy phải quán triệt các quan điểm chỉ đạo chung của Đảng trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Các quan điểm đó đã được đề cập trong nhiều Nghị quyết quan trọng của Đảng trong thời gian qua, đặc biệt là Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị. Nghị quyết xác định rõ các quan điểm về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam như: Thể chế hoá đường lối của Đảng, Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân; phát huy cao độ nội lực, chủ động hội nhập quốc tế, tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật; tiến hành đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách tư pháp; dự tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật.
Ngoài các quan điểm chỉ đạo chung, việc hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố phải dựa trên các quan điểm cụ thể, xuất phát từ những đặc thù riêng có của quyền công tố, với tư cách là một quyền năng đặc biệt của Nhà nước. Đây cũng là các quan điểm được cụ thể hoá từ các chủ trương của Đảng và Nhà nước trong tiến trình hội nhập nói chung và cải cách tư pháp nói riêng. Theo đó, việc hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố phải đảm bảo đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; phải xác định rõ vị trí, chức năng của Cơ quan công tố cũng như mối quan hệ của cơ quan này với Cơ quan điều tra và Cơ quan xét xử, đặc biệt là phải đảm bảo cơ chế công tố gắn với hoạt động điều ta, hoạt động điều tra phải nhằm phục vụ cho hoạt động công tố; phải phân định rõ thẩm quyền hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp theo hướng nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm của các chức danh tư pháp; phải đảm bảo các trình tự, thủ tục tố tụng cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, khả thi...
Cũng như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, pháp luật thực hành quyền công tố ở Việt Nam được xác lập từ rất sớm: Ngay sau khi giành độc lập, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ban hành các Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946, số 51 ngày 17/4/1946, số 131 ngaùy 20/7/1946, số 19 ngày 16/2/1947...Theo đó, Viện công tố là một bộ phận nằm trong hệ thống Toà án, Công tố viên được gọi là Thẩm phán công tố (Dự thẩm viên). Quá trình phát triển, tổ chức bộ máy cũng như chức năng nhiệm vụ của Cơ quan công tố ngày càng được củng cố trên cơ sở hệ thống pháp luật thực hành quyền công tố luôn được hoàn thiện. Hiện nay có rất nhiều đạo luật, ngành luật chứa đựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật thực hành quyền công tố, như Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự... Tuy nhiên, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thực hành quyền công tố còn thiếu tính đồng bộ, nội dung chưa đảm bảo chi tiết, cụ thể; thiếu những quy phạm bảo đảm cơ chế hoạt động công tố gắn kết với hoạt động điều tra, do vậy hoạt động của Cơ quan công tố thiếu thực quyền; thẩm quyền hành chính và quyền hạn tư pháp không rành mạch; quyền năng và trách nhiệm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng chưa rõ ràng, hợp lý... Chính vì vậy, phương hướng đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố là phải hoàn thiện tổng thể, đồng bộ tất cả hệ thống các đạo luật, các ngành luật trực tiếp điều chỉnh quan hệ pháp luật thực hành quyền công tố và các ngành luật liên quan. Như vậy, hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố chính là việc nghiên cứu sửa đổi, xây dựng, hoàn thiện Hiến pháp, Luật tổ chức Viện công tố, Luật tổ chức Chính phủ, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức điều tra hình sự..., sao cho Cơ quan công tố phải được tổ chức một cách tối ưu, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền rõ ràng, hợp lý, trên cơ sở được bảo đảm thực hiện bởi hệ thống các quy phạm pháp luật khoa học, minh bạch, khả thi.
Để thực hiện các yêu cầu trên, Luận văn đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật thực hành quyền công tố, trong đó, ngoài việc đề xuất việc tổ chức lại Cơ quan công tố, xác định lại chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này trên cơ sở sửa đổi Hiến pháp, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Viện công tố..., Luận văn còn đề xuất sửa đổi nhiều nội dung của Bộ luật tố tụng hình sự...
Các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố được đề cập trong Luận văn là những phương hướng, giải pháp cơ bản và quan trọng nhất. Tuy nhiên, các quy phạm pháp luật trong từng ngành luật cũng như các ngành luật trong hệ thống pháp luật luôn có mối liên hệ đan xen mật thiết với nhau. Do vậy, để cho hoạt động thực hành quyền công tố đạt hiệu quả cao hơn nữa, vẫn cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện nhiều quy phạm pháp luật, nhiều ngành luật liên quan, như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự...
Trước tiến trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế-quốc tế, trước yêu cầu cải cách tư pháp nói riêng và cải cách Bộ máy nhà nước nói chung, việc nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật thực hành quyền công tố là một nhu cầu tất yếu khách quan và lâu dài. Với ý nghĩa đó, tác giả mong muốn Luận văn sẽ đóng góp một phần nhỏ vào quá trình hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố nói riêng cũng như hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung./.
Đề tài khoa học cấp Bộ đã tham gia nghiên cứu
1. Lê Hồng Thanh (2004), Đề án xây dựng tiêu chuẩn chức danh Kiểm tra viên ngành Kiểm sát nhân dân.
2. Lê Hồng Thanh (2004), Đề án cải cách chính sách tiền lương ngành Kiểm sát nhân dân (năm 2004).
danh mục tài liệu tham khảo
Ban Cán sự đảng Chính phủ (2005), Tờ trình số 40-Ttr/BCS về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020, Hà Nội
Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp (2003), Báo cáo kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", Hà Nội.
Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp (2006), Kế hoạch số 05-KH/CCTP về thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (giai đoạn 2006-2010), Hà Nội.
Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp (2007), Báo cáo số 16-BC/CCTP về kết quả nghiên cứu về cải cách tư pháp tại Ca-na-đa, Trung Quốc và Nhật Bản, Hà Nội.
Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp (2007), Chương trình số 06-Ctr/CCTP về trọng tâm công tác tư pháp từ nay đến hết năm 2008, Hà Nội.
Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp (2007), Kế hoạch số 06-KH/CCTP về sơ kết Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
Ban Nội chính Trung ương Đảng (2002), Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh chống tội phạm, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
Lê Cảm (2000), "Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố", Tạp chí Toà án nhân dân, (6).
Lê Cảm (2005), "Bàn về tổ chức quyền tư pháp- nội dung cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", Tạp chí Kiểm sát, (23).
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Chỉ thị số 29- CT/TW ngày 8/11 của Ban Bí thư trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng, Đoàn Quốc hội (2005), Kế hoạch số 290-KH/ĐĐQH về việc thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, Hà Nội.
Đỗ Văn Đương (2006), "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (7).
Phạm Hồng Hải (2006), "Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (3).
Hiến pháp Việt Nam từ năm 1946 đến năm 1992 (2004), Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
Lê Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình lý luận chung về nhà nước- pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
C. Mác- Ph.Ăngghen (1970), Tuyển tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nhà Pháp luật Việt- Pháp (1997), Tố tụng hình sự và vai trò của Viện công tố trong tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
GS.TS Lê Văn Quang - PGS.TS Văn Đức Thanh (2006), Nhà nước pháp quyền XHCN và các định chế xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1981), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Luật tổ chức Quốc hội, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật tổ chức Quốc hội, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật tổ chức Chính phủ, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật tổ chức Quốc hội, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ luật dân sự, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
TS Nguyễn Tác (2005), Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Hữu Thể (2000), "Bàn về khái niệm quyền công tố", Tạp chí kiểm sát, (8).
Lê Hữu Thể (chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Lê Minh Thông (chủ biên) (2001), Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Lê Tài Triển (1970), Nhiệm vụ của Công tố viên, Nxb Sài Gòn.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Bộ Tư pháp, Hà Nội.
Từ điển tiếng Việt (1998), Nxb Đà Nẵng- Trung tâm từ điển học.
Từ điển luật học (2006), Nxb Từ điển Bách khoa- Nxb Tư pháp.
ủy ban Thường vụ Quốc hội (1962), Pháp lệnh về bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2003), Nghị quyết về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, Hà Nội.
ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Chỉ dẫn về công tác công tố, Dự án VIE/95/018, "Tăng cường năng lực kiểm sát tại Việt Nam", Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam 1960- 2000 (kỷ yếu), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Những quy định về Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao-Bộ Công an-Toà án nhân dân tối cao-Bộ Tư pháp-Bộ Quốc phòng-Bộ Tài chính (2004), Hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 388/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (Thông tư Liên tịch), Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Các quy định về hoạt động nghiệp vụ và quản lý của Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Kế hoạch số 23/KH-VKSTC về thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2006-2010, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Thống kê một số kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của ngành Kiểm sát năm 2005-2006, Báo cáo của Viện trưởng trước Quốc hội.
Viện Khoa học kiểm sát- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), "Chuyên đề về Cơ quan công tố một số nước", Thông tin khoa học kiểm sát, (5+6).
Viện Khoa học kiểm sát- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
Viện Khoa học kiểm sát- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), "Chuyên đề một số văn bản về cải cách tư pháp", Thông tin khoa học kiểm sát, (3).
Viện Khoa học kiểm sát- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), "Chuyên đề về Cơ quan công tố một số nước", Thông tin khoa học kiểm sát, (4+5).
Phụ lục
Phụ lục 1: Một số tội phạm khởi tố năm 2005-2006
(Báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trước Quốc hội)
Số
TT
Tội danh
Điều luật
Năm 2005
Năm 2006
So sánh(%)
06/05
1
Tội giết người Vụ
93
1181
1354
14,65
2
Bị can
1578
1878
19,01
3
Tội cố ý gây thương tích Vụ
104
5288
6539
23,66
4
Bị can
6667
8561
28,41
5
Tội hiếp dâm Vụ
111
325
358
10,15
6
Bị can
440
455
3,41
7
Tội hiếp dâm trẻ em Vụ
112
625
638
2,08
8
Bị can
694
662
-4,61
9
Tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật Vụ
123
71
95
33,80
10
Bị can
144
212
47,22
11
Tội cướp tài sản Vụ
133
1709
2120
24,05
12
Bị can
3614
4235
17,18
13
Tội trộm cắp tài sản Vụ
138
14457
18027
24,69
14
Bị can
18004
23126
28,45
15
Tội trốn thuế Vụ
161
29
37
27,89
16
Bị can
35
61
74,29
17
Tội vi phạm các quy định về... bảo vệ rừng Vụ
175
190
213
12,11
18
Bị can
259
337
30,12
19
Tội sản xuất trái phép chất ma túy Vụ
193
17
9
20
Bị can
33
11
21
Tội tàng trữ, v/c, mua bán... ma tuý Vụ
194
8732
8400
-3,80
22
Bị can
11248
11198
-0,44
23
Tội s/x, tàng trữ...phương tiện...sx ma tuý Vụ
196
3
6
24
Bị can
3
6
25
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý Vụ
197
18
13
-27,78
26
Bị can
37
18
-51,35
27
Tội chứa chấp, SD trái phép chất ma tuý Vụ
198
27
10
28
Bị can
37
10
29
Tội sử dụng trái phép chất ma tuý Vụ
199
113
138
22,12
30
Bị can
119
148
24,37
31
Tội cưỡng bức, lôi kéo...SD ma tuý Vụ
200
1
1
32
Bị can
2
1
33
Tội vi phạm quản lý, SD...ma tuý Vụ
201
2
1
34
Bị can
2
2
35
Tội vi phạm QĐ về điều khiển PTGT Vụ
202
4118
5072
23,17
36
Bị can
3974
4924
23,91
37
Tội gây rối trật tự công cộng Vụ
245
259
253
-2,32
38
Bị can
681
769
12,92
39
Tội đánh bạc Vụ
248
1320
2274
72,27
40
Bị can
5075
8113
59,86
41
Tội tổ chức đánh bạc, gá bạc... Vụ
249
458
638
39,30
42
Bị can
1372
2111
53,86
43
Tội mua dâm người chưa thành niên Vụ
256
9
22
44
Bị can
26
31
19,23
45
Tội chống người thi hành công vụ Vụ
257
532
567
6,58
46
Bị can
953
1068
12,07
47
Tội tham ô tài sản Vụ
278
157
220
40,13
48
Bị can
223
413
85,20
49
Tội nhận hối lộ Vụ
279
32
45
40,63
50
Bị can
70
83
18,57
51
Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn... Vụ
280
29
36
24,14
52
Bị can
39
75
92,31
53
Tội giả mạo trong công tác Vụ
284
5
10
54
Bị can
7
18
157,14
55
Tội đưa hối lộ Vụ
289
26
36
38,46
56
Bị can
31
68
119,35
57
Tội ra quyết định trái pháp luật Vụ
296
1
1
58
Bị can
1
1
59
Tội không chấp hành án Vụ
304
18
14
60
Bị can
17
14
61
Tội vi phạm việc niêm phong, kê biên TS Vụ
310
3
2
62
Bị can
3
3
63
Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử Vụ
311
112
154
37,50
64
Bị can
148
217
46,62
65
Tội che dấu tội phạm Vụ
313
4
3
66
Bị can
6
11
67
Tội không tố giác tội phạm Vụ
314
2
5
68
Bị can
5
15
Phụ lục 2: Một số tội phạm truy tố năm 2005-2006
(Báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trước Quốc hội)
Số TT
Tội danh
Điều luật
Năm 2005
Năm 2006
So sánh (%)
06-05
1
Tội giết người Vụ
93
1140
1414
24,04
2
Bị can
2088
2632
26,05
3
Tội cố ý gây thương tích Vụ
104
3929
5201
32,37
4
Bị can
5824
7673
31,75
5
Tội hiếp dâm Vụ
111
256
306
19,53
6
Bị can
381
464
21,78
7
Tội hiếp dâm trẻ em Vụ
112
487
588
20,74
8
Bị can
556
665
19,60
9
Tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật Vụ
123
52
86
65,38
10
Bị can
102
188
84,31
11
Tội cướp tài sản Vụ
133
1326
1838
38,61
12
Bị can
3222
4628
43,64
13
Tội trộm cắp tài sản Vụ
138
11165
14950
33,90
14
Bị can
16870
22909
35,80
15
Tội trốn thuế Vụ
161
22
30
36,36
16
Bị can
33
60
81,82
17
Tội vi phạm các QĐ về...bảo vệ rừng Vụ
175
153
187
22,22
18
Bị can
308
384
24,68
19
Tội sản xuất trái phép chất ma tuý Vụ
193
10
8
20
Bị can
10
8
21
Tội tàng trữ, v/c, mua bán...ma tuý Vụ
194
7580
8780
15,83
22
Bị can
9841
11980
21,74
23
Tội tàng trữ, v/c, mua bán...tiền chất ma tuý Vụ
195
18
24
Bị can
25
25
Tội tổ chức, sử dụng trái phép ma tuý Vụ
197
11
11
26
Bị can
25
34
36,00
27
Tội chứa chấp sd trái phép chất ma tuý Vụ
198
15
10
-33,33
28
Bị can
16
12
-25,00
29
Tội sử dụng trái phép chất ma tuý Vụ
199
133
134
0,75
30
Bị can
135
140
3,70
31
Tội cưỡng bức, lôi kéo...sd ma tuý Vụ
200
3
2
32
Bị can
5
4
33
Tội vi phạm QĐ về điều khiển PTGT Vụ
202
3669
4527
23,39
34
Bị can
3835
4730
23,34
35
Tội gây rối trật tự công cộng Vụ
245
243
279
14,81
36
Bị can
635
937
47,56
37
Tội đánh bạc Vụ
248
1300
2116
62,77
38
Bị can
5631
7510
33,37
39
Tội tổ chức đánh bạc, gá bạc Vụ
249
411
532
29,44
40
Bị can
1873
1922
2,62
41
Tội mua dâm người chưa thành niên Vụ
256
8
12
42
Bị can
23
25
43
Tội chống người thi hành công vụ Vụ
257
474
566
19,41
44
Bị can
889
1021
14,85
45
Tội tham ô tài sản Vụ
278
156
225
44,23
46
Bị can
264
497
88,26
47
Tội nhận hối lộ Vụ
279
15
32
113,33
48
Bị can
31
102
229,03
49
Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn Vụ
280
27
34
25,93
50
Bị can
67
67
51
Tội đưa hối lộ Vụ
289
22
32
45,45
52
Bị can
37
58
56,76
53
Tội ra quyết định trái pháp luật Vụ
296
1
0
54
Bị can
1
0
55
Tội thiếu trách nhiệm để người bị giam trốn Vụ
301
1
0
56
Bị can
1
0
57
Tội không chấp hành án Vụ
304
14
14
58
Bị can
16
16
59
Tội vi phạm niêm phong, kê biên TS Vụ
310
1
2
60
Bị can
1
3
61
Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử Vụ
311
85
166
95,29
62
Bị can
103
218
111,65
63
Tội che dấu tội phạm Vụ
313
1
3
64
Bị can
2
10
65
Tội không tố giác tội phạm Vụ
314
4
7
Bị can
7
20
mở đầu 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5
6. Điểm mới khoa học của luận văn 5
7. ý nghĩa của luận văn 6
8. Kết cấu của luận văn 6
Chương 1 7
Cơ sở lý luận về hoàn thiện pháp luật 7
thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam 7
1.1. Khái niệm, nội dung, vai trò của pháp luật về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát 7
1.1.1. Khái niệm pháp luật về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát 7
1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố 7
1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố 16
1.1.1.3. Khái niệm pháp luật về thực hành quyền công tố 17
1.1.2. Nội dung pháp luật về thực hành quyền công tố 19
1.1.2.1. Nhóm quan hệ xác lập chức năng, vị trí, tổ chức bộ máy của Cơ quan thực hành quyền công tố 20
1.1.2.2. Nhóm quan hệ điều chỉnh các hoạt động cụ thể của Cơ quan thực hành quyền công tố 21
1.1.3. Vai trò của pháp luật thực hành quyền công tố 28
1.1.3.1. Pháp luật thực hành quyền công tố thể chế hoá chủ trương của Đảng về thực hành quyền công tố 28
1.1.3.2. Pháp luật về thực hành quyền công tố có vai trò quan trọng trong việc xác lập cơ sở pháp lý về tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Cơ quan thực hành quyền công tố 30
1.1.3.3. Pháp luật thực hành quyền công tố bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân, đồng thời thể hiện sự nghiêm khắc đối với người cố tình đi ngược lại lợi ích của xã hội 31
1.1.3.4. Pháp luật thực hành quyền công tố góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam 32
1.2.2. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố 38
1.2.2.1. Tiêu chí về nội dung 38
1.2.2.2. Tiêu chí về hình thức 38
1.3. Khái quát về tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hành quyền công tố một số nước trên thế giới 40
1.3.1. Một số quốc gia theo hệ thống án lệ 41
1.3.2. Một số quốc gia theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa 43
1.3.3. Một số quốc gia khu vực châu á- Thái Bình Dương 47
1.3.4. Một số điểm chung của các mô hình công tố 53
Chương 2 55
Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật 55
thực hành quyền công tố ở Việt Nam 55
2.1. Thực trạng pháp luật thực hành quyền công tố ở Việt Nam 55
2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển pháp luật thực hành quyền công tố ở Việt Nam 55
2.1.2. Pháp luật hiện hành thực hành quyền công tố ở Việt Nam hiện nay 61
2.1.2.1. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) 61
2.1.2.2. Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2002 62
2.1.2.3. Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 66
2.1.2.4 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 66
2.1.2.5. Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 73
2.1.3. Một số ưu điểm và hạn chế của pháp luật thực hành quyền công tố ở Việt Nam hiện nay 74
2.1.3.1. Về ưu điểm 75
2.1.3.2. Về hạn chế 75
2.2. đánh giá chung về kết quả và tồn tại trong công tác thực hành quyền công tố của viện kiểm sát 76
2.2.1. Kết quả thực hành quyền công tố 76
2.2.1.1. Tình hình một số loại tội phạm 76
2.2.1.2. Kết quả thực hiện chức năng của ngành Kiểm sát 77
2.2.2. Tồn tại và nguyên nhân 83
Chương 3 85
quan điểm, phương hướng và giải pháp hoàn thiện 85
pháp luật thực hành quyền công tố ở Việt nam 85
3.1. Quan điểm hoàn thiện 85
3.1.1. Các quan điểm chung 85
3.1.2. Các quan điểm cụ thể về hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố 86
3.2. phương hướng hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố 86
3.3. các Giải pháp hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố 90
3.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật nội dung thực hành quyền công tố 90
3.3.1.1. Sửa đổi Hiến pháp 90
3.3.1.2. Sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Chính phủ 92
3.3.1.3. Ban hành Luật tổ chức Viện công tố 93
3.3.1.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan 95
3.3.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng: Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 98
3.3.3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng và hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố 112
kết luận 114
Đề tài khoa học cấp Bộ đã tham gia nghiên cứu 118
danh mục tài liệu tham khảo 119
Phụ lục 124
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2589.doc