Lời mở đầu
Cùng hoà nhịp với xu thế chung của thế giới cũng như chuyển biến tích cực của đất nước , hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua đã có những bước khởi sắc đáng kể , hệ thống ngân hàng được kết cấu lại đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường , hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam không ngừng đổi mới và ngày càng hoàn thiện theo hướng ngân hàng đa năng , hiện đại hoá từng bước hội nhập vào cộng đồng tài chính khu vực và thế giới .
Bên cạnh các nghiệp
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1404 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện phân tích tài chính tại Công ty TNHH may quốc tế Jeil, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ kinh doanh truyền thống , các ngân hàng thương mại Việt Nam đã triển khai nhiều nghiệp vụ mới trong đó không thể không kể tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ . Đây được xem là một trong những mảng hoạt động kinh doanh lớn nhất của mô hình hiện đại . Với vai trò như chiếc cầu nối giữa kinh tế nội địa với kinh tế thế giới , thị trường hối đoái Việt Nam tuy còn rất non trẻ và rất sơ khai về trình độ , qui mô hoạt động cũng như kỹ năng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh nhưng đã tạo ra môi trường kinh doanh ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại đồng thời cung cấp những công cụ hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro hối đoái cho các công ty xuất nhập khẩu và những nhà đầu tư quốc tế .
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ thực chất là việc mua bán một loại hàng hoá đặc biệt (đồng tiền của các quốc gia khác nhau ) , hoạt động này không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán mà còn mang lại lợi nhuân rất lớn cho nhà đầu cơ kinh doanh nó . Tuy vậy gắn liền với lợi nhuận nhiều luôn là rủi ro ; việc mua bán ngoại tệ chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố như tình hình kinh tế , chính trị tỷ giá hối đoái , lãi suất ...
Do vậy vấn đề đặt ra cho các ngân hàng , các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và những bên liên quan khác là phải nắm vững bản chất , đặc điểm của những xu hướng phát triển của kinh doanh ngoại tệ , của thị trường hối đoái , từ đó tìm ra cho mình các biện pháp , hướng đi phù hợp để có thể đạt được hiệu quả cao trong hoạt động này .
Một khi hoạt động kinh doanh ngoại tệ phát triển đạt trình độ cao sẽ thúc đẩy hoạt động kinh tế khác như hoạt động kinh tế xuất nhập khẩu , đầu tư quốc tế ... trở nên linh hoạt hơn nền kinh tế sẽ tăng trưởng nhanh hơn vì vậy việc tìm ra những biện pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh doanh ngoại tệ là rất cần thiết .
Sau thời gian thực tập tại chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống Đa ,em được biết hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng công thương Đống Đa trong thời gian qua đã phần nào đáp ứng được nhu cầu nào trong kinh doanh. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn có những vấn đề nổi lên cần phải xử lý tiếp như quan hệ mua bán giữa các loại ngoại tệ, giữa ngoại tệ và nội tệ, giữa huy động và sử dụng,.. Do đó đòi hỏi phải tìm kiếm các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ . Vì vậy trên cơ sở những kiến thức đã học kết hợp với tình hình thực tiễn thu được trong quá trình thực tập , em muốn thông qua bài viết với đề tài :
“ Một số giải pháp tăng cường hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân Hàng Công Thương Đống Đa “
Mong được góp một phần nhỏ bé giải quyết những vấn đề bức xúc của thực tiễn
Kết cấu bài viết gồm 3 chương :
Chương I : Những vấn đề lý lụân cơ bản về hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Chương II : Thực trạng kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống Đa
Chương III : Một số giải pháp tăng cường hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống Đa
Do kiến thức và kinh nghiệm còn nhiều hạn chế , thời gian nghiên cứu chưa nhiều nên bài viết sẽ không tránh khỏi những thiếu sót . Với lòng biết ơn sâu sắc em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến cô giáo : TS . Nguyễn Thị Hường và TS . Tạ Lợi đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành đề tài , em cũng xin gởi lời cảm ơn đến các cô chú , các anh chị ở chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống Đa đã giúp đỡ em rất nhiệt tình trong thời gian thực tập .
Cuối cùng , em mong nhận được những ý kiến phê bình , góp ý quí báu của các thầy cô giáo , các cán bộ ngân hàng đã giúp em nâng cao trình độ hiểu biết về lí luận cũng như thực tiễn .
Chương I : những vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh ngoại tệ
1/ khái niệm và thực chất của kinh doanh ngoại tệ
Khái niệm : Kinh doanh ngoại tệ là việc mua bán ngoại tệ đảm bảo số dư tài khoản ngoại tệ, tìm cách thu lời thông qua tỷ giá giữa các đồng tiền khác nhau
Như vậy kinh doanh ngoại tệ cũng giống như kinh doanh hàng hoá, nhưng ở đây là hàng hoá đặc biệt đó là ngoại tệ, tiền của nước ngoài. Vì tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt nên nó có những đặc trưng riêng có của nó. Hoạt động kinh doanh luôn nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận từ phần chênh lệch giữa giá mua và bán hàng hoá nhưng lợi nhuận trong kinh doanh ngoại tệ không thuần tuý là chênh lệch giữa giá mua và bán ngoại tệ . điều này chỉ đúng khi số dư nguồn huy động nguồn ngoại tệ luôn được đảm bảo bằng nguyên tệ từ đầu cho đến cuối kỳ báo cáo . Trong thực tế nguồn vốn và sử dụng vốn ngoại tệ luôn có sự chênh lệch .
Trường hợp nguồn ngoại tệ huy động chuyển hoá thành nội tệ để kinh doanh , khi đó trạng thái ngoại tệ (trạng thái ngoại tệ là sự thay đổi lượng tiền của đồng nội tệ lúc mua ngoại tệ và đến lúc bán ngoại tệ này) trở nên âm, nếu có biến động tỷ giá tăng. Ngược lại nếu nội tệ được chuyển hoá thành ngoại tệ phục vụ cho kinh doanh, trạng thái ngoại tệ dương và nếu có biến động tỷ giá tăng ngân hàng sẽ có chênh lệch dương.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng xuất phát từ vị trí trung tâm trong việc thực hiện các hoạt động thanh toán quốc tế . Trong hoạt động thanh toán quốc tế được thực hiện theo một chỉ thị nào về một loại ngoại tệ thì vẫn phát sinh dư thừa hoặc là thiếu ngoại tệ một trong những ngân hàng tham dự . Việc cân bằng dư thừa hay là thiếu ngoại tệ diễn ra trên thị trường hối đoái thông qua các hình thức mua bán kinh doanh ngoại tệ .
Kinh doanh ngoại tệ gồm kinh doanh ngoại tệ tiền mặt và kinh doanh chuyển khoản . Kinh doanh ngoại tệ tiền mặt chủ yếu liên quan đến các hoạt động du lịch có doanh số giao dịch rất nhỏ so với kinh doanh ngoại tệ chuyển khoản. Khác với hình thức kinh doanh tiền mặt, kinh doanh ngoại tệ được thực hiện nhờ vào các lệnh được chuyển qua mạng thông tin thanh toán. Những lệnh này chỉ định nghiệp vụ ghi vào tài khoản của một đồng tiền này ghi nợ vào một tài khoản khác .
Kinh doanh ngoại tệ gặp phải nhiều yếu tố mà kinh doanh thông thường không gặp. Các yếu tố này bao hàm rủi ro về lạm phát , các thị trường tiền tệ đa hệ các qui định kiểm soát ngoại tệ , các rủi ro chính trị v..v
2/ đặc trưng và các hình thức kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng
2.1 đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là hoạt động chứa nhiều rủi ro . Các loại rủi ro thường gặp trong kinh doanh ngoại tệ là rủi ro về tỷ giá , rủi ro về lãi suất .
+ Rủi ro về tỷ giá: Là rủi ro đặc trưng trong kinh doanh ngoại tệ. Nó sẽ xuất hiện khi ngân hàng có trạng thái thừa hay thiếu, rủi ro về tỷ giá là rủi ro mà các Ngân Hàng Thương Mại rất hay gặp . Khi ngoại tệ lên giá khi đó ngân hàng kinh doanh sẽ có lợi nếu ngân hàng đang ở trạng thái dư ngoại tệ và ngược lại. Trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ tỷ giá luôn luôn biến đổi nên ngân hàng luôn gặp phải rủi ro do tỷ giá biến động
+ Rủi ro về lãi suất : Lãi suất tăng của một đồng tiền sẽ tác động đến tỷ giá hối đoái vì vậy so với rủi ro về tỷ giá thì rủi ro về lãi suất ít có ý nghĩa hơn nhưng với khối lượng kinh doanh lớn thì cũng tạo ra những thiệt hại đáng quan tâm
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động phức tạp để thành công trong kinh doanh ngoại tệ đòi hỏi phải có một hệ thống thông tin hoàn hảo đây là đặc trưng của nền kinh tế thị trường hiện đại vì vậy để thực hiện hoạt động kinh doanh ngoại tệ cần phải có đủ cơ sở vật chất và các thiết bị hiện đại.
Nhà kinh doanh ngoại tệ đòi hỏi phải có chuyên môn nhất định về nhiều lĩnh vực , phải có những kỹ năng nhất định , phải có trình độ quản lý vì kinh doanh ngoại tệ là hoạt động có mức độ rủi ro cao , không những thế nhà kinh doanh cũng phải có trí tuệ cao cùng với những nỗ lực thường xuyên để xác định những gì sẽ xảy ra trên thị trường và tỷ giá sẽ biến động đến mức nào .
Những nhà kinh doanh ngoại tệ cần có trạng thái tâm lí trí tuệ tốt và tự tin rằng họ có thể kiếm được lợi nhuận thông qua giao dịch trong mọi tình huống diễn biến cua thị trường tác động đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ là luôn luôn đúng do đó nhà kinh doanh phải là người thực tế và có sự hiểu biết nhất định để thừa nhận những sai sót của mình , phải sẵn sàng giảm các trạng thái ngoại hối đang thua lỗ trước khi khoản lỗ trở nên trầm trọng .
2.2 Các hình thức kinh doanh ngoại tệ
Thực tế cho thấy, bất kỳ loại hình kinh doanh nào mang lại lợi nhuận lớn thì rủi ro mà nó đem lại cũng không phải là nhỏ và kinh doanh ngoại tệ cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Để hạn chế các rủi ro người ta áp dụng các hình thức kinh doanh ngoại tệ trên thị trường hối đoái.
Tuy nhiên, các hình thức này không chỉ đơn thuần là hạn chế phòng ngừa rủi ro mà trong quá trình thực hiện, nó còn mang lại một phần lợi nhuận đáng kể trong tổng lợi nhuận. Do đó, nó cũng là các hình thức kinh doanh ngoại tệ trong chính sách đa dạng hoá sản phẩm kinh doanh cuả ngân hàng. Mục đích kinh doanh của ngân hàng là: phòng ngừa rủi ro, kinh doanh kiếm lời và kinh doanh mang tính chất dịch vụ để thu phí.
1.2.1.Hình thức kinh doanh ngoại tệ giao ngay
Thị trường hối đoái giao ngay là một bộ phận của thị trường hối đoái, doanh số hoạt động của nó chiếm khoảng 58 % tổng số doanh số thương mại ngoại hối, trong khi thị trường kỳ hạn và thị trường theo quyền chọn chỉ chiếm tương ứng là 40% và 20%.
Hình thức hối đoái giao ngay được thực hiện bằng hợp đồng mua bán ngoại tệ giao ngay trong đó việc cung ứng các đồng tiền chuyển đổi được thực hiện chậm nhất là hai ngày làm việc kể từ khi hợp đồng được ký kết.
Tỷ giá thanh toán ngay (sau hai ngày làm việc) trong thương mại quốc tế gọi là SPORT-RATE, nếu một nhà kinh doanh ngoại tệ muốn thay đổi thời hạn thực hiện hai ngày thành ba ngày thì có thể đề nghị bạn hàng của mình thực hiện tỷ giá SPORT-NEXT, nếu muốn đổi thời hạn thực hiện từ hai ngày thành một ngày thì đề nghị tỷ giá TOMOROW-NEXT,
Kỹ thuật giao dịch có thể thực hiện bằng điện thoại, hệ thống màn hình (Computer), bằng điện báo và trên các sở giao dịch chứng khoán. Thực hiện bằng kỹ thuật màn hình thực chất là thực hiện qua hệ thống thông tin điện tử, tức là việc thoả thuận hay các hợp đồng được thực hiện thông qua hệ thống“ Money dealing”. Thông qua hệ thống này, các ngân hàng có thể trực tiếp liên hệ với nhau và thoả thuận các hợp đồng thương mại. Việc chuyển thông tin được thực hiện bằng bàn phím với những ký tự điện tử và thông tin sẽ xuất hiện trên màn hình, đồng thời một máy in được nối mạng với hệ thống sẽ in lại thành biên bản thông tin được chuyển đi. Hệ thống này có ưu điểm so với hình thức điện thoại là việc ghi nhận các thoả thuận bằng văn bản, khắc phục các lỗi nhầm thường gặp trong giao dịch điện thoại như nghe nhầm, viết nhầm, vì thế hệ thống “ Money dealing” được sử dụng rộng rãi.
Tỷ giá giao ngay (SPORT-RATE) được niêm yết trên các báo kinh tế hàng ngày ở các quốc gia. Thực tế hiện nay, tỷ giá của hầu hết các loại ngoại tệ được trao đổi đều được tính toán so với USD mà không được tính toán trực tiếp với nhau nữa. Đồng USD được sử dụng như một loại ngoại tệ trung chuyển ( transport), đồng thời tỷ giá giữa hai đồng tiền không thông dụng,
Điều kiện thực hiện hình thức kinh doanh hối đoái giao ngay là:
+ Trước hết, phải có nhu cầu của khách hàng, thông thường hình thức giao ngay phát sinh khi có nhu cầu của khách hàng, ngân hàng sẽ thực hiện hình thức này để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
+ Hình thức kinh doanh giao ngay còn được thực hiện trong hoạt động đầu cơ của ngân hàng, dự toán tỷ giá của một đồng tiền trong thời gian tới, ngân hàng sẽ mua đồng tiền đó theo hợp đồng giao ngay với ngân hàng khác. Khi tỷ giá thay đổi theo đúng dự toán, ngân hàng có thể bán trao ngay số tiền đầu cơ đó và thu chênh lệch. Ngoài ra, hình thức trao ngay được sử dụng kết hợp với các hình thức khác trong các đầu cơ chênh lệch lãi suất.
1.2.2 Hình thức kinh doanh ngoại tệ chênh lệch tỷ giá( ARBITRAGE)
Hình thức kinh doanh ARBITRAGE là hình thức kinh doanh của bản thân ngân hàng, theo ý nghĩa nguyên thuỷ cuả nó, hình thức này là việc lợi dụng sự chênh lệch về tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối khác nhau để thu lời thông qua hoạt động mua và bán. Do đó, nó có tên gọi là kinh doanh chênh lệch tỷ giá. Đó là việc tiến hành mua bán ngoại tệ đồng thời trên các thị trường hối đoái theo nguyên tắc mua ở nơi rẻ và bán ở nơi đắt. Nghĩa là mua với tỷ giá thấp và bán với tỷ giá cao.
Hình thức này được thể hiện dưới hai dạng: kinh doanh giản đơn và kinh doanh phức tạp. Kinh doanh giản đơn là việc mua bán ngoại tệ được thực hiện ở hai thị trường khác nhau trong cùng một thời điểm. Kinh doanh phức tạp là việc mua bán ngoại tệ thông qua nhiều thị trường, từ 3 thị trường trở lên. Dù là giản đơn hay phức tạp, hình thức này chỉ áp dụng giao dịch giữa ngân hàng với ngân hàng. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động của các nhà kinh tế có thu chi ngoại tệ vẫn diễn ra thường xuyên, để đạt được hiệu quả trong việc sử dụng các loại ngoại tệ, họ đã yêu cầu ngân hàng sử dụng hình thức ARBITRAGE để thực hiện dịch vụ cho họ. Khi đó,ngân hàng với tư cách là người phục vụ khách hàng và thu phí.
Khi thực hiện hình thức này, người ta áp dụng tỷ giá giao ngay, là tỷ giá áp dụng tại thời điểm giao dịch (J) nhưng ngày giá trị của nó là sau hai ngày việc (J+2). Trong trường hợp khách hàng cần giao dịch với hai đồng ngoại tệ thì ngân hàng phải xác định tỷ giá chéo của hai loại đồng tiền thông qua đồng tiền trung gian thứ ba.
Nếu là giao dịch với khối lượng ngoại tệ lớn sẽ tạo ra một khoản chênh lệch đáng kể cho khách hàng. Sở dĩ có khoản chênh lệch này là do có sự chênh lệch khác nhau giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán của các đồng tiền. Trước đây,hình thức này rất phát triển chiếm tới đến 40 % lợi nhuận kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng nhưng ngày nay, trên cơ sở những thông tin hiện đại, các thị trường ngoại hối trở nên thông suất hình thức kinh doanh ARBITRAGE trên không cón ý nghĩa lớn trong kinh doanh ngoại hối.
Khái niệm hình thức kinh doanh ARBTRAGE ngày nay được hiểu là việc mua bán ngoại tệ để nhằm thu lợi nhuận từ chênh lệch tỷ giá mua tỷ giá bán, nhưng hai hoạt động đối ứng này không phát sinh cùng một thời điểm mà thông thường liên quan tơí những phát sinh khi cân đối ngoại tệ.
* Điều kiện để thực hiện hình thức kinh doanh ARBITRAGE là :
Trước hết, Ngân hàng phải là thành viên của hện thống thông tin điện tử, ở đó Ngân hàng có thể thường xuyên theo dõi biến động tỷ giá các thị trường khác nhau trên thế giới, đồng thời có thể đưa ra tỷ giá chào mua, chào bán của mình.
Thứ hai, cán bộ kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng cần có trình độ, phản ứng linh hoạt với thị trường. Người kinh doanh ngoại tệ phải biết thông tin kinh tế chính trị, xã hội phải dự đoán được phản ứng của thi trường trước những thông tin đó, đưa ra được mức tỷ giá thực tế luôn biến động ( ví dụ : Khi nhận được thông báo thu từ nước ngoài vào Pháp giảm nhẹ trong tháng qua, dự đoán xuất khẩu giảm sẽ dẫn tới giảm cung USD trong tương lai, lập tức cán bộ ngân hàng Pháp ấn định tỷ giá của mình tăng cao một chút để tránh những thiệt hại xẩy ra. Một ngân hàng Đức có 3 triệu USD chưa cân đối được sau một hợp đồng bán FRF với khách hàng, nhận thấy cố thể thu lợi từ tỷ giá chào mua vừa tăng của ngân hàng Pháp, lập tức bán 3 triệu USD này cho ngân hàng Pháp.
Như vậy, các ngân hàng liên tục thay đổi tỷ giá, liên tục giao dịch ngoại tệ trong ngày nhằm tránh rủi ro trước những biến động tỷ giá và thu lơị nhuận ARBITRGE. Lợi nhuận này có thể thấp hơn lợi nhuận tính theo khoảng cách giữa tỷ giá mua vào và bán ra của ngân hàng.
1.2.3. Hình thức kinh doanh ngoại tệ theo hợp đồng kỳ hạn (FORWARD):
Hình thức kinh doanh ngoại tệ theo hợp đồng kỳ hạn được thực hiện bằng hợp đồng mua bán bằng ngoại tệ kỳ hạn, trong đó việc hoàn tất hình thức này được thực hiện vào một thời điểm nhất định sau đó, với tỷ giá nhất định đã được quy định trong hợp đồng tại thời điểm ký kết.
Khác với hình thức mua bán theo hợp đồng giao ngay là kinh doanh chênh lệch giá kiếm lời, hình thức mua bán theo hợp đồng kỳ hạn chủ yếu là phòng ngừa rủi ro do biến động của tỷ giá tại thời điểm chuyển đổi quyền sở hữu về tài sản hữu hình của các chủ thể kinh tế trong nước và nước ngoài với tỷ giá tại thời điểm thanh toán các giao dịch trong tương lai.
Đối với ccác nhà kinh doanh xuất nhập khẩu, họ luôn có nguồn thu chi về ngoại tệ trong nước cũng như nứoc ngoài và họ không thể tránh khỏi rủi ro do các đồng ngoại tệ đem lại , vì nó luôn biến động theo chiều hướng tăng hoặc giảm. Chính vì vậy các nhà xuất nhập khẩu, thực hiện hợp đồng với nước ngoài về xuất khẩu một loại hàng hoá nào nhưng việc thanh toán không xẩy ra ngay sau khi giao hàng mà nó xảy ra vào một ngày ấn định trong tương lai . Trong khi đó tỷ giá các đồng ngoại tệ có thể thay đổi theo chiều hướng giảm , nghĩa là đồng ngoại tệ bị mất giá và đến ngày thanh toán nhà xuất khẩu nhận được số tiền bản tệ “ít hơn” so với lúc giao hàng. Vì vậy, để giảm bớt rủi ro, Anh ta ký với ngân hàng một hợp đồng gọi là hợp đồng có kỳ hạn với đúng bằng thời hạn thanh toán của người nứơc ngoài. Ngược lại các nhà nhập khẩu, để tránh khỏi rủi ro khi tỷ giá tăng họ cũng có thể ký hợp đồng mua với ngân hàng.
“Hợp đồng mua bán kỳ hạn” là một hợp đồng trao đổi một đồng tiền này với một đồng tiền khác, tỷ giá trao đổi trong tuơng lai được ấn định ngày ký hợp đồng (J), việc giao vốn đựoc thực hiện ở một ngày xác định trong tương lai (J+N)
Thị trường hối đoái giao ngay và thị trường hối đoái kỳ hạn có những đặc điểm chung về phạm vi nhân sự tham dự và tổ chức thị trường, kỹ thuật ký kết hợp đồng, ưu thế giao dịch của đồng USD. Điểm khác lớn nhất giữa chúng thể hiện ở chỗ : Trên thị trường kỳ hạn , tỷ giá giao dịch ít phụ thuộc vào mức độ cung cầu thời hạn mà phụ thuộc lớn vào mức chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền giao dịch .
* Điều kiện để thực hiện hình thức kinh doanh theo hợp đồng kỳ hạn là:
+ Các quy định của pháp luật phải cho phép, tạo điều kiện cho các ngân hàng qua các quy định về xác định tỷ giá kỳ hạn, phí hợp đồng...
+ Khách hàng biết đến hình thức này của ngân hàng và có yêu cầu thực hiện nó nhằm tránh những biến động tỷ giá ảnh hưởng bất lợi tới hoạt động kinh doanh của khách hàng.
+ Khả năng của ngân hàng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Nếu ngân hàng chỉ thực hiện một hình thức kỳ hạn đơn lẻ, ngân hàng có thể phải gánh chịu một rủi ro hối đoái thay cho khách hàng của mình. Vậy khả năng, mối quan hệ của ngân hàng với khách hàng khác, với các ngân hàng bạn trong nước và thế giới là yếu tố quan trọng để ngân hàng thực hiện được các hình thức đối ứng, loại trừ rủi ro trên. Hơn nữa, ngân hàng còn có khả năng đưa ra mức tỷ giá kỳ hạn hấp dẫn với khách hàng hơn các ngân hàng khác.
1.2.4.Hình thức kinh doanh ngoại tệ theo hợp đồng tương lai
Đây là một hình thức hối đoái mới, đưa vào các giao dịch ngoại tệ từ đầu những năm 80. Hình thức này cũng được thực hiện gần giống với hợp đồng kỳ hạn,trong đó quy định tránh nhiệm mua hoặc bán một khối lượng ngoại tệ nhất định vào thời điểm ấn định và theo tỷ giá thoả thuận từ trước. Điểm khác biệt giữa hợp đồng tương lai và hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng tương lai được tiêu chuẩn hoá, cụ thể như sau:
* Số đồng tiền giao dịch chỉ giới hạn ở một số ít đồng tiền cò lưu lượng giao dịch lớn.
* Quy mô của từng giao dịch : Được quy định là bội chuẩn theo từng loại đồng tiền giao dịch.
* Thời điểm tất toán : Được quy định là một số thời điểm nhất định trong năm, bất kể hợp đồng được ký kết vào các thời gian khác nhau.
*Phương thức đánh dấu thị trường : Các loại động trên thị trường hối đoái tương lai không tất toán trực tiếp giữa người bán và người mua.Việc ký kết mỗi một hoạt động là việc ký kết với quỹ cân đối . Các hợp đồng dược đảm bảo thực hiện bằng giá trị nguồn đảm bảo tại quỹ cân đối, quỹ này sau mỗi ngày làm việc có trách nhiệm đánh giá lại các hợp đồng giao dịch cuối ngày. Nếu có sự thay đổi về giá so với hợp đồng đã ký kết , quỹ cân đối sẽ thực hiện ba hoạt động đó là ; Chuyển tiền từ nguồn đảm bảo của bên bị thiệt hại sang bên được lợi, huỷ bỏ hợp đồng cũ và ký kết hợp đồng mới.
* Khác với các giao dịch hối đoái kỳ hạn, các giao dịch hối đoái tương lai rất ít được duy trì cho tới thời điểm tất toán. Trong khi tỷ lệ hợp đồng kỳ hạn được thực hiện là 90% thì với giao dịch hối đoái chỉ khoảng 10%. Thông thường ở giao dịch tương lai, chỉ có các hình thức thanh toán chênh lệch tại thời điểm tất toán.
1.2.5. Hình thức kinh doanh ngoại tệ hoán đổi.
Trong hình thức kinh doanh kỳ hạn, một ngân hàng chỉ hoạt động một giá để phục vụ khách hàng của mình, nghĩa là ngân hàng mua hoặc bán ngoại tệ theo tỷ giá kỳ hạn mà không đồng thời thoả thuận với khách hàng một hình thức đối ứng bán hoặc mua lại. Những hình thức như vậy được gọi là hình thức có kỳ hạn đơn phương (SOLO) chỉ được các ngân hàng thực hiện với khách hàng hoặc theo sự uỷ nhiệm của khách hàng. Ngược lại, giữa các ngân hàng người ta sử dụng phổ biến hình thức SWAP,đó là hình thức mà mua bán ngoại tệ thực hiện cùng một bạn hàng, Ngân hàng đồng thời mua và bán hai loại ngoại tệ khác nhau theo tỷ giá giao ngay và theo tỷ giá kỳ hạn.
* Hình thức SWAP thông thường:
Nếu tỷ giá kỳ hạn trong giao dịch có kỳ hạn nhằm hạn chế rủi ro do những biến động lớn về tỷ giá thì hình thức SWAP là nghiệp vụ được thực hiện nhằm giải quyết những nhu cầu tạm thời.
* Điều kiện để thực hiện hình thức SWAP cũng tương tự như với hình thức hợp đồng kỳ hạn, tuy nhiên SWAP có những ưu điểm hơn so với hợp đồng kỳ hạn đối với một số đối tượng sau :
+ Một doanh nghiệp lớn vừa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Doanh nghiệp này vừa nhận được khoản thu ngoại tệ về xuất khẩu, anh ta muốn đổi nội tệ để sử dụng chi trả trong nước. Tuy nhiên, anh ta lại có nhu cầu ngoại tệ trong tháng tới để trả tiền hàng nhập khẩu. Thay vì ký kết hợp đồng bán ngoại tệ giao ngay và hợp đồng mua ngoại tệ kỳ hạn, doanh nhiệp này sẽ sử dụng SWAP. Như vậy doanh nghiệp vừa đảm bảo tránh được rủi ro hối đoái vừa giảm được chi phí giao dịch phải trả cho ngân hàng khi chỉ ký kết SWAP, chứ không phải hai hợp đồng riêng biệt.
+ Đối với Ngân Hàng Thương Mại, SWAP là công cụ hữu hiệu tạo ra trạng thái vốn của hai đồng tiền mà không làm ảnh hưởng tới trạng thái ngoại hối . Vì vậy, giao dịch này trong thực tế thường được các ngân hàng thực hiện với nhau nhằm thoả mãn nhu cầu sử dụng một đồng tiền nhất định mà không phải đi vay trên thị trường. Hình thức SWAP còn giúp các ngân hàng cân bằng được sự mất cân đối về hối đoái trong các hình thức tiền gửi và tiền vay.
1.2. 6. Hình thức kinh doanh ngoại tệ theo quyền chọn
Hình thức hối đoái theo quyền chọn là một sự thoả thuận bằng hợp đồng giữa người mua và người bán về quyền chọn mua (call-option) hoặc quyền chọn bán (put-option), một loại ngoại tệ nhất định, với số lượng cụ thể theo tỷ giá cố định và vào thời điểm cụ thể.
Trong hợp đồng này, người mua quyền lựa chọn phải trả cho người bán một khoản tiền đảm bảo. Thông qua đó, người mua dành được quyền mua hoặc bán một loại ngoại tệ nào đó. Mặt khác, anh ta có thể từ chối bỏ quyền lựa chọn của mình khi thấy bất lợi. Rủi ro của người mua quyền lựa chọn chỉ giới hạn ở số tiền phải trả cho quyền đó . Ngược lại, người bán quyền chọn thu được một khoản tiền từ việc bán quyền nhưng trở thành đối tác thụ động, chịu rủi ro không hạn mức khi tỷ giá biến động không thuận lợi với anh ta. Như vậy, hợp đồng quyền chọn là một công cụ đảm bảo tỷ giá thực sự cho các nhà kinh doanh XNK, các nhà đầu tư tham gia vào thị trường quyền chọn, ngoài các ngân hàng các nhà XNK còn có các tổ chức kinh tế có ngoại tệ trên tài khoản, muốn tăng thu nhập bằng việc thu các lệ phí quyền và chấp nhận làm đối tác thụ động, hay các hãng đầu cơ tham dự với mục đích thu lợi nhuận chênh lệch.
Hình thức này có ưu điểm hơn hình thức kỳ hạn là bên cạnh việc khắc phục rủi ro về tỷ giá bất lợi của nó còn tạo khả năng kiếm lời cho người mua quyền lựa chọn, khi tỷ giá biến động có lợi. Tuy nhiên, để có quyền lựa chọn các nhà kinh doanh hối đoái phải trả môt khoản phí đảm bảo quyền lựa chọn mua bán, phí này phụ thuộc vào các yếu tố sau :
* Sự ổn định của tỷ giá các đồng giao dịch : Đây là yêú tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng đến mức phí, đối với đồng tiền có khả năng biến động giá mạnh thì mức phí cao và ngược lại những đồng tiền tương đối ổn định thì mức phí thấp.
Miền hoạt động của các đồng tiền giao dịch: Với những đồng tiền của các quốc gia phát triển như USD, FRF, GBP ... có doanh số giao dịch lớn, có khả năng chyển đổi mạnh thì mức phí thấp và ngược lại những đồng tiền của những nước kém phát triển khó chuyển đổi và ngoại tệ mạnh thí mức phí cao.
* Thời hạn hiệu lực của hợp đồng mua bán quyền lựa chọn : Thời hạn càng dài thì khả năng kiếm lời của nhà kinh doanh mua quyền chọn càng cao và tất nhiên với đối tác thụ động thì rủi ro càng nhiều. Vì vậy, phí cho thời hạn dài thường lớn hơn phí trong mua bán quyền lựa chọn với thời hạn ngắn rất nhiều.
Mức lãi suất của đồng tiền dùng thanh toán phí mua bán quyền lựa chọn : Đối với đối tác thụ động coi đây là khoản phí tiền gửi không có lãi, do vậy lãi suất đồng tiền này cao thì phí càng cao và ngược lại.
Thông thường, các ngân hàng là người bán các hợp đồng quyền lựa chọn cho khách hàng XNK của mình. Vì phải ngánh chịu rủi ro nên việc xác định mức tiền đảm bảo cho hợp đồng lựa chọn rất quan trọng.
3 . sự cần thiết đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
để thấy được sự cần thiết phải đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam hiện nay ta đánh giá vai trò hoạt động kinh doanh ngoại tệ đối với bản thân ngân hàng với bản thân ngân hàng và đối với nền kinh tế như thế nào .
Ngày nay việc trao đổi hàng hoá ngày càng mở rộng vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia làm nảy sinh việc thanh toán giữa quốc gia này với quốc gia khác , giữa doanh nghiệp quốc gia này với doanh nghiệp quốc gia khác trong quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế . Thanh toán quốc tế thường gắn với việc trao đổi đồng tiền nước này với đồng tiền nước khác .
Nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thanh toán quốc tế, đầu tư vốn bằng nhiều loại tiền khác nhau, các Ngân Hàng Thương Mại đã tiến một bước dài vượt ra khỏi những kinh doanh truyền thống để thực hiện các hoạt động nhận gửi , cho vay và mua bán ngoại tệ trên thị trường hối đoái .
Khi đó hoạt động kinh doanh ngoại tệ nói riêng càng thể hiện vai trò quan trọng không chỉ đối với ngân hàng mà còn cả đối với nền kinh tế
3.1 đối với bản thân ngân hàng
- đối với một Ngân Hàng Thương Mại , hoạt động kinh doanh ngoại tệ đảm bảo chắc chắn việc thực hiện thanh toán cho khách hàng của ngân hàng giữa các nước thực hiện trôi chảy , thoả mãn nhu cầu tối đa ngày càng cao của khách hàng , tăng qui mô của ngân hàng thông qua việc thúc đẩy mạnh hoạt động tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu , thu hút thêm được nhiều khách hàng đến với ngân hàng
- Thông qua các hình thức mua bán trên thị trường hối đoái đem lại lợi nhuận cho ngân hàng , tăng cường sức mạnh phòng chống rủi ro , khả năng cạnh tranh của ngân hàng .
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ góp phần tích cực vào việc đa dạng hoá các loại hình , hình thức của ngân hàng ( phát triển các hình thức thanh toán quốc tế , bảo lãnh và các hoạt động hình thức khác ).
3.2 đối với nền kinh tế
- Ngân hàng tham gia vào thị trường ngoại hối trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng . Các khách hàng cần đến vai trò trung gian của ngân hàng vì ngân hàng là trung tâm thanh toán trong nền kinh tế , có mối quan hệ thường xuyên rộng khắp với các chủ thể kinh tế nên có khả năng kết nối người cần mua với người cần bán ngoại tệ .
- Ngân hàng là các chuyên gia trên thị trường ngoại hối , có phương tiện kỹ thuật , có đội ngũ nhân viên am hiểu về thị trường nên ngân hàng có thể nắm được thông tin thị trường có khả năng đáp ứng nhanh chóng nhu cầu khách hàng . Vì vậy Ngân hàng cung cấp dịch vụ một cách tốt nhất có thể cho khách hàng bằng cách tạo ra khả năng tiếp cận hoàn hảo nhờ các phương tiện thông tin hiện đại , cung cấp tỷ giá cạnh tranh , thực hiện giao dịch nhanh chóng , chính xác tư vấn cho khách hàng ,thậm chí có thể đưa ra lời khuyên cho khách hàng ngay cả sau khi giao dịch được thực hiện nếu có biến động lớn trên thị trường ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng .
Một ngân hàng hiện đại sẽ có một đội ngũ nhân viên chuyên giao dịch với khách hàng phân biệt với các nhân viên chuyên giao dịch trên thị trường Liên Ngân Hàng luôn đáp ứng nhu cầu khách hàng .
- Kinh doanh ngoại tệ ra đời và phát triển theo sự đòi hỏi của hoạt động thương mại quốc tế . Ngân hàng cung cấp vốn ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu máy móc , thiết bị phuc vụ nhu cầu sản xuất trong nước và xuất khẩu hàng hoá mở rộng thị trường . Ngân hàng sẽ đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho doanh nghiệp cả trong lúc thị trường sẵn ngoại tệ cũng như thị trường khan hiếm ngoại tệ để doanh nghiệp có thể thanh toán đúng hạn với đối tác của mình .
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ vì thế đã tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế phát triển . đặc biệt đối với một nước đang trên đường hội nhập quốc tế như Việt Nam, hoạt động kinh doanh ngoại tệ góp phần góp phần thúc đẩy , mở rộng mối quan hệ kinh tế nội địa với kinh tế thế giới bên ngoài , dần khẳng đinh và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế .
Với vai trò quan trọng như vậy việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở các Ngân Hàng Thương Mại nước ta hiện nay là rất cần thiết .
4/ các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở Ngân Hàng Thương Mại
4.1 Những nhân tố nội tại trong bản thân ngân hàng
đây là yếu tố thuộc về chủ quan nên mỗi ngân hàng đều có khả năng kiểm soát được nó , là yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh . Sau đây là các yếu tố tác động đến hoath động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng
Khách hàng của ngân hàng :
Ngân hàng kinh doanh ngoại tệ trước hết là nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng . Ngân hàng càng thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng bao nhiêu thì càng thu hút nhiều hơn khách hàng đến với mình , mạng lưới khách hàng càng mở rộng . điều này lại tác động trở lại đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng chẳng hạn như ngân hàng nào càng có nhiều khách hàng có nhu cầu thanh toán và đầu tư quốc tế thì càng có điều kiện để phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ . Chính do hoạt động t._.rung gian với khách hàng mà ngân hàng tham gia mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối cho chính mình để cân bằng lại trạng thái ngoại tệ và sau đó tìm kiếm lợi nhuận khi trình độ kinh doanh của họ phát triển
Khả năng của một ngân hàng:
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ đòi hỏi phải đầu tư về công nghệ và về con người . Về mặt công nghệ đòi hỏi một hệ thống nối mạng xử lí thông tin và giao dịch tự động. Nhờ vào hệ thống này mà các nhân viên kinh doanh ngoại tệ có thể nắm bắt được diễn biến trên thị trường. Nhân viên kinh doanh phải có hình thức chuyên môn, linh hoạt nhạy bén, quyết định của họ có thể làm lợi rất lớn cho ngân hàng hoặc gây thiệt hại cũng không nhỏ. Nhân viên chuyên giao dịch với khách hàng cũng cần có khả năng thực hiện giao dịch tư vấn, phối hợp với nhân viên giao dịch trực tiếp trên thị trường. Như vậy đội ngũ cán bộ nhân viên phải dược đào tạo hệ thống bài bản.
Chính sách của ngân hàng:
Chính sách phát triển kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng phải đặt trong mối quan hệ với các chính sách tín dụng, chính sách về các hoạt động đối ngoại. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ có mối quan hệ hỗ trợ gắn bó với các hoạt động sẵn có của ngân hàng thì ngân hàng sẽ đầu tư vào công nghệ, nhân sự ... để phát triển nghiệp vụ này do những khoản đầu tư này đòi hỏi chi phí lớn .
Quan diểm của ngân hàng về rủi ro và lợi nhuận:
Các ngân hàng khác nhau cũng có quan điểm khác nhau về rủi ro và lợi nhuận.
Những ngân hàng mong muốn thu được lợi nhuận rủi ro cao thường tham gia vào các hoạt động đầu cơ. Đối với một số ngân hàng nguồn thu chủ yếu của họ là từ hoạt động đầu cơ. Đó là việc mua bán một đồng tiền dựa trên dự đoán về biến động tỷ giá. Đầu cơ tạo lợi nhuận cho nhiều ngân hàng mà cũng có thể làm cho họ phá sản .
Các ngân hàng thận trọng thường giới hạn hoạt động của mình trong các hoạt động trung gian với khách hàng và các hoạt động bảo hiểm về rủi ro
Tất thảy các yếu tố này đều tác động đến hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh ngoại tệ nói riêng của ngân hàng . điều này giải thích tại sao trong cùng một môi trường kinh doanh , cùng chịu một chế độ quản lí mà có ngân hàng hoạt động tốt và hoạt động chưa tốt , vị thế cạnh tranh của mỗi ngân hàng khác nhau .
4.2 Các yếu tố bên ngoài ngân hàng
4.2.1 Tỷ giá hối đoái và lãi suất
Tỷ giá hối đoái và lãi suất là hai biến số rất quan trọng trong việc mua bán ngoại tệ . Một khi có sự biến động sảy ra thì các ngân hàng buộc phải điều chỉnh các quyết định kinh doanh của mình .
Tuy nhiên tỷ giá hối đoái và lãi suất chịu tác động của nhiều nhân tố như: sức mua của đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát của các nước liên quan, chênh lệch lãi suất giữa các đồng tiền, các nhân tố tác động đến cung cầu hàng hoá, yếu tố tâm lí của công chúng, vị thế của các nước liên quan trên trường quốc tế, tình hình kinh tế thế giới, chính sách tỷ giá hối đoái của quốc gia .
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ gắn liền với sự biến động của tỷ giá trên thị trường . Các thành viên trên thị trường luôn theo dõi diễn biến của tỷ giá để ra quyết định mua hay bán một loại ngoại tệ nào đó . Dự báo tỷ giá quan trọng đối với ngân hàng. Dự báo dài hạn và trung hạn là cơ sở cho chính sách và chiến lược. Dự báo ngắn hạn là cơ sở cho các quyết định về hình thức .
Trên thị trường nếu tỷ giá biến động mạnh thì ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhưng ngược lại nếu tỷ giá cố định các hình thức kinh doanh ngoại tệ cũng không thể phát triển phong phú được . ở những nước đang phát triển , chế độ điều tiết tỷ giá trở nên linh hoạt hơn , điều này khuyến khích sự phát triển hình thức kinh doanh của Ngân Hàng Thương Mại .
4.2.2 Sự phát triển của thị trường hối đoái
Thị trường hối đoái là nơi diễn ra hoạt động kinh doanh ngoại tệ . Thị trường hối đoái tác động đến sự thành công hay thất bại của hoạt động kinh doanh ngoại tệ thông tỷ giá và lãi xuất .
Tuy nhiên , mức tác động và việc thực hiện các chức năng trên lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường . đối với thị trường hối đoái chưa phát triển thì hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũng chỉ mang tính sơ khai , có ít các ngiệp vụ kinh doanh ngoại tệ , đôi khi là hình thức chưa mang lại hiệu quả trong kinh doanh.
Trong phạm vi một quốc gia , trung tâm của thị trường hối đoái là thị trường Liên Ngân Hàng . ở Việt Nam việc tổ chức và vận hành tốt hoạt động của thị trường ngoại tệ Liên Ngân Hàng cũng chính là tiền đề , là nền tảng vô cùng quan trọng cho việc thiết lập thị trường hối đoái cho hoàn chỉnh . Thông qua thị trường ngoại tệ Liên Ngân Hàng , ngân hàng nhà nước sử dụng quĩ điều hoà ngoại tệ với tư cách là người mua bán cuối cùng để can thiệp vào thị trường một cách có hiệu quả nhằm thực hiện chính sách tiền tệ , tỷ giá của chính phủ .
4.2.3 Chính sách quản lí ngoại hối của nhà nước
Chính sách quản lí ngoại hối của một quốc gia là những qui định thể lệ của nhà nước trong việc quản lí ngoại tệ , vàng bạc đá quí và các chứng từ có giá trị ghi bằng ngoại tệ trong vấn đề trao đổi , sử dụng mua bán trên thị trường nội địa và quan hệ thanh toán tín dụng với nước ngoài .
Nội dung của chính sách ngoại hối là quản lí các nguồn vận động của ngoại hối từ nước ngoài vào trong nước và ngược lại , đồng thời chính sách quản lí ngoại hối cũng kiểm soát việc lưu thông và sử dụng ngoại hối trong phạm vi quốc gia tuỳ theo đặc điểm mục tiêu phát triển của nền kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia mà quốc gia đó quản lí kinh doanh ngoại hối theo các loại hình :
Chính sách nhà nước độc quyền quản lí ngoại thương ngoại hối , với chính sách này toàn bộ quan hệ kinh tế đối ngoại do nhà nước độc quyền nắm giữ . Việc xuất nhập khẩu hàng hoá hay vay mượn nước ngoài đều tập trung trong tay nhà nước và được thống nhất quản lí . Việc chuyển đổi ngoại tệ ra nội tệ do xuất khẩu hàng hoá đều thực hiện qua tỷ giá do nhà nước ấn định mang tính chất áp đặt chủ quan. Trong xã hội nghiêm cấm mua bán kinh doanh tàng trữ ngoại hối .
Chính sách thắt chặt quản lí ngoại thương ngoại hối : đặc trưng cơ bản của chính sách này là nhà nước không nắm giữ độc quyền trong kinh tế đối ngoại song nhà nước quản lí gắt gao đối với toàn bộ việc xuất nhập khẩu hàng hoá cũng như xuất nhập khẩu tư bản , thực hiện việc xây dựng hàng rào thuế quan, quản lí chặt chẽ các luồng vận động của ngoại hối .
Trong cơ chế này toàn bộ ngoại hối bất kì tổ chức hay cá nhân có được từ bất kể nguồn nào đều phải bán cho nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng . Các tổ chức cá nhân được phép mở tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng phải chịu sự quản lí , kiểm soát của ngân hàng . Khi cần ngoại tệ để nhập hàng hoá hay thanh toán cho nước ngoài phải được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền . Nếu cần chỉ tiêu trong lãnh thổ cần rút nội tệ ra .
Chính sách nới lỏng quản lí ngoại thương ngoại hối : Chính sách này không quản lí chặt chẽ việc đầu tư tư bản cũng như quan hệ thương mại xuất nhập khẩu hàng hoá , đồng thời cho phép mở rộng các mặt hàng xuất nhập khẩu đối với các thành phần kinh tế .
Chính phủ tham gia vào thị trường hối đoái như một thành viên để tác động vào tỷ giá trong trường hợp cần thiết có lợi cho nền kinh tế . Các tổ chức cá nhân có ngoại tệ thu từ bất kể nguồn nào đều có quyền bình đẳng và được tự do mở tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng . Khi cần thu hút ngoại tệ , chính phủ sẽ mua lại của các chủ tài khoản thông qua công cụ lãi xuất tỷ giá ...
Chính sách tự do quản lí ngoại thương , ngoại hối : Nội dung của chính sách này là thực hiện tự do hoá ngoại thương và ngoại hối với cơ chế thị trường . Vai trò của chính phủ là điều tiết quản lí ở tầm vĩ mô , không hạn chế hay quản lí gắt gao ngoại hối , cũng như ngoại thương, hoàn toàn xoá bỏ hàng rào thương mại . Các luồng vận động của hàng hoá , dịch vụ cũng như luồng hoạt động của ngoại hối nói chung phụ thuộc vào cơ chế điều tiết của thị trường và qui luật cung cầu .
Như vậy chính sách quản lí ngoại hối có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của thị trường ngoại hối và hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng .
Các nước phát triển có đồng tiền tự do chuyển đổi , nhà nước chỉ tác động vào thị trường hối đoái bằng các công cụ thị trường .
Ngược lại ở các nước đang phát triển ,chế độ quản lí ngoại hối tương đối chặt chẽ . Nhà nước sẽ đưa ra những qui định cụ thể cho hoạt động kinh doanh này như qui định về loại ngoại tệ , chế độ thực hiện các giao dịch hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng . Mọi hoạt động kinh doanh ngoại tệ phải nằm trong khuôn khổ của các qui định này.
Ngoài ra chính sách quản lí ngoại hối có ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế đối ngoại , từ đó ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân, đến khả năng chuyển đổi của đồng bản tệ .
Việc áp dụng chế độ quản lí ngoại hối chặt chẽ đến mức nào phụ thuộc vào diều kiện từng nước . Một chính sách quản lí ngoại hối đúng đắn phù hợp sẽ có tác động kinh doanh đối ngoại , dẫn đến sự phát triển kinh doanh ngoại tệ . Trái lại chính sách quản lí ngoại hối cứng nhắc , không hợp lí sẽ gây nhièu trở ngại , kìm hãm hoạt động kinh doanh ngoại tệ , cản trở sự phát triển của thị trường hối đoái
4.2.4 Tình hình chính trị kinh tế xã hội
Một đất nước có tình hình chính trị kinh tế xã hội ổn định vững mạnh tạo được lòng tin với các nhà đầu tư trong và ngoài nước , là nhân tố thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế cùng các hoat động tài chính tiền tệ .
Trên cơ sở đó , đồng bản tệ của quốc gia này có giá trị và ổn định trên thị trường , giành được một tỷ giá hối đoái thuận lợi trao đổi kinh doanh ngoại tệ với nước ngoài .
Trái lại một đất nước có tình hình xã hội rối ren , có nhiều mâu thuẫn xung đột , nội chiến về đảng phái sắc tộc ... Sẽ tác động tích cực đến hoạt động kinh tế sản suất , thương mại quốc tế...
Một quốc gia có hoạt động ngoại thương phát triển dẫn đến hoạt động thanh toán phát triển thì hoạt động kinh doanh ngoại tệ sẽ thuận lợi và ngày càng mở rộng vì buôn bán với nước ngoài là bộ phận lớn tuyệt đối trong bộ phận cung và cầu ngoại tệ .
Ngoài ra đầu tư nước ngoài vào trong nước hay đầu tư trong nước ra nước ngoài cũng là những loại hình của ngoại thương và chuyển dịch vốn làm phát sinh nhu cầu hay gia tăng ngoại tệ .
Thực tế cho thấy , các nước có nền kinh tế phát triển thì hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũng phát triển . Sự phát triển này ban đầu nhằm đáp ứng các nhu cầu thương mại quốc tế đến trình độ nào đó các ngân hàng kinh doanh cho chính mình để kiếm lơì và bảo hiểm rủi ro . Còn ở các nước đang phát triển , hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũng đơn giản , nhu cầu giao dịch ngoại tệ cũng không lớn , trình độ các thành viên tham gia thị trường cũng hạn chế .
Các chỉ số vĩ mô như tăng trưởng , lạm phát tình trạng cán cân thanh toán được các nhà lãnh đạo ngân hàng , những người vạch ra chiến lược phát triển ngân hàng nói chung và chính sách phát triển kinh doanh ngoại tệ nói riêng rất quan tâm . Các nhân viên kinh doanh ngoại tệ cũng theo dõi những chỉ số này để quyết định kinh doanh
Chương II : thực trạng kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa
1/ tổng quan về Ngân Hàng Thương Mại (nhtm)
1.1 Lịch sử ra đời và phát triển của Ngân Hàng Thương Mại
ít có thiết chế nào lại tác động đến đời sống con người và xã hội mạnh mẽ như ngân hàng và hoạt động của nó . Có thể nói không ngoa rằng không có hệ thống ngân hàng và hoạt động của nó thì nền kinh tế thế giới không có được như ngày hôm nay .
Thế nhưng , không phải hoạt động ngân hàng bỗng dưng hiện sẵn ra trong nền kinh tế . Vào thời điểm mà lãnh thổ của các cộng đồng chưa được phân định , chiến tranh cướp bóc xảy ra khắp nơi trên các vùng có dân cư . Các gia đình có của cải vật quí chỉ tìm thấy sự an tâm khi tài sản của họ vào nhà thờ hay những thợ vàng . Đến lượt những người giữ hộ tài sản thông minh này nhanh chón nhận thấy thật là phí phạm vì có nhiều thương nhân rất cần có tiền để sản xuất kinh doanh trong khi đó họ có lượng tiền dự trữ trong kho hầu như không đổi trong khoảng thời gian dài . Nghiệp vụ cho vay từ đó xuất hiện.
Cùng với sự phát triển nền sản xuất hàng hoá , nhu cầu trao đổi hàng hoá , dịch vụ ngày càng nhiều , các ngân hàng đã thực hiện thêm nghiệp vụ trung gian thanh toán . hoạt động Ngân Hàng Thương Mại đã phát triển vô cùng nhanh chóng theo sự bành chướng của thương mại quốc tế .
Như vậy giống như mọi thiết chế vật chất tinh thần khác , để có được vị trí như ngày hôm nay , hệ thống ngân hàng và hoạt động của nó đã đi từ những bước hình thành cực kỳ thô sơ và không cái gì khác hơn , chính nhu cầu cần phát triển của loài người và nền kinh tế là tác nhân thúc đẩy hoạt động các ngân hàng không ngừng được cải thiện , nâng cao cả về thực hành lẫn lí thuyết để có được như ngày hôm nay .
1.2 Các hoạt động cơ bản của Ngân Hàng Thương Mại
1.2.1 Huy động vốn
Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội là lẽ sống quan trọng bậc nhất của Ngân Hàng Thương Mại . Đây là nghiệp nghiệp vụ chủ yếu nhất để duy trì sự ổn định và phát triển của Ngân Hàng Thương Mại .khác với các tổ chức hoạt động kinh doanh khác hoạt động chủ yếu bằng vốn tự có , nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại chủ yếu là tiền gửi . Nguồn tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản nợ của ngân hàng , nguồn này được huy động bằng cả ngoại tệ và nội tệ . Ngoài ra ngân hàng còn có thể huy động thêm vốn bằng việc phát hành chứng chỉ tiền gửi , trái phiếu và các giấy tờ có giá hoặc có thể vay vốn từ các khoản dự trữ ngắn hạn của các ngân hàng khác , các tổ chức tài chính trên thị trường tiền tệ và của ngân hàng nhà nước .
Như vậy việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư , của các tổ chức đơn vị kinh tế qua hình thức tiền gửi là công tác cơ bản đầu tiên trong hoạt động của Ngân Hàng Thương Mại và là hoạt động đặc trưng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng .
Việc huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế tạo ra cho ngân hàng có khả năng cung cấp tín dụng và thực hiện các hoạt động đầu tư , qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tạo ra lợi nhuận ngày càng cao cho ngân hàng .
1.2.2Hoạt động cho vay và đầu tư
Hoạt động cho vay của Ngân Hàng Thương Mại là nghiệp vụ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển và tồn tại của một ngân hàng , là hoạt động kinh doanh chủ chốt để tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng ( chiếm từ 60 - 80% trong nghiệp vụ có của ngân hàng ) .Ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp để ghực hiện các khoản thanh toán và dự trữ hàng hoá ...
Hoạt động đầu tư của ngân hàng có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như đầu tư chứng khoán , tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh với tư cách là người góp vốn ( hoạt động tài trợ đồng tài trợ ) góp phần nâng cao phần lợi tức của ngân hàng nhưng mục đích chính là để thâm nhập vào nền kinh tế , nắm bắt thông tin để điều tiết cung cấp vốn , kiểm soát được mục đích sử dụng tiền vay .
1.2.3Hoạt động trung gian
Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại , các ngân hàng đã thực hiện thêm hoạt động trung gian . Đóng vai trò là người trung gian , ngân hàng thực hiện cung cấp cho khách hàng các dịch vụ như làm trung gian thanh toán , uỷ thác cung cấp dịch vụ tài chính .
Với vai trò trung gian thanh toán , đại bộ phận chi trả về hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp hay của cá nhân được chuyển giao cho ngân hàng thực hiện . Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc thúc đẩy lưu thông hàng hoá , tiết kiệm chi phí lưu thông . Bên cạnh vai trò làm trung gian thanh toán , ngân hàng còn quản lí các phương tiện thanh toán một cách có hiệu quả nhờ hệ thống máy móc điện tử và các thiết bị liên lạc hiện đại
2. giới thiệu chung về NHCT Đống Đa và các đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ
2.1sự ra đời và phát triển của Ngân Hàng CôngThương( NHCT)Đống Đa
Thực hiện nghị định số 53/HĐBT ngày 16/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng, hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển từ một cấp sang hai cấp trong đó phân định rõ chức năng quản lý nhà nước của ngân hàng nhà nước và chức năng kinh doanh của hệ thống NHTM. Trong bối cảnh lịch sử đó, cùng với sự ra đời của NHCT Việt Nam ngày 1/7/1988 ,chi nhánh NHCT Đống Đa được thành lập.
Là chi nhánh trực thuộc của NHCT Nà Nội từ năm 1988 đến 1990 là thời kỳ chuyển đổi khó khăn của hệ thống ngân hàng nói chung và NHCT Đống Đa nói riêng cũng là thời kỳ hệ thống ngân hàng bắt đầu được chuyển sang cơ chế thị trường. Giai đoạn này có rất nhiều quỹ tín dụng kinh doanh không có hiệu quả, còn các ngân hàng thì nợ quá hạn, nợ khó đòi tăng lên mức kỷ lục. Sự kiện này không phải do bản thân hoạt động của ngân hàng tạo ra mà chính là do vòng xoáy của qúa trình chuyển đổi nền kinh tế mà ngân hàng là tấm gương phản chiếu toàn bộ nền kinh tế. nguyên nhân chính là do sự yếu kém của cơ chế tập trung bao cấp nhưng vẫn có hoạt động kinh doanh.
Qua nhiều năm phát triển, từ một ngân hàng với cơ sở vật chất lạc hậu, gặp nhiều khó kăn về nguồn nhân lực ,về địa điểm giao dịch , với sự tiến bộ của toàn thể cán bộ công nhân viên ngân hàng, đồng thời được sự lãnh đạo cuả Uỷ ban nhân dân quận Đống Đa , và NHCT Việt Nam, NHCT Đống Đa đã từng bước trưởng thành và đạt được các kết quả đáng khích lệ. NHCT Đống Đa đã tự đổi mới để tồn tại và phát triển, đứng vững trong cơ chế thị trường với địa thế nằm trên địa bàn rộng lớn, tập trung nhiều loại hình kinh tế nên khách hàng của ngân hàng rất phong phú và đa dạng. Mặt khác, ngân hàng còn là một trong những đơn vị có đội ngũ cán bộ lãnh đạo có năng lực , năng động trong điều hành hoạt động kinh doanh, nội bộ đoàn kết thống nhất đã tạo điều kiện cho NHCT Đống Đa mở rộng qui mô, kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ , tín dụng , thanh toán. Ngoài việc tích cực huy động tiền gửi trong dân cư, tiền gửi của các tổ chức kinh tế ,ngân hàng đã mở rộng các hình thức huy động khác như huy động tiền gửi ngoại tệ từ dân cư, huy động vốn ngoại tệ từ các tổ chức quốc tế và thực hiện một số công tác thanh toán qua ngân hàng cho các đơn vị kinh tế đóng trên địa bàn quận. Nguồn vốn kinh doanh mạnh đã giúp NHCT Đống Đa tự lực được vốn trong kinh doanh, đồng thời thường xuyên có lượng vốn thừa khá lớn điều hoà trong toàn ngành.
Nguyên tắc hoạt động của NHCT Đống Đa là tự huy động vốn, tự bù đắp chi phí trang trải vốn và làm nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước . Nhờ có nguồn thu vốn lớn và ổn định, NHCT Đống Đa đã mở rộng đầu tư tín dụng cho các thành phần kinh tế trên địa bàn. NHCT Đống Đa cũng đa dạng hoá các nghiệp vụ cho vay nhằm nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng như: Cho vay ngoại tệ phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu , cho vay cầm cố , cho vay tiêu dùng , chiết khấu chứng từ có giá, cho vay theo các chương trình được tài trợ của các tổ chức quốc tế...
Phục vụ sự phát triển kinh tế của cả nước nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng, NHCT Đống Đa đã chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch, đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thường xuyên tăng cường cả nguồn vốn lẫn sử dụng vốn. Ngân hàng cũng rất chú trọng nâng cao trình độ cán bộ cả về chuyên môn lẫn ngoại ngữ. Cơ sở vật chất ngân hàng được hiện đại hoá, đặc biệt là công nghệ tin học, phù hợp với xu hướng hiện đại hoá ngân hàng nhằm phục vụ hoạt động kinh doanh ngày một tốt hơn . Trong nhiều năm liên tục , ngân hàng đều kinh doanh có lãi, làm tròn nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước, ổn định và nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên, kết quả kinh doanh năm sau cao hơn năm trước, đóng góp cho ngân sách Nhà nước ngày càng lớn, tạo được uy tín với khách hàng.
2.2 Chức năng và nhiệm vụ của NHCT Đống Đa
Chi nhánh NHCT Đống Đa là ngân hàng thuộc loại hình Ngân Hàng Thương Mại cho nên NHCT Đống Đa có đủ chức năng của một Ngân Hàng Thương Mại tuy các chức năng và nhiệm vụ chưa được thể hiện toàn diện như các Ngân Hàng Thương Mại ở các nước phát triển nhưng NHCT Đống Đa đã thể hiện rõ chức năng chính của Ngân Hàng Thương Mại :
2.2.1. Huy động vốn
NHCT Đống Đa luôn chú trọng công tác huy động vốn bởi vì có nguồn vốn ổn định, mạnh mẽ sẽ giúp ngân hàng chủ động trong kinh doanh , với chính sách lãi suất, thời hạn linh hoạt, phù hợp với sự biến động của thị trường, NHCT Đống Đa đã thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội và nguồn vốn này luôn tăng tưởng trong các năm:
Bảng 1: Nguồn vốn huy động qua các năm của NHCT Đống Đa
(Đơn vị :tỉ đồng)
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
Tổng huy động vốn
1429,5
1850
2213
1. Tiền gửi của các tổ chức
245
650
800
2. Tiền gửi tiết kiệm
1180
1200
1411
3. Tiền gửi khác
0
0
2
4. Kỳ phiếu trái phiếu
4,5
0
0
Nguồn : Báo cáo tổng kết của NHCT Đống Đa qua các năm 1999-2001
Ngân hàng căn cứ vào chiến phát triển kinh tế quốc dân trên phạm vi toàn quốc và trên địa bàn quận Đống Đa, đồng thời căn cứ vào nhịp độ phát triển kinh tế trong từng thời kỳ, từng giai đoạn để xây dựng cho mình một cơ chế huy động vốn có hiệu quả. Để đạt được hiệu quả kinh tế cao trong hoạt động huy động vốn làm cơ sở cho hoạt động cho vay phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, ngân hàng phải đánh giá cho đúng điểm mạnh, điểm còn hạn chế của từng loại vốn huy động, tập trung cao độ nhất , nhanh chóng nhất, hiệu quả nhất, an toàn nhất trong công tác huy động của mình. Ngày nay , đất nước ta đang còn trong thời kỳ đổi mới với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá . Nhu cầu vốn cho chiến lược này là vô cùng lớn. Tuy vậy, khi độ hội nhập của đất nước ra bên ngoài với cường độ ngày càng cao, quan hệ thương mại quốc tế, ngoại thương không ngừng tăng trưởng. Chúng ta phải nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghệ cho sản xuất kinh doanh để tránh lạc hậu so với thế giới. Hầu hết các chủ kinh tế, các doanh nghiệp trong hoạt động thương mại và thanh toán quốc tế đều có tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng. Bản thân xuất khẩu hàng hoá dịch vụ của các đơn vị kinh tế trong nước, khi kết thúc hoạt động xuất khẩu, họ lại gửi ngoại tệ vào tài khoảncủa mình ở ngân hàng để phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu có thể phát sinh hoặc bán lại một phần hay toàn bộ ngoại tệ để trang trải chi phí phát sinh trong hoạt động kinh doanh như: nguyên liệu , tiền công... Mặt khác, phục vụ cho khách hàng của mình trong nhu cầu nhập khẩu máy móc , công nghệ , trang thiết bị với lượng ngoại tệ mà ngân hàng huy động
2.2.2. Hoạt động tín dụng
Nhờ có nguồn vốn tăng trưởng ổn định, NHCT Đống Đa đã tích cực mở rộng đầu tư, đáp ứng mọi nhu cầu tín dụng hợp lý của khách hàng . Tổng dư nợ của ngân hàng nói chung tăng đều. Đây là một kết quả khả quan của NHCT Đống Đa so với các ngân hàng khác trong bối cảnh kinh tế nước ta đang bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực.
Bảng 2: Tổng dư nợ tín dụng giai đoạn1997-2001
(Đơn vị :tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng dư nợ:
541
603,96
711,677
1.001
1521
Ngắn hạn
474
529,6
572,807
579
850
Trung hạn và dài hạn
67
74,36
138,87
422
671
Nguồn : Phòng kinh doanh tổng hợp
Như vậy tín dụng ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong dư nợ tín dụng của ngân hàng . Với mạng lưới giao dịch rộng khắp, NHCT Đống Đa đã thu hút được số khách hàng đến giao dịch với ngân hàng ngày càng tăng
2.2.3. Thanh toán quốc tế
Đây là nghiệp vụ mới của ngân hàng , do phòng thanh toán quốc tế đảm nhiệm, được thành lập tháng 7 năm 1997. Tuy vậy , doanh số của hoạt động này ngày càng tăng, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ và cho vay ngoại tệ , đồng thời góp một phần vào lợi nhuận hàng năm của ngân hàng
Bảng 3: Doanh số thanh toán quốc tế qua NHCT Đống Đa
( Đơn vị :1000 USD )
Chỉ tiêu
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
1.Hàng nhập khẩu
25028
18983
26800
22042
41736
2.Hàng xuất khẩu
805
275
380
313
381
Nguồn :Báo cáo tổng kết quả kinh doanh năm 1997 đến 2001
2.2.4. Kinh doanh ngoại tệ
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHCT Đống Đa được thực hiện từ năm 1988. Tuy nhiên , nghiệp vụ này chỉ thực sự phát triển khi ngân hàng thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế, trực tiếp cho vay ngoại tệ
Bảng 4: Doanh số bán ngoại tệ từ năm 1997-2001
(Đơn vị : 1000 USD)
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
1.Doanhsốmuavào
29500
8500
29000
27844
56236
2.Doanh số bán ra
29500
8500
29000
22589
50915
Nguồn: Báo cáo kinh doanh ngoại tệ từ năm 1997-2001
2.2.5. Các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng
- Công tác thanh toán:
Ngân hàng luôn chú trọng đến việc thanh toán của khách hàng , đầu tư đổi mới công nghệ hiện đại. Hiện nay, các hoạt động thanh toán , chuyển tiền của khách hàng cả trong và ngoài nước đều được thực hiện nhanh, chính xác , đảm bảo lợi ích cho cả khách hàng và ngân hàng
- Công tác ngân quĩ
Công tác này được nhanh chóng đổi mới và duy trì cùng công tác thanh toán, tiến hành thu đủ, nhanh , chính xác cho khách hàng . Ngoài ra, ngân hàng còn có dịch vụ thu tiền tại chỗ cho tất cả các doanh nghiệp có nguồn thu lớn và ổn định
Ngoài ra, ngân hàng còn mở rộng dịch vụ cầm đồ , với đối tượng chủ yếu là các kỳ phiếu, trái phiếu... do các Ngân Hàng Thương Mại quốc doanh, kho bạc Nhà nước phát hành , dịch vụ này vừa đảm bảo cung ứng vốn cho khách hàng nhanh chóng, vừa đơn giản, vừa đảm bảo an toàn và hiệu quả cho kinh doanh ngân hàng
2.3 đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Hoạt động kinh doanh ở các ngân hàng phụ thuộc rất nhiêu vào qui mô, phương hướng hoạt động, địa bàn, khách hàng và cả cơ chế quản lý của Nhà nước. Chẳng hạn một ngân hàng mà phần lớn khách hàng mở tài khoản là các tổ chức và đơn vị kinh tế hoạt động kinh doanh liên quan đến xuất nhập khẩu thì công tác kinh doanh ngoại tệ sẽ phát triển hơn, doanh nghiệp sẽ có được nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu do vậy họ sẽ thuận lợi hơn trong việc trả nợ vay ngân hàng . Cũng vậy nếu so sánh một NHTM bình thường với một ngân hàng chuyên về lĩnh vực xuất nhập khẩu thì rõ ràng NHTM nói trên không thể sánh kịp về khả năng kinh doanh ngoại tệ.
Bên cạnh những yếu tố khách quan kể trên, hoạt động kinh doanh ngoại tệ còn tuỳ thuộc vào đường lối chiến lược và mục tiêu hoạt động của ngân hàng, trình độ chuyên môn và tư cách đạo đức của cán bộ tín dụng, hệ thống công nghệ thông tin. Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ
NHCT Đống Đa nằm trên địa bàn của quận Đống Đa nằm trên địa bàn của quận Đống Đa , một quận vừa đông dân cư 36 vạn dân vừa là nơi tập trung nhiều công ty nhà máy xí nghiệp nhà máy công cụ số một , nhà máy cao su sao vàng , nhà máy xà phòng Hà Nội , công ty cơ khí Hà Nội .... trong đó có một số doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ xuất nhập khẩu cho nên rất cần hoạt động trao đổi ngoại tệ (mua và bán ngoại tệ ) điều này rất thuận lợi cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Hoạt động kinh doanh của NHCT Đống Đa đều chịu tác động tầm vĩ mô của NHCT Việt Nam , việc xác định tỷ giá hối đoái trong kinh doanh ngoại tệ phải dựa vào tỷ giá chính thức của ngân hàng nhà nước tại thời điểm giao dịch, với cơ chế hoạt động kinh doanh đối ngoại như vậy NHCT Đống Đa luôn phải chờ sự chỉ đạo của NHCT Việt Nam vì vậy làm cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHCT Đống Đa không linh hoạt , các biện pháp chỉ đạo của của NHCT chỉ mang tính tình huống , chưa có giải pháp tổng thể nên chưa giải quyết vấn đề một cách cơ bản .
NHCT Đống Đa hiện đang có 324 cán bộ công nhân viên nhìn chung ngân hàng có đội ngũ chuyên môn tốt có thái độ phục vụ niềm nở , tận tình với khách hàng . Hiện nay NHCT Đống Đa có 7 cán bộ công nhân viên tại phòng kinh doanh đối ngoại tất cả cán bộ trong phòng kinh doanh này đều có trình độ đại học ,trình độ ngoại ngữ B có 1 người còn lại 6 người đều có trình độ C trong đó có 2 cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu chưa qua đào tạo nghiệp vụ xuất nhập khẩu , 5 cấn bộ thanh toán quốc tế đã qua đào tạo xuất nhập khẩu như vậy nhìn chung NHCT Đống Đa có đội ngũ phòng kinh doanh có trình độ có nghiệp vụ về kinh doanh ngoại tệ tuy còn một số chưa qua đào tạo nghiệp vụ xuất nhập khẩu, chưa đạt được trình độ chuyên sâu về ngoại ngữ , luật quốc tế , vi tính căn bản vì vậy còn gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh ngoại tệ .
Hiện nay NHCT Đống Đa đã ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thu nhập thông tin và thực hiện các nghiệp vụ có liên quan đến hoạt động kinh doanh quốc tế , ở tất cả các phòng ban của NHCT Đống Đa đều có ít nhất là một máy tính , riêng phòng kinh doanh đối ngoại được trang bị máy tính đầy đủ , máy tính có cấu hình cao , tất cả các máy đều được nối mạng , đã ứng dụng nhiều phần mềm tiện ích . Hệ thống thông tin của ngân hàng luôn được đổi mới , nâng cấp . Tuy vậy hệ thống cũng chưa có thể đáp ứng một số nhu cầu tối thiểu của hoạt động kinh doanh ngoại tệ như thiếu các loại điện cho nghiệp vụ L/C xuất khẩu và nhờ thu , chưa hạch toán , tính phí tự động và thống kê tự động , trong quá trình sử dụng do quá tải nên một số chức năng bị cắt bớt . Mạng truyền tin hay bị tắc nghẽn , việc chuyển tiền thanh toán xuất khẩu qua ngân hàng thường chậm hơn so với Ngân Hàng Thương Mại khác .
Những đặc điểm kinh tế kỹ thuật trên của NHCT Đống Đa là những yếu tố tác động mạnh đến sự thành công hay thất bại của hoạt động kinh doanh ngoại tệ
3/ thực trạng kinh doanh ngoại tệ của chi nhánh NHCT Đống Đa
3.1 Kết quả hoạt động có liên quan chủ yếu đến kinh doanh ngoại tệ của NHCT Đống Đa
3.1.1. Huy động vốn ngoại tệ
Với phương châm: “ Tạo nguồn vốn là tiền đề để mở rộng thị trường tín dụng, là sống còn của kinh doanh dịch vụ Ngân hàng” , trong thời gian qua chi nhánh NHCT Đống Đa đã kết hợp đồng thời nhiều biện pháp từ chính sách lãi suất với phương pháp trả lãi hấp dẫn cho tới việc bố trí quầy giao dịch rộng rãi, thoáng mát, thủ tục gửi tiền nhanh gọn và thái độ phục vụ hoà nhã, lịch sự của đội ngũ nhân viên. Nhờ đó nguồn ngoại tệ huy động của NHCT Đống Đa không ngừng lớn mạnh. Sau đây là số tiệu về tính hình huy động ngoại tệ của NHCT Đống Đa từ năm 1998 trở lại đây:
Bảng 5: Tình hình huy động ngoại tệ ( Tỷ VND).
Nguồn vốn
1998
1999
2000
2001
1- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
378
412
480
560
- Tiền gửi không kỳ hạn
258
282
300
370
- Có kỳ hạn dưới 1 năm
120
130
180
190
2- Tiền gửi của các tổ chức kinh tế
17
18
20
25
3- Kỳ phiếu ( dưới 1 năm)
0
0
0
0
Tổng cộng
395
430
500
585
Nguồn: số liệu phòng tổng hợp NHCT Đống Đa
Qua bảng 5 ta có một số nhận xét sau:
* Nhận xét thứ nhất: Về ._.Đồng thời thông qua cho vay ngoại tệ, Ngân hàng có điều kiện củng cố và mở rộng nghiệp vụ thanh toán quốc tế , tín dụng xuất nhập khẩu , một nghiệp vụ trung gian hết sức quan trọng trong hoạt động của một Ngân Hàng Thương Mại.
Trong thời gian gần đây ngân hàng công thương Đống Đa đã có cơ chế mua bán ngoại tệ linh hoạt , đảm bảo tỷ giá mua bán ngoại tệ ( USD ) để khách hàng có thể chấp nhận được , ngân hàng có sự hỗ trợ của chi nhánh NHCT Đống Đa mỗi khi thiếu ngoại tệ làm cho chi nhánh có thuận lợi hơn trong kinh doanh ngoại tệ
4.2 Những tồn tại trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ hiện nay tại NHCT Đống Đa
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng mới chỉ dừng lại ở đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ của khách hàng xuất nhập khẩu, tức là hoạt động mua bán ngoại tệ chủ yếu trên cơ sở nghiệp vụ khách hàng. Ngân hàng chưa thực hiện các nghiệp vụ Liên Ngân Hàng, thực hiện kinh doanh thu lợi nhuận trên cơ sở chênh lệch tỷ giá thuần tuý.
- Các nghiệp vụ hối đoái còn sử dụng đơn điệu , chủ yếu ngân hàng thực hiện nghiệp vụ giao ngay và nghiệp vụ kỳ hạn, còn nghiệp vụ hối đoái ngoại tệ thì đã được thực hiện nhưng rất ít.
Quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường hối đoái luôn biến động, kéo theo tỷ giá của các đồng tiền cũng biến động, trong khi chúng ta vẫn áp dụng chế độ 6 trần tỷ giá kỳ hạn (từ 30 ngày đến 180 ngày, trong 15 ngày có một tỷ giá...) Nó giống như chỉ tiêu khống chế trong việc tính toán xác định tỷ giá kỳ hạn trong giao dịch, vì vậy bên cạnh những lợi ích mà các quyết định đó đem lại, cho đến nay cũng đã bộc lộ những nhược điểm không phù hợp và gây ra không ít khó khăn đối với các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp trong quá trình vận dụng và thực hiện.
Cơ cấu dự trữ của ngân hàng chủ yếu là USD. Như vậy mỗi lần có sự biến động tỷ giá USD / VNĐ , hoạt động kinh doanh của ngân hàng bị ảnh hưởng.
Nguồn mua ngoại tệ của NHCT Đống đa từ các khách hàng xuất khẩu rất hạn chế, mua chủ yếu là từ NHCT Việt Nam còn từ các khách hàng xuất khẩu rất ít
- Các hoạt động có liên quan như thanh toán quốc tế và tín dụng xuất nhập khẩu còn nhiều hạn chế , gây khó khăn trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ
4.3 Nguyên nhân của tồn tại
4.3.1 nguyên nhân khách quan
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ muốn mở rộng , phát triển hơn nữa phải có nền tảng vững chắc là thị trường hối đoái , hiện nay ở Việt Nam chưa có một thị trường ngoại hối hoàn chỉnh theo đúng nghĩa của nó mà chỉ ở giai đoạn sơ khai là trung tâm giao dịch ngoại tệ và thị trường ngoại tệ Liên Ngân Hàng .
Mặt khác trên thị trường chưa có người môi giới ngoại hối chuyên nghiệp để tạo điều kiện cho cung cầu gặp nhau , hiện nay chức năng này chỉ có sở giao dịch nhà nước thực hiện .
Một nguyên nhân khác nữa là trình độ của công chúng về thị trường hối đoái và các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ còn hạn chế . Các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ quen với hoạt động mua bán giao ngay mà chưa có thói quen mua bán kỳ hạn . Do vậy đó là điều khó khăn cho ngân hàng trong việc mở rộng các nghiệp vụ của thị trường hối đoái hoàn chỉnh .
- đối tượng tham gia thị trường còn hạn chế , chỉ là các Ngân Hàng Thương Mại . Chúng ta biết biết rằng trong dân cư còn có một lượng ngoại tệ khá lớn . nếu đối tượng tham gia thị trường được mở rộng không giới hạn thì sẽ thu hút được bộ phận lớn dân cư tham gia , hạn chế được các hoạt động mua bán tại thị trường chợ đen .
- Việc bán hay mua ngoại tệ vào của ngân hàng nhà nước chưa được thực iện một cách khéo léo gây tác động tâm lí dẫn đến đầu cơ ngoại tệ của các tổ chức cá nhân . Mỗi khi thấy ngân hàng nhà nước bán ra nhiều thì các ngân hàng sợ tỷ giá bị biến động nên lại càng mua nhiều và ngược lại tác động đến sự biến động tỷ giá .
4.3.2 Về phía NHCT Đống Đa
Sở dĩ hoạt động kinh doanh ngoại tệ chỉ đáp ứng nhu cầu mua bán của khách hàng xuất nhập khẩu do ngân hàng chưa tham gia thị trường Liên Ngân Hàng , hoạt động mua bán ngoại tệ giữa các Ngân Hàng Thương Mại trong và ngoài nước rất ít , do giá bán và mua ngoại tệ của các ngân hàng khác không có lợi cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ
- Hiện nay, đồng USD vẫn là đồng tiền được sử dụng chủ yếu trong thanh toán quốc tế, vì vậy ngân hàng chỉ kinh doanh mua bán, dự trữ phần lớn USD, EURO . Ngân hàng chưa có chính sách về một cơ cấu ngoại tệ hợp lý, quá phụ thuộc vào USD. Đó là vì : quỹ ngoại tệ của ngân hàng còn nhỏ, hơn nữa để làm được điều đó đòi hỏi trình độ cán bộ kinh doanh ngoại tệ cao và nhiều kinh nghiệm, phải theo dõi, nắm chắc thường xuyên biến động tỷ giá và trạng thái từng ngoại tệ của ngân hàng cũng như dự đoán một cách nhanh nhạy hơn với thị trường.
- Nguồn mua ngoại tệ của NHCT Đống Đa từ các khách hàng xuất khẩu rất hạn chế. Vì vậy, ngân hàng thường phải mua lại ngoại tệ từ các NHTM khác với tỷ giá khá cao, nên ngân hàng hoặc đóng vai trò mua hộ ngoại tệ cho khách hàng (không thu lãi), điều này sẽ ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh ngoại tệ, hoặc bán với tỷ giá cao hơn một chút thì có thể gây ấn tượng không tốt với khách hàng và có khả năng mất khách hàng cho các NHTM khác.
Nguyên nhân của hạn chế này là do số lượng khách hàng xuất khẩu đến với ngân hàng rất ít. Tuy nhiên, đây cũng là tình hình chung đối với nhiều NHTM khác trên địa bàn, vì nước ta chủ yếu xuất khẩu nông lâm hải sản và đều tập trung ở phía nam. Còn các Tổng công ty 90 và 91 đặc biệt là các đơn vị xuất khẩu trước đây có duy trì tài khoản taị NHCT nay đều tất toán rút về mở tại Ngân hàng Ngoại thương nên nguồn mua ngoại tệ của NHCT giảm đáng kể. Trong khi đó, nhu cầu ngoại tệ thanh toán L/C của khách hàng ngày một gia tăng. Sự mở rộng khoảng cách giữa cung cầu ngoại tệ đã làm cho NHCT Việt Nam mất chủ động trong cân đối ngoại tệ. Hơn nữa, mặc dù đã đóng tài khoản tiền gửi ngoại tệ nhưng họ vẫn duy trì tài khoản tiền gửi VNĐ và hoạt động vay trả với NHCT Việt Nam vì ngân hàng Ngoại thương Việt Nam không thể đáp ứng toàn bộ nhu cầu của họ. Sự bất cập này tạo nên lợi thế cho ngân hàng Ngoại thương và bất lợi cho NHCT, một số khách hàng lớn có giao dịch với NHCT Đống Đa nay cũng phải tập trung về một tài khoản. Thực tế này đã làm cho nguồn ngoại tệ của chi nhánh giảm dẫn đến kinh doanh ngoại tệ gặp nhiều khó khăn. Đồng thời, việc giảm tỷ trọng mua ngoại tệ từ NHCT Việt Nam đối với chi nhánh lại càng khó khăn hơn.
- Những hoạt động có liên quan đến kinh doanh ngoại tệ như hoạt động thanh toán quốc tế và tín dụng xuất khẩu vẫn còn những hạn chế qua khảo sát cho thấy ,Trình độ công nghệ thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu công việc mặc dù đã có thời điểm trình độ công nghệ thông tin đứng trong tốp đầu của hệ thống Ngân Hàng Thương Mại . Nhưng cho đến nay phần mềm được sử dụng trong kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế đã tỏ ra kém hiệu quả . Trong quá trình sử dụng , do quá tải nên một số chức năng đã bị cắt bớt , chương trình ngày càng chậm dẫn đến thời gian thanh toán lâu , mất uy tín với khách hàng và các ngân hàng khác , chi nhánh không cập nhật được các thông tin cần thiết từ hội sở chính , điều đó ảnh hưởng đến khả năng tổng hợp , cập nhật những thông tin cần thiết về tỷ giá và về thanh toán hàng xuất nhập khẩu .
Về nhân sự còn nhiều bất cập như đội ngũ cán bộ chưa đạt trình độ chuyên sâu về nghiệp vụ xuất khẩu , ngoại ngữ ,luật quốc tế vì vậy còn lúng túng trong sử lí thông tin trong kinh doanh ngoại tệ và chưa đạt khả năng tư vấn cho khách hàng hoạt động xuất nhập khẩu.
Chuyển tiền trong hệ thống còn chậm , thời gian thanh toán từ nước ngoài về lâu hơn ngân hàng ngoại thương và các ngân hàng nước ngoài ... ảnh hưởng đến thời gian thanh toán và hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng , trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu sự phối hợp giữa bộ phận cho vay xuất khẩu và bộ phận thanh toán quốc tế , mua bán ngoại tệ tại các chi nhánh là chưa chặt chẽ , nên khách hàng vay vốn của NHCT Đống Đa nhưng lại bán ngoại tệ cho ngân hàng khác . như vậy những hạn chế của hoạt động này có tác động tiêu cực đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ vì ba hoạt động này có liên quan chặt chẽ với nhau.
Chương III : một số giải pháp tăng cường hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh NHCT Đống Đa
1/ định hướng kinh doanh đối ngoại của NHCT Việt Nam trong năm 2002
Như chúng ta đã biết, NHCT khu vực Đống Đa được tách từ NHNN ngày 1/7/1988, kể từ ngày đó ngâ hàng thực hiện chế độ hoạch toán kinh doanh Xã Hội Chủ Nghĩa
Theo cơ chế thị trrường. NHCT Đống Đa là một chi nhánh thực thuộc NHCT Việt Nam. Vì vậy, mọi định hướng hoạt động của NHCT Việt Nam đều có tác động tầm vĩ mô tới hoạt động của NHCT Đống Đa.
Một trong những cơ sở quan trọng để đưa ra giải pháp và kién nghị nhằm thúc đảy hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHCT Đống Đa, đó là định hướng hoạt động kinh doanh đối ngoại của NHCT Việt Nam đến năm 2002.
* Tăng cường khai thác các nguồn vốn vay nước ngoài cho các dự án trung và dài hạn của các doanh nghiệp dưới mọi hình thức như định chế tài chính, uỷ thác vay vố từ các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các cá nhân nước ngoài , thực hiện tốt các dự án vay dài hạn của các tổ chức quốc tế như : Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu á ...
*Chấp hành nghiêm chỉnh quy định của NHNN và yêu cầu của tổ chức cấp vốn vay.
* Khai thác triệt để mọi khoản tài trợ của tổ chức nước ngoài, giúp đỡ về mặt kỹ thuật nhằm đổi mới công nghệ ngân hàng và đào tạo cán bộ.
* Định hướng chiến lược Marketing ngân hàng nhằm mở rộng thị trường hoạt động, nâng cao uy tín của NHCT Việt Nam trên thương trường khu vực và quốc tế, tranh thủ mọi thuận lợi đồng thời hạn chế thấp nhất rủi ro trong kinh doanh hối đoái và quan hệ đối tác với nước ngoài.
* Mở rộng nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại bao gồm: Thanh toán quốc tế, thanh toán biên giới, cho vay ngoại tệ và nhất là hoạt động mua bán ngoại tệ.
* Mở rộng nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại bao gồm : Thanh toán quốc tế, mở rộng mạng lưới ngoại tệ cũng như thu đổi ngoại tệ nhằm thu hút ngoại tệ trên thị trường vào ngân hàng.
2/ Một số giải pháp nhằm thúc đẩy kinh doanh ngoại tệ
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động tinh vi phức tạp và phải chịu nhiều ảnh hưởng của các biến cố kinh tế, chính trị, văn hoá... Chính vì vậy, nó đòi hỏi tất cả các Ngân Hàng Thương Mại, với chức năng tài chính, hỗ trợ phát triển cho toàn bộ nền kinh tế nói chung và lĩnh vực kinh doanh đối ngoại nói riêng phải có những chiến lược kinh doanh hợp lý thích hợp với từng thời kỳ mang lại những thành công tốt đẹp hiệu quả kinh tế cao, các giải pháp cụ thể là:
2.1 Mở rộng mạng lưới kinh doanh ngoại tệ
Phạm vi hoạt động mua bán ngoại tệ của ngân hàng công thưong Đống Đa còn rất hạn chế vì vậy mở rộng mạng lưới kinh doanh là yếu tố rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh , việc mở rộng mạng lưới kinh doanh ngoại tệ sẽ làm tăng tổng doanh số mua bán ngoại tệ làm cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ ngày càng phát triển .
để mở rộng mạng lưới kinh doanh ngoại tệ NHCT Đống Đa nên tham gia vào thị trường Liên Ngân Hàng , để hoạt động kinh doanh ngoại tệ không chỉ dừng lại ở mức đáp ứng nhu cầu của khách hàng xuất nhập khẩu , mà còn diễn ra giữa các ngân hàng trong và ngoài nước , như vậy sẽ giúp cho ngân hàng chủ động hơn trong kinh doanh ngoại tệ , có thể đa dạng phạm vi hoạt động của mình.
2.2 đa dạng hoá các ngoại tệ kinh doanh
Hiện nay hầu hết Ngân Hàng Thương Mại và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nước ta sử dụng USD là chủ yếu trong mua bán cho vay , huy động ,dự trữ và thanh toán quóoc tế . tâm lí sùng bái đô la đã từng gây khó khăn trong việc huy động nguồn của các Ngân Hàng Thương Mại , các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ cũng không muốn bán cho ngân hàng . Khi tỷ giá USD / VNĐ thay đổi dân cư lo đồng ngoại tệ mất giá ồ ạt rút tiết kiệm nội địa , mua ngoại tệ gửi ngân hàng , càng làm tỷ giá biến động thêm ...
NHCT Đống Đa cũng không nằm ngoài tình trạng đó , thực tế thì vẫn có những loại ngoại tệ như JPY , EURO ,HKD ... được sử dụng trong giao dịch nhưng USD vẫn là ngoại tệ chiếm chủ yếu trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũng như trong cơ cấu dự trữ của ngân hàng .
Hiển nhiên usd là một loại ngoại tệ mạnh , có khả năng chuyển đổi cao tuy nhiên đó không phải là ngoại tệ mạnh duy nhất trong hệ thống tiền tệ hiện nay . Ngoài USD ra còn có GBD , JPY, EURO cũng là những ngoại tệ có khả năng chuyển đổi cao , ngày càng được sử dụng nhiều trong thanh toán quốc tế và dự trữ ở các nước .
Để đa dạng hoá các loại ngoại tệ kinh doanh , ngân hàng cũng phải tính đến nhu cầu về loại ngoại tệ của khách hàng . Trong khi hiện nay nhu cầu khách hàng củ yếu là USD mà ngân hàng lại nắm giữ các loại ngoại tệ khác không kinh doanh được thì ngân hàng liệu tếp tục có lãi hay không .
Tuy nhiên ngân hàng có thể lập kế hoạch cơ cấu dự trữ ngoại tệ của mình theo hướng đa dạng hoá các loại ngoại tệ , tránh phụ thuộc quá nhiều vào đồng đô la mỹ , phân tán rủi ro , thích nghi được những biến động thất thường về tỷ giá
2.3 Chủ động trong khai thác các nguồn ngoại tệ
2.3.1 Linh hoạt trong khai thác ngoại tệ
Tăng cường hoạt động linh hoạt và hiệu quả hơn trên thị trường ngoại tệ Liên Ngân Hàng để chủ động nhiều hơn trong khai thác nguồn ngoại tệ với quy mô lớn hơn, chi phí thấp và ngân hàng sẽ có điều kiện để phát triển nghiệp vụ Liên Ngân Hàng của mình.
2.3.2 Chủ động thu hút nguồn ngoại tệ trên thị trường.
a. Mở rộng và thu hút nguồn ngoại tệ tiền gửi của dân cư.
b.Thu hút ngoại tệ từ nguồn kiều hối gửi về trong nước: Hiện nay nguồn kiều hối gửi về qua NHCT Đống Đa không nhiều, song với chính sách tỷ giá hiện hành, tỷ giá mua bán trên thị trường tự do đã chênh lệch không nhiều. Vì vậy, ngân hàng cần tạo sự tiện ích cho khách hàng để khách hàng có điều kiện trực tiếp tiếp cận với ngân hàng hoặc bán cho ngân hàng nếu cần.
2.4 Thúc đẩy hoạt động có liên quan tới kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng
Mối quan hệ giữa kinh doanh ngoại tệ và tín dụng xuất nhập khẩu , thanh toán quốc tế là mối quan hệ qua lại , tác động và hỗ trợ lẫn nhau tín dụng xuất nhập khẩu phát triển góp phần tăng thu ngoại tệ , đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của khách hàng , giữ khách hàng cũ và thu hút thêm khách hàng mới , mở rộng khả năng thanh toán của khách hàng qua ngân hàng , thanh toán quốc tế phát triển sẽ giúp cho ngân hàng tăng cường mua bán ngoại tệ làm cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ phát triển .
Để ngày càng nâng cao nghiệp vụ thanh toán quốc tế NHCT Đống Đa cần phải chú ý những vấn đề sau:
- Trước hết, cán bộ phòng thanh toán quốc tế phải không ngừng nâng cao trình độ ngoại ngữ và hiểu biết về luật kinh doanh quốc tế.
- Phải phòng ngừa mọi rủi ro trong thanh toán quốc tế. Các doanh nghiệp thường phải chịu rủi ro thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng ngoại như: giá cả, phương thức vận tải, phương thức thanh toán, điều khoản trọng tài... Vì vậy để giảm thiểu rủi ro, cán bộ Phòng thanh toán quốc tế cần thiết phải nắm vững kỹ thuật nghiệp vụ, tư vấn cho doanh nghiệp lấy lại lợi thế khi cần thiết.
Trong kinh doanh ngoại thương, các doanh nghiệp Việt Nam thường hay sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ L/C. Rủi ro trong phương thức thanh toán này không phải là không có. Chính vì thế NHCT Đống Đa khi mở L/C nhập khẩu nên qui định thêm điều khoản: “gửi ngay khi hàng lên tàu một bộ chứng từ không chiết khấu cho người mở L/C ”. Điều khoản này sẽ có tác dụng giúp cho ngân hàng mở L/C có thể kiểm tra trước nhằm phát hiện những sai sót, những điểm không phù hợp của bộ chứng từ so với nội dung L/C đã mở. Nếu có sai sót thì kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, đồng thời có tác dụng tăng độ tin cậy rằng hàng đã được bốc xếp lên tàu.
Đầu tư trang thiết bị phục vụ cho việc kinh doanh ngoại tệ và chính sách phát triển nhân lực .
Trong điều kiện đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công nghệ ngân hàng là mối quan tâm hàng đầu của toàn ngành ngân hàng. Việc máy tính hoá các nghiệp vụ ngân hàng là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Thực trạng tại phòng kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh NHCT Đống Đa cho thấy hệ thống mạng mà phòng đang sử dụng đã khá cũ, không thuận tiện cho việc nắm bắt và xử lý thông tin ngày nay. Chính vì thế mà ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng cập nhật thông tin.
2.5.1.đầu tư trang thiết bị, hệ thống thông tin
NHCT Đống Đa cần trang bị những thiết bị, hệ thống thông tin hiện đại hơn, phục vụ cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Trong thời gian trước mắt, ngân hàng cần đầu tư để có sự liên kết mạng hệ thống thông tin với các ngân hàng khác trên trên thị trường ngoại tệ Liên Ngân Hàng và NHNN một cách linh hoạt, nhanh chóng để hoạt động có hiệu quả trên thị trường này.
2.5.2. Chính sách phát triển nhân lực trên hai hướng chính sau.
a. Chính sách đào tạo: Kinh doanh ngoại tệ là một lĩnh vực mới , nhạy cảm và sẽ là một hoạt động ngày càng phát triển trong mô hình hiện đại. Vì vậy, NHCT Đống Đa cần có chính sách đầu tư thích đáng, tài trợ cho các cán bộ chuyên môn đi học tập, nâng cao trình độ trong và ngoài nước, đào tạo điều kiện khuyến khích các cán bộ được học trong khả năng, có chính sách đãi ngộ xứng đáng với các cán bộ có năng lực.
b. Chính sách tuyển dụng : Ngân hàng cần có chế độ tuyển dụng một cách khắt khe hơn, sắp xếp sử dụng cán bộ chuyên môn để tạo hiệu cao quả nhất trong công việc, một phong cách văn hoá giao tiếp cởi mở, văn minh lịch sử, thái độ phong cách giao tiếp chính là nghệ thuật giữ khách hàng có hiệu quả cao nhất trong Marketing ngân hàng hiên nay , các ngân hàng thường chú trọng về chính sách quảng cáo, khuyếch trương tạo sự tín nhiệm... giúp khách hàng hiểu biết về ngân hàng do quảng cáo không mang tính chất bền vững mà chính là do các hoạt động giao tiếp hàng ngày của ngân hàng. Bởi vậy, phong cách giao tiếp sẽ tạo tâm lý hài lòng thoả mái với khách hàng, người đến giao dịch với ngân hàng nhất là trong xu thế cạnh tranh thu hút khách hàng hiện nay cuả các ngân hàng.
Trong thời gian tới NHCT Đống Đa cần chú trọng những vấn đề sau:
+ Tổ chức hội nghị khách hàng thông qua giới thiệu cho họ về chính sách của nhà nước, các loại hình nghiệp vụ mới như mua bán kỳ hạn, hoán đổi và những lợi ích của chũng nhằm giúp họ nhận thức đúng đắn về các nghiệp vụ đó, một mặt hạn chế được rủi ro trong kinh doanh mặt khác phối hợp với ngân hàng thực hiên chính sách của nhà nước góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
+ Điều trăn trở của các cán bộ nhân viên phòng kinh doanh đối ngoại tại NHCT Đống Đa là các anh chị nhận thức những thông tin và những dự báo về thị trường kinh doanh ngoại tệ trong nước và trên thế giới để có thể điều chỉnh tham khảo trong kinh doanh ngoại tệ. Về vấn đề này phòng thanh toán quốc tế xin kiến nghị với hiệp hội ngân hàng và NHCT Việt Nam cần thường xuyên có các buổi hội thảo chuyên đề kinh doanh ngoại tệ, các buổi nói chuyện về tình hình kinh tế chính trị của các nước trên thế giới, trong đó cung cấp những thông tin cần thiết và đáp ứng những thắc mắc của chi nhánh NHCT Đống Đa.
3. Một số kiến nghị
3.1. Kiến nghị với NHCT Việt Nam.
* NHCT Việt Nam nên cho phép các chi nhánh được mua bán ngoại tệ với nhau.
* Tổ chức khai thác và cung cấp một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác cho toàn bộ hệ thống các tin kinh tế trong nước và ngoài nước, các tin về khách hàng nước ngoài ... có liên quan đến nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ.
* Tổ chức thường xuyên các lớp tập huấn nghiệp vụ về thanh toán quốc tế và các hội thảo giải đáp những vướng mắc trong thanh toán quốc tế của chi nhánh.
* NHCT Việt Nam cần có biện pháp cải tiến thông tin để thời gian chuyển bức điện từ chi nhánh sang nước ngoài được nhanh hơn.
* Hàng năm NHCT Việt Nam cần tổ chức hội nghị tổng kết về hoạt động kinh doanh đối ngoại nhằm tạo điều kiện cho các chi nhánh trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
3.2. Kiến nghị với NHNN
3.2.1. Chính sách tỷ giá hối đoái.
Với ba quyết định số : 64/1999/ QĐ/NHNN7 về việc công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam so với các loại ngoại tệ, quyết định số 65/1999/QĐ/NHNN7 về quy định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ và quyết định 298/2000/QĐ/NHNN, cơ chế tỷ giá và điều hành tỷ giá của nước ta được thay đổi cơ bản, tỷ giá công bố đã công bố phản ánh một cách khách quan thị trường và quan hệ cung cầu trên thị trường, đồng thời NHNN vẫn thể hiện được vai trò nhất định trong điều kiện thị trường hối đoái nước ta chưa hoàn thiện. Thực tế cho thấy sự thay đổi này đã tạo thuận lợi hơn nhiều cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các ngân hàng.
Tuy nhiên, để cơ chế trên phát huy có hiệu quả, NHNN cần tập trung hoàn thiện các vấn đề có tính chất then chốt sau đây:
a. củng cố và phát triển Thị trường ngoại tệ Liên Ngân Hàng (TTNTLNH) một cách căn bản để phát triển thị trường ngoại hối ở nước ta. TTNTLNH phải hoạt động thông suốt, liên tục, không bị giới hạn bởi thời gian và không gian, số thành viên tham gia thị trường lớn tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh và sôi động trên thị trường.
b. Củng cố và phát triển thị trường nội tệ Liên Ngân Hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó.
c. NHNN cần nâng cao dự trữ ngoại tệ tương xứng với nhịp độ tăng trưởng của kim ngạch xuất nhập khẩu, từ đó NHNN đảm bảo được vai trò là người mua người bán cuối cùng trên TTNTLNH, đủ sức can thiệp vào thị trường khi tỷ giá thị trường có sự biến động ảnh hưởng tới nền kinh tế, cơ cấu dự trữ ngoại tệ cũng được tính toán hợp lý, giảm thiểu sự phụ thuộc vào đồng USD.
3.2.2. Chính sách ngoại hối.
- NHNN cần xây đựng quy chế thông tin, thống kê hệ thống hoá kịp thời số liệu nguồn ngoại tệ ra vào trong nước từ đó có dự báo về quan hệ cung cầu trên thị trường làm căn cứ điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối kịp thời.
- Các quy định về quản lý ngoại hối hiện hành phải được thực hiện nghiêm chỉnh, có cơ sở nghiêm minh mọi nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế đều phảI được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng . NHNN tạo điều kiện cho các loại ngoại tệ tự do song hành với thị trường chính thức, gây ra những bất ổn mà NHNN không kiểm soát được.
3.2.3. Đầu tư hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
Để có cơ hội theo kịp các nước trong khu vực và thế giới, hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam cần đảm bảo tương đối tốt vai trò mở đường và thúc đẩy các hoạt động kinh tế. Muốn vậy, nhu cầu cần thiết trước mắt phải là thường xuyên đầu tư, nâng cấp công nghệ ngân hàng. Chi phí thực hiện rất cao, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ, NHNN cần kêu gọi sự đầu tư, giúp đỡ của các tổ chức tài chính quốc tế, ciùng với sự nỗ lực của mỗi ngân hàng Việt Nam. Để nâng cao công nghệ hoạt động ngân hàng tránh sự tụt hậu đối với thế giới.
3.2.4. Một số văn bản liên quan đến kinh doanh ngoại tệ của các NHTM.
- Về kỳ hạn của hợp đồng giao dịch SWAP.
Trong giao dịch SWAP ngoại tệ có hình thức giao dịch trong đó hai bên ngoài việc trao đổi tiền vốn gốc vào thời điểm ký kết hợp đồng và thời điểm kết thúc hợp đồng, hai bên còn trao đổi với nhau lãi suất của đồng tiền mình vay vào thời điểm thời hạn, trong khi SWAP còn có hiệu lực. Với các loại lãi suất thay đổi hay cố định được trao đổi theo SWAP, NHTM có thể thực hiện sử dụng hình thức này nhằm phòng tránh rủi ro về lãi suất có hiệu quả. Vậy NHNN nên quy định hình thức này vào " Quy chế giao dịch hối đoái " đồng thời không nên quy định thời hạn tối đa của SWAP vì với SWAP có lãi suất cố định thì cần thời hạn tương đối dài.
- Về hình thức cho vay bằng ngoại tệ tài trợ xuất nhập khẩu : Hiện nay, NHNN không cho phép vay xuất khẩu bằng ngoại tệ. Tuy nhiên, hình thức này rất có lợi dựa vào các lý do sau:
+ Xét về khả năng thu hồi nợ khá đảm bảo nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu (trong khi cho vay để thanh toán L/C rất khó để tạo nguồn trả nợ lại bằng USD)
+ Hình thức cho này tạo cho khách hàng xuất khẩu có trạng thái ngoại tệ đóng tránh được rủi ro hối đoái. Bởi vì, ngoài USD, khách hàng còn vay ngoại tệ khác như : DEM, JPY, FRF ...
+ Nhà xuất khẩu không chỉ sử dụng nhân công và nhiên liệu trong nước mà có khi phải nhập khẩu một số vật tư, thiết bị từ bên ngoài.
- Quy định tỷ giá kỳ hạn :
NHNN hiện nay đang quy định cách tính tỷ giá kỳ hạn bằng cách khống chế mức tối đa được phép dựa trên tỷ giá giao ngay, được phép cộng với tỷ lệ % nào đó tuỳ theo từng kỳ hạn. Với quy định này, NHNN có thể kiểm soát chiều mất giá đồng Việt Nam. Tuy nhiên, tỷ giá kỳ hạn thực chất được tính toán dựa trên cơ sở chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền và tỷ giá giữa chúng tại thời điểm ký hợp đồng. Nếu một trong hai bên không tham gia sẽ bị thiệt hại, Điều mà không bên nào muốn. Vì vậy, để tiến dtới hoàn thiện thị trườnghối đoái ở Việt Nam. NHNN nên quy định cách tính tỷ giá kỳ hạn một cách tổng quát dựa trên chênh lệch lãi suất thay vì cách tính có tính hành chính hiện nay.
- NHNN cần nghiên cứu đưa ra những quy định cụ thể hơn về chế độ hoạch toán kế toán mới. Một số nghiệp vụ khác như: Giao dịch tương lai, giao dịch lựa chọn ... cũng cần được phát triển ngày càng hoàn thiện thị trường hối đoái ở Việt Nam.
Trong nền kinh tế mở các hoạt động liên quan đến một lượng ngoại tệ lớn và nhu cầu mua bán trao đổi ngoại tệ của họ trên thị trường rất đa dạng. Trong khi đó, sự hiểu biết về thực chất cũng như lợi ích của các doanh nghiệp
mua bán kỳ hạn hoán đổi còn thấp. Do vậy họ chỉ mua bán ngoại tệ với các NHTM dưới hình thức giao ngay hoặc chuyển khoản. Đây là điều khó khăn đối với ngân hàng trong việc mở rộng các loại hình dịch vụ.
3.3. Một số kiến nghị khác.
3.3.1. Việc niêm yết tỷ giá của NHCT Việt Nam hiện nay đang gây trở ngại đối với khu vực Đống Đa nói riêng trong giao dịch với khách hàng. Nhiều khi khách hàng đến giao dịch với chi nhánh vì chưa có tỷ gía nên họ phải chờ đợi, điều này không những tạo tâm lý không tốt cho họ mà còn ảnh hưởng tới công viêc kinh doanh của họ. Chính sự hạn chế này đã đẩy họ đến quyết định không giao dịch với ngân hàng mà giao dịch trên thị trường tự do. Bên cạnh đó, sự giới hạn này đã hạn chế việc nhận thức và tính nhạy bén của chi nhánh đối với việc tỷ giá lên xuống hàng ngày. Trên thị trường giá USD và các loại ngoại tệ khác thay đổi thường xuyên nếu như không nắm bắt được thực trạng biến động của thị trường thì việc đưa ra quyết định là rất khó khăn. Do đó, đề nghị NHCT Việt Nam xem xét vấn đề này nhằm tạo điều kiện cho các chi nhánh trong việc thanh toán, phân tích và có quyết định đúng đắn. Từ đó góp phần vào thực hiện mục tiêu chung của toàn hệ thống và các chi nhánh NHCT.
3.3.2. Kiểm soát trạng thái ngoại tệ kinh doanh.
Tuy NHCT Đống Đa không thuộc đối tượng báo cáo theo quyết định số 18/QĐ- NHNN7 nhưng việc kiểm soát trạng thái ngoại tệ đối với chi nhánh không phải là không quan trọng. Trong những năm qua, chi nhánh đã cố gắng thực hiện mục tiêu mua vào bao nhiêu bán hết bấy nhiêu để tránh xuất hiện trạng thái ngoại tệ. Vì vậy, để tiếp tục thực hiện mục tiêu này trong năm tháng cuối cùng của năm 2001 và những năm tiếp theo chi nhánh cần có kế hoạch mua bán sát với nhu cầu để hạn chế trạng thái ngoại tệ tránh tình trạng hình thành trạng thái ngoại tệ theo xu thế âm để tránh tình trạng khi qui đổi ngoại tệ ra đồng nội tệ sẽ bị lỗ khi bán ngoại tệ.
Kết luận
Bước vào thiên niên kỷ mới chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống Đa đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới . Những cơ hội này xuất phát từ những tháo gỡ , cởi mở khó khăn cho hoạt động ngân hàng nhà nước Việt Nam trong việc tiếp tục cơ cấu lại hệ thống ngân hàng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và đặc biệt là những chuyển biến tích cực , những khởi sắc của nền kinh tế Việt Nam .
Kinh doanh ngoại tệ là một mắt xích quan trọng trong hoạt động kinh doanh đối ngoại , rộng hơn là hoạt động kinh doanh chung của chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống Đa . Hoạt động kinh doanh ngoại tệ có hiệu quả cao sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động khác của ngân hàng phát triển như thanh toán quốc tế , hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu ...góp phần thực hiện thành công chiến lược kinh doanh của ngân hàng , đạt được các mục tiêu về lợi nhuận , khách hàng ,uy tín ... từ đó đưa ngân hàng tiến nhanh hơn trên con đường hội nhập cộng đồng ngân hàng thế giới .
Vì vậy việc tăng cường và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ là rất cần thiết đối với tất cả ngân hàng thương mại nói chung và Ngân Hàng Công Thương Đống Đa nói riêng .
Qua thời gian thực tập tại chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống Đa , trên cơ sở những kiến thức đã học và tình hình thực tế tại ngân hàng , em đã viết được bài viết này . Bài viết đề cập đến một số vấn đề sau:
Trình bày một cách hệ thống về cơ sở lý luận chung của hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong đó đã trình bày rõ khái niệm , các hình thức kinh doanh, sự cần thiết , các nhân tố ảnh hưởng của hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống Đa
Từ các phân tích trên , căn cứ vào phương hướng hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong thời gian tới , đã đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng và một số kiến nghị với Ngân Hàng Công Thương Việt Nam và Ngân Hàng Nhà Nước
Đó là những vấn đề mà bài viết của em đã đề cập vì hoạt động kinh doanh ngoại tệ khá phức tạp , còn nhiều mới mẻ , lại chịu sự quản lí chặt chẽ của nhà nước do đó , đưa ra được các giải pháp hoàn chỉnh không phải là vấn đề đơn giản mà đòi hỏi có sự nghiên cứu dần dần , cần có thời gian để rút kinh nghiệm . Vì thế trong giới hạn bài viết này chỉ là một đóng góp rất nhỏ trong việc nghiên cứu tìm kiếm giải pháp khả thi cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng . Để em có thể đóng góp một phần nhỏ nhoi này đó là nhờ sự hướng dẫn tận tình của cô giáo :TS Nguyễn Thị Hường và thầy giáo : Th.s Tạ Lợi , anh Lê Văn Khánh phòng tín dụng công nghiệp , các cô chú , anh chị ở Ngân Hàng Công Thương Đống Đa trong thời gian em thực tập . Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô , cô chú ,anh chị đã tận tuỵ hướng dẫn em trong thời gian qua .
Do trình độ có hạn bài viết của em chắc chắn còn nhiều vấn đề hạn chế , em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô , bạn bè để em có thể nâng cao tầm hiểu biết của mình và đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn
Hà nội, ngày 11 tháng 5 năm 2002
sinh viên : Cai Văn Tuấn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5593.doc