Hoàn thiện phân tích tài chính tại Công ty TNHH CABA

Tài liệu Hoàn thiện phân tích tài chính tại Công ty TNHH CABA: ... Ebook Hoàn thiện phân tích tài chính tại Công ty TNHH CABA

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1408 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện phân tích tài chính tại Công ty TNHH CABA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH ---------@&?--------- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP Đề tài: HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY TNHH CABA Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS. VŨ DUY HÀO Sinh viên thực hiện : HÀ THANH BÌNH Lớp : TÀI CHÍNHK36 HÀ NỘI - 2008 MỤC LỤC Danh môc b¶ng biÓu Bảng 1- Bảng cân đối kế toán của công ty TNHH CABA ngày 31/12/2005 - 31/12/2007 29 Bảng 2-Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty TNHH CABA trong giai đoạn 2005-2007 31 Bảng 3- Phân tích khả năng thanh toán của công ty TNHH CABA 34 Bảng 4– phân tích khả năng cân đối vốn của công ty TNHH CABA 38 Bảng5 - Phân tích khả năng hoạt động của công ty TNHH CABA Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: 46 Bảng 6 -Phân tích khả năng sinh lời công ty TNHH CABA 48 Bảng 7-Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty TNHH CABA 49 Bảng 8 - Doanh lợi vốn chủ sở hữu công ty TNHH CABA 52 Bảng 9-Bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn của công ty TNHH CABA 54 Bảng 10-Tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của công ty TNHH CABA 57 LỜI MỞ ĐẦU Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại, đứng vững và ngày càng phát triển, đòi hỏi phải có một tiềm lực tài chính mạnh mẽ để tiến hành sản xuất kinh doanh và cạnh tranh có hiệu quả. Mặt khác, theo đà phát triển của nền kinh tế, các mối quan hệ kinh tế tài chính ngày càng trở nên phong phú và phức tạp. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải thường xuyên tiến hành công tác phân tích tài chính và không ngừng hoàn thiện công tác này, trên cơ sở đó, định hướng cho các quyết định nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thực tiễn đã chứng minh, nếu các nhà quản trị doanh nghiệp quan tâm đúng mức tới công tác phân tích tài chính thì họ sẽ có những quyết định đúng đắn và có nhiều cơ hội thành đạt trong kinh doanh, ngược lại họ sẽ khó tránh khỏi những quyết định tài chính sai lầm và thất bại. Công tác phân tích tài chính của công ty đã bước đầu được quan tâm và có nhiều tiến bộ, tuy nhiên vẫn không tránh khỏi những khó khăn và hạn chế. Nhận thức được tầm quan trọng của phân tích tài chính, nghiên cứu thực trạng công tác phân tích tài chính của công ty, sau thời gian thực tập tại Công ty, được sự giúp đỡ của ban giám đốc, các cô chú, anh chị trong Công ty và thầy giáo hướng dẫn PGS. TS VŨ DUY HÀO em đã chọn đề tài : “Hoàn thiện phân tích tài chính tại Công ty TNHH CABA” để làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình . Em xin chân thành cảm ơn các cô, các chú, các anh chị trong Công ty và thầy giáo PGS. TS V Ũ DUY HÀO đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CƠ BẢN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.1. HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH CƠ BẢN CỦA DOANH NGHIỆP Một doanh nghiệp muốn hoạt động sản xuất kinh doanh, cần có một lượng tài sản phản ánh bên tài sản trên bảng cân đối kế toán. Nếu như toàn bộ tài sản do doanh nghiệp nắm giữ được đánh giá tại một thời điểm nhất định thì sự vận động của chúng chỉ có thể được xác định cho một thời kỳ nhất định, được phản ánh trên Báo cáo kết quả kinh doanh. Quá trình hoạt động của các doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể về quy trình công nghệ, tính chất hoạt động. Sự khác biệt này phần lớn là do đặc điểm kinh tế và kỹ thuật của từng doanh nghiệp quyết dịnh. Người ta có thể khái quát những nét chung nhất của các doanh nghiệp bằng hàng hoá, dịch vụ đầu vào và hàng hoá, dịch vụ đầu ra. Hàng hoá và dịch vụ (mua vào) Sản xuất - chuyển hoá Hàng hoá và dịch vụ (bán ra) Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ có một loại tài sản đặc biệt - đó là tiền. Chính dự trữ tiền cho phép doanh nghiệp mua các hàng hoá, dịch vụ cho mục đích trao đổi. Mọi quá trình trao đổi được thực hiện thông qua trung gian là tiền, khái niệm dòng vật chất và dòng tiền phát sinh từ đó, tức là sự dịch chuyển hàng hoá và dịch vụ, sự dịch chuyển tiền giữa các đơn vị, tổ chức kinh tế. Như vậy, tương ứng với dòng vật chất đi vào (hàng hoá và dịch vụ đầu vào) là dòng tiền đi ra; ngược lại. Quy trình này được mô tả qua sơ đồ sau Dòng vật chất đi vào Dòng tiền đi ra (xuất quỹ) Sản xuất chuyển hoá Dòng vật chất đi ra Dòng tiền đi vào (nhập quỹ) Doanh nghiệp thực hiện hoạt động trao đổi hoặc với thị trường cung cấp hàng hoá và dịch vụ đầu vào hoặc với thị trường phân phối, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ đầu ra và tuỳ thuộc vào tích chất hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Các quan hệ tài chính của doanh nghiệp được quyết định sự vận hành của sản xuất và làm thay đổi cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Phân tích các quan hệ tài chỉnh của doanh nghiệp cần dựa trên hai khái niệm căn bản là dòng và dự trữ. Quan hệ giữa dòng và dự trữ là cơ sở nền tảng của tài chính doanh nghiệp. Tùy thuộc vào bản chất khác nhau của các dòng và dự trữ, người ta phân biệt dòng tiền đối trọng và dòng tiền độc lập. - Dòng tiền đối trọng Dòng tiền đối trọng trực tiếp: Là dòng tiền chỉ xuất hiện đối trọng với dòng hàng hoá và dịch vụ. Đây là trường hợp đơn giản nhất trong doanh nghiệp – thanh toán ngay. Tại thời điểm t0 mỗi doanh nghiệp có trong tay những tài sản thực và tiền. Giả sử hoạt động trao đổi diễn ra giữa hai doanh nghiệp A và B tại thời điểm t1: Tại thời điểm này, doanh nghiệp A trao đổi tài sản thực cho danh nghiệp B (bán hàng cho doanh nghiệp B) để lấy tiền (một dòng vật chất đi từ doanh nghiệp sang doanh nghiệp B), còn doanh nghiệp B chuyển tiền cho A (mua hàng của doanh nghiệp A) để lấy hàng (một dòng tiền đi từ doanh nghiệp B sang doanh nghiệp A). Dòng tiền đối trọng có kỳ hạn: Đây là trường hợp phổ biến nhất trong hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp A bán hàng hoá và dịch vụ cho doanh nghiệp B ở thời điểm t1, doanh nghiệp B trả tiền cho doanh nghiệp A ở thời diểm t2. Dòng tiền ở thời điểm t2 tương ứng với dòng hàng hóa và dịch vụ ở thời điểm t1. Ở trạng thái cân bằng này được lâp lại thông qua việc tạo ra một tài sản tài chính tức là quyền sử dụng hợp pháp một trái quyền (quyền đòi nợ) hoặc một khản nợ. Trong trường hợp này, dự trữ tài sản thực của doanh nghiệp A bị giảm đi, nhưng đổi lại, doanh nghiệp A có một trái quyền đối với doanh nghiệp B trong thời gian t1-t2 cho tới lúc dòng tiền xuất hiện ở thời điểm t2. Đối với doanh nghiệp B, việc nắm giữ một tài sản thực đã là phát sinh một khoản nợ cho đến khi dòng tiền xuất hiện ở thời điểm t2, cặp Trái quyền - Nợ được giải quyết một cách trọn vẹn. Dòng tiền đối trọng đa dạng: Để khắc phục sự mất cân đối ngân quỹ, đảm bảo khả năng chi trả thông qua thiết lập ngân quỹ tối ưu, doanh nghiệp có thể chiết khấu, nhượng bán trái quyền cho một tổ chức tài chinh trung gian hoặc dùng trái quyền như một tài sản thế chấp cho một món vay tuy theo những điều kiện cụ thể. Như vậy, tài sản tài chính – trái quyền – có thể làm đối tượng giao dịch. Đây là một hiện tượng quan trọng và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. - Dòng tiền độc lập Đây là dòng tiền phát sinh từ các nghiệp vụ tài chính thuần tuý: Kinh doanh tiền và kinh doanh chứng khoán. Như vậy, sự ra đời, vận hành và phát triển của doanh nghiêp làm phát sinh một hệ thống các dòng hàng hoá, dịch vụ và các dòng itèn, chúng thường xuyên làm thay đổi khối lượng, cơ cấu tài sản thực, tài sản tài chính (trái quyền và nợ) của doanh nghiệp 1.2. PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.2.1. Khái niệm Phân tích tài chính doanh nghiệp là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ để thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp, nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp 1.2.2. Tổ chức công tác phân tích 1.2.2.1. Thu thập thông tin Nhà Phân tích tài chính sử dụng nguồn thông tin có khả năng lý giải và thuyết minh thực trạng hoạt động tài chình doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình dự đoán thông tin bên ngoài, những thông tin kế toán và thông tin quản lý khác, những thông tin về số lượng và giá trị… trong đó các thông tin kế toán phản ánh tập trung trong các báo cáo tài chính doanh nghiệp là những nguồn thông tin đặc biệt quan trọng. Do vậy, phân tích tài chính trên thực tế chủ yếu là phân tchs các báo cáo tìa chính doanh nghiệp. 1.2.2.2. Xử lý thông tin Giai đoạn này tiếp theo cảu phânt ích tài chình là quá trình xử lsy thông tin đã thu thập đựôc. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở các góc độ nghiên cứư, ứng dụng khác nhau, có phương páhp xử lsy thông tin khac nhau phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt ra : xử lý thông tin là quá trình sắp xếp các thông tin theo những mục tiêu nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định nguyên nhân của các kết quả đã đạt đựơc phụ vụ cho quá trình dự đoán và quyết định. 1.2.2.3. Dự đoán và quyết định Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn ị những tiền đè và điều kiện cần thiết để người sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và đưa ra các quyêt định tài chính. Có thể nói, mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra các quyêtds định tìa chính. Đối với chủ doanh nghiệp phân tích tài chính nhằm đưa ra các quyết định liên quan tới mục tiêu hoạt động caảudoanh nghiệp là tăng trưởng, phát triển, đối đa hoá lợi nhuận hay tối đa hoá giá trị xí nghiệp. Đối với người cho vay và đầu tư vào doanh nghiệp thì đưa ra các quyết định về tài trọ và đầu tư; đối với cấp trên cảu doanh nghiệpp đaư ra các quyết định quản lý doanh nghiệp… 1.2.3. Phương pháp phân tích Trên lý thuyết thì có rất nhiều phương pháp để phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp nhưng thực tế người ta thường sử dụng hai phương pháp phân tích đó là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ. Phương pháp phân tích để đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp bao gồm hệ thống các công cụ và biện pháp tiếp cận và nghiên cứu các sự vật hiện tượng, các mối quan hệ bên trong, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. 1.2.3.1. Phương pháp so sánh Để áp dụng phương pháp này cần đảm bảo tính so sánh của các chỉ tiêu tài chính là phải thống nhất về thời gian, không gian, nội dung, tính chất, đơn vị tính… Có hai cách so sánh đó là so sánh dọc và so sánh ngang. Trong đó, so sánh dọc để xác định tỷ lệ và quan hệ tương tác giữa các chỉ tiêu làm nổi bật mối quan hệ giữa các khoản mục trong tổng số, so sánh ngang xác định chiều hướng biến động của các chỉ tiêu. 1.2.3.2. Phương pháp tỷ lệ Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Về mặt nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định được các các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu. Để đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị tham chiếu. Chúng ta không thể đánh giá một cách chính xác về thực trạng tài chình của một doanh nghiệp qua một phương pháp. Do vậy, việc kết hợp hài hoà hai biện pháp so sánh và tỷ lệ cho phép người phân tích thấy rõ được thực chất của hoạt động tài chính và xu hướng biến động từng chỉ tiêu tài chính trong doanh nghiệp qua các giai đoạn khác nhau. Mục tiêu cuối cùng của việc phân tích, đánh gía các hệ số tài chính là tìm ra được mối liên hệ giữa các hệ số tài chính. Để rút ra những điểm mạnh, điểm yếu trong công tác quản lý tài chính ở doanh nghiệp. 1.2.4. Nội dung phân tích 1.2.4.1. nội dung phân tích, đánh giá thực trạng tài chính doanh nghiệp * Đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp. Đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp sẽ giúp ta có một cách nhìn tổng quát nhất về thực trạng tài chính của doanh nghiệp trong kì kinh doanh có khả quan hay không khả quan. Điều đó giúp cho ta thấy rõ thực chất của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và dự đoán được chiều hướng suy thoái hay khả năng phát triển của doanh nghiệp, từ đó rút ra đươc những kinh nghiêm để đưa ra những giải pháp hữu hiệu để quản lý. Doanh nghiệp nào cũng bắt buộc phải có bản Báo cáo tài chính vì đó là một tài liệu rất quan trọng và cần thiết đối với việc quản trị trong doanh nghiệp nó còn là nguồn thông tin hữu ích đối với khách hàng và những người quan tâm đến doanh nghiệp: chủ sở hữu nhà đầu tư, người lao động, cơ quan quản lý…Vì vậy việc phân tích tình hình doanh nghiệp trước hết là bắt đầu từ phân tích báo cáo tài chính mà chủ yếu là đi sâu phân tích Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh. - Đánh giá khái quát tình hình tài sản và nguồn vốn. Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp, mô tả tình hình tài chính của doanh nghiệp, phản ánh một cách khái quát toàn bộ giúp ta nắm bắt được tài sản hiện có trong doanh nghiệp theo hai cách phân loại tài sản và nguồn hình thành tài sản tại một thời điểm nhất định nào đó. Chính vì vậy các số liệu phản ánh trên Bảng cân đối kế toán đó chình là tài liệu chủ yếu khi phân tích tài sản, nguồn vốn và kết cấu tài sản, nguồn vốn. Đây là một bài báo cao có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nghiên cứu, đánh giá khái quát tình hình tài chính, trình độ quản lý, sử dụng vốn và triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp giúp ta có định hướng cho việc nghiên cứu, phân tích tiếp theo. Chình vì vậy, khi sử dụng Bảng cân đối kế toán để phân tích đánh giá khái quát tình hình tài sản, nguồn vốn của một doanh nghiệp, ta cần nắm bắt, xác định và nghiên cứu các vấn đề cơ bản sau: + Nắm bắt được sự biến động của tổng tài sản cũng như của từng loại tài sản cả về số tuyệt đối và số tương đối thông qua việc so sánh giữa số cuối kì với số đầu năm. Giúp ta thấy được sự biến động về quy mô kinh doanh, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp. + Nắm bắt được cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp xem có hợp lý không, nó có tác động như thế nào đến quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Ta cần tiến hành xác định tỷ trọng của từng loại tài sản trong tổng tài sản song song với việc so sánh tỷ trọng của từng loại giữa cuối kì với đầu năm để thấy được sự biến động của cơ cấu vốn trong doanh nghiệp. Để việc phân tích, đánh giá có được sự phát huy tác dụng thì ta phải chú ý đến tính chất ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp song song với việc kết hợp và xem xét tác động của từng loại tài sản đến quá trình kinh doanh và hiệu quả kinh doanh đạt được trong kì. Chỉ như vậy mới có thể đưa ra quyết định hợp lý về phân bổ vốn cho từng giai đoạn, từng loại tài sản của doanh nghiệp. + Đánh giá khái quát khả năng tự tài trợ về mặt tài chính của doanh nghiệp, xác định mức độ độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc so sánh từng loại nguồn vốn giữa cuối kì với đầu năm cả về số tuyệt đối tương đối. Nếu trong doanh nghiệp có nguồn vốn của chủ sở hữu chiếm tỷ trọng cao và có xu hướng tăng trong tương lai thì điều này cho thấy khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính của doanh nghiệp cao và ngược lại. Tuy nhiên trong quá trình xem xét cũng cần để ý đến chính sách tài trợ của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh mà doanh nghiệp đạt được, những thuận lợi, khó khăn trong tương lai mà doanh nghiệp có thể gặp phải. + Nắm bắt được mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán, như: tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn, tài sản dài hạn so với nguồn vốn chủ sở hữu và vay dài hạn. Thông thường nguồn vốn chủ sở hữu và vốn vay dài hạn tài chợ cho tài sản dài hạn còn tài sản ngắn hạn thì được tài trợ bởi nguồn vốn vay ngắn hạn. Do đó nếu tài sản dài hạn nhỏ hơn vốn chủ sở hữu và vay dài hạn, nợ ngắn hạn nhỏ hơn tài sản ngắn hạn thì tình hình tài chính của công ty là tốt. Như vậy, Bảng cân đối kế toán chỉ giúp ta biết một cách khái quát về kết cấu tài sản và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp. Để thấy được hoạt động của doanh nghiệp đạt kết quả như thế nào qua thực tế của tài sản và nguồn vốn hiện có ta cần phải tiến hành đánh giá khái quát kết quả hoạt động kinh doanh cuả doanh nghiệp. - Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh một thông tin không kém phần quan trọng được sử dung trong phân tích tài chính nó là một bản báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời cũng như tình hình thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp với Nhà nước trong một thời kì nhất định. Số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh cung cấp những thông tin tổng hợp về phương thức kinh doanh, về việc sử dụng những tiềm năng về vốn, lao động, kĩ thuật, quản lý của doanh nghiệp và chỉ ra rằng các hoạt động kinh doanh đó có giúp ta đem lại lợi nhuận hay gây ra tình trạng thua lỗ cho doanh nghiệp. - Thông qua các chỉ tiêu trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, giúp chúng ta kiểm tra, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, dự toán chi phí sản xuất, giá vốn, doanh thu, sản phẩm, vật tư, hàng hoá đã tiêu thụ; tình hình chi phí, thu nhập của hoạt động khác và kết quả kinh doanh sau 1 kỳ kế toán. - Thông qua Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể đánh giá xu hướng phát triển của doanh nghiệp qua các kì khác nhau, dự tính xem doanh nghiệp sẽ hoạt động ra sao trong tương lai. - Thông qua Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giúp ta kiểm tra tình hình thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước về các khoản thuế và các khoản phải nộp khác. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cần phân tích, xem xét sự biến động của từng chỉ tiêu trên phần lãi lỗ của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giữa kỳ này với kỳ trước dựa vào việc so sánh cả về số tuyệt đối và tương đối trên từng chỉ tiêu. Đặc biệt cần chú ý đến sự biến động của các chỉ tiêu: doanh thu thuần, tổng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế. Đồng thời phải tìm ra nguyên nhân của việc tăng giảm đó để có được những quyết định đúng đắn trong kỳ tới. * Phân tích các nhóm chỉ tiêu đặc trưng phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp. Qua đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp đã cho thấy một cái nhìn tổng quát về doanh nghiệp. Nhưng các số liệu báo cáo tài chính đó chưa thể hiện hết được thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Muốn có cái nhìn sâu sắc, cụ thể hơn về những ưu điểm, hạn chế trong tài chính thì cần thiết phải đi vào xem xét, phân tích các hệ số tài chính đăc trưng của doanh nghiệp. Ta có thể coi các hệ số tài chính là những biểu hiện đặc trưng nhất về tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Vì mỗi doanh nghiệp khác nhau có các hệ số tài chính khác nhau, có khi trong một doanh nghiệp ở những thời điểm khác nhau cũng có hệ số tài chính không giống nhau.. 1.2.4.2. Đánh giá khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn Sức mạnh tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khả năng chi trả các khoản cần phải thanh toán. Khả năng thanh toán là vấn đề hết sức quan trọng trong các vấn đề tài chính của doanh nghiệp và tạo sự quan tâm của nhà quản trị, chủ sở hữu và đặc biệt đối với người cho vay, nhà đầu tư. Họ luôn quan tâm đên vấn đề: Liệu doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn không? Tình hình thanh toán của doanh nghiệan ra sao? Để trả lời các câu hỏi đó cần sử dụng một số chỉ tiêu sau để phân tích đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp: *Hệ số khả năng thanh toán tổng quát: bằng tổng tài sản chia cho tổng nợ phải trả Hệ số khả năng thanh toán tổng quát phản ánh mối quan hệ giữa Tổng tài sản mà hiện nay doanh nghiệp đang quản lý với Tổng nợ phải trả. Nếu hệ số này nhỏ hơn 1 thể hiện những khó khăn tài chính của doanh nghiệp, doanh nghiệp đang có nguy cơ phá sản. Vốn chủ sở hữu là một số âm, tổng tài sản doanh nghiệp hiện có không đủ để trả số nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán. Khi chỉ tiêu này lớn hơn 1 cho thấy tổng tài sản của doanh nghiệp có dư sức để thanh toán hết các khoản nợ hiện tại. *Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn ( hệ số khả năng thanh toán hiện thời ): chính bằng tài sản lưu động chia cho nợ ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn phản ánh mức độ đảm bảo của tài sản ngắn hạn với các khoản nợ phải trả trong kỳ. Tính hợp lý của hệ số này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh. Dấu hiệu báo trước các khó khăn tài chính của doanh nghiệp là giá trị của hệ số giảm cho thấy khả năng trả nợ giảm. Ngược lại, hệ số này cao cho thấy khả năng thanh khoản cao. Nhưng nếu giá trị của hệ số khả năng thanh toán hiện thời quá cao sẽ là dấu hiệu của việc doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động hoặc quản trị tài sản lưu động không hiệu quả làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn phản ánh không chính xác khả năng thanh khoản vì nếu hàng tồn kho trong doanh nghiệp là hàng khó bán thì khó chuyển thành tiền để trả nợ. Vì vậy cần quan tâm đến hệ số khả năng thanh toán nhanh. *Hệ số khả năng thanh toán nhanh: bằng tài sản ngắn hạn trừ hàng tồn kho sau do chia cho nợ ngắn hạn Hệ số khả năng thanh toan nhanh giúp phản ánh khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ đến hạn trong kỳ, cho biết khả năng thanh khoản thực sự của doanh nghiệp vì nó đã loại đi bộ phận chậm chuyển thành tiền nhất, đó là bộ phận hàng tồn kho. Nếu hệ số lớn hơn hoặc bằng 1 cho thấy doanh nghiệp đủ hoặc thừa khả năng đảm bảo thanh toán đúng hạn các nghĩa vụ tài chính với các chủ thể có liên quan. Đây là dấu hiệu thể hiện sự phát triển về mặt tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu hệ số này quá cao thì cần phảỉ xem xét lại vì có thể trong tài sản ngắn hạn có bộ phận các khoản phải thu là khó thu hồi nhất và nếu nó quá lớn sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. *Hệ số vốn bằng tiền: bằng tiền và các khoản tương đương tiền chia cho nợ ngắn hạn Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán gần như tức thời các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp mà không cần chuyển đổi các tài sản ngắn hạn. Nếu hệ số vốn bằng tiền nhỏ chứng tỏ doanh nghiệp gặp khó khăn trong thanh toán công nợ. Nhưng hệ số này quá cao lại phản ánh một tình hình không tốt là vốn bằng tiền quá nhiều, ứ đọng vốn, vòng quay vốn chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Hệ số này bao nhiêu là tốt nhất là phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh, kỳ hạn thanh toán của các khoản nợ trong kỳ. *Hệ số nợ: bằng nợ phải trả chia cho tổng nguồn vốn Hệ số này phản ánh trong một đồng vốn hiện nay doanh nghiệp đang sử dụng có mấy đồng vốn vay nợ và nó xác định nghĩa vụ của doanh nghiệp chủ nợ trong việc góp vốn. Thường thì các chủ nợ thích hệ số nợ vừa phải bởi vì hệ số này mà càng thấp thì các khoản nợ của họ càng được đảm bảo khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Tuy nhiên chủ doanh nghiệp lại ưa thích hệ số nợ cao vì họ được sử dụng lượng vốn lớn mà chỉ phải đầu tư một lượng vốn nhỏ. Qua đó, các nhà tài chính sử dụng nó như một chính sách làm gia tăng lợi nhuận hay còn gọi là đòn bẩy tài chính. Nhưng việc sử dụng nhiều nợ như con dao hai lưỡi. Hệ số này càng cao thì rủi ro tài chính của doanh nghiệp càng cao, với lại tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu càng lớn và ngược lại, trong trường hợp doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả có thể dẫn đến tình trạng phá sản. *Hệ số khả năng thanh toán lãi vay: bằng lợi nhuận trước lãi vay và thuế chia cho lãi vay phải trả trong kỳ Hệ số này cho biết hiệu quả sử dụng vốn vay của doanh nghiệp, vốn đi vay được sử dụng tốt đến mức độ nào và đem lại một khoản lợi nhuận là bao nhiêu, có đủ bù đắp lãi vay phải trả hay không? Nhưng trong phân tích, đánh giá không thể so sánh chỉ tiêu này một cách đơn giản vì nó phụ thuộc trực tiếp vào khả năng độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp. Trong đó Lãi vay phải trả là một khoản chi phí cố định. Nguồn để trả lãi vay là lợi nhuận trước thuế và lãi vay. *Khả năng độc lập vể tài chinh: Nó phản ánh khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp bằng nguồn vốn chủ sở hữu của mình để đầu tư vào tài sản cố định. Nếu tỷ suất tự tài trợ tài sản cố định lớn hơn 1 cho thấy doanh nghiệp có khả năng tài chính vững mạnh. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 cho thấy một phần tài sản cố định của doanh nghiệp được tài trợ bằng nợ vay và rất mạo hiểm khi đó là vốn vay dài hạn. Vì tài sản cố định trong thời gian ngắn khó có thể nhanh chóng chuyển thành tiền để thanh toán cho các khoản nợ tới hạn. Do đó khả năng rủi ro của bộ phận tài sản này càng cao. 1.2.4.3. Đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh Việc sử dụng vốn một cách hiệu quả là một vấn đề chủ chốt gắn liền với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Người ta quan tâm đến việc doanh nghiệp sử dụng các yếu tố đầu vào như thế nào để đạt được kết quả cao nhất và chi phí thì thấp nhất. Thông qua việc phân tích các chỉ tiêu về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ có tác dụng đo lường năng lực quản lý, tình hình sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp có hiệu quả như thế nào. * Số vòng quay hàng tồn kho: bằng giá vốn hàng bán trong kỳ chia cho hàng tồn kho bình quân trong kỳ Số vòng quay hàng tồn kho phản ánh số lần hàng tồn kho luân chuyển trong kỳ, cho thấy tình hình mua sắm dự trữ, sử dụng vật tư, tình hình tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Thường thì chỉ tiêu này càng cao càng tốt vì chỉ số này thể hiện tốc độ luân chuyển vốn hàng hoá. Không chỉ như vậy, nó còn cho thấy chất lượng, chủng loại hàng hoá kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu thị trường. Nhưng nếu chỉ tiêu này quá cao hoặc tăng đột biến lại phản ánh việc doanh nghiệp không dự trữ đủ nguyên vật liệu cho kỳ sản xuất tiếp theo hoặc không dự trữ đủ hàng để bán cho kỳ sau. Nó sẽ gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ không đáp ứng kịp thời các đơn đặt hàng, làm mất uy tín với khách hàng. Nhưng nếu chỉ tiêu này quá thấp chứng tỏ doanh nghiệp bị ứ đọng vốn trong khâu hàng tồn kho. Doanh nghiệp cần soát xét lại các khâu mua, dự trữ nguyên vật liệu, tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy việc nghiên cứu độ lớn của vòng quay hàng tồn kho phải có sự kết hợp xem xét các yếu tố: ngành kinh doanh, mùa vụ, thời điểm nghiên cứu... *Số ngày của một vòng quay hàng tồn kho: bằng số ngày trong kỳ chia cho số vòng quay hàng tồn kho Chỉ tiêu này phản ánh số thời gian cần thiết để vốn vật tư hàng hoá quay được một vòng. Số ngày càng ít thì vòng quay hàng tồn kho càng nhanh, vốn vật tư hàng hoá luân chuyển nhanh, không bị ứ đọng vốn. Nhưng nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ vốn bị ứ đọng, hiệu quả sử dụng vốn thấp. *Vòng quay các khoản phải thu: bằng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ (có thuế) chia cho số dư bình quan các khoản phải thu Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt của doanh nghiệp. Số vòng quay càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu nhanh. Doanh nghiệp sẽ hạn chế được lượng vốn bị chiếm dụng và không phải đầu tư nhiều vào việc thu hồi các khoản phải thu. Nhưng nếu số vòng quay các khoản phải thu nhỏ và có xu hướng giảm dần chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu là chậm, dễ dẫn đến doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn, kéo dài thời gian thu, làm đình trệ hoạt động sản xuất kinh doanh và rủi ro tài chính của doanh nghiệp cũng tăng lên. *Kỳ thu tiền bình quân: bằng số ngày trong kỳ chia cho Số vòng quay các khoản phải thu Chỉ tiêu này phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu. Số ngày trong kỳ thu tiền bình quân thấp cho thấy doanh nghiệp không bị ứ đọng vốn trong khâu thanh toán, không gặp phải những khoản nợ khó đòi. Ngược lại kỳ thu tiền bình quân càng cao cho thấy doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài, ảnh hưởng không tốt đến khả năng thu hồi vốn trong thanh toán . Tuy nhiên, kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp trong nhiều trường hợp chưa thể đưa ra kết luận chắc chắn, mà để đánh giá chính xác được cần phải xem xét các mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp như: chính sách bán hàng chịu, chiến lược kinh doanh mở rộng thị phần, đặc điểm kinh doanh, tính chất thời vụ, khả năng tài chính của doanh nghiệp… *Số ngày một vòng quay vốn lưu động: bằng số trong kỳ chia cho số vòng quay vốn lưu động Chỉ tiêu này phản ánh bình quân một vòng quay của vốn lưu động hết bao nhiêu ngày. Nếu chỉ tiêu này thấp là tốt vì như vậy vốn lưu động trong doanh nghiệp không bị ứ đọng. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này mà cao thì cho thấy vốn lưu động bị ứ đọng, bị chiếm dụng dễ dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp. Nhưng nếu để đưa ra kết luận chắc chắn cần phải xem xét đặc điểm ngành nghề kinh doanh của từng doanh nghiệp *Số vòng quay vốn lưu động: bằng doanh thu thuần trong kỳ chia cho VLĐ bình quân Chỉ tiêu này phản ánh trong kỳ vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng nhằm đo lường hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Tức là doanh nghiệp cứ đầu tư bình quân một đồng vốn lưu động trong kỳ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Số vòng quay vốn lưu động càng lớn cho thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao vì hàng hoá tiêu thụ nhanh, vật tư tồn kho thấp…làm tiết kiệm chi phí, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. Ngược lại, nếu hệ số này thấp có thể do tiêu thụ hàng hoá chậm, vật tư tồn kho nhiều hoặc do tiền mặt tồn quỹ nhiều, số lượng các khoản phải thu lớn. Do đó, doanh nghiệp cần xem xét, cân nhắc một tỷ lệ dự trữ vừa phải, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, vừa tiết kiệm vốn nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. *Hiệu suất sử dụng vốn cố định: bằng Doanh thu thuần chia cho Vốn cố định bình quân Chỉ tiêu này để đo lường việc sử dụng vốn cố định đạt hiệu quả như thế nào. Tức là, doanh nghiệp cứ đầu tư trung bình một đồng vốn cố định thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Nếu hệ số này cao phản ánh tình hình hoạt động tốt của doanh nghiệp đã tạo ra doanh thu thuần cao so với tài sản cố định, khả năng sử dụng hữu hiệu các tài sản. Ngược lại, tỷ số này thấp thì doanh nghiệp cần phải phân loại tài sản để đánh giá hiệu quả sử dụng của từng loại giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng, giải quyết những tài sản cố định dôi dư không sử dụng đến. 1.2.4.4. Phân tích đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp Các chỉ tiêu về khả năng sinh lời luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của đa số các nhà đầu tư, nhà tín dụng vì nó gắn liền với lợi nhuận của họ cả trong hiện tại lẫn tương lai. Nó luôn luôn được các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp quan tâm vì nó phản ánh một cách tổng quát nhất hiệu quả hoạt động kinh doanh và năng lực quản lý doanh nghiệp trong một kỳ nhất định, nó còn là luận cứ quan trọng để các nhà hoạch định chiến lược đưa ra các quyết định tài chính trong tương lai. *Tỷ suất lợi nhuận doanh thu: bằng Lợi nhuân trước thuế (sau thuế) chia cho Doanh thu thuần Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu mà doanh nghiệp thu được trong kỳ thì có mấy đồng lợi nhuận. Nhìn chung, tỷ suất này càng thì cao càng tốt, nhưng không phải lúc nào giá trị của nó cao cũng tốt cả. Vì nếu tỷ suất lợi nhuận doanh thu cao do tiết kiệm chi phí khiến giá thành giảm mới là tốt, còn nếu._. cao do giá bán tăng trong điều kiện cạnh tranh không thay đổi thì không phải là điều tốt nữa vì khi đó tính cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ bị giảm xuống. Do vậy, để đưa ra kết luận chính xác cần phải đặt nó trong mối quan hệ ngành, các doanh nghiệp trong ngành và với các năm trước khi xem xét. *Tỷ suất sinh lời của tài sản: Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của việc đầu tư vào tài sản kinh doanh trong kỳ: Khi sử dụng một đồng tài sản bình quân sẽ tạo ra được mấy đồng lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Đây là chỉ tiêu được các chủ nợ, các ngân hàng chú trọng quan tâm đến vì nó cho thấy khả năng trả nợ vay của doanh nghiệp. *Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh: bằng Lợi nhuận trước thuế (sau thuế) chia cho Vốn kinh doanh bình quân Chỉ tiêu này phản ánh mức độ sinh lời của vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong kỳ: Cứ một đồng vốn bình quân thì doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế hay sau thuế. Tỷ suất này mà cao chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có lãi và ngược lại. Để có những hiểu biết chi tiết và chính xác hơn hiệu quả sử dụng vốn thì cần thiết đi vào việc phân tích phương trình Dupont: Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh bằng Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu nhân với Vòng quay toàn bộ vốn kinh doanh Như vậy để tăng lợi nhuận sau thuế từ một đồng vốn kinh doanh thì cần tăng lợi nhuận sau thuế từ một đồng doanh thu hay tăng doanh thu từ một đồng vốn kinh doanh. *Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu: bằn Lợi nhuận sau thuế chia cho Vốn chủ sở hữu bình quân Chỉ tiêu này cho thấy một đồng vốn chủ sở hữu sẽ đưa ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Khi đánh giá chỉ tiêu này cần so sánh với chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh. Nếu chỉ tiêu này lớn hơn chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn vay hợp lý, hiệu quả. Ngược lại thì khi tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn vay kém hiệu quả, chi phí sử dụng vốn cao. Kết luận: đây là những lý luận rất tổng quát giúp ta tiếp cận vấn đề: phân tích đánh giá thực trạng tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính doanh nghiệp là công việc vừa đơn giản lại vừa phức tạp. Đơn giản bởi vì đó là những khuôn mẫu, kỹ thuật phân tích sẵn có, hoàn toàn có thể đưa những kết luận về tình hình tài chính doanh nghiệp dựa trên những số liệu được cung cấp. Phức tạp vì với cùng những công cụ đó trong tay, không phải ai cũng có thể đưa ra kết luận hoàn toàn chính xác về doanh nghiệp, từ đó đưa ra những dự báo, kế hoạch xác thực dựa trên những kết luận đó. Bài viết này đứng trên góc độ quản trị tài chính để đánh giá thực trạng tài chính của công ty TNHH CABA đồng thời đưa ra một số những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp dựa trên những phân tích đó. 1.2.5. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp Hoạt động tài chính là một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh và có mối quan hệ trực tiếp đến hoạt động kinh doanh. Tất cả hoạt động sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng tới tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tình hình tài chính tốt hay xấu có tác động thúc đẩy, kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, một doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển thâyt cần phải nắm rõ nó có những điểm mạnh, điểm yếu như thế nào để có những kế hoạch, những biện pháp để điều chỉnh kịp thời nhằm khắc phục những hạn chế và phát huy những mặt mạnh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đứng vững trên thị trường. Các nhà quản trị tài chính đã qua công tác phân tích đánh giá thực trạng tài chính để thấy được thực tại cũng như khả năng, triển vọng tài chính của doanh nghiệp để từ đó đưa ra các giải pháp kịp thời và hiệu quả giúp cải thiện tình hình tài chính hiện tại và tương lai của doanh nghiệp, qua đó để thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh phát triển. Hoạt động tài chính của mỗi doanh nghiệp phải được dự kiến trước thông qua việc lập kế hoạch. Trước khi lập kế hoạch tài chính cho doanh nghiệp, thì nhà quản trị tài chính phải nghiên cứu báo cáo tài chính kì thực hiện. Nhưng tất cả số liệu của kì thực hiện là những tài liệu có tính chất lịch sử và chưa thể hiện những nội dung mà người quan tâm đòi hỏi. Do đó nhà kế hoạch dự báo phải có những phân tích, đánh giá để đưa ra các quyết định tài chính cho tương lai dựa trên các thông tin có tính chất lịch sử đó. Cho nên phân tích, đánh giá thực trạng tài chính doanh nghiệp là hết sức cần thiết đối với nhà quản trị doanh nghiệp đồng thời cung cấp nguồn thông tin tài chính chủ yếu cho những người ở bên ngoài doanh nghiệp. Mục đích của việc phân tích, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp để giúp cho người sử dụng thông tin đánh giá chính xác sức mạnh tài chính của doanh nghiệp, khả năng sinh lời và triển vọng của doanh nghiệp như thế nào. Vì vậy việc phân tích tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với từng đối tượng quan tâm cụ thể ở cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. - Đối với nhà đầu tư: Đây là các đối tượng giao vốn của mình cho doanh nghiệp hoạt động. Cho nên, họ rất quan tâm đến triển vọng hoạt động, quản trị, cổ tức, khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Thông qua phân tích, đánh giá thực trạng tài chính, các nhà đầu tư biết được đồng vốn của mình bỏ ra có sinh lời được không, doanh nghiệp đã sử dụng số vốn đó như thế nào và khả năng rủi ro của đồng vốn bỏ ra là cao hay thấp để từ đó có thể đưa ra quyết định thích hợp về vấn đề cho vay vốn, thu hồi nợ và đầu tư vào doanh nghiệp. - Đối với nhà quản lý doanh nghiệp: Phân tích tình hình tài chính cung cấp những thông tin giúp cho nhà quản lý đánh giá được một cách chuẩn xác thực trạng tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh từ đó đưa ra các quyết định, các biện pháp tài chính đúng dắn. Bên cạnh đó, thông qua phân tích tài chính giúp cho người quản lý có thể kiểm soát kịp thời các mặt hoạt động của doanh nghiệp, đề ra các biện pháp nhằm khắc phục những khó khăn vướng mắc, khai thác tối đa những nguồn lực của doanh nghiệp nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong kinh doanh. Phân tích, đánh giá thực trạng tài chính là cơ sở vững chắc cho các dự đoán tài chính, giúp đặt ra các mục tiêu, kế hoạch cho tương lai. - Đối với cán bộ công nhân viên lao động trong doanh nghiệp: Đây là đối tượng có liên quan trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn thu nhập của họ là lương, thưởng, cổ tức… Vì vậy, tình hình tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của họ. Do đó họ cũng quan tâm đến việc đánh giá tình hình tài chính để có quyết định tiếp tục làm việc ở doanh nghiệp hay không. Ngoài ra, đây cũng là biện pháp giúp người lao động tham gia vào hoạt động kiểm soát doanh nghiệp, từ đó nâng cao ý thức, trách nhiệm, lòng say mê của họ với công việc. - Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước (cơ quan thuế, thanh tra tài chính, cơ quan thống kê…). Việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp giúp các cơ quan quản lý Nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xem xét doanh nghiệp có thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước hay không, có chấp hành đúng quy đinh pháp luật hay không…Đồng thời, qua đó, các cơ quan quản lý Nhà nước có thể đánh giá được những điểm mạnh, những hạn chế của doanh nghiệp từ đó đề ra cơ chế, chính sách tài chính phù hợp, tạo hành lang pháp lý lành mạnh cho các doanh nghiệp hoạt động, quản lý, hướng dẫn doanh nghiệp hoạt động, từ đó tăng tích luỹ cho doanh nghiệp cũng như cho nền kinh tế quốc dân. Như vậy, thông qua phân tích, đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp giúp cho người quản lý đưa ra các quyết định phù hợp, lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu để đạt được mục đích đề ra. Đồng thời nó là công cụ để đánh giá hoạt động kinh doanh, là một trong những chỉ dẫn tối ưu đối với các nhà quản lý, nhà đầu tư, người quan tâm đến doanh nghiệp. Do đó, phân tích tình hình tài chính trở nên cần thiết và đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết đối với tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường - một thị trường vốn được coi như một trận mạc thực sự, luôn chứa đựng đầy những cạnh tranh khốc liệt và tiềm ẩn trong lòng nó nhiều rủi ro, bất trắc. 1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.3.1. Các nhân tố chủ quan 1.3.1.1. Trình độ chuyên môn của cán bộ tham gia phân tích Đây là nhân tố rất quan trọng bởi vì hiệu quả của công tác phân tích tài chính phụ thuộc rất lớn vào khả năng của người cán bộ phân tích từ việc lựa chọn nguồn thông tin, cách tiến hành thu tập thông tin, phương thức sử dụng các công cụ kỹ thuật. Để đánh giá đúng được tình hình tài chính của doanh nghiệp đưa ra được thông tin phù hợp hiệu quả cho người sử dụng tất cả đều phụ thuộc vào sự hiểu biết, kinh nghiệm, trình độ thực sự lẫn phẩm chất đạo đức của cán bộ phân tích tài chính. 1.3.1.2. Chất lượng thông tin thu thập được dùng trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lượng phân tích tài chính vì nếu thông tin sử dụng không chính xác thì kết quả phân tích chỉ là hình thức không giúp ich gì cho việc đánh giá hay sử dụng thông tin đó. Do vậy, thông tin sử dụng trong phân tích tài chính là nền tảng của phân tích tài chinh và thông tin đó đòi hỏi phải thật chính xác rõ ràng và đầy đủ . 1.3.1.3. Việc lựa chọn phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp Trong điều kiện bây giờ phương pháp phân tích ngày càng được hoàn thiện hơn, có nhiều phương pháp mới rất hiệu quả như phương pháp Dupont, phương pháp toán kinh tế lượng… nhưng thực tế ở Việt Nam ta hiện nay vẫn chỉ dùng hai phương pháp truyền thống vì vậy kết quả thu được không phản ánh rõ nét tình hình tài chính dẫn đến chất lượng phân tích tài chính không cao. 1.3.1.4. Sự quan tâm của ban giám đốc doanh nghiệp Việt Nam là nước đang phát triển, việc phân tích tài chính ở các công ty không được chú trọng do ban lãnh đạo công ty chưa thấy hết được vai trò của phân tích tài chính dẫn đến công tác phân tích tài chính tại các doanh nghiêp mới chỉ thực hiện sơ sài chất lượng phân tích thấp không mang lại được hiệu quả như mong đợi. 1.3.2. Các nhân tố khách quan Đó chính là các yếu tố thuộc môi trường kinh tế vĩ mô: - Công nghệ tiên tiến và việc áp dụng các công nghệ vào sản xuất kinh doanh - Các chính sách của Nhà nước đề ra - Tác động từ các thị trường như thị trường tài chính, thị trường tỷ giá, lạm phát… CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CABA 2.1. TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY TNHH CABA 2.1.1. Tổng quan về công ty TNHH CABA Công ty CABA là một công ty công nghệ và dịch vụ đa ngành tập trung vào phân phối, tích hợp, và cung cấp các phụ tùng, phụ kiện, vật tư, máy và thiết bị điện, điện tử, cơ khí và tự động hoá cho các khách hàng tại Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. 2.1.1.1. Bối cảnh thành lập công ty TNHH CABA Sau khi tìm hiểu, nghiên cứu thị trường về nhu cầu vật tư thay thế của nhà máy sản xuất như xi măng, thép, thuỷ điện, nhựa, may mặc, cao su…Các thành viên sáng lập đã tìm hiểu các nhà cung cấp có thế mạnh và uy tín trên thế giới, đặc biệt là các tập đoàn lớn đến từ Châu Âu, Mỹ…chuyên cung cấp các loại vật tư thuộc các lĩnh vực máy móc, thiết bị vật tư công nghiệp, điện, điện tử, viễn thông, tự động hoá… 2.1.1.2. Tầm nhìn và sứ mệnh CABA Company cam kết luôn là nhà phân phối đem lại chất lượng sản phẩm tốt nhất cho khách hàng về các linh kiện, thiết bị và vật tư trong ứng dụng điện, điện tử, cơ khí, công nghiệp và tự động hoá đồng thời đáp ứng đầy đủ nhất nhu cầu sản xuất và kinh doanh của các khách hàng và nhà cung cấp. CABA Company cam kết làm động lực thúc đẩy sự hiện hữu của mình và những con người cống hiến cho sự phát triển của công ty - một tập thể đoàn kết mang lại những dịch vụ đẳng cấp cao tới khách hàng, sự am hiểu sâu sắc về thị trường, và các dịch vụ gia tăng đặc biệt ưu việt, để phát triển kinh doanh, doanh nghiệp và trở thành một kênh tin cậy cho các sản phẩm, giải pháp công nghiệp, cơ khí và tự động hoá cũng như các sản phẩm sản xuất và phân phối bởi công ty. 2.1.1.3. Phạm vi địa lý và chiến lược Cung cấp các dịch vụ tuỳ biến, những am hiểu chuyên biệt về sản phẩm và những kinh nghiệm trong ngành công nghiệp, tự động hoá và dịch vụ sản xuất để tạo nên thành công vượt chội của khách hàng và của nhà cung cấp. Các hoạt động của CABA được triển khai rộng khắp trên lãnh thổ Việt Nam, bao gồm cả ba miền Bắc – Trung – Nam, với sự tập trung chủ yếu vào các khu công nghiệp, khu chế xuất và các doanh nghiệp sản xuất. CABA cũng cố gắng phát triển và mở rộng các hoạt động kinh doanh thương mại và kỹ thuật sang các khu vực khác bao gồm nhưng không hạn chế như Lào, Campuchia, Nam Trung Quốc và các nước trong khu vực. 2.1.1.4. Lĩnh vực hoạt động - Sản xuất, mua bán linh kiện, máy móc, thiết bị điện, điện tử, tin học, viễn thông, cơ khí, các thiết bị ngành công nghiệp, xây dựng, đo lường, tự động hoá; - Sản xuất, mua bán đồ gia dụng 2.1.1.5. Sản phẩm, dịch vụ và thị trường CABA Company hoạt động như là nhà phân phối, đại lý, đại diện hay là nhà tích hợp của các hãng nổi tiếng trên toàn thế giới cho các sản phẩm sau: Chổi than, giá đỡ chổi than, lò xo, các dụng cụ bảo dưỡng động cơ, vật liệu và sản phẩm Carbon Graphite & EDM, gioăng và trục nối carbon, thanh tiếp điện, các loại cầu chì bảo vệ (trong lĩnh vực điện, điện tử, vận tải); các loại van, van điều khiển, (Control Valves, Servo Valves, Solenoid Valves); các loại vòng bi và vành đệm; Trục cán, bánh cán, đầu cắt; Bộ cảm biến - Sensors; các thiết bị đo lường chính sách trong công nghiệp; các sản phẩm chuyên dụng khác và các phụ tùng, thiết bị, linh kiện, máy móc dùng trong hệ thống cơ, điện và tự động hoá. Ứng dụng – gia công bao gồm xác lập thông số kỹ thuật, lựa chọn chủng loại, và ứng dụng các sản phẩm được thiết kế gia công như là các giải pháp cho từng vấn đề cụ thể mà khách hàng gặp phải được coi là thế mạnh cốt yếu trong chiến lược kinh doanh của CaBA Company Bên cạnh việc cung cấp các thiết bị và hạng mục cụ thể, CaBA Company hào là nhà cung cấp trên phổ rộng về các dịch vụ để hoàn thiện phần cứng trong kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất với việc sử dụng đa nguồn khác nhau, bao gồm: Thiết kế, Gia công, Thu mua, Cung cấp, Lắp ráp, Kiểm tra, Kiểm soát chất lượng, sửa chữa, bảo trì, đào tạo, và các thoả thuận dịch vụ và phụ tùng sau bán hàng. CABA tập chung chủ yếu vào thị trường là các nhà máy sản xuất thiết bị, máy móc, sản phẩm công nghiệp bao gồm nhưng không hạn chế trong các lĩnh vực và ngành như: ngành điện và năng lượng, nhà máy sản xuất và thiết bị điện và điện tử, ngành nhựa, ngành luyện kim đen và mầu, vận tải công cộng, ngành giấy, xi măng, khai thác mỏ… 2.1.1.6. Tổ chức và dịch vụ khách hàng CABA được tổ chức với hệ thống quản lý và có cơ cấu điều phối chặt chẽ. Mỗi phụ trách và điều phối kinh doanh chịu trách nhiệm cho việc xác lập thị trường và chăm sóc khách hàng trong phạm vi phụ trách. Văn phòng chính tập chung vào việc luôn đảm bảo có đủ những sản phẩm chất lượng cao nhất đủ để hỗ trợ khách hàng và thị trường trong phạm vi hoạt động của Công ty. Các phụ trách và điều phối kinh doanh cùng các nhà quản lý chiến lược của công ty luôn cùng nhau đưa ra chiến lược phát triển chung cho hoạt động, tổ chức của CABA. Mục tiêu của CABA là liên tục làm thoả mãn và hài lòng các khách hàng của mình. Với mục đích đó, CABA giao trách nhiệm việc phát triển và nuôi dưỡng đặc tính văn hoá thoả mãn khách hàng tới từng thành viên, qua việc đem lại cho khách hàng các cấp độ dịch vụ mà khách hàng mong đợi ở mọi phạm vi địa lý khác nhau. Thông qua các chương trình hỗ trợ đào tạo, các biện pháp và sự thừa nhận, CABA luôn tìm kiếm để nâng cao và trưng dụng các dịch vụ khách hàng đặc biệt như là một lợi thế cạnh tranh uy lực nhất của công ty. CABA cố gắng đạt được sự thoả mãn tổng thể của khách hàng thông qua: - Các dịch vụ nhanh, chuyên nghiệp và lịch sự, - Phân phối các sản phẩm chất lượng cao nhất, - Giao hàng đúng hạn, - Duy trì giá cả cạnh tranh nhất, - Liên tục mở rộng các dòng sản phẩm để thoả mãn vị thế thay đổi của thị trường, - Các dịch vụ hoàn hảo thông qua đào tạo tại thực địa và các nhân sự có đẳng cấp và, - Liên tục cải thiện các biện pháp và quy trình xử lý của công ty. Công ty TNHH CABA ra đời đảm nhiệm trong lĩnh vực sản xuất mua bán máy móc, thiết bị vật tư công nghiệp, điện, điện tử, viễn thông, tự động hoá… 2.1.2. Cơ cấu tổ chức mạng lưới hoạt động 2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức Bộ máy quản lý của công ty được tổ chức theo mô hình quản lý trực tuyến, gọn nhẹ phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ đề ra. Các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận đều được quy định cụ thể, rõ ràng. - Ban giám đốc gồm 1 giám đốc và 2 phó giám đốc. Trong đó, giám đốc là người lãnh đạo cao nhất trong công ty, chịu trách nhiệm toàn bộ về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và đảm bảo việc làm thường xuyên cho người lao động. Giám đốc là người giám sát trực tiếp chịu trách nhiệm trước các cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Các phó giám đốc giúp việc cho giám đốc đảm nhận các công việc theo sự phân công của giám đốc. - Khối các phòng ban bao gồm 5 phòng ban có chức năng tham mưu, giúp việc giám đốc trong việc quản lý, điều hành các hoạt động của công ty . Bộ máy quản lý của công ty sẽ được cụ thể hoá ở sơ đồ dưới đây: Công ty TNHH CABA Ban giám đốc Phòng Tổ Chức Hành Chính Phòng Kinh Doanh Phòng Tài Chính Kế Toán Phòng Xuất Nhập Khẩu Phòng Nhân Sự 2.1.2.2 Mạng lưới hoạt động Công ty CABA ngoài trụ sở chính tại P205, N16 Tập thể K9 Bộ Đội Biên Phòng, Phường Bạch Đằng, Quận Hai Bà Trưng, Thành Phố Hà Nội có 1 chi nhánh tại 240 Hậu Giang, Phường 9, Quận 6 Thành Phố Hồ Chí Minh 2.2. THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CABA 2.1.1. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của công ty từ năm 2005 đến năm 2007 Bảng 1- Bảng cân đối kế toán của công ty TNHH CABA ngày 31/12/2005 - 31/12/2007 Đơn vị : Tỷ đồng Stt Chỉ tiêu 2005 2006 2007 A Tài sản I Tài sản lưu động 591,0485 897,9898 1013,3906 1 Tiền 24,7704 26,3529 115,4814 Tiền mặt tại quỹ 8,6327 7,8586 4,3913 Tiền gửi ngân hàng 16,1378 18,4942 111,0901 2 Các khoản phải thu 528,2172 782,7078 630,1395 Phải thu của khách hàng 359,9035 513,7379 342,3639 Trả trước cho người bán 0,0000 0,1100 68,3775 Phải thu nội bộ 164,8087 267,8356 210,8934 Các khoản phải thu khác 6,6667 2,0244 9,5047 Dự phòng các khoản phải thu (3,1618) (1,0000) (1,0000) 3 Dự trữ 32,0188 83,7427 243,4228 Nguyên liệu vật liệu tồn kho 1,1443 1,3434 0,8683 Công cụ, dụng cụ trong kho 0,0397 0,0397 0,4478 Chi phí SXKD dở dang 30,8348 82,3591 242,1067 4 Tài sản lưu động khác 6,0421 5,1864 24,3469 II TSCĐ và đầu tư dài hạn 41,4054 68,5776 118,0476 1 TSCĐ hữu hình (GTCL) 41,4054 67,1416 73,1514 2 Đầu tư tài chính dài hạn 0,0000 1,4360 1,4360 3 Chi phí XDCB dở dang 0,0000 0,0000 43,4602 Tổng tài sản 632,4538 966,5674 1.131,4383 B Nguồn vốn I Nợ phải trả 497,6385 833,3681 986,9893 1 Nợ ngắn hạn 497,6385 824,3162 934,0827 Vay ngắn hạn 71,1437 225,8579 265,9464 Phải trả cho người bán 5,1759 11,8806 12,8214 Người mua trả tiền trước 27,0677 2,0680 85,1516 Thuế và phải nộp Nhà nước 15,9164 8,4620 (8,3792) Phải trả công nhân viên 2,9844 3,6657 3,1969 Phải trả các đơn vị nội bộ 364,5710 545,9231 537,6802 Phải trả khác 10,7794 26,4588 37,6654 2 Nợ dài hạn (vay dài hạn) 0,0000 9,0519 52,9066 3 NG khác 0,0000 0,0000 0,0000 II Vốn chủ sở hữu 134,8154 133,1993 144,4489 1 Nguồn vốn quỹ 134,8154 133,1993 144,4489 2 Nguồn kinh phí 0,0000 0,0000 0,0000 Tổng cộng nguồn vốn 632,4538 966,5674 1.131,4383 Nguồn: Phòng tài chính kế toán công ty TNHH CABA Bảng 2-Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty TNHH CABA trong giai đoạn 2005-2007 Đơn vị : Tỷ đồng Stt Chỉ tiêu 2005 2006 2007 1 Doanh thu thuần 755,8771 697,8135 1.365,4690 2 Giá vốn hàng bán 717,7502 654,8339 1.288,7940 3 Lợi nhuận gộp 38,0969 42,9796 76,6754 4 Chi phí bán hàng 0,0000 0,0000 0,0000 5 Chi phí quản lý doanh nghiệp 12,5682 29,3954 50,3600 6 Lợi nhuận từ hoạt động KD 25,5287 13,5842 26,3150 7 Lợi nhuận từ hoạt động TC 0,0000 0,0000 -0,0018 8 Lợi nhuận bất thường -0,8699 0,4752 0,6297 9 Tổng lợi nhuận trước thuế 24,6588 14,0594 26,9433 10 Thuế thu nhập DN phải nộp 6,1647 3,5149 6,7358 11 Lợi nhuận sau thuế 18,4941 10,5446 20,2075 Nguồn: Phòng tài chính kế toán công ty TNHH CABA Đánh giá khái quát về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 năm từ 2005 đến 2007. Nhìn chung, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 năm gần đây là tương đối ổn định và từng bước có sự tăng trưởng, tuy có sự sụt giảm đôi chút vào năm 2006. Trong 3 năm liên tiếp, giá trị tổng tài sản của công ty đã tăng từ 632,454 Tỷ đồng của năm 2005 lên đến 966,567 Tỷ đồng năm 2006 và 1.131,438 Tỷ đồng vào năm 2007 như vậy trong 3 năm đã tăng một lượng tuyệt đối là 498,984 Tỷ đồng tương đương với 78,9%. Cùng với sự gia tăng của tổng tài sản, một số các yếu tố khác cũng tăng theo. Trước hết phải kể đến đó là sự tăng lên tài sản cố định. Tổng cộng tài sản cố định (bao gồm: đất đai; nhà cửa, vật kiến trúc; máy móc, thiết bị) đã tăng từ 41,405 Tỷ đồng năm 2005 (chiếm 6,71% trong tổng tài sản) lên 67,142 Tỷ đồng (chiếm 6,94 trên tổng tài sản)năm 2006 đến 73,151Tỷ đồng (đạt 6,47% trong tổng số tài sản) vào năm 2007, trong đó không có sự tăng lên của đất đai do tính chất hoạt động của công ty là về lĩnh vực buôn bán hàng hoá và lắp đặt công trình không cần đến mặt bằng nhiều. Như vậy là qua 3 năm tổng tài sản cố định của công ty đã tăng một lượng là 30,742 Tỷ đồng (72,49%). Nguyên nhân của sự gia tăng này là do công ty đã tìm kiếm được nhiều hợp đồng lắp đặt do vậy công ty đã phải đi mua thêm nhiều máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Hơn nữa, sang năm 2007 công ty đã xây mới lại trụ sở do vậy giá trị của nhà cửa thuộc sở hữu của công ty cũng tăng thêm. Bên cạnh đó, chi phí sản xuất kinh doanh theo các yếu tố của công ty cũng tăng dần từ 665,010 Tỷ đồng (2005) lên đến 1252,803 Tỷ đồng (2006), tức là tăng 587,793 Tỷ đồng (88,39%). Trong đó tất cả các yếu tố về chi phí như: chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, phân bổ dụng cụ lao động, chi phí khấu hao tài sản, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền khác đều tăng, đặc biệt có sự gia tăng mạnh mẽ về các khoản mục như chi phí cho nguyên vật liệu và phân bổ dụng cụ lao động, các khoản mục chi phí khác tăng nhẹ. Nguyên nhân ở đây là do công ty đã tìm kiếm được nhiều công trình mới đồng thời với việc tăng lên của mức giá chung qua 3 năm. Bên cạnh đó, về cơ cấu tổ chức cũng có sự thay đổi, công ty đã thành lập thêm 5 đơn vị trong năm 2006 do vậy cũng phát sinh một số chi phí. Cùng với sự tăng thêm của số lượng lao động trong công ty và sự thay đổi mức lương cơ bản do vậy mà chi phí nhân công qua các năm cũng tăng thêm. Về thu nhập bình quân đầu người, so với năm 2005 năm 2006 tăng 5,96% (58.046 đồng); năm 2007 giảm 3,47% (35.749 đồng) so với năm 2006. Khuynh hướng này không hề phản ánh tình trạng làm ăn không hiệu quả của công ty mà là do trong giai đoạn 2005-2006 số nhân công trong công ty nói chung và số nhân viên quản lý nói riêng đều tăng đồng thời trong năm này Nhà nước có quy định tăng tiền lương cơ bản do vậy quỹ lương tăng thêm hoàn toàn hợp lý, còn trong giai đoạn 2006-2007 số nhân công tăng nhưng số nhân viên quản lý lại tăng không đáng kể. Các khoản phải trả của công ty cũng không ngừng tăng theo các năm, năm 2005 số phải trả là 497,638 Tỷ đồng chiếm 78,68% tổng nguồn vốn, năm 2006 là 833,668 Tỷ đồng chiếm 86,25% trong tổng nguồn vốn và con số này đạt ở mức 986,989 Tỷ đồng đạt % trong năm 2007. Trong số này không có khoản nào là quá hạn. Còn về các khoản phải thu, nhìn chung là công ty vẫn còn bị chiếm dụng vốn nhưng các khoản phải thu đều được trả đúng thời hạn. Cụ thể các khoản phải thu diễn biến như sau: năm 2005 các khoản phải thu là 528,217 Tỷ đồng, năm 2006 là 782,708 Tỷ đồng, còn năm 2007 con số này giảm xuống 630,1395 Tỷ đồng. Chi tiết và nguyên nhân của tình hình này sẽ được phân tích kỹ hơn ở phần phân tích các tỷ lệ tài chính của công ty. Xét đến tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu, giai đoạn 2005-2006 giảm nhẹ (0,162 Tỷ đồng tức giảm 1,2%), giai đoạn 2006-2007 lại tăng thêm 11,250 Tỷ đồng (8,45%). Trong đó, toàn bộ vốn chủ sở hữu có nguồn gốc từ nguồn vốn quỹ và nguồn vốn kinh doanh tăng là chủ yếu. Về doanh thu của công ty, doanh thu thuần trong giai đoạn 2005-2006 giảm sút 59,937 Tỷ đồng tức giảm 7,93%. Trong giai đoạn 2006-2007, doanh thu thuần lại tăng mạnh, năm 2007 so với năm 2006 tăng gần gấp đôi, cụ thể tăng 95,68% tương đương với 667,656 Tỷ đồng. Có thể thấy ngay được rằng trong năm 2006 công ty đã có ít hơn các công trình còn sang đến năm 2007, công ty đã tìm kiếm được nhiều hợp đồng hơn. Chính vì vậy, kéo theo lợi nhuận sau thuế của công ty cũng giảm trong giai đoạn 2005-2006 và tăng trong giai đoạn 2006-2007. 2.2.2 Thực trạng phân tích tài chính tại công ty TNHH CABA thông qua các hệ số tài chính đặc trưng 2.2.2.1. Đánh giá khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn * khả năng thanh toán Thông qua bảng các tỷ lệ về khả năng thanh toán ta sẽ thấy được chất lượng công tác tài chính của doanh nghiệp, tính hợp lý và hiệu quả trong việc phân bổ vốn vào các khoản mục của tài sản lưu động cũng như sự sử dụng và cơ cấu vốn vay. Bảng 3- Phân tích khả năng thanh toán của công ty TNHH CABA Đơn vị : Tỷ đồng Stt Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2006/2005 2007/2006 Lượng % Lượng % 1 TSLĐ 591,0490 897,9900 1.013,3910 306,9410 51,90 115,4010 12,90 2 Dự trữ 32,0190 83,7430 243,4230 51,7240 161,50 159,6800 190,70 3 Tiền 24,7700 26,3530 115,4810 1,5830 6,40 89,4280 338,20 4 Nợ ngắn hạn 497,6380 824,3160 934,0830 326,6780 65,70 109,7670 13,30 5 Khả năng TT chung 0,01188 0,01089 0,01085 -0,00099 -8,30 -0,00004 0,37 6 Khả năng TT nhanh 0,01123 0,0099 0,00824 -0,00133 -11,80 -0,00166 -16,77 7 Knăng TT tức thời 0,00050 0,00032 0,00124 -0,00018 -36,00 0,00092 287,50 Nguồn : Bảng cân đối kế toán công ty TNHH CABA Khả năng thanh toán chung: Qua bảng trên ta thấy khả năng thanh toán chung của công ty trong 3 năm đều lớn hơn 1, điều này có nghĩa là tài sản lưu động của công ty đủ để thanh toán những khoản nợ ngắn hạn. Rõ rãng là tỷ lệ thanh toán chung của năm 2007 là hợp lý nhất vì ở đây doanh nghiệp đã không đầu tư quá nhiều cho tài sản lưu động nhưng để xem xét khả năng thanh toán một cách tốt nhất thì quan trọng là phải xem xét đến cơ cấu tài sản cố định mà có ảnh hưởng đến các chỉ tiêu khác. Tuy nhiên phải thấy rằng khả năng thanh toán chung của công ty đã liên tục giảm trong suốt 3 năm: năm 2005 tỷ lệ này là 8,3; năm 2000 giảm xuống còn 0,0109 và năm 2007 chỉ là 0,0109. So với năm 2005, khả năng thanh toán chung của công ty giảm 8,33% và năm 2007 giảm 0,37% so với năm 2006. Khả năng thanh toán chung liên tục giảm như vậy là do tốc độ tăng của tài sản lưu động qua các năm luôn nhỏ hơn tốc độ tăng của nợ ngắn hạn. Chẳng hạn như năm 2006 tài sản lưu động chỉ tăng 51,93% trong khi đó nợ ngắn hạn lại tăng đến 65,65%; năm 2007 tài sản lưu động tăng 12,85% còn nợ ngắn hạn tăng 13,32%.Vì vậy nếu năm 2005 chỉ cần giải phóng 84,2% tài sản lưu động để thanh toán nợ ngắn hạn thì năm 2006 cần 91,8% và năm 2007 cần 92,17% tài sản lưu động. Nguyên nhân nợ ngắn hạn năm 2006 tăng cao 326,678 Tỷ đồng (hay tăng 65,65%) là do các khoản vay ngắn hạn và phải trả cho các đơn vị nội bộ tăng mạnh. Cụ thể khoản vay ngắn hạn tăng 154,714 Tỷ đồng (217,47%) và khoản phải trả cho các đơn vị nội bộ tăng 181,352 tỷ đồng (49,74%). Đối với năm 2007, nợ ngắn hạn tăng gần 11 tỷ là do công ty vẫn tiếp tục tăng cường vay ngắn hạn 40,088 tỷ đồng (17,75%) đồng thời người mua ứng trước tiền tăng 83,0836 tỷ đồng (4017,54%). Công ty đã phải đi vay ngắn hạn để mua nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của mình, thêm vào đó công ty cũng chịu sức ép do giá cả tăng dần trong 3 năm vì vậy nhu cầu vốn kinh doanh ngắn hạn sẽ phải tăng thêm nhiều hơn. Tuy rằng các tỷ lệ thanh toán chung của công ty có giảm trong giai đoạn 3 năm gần đây nhưng các tỷ lệ nay đều đạt trên mức lớn hơn 1 do vậy khả năng thanh toán chung của công ty không phải là điều đáng ngại. Khả năng thanh toán nhanh: Cũng như khả năng thanh toán chung thì khả năng thanh toán nhanh của công ty cũng có chiều hướng đi xuống. Năm 2005, tỷ lệ này bằng 1,123; năm 2006 giảm xuống còn 0,99 và năm 2007 là 0,824. Trong 3 năm duy chỉ có tỷ lệ thanh toán nhanh của năm 2005 đạt ở mức lớn hơn 1 chính là mức an toàn, còn trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ này của công ty đều thấp hơn 1. Điều này nói lên rằng, chỉ có trong năm 2005, công ty mới có khả năng đáp ứng tất cả các khoản nợ ngắn hạn mà không phải bán bất cứ một khoản dự trữ nào, còn năm 2006 và 2007 để thanh toán được tất cả các khoản nợ này bắt buộc công ty sẽ phải bán đi một phần dự trữ của mình. Nhưng do tính chất hoạt động của công ty nên chi phí sản xuất kinh doanh dở dang của công ty bao giờ cũng chiếm tỷ trọng lớn trong dự trữ. Chi phí sản xuất kinh doanh của công ty ở đây chính là những công trình đang xây dựng cho khách hàng nhưng chưa hoàn thiện hoặc chưa được quyết toán nên nếu loại trừ khả năng khách hàng chây ỳ không trả tiền quyết toán công trình (3 năm nay chưa xảy ra trường hợp nào khách hàng không trả tiền đúng theo hợp đồng) thì khoản mục này có tính lỏng khá cao. Giả sử khách hàng không trả thì công ty có thể tịch thu lại công trình đó. Khả năng thanh toán tức thời: Khả năng thanh toán tức thời cho biết mối tương quan giữa tiền, tài sản có tính lỏng cao nhất và nợ ngắn hạn, phản ánh khả năng sẵn sàng đáp ứng các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp. Trong 3 năm khả năng thanh toán tức thời của công ty lần lượt là 0,05; 0,03; 0,124. Nhìn chung đây không phải._.i phi rất cao cho sử dụng vốn. Nguồn vốn vay dài hạn của công ty dùng để tài trợ cho tài sản cố định và một phần đem đầu tư chứng khoán dài hạn. Do đó công ty đã phải dùng nợ ngắn hạn để tài trợ cho tài sản cố định và bổ sung phần giảm xuống của vốn chủ sở hữu. Tình hình năm 2007 đã có nhiều dấu hiệu khả quan hơn, đó là việc vốn chủ sở hữu đã có xu hướng tăng thêm 11,250 tỷ chiếm 3,54% tỷ trọng nguồn vốn mà công ty có được. Vốn chủ sở hữu tăng là do trong năm 2007 công ty đã hoạt động có hiệu quả hơn do đó lợi nhuận cuả công ty tăng lên và các quỹ được bổ sung nhiều hơn và các quỹ trong năm nay phải chi ra ít hơn. Tổng nguồn vốn của công ty trong năm này là 317,439 tỷ đồng bắt nguồn từ nhiều nguồn khác nhau: chiếm tỷ trọng cao nhất là các khoản phải thu 152,568 tỷ đồng(48,06%); nợ ngắn hạn chiếm 34,58% đạt tại mức 109,767 tỷ đồng; sau đó đến nợ dài hạn là 43,855 tỷ đồng (13,82%) và tỷ trọng thấp nhất là vốn chủ sở hữu. Việc nguồn vốn được hình thành đa dạng và không chiếm tỷ trọng quá lớn vào một khoản mục nào chứng tỏ sự phục hồi hoạt động kinh doanh sau năm 2006 không đạt được hiệu quả cao lắm. Bên phần sử dụng vốn dự trữ chiếm tỷ trọng cao nhất 159,680 tỷ đồng (50,3%) sau đó nguồn vốn được dùng để tài trợ cho các khoản như: tiền, tài sản lưu động khác, tài sản cố định, chi phí xây dựng cơ bản dở dang. Mặc dù nợ ngắn hạn vẫn tiếp tục tăng cao để tài trợ cho sử dụng vốn nhưng khoản mục phải trả cho người bán giảm nhẹ đôi chút và người mua trả tiền trước tăng thêm 8 tỷ đồng chứng tỏ rằng công ty đã giảm bớt được chi phí vay ngắn hạn để tài trợ cho sử dụng vốn (trong năm 2007, công ty vẫn phải đi vay ngắn hạn khoảng gần 4 tỷ đồng để tài trợ một phần cho tiền). Công ty vẫn tiếp tục vay dài hạn thêm 43,855 tỷ đồng để đầu tư cho tài sản cố định. Nhưng do tài sản cố định tăng không cao nên phần vay dài hạn còn thừa công ty đầu tư cho tài sản lưu động khác được mua với khối lượng lớn nên có giá trị lớn và có thể sử dụng nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nhưng không đủ tiêu chuẩn để tính vào tài sản cố định theo quy định nên phải đưa vào khoản mục chi phí chờ kết chuyển. Trong 2 năm 2005 và 2006 trong bảng cân đối kế toán cuối năm tài chính của công ty thì khoản mục chi phí xây dựng cơ bản bằng 0 nhưng sang năm 2007 khoản chi phí này là 43,460 tỷ đồng (chiếm 13,69% các khoản sử dụng vốn). Phần chi phí này được tại trợ bởi nguồn vay dài hạn và nguồn vốn chủ sở hữu, trích từ nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Một dấu hiệu tích cực là trong năm 2007 khoản phải thu đã giảm so với năm 2006, do vậy nguồn vốn được huy động từ các khoản phải thu để tài trợ cho dự trữ tăng khá cao (nguyên nhân dự trữ tăng là do chi phí sản xuất kinh doanh dở dang tăng do công ty có thêm nhiều công trình và các công trình này chưa quyết toán vào cuối năm tài chính 2007). Các khoản phải thu giảm trong đó phải thu của khách hàng giảm 171,374 tỷ đồng chứng tỏ công ty đã khắc phục phần nào tình trạng bị chiếm dụng vốn. Phải thu giảm mạnh trong khi doanh thu thuần của công ty lại tăng góp phần cải thiện khả năng thanh toán tức thời của công ty đồng thời cũng đảm bảo an toàn về tài chính cho công ty, công ty có thêm nguồn vốn để quay vòng sản xuất kinh doanh và không còn phải lo lắng về khả năng không thu hồi được nợ. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh công ty TNHH CABA Để đánh giá tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của công ty CABA ta phải tính đến các chỉ tiêu vốn lưu động thường xuyên và nhu cầu vốn lưu động thường xuyên thông qua bảng sau: Bảng 10-Tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của công ty TNHH CABA Vốn lưu động thường xuyên Đơn vị : tỷ đồng Stt Chỉ tiêu 2005 2006 2007 1 Tài sản cố định 41,4054 68,5776 118,0476 2 Vốn chủ sở hữu 134,8154 133,1993 144,4490 3 Nợ dài hạn 0,0000 9,0519 52,9066 4 Vốn lưu động thường xuyên (2)+(3)-(1) 93,4100 73,6736 79,3080 Nhu cầu vốn lưu động Đơnvị : tỷ đồng Stt Chỉ tiêu 2005 2006 2007 1 Khoản phải thu 528,2172 782,7078 630,1395 2 Dự trữ (bao gồm TSLĐ khác) 38,0609 88,9291 267,7499 3 Phải trả 486,8591 797,8574 896,4173 4 Nhu cầu vốn lưu động KD (1)+(2)-(3) 79,4190 73,7795 1,4721 5 Chi sự nghiệp 0,0000 0,0000 0,0000 6 Phải trả khác + nợ khác 10,7794 26,4588 37,6654 7 Nhu cầu vốn lưu động ngoài KD -10,7794 -26,4588 -37,6654 8 Tổng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên 68,6396 47,3207 -36,1933 Tiền Đơn vị : tỷ đồng Stt Chỉ tiêu 2005 2006 2007 1 Vốn lưu động thường xuyên 93,4100 73,6736 79,3080 2 Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên 68,6396 47,3207 -36,1933 3 Tiền 24,7704 26,3529 115,5013 Nguồn : Bảng cân đối kế toán của công ty TNHH CABA Từ các bảng tính trên ta thấy vốn lưu động thường xuyên của công ty từ năm 2005 - 2007 đều lớn hơn 0 và đạt ở mức tương đối cao chứng tỏ toàn bộ tài sản cố định của công ty được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn và công ty đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Ngoài việc đảm bảo cho tài sản cố định, vốn lưu động thường xuyên của công ty còn dùng để tài trợ một phần khá lớn cho tài sản lưu động. Ta biết rằng khả năng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và khả năng nắm bắt thời cơ thuận lợi của doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào vốn lưu động nói chung và vốn lưu động thường xuyên nói riêng. Do vậy sự tăng trưởng vốn lưu động thường xuyên cho thấy sự phát triển của công ty. Theo kết quả tính toán thì vốn lưu động thường xuyên của công ty vào năm 2005 là dồi dào nhất trong 3 năm hoạt động sản xuất kinh doanh gần đây, năm 2006 vốn lưu động thường xuyên của công ty sụt giảm mạnh do công ty đầu tư nhiều hơn cho tài sản cố định trong khi đó vốn chủ sở hữu lại giảm sút. Điều này thể hiện trong năm này lợi nhuận của công ty tương đối thấp. Sang năm 2007, tình trạng này đã được cải thiện vì vốn chủ sở hữu có gia tăng nhưng đồng thời công ty cũng tiến hành vay dài hạn khá lớn để đầu tư vào tài sản cố định. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên trong kinh doanh của công ty có xu hướng giảm sút trong giai đoạn 2005 - 2007 và đặc biệt giảm sút mạnh trong năm 2007. Nhưng trong cả 3 năm nhu cầu vốn lưu động thường xuyên trong kinh doanh của công ty đều lớn hơn 0 tức là dự trữ (bao gồm cả tài sản lưu động khác) và các khoản phải thu > nợ ngắn hạn ( không bao gồm phải trả và nợ khác). Có nghĩa là các sử dụng ngắn hạn trong kinh doanh của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có từ bên ngoài, doanh nghiệp sẽ phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ thêm vào. Nhưng doanh nghiệp đã không dùng phương pháp này mà đã đi vay ngắn hạn để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động. Hơn nữa, nhu cầu vốn lưu động ngoài kinh doanh đều âm do trong suốt giai đoạn này công ty không phải chi bất cứ một khoản chi sự nghiệp nào. Do đó tổng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của công ty cũng có giảm đi, đặc biệt là trong năm 2007, tổng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của công ty đạt giá trị âm có nghĩa là các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh. Nhưng trên thực tế trong năm 2007, công ty vẫn đi vay ngắn hạn gần 27 tỷ do các khoản phải thu của công ty có thời gian thu hồi khác nhau trong khi công ty vẫn cần các khoản vốn để tài trợ cho các công trình mà công ty ký kết ở các thời điểm khác nhau. 2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CABA 2.3.1. Những kết quả đạt được - Là một doanh nghiệp Tư Nhân hoạt động trong môi trường kinh doanh quốc tế, công ty CABA đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thách thức. Song vượt lên trên tất cả, công ty đã có rất nhiều cố gắng phấn đấu vươn lên về mọi mặt. Trong những năm qua, công ty liên tục kinh doanh có hiệu quả, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước, đời sống cán bộ công nhân viên được nâng lên. Công ty ngày càng phát triển, được các đối tác tin tưởng, đánh giá cao. Công ty cũng rất chú trọng đến công tác đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ lao động, mạnh dạn đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến. - Tổng tài sản của công ty năm sau tăng hơn năm trước cho thấy hoạt động kinh doanh của công ty không gặp phải thua lỗ làm mất vốn và từng bước mở rộng về quy mô thể hiện ở nhu cầu về vốn tăng cao để phát triển sản xuất. Đặc biệt về cơ cấu tài sản, tài sản lưu động chiếm một tỷ lệ khá cao trong tổng tài sản đã đảm bảo an toàn cho tình hình tài chính của công ty, vòng quay vốn được thực hiện nhanh hơn và cơ cấu này là hoàn toàn phù hợp với lĩnh vực mà công ty đang tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. - Doanh lợi vốn của công ty tương đối cao và cao hơn chi phí nợ vay bình quân. Điều này có nghĩa là công ty có thể tiếp tục huy động vốn bằng vay nợ. - Tài sản lưu động của công ty chiếm một tỷ trọng tương đối lớn. Vốn lưu động thường xuyên của công ty tương đối dồi dào để phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Hầu hết tài sản cố định của công ty đều được đảm bảo vững chắc bởi nguồn vốn dài hạn - Thu nhập của cán bộ công nhân viên trong công ty đều đạt xấp xỉ trên dưới 1 triệu một tháng và thu nhập này có xu hướng ngày càng tăng lên. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân - Biến động về giá nguyên vật liệu:Giá nguyên liệu đầu vào là nhân tố chính ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Trong khoảng thời gian 2005- 2006, giá các loại nguyên liệu đồng loạt tăng liên tục như tôn silic tăng giá với tốc độ tăng 20-25%, dây điện từ tăng 20%/năm, các loại nguyên liệu khác cũng tăng khoảng 5% -10 %/năm. Vì giá nguyên vật liệu tăng đã trực tiếp làm tăng giá thành sản xuất, nên khi có lượng vốn dư thừa Công ty phải tăng cường dự trữ nguyên liệu tồn kho để tránh gặp nhiều khó khăn khi giá nguyên liệu tăng đột ngột. - Biến động giá bán sản phẩm: Trước sự biến động của nguyên vật liệu đầu vào, một mặt Công ty phải tăng cường công tác lập kế hoạch dự báo giá nguyên vật liệu cũng như có kế hoạch dự trữ hàng tồn kho. Mặt khác, Công ty phải điều chỉnh giá bán sản phẩm cho phù hợp, tuy nhiên mức độ điều chỉnh giá bán sản phẩm luôn nhỏ hơn tốc độ tăng giá đầu vào, điều này đòi hỏi Công ty luôn phải không ngừng nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, có sáng kiến cải tiến kỹ thuật và nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới... để bù đắp lại sự tăng giá của nguyên liệu đầu vào. - Hoạt động sản xuất mang tính chất mùa vụ: Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty không ổn định trong cả năm mà tập trung vào thời điểm cuối năm. Sản phẩm của công ty chủ yếu phục vụ cho việc lắp đặt ở các công trình. Các công trình này thường được sử dụng bằng nguồn vốn của ngân sách để đầu tư nên công việc quyết toán xây lắp công trình tập trung diễn ra vào cuối năm tài chính CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY CABA 3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÔNG TY: 3.1.1. Định hướng phát triển công ty đến năm 2010 Tiếp tục xây dựng và phát triển công ty, giữ vững công ty CABA là một doanh nghiệp mạnh, đa ngành nghề, lấy hiệu quả kinh tế là thước đó cho sự phát triển ổn định và bền vững của công ty. Duy trì và phát triển ngành nghề truyền trống là lắp đặt các công trình thiết bị điện, dân dụng, công nghiệp. Tiếp tục đầu tư mở rộng qui mô kinh doanh trong các lĩnh vực: kinh doanh thiết bị, phụ tùng, vật tư, máy và các ứng dụng điện cho ngành công nghiệp và tự động hoá…, đảm bảo cho công ty có tiềm lực kinh tế mạnh dủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần góp phần vào sự phát triển bền vững của công ty CABA. 3.1.2. Muc tiêu, nhiệm vụ chủ yếu 3.1.2.1. Công tác đổi mới doanh nghiệp Tiếp tục thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, xây dựng và phát triển công ty thành công ty mạnh, bền vững, có tốc đọ tăng trưởng nhanh và có tính cạnh tranh cao. Tổ chức hình thành một số chi nhánh tại các tỉnh thành trong lĩnh vực: Kinh doanh vật tư, lắp đặt ứng dụng điện. 3.1.2.2. Công tác đầu tư Tiếp tục đầu tư phát triển trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp: Sản xuất vật liêu điện và các dự án lắp đặt. Đầu tư nâng cao năng lực thiết bị thi công hiện đại, công nghệ tiên tiến nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuât kinh doanh phat triển với tốc độ cao, thi công các công trình có yêu cầu kỹ thuật cao. 3.1.2.3. Công tác quản lý Hoàn thiện cơ chế quản lý, các đơn vị trong công ty đảm bảo cho công ty vận hành đươc hiệu quả. Tăng cường công tác hạch toánh sản xuât kinh doanh quản lý chặt chẽ các chi phí quản lý sản xuất và chi phí quản lý doanh nghiệp, đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả và tích luỹ vốn để phát triển Phân cấp và giao quyền chủu động cho các phòng ban trong quả trinhf phát triển sản xuất kinh doanh, gắn trách nhiệm với quyền lợi đối với cán bộ quản lý. 3.1.2.4. Công tác phát triển nguồn lực Chuẩn bị đầy đủ các nguồn lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Xây dựng và phát triển nguồn lực con người của công ty mạnh về mọi mặt đủ về chất lượng và số lượng, có năng lực quản lý và ứng dụng công nghệ mới. Tìm mọi biên pháp để huy động các nguồn vốn đảm bảo cho nhu cầu đầu tư và sản xuât kinh doanh. 3.1.2.5 Công tác khác Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại nâng cao năng lực kinh doanh, liên kết với các đối tác trong và ngoài nước để phát triển năng lực Công ty là doanh nghiệp ứng dụng điện cho các ngành công nghiệp và tự động hoá, với năng lực cạnh tranh cao trong nước và quốc tế. Không ngừng xây dựng và phát triển thương hiệu và uy tín của công ty trên thị trường. Thực hiện tốt mối quan hệ bình đẳng giữa doanh nghiệp với cán bộ công nhân viên không ngừng nâng cao thu nhập, đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên. Trên cơ sở định hướng và mục tiêu phát triển sản xuất kinh doanh đến năm 2010 cùng với các yếu tố thuận lợi và khó khăn thách thức, công ty CABA sẽ phat huy cao độ kết quả đã đạt được trong những năm qua, khắc phục những yêu kém để dần ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh theo định hướng của công ty phù hợp với định hướng phát triển của ngành thiết bị điện nói chung và của công ty CABA nói riêng. Phân đấu đưa công ty CABA hoà vào sự phat triển hoà vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đem lại cuộc sống âm nó hạnh phúc cho tập thể cán bộ công nhân viên. 3.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH Sau một thời gian ngắn thực tập tại CABA, có điều kiện đi vào nghiên cứu, phân tích tình hình tài chính của công ty, với vốn kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, em xin được đưa ra một số phương hướng, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả phân tích tài chính của công ty trong thời gian tới như sau: 3.2.1. Hoàn thiện quy trình, tổ chức công tác phân tích 3.2.1.1. Quy trình Thực chất hiện nay công ty chưa xây dựng một quy trình chuẩn cho công tác phân tích tài chính mà chỉ đi theo các bước của đợt phân tích trước đó. Do vậy, vấn đề đặt ra ở đây là công ty phải nhanh chóng học hỏi để xây dựng một mẫu quy trình phân tích để quản lí cũng như hoàn thiện phân tích đúng và đầy đủ. 3.2.1.2. Tổ chức phân tích Khâu thu thập thông tin của công ty chỉ dừng lại ở trong nội bộ doanh nghiệp, ít lấy các thông tin và tác động từ các thông tin từ bên ngoài công ty. Tiếp theo, việc xử lý thông tin của cán bộ phân tích không xác định rõ góc độ nghiên cứu nên phần dự đoán và hoàn toàn không có. Do vậy, trước hết người phân tích phải được chỉ rõ ra là phân tích nhằm làm gì? Phân tích trên góc độ nào? Để từ đó thu thập thêm những thông tin bên ngoài donh nghiệp phù hợp với góc độ phân tích nhằm đưa ra các dự đoán chính xác phục vụ việc lên quyết định sau này. 3.2.2. Hoàn thiện phương pháp phân tích Công ty đẵ sử dụng hai phương pháp: Phương pháp tỷ lệ và phương pháp so sánh để phân tích hoạt động tài chính, nhưng theo em Công ty cần xử dụng kết hợp với phương pháp phân tích tài chính Dupont. Phương pháp này được các nhà phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng đê đánh giá tác động tương hỗ giữa các ty lệ tài chính. Đó là quan hệ hàm giữa doanh lợi và vốn, vòng quay toàn bộ vốn và doanh lợi tiêu thụ. Trong phương pháp này, trước hết ta phải xem xét mối quan hệ tương tác giữa hệ số sinh lợi và doanh thu với hiệu suất sử dụng tổng tài sản và ký hiệu là Rr, khi đó ta có: Tỷ số Rr cho biết tỷ suất sinh lời của tài sản phụ thuộc vào 2 yếu tố: + Thu nhập ròng của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu. + Một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Phân tích Rr cho phép xác định và đánh giá chính xác nguồn gốc làm thay đổi lợi nhuận của doanh nghiệp, trên cơ sở phân tích đó mà các nhà quản trị đưa ra các giải pháp nhằm tăng doanh thu và tiết kiệm chi phí. Ngoài ra còn có tỷ lệ Re là tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu: Ta có: Công thức này cho biết trong thành phần tạo nên Re khi hệ số nợ tăng thỉ Rr cũng tăng lên vì (1- Rd) giảm. Do vậy, một tỷ lệ nợ cao sẽ tăng gấp bội hiệu quả về lợi nhuận. Nếu doanh nghiệp có lợi nhuận trong kỳ thì lợi nhuận sẽ càng cao và ngược lại. Như vậy, phương pháp phân tích tài chính Dupont cho phép các nhà phân tích tài chính xác định và đánh giá chính xác nguồn gốc làm thay đổi lợi nhuận của doanh nghiệp, trên cơ sở phân tích đó mà các nhà quản tri đưa ra được các giải pháp nhằm tăng tiêu thụ và giảm chi phí. Ngoài ra, phương pháp này còn cho các nhà phân tích tài chính thấy được công dụng của việc sử dụng chính sách nợ như một đòn bẩy tài chính nhằm làm tăng nguồn lợi nhuận của Công ty. 3.2.3. Hoàn thiện nội dung phân tích Qua thực tế phân tích tình hình tài chính tại Công ty, em nhận thấy Báo cáo phân tích tài chính tại công ty CABA cũng đã đi sâu vào phân tích các chỉ tiêu nhưng chưa được đầy đủ, còn thiếu một vài chỉ tiêu quan trọng. Do vậy, để hoàn thiện nội dung phân tích tài chính, em xin đề xuất thêm chỉ tiêu phân tích về hoạt động cụ thể như sau Các chỉ số về hoạt động được dùng để đánh giá hiệu qủa sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được sử dụng để đầu tư vào các loại tài sản khác nhau như : Tài sản cố định, tài sản lưu động. Vì vậy, nếu chỉ đo lường hiệu quả sử dụng của tổng tài sản và hiệu suất sử dụng TSCĐ thì chưa đủ mà cần phải phải trú trọng tới hiệu quả sử dụng của cả TSNH. Như trong phần thực trạng đẵ phân tích nhóm các chỉ tiêu này phản ánh thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty hiện như thế nào từ đó tìm ra các giải pháp để khắc phục những mặt còn hạn chế và phát huy tối đa các ưu thế đang có. 3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho phân tích Trong cơ chế thị trường hiện nay, với tốc độ cạnh tranh gay gắt đòi hỏi công ty cần phải có những bước đổi mới tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật. Những năm qua, do máy móc thiết bị không theo kịp được nhu cầu của thị trường dẫn đến chất lượng phân tích tài chính của công ty chưa được cao. Vài năm trở lại đây, công ty đã từng bước hiện đại hoá công nghê và đã mang lại hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, do số vốn dùng cho đổi mới công nghệ còn hạn hẹp chính vì vậy chưa đáp ứng được nhu cầu. Do đó, nhiệm vụ trước mắt của công ty là đẩy mạnh, đổi mới công nghệ, nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng khoa học - công nghệ kỹ thuật hiện đại phục vụ cho phân tích tài chính doanh nghiệp. Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đổi mới công nghệ nhằm góp phần thiết thực vào phân tích tài chính, công ty cần chú ý đổi mới đồng bộ các yếu tố cấu thành công nghệ: từ máy móc thiết bị, nguyên vật liêu, nâng cao trình độ, kỹ năng, kỹ xảo của người phân tích. Trong thời gian tới công ty nên thực hiện đồng bộ một số giải pháp như sau: - Công ty cần tính toán để đầu tư vào các bộ phận thiết yêu trước. Từng bước thay thế một cách đồng bộ thiết bị cho phù hợp với thị trường. Công ty nên ứng dụng rộng rãi công nghệ tin học trong quản lý tài chính tiến tơi nối mạng toàn bộ hệ thống máy tính nhằm cập nhập thông tin dễ dàng và nhanh chóng hơn. Từng bước xây dựng chế độ chuẩn trong công tác tài chính về mặt cơ sở cật chất, kỹ thuật phục vụ cho công tác phân tich. - Tận dụng trang thiết bị máy móc hiện có trong công ty, ngoài ra phải tiến hành bảo dưỡng định kỳ máy móc thay cho việc cứ phát sinh sự cố thì mới cử cán bộ kỹ thuật đến sửa chưa như hiện nay. - Đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật - Để nâng cao năng lực công nghệ, công ty cần phải xây dựng mối quan hệ với các cơ quan nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật để phát triển công nghệ theo chiều sâu và từng bước hoàn chỉnh công nghệ hiện đại. 3.2.5. Nâng cao trình độ cán bộ phân tích tài chính Ngay từ khi mới thành lập, ban giám đốc công ty đã xây dựng phương châm của CABA , đó là:“ Công nghệ là quan trọng, con ngưòi là yếu tố quyết định”. Do đó công ty đã rất chú trọng phát triển nguồn nhân lực đáp úng được yêu cầu triển khai mở rộng các dự án. Vì vậy trong thời gian tới, công ty cần xem xét áp dụng một số các biện pháp: - Tăng cường đào tạo, đặc biệt là đào tạo kèm cặp để đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng của đội ngũ cán bộ phân tích. Đội ngũ cán bộ phân tích tài chính phải là những con người năng động, chủ động tiếp cận công nghệ hiện đại, làm chủ công nghệ tiên tiến. - Công ty cần có các chính sách phù hợp đối với người phân tích làm việc cho các dự án đầu tư ở nước ngoài bởi hiện tại các chính sách còn chưa hoàn thiện, chưa thực sự khuyến khích người phân tích tài chính có trình độ và kinh ngiệm làm việc lâu dài cho CA BA. - Tuyển dụng người có đủ trình độ, năng lực, nhiệt tình, thu hút người tài vào làm việc tại công ty . 3.2.6. Hoàn thiện chế độ kế toán, thống kê Tổ chức tốt công tác kế toán ở công ty là một trong những giải pháp quan trọng nhằm tăng cường quản lý, kiểm tra kiểm soát quá trình kinh doanh và sử dụng các loại vốn nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Tuy vậy, kế toán là hệ thống thông tin thực hiện, các số liệu, tài liệu kế toán tự nó chưa thể chỉ ra các biện pháp cần thiết. Cho nên, định kỳ Công ty phải thực hiện công tác phân tích tài chính và tính toán, phân tích các chỉ tiêu hiệu qủa sử dụng vốn để từ đó tìm ra nguyên nhân dẫn đến thành tích và tiến bộ so với kỳ trước để phát huy, các nguyên nhân gây ra hạn chế để có biện pháp tháo gỡ và khắc phục kịp thời. Muốn làm được như vậy, Công ty cần hoàn thiện bộ máy quản lý trên cơ sở bộ máy tinh giảm, gọn nhẹ, làm việc có hiệu qủa tránh tình trạng CBCNV nhàn rỗi vì không có việc hoặc ít việc mà vẫn phải trả lương và phụ cấp. Bộ máy quản lý phải có sự phân cấp rõ trách nhiệm rõ ràng thống nhất từ trên xuống dưới. Bố trí cán bộ phù hợp với năng lực và sở trường của họ để phát huy tốt khả năng và trí tuệ của từng cá nhân. Ngoài ra cán bộ tài chính kế toán là những người có ảnh hưởng quyết định tới kết qủa của việc phân tích tài chính; do đó Công ty phải tuyển dụng những nhân viên nắm vững nghiệp vụ chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm cao, trung thực khách quan để có thể đáp ứng đựơc yêu cầu của công tác hạch toán kế toán và phân tích tài chính. Thực hiện tốt công tác hạch toán kế toán và phân tích hoạt động tài chính nghĩa là Công ty đã phân tích được thực trạng tài chính của mình, nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh để từ đó phát huy được những thành tích đã đạt được và khắc phục các hạn chế còn tồn tại, qua đó sẽ nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh của Công ty. 3.2.7. Đổi mới hệ thống thông tin quản lý Nguồn thông tin sử dụng trong phân tích bao gồm thông tin từ bên ngoài và thông tin trong nội bộ doanh nghiệp, chính vì vậy các thông tin sử dụng trong phân tích tài chính là nền tảng của hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp. Chính vì tầm quan trọng của phân tích tài chính nên chất lượng những thông tin sử dụng trong phân tích tài chính cần phản ánh chính xác tình hình tài chính bên ngoài cũng như bên trong doanh nghiệp, cần tạo nên một luồng thông tin thông suốt liên tục giữa bộ phận phân tích tài chính và bộ phận tổng hợp, lập báo cáo tài chính, bảng cân đối kế toán. Với các thông tin bên ngoài doanh nghiệp, muốn nắm bắt được kịp thời thì bộ phận tài chính cần được nối mạng với các Ban chức năng khác Ngoài ra, để cho công tác hoạch định tương lai của doanh nghiệp có hiệu quả thì việc phân tích tài chính cần thực hiện một cách khách quan, và các thông tin sử dụng phải đảm bảo chất lượng. Vì nếu thông tin sử dụng thiếu chính xác sẽ dẫn đến những quyết định sai lầm, của người quản lý tài chính, ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình tài chính của doanh nghiệp. 3.3. KIẾN NGHỊ 3.3.1. Một số kiến nghị về phía nhà nước - Chính phủ cần có sự ổn định trong việc ban hành các chế độ quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh, tránh tình trạng chế độ chính sách thay đổi thường xuyên gây lúng túng cho doanh nghiệp trong quá trình quản lý hoạt động của mình. Bên cạnh đó cần tránh không để xảy ra tình trạng nhiều cơ quan cùng có những quy định khác nhau về cùng một lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác cũng cần phải thường xuyên thay đổi, chỉnh sửa những quy định chưa hợp lý và bổ sung thêm các quy định phù hợp để điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp theo yêu cầu của từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. - Chính phủ cần sớm thành lập một cơ quan chuyên thành lập số liệu để đưa ra hệ thống chỉ tiêu trung bình cho từng ngành để các doanh nghiệp có cơ sở chính xác trong việc đánh giá vị thế của doanh nghiệp mình, từ đó có biện pháp giải quyết các mặt yếu kém và phát huy những mặt mạnh của doanh nghiệp mình. - Chính phủ nên có chính sách xây dựng và phát triển thị trường tài chính ổn định để tạo ra nhiều kênh huy động vốn cho doanh nghiệp bằng cách phát hành trái phiếu, cổ phiếu, góp vốn liên doanh... thông qua các tổ chức tài chính trung gian khác nhau như : các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các quỹ đầu tư phát triển... 3.3.2. Kiến nghị với các ngành liên quan - Hoàn thiện công tác kế toán : hiện nay chế độ kế toán Việt Nam vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý, số liệu, sổ sách còn chưa thống nhất gây khó khăn cho doanh nghiệp và các cơ quan quản lý và Chính phủ. Do vậy, Bộ Tài chính cần có những quy định cụ thể và phù hợp hơn để hoàn thiện công tác kế toán doanh nghiệp nhằm cung cấp những thông tin hữu ích cho việc xem xét và ra các quyết định quản lý. - Bộ Tài chính cần có quy định yêu cầu các doanh nghiệp bắt buộc phải lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ nhằm cung cấp các thông tin về luồng tiền vào, ra trong kỳ, phản ánh trạng thái động của doanh nghiệp để bổ sung cho các tài liệu khác như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh khi đánh giá về hoạt động của doanh nghiệp. - Mặt khác, nên có quy định cụ thể về vấn đề các doanh nghiệp phải thực hiện công khai các báo cáo tài chính để làm cơ sở cho việc quản lý doanh nghiệp và phân tích tài chính được dễ dàng, thuận lợi hơn. Hiện nay chỉ có doanh nghiệp là có đủ tài liệu để phân tích tài chính còn những người ngoài doanh nghiệp chưa thể tìm hiểu cụ thể về doanh nghiệp mà mình quan tâm. - Các cơ quan kiểm toán Nhà nước cần thực hiện tốt nhiệm vụ của mình để đảm bảo tính khách quan của công tác kiểm toán, tăng cường sự kiểm tra đánh giá của nhà nước, đảm bảo công tác kiểm toán của các cơ quan này tiến hành tại doanh nghiệp đúng thời hạn, đầy đủ các nội dung nghiệp vụ, báo cáo kịp thời lên bộ tài chính những phát sinh bất hợp lý nhằm kiểm chứng tính chính xác của các số liệu tài chính của doanh nghiệp, góp phần mang lại một kết quả phân tích tài chính sát thực và chuẩn xác. - Cần tiến tới yêu cầu các doanh nghiệp phải thực hiện phân tích tài chính một cách nghiêm túc để tự đánh giá hoạt động tài chính của mình, đề ra phương hướng phát triển và báo cáo lên cơ quan quản lý cấp trên. Phân tích tài chính vẫn còn là vấn đề mới mẻ đối với các doanh nghiệp nên Chính phủ, Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan cần có những hướng dẫn cụ thể, phối hợp giúp đỡ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp về trình độ nghiệp vụ, trình độ kỹ thuật, đào tạo cán bộ phân tích và đánh giá tài chính trong quá trình thực hiện phân tích tài chính tại doanh nghiệp. KẾT LUẬN Hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp là một nhiệm vụ quan trọng của quản trị tài chính, một công cụ hữu hiệu luôn được các nhà quản trị doanh nghiệp quan tâm nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động tài chính nói riêng ở các doanh nghiệp. Qua kết quả phân tích tài chính, nhà quản lý có thể đưa ra các chiến lược tài chính trong tương lai. Chính vị vậy, công tác phân tích tài chính doanh nghiệp là một đòi hỏi bắt buộc với tất cả các doanh nghiệp nếu muốn tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. Sau thời gian Công ty dựa trên những kiến thức đã học được ở trường, em đã xem xét hoạt động phân tích tài chính tại Công ty những kết quả đã đạt được, những hạn chế còn tồn tại, đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện phân tích tài chính của Công ty. Tuy nhiên do còn hạn chế về trình độ nhận thức cũng như kiến thức thực tiễn nên những giải pháp em đưa ra chưa hẳn đã thích hợp và tối ưu nhưng cũng hi vọng có đóng góp nhỏ bé giúp cho công tác phân tích tài chính của Công ty ngày càng đạt được kết quả cao hơn. Trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề này, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của Ban Giám đốc Công ty, các anh chị trong Phòng Tài chính kế toán và của thầy giáo hướng dẫn thực tập PGS TS. VŨ DUY HÀO. Qua đây em xin chân thành cảm ơn quý Công ty và thầy giáo đã giúp đỡ em trong thời gian qua! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS.Lưu Thị Hương, Giáo trình tài chính doanh nghiệp, Nxb Thống kê. 2. PGS. TS Vũ Duy Hào (Chủ biên), Quản trị tài chính doanh nghiệp, Nxb Thống kê. 3. Nguyễn Tấn Bình, Phân tích hoạt động doanh nghiệp, Nxb Thống kê. 4. Nguyễn Tấn Bình (Chủ biên), Phân tích quản trị tài chính, Nxb Thống kê. 5. TS. Bùi Hữu Phước (Chủ biên), Tài chính doanh nghiệp, Nxb Thống kê. 6. Tạp chí kinh tế & phát triển 7. Và một số tài liệu khác. NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP Tên đơn vị thực tập Công ty TNHH CA BA Tên đề tài: “hoàn thiện phân tích tài chính tại công ty TNHH CABA” Nhận xét NGƯỜI NHẬN XÉT NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN Họ và tên giáo viên hướng dẫn: PGS TS VŨ DUY HÀO Sinh viên thực hiện : Hà Thanh Bình Lớp TC Khoá 36 Tên đề tài: “hoàn thiện phân tích tài chính tại công ty TNHH CABA” Nhận xét Điểm: Bằng Số:………………. Bằng Chữ:…………….. NGƯỜI NHẬN XÉT ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7852.doc
Tài liệu liên quan