Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta đều thống nhất về vai trò, vị trí của nhân dân, khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở: “Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân cử ra” [29, tr.698]. Điều 2, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi: “Nhà nước Cộng hoà XHCN Vi

doc130 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp là hình thức thể hiện ý chí trực tiếp của chủ thể quyền lực về những vấn đề chính yếu, cơ bản của một tập thể, một cộng đồng, một xã hội. Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm ghi nhận ý chí đó và bảo đảm đưa vào thực hiện trong cuộc sống. Dân chủ đại diện là hình thức thể hiện ý chí không trực tiếp từ chủ thể quyền lực mà thông qua đại diện do chủ thể bầu ra để thực hiện quyền do chủ thể uỷ thác. Nhân dân (chủ thể quyền lực) có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, cá nhân đại diện cho mình để thực hiện quyền lực nhà nước nhằm hạn chế sự tuỳ tiện, lạm dụng ở đó. Quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua cơ quan nhà nước và là của nhân dân, do đó cần phải được nhân dân giám sát. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khoá X nêu rõ: “Phát huy vai trò của cơ quan dân cử, MTTQ, các tổ chức chính trị- xã hội và nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức cơ quan công quyền” “Công khai các quy định về thủ tục hành chính để dân biết, thực hiện và giám sát”, khẳng định: “Hoạt động của Đảng và Nhà nước phải chịu sự giám sát của nhân dân” [18, tr.304]. Điều 8, Hiến pháp 1992 quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân”. Điều này xuất phát từ thực tiễn của tiến trình dân chủ hoá xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; xuất phát từ yêu cầu xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, tinh gọn và thuận tiện; xuất phát từ thực trạng mất dân chủ, cửa quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu nhân dân của một số cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước; xuất phát từ nguyên tắc các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước phải bị giám sát để quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Mặc dù quan điểm, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước được thể hiện rõ ràng, song hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước là rất phức tạp, đa dạng nên bên cạnh những ưu điểm, thành tựu của chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 đạt được, thì còn tồn tại những hạn chế, bất cập, đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện, trong đó hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước là một nội dung hết sức quan trọng. Bởi chỉ có sự giám sát chặt chẽ của nhân dân thì mới giải quyết triệt để được mọi hành vi sách nhiễu, cửa quyền, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực của cơ quan hành chính nhà nước. Chỉ khi những hành vi trên bị ngăn chặn, xử lý nghiêm minh, kịp thời thì nền dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân mới thực sự được thực hiện và phát huy trong thực tế. Giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước có mục đích là phòng ngừa, phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật, vi phạm quyền công dân của cơ quan công quyền. Nhân dân có quyền kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo đối với cơ quan hành chính nhà nước. Đó không chỉ là phương tiện giám sát có hiệu quả việc tuân thủ pháp chế và kỷ luật trong hoạt động quản lý nhà nước mà còn là biện pháp có tính pháp lý hữu hiệu bảo đảm các quyền tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức khi bị vi phạm. Nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền là cán bộ, công chức chỉ được làm những gì pháp luật cho phép và mọi hoạt động của cơ quan nhà nước phải chịu sự giám sát của nhân dân. Song, tình trạng một số cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức ở đó lạm quyền, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, vi phạm pháp luật diễn ra có lúc, có nơi rất nghiêm trọng gây bức xúc trong dư luận xã hội. Thực trạng đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là do thiếu sự giám sát cần thiết của nhân dân. Để nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước, chống lại nguy cơ cơ quan phục vụ dân chuyển thành cơ quan đứng trên dân, đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. Mặt khác về phương diện khoa học pháp lý, hoạt động giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước cũng phải dựa trên cơ sở pháp luật. Trong khi đó pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước còn có nhiều bất cập, hạn chế khiến việc thực hiện còn thiếu hiệu lực, hiệu quả đòi hỏi phải được tiếp tục hoàn thiện. Từ những căn cứ và lý do trên, học viên chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước” làm luận văn thạc sỹ Luật, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Giám sát và nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát đối với cơ quan nhà nước được đề cập nhiều trong các công trình và diễn đàn khoa học, trên các sách, báo, tạp chí và được phổ biến khá rộng rãi trong xã hội. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu sau đây: - Sách chuyên khảo: Tiến sỹ Phạm Ngọc Kỳ (1996), “Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội”; Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế giới, sách tham khảo (2001) Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước” của Đào Trí Úc và Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên) (2003), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2005) “Sự hạn chế quyền lực Nhà nước”, PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2006), “Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước”... - Đề tài nghiên cứu cấp bộ: “Vấn đề nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở nước ta hiện nay” của Viện Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ: “Nâng cao hiệu lực hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật của Vũ Mạnh Thông, 1998; “Thực hiện chức năng giám sát của MTTQ Việt Nam đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước ở nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học của Nguyễn Văn Thanh, 2003; “Một số giải pháp đổi mới và hoàn thiện pháp luật về kiểm tra, giám sát hải quan ở nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật của Hoàng Anh Công, 2003; “Hoàn thiện pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương- Từ thực tiễn của tỉnh Vĩnh Phúc", Luận văn Thạc sĩ Luật của Nguyễn Hoàng, 2006; “Nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật của Hồ Thị Hưng, 2006; “Giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật của Quản Văn Minh, 2006... Bên cạnh đó có một số bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: “Quan niệm về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước và các cơ chế thực hiện giám sát” của GS.TSKH Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2003; “Về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước” của PGS.TS Võ Khánh Vinh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2003; “Phát huy vai trò của MTTQ Việt Nam vận động nhân dân thực hiện giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” của Trần Thanh Bình, Tạp chí Nhà nước số 9/2003; “Phát huy vai trò của MTTQ Việt Nam trong việc thực hiện giám sát đối với cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư" của Đỗ Huy Thường, Tạp chí MTTQ, số 22; “Thiếu một cơ chế giám sát hoàn thiện” của Nguyễn Khanh, Báo Pháp luật số 222 ngày 16/9/2005; “Tăng cường giám sát trong Đảng” của Nguyễn Thị Doan, Tạp chí cộng sản số 22, 2004; “Cần tăng cường hơn nữa sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với việc phòng chống quan liêu, tham nhũng hiện nay” của Bùi Thành Phần, Tạp chí Dân vận số 01/2005; “Lênin nói về kiểm tra giám sát để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch” của Lê Trọng Hanh, Tạp chí Tư tưởng văn hoá, số 4/2005... Nhìn chung các công trình, đề tài, bài viết nêu trên đều đề cập đến vấn đề giám sát, hoạt động giám sát của các cơ quan trong hệ thống chính trị, giám sát của cơ quan quyền lực đối với cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp; giám sát hành chính ở trong cơ quan hành chính; giám sát của MTTQ và các đoàn thể nhân dân đối với cơ quan dân cử, cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp; giám sát của cơ quan tư pháp với cơ quan hành chính... Nhưng chưa có công trình nào đề cập toàn diện, có hệ thống về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước cũng như hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát đó. Tiếp thu những kết quả nghiên cứu trên, luận văn này tập trung nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn - Mục đích: Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. - Nhiệm vụ: Từ mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau: + Nghiên cứu làm rõ khái niệm, nội dung, vai trò pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. + Xác định các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. + Phân tích quá trình phát triển và thực trạng pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. + Đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. - Phạm vi nghiên cứu: Giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước vừa phản ánh bản chất nhà nước vừa là quyền của công dân, được ghi nhận trong quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước từ 1945 đến nay. Hoạt động của Nhà nước rất rộng, chủ thể giám sát, hình thức giám sát rất đa dạng, phong phú, trong luận văn này chỉ đề cập vấn đề giám sát của nhân dân (trực tiếp và gián tiếp) đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước thông qua các chủ thể bao gồm: Tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, tập thể lao động, cơ quan báo chí và giám sát trực tiếp của nhân dân. Trên cơ sở đó luận chứng các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật để việc thực hiện chức năng giám sát của nhân dân thực sự hiệu lực, hiệu quả trong thời gian tới. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận: Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng chính quyền nhân dân và các chính sách, pháp luật do Nhà nước ban hành. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin kết hợp với phương pháp phân tích-tổng hợp, lôgíc-lịch sử, xã hội học, so sánh... 5. Những đóng góp khoa học của luận văn - Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về giám sát, giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. - Phân tích quá trình phát triển và đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. Qua đó, xác định được tính hoàn thiện của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. - Luận chứng các quan điểm, giải pháp để hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. 6. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước; tăng cường hiệu lực, hiệu quả giám sát của nhân dân; khắc phục những hạn chế, bất cập trong hoạt động thực tiễn thời gian qua. Đồng thời là nguồn tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho các công trình khoa học, công tác nghiên cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn liên quan đến giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, VAI TRÒ PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1.1.1 Khái niệm về giám sát, giám sát của nhân dân, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 1.1.1.1 Giám sát: Cùng với kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, giám sát là một loại nhiệm vụ trong quá trình thực thi quyền lực chính trị nhằm làm cho các đối tượng (của chủ thể giám sát) thực hiện đúng yêu cầu, mục đích, chức năng, nhiệm vụ đặt ra. Giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người này với cá nhân, tổ chức, cộng đồng người khác trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội, trong thực hiện quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng, Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước, các quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, tổ chức, cá nhân... để kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với tổ chức, cá nhân có hành vi sai trái. Về thuật ngữ giám sát, hiện nay được dùng rất phổ biến trong khoa học chính trị, pháp lý và được đề cập nhiều trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội cũng như phổ biến ở đời sống xã hội. Theo Từ điển Hán- Việt của Đào Duy Anh chủ biên thì “Giám sát là xem xét và đàn hặc” [1, tr.324]. Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì “Giám sát là theo dõi và kiểm tra có thực hiện đúng những điều quy định không” [55, tr.374]. Đại Từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì “Giám sát là theo dõi, kiểm tra việc thực thi nhiệm vụ” [65, tr.728]. Theo quan điểm của Học viện hành chính quốc gia thì “giám sát là sự tác động quyền lực nhằm chấn chỉnh những lệch lạc, trái pháp luật, sai trái mục tiêu của một hệ thống đối với một hệ thống khác nằm ngoài quan hệ trực thuộc theo chiều dọc” [23, tr.202]. Theo Từ điển Luật học thì giám sát là: Sự theo dõi, quan sát mang tính chủ động thường xuyên của cơ quan, tổ chức hoặc nhân dân đối với hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát và sự tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng các hoạt động đó đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước đảm bảo cho Hiến pháp và pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh. [54, tr.292]. Từ các định nghĩa và cách hiểu như trên, có thể chỉ ra một số đặc trưng của giám sát đó là: - Giám sát là hành vi của chủ thể biểu hiện qua theo dõi, quan sát, xem xét, nhận định về việc làm của đối tượng giám sát. - Giám sát được tiến hành chủ động, thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình hoạt động của đối tượng giám sát. - Thông qua hoạt động giám sát cho phép kịp thời nhắc nhở cơ quan tổ chức, cá nhân chấn chỉnh những biểu hiện “lệch lạc”, “sai trái” trong quá trình thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những biểu hiện không lành mạnh trong sinh hoạt, đạo đức, lối sống của mỗi cá nhân, cán bộ công chức, viên chức và đề xuất xử lý nhằm khắc phục sai sót, khuyết điểm. - Giám sát bảo đảm cho cán bộ, công chức, đảng viên luôn kiên định về lập trường chính trị, có trách nhiệm công vụ, phẩm chất cách mạng tốt đẹp, ngăn ngừa những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống và trong thực thi nhiệm vụ được giao. - Giám sát là công việc khó khăn, phức tạp đòi hỏi chủ thể giám sát phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có quyết tâm cao, có kiến thức chuyên môn và hiểu biết về luật pháp nhất định. - Giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát có mối quan hệ pháp lý, gắn quyền và trách nhiệm của mỗi bên. Khách thể giám sát mà các bên trong quan hệ giám sát cùng hướng tới là trạng thái hoạt động bình thường, thông suốt, đúng pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Chủ thể giám sát phải là “khách quan, bên ngoài” độc lập tương đối với đối tượng giám sát. Để hiểu rõ về giám sát trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước cần phân biệt giám sát với kiểm tra, thanh tra, kiểm sát. - Giám sát khác với kiểm tra. Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét” do đó kiểm tra là khái niệm bao hàm những thao tác có tính xác định, tính cụ thể rõ hơn. Kiểm tra được thực hiện khi có dấu hiệu hoặc sự việc sai phạm xảy ra là “xem xét cụ thể công việc”. Chủ thể và đối tượng kiểm tra có thể cùng hệ thống với nhau (tự kiểm tra, cấp trên kiểm tra cấp dưới). - Giám sát khác với thanh tra. Thanh tra theo Từ điển Tiếng Việt là “Kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”. Theo Luật Thanh tra (2004), đó là “việc xem xét đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định” [27, tr.8]. Như vậy, thanh tra và giám sát có chỗ giống nhau là đều có hoạt động “xem xét, đánh giá” nhưng khác nhau ở chỗ giám sát là sự “chủ động theo dõi” còn thanh tra thường chỉ xem xét khi có dấu hiệu, sự việc vi phạm xảy ra. Hậu quả pháp lý của giám sát chủ yếu thông qua hình thức “kiến nghị” còn thanh tra là áp dụng những biện pháp xử lý cụ thể. Thanh tra được tiến hành bởi chủ thể xác định, có thẩm quyền, với trình tự, thủ tục chặt chẽ theo luật định, là hoạt động đặc thù của hệ thống hành pháp. Còn giám sát được tiến hành bởi nhiều chủ thể và mỗi chủ thể lại có quyền, trách nhiệm khác nhau do địa vị chính trị pháp lý khác nhau. - Giám sát khác với kiểm sát. Kiểm sát là thuật ngữ để chỉ hoạt động đặc thù của Viện kiểm sát nhân dân với chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố nhằm “đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”, “góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân”. [64, tr.405]. Tóm lại, giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát là những thuật ngữ có nội dung gần nghĩa dùng để chỉ những hoạt động có phạm vi, tính chất gần nhau, thậm chí có biểu hiện khách quan khá giống nhau (xem xét, đánh giá) nằm trong cơ chế kiểm soát đối với quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, chúng có sự khác nhau về quan hệ pháp lý, chủ thể, đối tượng, phạm vi, phương pháp thực hiện và hậu quả pháp lý. 1.1.1.2. Giám sát của nhân dân Khái niệm giám sát của nhân dân được sử dụng để phân biệt với giám sát mang tính quyền lực nhà nước và được coi là một chủ thể quan trọng của giám sát xã hội. Thực tế ở nước ta, trong khoa học chính trị, pháp lý và các tài liệu, sách, báo, tạp chí có cách hiểu khác nhau về giám sát xã hội. Thông thường có sự phân biệt loại hình giám sát theo tính chất tức là giám sát mang tính nhân dân, giám sát mang tính quyền lực nhà nước. Ngoài ra, các loại giám sát nói trên được gọi chung là giám sát xã hội, nhưng giám sát xã hội lại được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, giám sát xã hội là giám sát của 3 lực lượng cơ bản đó là: Giám sát của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân. Theo đó, giám sát xã hội bao trùm lên các giám sát khác, bởi vì: Thứ nhất, giám sát đối với quyền lực nhà nước là giám sát của tiểu hệ thống trong hệ thống rộng hơn là toàn xã hội, nhà nước là một hiện tượng nảy sinh từ xã hội, thuộc về xã hội, quyền lực nhà nước là một dạng của quyền lực xã hội; Thứ hai, hoạt động giám sát do chủ thể Đảng, Nhà nước, nhân dân thực hiện đều có mục đích ngăn ngừa, khắc phục những sai lệch khỏi các quy phạm mà xã hội đặt ra hoặc thừa nhận. Theo nghĩa hẹp, giám sát xã hội được hiểu là giám sát của nhân dân bởi chủ thể giám sát là các tổ chức, cá nhân bên ngoài nhà nước và nó là một loại giám sát trong tổng thể cơ chế giám sát đối với quyền lực nhà nước. Trong luận văn này đề cập đến giám sát xã hội theo nghĩa hẹp, tức là giám sát của nhân dân. Để hiểu rõ giám sát của nhân dân cần phân biệt với giám sát của Đảng và giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước. - Giám sát của Đảng, là việc cấp uỷ, tổ chức đảng theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành TW. Tổ chức Đảng cấp trên được giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên; đảng viên được tham gia giám sát theo sự phân công của tổ chức đảng có thẩm quyền. Như vậy, giám sát của Đảng là giám sát “bên ngoài nhà nước” nhưng do bản chất chính trị và vị trí hạt nhân của Đảng trong hệ thống chính trị nên giám sát của Đảng là giám sát của chủ thể lãnh đạo đối với Nhà nước. Hoạt động này được thông qua cán bộ, đảng viên do đảng giới thiệu, cử lãnh đạo bộ máy nhà nước; thông qua tổ chức cơ sở đảng được thành lập tương ứng với cơ quan nhà nước. Giám sát của Đảng có vai trò quan trọng đối với đời sống chính trị-xã hội của đất nước, góp phần đẩy lùi những biểu hiện thoái hoá, biến chất, tiêu cực trong Đảng và bộ máy Nhà nước. - Giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, đó là hoạt động chủ yếu của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhằm giám sát quá trình tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Đặc điểm của loại giám sát này là mang tính quyền lực nhà nước rõ nét, là hệ thống các cơ quan hoạt động có tính chuyên nghiệp, được quy định rất cụ thể, chặt chẽ trong các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là các luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước (như: Luật Hoạt động giám sát Quốc hội, Luật Tổ chức HĐND và UBND, quy chế giám sát...). Loại hình giám sát này có quy định cụ thể trình tự, thủ tục, nội dung, thẩm quyền, trách nhiệm đối với các bên tham gia quan hệ giám sát thể hiện sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước. Giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước hỗ trợ tích cực cho công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm sát của nhà nước, góp phần xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả để quản lý tốt mọi mặt của đời sống xã hội theo pháp luật. - Giám sát của nhân dân, đó là giám sát không mang tính quyền lực nhà nước, do các tổ chức, cá nhân thực hiện nhằm theo dõi, quan sát, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước trong việc tổ chức và thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước; làm cho các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, giới hạn được giao. Chủ thể với đặc tính “nhân dân” có thể là những thành tố nhỏ nhất (cá nhân) hoặc những nhóm xã hội (các cá nhân tập hợp lại), bên ngoài nhà nước. Giám sát của nhân dân tuy không mang tính chuyên nghiệp và hậu quả pháp lý bắt buộc như giám sát mang tính quyền lực nhà nước nhưng có tác dụng phòng ngừa, góp phần ngăn chặn có hiệu quả vi phạm pháp luật và kỷ luật nhà nước từ phía cơ quan hành chính. Do đó, có phạm vi rất rộng, thường xuyên, liên tục tác động đến quyền lực nhà nước bằng “Dư luận xã hội”, “kiến nghị”, “yêu cầu” giúp cho hoạt động của nhà nước được đúng hướng, đúng pháp luật. Giám sát của nhân dân được thực hiện thông qua MTTQ, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động, cơ quan báo chí... và trực tiếp của cá nhân công dân. 1.1.1.3. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước Thuật ngữ “Hành chính”, theo nghĩa Hán Việt là thi hành những chính sách và mệnh lệnh của Chính phủ. Hành chính (Admi nistration) còn được giải thích là những hành vi, biện pháp để thi hành chính sách do cơ quan chính trị thiết lập. Đó là những hoạt động thường xuyên liên tục để đáp ứng nhu cầu chung của nhân dân. Cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là cơ quan chấp hành và điều hành của Quốc hội và HĐND các cấp, có hệ thống được tổ chức theo thứ bậc từ trung ương đến cơ sở, có chức năng quản lý mọi mặt của đời sống xã hội dựa trên pháp luật. Pháp luật quy định quyền giám sát của nhân dân đối với tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước nói chung, của cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Theo đó, nhân dân có quyền và trách nhiệm giám sát cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để nhân dân và các tổ chức xã hội giám sát hoạt động của mình. Điều 8, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền [53, tr.201]. Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, phạm vi đối tượng chịu sự giám sát là toàn thể các “cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước” trong đó có cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức hoạt động trong các cơ quan đó. Giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước, thực chất là giám sát hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước trong việc chấp hành, thực hiện pháp luật trong quản lý xã hội theo mục tiêu do Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, đảm bảo được quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, xã hội. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước là tổng thể các quy định của pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh và bảo đảm thực hiện hoạt động giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. 1.1.2. Nội dung pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước Đó là các quy phạm pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước được ghi nhận trong Hiến pháp các thời kỳ 1946, 1959, 1980, 1992 và bổ sung, sửa đổi năm 2001; các luật như: Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Thanh tra, Luật Báo chí,...; Pháp lệnh Cán bộ công chức, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn,... và các nghị định, nghị quyết của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; thông tư, thông tư liên tịch của các bộ, cơ quan ngang bộ... trong đó, xác định rõ chủ thể giám sát, đối tượng giám sát; trình tự thủ tục, hình thức giám sát và trách nhiệm pháp lý của mỗi bên trong tham gia hoạt động giám sát... tuy nhiên, pháp luật nước ta chưa có quy định chặt chẽ, cụ thể về giám sát của nhân dân như giám sát mang tính quyền lực nhà nước, mà chỉ dừng lại ở việc quy định những giới hạn, phạm vi, nguyên tắc... giám sát. Có thể tập hợp tổng thể các quy phạm pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước gồm những vấn đề cơ bản sau: 1.1.2.1. Các quy định về chủ thể giám sát Chủ thể pháp luật giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước là những cá nhân, tổ chức có khả năng trở thành các bên tham gia quan hệ pháp luật, có được quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở sự ghi nhận của những quy phạm pháp luật. Nhân dân với tư cách là chủ thể của quan hệ giám sát ở đây bao gồm: mọi người dân thuộc các tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn giáo khác nhau sống trên cùng lãnh thổ Việt Nam; đồng thời cũng là những cơ quan, tổ chức được pháp luật quy định. Với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước, nhân dân thể hiện ý chí của mình thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Với hình thức trực tiếp nhân dân là các cá nhân, công dân; với hình thức đại diện, nhân dân là các tổ chức do mình bầu nên như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Nhân dân còn thực hiện quyền của mình thông qua các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, tập thể lao động... do mình thừa nhận hoặc tham gia. Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật giám sát của nhân dân rất đa dạng và có xu hướng mở rộng. Trong đó có những cơ quan, tổ chức ở góc độ này thì là chủ thể nhưng ở góc độ khác lại là đối tượng giám sát, đồng thời có thể trở thành hình thức trong quan hệ giám sát, ví dụ như: cơ quan báo chí vừa là chủ thể giám sát của cơ quan hành chính nhà nước đồng thời là đối tượng giám sát của nhân dân; khi nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với cơ quan hành chính nhà nước thông qua cơ quan báo chí thì cơ quan báo chí trở thành một trong các phương thức giám sát của nhân dân. Cũng như vậy, Thanh tra nhân dân vừa là chủ thể vừa là hình thức giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước. Nhà nước là cơ quan đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân, nhận sự uỷ quyền của nhân dân, thay mặt nhân dân quản lý xã hội. Do đó, nhà nước phải tạo điều kiện để mở rộng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Trong luận văn này, chủ thể giám sát được đề cập đến bao gồm: các tổ chức chính trị- xã hội (Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân), các tổ chức xã hội, các tập thể lao động, các cơ quan báo chí và cá nhân công dân. (1) Các tổ chức chính trị xã hội: (MTTQ Việt Nam và các đoàn thể nhân dân) Điều 9, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định về địa vị chính trị pháp lý và nhiệm vụ giám sát (chức năng) của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên: Là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của chính quyền nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước... [53, tr.202]. Điều 2, Luật MTTQ Việt Nam cũng quy định: “MTTQ Việt Nam... giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước”. Chức năng giám sát của Mặt trận, các tổ chức chính trị- xã hội còn được quy định trong nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định... như trong Bộ Luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Tổ chức HĐND và UBND, Luật Bầu cử đại biểu HĐND, Luật Tổ chức Toà án nhâ._.n dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Pháp lệnh cán bộ công chức... MTTQ Việt Nam hiện có trên 30 thành viên, trong đó Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là hạt nhân lãnh đạo Mặt trận, có 5 thành viên là tổ chức chính trị-xã hội gồm: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Tổng LĐLĐ Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Ngoài ra thành viên của Mặt trận là tổ chức còn có các thành viên là cá nhân tiêu biểu. Giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên là giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát của nhà nước, góp phần xây dựng, củng cố chính quyền nhân dân, làm cho bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lợi ích hợp pháp của công dân, quản lý tốt mọi mặt đời sống xã hội theo pháp luật. Các tổ chức chính trị-xã hội là thành viên của MTTQ có thể thực hiện quyền giám sát của mình thông qua Mặt trận; hầu hết điều lệ các đoàn thể có quy định việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội, đồng thời có quyền giám sát độc lập, như Điều 10, Hiến pháp 1992 quy định: Công đoàn... cùng cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế... [53, tr.202]. MTTQ còn có chức năng tổ chức và chỉ đạo hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân ở cơ sở. Pháp luật quy định đó là hình thức giám sát của nhân dân đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước. Tổ chức và hoạt động của Thanh tra nhân dân được Chính phủ, sau khi trao đổi, thống nhất với Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam và Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, quy định tại Nghị định số 99/2005/NĐ-CP. Theo Nghị định số 99/2005NĐ-CP của Chính Phủ ngày 28/7/2005 thì việc thành lập Ban Thanh tra nhân dân “để giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, góp phần phát huy dân chủ, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức” [60, tr.29]. Như vậy, cùng với các chủ thể khác, Ban Thanh tra nhân dân là chủ thể quan trọng, một phương thức thực hiện chức năng giám sát của nhân dân đối với cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan hành chính, cán bộ công chức nhà nước nói riêng. (2) Các tổ chức xã hội: Tổ chức xã hội, là tên gọi chung để chỉ các tổ chức tự nguyện của quần chúng nhưng không phải là 5 tổ chức chính trị-xã hội như nêu ở trên. Các tổ chức xã hội có nhiều tên gọi khác nhau tuỳ theo tính chất, tôn chỉ, mục đích, điều lệ của tổ chức xã hội đó như: Hội, Liên Hiệp các hội, Hội liên hiệp, Tổng hội, Liên đoàn, Hiệp hội... Đặc điểm chung của các tổ chức xã hội là tự nguyện, tự chịu trách nhiệm về kinh phí, tập hợp kết nạp hội viên là người cùng ngành, nghề, giới, lứa tuổi, sở thích... có điều lệ hoặc quy chế được thành lập hoạt động một cách thường xuyên để đạt mục đích nào đó. Tổ chức và hoạt động của các tổ chức đó không được trái với lợi ích của nhân dân, dân tộc, tổ quốc, chế độ và được pháp luật công nhận (đăng ký hoạt động, phê chuẩn điều lệ...), đa số các tổ chức xã hội có tư cách pháp nhân. Các tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động theo qui định của pháp luật và điều lệ, quy chế của tổ chức đó. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội, các hội có trách nhiệm chấp hành sự quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật, đồng thời có quyền tham gia giám sát hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Quyền giám sát của tổ chức xã hội đối với cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước được quy định trong Hiến pháp và ngày càng được quy định nhiều và cụ thể trong các văn bản pháp luật mới ban hành như: Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật về các lĩnh vực, ngành nghề đặc thù... các quy định của pháp luật đều ghi nhận, khuyến khích tổ chức, cá nhân (Hội, hội viên) bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Kiến nghị với nhà nước về những vấn đề bất cập trong quá trình quản lý nhà nước và xã hội. (3) Các tập thể lao động: Các tập thể lao động ở nước ta hiện nay có số lượng vô cùng lớn với hình thức hết sức đa dạng tập trung trong các doanh nghiệp, nhà máy, hầm mỏ, đơn vị sự nghiệp, hợp tác xã... Tập thể lao động trong cơ quan hành chính nhà nước tham gia giám sát với ý nghĩa là theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có tác dụng quan trọng góp phần hạn chế vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, tham nhũng, lãng phí, lạm quyền trong thực hiện công vụ. (4) Các cơ quan báo chí- với tính chất vừa là chủ thể vừa là phương tiện giám sát của nhân dân: Chức năng giám sát của báo chí và truyền thông đại chúng lần đầu tiên được đề cập trong Nghị quyết TW 6 (lần 2) khoá VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam với khẳng định: “Là một trong bốn hệ thống giám sát xã hội”. Đó là sự xác định, đề cao quyền dân chủ của nhân dân đồng thời trao cho nhân dân công cụ sắc bén để thực hiện quyền giám sát của mình. Theo Luật báo chí thì có các loại hình sau: Báo in (Báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (Đài phát thanh), báo hình (Đài truyền hình), báo điện tử (được thực hiện trên mạng vi tính) bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài... Với chức năng thông tin, chức năng tạo dư luận xã hội (phản biện) và chức năng giáo dục, nâng cao dân trí, báo chí ngày càng có vai trò quan trọng đối với đời sống chính trị-xã hội, hoạt động quản lý nhà nước và nhu cầu của nhân dân. Do đó, báo chí được coi là chủ thể quan trọng, là công cụ, phương tiện đắc lực của nhân dân để thực hiện chức năng giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước. Luật báo chí hiện hành và pháp luật nói chung đều quy định khuyến khích báo chí đưa tin, phản ánh về những việc làm sai trái của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước; lên án các hành vi tham nhũng, vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật tạo diễn đàn để các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền giám sát. Cơ quan báo chí, phóng viên có quyền yêu cầu cơ quan tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu theo quy định của pháp luật... đồng thời pháp luật cũng quy định cơ quan báo chí, phóng viên phải đưa thông tin trung thực, khách quan và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc đưa tin đó. (5) Giám sát trực tiếp của công dân: Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy định 9 quyền về chính trị của công dân, trong đó có 7 quyền trực tiếp hoặc gián tiếp thể hiện quyền giám sát của công dân đối với nhà nước. Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí, Luật Thanh tra cụ thể là các quy định về thanh tra nhân dân, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã thể hiện nội dung giám sát của cá nhân công dân đối với hoạt động của chính quyền; phẩm chất đạo đức của cá nhân, cán bộ công chức, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, dự toán và quyết toán ngân sách, việc sử dụng các khoản kinh phí do nhân dân đóng góp, các công trình do nhà nước đầu tư, việc thực hiện chính sách pháp luật... thông qua cuộc họp, hội nghị, tiếp xúc cử tri, trưng cầu ý kiến, bỏ phiếu tín nhiệm.... Tóm lại, chủ thể của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước gồm có các tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động, ban thanh tra nhân dân, cơ quan báo chí và trực tiếp của công dân. Các chủ thể trên đều có đặc điểm chung là bên ngoài nhà nước, độc lập hoặc độc lập tương đối với nhà nước, không mang tính quyền lực nhà nước và do tính chất là những cơ cấu, tổ chức thiết chế thuộc về xã hội mang tính nhân dân nên gọi là giám sát của nhân dân. 1.1.2.2. Các quy định về đối tượng giám sát của nhân dân Đối tượng pháp luật về giám sát của nhân dân đề cập trong luận văn này chính là hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận của bộ máy nhà nước do nhà nước lập ra để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Cũng như các cơ quan khác của bộ máy nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu tổ chức riêng để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình do pháp luật quy định, đó là hoạt động trên một đơn vị lãnh thổ hành chính hay trên một lĩnh vực nhất định. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước do Hiến pháp, pháp luật quy định. Mặt khác, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước do vị trí, tính chất của nó trong hệ thống các cơ quan nhà nước quyết định. Quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước là phương tiện pháp lý cần thiết để thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao. Cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống thống nhất từ TW đến địa phương, đứng đầu hệ thống đó là Chính phủ. Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung (Chính phủ, UBND các cấp) do các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội, HĐND các cấp) lập ra. Do vậy, các cơ quan đó phải chịu sự giám sát trực tiếp và báo cáo công tác trước các cơ quan quyền lực nhà nước. Cơ quan hành chính nhà nước là một loại cơ quan nhà nước, một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước do đó cơ quan hành chính nhà nước có các đặc điểm chung của cơ quan nhà nước. Ngoài ra, cơ quan hành chính nhà nước có những đặc điểm riêng mà qua đó ta có thể phân biệt được cơ quan hành chính nhà nước và cơ quan khác, đó là: Thứ nhất, cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà nước, thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung do cơ quan quyền lực cùng cấp lập ra. Các cơ quan khác trong bộ máy hành chính nhà nước không do cơ quan hành chính lập ra nhưng về nguyên tắc vẫn phải chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, sự giám sát của nhân dân. Hoạt động chấp hành, điều hành của cơ quan hành chính nhà nước là hình thức hoạt động chủ yếu để đưa các văn bản pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước vào thực tiễn đời sống xã hội và quản lý nhà nước. Trong khi các cơ quan nhà nước khác chỉ tham gia hoạt động quản lý hành chính trong phạm vi, lĩnh vực nhất định nhằm tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Thứ hai, mỗi cơ quan hành chính nhà nước có một phạm vi thẩm quyền nhất định được giới hạn trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước do pháp luật quy định (Hiến pháp, Luật Tổ chức chính phủ, Luật Tổ chức HĐND và UBND, các nghị định của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ...) và trong phạm vi thẩm quyền của mình độc lập hành động. Thứ ba, chỉ có cơ quan hành chính nhà nước mới có hệ thống các đơn vị trực thuộc. Các đơn vị cơ sở này góp phần tích cực vào việc thực hiện chức năng cơ bản của cơ quan hành chính nhà nước. Ví dụ như: các trường học, bệnh viện, doanh nghiệp... Phân loại cơ quan hành chính nhà nước dựa trên nhiều căn cứ khác nhau, theo các tiêu chuẩn khác nhau. Đó là: - Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ hoạt động (không gian) cơ quan hành chính nhà nước được phân thành 2 loại: Cơ quan hành chính nhà nước ở TW và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương gồm Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ quản lý về ngành hay lĩnh vực công tác. Những cơ quan này có phạm vi hoạt động toàn quốc, các văn bản do các cơ quan đó ban hành về nguyên tắc có hiệu lực trên phạm vi cả nước. Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương là Uỷ ban nhân dân các cấp. Đây là những cơ quan hành chính nhà nước được thành lập và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ nhất định. Các văn bản do cơ quan này ban hành chỉ có hiệu lực trong phạm vi hoạt động của các cơ quan, tổ chức, công dân ở địa phương đó. Trong một số trường hợp các văn bản do cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương ban hành có hiệu lực đối với cả cơ quan, đơn vị của Trung ương đóng tại địa phương. - Căn cứ theo phạm vi thẩm quyền, cơ quan hành chính nhà nước được phân loại thành cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung và cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền riêng. Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung gồm Chính phủ và UBND các cấp. Các cơ quan này theo quy định của Hiến pháp có thẩm quyền giải quyết vấn đề trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, đối với các đối tượng khác nhau như cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, công dân. Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền riêng bao gồm các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, sở, phòng… có chức năng quản lý theo ngành hay theo chức năng, các cơ quan này hoạt động trong một ngành hay một lĩnh vực, một số ngành hay một số lĩnh vực nhất định và hoạt động không được vượt ngoài giới hạn phạm vi thẩm quyền đã được pháp luật quy định. - Căn cứ theo nguyên tắc tổ chức và giải quyết công việc (theo chế độ lãnh đạo) cơ quan hành chính nhà nước được phân thành hai loại: Cơ quan tổ chức và hoạt động theo chế độ lãnh đạo tập thể và cơ quan tổ chức và hoạt động theo chế độ thủ trưởng một người. + Cơ quan hành chính nhà nước theo chế độ tập thể lãnh đạo là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung (Chính phủ và UBND các cấp). Các cơ quan này thường giải quyết các công việc và quyết định các vấn đề quan trọng có liên quan đến nhiều lĩnh vực nên cần có sự đóng góp trí tuệ tập thể trong bàn bạc và quyết định. Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) các cơ quan như Chính phủ, UBND các cấp hoạt động theo nguyên tắc kết hợp giữa chế độ tập thể với chế độ thủ trưởng. Đó là cách làm việc của tập thể Chính phủ và UBND với việc tăng cường quyền hạn, trách nhiệm của Thủ tướng và Chủ tịch UBND. Cách thức chủ yếu là tập thể thảo luận, quyết định theo đa số đối với các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của cơ quan, đồng thời căn cứ vào nhiệm vụ quyền hạn của mình Thủ tướng, Chủ tịch UBND các cấp quyết định các vấn đề thuộc phạm vi, chức trách của mình. + Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn tổ chức và hoạt động theo chế độ thủ trưởng một người. Thủ trưởng cơ quan là người đại diện cho cơ quan, ý chí của họ do sự uỷ nhiệm của pháp luật, là ý chí của cơ quan. Họ được phép thay mặt cơ quan ra những quyết định nhằm thực hiện nhiệm vụ, công việc mà pháp luật quy định và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chế độ làm việc này cho phép thủ trưởng cơ quan quyết định giải quyết nhanh chóng công việc, nhiệm vụ thuộc thẩm quyền được giao. Tuy nhiên, trong những vấn đề lớn, quan trọng trước khi quyết định vẫn phải được tập thể thảo luận, bàn bạc... Tóm lại, cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp, trong phạm vi thẩm quyền của mình thực hiện hoạt động chấp hành, điều hành và tham gia vào các quan hệ quản lý nhân danh quyền lực nhà nước. Khách thể của quan hệ pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước là trạng thái hoạt động trật tự, bình thường, đúng pháp luật của các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Đó cũng là khách thể của hoạt động quản lý nhà nước, xã hội mà cơ quan hành chính nhà nước hướng tới. 1.1.2.3. Các quy định về nội dung, hình thức giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước Giám sát của nhân dân có nhiều chủ thể và mỗi chủ thể lại có vị trí, chức năng khác nhau trong hệ thống chính trị, đời sống xã hội do đó có các nội dung, hình thức giám sát tương ứng. - Nội dung giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước, bao gồm: + Giám sát quá trình thành lập các cơ quan của bộ máy nhà nước. + Giám sát đối với hoạt động của các cơ quan chấp hành, điều hành, hay còn gọi là hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, nắm giữ quyền hành pháp trong nhà nước, trực tiếp quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. + Giám sát việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, giới hạn thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ với cơ quan khác và với nhân dân. + Giám sát đối với các quyết định, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước xem có hợp hiến, hợp pháp và có tính hợp lý hay không. + Giám sát việc tuân thủ và tổ chức thực hiện các văn bản của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, cấp trên cũng như của cơ quan hành chính có thẩm quyền. + Giám sát đối với việc bảo đảm thực hiện các quyền tự do và lợi ích chính đáng của công dân được pháp luật bảo vệ. + Giám sát đối với đội ngũ cán bộ, công chức thực thi trách nhiệm công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước. + Giám sát hiệu quả thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước, việc sử dụng các nguồn lực vật chất, tài chính, lao động và các nguồn lực khác trong tổ chức lao động, sử dụng các thành tựu, công nghệ mới... Việc phân chia nội dung giám sát như trên chỉ có tính chất tương đối bởi mỗi chủ thể trong giám sát của nhân dân có sự khác nhau về mục đích, nhiệm vụ, tính chất và vị trí của mình. Mặt khác, cũng không phải chủ thể nào trong đó đều thực hiện đầy đủ các nội dung giám sát nêu trên, nhưng về tổng thể, các chủ thể giám sát bao quát toàn bộ hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. - Hình thức giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. Giám sát của nhân dân được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú tuỳ thuộc vào vị trí, tính chất, đặc điểm của chủ thể giám sát. Mỗi loại chủ thể có những hình thức giám sát phù hợp với vị trí, tính chất và đặc điểm của mình. Mỗi hình thức giám sát lại có khả năng phù hợp với một hoặc nhiều chủ thể. Đối với chủ thể giám sát là tổ chức hay tập thể người lao động có 3 hình thức chủ yếu là: Vận động các thành viên (các cá nhân) tích cực thực hiện quyền giám sát; tự mình (với tư cách tổ chức tập thể) thực hiện quyền giám sát; tham gia phối hợp với cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác để thực hiện quyền giám sát. Đối với cá nhân công dân hình thức giám sát chủ yếu thông qua thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị hoặc thông qua tổ chức, hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân và cơ quan báo chí. Có thể nêu một số hình thức giám sát của các chủ thể sau đây: + Hình thức giám sát của các tổ chức chính trị-xã hội. (MTTQ và các đoàn thể nhân dân) gồm: Động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát; tham gia giám sát cùng các cơ quan quyền lực nhà nước; thông qua hoạt động của mình tổng hợp ý kiến của nhân dân, của các tổ chức thành viên kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên dương khen thưởng đối với những cơ quan, cán bộ, công chức thực hiện tốt nhiệm vụ và xem xét, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật [41]. Trong loại hình giám sát này chúng ta thấy có một chủ thể đồng thời là hình thức giám sát rất quan trọng, đó là Ban Thanh tra nhân dân ở cơ sở. Thanh tra nhân dân giám sát đối với việc thực hiện chính sách pháp luật, việc giải quyết khiếu nại tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Khi thực hiện giám sát theo 3 nội dung trên, nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm thì kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật và giám sát việc thực hiện kiến nghị đó. Khi cần thiết, Ban Thanh tra nhân dân được Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn (cơ quan hành chính cấp cơ sở), người đứng đầu các cơ quan, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước giao kiểm tra, xác minh những vụ việc nhất định. Thanh tra nhân dân có quyền kiến nghị với Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước khắc phục khuyết điểm, thiếu sót qua giám sát phát hiện được; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và người lao động. Thẩm quyền, trách nhiệm và phạm vi giám sát của Ban Thanh tra nhân dân được pháp luật quy định cụ thể đối với 3 loại hình: Thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn; Thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp và Thanh tra nhân dân ở doanh nghiệp nhà nước. Pháp luật cũng quy định trách nhiệm và thời gian cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận được kiến nghị của Thanh tra nhân dân phải xem xét giải quyết. + Hình thức giám sát của tổ chức xã hội. Địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội được quy định trong Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ. Theo quy định của pháp luật hình thức giám sát của các tổ chức xã hội là tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội dung hoạt động của tổ chức đó; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi phát hiện thấy những vấn đề bất cập của chính sách, pháp luật đối với tổ chức đó; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên; đại diện cho hội viên trong hoạt động đối nội, đối ngoại có liên quan đến chức năng nhiệm vụ của hội. Các tổ chức xã hội, hội viên có quyền giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước và kiến nghị sửa đổi, khắc phục, hoàn thiện khi có bất cập, thiếu sót. + Hình thức giám sát của các tập thể lao động. Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trong các lĩnh vực cụ thể (đăng ký kinh doanh, quản lý thị trường, quan hệ về thuế...) đều có những quy định quyền cho các tập thể thực hiện quyền giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước về lĩnh vực quản lý hành chính như: kiến nghị, khiếu nại, tố cáo, kiện ra toà án... đó là cơ sở pháp lý và hình thức cơ bản nhất để các tập thể lao động thực hiện quyền giám sát của mình đối với cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. + Hình thức giám sát của cơ quan báo chí bao gồm: Đưa tin về hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước đến công chúng một cách thường xuyên, liên tục, trung thực, kịp thời; tạo điều kiện thuận tiện để nhân dân nói lên quan điểm, thái độ, đánh giá của mình đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Là diễn đàn của nhân dân, cơ quan báo chí đưa ra công luận, công khai để nhân dân bày tỏ ý kiến của mình về những vấn đề của nhà nước và xã hội. + Hình thức giám sát trực tiếp của nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình thông qua việc thực hiện dân chủ ở xã phường, thị trấn, cụ thể là qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng; kiến nghị thông qua Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận cấp xã [59]; Quy chế dân chủ ở cơ quan (điều 20,21); Quy chế dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước (điều 14,15) với hình thức chủ yếu là thông qua cuộc họp, hội nghị mà công dân, cán bộ được tham gia, góp ý kiến cho cán bộ đảng viên, bỏ phiếu tín nhiệm. Ngoài ra, công dân tự mình thực hiện quyền giám sát qua các hình thức sau: * Giám sát dưới hình thức kiến nghị đối với cơ quan nhà nước, đây là việc làm thể hiện tính tích cực, chủ động của công dân. Quyền kiến nghị lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp 1992. Đó là đề xuất ý kiến với cơ quan, tổ chức nhà nước nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, kiến nghị không liên quan trực tiếp tới vi phạm pháp luật. * Giám sát dưới hình thức yêu cầu, đó là đòi hỏi của công dân để được thực hiện quyền chủ thể của họ mà pháp luật quy định (yêu cầu được học tập, yêu cầu có việc làm, yêu cầu được thông tin...), cũng có trường hợp liên quan tới vi phạm pháp luật nhưng không trực tiếp tới người yêu cầu. * Giám sát thông qua việc khiếu nại, đó là việc sử dụng quyền chủ thể của công dân khiếu nại hoặc của người do họ bảo hộ bị vi phạm do quyết định hoặc hành vi trái pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước hoặc các công chức, viên chức. * Giám sát thông qua việc tố cáo, là việc công dân phát hiện báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại tới lợi ích của Nhà nước, tập thể quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tính giám sát thể hiện rõ khi công dân thực hiện quyền tố cáo. * Giám sát thông qua các cuộc tiếp xúc cử tri, qua việc tiếp xúc cử tri của các đại biểu dân cử (nhiều vị công tác ở cơ quan hành chính nhà nước báo cáo với cử tri về hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước mà báo cáo đó sẽ hoặc đã được trình tại Quốc hội, HĐND) công dân giám sát trực tiếp đại biểu (nghe báo cáo, chất vấn, kiến nghị) đồng thời giám sát hoạt động các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước thông qua các đại biểu đó. * Giám sát thông qua quyền được thông tin và các quy định mà cơ quan hành chính nhà nước phải thực hiện như: đăng công báo, báo chí, yết thị nơi công cộng, phổ biến ở hội nghị nhân dân... để nhân dân biết về hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. 1.1.2.4. Các quy định về quy trình, thủ tục giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước Pháp luật nước ta quy định khá chặt chẽ, cụ thể về chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức giám sát nhưng thiếu cụ thể về quy trình, thủ tục và hậu quả pháp lý giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. - Đối với các tổ chức chính trị- xã hội. + Ở Trung ương, Chính phủ thường xuyên mời Chủ tịch Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam, Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, người đứng đầu cơ quan TW của các đoàn thể nhân dân dự phiên họp của Chính phủ khi bàn về vấn đề có liên quan. Thường xuyên thông báo cho Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam, Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và các cơ quan TW của các đoàn thể nhân dân về tình hình kinh tế- xã hội, các quy định, chủ trương, công tác lớn của Chính phủ. Xây dựng cơ chế phối hợp bằng các quy chế hoạt động giữa Chính phủ với MTTQ, các đoàn thể nhân dân, như: tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, động viên tổ chức nhân dân tham gia xây dựng củng cố chính quyền, tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật nhà nước... Định kỳ hàng năm có chương trình làm việc trực tiếp với Thủ tướng, thông qua hoạt động đó MTTQ và các tổ chức thành viên góp ý, kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ những vấn đề nhằm giúp cho hoạt động (xây dựng, ban hành chính sách, văn bản quy phạm pháp luật...) của cơ quan hành chính nhà nước cao nhất toàn diện và hiệu quả hơn. Mặt khác, MTTQ, các đoàn thể nhân dân thông qua chương trình phối hợp liên tịch với các bộ, cơ quan ngang bộ trong thực hiện các quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, mục đích yêu cầu của Mặt trận, các đoàn thể cũng như của bộ, ngành. Thông qua hoạt động phối hợp, hoạt động giám sát được thực hiện để quy chế, nghị quyết, thông tư liên tịch được thực hiện nghiêm chỉnh, có kết quả tốt. Như vậy, hoạt động giám sát của MTTQ, các đoàn thể nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước cao nhất chủ yếu thông qua việc tham dự các cuộc họp, qua việc lấy ý kiến vào các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, qua việc công khai xem xét các báo cáo, chương trình, đề án công tác; qua việc xác lập quy chế phối hợp hoạt động... + Ở địa phương, giám sát của MTTQ, các tổ chức chính trị-xã hội đối với cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước thực hiện với quy trình, thủ tục sau: người đứng đầu các tổ chức thành viên của MTTQ, Trưởng ban công tác Mặt trận tiếp nhận đơn giám sát, ý kiến phản ánh của nhân dân, hội viên, đoàn viên sau đó phân loại, lựa chọn các sự việc có nội dung, địa chỉ rõ ràng gửi Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ cấp xã; Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ cấp xã tiếp nhận đơn giám sát, ý kiến phản ánh trực tiếp của người dân, người đứng đầu tổ chức thành viên, Trưởng ban công tác Mặt trận, Trưởng Ban Thanh tra nhân dân để phân loại xử lý. Khi cần thiết Thường trực Uỷ ban MTTQ cấp xã thành lập tổ giám sát. Nội dung giám sát, thành phần tổ giám sát, kế hoạch giám sát do Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ cấp xã quyết định sau khi thống nhất với Thường trực HĐND cùng cấp. Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ cấp xã có trách nhiệm tổ chức đối thoại để làm rõ nội dung giám sát khi có yêu cầu của đối tượng bị giám sát; sau khi có văn bản trả lời, Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ cấp xã thông báo để tổ chức, cá nhân đã gửi kiến nghị, đơn giám sát biết. Giám sát của Ban Thanh tra nhân dân đối với hoạt động của UBND xã, phường, thị trấn được thực hiện với quy trình thủ tục: Ban Thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn giám sát thông qua việc tiếp nhận các ý kiến phản ánh của nhân dân hoặc trực tiếp thu thập thông tin, tài liệu để xem xét, theo dõi cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn thực hiện những việc thuộc phạm vi giám sát của thanh tra nhân dân. Để thực hiện quyền của mình, Ban Thanh tra nhân dân, sử dụng 2 con đường trực tiếp hoặc thông qua Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kiến nghị, xem xét, giải quyết các vấn đề liên quan đến nội dung giám sát của Ban Thanh tra nhân dân và giám sát việc giải quyết kiến nghị đó. Ban Thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước thực hiện quy trình, thủ tục giám sát theo hướng dẫn, chỉ đạo của Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đó. Ban Thanh tra nhân dân - Đối với các tổ chức xã hội: Một số tổ chức xã hội là thành viên của Mặt trận thì giám sát theo trình tự, thủ tục của Mặt trận và các tổ chức thành viên. Những tổ chức chưa tham gia hoặc tham gia nhưng thực hiện chức năng giám sát của mình độc lập thì quy trình, thủ tục của chủ thể giám sát này bao gồm: Giám sát thông qua việc nắm bắt theo dõi thông tin về hoạt động của cơ quan hay cá nhân có chức vụ, quyền hạn của nhà nước và kiến nghị với cơ quan, cấp có thẩm quyền; tham gia vào việc xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến những lĩnh vực, ngành nghề mà các tổ chức xã hội có trách nhiệm bảo vệ; thông qua các đơn vị có chức năng tư vấn chuyên môn về pháp luật và các lĩnh vực dịch vụ công khác; tham gia các đoàn giám sát việc thi hành pháp luật do chính quyền và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành lập. - Đối với các tập thể lao động: Trì._.m sát. Hoạt động giám sát phải được bảo đảm các điều kiện nêu trên để tiến hành theo một quy trình khép kín, có cơ sở pháp lý cho việc xử lý đối với những trường hợp vi phạm pháp luật nhưng không làm cản trở hoạt động bình thường đúng pháp luật của đối tượng chịu giám sát. Trong bối cảnh có nhiều chủ thể với tính chất khác nhau có quyền tham gia giám sát, cần phân định rõ thẩm quyền, phạm vi của các chủ thể giám sát nhằm bảo đảm cho các chủ thể đó phát huy được tối đa quyền năng của mình đồng thời tránh được sự trùng lặp hoặc bỏ sót nội dung, đối tượng trong hoạt động giám sát. Hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát phải được xác định trên cơ sở áp dụng các chế tài cụ thể đối với đối tượng chịu sự giám sát, nhằm đảm bảo cho các đối tượng chịu giám sát phải báo cáo, giải trình và có biện pháp tích cực khắc phục những vấn đề mà thông qua hoạt động chủ thể giám sát yêu cầu. Từng bước nghiên cứu, ban hành Luật về giám sát của nhân dân trên cơ sở kế thừa và hợp nhất các luật, pháp lệnh, nghị định hiện hành như: Luật MTTQ, Luật Thanh Tra, Luật Khiếu nại, tố cáo, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ... nghị định về thanh tra nhân dân, quy chế thực hiện dân chủ ở các loại hình cơ sở. (Vấn đề này đã nằm trong Nghị quyết về xây dựng chương trình pháp luật, pháp lệnh của Quốc hội từ năm 1998 nhưng đến nay chưa thực hiện được). Trong luật đó cần quy định cụ thể về thẩm quyền, lĩnh vực, nội dung, hình thức, trình tự, thủ tục giám sát của Mặt trận, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, tập thể lao động, cơ quan báo chí và trực tiếp của công dân. Mặt khác, cần quy định cụ thể về giới hạn quyền lực (thẩm quyền và trách nhiệm) của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là cơ quan hành chính nhà nước; sự phối hợp giữa các loại hình giám sát, cơ quan, tổ chức giám sát; tăng cường các biện pháp bảo đảm an toàn cho người dân thực hành quyền giám sát... 3.3.2. Hoàn thiện những quy định pháp luật về giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội đối với cơ quan hành chính nhà nước Hiện nay hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giám sát của MTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội đã khá nhiều và đa dạng. Tuy nhiên, các quy định đó phần lớn mới chỉ dừng lại ở việc giám sát đối với hoạt động cơ quan nhà nước cấp cơ sở. Đối với cấp huyện, tỉnh, Trung ương quyền giám sát mới chỉ được quy định theo nguyên tắc chung (nêu lên) và thực hiện qua việc hướng dẫn cấp dưới thực hành quyền giám sát và tổng hợp ý kiến từ dưới lên; chưa có văn bản hướng dẫn để MTTQ, các đoàn thể nhân dân từ cấp huyện trở lên thực hành quyền giám sát các cơ quan nhà nước cùng cấp và cấp dưới. Quy định giám sát đối với cấp cơ sở cũng mới chỉ tập trung cho một loại hình là khu dân cư (xã, phường, thị trấn) và mới chỉ làm điểm ở 5 tỉnh, thành phố. Vì vậy, cần hoàn thiện, bổ sung những văn bản pháp luật quy định về giám sát của Mặt trận và các tổ chức thành viên mà trước hết cần nghiên cứu, tiếp tục bổ sung các quy chế, quy định, cụ thể hoá thẩm quyền, nội dung, biện pháp, cách thức bảo đảm cho quyền giám sát của Mặt trận và các tổ chức thành viên có cơ sở pháp lý để thực hiện trên toàn quốc và ở tất cả các cấp, tương ứng với bộ máy nhà nước, không loại trừ cấp nào, tránh tình trạng “nhẹ trên, nặng dưới”. Để khắc phục hạn chế đó, có thể nghiên cứu thực hiện theo các phương án sau: Thứ nhất, tập trung rà soát các quy định pháp luật về giám sát của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân trong các văn bản quy phạm pháp luật nhằm loại bỏ các quy phạm chồng chéo, trùng lặp, mâu thuẫn hoặc chung chung không cụ thể và thiếu khả thi nhất là trong các luật về tổ chức và hoạt động của Mặt trận, các tổ chức chính trị-xã hội như: Luật MTTQ, Luật Công đoàn, Luật Bình đẳng giới, Luật Thanh niên...; cần chi tiết hoá phạm vi, chức năng, thẩm quyền, trình tự, thủ tục và hậu quả pháp lý mà giám sát Mặt trận, các tổ chức chính trị-xã hội thực hiện đối với hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước trong các luật như: Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Khiếu nại, tố cáo... Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung Luật MTTQ Việt Nam, Nghị định 50/2001/NĐ-CP theo hướng chi tiết hơn điều 12 của Luật, điều 13 của Nghị định và các điều, khoản liên quan đến hoạt động giám sát của Mặt trận, các tổ chức thành viên. Pháp luật cần quy định cơ chế phối hợp chung giữa Mặt trận với các chủ thể giám sát khác về thông tin, nghiệp vụ, cần tăng cường phối hợp trong hoạt động giám sát giữa, MTTQ, các tổ chức thành viên với những cơ quan có chức năng giám sát, thanh tra, kiểm tra của Đảng và Nhà nước. Thứ ba, sửa đổi, bổ sung các văn bản luật, pháp lệnh trực tiếp liên quan đến hoạt động giám sát của các tổ chức chính trị- xã hội ban hành đã lâu và có những bất cập, hạn chế hoặc lạc hậu, như: Luật Công đoàn, Pháp lệnh Cựu chiến binh. Trong xây dựng nghị định của Chính Phủ hướng dẫn thi hành Luật Thanh niên, Luật Bình đẳng giới... cần chú ý đến phạm vi, thẩm quyền của các tổ chức chính trị- xã hội trong hoạt động giám sát đối với cơ quan nhà nước; trách nhiệm cụ thể của các cơ quan nhà nước đối với hoạt động giám sát của các tổ chức chính trị- xã hội. Thứ tư, Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc liên hiệp và phối hợp thống nhất hành động, tuy nhiên mối quan hệ giữa Uỷ ban MTTQ với các tổ chức thành viên và trong quan hệ giám sát chỉ do Điều lệ Mặt trận quy định chứ chưa được quy định bởi pháp luật. Điều này khiến việc phát huy vai trò giám sát của các tổ chức chính trị-xã hội là thành viên của Mặt trận còn mờ nhạt, thậm chí lẫn vào trong giám sát của cơ quan Mặt trận (không phải là sức mạnh của hệ thống), do đó, các tổ chức thành viên ít thể hiện được vai trò giám sát. Hoàn thiện pháp luật giám sát của nhân dân không thể không tính đến vai trò giám sát của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân trong một hệ thống, đồng thời cần phát huy giám sát độc lập của Mặt trận cũng như của các tổ chức thành viên. Mặt khác, khi phối hợp giám sát lại tạo ra sức mạnh tổng hợp, hiệu quả. Thứ năm, ở nước ta hiện có hai loại hình thanh tra là Thanh tra Nhà nước và Thanh tra nhân dân. Vai trò của MTTQ trong tổ chức và hoạt động của Thanh tra nhân dân rất quan trọng nhưng chưa có cơ chế pháp lý và biện pháp bảo đảm cho tổ chức hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân ở cơ sở phát hiện hiệu quả giám sát với cơ quan nhà nước, phạm vi giám sát hẹp, ở một góc độ nào đó Ban Thanh tra nhân dân như là cấp dưới của chính quyền: "Khi được Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn giao xác minh những vụ việc nhất định, Ban Thanh tra nhân dân có trách nhiệm thực hiện đúng nội dung, thời gian, phạm vi, nhiệm vụ được giao” [59, tr41]. Như vậy Ban thanh tra là “cấp dưới” “phương tiện” “công cụ”, “cánh tay nối dài” của chính quyền chứ không có tính “độc lập”, “khách quan”, “bên ngoài” để giám sát nữa. Ở đây đối tượng giám sát lại là “cấp trên” của chủ thể giám sát, do đó cần phải được sửa đổi cho hợp lý. Mặt khác, cần tách Luật thanh tra thành Luật Thanh tra nhà nước và Luật Thanh tra nhân dân. Khi giám sát của nhân dân được luật hoá với những quy định cụ thể về chức năng, phạm vi, thẩm quyền, nội dung, hình thức, phương pháp... sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng giúp Ban Thanh tra nhân dân hoạt động hiệu quả tránh rơi vào hình thức. Chủ thể giám sát của nhân dân cần mở rộng, đối tượng giám sát của nhân dân cần xác định chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức ở đó. Luật đó, cần có cơ chế pháp lý giám sát trực tiếp của cá nhân công dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. Đặc biệt hậu quả pháp lý giám sát của nhân dân phải trực tiếp, tương ứng với vai trò, yêu cầu nhiệm vụ, giám sát đặt ra. Ngoài ra pháp luật cần quy định cụ thể các điều kiện bảo đảm cho Ban Thanh tra nhân dân hoạt động hợp lý để có hiệu quả. 3.3.3. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của các tổ chức xã hội, tập thể lao động Đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện các văn bản Luật quan nhằm củng cố cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội, trong đó, tập trung hoàn thiện và sớm ban hành Luật về hội thay thế cho việc hiện nay chỉ áp dụng, thực hiện Nghị định 88/2003/NĐ-CP của Chính phủ. Các quy định về hội nên có nội dung khuyến khích và phát huy sự tham gia, giám sát Nhà nước của các hội thay vì chỉ nặng về quản lý nhà nước đối với hội như hiện nay. 3.3.4. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của cơ quan báo chí truyền thông đối với cơ quan hành chính nhà nước Hoàn thiện pháp luật về báo chí, xuất bản theo hướng bảo đảm quyền tự do báo chí, xuất bản gắn liền với trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp của người làm báo, xuất bản. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với báo chí và xuất bản. Tập trung rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy định về hoạt động trong lĩnh vực thông tin, báo chí như Luật Báo chí hiện hành (1999), các quy định về quản lý Internet... cần có chế định cụ thể, rõ ràng về quyền được thông tin của nhân dân và bảo đảm tính công khai minh bạch của cơ quan nhà nước. Xác định rõ loại thông tin nào phải công bố công khai, theo kênh nào, ai có trách nhiệm cung cấp thông tin và trả lời báo chí; cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước vi phạm quy định về cung cấp thông tin cho dân thì bị chế tài xử lý như thế nào, người đưa tin sai sự thật gây hại cho người khác thì bị xử lý ra sao... Việc Chính phủ, các bộ, UBND các cấp phải giải trình trước Quốc hội, HĐND các cấp thực hiện qua họp báo, đăng tải trên hệ thống báo chí, truyền thông... phải được quy định cụ thể để trở thành nền nếp hoạt động thường xuyên của cơ quan hành chính nhà nước. Mặt khác, cần bổ sung vào Luật Báo chí hiện hành ở các điều quy định về chức năng, nhiệm vụ của báo chí trong Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí…, các hình thức, chuyên mục cũng như những vấn đề bắt buộc phải có, đưa tin, đăng tải, trả lời... của cơ quan báo chí; quy định cơ quan báo chí cũng là đối tượng giám sát của nhân dân bên cạnh chức năng báo chí là chủ thể đồng thời là phương thức giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước; các quy định về tiêu chuẩn nhà báo, tập huấn cho cán bộ, phóng viên các cơ quan báo chí về kiến thức luật pháp, những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của công dân, chuyên môn, nghiệp vụ nghề báo để tham gia giám sát nhà nước cũng như định hướng dư luận được đúng đắn, hiệu qủa. 3.3.5. Hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát trực tiếp của công dân đối với cơ quan hành chính nhà nước 3.3.5.1. Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo của công dân Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị khoá IX chỉ rõ: Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo, bảo đảm mọi quyết định và hành vi hành chính trái pháp luật đều được phát hiện và có thể bị khởi kiện trước Toà án; đổi mới thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và thủ tục giải quyết các vụ án hành chính theo hướng công khai, đơn giản thuận lợi cho dân, đồng thời bảo đảm tính thông suốt, hiệu quả của quản lý hành chính [17, tr.4]. Hoàn thiện pháp luật khiếu nại, tố cáo cần phải tách Luật Khiếu nại, tố cáo thành Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo, do có sự khác nhau của khiếu nại và tố cáo cả về bản chất, trình tự, thủ tục và thẩm quyền giải quyết. Sửa đổi cơ chế giải quyết khiếu nại theo hướng: gắn trách nhiệm giải quyết khiếu nại với người đã ban hành quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính bị khiếu nại. Thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên tập trung làm nhiệm vụ đôn đốc, kiểm tra việc giải quyết của cấp dưới và xử lý các vi phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo, không giải quyết thay cho cấp dưới; bổ sung quy định về giải quyết khiếu nại đã có quyết định giải quyết cuối cùng và quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa đúng pháp luật; bổ sung các quy định về xử lý việc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để kích động, lôi kéo, gây rối làm mất trật tự công cộng, cản trở hoạt động bình thường, đúng pháp luật của cơ quan nhà nước; bổ sung quy định về xử lý các trường hợp chây ỳ cố tình không chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại tố cáo cuối cùng và khiếu nại, tố cáo đã có hiệu lực pháp luật đúng pháp luật. Bổ sung khái niệm khiếu nại, tố cáo đông người và các nguyên tắc, điều kiện, trình tự, thủ tục được khiếu nại tố cáo đông người và việc giải quyết khiếu nại tố cáo đông người... của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Để pháp luật khiếu nại, tố cáo tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia giám sát hoạt động của cơ quan, cán bộ công chức nhà nước, cần hoàn thiện pháp luật về hoà giải ở cơ sở gắn việc giải quyết khiếu nại tố cáo với thực hiện quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở. Tăng cường vai trò của Mặt trận và các tổ chức thành viên trong hoạt động hoà giải, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với cơ quan hành chính nhà nước. Mặt khác, cần hoàn thiện chế độ trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước trong việc xem xét, giải quyết, thực hiện kiến nghị của Mặt trận, các tổ chức xã hội và công dân về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. 3.3.5.2. Hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở, nâng cao năng lực giám sát trực tiếp của nhân dân Hiện nay, Quy chế thực hiện dân chủ ở xã được ban hành theo Nghị định số 79/2003/NĐ- CP ngày 7/7/2003 của Chính phủ đã được thay thế bằng Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Tuy mới được ban hành và có hiệu lực thực hiện từ 1/7/2007, Pháp lệnh trong tương lai phải tiếp tục được nâng lên thành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Luật đó, được xây dựng cần có phạm vi bao hàm các loại hình cơ sở với các hình thức giám sát khác nhau, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của loại hình cơ sở đó, đồng thời chú trọng đến quy định hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát qua hình thức bỏ phiếu tín nhiệm, phát phiếu lấy ý kiến của nhân dân đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý ở cơ sở. Tuy nhiên, cần chú ý có những công việc mang tính chuyên môn thuần tuý hoặc cụ thể ở một lĩnh vực nhưng lại rất dễ dẫn đến cửa quyền, sách nhiễu, tham nhũng, hối lộ, làm trái... như phụ trách công an, địa chính, tài chính... do đó quy định chỉ lấy phiếu tín nhiệm của nhân dân đối với các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã như Pháp lệnh quy định là chưa giám sát hết được toàn bộ hoạt động của chính quyền cơ sở đặc biệt là ở lĩnh vực nhạy cảm. Mặt khác, đối với chức danh trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố không nên quy định nhiều thủ tục rườm rà như viết kiểm điểm, trình bày, bỏ phiếu tín nhiệm, phát phiếu lấy ý kiến, nghe góp ý vì chức vụ đó ít người muốn nhận và rất miễn cưỡng. Một thực tế hiện nay là chúng ta còn thiếu những văn bản luật cụ thể hoá về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện quyền giám sát của người dân nên nhiều vấn đề, sự việc nhân dân biết đoàn thể xã hội biết, nhưng chưa triển khai thực hiện được trên thực tế. 3.3.5.3. Xây dựng và ban hành Luật trưng cầu ý dân Trưng cầu ý dân là hình thức cao nhất của dân chủ trực tiếp, là hình thức để nhân dân trực tiếp bày tỏ ý kiến của mình đối với những vấn đề quan trọng của đất nước, qua đó để nhà nước có sự lựa chọn, quyết định đúng đắn hợp với lòng dân. Xây dựng và ban hành Luật Trưng cầu ý dân được xác định trong Nghị quyết 48/NQ-BCT của Bộ Chính trị khoá IX. Trong thực tiễn pháp lý, hình thức thể hiện ý chí trực tiếp của nhân dân quyết định vấn đề lớn của đất nước được coi là trưng cầu ý dân. Vấn đề trưng cầu ý dân được quy định trong các văn bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và sửa đổi, bổ sung năm 2001, tuy nhiên chưa một lần được thực hiện trên thực tế vì lý do chiến tranh và điều kiện đất nước. Mặt khác, pháp luật cũng chưa cụ thể hoá quy định của Hiến pháp về trưng cầu ý dân do đó muốn phát huy dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, dân chủ trong quản lý nhà nước và đời sống xã hội cần thiết phải mở rộng hình thức dân chủ trực tiếp và Luật trưng cầu ý dân phải đảm bảo được yêu cầu đó. Trong Luật trưng cầu ý dân cần quy định rõ ràng những vấn đề nào Nhà nước phải đưa ra để nhân dân tham gia ý kiến và biểu quyết, mức độ tham gia đến đâu, trình tự, thủ tục, điều kiện tiến hành trưng cầu ý dân; hệ quả pháp lý của kết quả trưng cầu ý dân... Việc xây dựng và ban hành Luật trưng cầu ý dân là cơ sở pháp lý để người dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của mình đối với những vấn đề lớn quan trọng của đất nước bên cạnh những vấn đề trực tiếp ở cơ sở, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Nó có ý nghĩa hoàn thiện nền dân chủ XHCN theo mục tiêu mà Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra ở nước ta. 3.3.5.4. Hoàn thiện các quy định về công tác tiếp dân, xử lý, trả lời đơn thư dân nguyện Trên cơ sở Nghị định 89/CP ngày 07/8/1997 của Chính phủ về ban hành Quy chế Tổ chức tiếp công dân, đòi hỏi công tác tiếp dân, xử lý, trả lời đơn thư dân nguyện cần phải được luật hoá. Luật hoá nội dung này cần xác định tất cả các cơ quan nhà nước (không phải riêng cơ quan hành chính) đều phải niêm yết quy chế và lịch tiếp công dân. Pháp luật phải quy định cụ thể chức trách, nhiệm vụ, thẩm quyền tiếp dân và giải quyết đơn thư dân nguyện của các cơ quan nhà nước. Hướng hoàn thiện những quy định này là tạo mọi thuận lợi để nhân dân dễ dàng đến cơ quan nhà nước phản ánh, trình bày ý kiến của họ; tất cả các ý kiến của những người đến trực tiếp trình bày cũng như ý kiến trong đơn thư dân nguyện, góp ý cho những vấn đề liên quan đến lợi ích chung và tổ chức, hoạt động của Đảng, Nhà nước... đều phải được tiếp thu, nghiên cứu, xử lý, trả lời. Ít nhất cũng phải trả lời cho dân biết là ý kiến đó đã được tiếp thu đang nghiên cứu, xử lý và trên thực tế phải nghiêm túc thực hiện công tác nghiên cứu, xử lý. Nếu họ phản ánh, kiến nghị không đúng cũng phải làm rõ, còn đối với người lợi dụng để vu khống, bôi nhọ chính quyền, cán bộ cũng phải xử lý công minh. Nếu pháp luật được hoàn thiện và trên thực tế làm được như vậy thì thông qua kênh này nhân dân sẽ có cơ hội và điều kiện thực hiện tốt hơn quyền giám sát của mình đối với nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. KẾT LUẬN Giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước là một loại giám sát có tính đặc thù trong tổng thể cơ chế giám sát đối với quyền lực nhà nước. Đặc thù bởi các chủ thể giám sát là các tổ chức, cá nhân hoặc thiết chế xã hội khác bên ngoài nhà nước, không mang tính “cưỡng chế”, “bắt buộc” như giám sát mang tính quyền lực nhà nước, nhưng có quyền giám sát hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Điều đó, bắt nguồn từ bản chất nhà nước, đặc điểm, cấu trúc của hệ thống chính trị với đặc trưng cơ bản: Nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Giám sát của nhân dân thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, là một trong những biện pháp, có tính pháp lý hữu hiệu để kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Luận văn với đề tài Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước được xây dựng với quan điểm cung cấp những khái niệm cơ bản về giám sát, các loại hình giám sát trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; phân biệt giám sát với các khái niệm gần nghĩa. Trên cơ sở phân tích quá trình phát triển và thực trạng thực hiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam cũng như pháp luật về giám sát của các nước trên thế giới trong thời gian qua và hiện nay. Từ đó luận giải các yêu cầu khách quan đòi hỏi hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước dựa trên các tiêu chí làm cơ sở cho hoàn hiện pháp luật trong thời gian tới. Mặt khác, bản chất nhà nước và đặc điểm hệ thống chính trị nước ta cùng với yêu cầu hợp tác, hội nhập quốc tế, tiến trình dân chủ hoá, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân và thực trạng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước đòi hỏi phải tăng cường giám sát và phản biện của MTTQ, các đoàn thể nhân dân, các thiết chế xã hội khác và giám sát trực tiếp của công dân cũng như phải hoàn thiện pháp luật để giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước thực sự có hiệu lực, hiệu quả trong thời gian tới. Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân, các thiết chế xã hội và cả hệ thống chính trị đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 4, Hiến pháp 1992). Hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước nói riêng phải được thực hiện dựa trên các quan điểm, đường lối của Đảng và thực tiễn của đời sống xã hội. Đó là những tư tưởng, quan điểm chi phối quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đồng thời đó cũng là những biện pháp, phương tiện bảo đảm để pháp luật phát huy hiệu quả trên thực tế. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước đòi hỏi phải có giải pháp toàn diện, đồng bộ, với bước đi thích hợp. Đó không chỉ là những giải pháp, cơ chế trên cơ sở pháp luật mà còn là những giải pháp chi tiết, bao gồm các nội dung cần bổ sung, hoàn thiện theo các tiêu chí kỹ thuật lập pháp. Như vậy, với việc đề xuất ban hành Luật giám sát của nhân dân, Luật trưng cầu ý dân, Luật về công chức, công vụ; sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Báo chí…; bổ sung các quy định của Luật MTTQ Việt Nam, Luật Công đoàn; hoàn thiện pháp luật về thanh tra nhân dân, ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở... và các văn bản pháp luật có liên quan... chính là những giải pháp cơ bản để hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. Trong tiến trình dân chủ hoá mọi mặt của đời sống xã hội và hoạt động của nhà nước, giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước là một trong những yêu cầu cấp bách mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc. Việc đề cao và từng bước hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân cần chú trọng vai trò giám sát trực tiếp của công dân, đồng thời, cần mở rộng và cụ thể hoá hơn nữa vai trò giám sát của các tổ chức xã hội, tập thể lao động và các thiết chế xã hội khác, từng bước chuyển giao một số hoạt động giám sát của cơ quan nhà nước cho các tổ chức xã hội đảm nhận. Tiếp tục đề cao vai trò của cơ quan báo chí- truyền thông trong tham gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, coi đó là phương tiện giám sát hữu hiệu của công dân. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước sẽ góp phần hoàn thiện thể chế dân chủ, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu hợp tác và hội nhập quốc tế; hỗ trợ cho việc phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; đảm bảo cho hoạt động nhà nước được đúng hướng với nền hành chính trong sạch, thông suốt, hiện đại, hiệu quả và phục vụ nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có chất lượng, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân. Đó cũng là ý nghĩa và mục đích đề ra của luận văn này./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (2004), Từ điển Hán-Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 2. Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ Trung ương (2005), Hướng dẫn thực hiện Thông báo số 159 TB/TW ngày 15/11/2004 của Ban Bí thư TW Đảng về tiếp tục chỉ đạo xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Hà Nội. 3. Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ Trung ương (2006), Báo cáo tình hình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ năm 2006, Hà Nội. 4. Ban Dân chủ- Pháp luật thuộc Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2006), Báo cáo tổng quan đề tài: Phát huy vai trò của MTTQ Việt Nam giám sát và tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm góp phần xây dựng chính quyền cơ sở, Hà Nội. 5. Bộ Nội vụ-Vụ Tổ chức phi Chính phủ (2006), Báo cáo công tác Hội năm 2005- Các Hội hoạt động trên phạm vi toàn quốc, Hà Nội. 6. Bộ Tư pháp- Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 7. Chính phủ (2003), Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (ban hành kèm theo NĐ số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 của Chính phủ), Hà Nội. 8. Chính phủ (2004), Báo cáo tình hình và kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo từ khi thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo đến nay, Hà Nội. 9. Chính phủ (2005), Báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo từ quý II/2004 đến quý III/2005, Hà Nội. 10. Chính phủ (2006), Báo cáo tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2006, Hà Nội. 11. Chính phủ- Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam (2006), Nghị quyết liên tịch số 05/2006/NQLT-CP-UBTWMTTQVN về việc ban hành quy chế "MTTQ Việt Nam giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư", Hà Nội. 12. Chu Dương (2005), Thể chế nhà nước của các quốc gia trên thế giới, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 13. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 14. Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của Nhà nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 15. Nguyễn Tuấn Dũng- Đỗ Minh Hợp (2002), Từ điển quản lý xã hội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. 17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị (khoá IX) về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. PGS-TS Nguyễn Văn Động (2006) "Các quyền Hiến định về Chính trị của công dân Việt Nam", Nxb Tư pháp, Hà Nội. 20. PGS-TS Hà Thị Mai Hiên (2003), Cơ chế kiểm tra, giám sát trong Nhà nước pháp quyền, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 21. PGS-TS Vũ Văn Hiền (2004), Phát huy dân chủ ở xã, phường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. TS Đỗ Trung Hiếu (2004), Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Học viện Hành chính quốc gia (2005), Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính nhà nước, (chương trình chuyên viên chính), phần II, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 24. Học viện Hành chính quốc gia (2002), Thuật ngữ hành chính, Hà Nội. 25. PGS.TS Trần Hậu Kiêm (2004), Hoạt động thanh tra nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 26. Nguyễn Duy Lãm (1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 27. Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành (2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 28. J. Rútxô, (2005), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 29. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 30. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 32. Montesquieu (2005), Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội 33. Những văn bản pháp luật về quản lý hành chính nhà nước (2004), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 34. Nguyễn Thị Hiền Oanh (2005), Vai trò của MTTQ Việt Nam đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 35. Quốc Hội (2001), Luật Tổ chức Quốc hội, Hà Nội 36. Quốc hội(2001), Luật Tổ chức Chính phủ, Hà Nội 37. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Toà án Nhân dân, Hà Nội 38. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Hà Nội 39. Quốc hội (2004), Luật Tổ chức HĐND và UBND, Hà Nội 40. Quốc hội (2004), Luật Khiếu nại, tố cáo, Hà Nội 41. Quốc hội (1999), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hà Nội 42. Quốc hội (2005), Luật Phòng, chống tham nhũng, Hà Nội 43. Quốc hội (1999), Luật Báo chí (sửa đổi), Hà Nội 44. Quốc hội (2002), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội 45. Quy định mới về quy chế giám sát của nhân dân đối với các hoạt động đầu tư và cán bộ công chức tại cộng đồng (2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 46. GS.TS Lê Văn Quang- PGS.TS Văn Đức Thanh (2006), Nhà nước pháp quyền XHCN và các định chế xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 47. TS Nguyễn Tác (2005), Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 48. Đặng Đình Tân (2006), Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49. TS. Chu Văn Thành- TS. Lê Thanh Bình (2004), Bàn về khoa học và nghệ thuật lãnh đạo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 50. PGS- TSKH. Nguyễn Văn Thâm (2004), Tiếp cận và giải quyết công việc cho dân trong tiến trình đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 51. Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế giới, (sách tham khảo) (2001), Hà Nội. 52. Trần Đăng Tuấn (2006), Phản biện xã hội, Nxb Đà Nẵng 53. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992), (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 54. Từ điển Luật học (2006), Nxb Từ điển Bách khoa- Nxb Tư pháp 55. Từ điển Tiếng Việt (2005), Nxb Đà Nẵng- Trung tâm từ điển học 56. GS-TSKH Đào Trí Úc (2003), “Quan niệm về giám sát thực hiện quyền lực nhà nước và các cơ chế thực hiện giám sát”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (6). 57. Uỷ ban Kiểm tra TW (2007), Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng, Nxb Lao động-xã hội, Hà Nội. 58 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh cán bộ công chức (sửa đổi), Hà Nội. 59. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Hà Nội. 60. Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam (2006), Sổ tay công tác Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền, Hà Nội. 61. Văn kiện của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 62.Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quốc gia) (2003), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay (đồng chủ biên GS.TS Đào Trí Úc và PGS.TS Võ Khánh Vinh), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 63. PGS.TS Võ Khánh Vinh (2003), “Về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (6). 64. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức trong thời kỳCNH, HĐH đất nước (2005), Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. 65. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2455.doc
Tài liệu liên quan