Hoàn thiện phân tích tài chính doanh nghiệp ở Công ty TNHH quảng cáo Liên Minh

LỜI NÓI ĐẦU Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố như môi trường kinh doanh, trình độ quản lý của các nhà doanh nghiệp, đặc biệt là trình độ quản lý tài chính. Trình độ quản lý tài chính của các nhà quản lý thể hiện qua sự hiểu biết về tài chính của mình, tức là không chỉ nắm vững tình hình tài chính của công ty mà còn có khả năng xử lý các thông tin tài chính của thị trường. Nắm vững tình hình tài chính của công ty là nắm vữ

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1472 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện phân tích tài chính doanh nghiệp ở Công ty TNHH quảng cáo Liên Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng được sự sống còn của công ty, chính vì vậy phân tích tài chính đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý của các nhà doanh nghiệp. Tuy nhiên dường như phân tích tài chính vẫn chưa được chú trọng nhiều ở các doanh nghiệp ở Việt Nam, nhiều người vẫn còn mang suy nghĩ đánh đồng giữa công tác kế toán với công tác phân tích tài chính của công ty. Công ty TNHH quảng cáo Liên Minh cũng không là một ngoại lệ, chính vì điều này nên em chọn đề tài cho chuyên đề này là: “Hoàn thiện phân tích tài chính doanh nghiệp ở công ty TNHH quảng cáo Liên Minh” nhằm mục đích nắm bắt tình hình tài chính của công ty từ đó đưa ra được những vấn đề cần quan tâm về phía công ty TNHH quảng cáo Liên Minh, cũng như việc nêu lên tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính đối với công ty TNHH quảng cáo Liên Minh, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đã ra nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO. Công ty TNHH quảng cáo Liên Minh là công ty có ngành nghề kinh doanh đa dạng. Vì vậy bản thân điều này đã cho thấy sự phức tạp của việc phân tích tài chính của công ty, chính vì vậy cần phải phân tích một cách cẩn trọng hơn. Dựa trên những dữ liệu thu được từ công ty cũng như công tác phân tích, kết cấu chuyên đề bao gồm: Chương I: Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng phân tích tài chính doanh nghiệp ở công ty TNHH quảng cáo Liên Minh. Chương III: Giải pháp hoàn thiện phân tích tài chính của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh. Do điều kiện thời gian và trình độ có hạn nên chuyên đề này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định cần được bổ sung. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và ban lãnh đạo công ty Liên Minh. LỜI CẢM ƠN Chuyên đề này được hoàn thành với sự giúp đỡ của khoa Ngân hàng - Tài chính và nhân viên công ty TNHH quảng cáo Liên Minh. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn Hữu Tài đã nhiệt tình hướng dẫn em trong suốt quá trình làm chuyên đề. Em xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo trong công ty TNHH quảng cáo Liên Minh. Do thời gian có hạn nên chuyên đề này không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để chuyên đề này được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn./. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trong cơ chế thị trường, cơ chế hoạt động của mỗi doanh nghiệp luôn tồn tại nhiều hoạt động khác nhau diễn ra đồng thời, một doanh nghiệp hoạt động tốt là một doanh nghiệp có thể phối hợp nhịp nhàng các hoạt động đó với nhau. Các hoạt động hỗ trợ cho nhau, thúc đẩy nhau giúp cho cả bộ máy doanh nghiệp được vận hành một cách tốt nhất. Các hoạt động đó bao gồm: hoạt động đầu tư, hoạt động quản trị nguồn nhân lực, hoạt động marketing, hoạt động tài chính doanh nghiệp. Các hoạt động này chỉ được thực hiện có hiệu quả khi nhà quản lý doanh nghiệp nắm bắt được thực trạng tài chính của doanh nghiệp để từ đó có thể xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh với số liệu quá khứ, thông qua đó đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh, những rủi ro tương lai và triển vọng phát triển của doanh nghiệp, từ đó có biện pháp can thiệp kịp thời để điều chỉnh các hoạt động trong doanh nghiệp. Nhưng để nắm bắt được thực trạng tài chính doanh nghiệp, không có cách nào khác là phải nghiên cứu sâu sắc các báo cáo tài chính, phải tiến hành công tác phân tích tài chính thật tỉ mỉ, thật khoa học. Những đặc điểm về môi trường hoạt động. Để đạt mức doanh lợi mong muốn, doanh nghiệp cần phải có những quyết định về tổ chức hoạt động sản xuất và vận hành quá trình trao đổi. Mọi quyết định đều phải gắn kết với môi trường xung quanh. Bao quanh doanh nghiệp là một môi trường kinh tế - xã hội phức tạp và luôn biến động. Có thể kể đến một số yếu tố khách quan tác động trực tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp luôn phải đối đầu với công nghệ . Sự phát triển của công nghệ là một yếu tố góp phần thay đổi phương thức sản xuất, tạo ra nhiều kỹ thuật mới dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ trong quản lý tài chính doanh nghiệp. Doanh nghiệp là đối tượng quản lý của Nhà Nước. Sự thắt chặt hay nới lỏng hoạt động của doanh nghiệp được điều chỉnh bằng luật và các văn bản quy phạm pháp luật, bằng cơ chế quản lý tài chính. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phải dự tính được khả năng xảy ra rủi ro, đặc biệt là rủi ro tài chính để có cách ứng phó kịp thời và đúng đắn. Doanh nghiệp, với sức ép của thị trường cạnh tranh, phải chuyển dần từ từ chiến lược trọng cung cổ điển sang chiến lược trọng cầu hiện đại. Những đòi hỏi về chất lượng, mẫu mã, giá cả hàng hóa, về chất lượng dịch vụ ngày càng cao hơn, tinh tế hơn của khách hàng buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi chính sách sản phẩm, đảm bảo sản xuất - kinh doanh có hiệu quả và chất lượng cao. Doanh nghiệp thường phải đáp ứng được các đòi hỏi của các đối tác về mức vốn chủ sở hữu trong cơ cấu vốn. Sự tăng, giảm vốn chủ sở hữu có tác động đáng kể tới hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt trong các điều kiện kinh tế khác nhau. Muốn phát triển bền vững, các doanh nghiệp làm chủ và dự đoán trước được sự thay đổi của môi trường để sẵn sàng thích nghi với nó. Trong môi trường đó, quan hệ tài chính của doanh nghiệp được thể hiện rất phong phú và đa dạng. Khái niệm tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính chủ yếu bao gồm: a ) Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà Nước. Đây là mối quan hệ phát sinh khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà Nước, khi Nhà Nước góp vốn vào doanh nghiệp. b ) Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính. Quan hệ này được thể hiện thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Trên thị trường tài chính, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn, có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn. Ngược lại, doanh nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, trả lãi cổ phần cho các nhà tài trợ. Doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng, đầu tư chứng khoán bằng số tiền tạm thời chưa sử dụng. c ) Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác. Trong nền kinh tế, doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp khác trên thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường sức lao động. Đây là những thị trường mà tại đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm lao động vv…Điều quan trọng là thông qua thị trường, doanh nghiệp có thể xác định được nhu cầu hàng hóa và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị nhằm thỏa mãn nhu cầu thị trường. d ) Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp. Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản xuất - kinh doanh, giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn. Các mối quan hệ này được thể hiện thông qua hàng loạt chính sách của doanh nghiệp như: chính sách cổ tức (phân phối thu nhập), chính sách đầu tư, chính sách về cơ cấu vốn, chi phí vv… Cơ sở tài chính doanh nghiệp. Một doanh nghiệp, muốn tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh, cần phải có một lượng tài sản phản ánh bên tài sản của bảng cân đối kế toán. Nếu như toàn bộ tài sản do doanh nghiệp nắm giữ đượcđánh giá tại một thời điểm nhất định thì sự vận động của chúng - kết quả của quá trình trao đổi - chỉ có thể được xác định cho một thời kỳ nhất định và được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh. Quá trình hoạt động của doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể về quy trình công nghệ và tính chất hoạt động. Sự khác biệt này phần lớn do đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của từng doanh nghiệp quyết định. Cho dù có sự khác biệt này, người ta vẫn có thể khái quát những nét chung nhất của các doanh nghiệp bằng hàng hóa dịch vụ đầu vào và hàng hóa dịch vụ đầu ra. Một hàng hóa dịch vụ đầu vào hay một yếu tố sản xuất là một hàng hóa hay dịch vụ mà các doanh nghiệp mua sắm để sử dụng trong quá trình sản xuất - kinh doanh của họ. Các hàng hóa dịch vụ đầu vào được kết hợp với nhau để tạo ra các hàng hóa dịch vụ đầu ra - đó là hàng loạt các hàng hóa, dịch vụ có ích được tiêu dùng hoặc được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh khác. Như vậy, trong một thời kỳ nhất định, các doanh nghiệp đã chuyển hóa các đầu vào thành các hàng hóa dịch vụ đầu ra để trao đổi (bán). Mối quan hệ giữa tài sản hiện có và hàng hóa dịch vụ đầu vào, hàng hóa dịch vụ đầu ra (tức là quan hệ giữa bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh) có thể mô tả sơ đồ như sau: Hàng hóa và dịch vụ (mua vào) Sản xuất- chuyển hóa Hàng hóa và dịch vụ (bán ra) Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ có một loại tài sản đặc biệt – đó là tiền. Chính dự trữ tiền cho phép doanh nghiệp mua các hàng hóa, dịch vụ cần thiết để tạo ra những hàng hóa và dịch vụ phục vụ cho mục đích trao đổi. Mọi quá trình trao đổi đều được thực hiện thông qua trung gian là tiền và khái niệm dòng vật chất và dòng tiền phát sinh từ đó, tức là sự dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ và sự dịch chuyển tiền giữa các đơn vị, tổ chức kinh tế. Như vậy, tương ứng với dòng vật chất đi vào (hàng hóa, dịch vụ đầu vào) là dòng tiền đi ra; ngược lại, tương ứng với dòng tiền vật chất đi ra (hàng hóa, dịch vụ đầu ra) là dòng tiền đi vào. Sản xuất, chuyển hóa là quá trình công nghệ. Một mặt nó được đặc trưng bởi thời gian chuyển hóa hàng hóa và dịch vụ, mặt khác, nó đặc trưng bởi các yếu tố cần thiết cho sự vận hành – đó là tư liệu lao động và sức lao động. Quá trình công nghệ này có tác dụng quyết định tới cơ cấu vốn và hoạt động trao đổi của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thực hiện hoạt động trao đổi hoặc với thị trường cung cấp hàng hóa dịch vụ đầu vào hoặc với thị trường phân phối, tiêu thụ hàng hóa dịch vụ đầu ra và tùy thuộc vào tính chất sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Các quan hệ tài chính của doanh nghiệp được phát sinh từ chính quá trình trao đổi đó. Quá trình này quyết định sự vận hành của sản xuất và làm thay đổi cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Phân tích các quan hệ tài chính của doanh nghiệp dựa trên hai khái niệm căn bản là dòng và dự trữ. Dòng chỉ xuất hiện trên cơ sở tích lũy ban đầu những hàng hóa, dịch vụ hoặc tiền trong mỗi doanh nghiệp và nó sẽ làm thay đổi khối lượng tài sản tích lũy của doanh nghiệp. Một khối lượng hàng hóa, tài sản hoặc tiền được đo tại một thời điểm là một khoản dự trữ. Trong khi một khoản dự trữ chỉ có ý nghĩa tại một thời điểm nhất định thì các dòng chỉ được đo trong một thời kỳ nhất định. Quan hệ giữa dòng và dự trữ là cơ sở nền tảng của tài chính doanh nghiệp. II. Phân tích tài chính doanh nghiệp. 2.1. Mục tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính doanh nghiệp là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Quy trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi trong mọi đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức, được áp dụng trong các tổ chức xã hội, tập thể và cơ quan quản lý, tổ chức công cộng. Đặc biệt sự phát triển của các doanh nghiệp, của các ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là có ích và vô cùng cần thiết. Những người phân tích tài chính ở những cương vị khác nhau nhằm các mục tiêu khác nhau. a ) Đối với nhà quản trị. Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để định hướng các quyết định của ban tổng giám đốc, giám đốc tài chính, dự báo tài chính: kế hoạch đầu tư, ngân quỹ và kiểm soát các hoạt động quản lý. b ) Đối với nhà đầu tư. Nhà đầu tư cần biết tình hình thu nhập của chủ sở hữu – lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Họ quan tâm tới phân tích tài chính để nhận biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Đó là một trong những căn cứ giúp họ ra quyết định bỏ vốn vào doanh nghiệp hay không? c ) Đối với người cho vay. Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của khách hàng. Chẳng hạn, để quyết định cho vay, một trong những vấn đề mà người cho vay cần xem xét là doanh nghiệp thực sự có nhu cầu vay hay không? Khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào? Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với người hưởng lương trong doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư…Dù họ công tác ở những lĩnh vực khác nhau, nhưng họ đều muốn hiểu biết về hoạt động của doanh nghiệp để thực hiện tốt hơn công việc của họ. Như vậy, mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là đánh giá khả năng xảy ra rủi ro phá sản tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Nói cách khác, phân tích tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính. 2.2. Những thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn thông tin: từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin đó đều giúp cho nhà phân tích có thể đưa ra được những nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng. Trong những thông tin bên ngoài, cần lưu ý thu thập những thông tin chung (thông tin liên quan đến trạng thái nền kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính sách thuế, lãi suất), thông tin về ngành kinh doanh (thông tin liên quan đến vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành, các sản phẩm của ngành, tình trạng công nghệ, thị phần…) và các thông tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp (các thông tin mà các doanh nghiệp phải báo cáo cho các cơ quan quản lý như: tình hình quản lý, kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp…). Tuy nhiên, để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp, có thể sử dụng các thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng những thông tin đáng giá cho phân tích tài chính. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng có nghĩa vụ cung cấp những thông tin kế toán cho các đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính – được hình thành thông qua xử lý các báo cáo kế toán chủ yếu đó là: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, ngân quỹ (báo cáo lưu chuyển tiền tệ). a ) Bảng cân đối kế toán. Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý với doanh nghiệp. Thông thường bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán: một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp. Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền sử dụng và quản lý của doanh nghiệp: đó là tài sản cố định, tài sản lưu động. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo: đó là vốn của chủ (vốn tự có) và các khoản nợ. Các khoản mục trên bảng cân đối kế toán được sắp xếp theo khả năng chuyển hóa thành tiền giảm dần từ trên xuống. Bên tài sản: tài sản lưu động (tiền và chứng khoán ngắn hạn dễ bán, các khoản phải thu, dự trữ); tài sản cố định hữu hình và vô hình. Bên nguồn vốn: Nợ ngắn hạn (nợ phải trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp, phải trả khác, nợ ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác). Nợ dài hạn (nợ vay dài hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, vay bằng cách phát hành trái phiếu). Vốn chủ sở hữu (thường bao gồm: vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu mới). Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh qui mô và kết cấu các loại tài sản, bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp. Bên tài sản và bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán đều có các cột chỉ tiêu: số đầu kỳ, số cuối kỳ. Ngoài các khoản mục trong bảng còn có một khoản mục ngoài bảng cân đối kế toán như: một số tài sản thuê ngoai, vật tư, hàng hóa nhận giữ hộ, nhận gia công, hàng hóa nhận bán hộ, ngoại tệ các loại vv… Nhìn vào bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán là tư liệu quan trọng bậc nhất giúp cho các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp. b ) Báo cáo kết quả kinh doanh. Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh. Khác với bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng ghoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh cũng giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hóa dịch vụ, so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định được kết quả sản xuất – kinh doanh: lãi hay lỗ trong năm. Như vậy, báo cáo két quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất – kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Những khoản mục chủ yếu được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh: doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính, doanh thu từ hoạt động bất thường và chi phí tương ứng với từng hoạt động đó. Các loại thuế: VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, về bản chất, không phải là doanh thu không phải là chi phí của doanh nghiệp nên không được báo cáo trên kết quả kinh doanh. c ) Ngân quỹ (báo cáo lưu chuyển tiền tệ). Để đánh giá một doanh nghiệp có đảm bảo được chi trả hay không, cần tìm hiểu tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp. Ngân quỹ thường được xác định cho thời gian ngắn hạn (thường là từng tháng). Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập quỹ (thu ngân quỹ), bao gồm: dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh, dòng tiền xuất quỹ đầu tư tài chính, dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường. Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ (chi ngân quỹ), bao gồm: dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh, dòng tiền xuất quỹ thực hiện đầu tư tài chính, dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất thường. Trên cơ sở dòng tiền xuất quỹ và dòng tiền nhập quỹ, nhà phân tích thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó, có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục đích đảm bảo chi trả. 2.3. Phương pháp và nội dung phân tích tài chính. 2.3.1. Phương pháp phân tích tài chính. Người ta sử dụng rất nhiều các phương pháp phân tích tài chính khác nhau nhưng trên thực tế hiện nay thì có 3 phương pháp được sử dụng phổ biến nhất: phương pháp so sánh, phương pháp tỷ lệ và phương pháp Dupont. a) Phương pháp so sánh Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Phương pháp này dùng để xây dựng xu hướng phát triển và mức độ biến động của các chỉ tiêu phát triển. Nội dung so sánh gồm: - So sánh kỳ này với kỳ trước để thấy rõ hơn xu thế thay đổi về tình hình tài chính của doanh nghiệp - So sánh giữa số liệu thực hiện với số kế hoạch - So sánh số liệu của doanh nghiệp với số liệu của doanh nghiệp khác hoặc với số liệu trung bình của ngành. Đây là một phương pháp đơn giản, dễ tính toán, dễ thực hiện. Sử dụng phương pháp này giúp cho các nhà phân tích đánh giá được vị thế của doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp, xem xét việc thực hiện kế hoạch đã đề ra thông qua đó nhà quản lý đưa ra được kế hoạch chiến lược hoạt động cho thời gian tới. Tuy nhiên kết quả thu được khi sử dụng phương pháp này chưa phản ánh một cách tổng quát nhất thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Do vậy khi tiến hành phân tích tài chính nhà phân tích thường sử dụng phối hợp nhiều phương pháp. b) Phương pháp tỷ lệ Là phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính. Về nguyên tắc khi sử dụng phương pháp này cần xác định các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu: có thể là mức trung bình ngành hay kỳ trước. Để đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp cần so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Trong phân tích tài chính, các tỷ số tài chính chủ yếu thường được phân thành 4 nhóm chính: * Tỷ số về khả năng thanh toán: Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. * Tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp. * Tỷ số về khả năng hoạt động: Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp. * Tỷ số về khả năng sinh lãi: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất - kinh doanh tổng hợp nhất của một doanh nghiệp. Tuỳ theo mục tiêu phân tích tài chính mà nhà phân tích chú trọng nhiều hơn đến nhóm tỷ số này hay nhóm tỷ số khác. Mỗi nhóm tỷ số trên bao gồm nhiều tỷ số và trong từng trường hợp các tỷ số được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích. Việc phân tích các tỷ số sẽ có ý nghĩa hơn nếu sử dụng số liệu trong các báo cáo tài chính để minh hoạ bản chất, cách tính toán và ý nghĩa các con số. Vì lẽ đó các số liệu được cung cấp trong Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh. c ) Phương pháp Dupont Bên cạnh đó, các nhà phân tích còn sử dụng phương pháp phân tích tài chính DUPONT. Với phương pháp này, các nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như thu nhập trên tài sản (ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó với tỷ số tổng hợp. Phương pháp phân tích Dupont cho thấy mối quan hệ tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính đặc trưng. Biểu đồ: Error! Bookmark not defined. Mục đích của phương pháp này là cung cấp cho nhà quản trị một thước đo về khả năng sinh lời của doanh nghiệp và giúp cho nhà quản trị có thể tìm hiểu và tiếp cận các nguyên nhân gây ra hiện tượng đó. Hai tỷ lệ phổ biến để phân tích là ROA và ROE Lợi nhuận sau thuế Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần ROA = = x Tổng TS bình quân Doanh thu thuần Tổng TS bình quân ROA phụ thuộc vào 2 yếu tố: lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu là bao nhiêu? một đồng tài sản thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Sự phân tích cho phép xác định được nguồn gốc làm tăng hay giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận sau thuế ROE = Vốn CSH bình quân Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần TổngTS bình quân = x x Doanh thu thuần Tổng TS bình quân Vốn CSH bình quân Phân tích ROE cho thấy khi hệ số nợ tăng thì tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu cũng cao hơn và như vậy tỷ lệ nợ cao sẽ khuyếch trương một hệ quả về lợi nhuận là nếu tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản cao thì tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu sẽ càng cao, ngược lại khi doanh nghiệp thua lỗ thì thua lỗ càng nặng. 2.3.2.Nội dung phân tích tài chính. a ) Phân tích các tỷ số tài chính Trong phân tích tài chính, các chỉ số tài chínhchủ yếu thường được phân thành bốn nhóm chính: + Tỷ số về khả năng thanh toán: Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. + Tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp. + Tỷ số về khả năng sinh lãi: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất – kinh doanh tổng hợp nhất của doanh nghiệp. + Tỷ số về khả năng hoạt động: Nhóm chỉ tiêu này đặc trưng cho khả năng sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp. Tùy theo mục tiêu phân tích tài chính mà các nhà phân tích chú trọng nhiều hơn tới nhóm chỉ tiêu này hay nhóm chỉ tiêu khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn đặc biệt quan tâm tới tình hình khả năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà đầu tư dài hạn quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động và hiệu quả sản xuất – kinh doanh. Họ cũng cần nghiên cứu tình hình về khả năng thanh toán để đánh giá khả năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thanh toán hiện tại và xem xét lợi nhuận để dự tính khả năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chú trọng tới tỷ số về cơ cấu vốn vì sự thay đổi của tỷ số này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích của họ. Mỗi nhóm tỷ số trên bao gồm nhiều tỷ số và trong từng trường hợp các tỷ số được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích. Phân tiếp theo sẽ đề cập tới những tỷ số chủ yếu nhất, phố biến nhất được dùng trong phân tích, đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp. Các tỷ số về khả năng thanh toán: Tài sản lưu động Khả năng thanh toán hiện hành = Nợ ngắn hạn Tài sản lưu động thông thường bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng (tương đương tiền), các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác…Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định tới một năm. Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó. Để đánh giá khả năng thanh toán các chủ nợ ngắn hạn khi đến hạn, các nhà phân tích còn quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng hay vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cũng là một yếu tố quan trọng và cần thiết cho việc đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của một doanh nghiệp. Nó được xác định là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và tổng nợ ngắn hạn, hoặc là phần chênh lệch giữa vốn thường xuyên ổn định với tài sản cố định ròng. Khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán , mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và nắm bắt thời cơ thuận lợi của nhiều doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào vốn lưu động ròng. Do vậy , sự phát triển của không ít doanh nghiệp còn được thể hiện ở sự tăng trưởng ở vốn lưu động dòng. Tỷ số khả năng thanh toán nhanh: là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn.Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, tỷ số khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ và được xác định bằng cách lấy tài sản lưu động trừ phần dự trữ chia cho nợ ngắn hạn. tài sản lưu động – dự trữ Khả năng thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn Tỷ số dự trữ (tồn kho) trên vốn lưu động ròng: tỷ số này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm vốn lưu động ròng. Nó được tính bằng cách chia dự trữ cho vốn lưu động ròng. Các tỷ số về khả năng cân đối vốn: Tỷ số này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn của chủ sở hữu của công ty để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự đảm bao an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro xảy ra trong sản xuất – kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chụi. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ gia tăng đáng kể. Tỷ số nợ trên tổng tài sản (hệ số nợ): tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ thích tỷ số nợ trên tổng tài sản vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì các khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp bị phá sản. Trong khi đó, Các chủ sở hữu doanh nghiệp ưa thích tỷ số này cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Nhưng nếu tỷ số nợ quá cao, doanh nghiệp dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán lãi vay hoặc số lần có thể trả lãi: thể hiện ở tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Nó cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc không trả được các khoản nợ này sẽ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản. Các tỷ số về khả năng hoạt động: Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử ._.dụng tài sản của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng sản phẩm của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các tỷ số này để xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Vòng quay tiền: Tỷ số này được xác định bằng cách chia doanh thu trong năm cho tổng số tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân (chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng ); nó cho biết số vòng quay của tiền trong năm. Vòng quay dự trữ (tồn kho): Là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa doanh thu trong năm và giá trị dự trữ (nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm) bình quân. 360 Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu x Doanh thu Trong phân tích tài chính, kỳ thu tiền được sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp và các khoản trả trước. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định: chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm. Doanh thu Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Tài sản cố định Tài sản cố định ở đây được xác định theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó được đo bằng tỷ số giữa doanh thu và tổng tài sản và cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Doanh thu Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Tài sản Các tỷ số về khả năng sinh lãi: Nếu như các nhóm chỉ số trên đây phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt của doanh nghiệp thì tỷ số về khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất – kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp. Thu nhập sau thuế Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Doanh thu Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế cho doanh thu. Nó phản ánh số lợi nhuận sau thuế trong một trăm đồng doanh thu. Tỷ số thu nhập sau thuế trên vốn chhủ sở hữu (doanh lợi vốn chủ sở hữu): ROE Thu nhập sau thuế ROE = Vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bị vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Doanh lợi tài sản: ROA Thu nhập trước thuế & L ROA = Tài sản Hoặc; Thu nhập sau thuế ROA = Tài sản Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn thu nhập trước thuế và lãi hoặc thu nhập sau thuế để so sánh với tổng tài sản. Ngoài các tỷ số trên đây, các nhà phân tích cũng đặc biệt chú ý tới việc tính toán và phân tích những tỷ số liên quan tới các chủ sở hữu và giá trị thị trường. Chẳng hạn: Thu nhập sau thuế -Tỷ lệ hoàn vốn cổ phần = Vốn cổ phần Thu nhập sau thuế -Thu nhập cổ phiếu = Số lượng cổ phiếu thường Lãi cổ phiếu -Tỷ lệ trả cổ tức = Thu nhập cổ phiếu vv… Khi sử dụng phương pháp phân tích tài chính DUPONT nhằm đánh giá tác động tương hỗ giữa các tỷ số tài chính, nhà phân tích có thể thực hiện việc tách ROE như sau: -Tách ROE TNST TNST TS ROE = = x VCSH TS VCSH = ROA x EM (số nhân vốn) ROE phản ánh mức sinh lợi của một đồng vốn chủ sơ hữu – mức tăng giá trị tài sản cho các chủ sơ hữu. Còn ROA phản ánh mức sinh lợi của toàn bộ danh mục tài sản của doanh nghiệp – khả năng quản lý tài sản của các nhà quản lý doanh nghiệp. EM là hệ số nhân vốn chủ sở hữu, nó phản ánh mức độ huy động vốn từ bên ngoài của doanh nghiệp. Nếu EM tăng, điều đó chứng tỏ doanh nghiệp tăng vốn từ bên ngoài. Tách ROA TNST TNST DT ROE = = x = PM x AU TS DT TS PM : Doanh lợi tiêu thụ phản ánh tỷ trọng lợi nhuận sau thuế trong doanh thu của doanh nghiệp. Khi PM tăng, điều đó thể hiện doanh nghiệp quản lý doanh thu và quản lý chi phí có hiệu quả. AU : Hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Như vậy, qua hai lần phân tích, ROE có thể được biến đổi như sau: ROE = PM x AU x EM Đến đây, có thể nhận biết được các yếu tố cơ bản tác động tới ROE của một doanh nghiệp: đó là khả năng tăng doanh thu, công tác quản lý chi phí, quản lý tài sản và đòn bẩy tài chính. Các thành phần trên lại được phân tích chi tiết hơn tùy thuộc vào mục tiêu cần đạt của nhà phân tích. Với trình tự hạch toán như trên, có thể xác định các nguyên nhân làm tăng, giảm ROE của doanh nghiệp. b ) Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn (bảng tài trợ). Trong phân tích nguồn vốn, người ta thường xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Một trong những công cụ hữu hiệu của nhà quản lý tài chính là biểu kê nguồn vốn và sử dụng vốn (bảng tài trợ). Nó giúp nhà quản lý xác định rõ các nguồn cung ứng vốn và việc sử dụng các nguồn vốn đó. Để lập được biểu này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi các khoản mục trên bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột: sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc: Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc các khoản mục bên nguồn vốn giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng vốn. Nếu các khoản mục bên tài sản giảm hoặc các khoản mục bên nguồn vốn tăng thì điều đó thể hiện việc tạo nguồn. Việc thiết lập bảng tài trợ là cơ sở để chỉ ra những trọng điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để đầu tư. c ) Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian. Trong phân tích tài chính, các nhà phân tích thường kết hợp chặt chẽ những đánh giá về trạng thái tĩnh với những đánh giá về trạng thái động để đưa về một bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính của doanh nghiệp.Nếu như trạng thái tĩnh được thể hiện qua bảng cân đối kế toán thì trạng thái động (sự dịch chuyển của các dòng tiền) được phản ánh qua bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn, qua báo cáo kết quả kinh doanh. Thông qua các báo cáo tài chính này, các nhà phân tích có thể đánh giá sự thay đổi về vốn lưu động ròng, về nhu cầu vốn lưu động, từ đó có thể đánh giá những thay đổi về ngân quỹ của doanh nghiệp. Như vậy, giữa các báo cáo tài chính có mối liên hệ rất chặt chẽ: những thay đổi trên bảng cân đối kế toán lập đầu kỳ và cuối kỳ cùng với khả năng tự tài trợ được tính từ báo cáo kết quả kinh doanh được thể hiện qua bảng tài trợ và liên quan mật thiết tới ngân quỹ của doanh nghiệp. Khi phân tích trạng thái động, trong một số trường hợp nhất định, người ta còn chú trọng tới các chỉ tiêu quản lý trung gian nhằm đánh giá chi tiết hơn tình hình tài chính và dự báo những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Những chỉ tiêu này là cơ sở để xác lập nhiều hệ số (tỷ lệ) rất có ý nghĩa về hoạt động, cơ cấu vốn, vv… của doanh nghiệp. Lãi gộp = Doanh thu – Giá vốn bán hàng Thu nhập trước khấu hao và lãi = Lãi gộp – Chi phí bán hàng, quản lý Thu nhập trước thuế và lãi = Thu nhập trước khấu hao và lãi – khấu hao Thu nhập trước thuế = Thu nhập trước thuế và lãi – Lãi vay Thu nhập sau thuế = Thu nhập trước thuế - thuế thu nhập doanh nghiệp Trên cơ sở đó, nhà phân tích có thể xác định mức tăng tuyệt đối và mức tăng tương đối của các chỉ tiêu qua các thời kỳ để nhận biết tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Đồng thời, nhà phân tích cũng cần so sánh chúng với các chỉ tiêu cùng loại của các doanh nghiệp cùng ngành để đánh giá vị thế của doanh nghiệp. 2.4. Nhân tố ảnh hưởng tới phân tích tài chính doanh nghiệp. a ) Nhân tố chủ quan. Sự đầy đủ và chất lượng thông tin sử dụng. Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lượng phân tích tài chính bởi một khi thông tin sử dụng không đầy đủ, phiến diện, không chính xác, không phù hợp thì kết quả mà phân tích đem lại chỉ là hình thức. Có thể nói, thông tin trong phân tích tài chính là nền tảng của phân tích tài chính. Từ những thông tin bên trong trực tiếp phản ánh tài chính doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài liên quan đến môi trường hoạt động của doanh nghiệp, người phân tích có thể thấy được tình hình tài chính doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và dự đoán xu hướng phát triển trong tương lai. Tình hình nền kinh tế trong và ngoài nước không ngừng biến động tác động hàng ngày đến điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, tiền lại có giá trị theo thời gian. Do đó, tính kịp thời, giá trị dự đoán là đặc điểm cần thiết làm nên sự phù hợp của thông tin. Thiếu đi sự chính xác, kịp thời, phù hợp, thông tin sẽ không còn độ tin cậy và điều này tất yếu ảnh hưởng đến phân tích tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính sẽ trở nên đầy đủ và có ý nghĩa hơn nếu có sự tồn tại của hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Đây là cơ sở để tham chiếu trong quá trình phân tích. Người ta chỉ có thể nói các tỷ lệ tài chính của doanh nghiệp là cao hay thấp, tốt hay xấu khi đem nó so sánh với các tỷ lệ tương ứngcủa doanh nghiệp khác có đặc điểm và điều kiện sản xuất, kinh doanh tương tự mà đại diện ở đâylà các chỉ tiêu trung bình ngành. Thông qua đối chiếu với hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, nhà quản lý tài chính biết được vị thế của doanh nghiệp mình, từ đó đánh giá được thực trạng tài chính doanh nghiệp cũng như hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mình. Trình độ cán bộ phân tích. Có được thông tin đầy đủ, phù hợp, chính xác nhưng tập hợp thông tin như thế nào và xử lý thông tin ra sao để đưa lại kết quả phân tích tài chính có chất lượng cao lại là điều không đơn giản. Nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ cán bộ thực hiện phân tích. Từ các thông tin thu thập được, các cán bộ phân tích phải tính toán các chỉ tiêu, thiết lập các bảng biểu, tuy nhiên đó chỉ là những con số và nếu chúng để riêng lẻ thì bản thân chúng không nói lên điều gì. Nhiệm vụ của người phân tích là phải gắn kết, tạo lập các mối liên hệ giữa các chỉ tiêu, kết hợp với các thông tin về điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp để lý giải tình hình tài chính của doanh nghiệp, xác định thế mạnh, điểm yếu cũng như nguyên nhân của những điểm yếu trên. Hay nói cách khác, cán bộ phân tích là người làm cho các con số biết nói. Chính tầm quan trọng và sự phức tạp của phân tích tài chính đòi hỏi cán bộ phân tích phải có trình độ chuyên môn cao. Công nghệ và phần mềm sử dụng trong phân tích tài chính. Công tác phân tích tài chính đòi hỏi số liệu tập hợp với số lượng lớn, nhiều nguồn, phải kiểm tra mức độ chính xác, tin cậy, nó cũng đòi hỏi khối lượng tính toán nhiều, có những phép tính phức tạp, dự báo chính xác, lưu trữ lượng thông tin lớn. Vì thế, nếu chỉ đơn thuần làm bằng phương pháp thủ công thì tốc độ rất chậm và không đáp ứng được nhu cầu ra các quyết định nhanh chóng trong giai đoạn kinh tế hiện nay. Chỉ có các công nghệ và phần mềm chuyên dụng sử dụng cho phân tích tài chính mới cho phép phân tích tài chính chính xác, kịp thời đáp ứng nhu cầu về quản lý tài chính doanh nghiệp. Sự quan tâm của lãnh đạo doanh nghiệp. Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của phân tích tài chính bởi vì nếu ban lãnh đạo hiểu được tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính thì mới đầu tư kinh phí, mua sắm các phần mềm phân tích tài chính, bố trí phân công cụ thể đội ngũ nhân viên phân tích, xây dựng các quy trình phân tích khoa học cho nhân viên thực hiện, chỉ đạo sự phối hợp giữa các phòng ban trong việc cung cấp thông tin, hồi âm kết quả, áp dụng các giải pháp mà việc phân tích tài chính đưa ra để làm tốt hơn quá trình phân tích sau Tóm lại, trong công tác phân tích tài chính của doanh nghiệp, cần phân tích đầy dủ các nội dung cần thiết Chương tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu thực trạng phân tích tài chính doanh nghiệp ở công ty TNHH quảng cáo Liên Minh. b ) Nhân tố khách quan. Bao gồm yếu tố thuộc môi trường kinh tế vĩ mô. + Các chính sách của Nhà Nước. + Công nghệ. + Tác động của các thị trường như: thị trường tài chính, thị trường tỷ giá, lạm phát… CHƯƠNG II THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Ở CÔNG TY TNHH QUẢNG CÁO LIÊN MINH I. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh. Quá trình hình thành. Công ty TNHH quảng cáo Liên Minh được thành lập ngày 26/06/2000 do sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp. Giấy phép kinh doanh số: 0102000764. Mã số thuế: 0101039691. Tài khoản số: 0011000268348 (VNĐ) 0011370268358 (USD) Ngân hàng: Sở giao dịch - Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Tên giao dịch: ALLIANCE ADVERTISING COMPANY LIMITED Tên viết tắt: ALICOM CO, LTD. Địa chỉ trụ sở chính: 49 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội Điện thoại; 048310358 Đăng ký lần đầu : 26/06/2000 Đăng ký thay đổi lần thứ hai: 14/10/2005 Công ty TNHH quảng cáo Liên Minh có vốn điều lệ là: 1.900.000.000 đồng. Công ty TNHH quảng cáo Liên Minh có đầy đủ tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự theo luật định, hoạch toán kinh tế độc lập, tự chụi trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong tổng số vốn do công ty quản lý, được mở tài khoản tại ngân hàng, có tài sản, sử dụng con dấu theo sự quản lý của Nhà nước đồng thời được tổ chức quản lý theo điều lệ của công ty. Là đơn vị hạch toán độc lập nên công ty phải thực hiện chức năng kinh doanh đạt hiệu quả và tuân thủ theo các nguyên tắccủa cơ chế thị trường. Ngành, nghề kinh doanh chủ yếu là: Dịch vụ quảng cáo thương mại; Buôn bán vật tư, thiết bị phục vụ ngành quảng cáo; Tổ chức biểu diễn nghệ thuật; In và các dịch vụ khác liên quan đến in; In, sao băng hình, đĩa hình (được phép lưu hành) Tổ chức hội trợ, triển lãm thương mại; Đại lý bán xuất bản phẩm được phép lưu hành; Mua bán hàng tiêu dùng (chủ yếu là hàng dùng làm quà tặng, khuyến mại) Nghiên cứu, phân tích thị trường và môi giới thương mại; Sản xuất và phát hành phim ảnh, các chương trình nghe nhìn (trừ các chương trình Nhà Nước cấm) Hoạt động kinh doanh bổ trợ cho công nghiệp phim ảnh và video (biên tập, lồng tiếng, phụ đề, đồ họa) Đào tào dạy nghề; quay phim, dựng phim, kỹ thuật viên sản xuất phim Mua bán cho thuê các thiết bị nghe nhìn; Tổ chức các sự kiện: khai trương, động thổ, hội nghị , hội thảo; Thi công, trang trí nội ngoại thất. Đến nay công ty đã có một mạng lưới khách hàng rộng lớn. Với lĩnh vực kinh doanh chính là quảng cáo. Cơ cấu tổ chức và chức năng các phòng ban. Bộ máy tổ chức, quản lý hoạt động của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh bao gồm: HỘI ĐỒNG THÀNH VIÊN GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC Phòng tài chính - kế toán Phòng thiết kế Phòng kinh doanh Phòng tư vấn bán hàng Phòng hỗ trợ kinh doanh Chức năng của bộ máy tổ chức và quản lý hoạt động của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh: Hội đồng thành viên: gồm 5 người, nghiên cứu phương hướng phát triển của công ty. Xem xét phê duyệt kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh cho 6 tháng, 1 năm và 5 năm hoạt động. Xúc tiến hợp tác với các tổ chức, các đối tác trong và ngoài nước việc đầu tư, sản xuất kinh doanh. Kiểm tra, đôn đốc, đốc thúc ban giám đốc thực hiện kế hoạch kinh doanh do công ty đề ra. Ban hành các quy chế, quy định về tổ chức hành chính, thưởng phạt liên quan tới người lao động. Ban giám đốc: Trong đó ban giám đốc do hội đồng thành viên bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật theo đề nghị của hội đồng thành viên. Giám đốc là đại diện pháp nhân của công ty và chụi trách nhiệm cá nhân trước hội đồng thành viên và trước pháp luật về hoạt động điều hành của công ty. Giám đốc là người điều hành cao nhất trong nội bộ công ty, có quyền triệu tập và chủ trì các cuộc họp thường xuyên hoặc đột xuất cũng như có quyền thông qua những chủ trương, phương hướng của công ty. Phó giám đốc: là người giúp việc giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của công ty theo sự phân công của giám đốc và chụi trách nhiệm trước giám đốc và luật pháp về nhiệm vụ được giám đốc phân công thực hiện. Trợ lý giám đốc: là người hỗ trợ ban giám đốc trong việc quản lý, điều hành các hoạt động của công ty được phân công và chụi trách nhiệm về các quyết định của mình trước ban giám đốc. Văn phòng: Gồm có 3 bộ phận; tổ chức lao động, hành chính và bảo vệ với tổng số là 18 người (trong đó có một trưởng phòng và một phó phòng) được phân bổ cho cửa hàng. Nhiệm vụ chính là tham mưu, giúp cho ban lãnh đạo trong công tác tổ chức cán bộ, công tác lao động tiền lương, công tác hành chính văn phòng. Phòng kinh doanh: gồm có 4 người trong đó có một trưởng phòng. Nhiệm vụ chính là giúp lãnh đạo công ty trong hoạt động kinh doanh hàng hóa, thiết bị…như lập kế hoạch mua, lập kế hoạch tiêu thụ, tổ chức thực hiện kế hoạch mua, tổ chức thực hiện kế hoạch bán cũng như kiểm tra. Phòng tài chính - kế toán: gồm có 6 người nhiệm vụ chính là hạch toán hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trên cơ sở các quy chế đã đề ra có nhiệm vụ thanh toán mua và bán với khách hàng. Giám sát chặt chẽ tình hình sản xuất kinh doanh của công ty từ khâu đầu đến khâu cuối. Hạch toán hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chủ động tổ chức toàn bộ hoạt động tài chính của công ty mở rộng hệ thống sổ sách kế toán theo đúng pháp lệnh và điều lệ kế toán ban hành từ sổ chi tiết đến sổ tổng hợp. Xác định kết quả kinh doanh theo từng quý và năm. Lập và nộp các báo cáo tài chính đúng thời hạn và chế độ kế toán hiện hành đảm bảo tính trung thực và chính xác. Làm công tác tham mưu cho giám đốc về lĩnh vực tài chính, giúp giám đốc quản lý vốn và chi tiêu đúng chế độ của quản lý tài chính của Nhà Nước quy định. Cung cấp các số liệu, tài liệu cho việc điều hành sản xuất kinh doanh kiểm tra và phân tích các hoạt động kinh tế phục vụ cho việc lập và theo dõi việc thực hiện kế hoạch, thực hiện nghĩa vụ đối với công ty và ngân sách Nhà Nước. Phòng thiết kế: gồm 5 người có trách nhiệm kiểm tra, giám sát tình hình hoàn thiện sản phẩm cho khách hàng, xử lý những sai sót bất ngờ xảy ra, bảo hành và sửa chữa sản phẩm của công ty. Phòng tư vấn bán hàng: gồm có 4 người với trách nhiệm nghiên cứu, tư vấn, cung cấp các thông tin cần thiết cho công ty cũng như khách hàng về những sản phẩm của công ty. Phòng hỗ trợ kinh doanh: gồm 4 người giữ trách nhiệm giúp đỡ cho công việc bán hàng. Trên cơ sở tài liệu cung cấp của phòng tư vấn bán hàng, phòng hỗ trợ kinh doanh có nhiệm vụ gợi ý, giới thiệu cho khách hàng những sản phẩm phù hợp cả về kiếu dáng, màu sắc cũng như giá cả. Sau 7 năm đi vào hoạt động, công ty TNHH quảng cáo Liên Minh đã xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống phân cấp quản lý năng động và hiệu quả, đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty cần cù, hăng hái, nhiệt tình với công việc. Đồng thời, trong mỗi thời điểm nhất định công ty cũng có những kế hoạch chi tiết cụ thể. Bên cạnh đầu tư về nhân sự thì công ty đã có nhiều sự đầu tư cho trang thiết bị kỹ thuật và cơ sở hạ tầng. Điều này giúp cho chất lượng các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Điều này thể hiện rõ khi tài sản cố định không ngừng tăng lên trong những năm qua: năm 2003 tổng giá trị tài sản cố định là 147.345.000 đồng, năm 2004 tổng giá trị tài sản cố định là 172.347.181 đồng (tăng 17% so với năm 2003 ) và đến năm 2005 là 200.000.000 đồng (tăng 16.27% so với năm 2004), năm 2006 là 212.000.000. Tình hình cạnh tranh trên thị trường và hoạt động kinh doanh của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh trong một số năm qua. Tình hình cạnh tranh trên thị trường. Cạnh tranh là yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ một xã hội mà hoạt động sản xuất kinh doanh được duy trì và phát triển. Thay vì một thị trường với những đối thủ cạnh tranh cố định đã biết, doanh nghiệp phải hoạt động trong môi trừơng “ chiến tranh” với những đối thủ cạnh tranh biến đổi nhanh chóng, những tiến bộ về khoa học công nghệ, những chính sách quản lý thương mại mới và sự trung thành của khách hàng ngày càng giảm sút. Cạnh tranh gay gắt làm cho các công ty, doanh nghiệp phải tích cực suy nghĩ tìm ra phương thức để tạo điểm nhấn cho sản phẩm của mình hơn hẳn hoặc khác biệt hẳn so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Có thể sử dụng các biện pháp sau để cạnh tranh có hiệu qủa: + Cạnh tranh bằng sản phẩm. + Cạnh tranh bằng giá cả. + Cạnh tranh bằng thông tin. + Cạnh tranh bằng vốn, tài sản. + Cạnh tranh bằng tiến bộ khoa học công nghệ. + Cạnh tranh bằng các dịch vụ bán và sau bán. + Cạnh tranh bằng các phương pháp xúc tiến, kích thích tiêu thụ. + Cạnh tranh bằng nguồn nhân lực. Trong những hoàn cảnh cụ thể, mỗi doanh nghiệp nên lựa chọn cho riêng mình biện pháp cạnh tranh thích hợp. Cụ thể đói với thị trường dịch vụ quảng cáo đang diễn ra sôi động giữa các công ty, doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh liên quan đến các trang thiết bị dùng trong quảng cáo. Cạnh tranh do nhu cầu giảm sút: Người ta thường hay cho rằng cạnh tranh phải do hai hay nhiều nhân tố tạo nên nhưng thực tế khi nhu cầu giảm sút thì cạnh tranh ngày càng phát triển dữ dội. Trước tình trạng nhu cầu giảm sút nghĩa là số lượng người tiêu dùng ngày càng giảm trong khi đó cung trên thị trường không đổi và có xu hướng tăng lên thì cạnh tranh tất yếu xảy ra. Mọi công ty doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường đều muốn thu hút khách hàng về phía mình nên thỏa mãn ngày càng nhiều hơn nhu cầu và ước muốn của khách hàng kèm theo những dịch vụ sau bán tốt nhất có thể. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, nhiều thiết bị hiện đại ra đời. Nó xâm nhập vào tất cả các lĩnh vực khác nhau của xã hội và thay đổi toàn bộ bộ mặt của nền kinh tế. Quá trình thực hiện giao dịch trực tiếp qua điện thoại hoặc giữa hai người với nhau được thay thế bằng hoạt động giao dịch qua điện thoại, thư giao dịch, dần dần các hoạt động này được thực hiện thông qua mạng internet. Việc giao dịch qua mạng hay qua điện thoại giải quyết được nhiều vấn đề như tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại cũng giảm rất nhiều về cấu trúc hiện hữu giữa người mua và người bán. Cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh: Mới hiểu được các khách hàng của mình không thôi là chưa đủ. Một công ty muốn kinh doanh thành công trên thương trường thì không chỉ hiểu biết và nắm rõ nhu cầu của khách hàng mà còn biết đối thủ cạnh tranh của mình là ai? Và hiểu được chiến lược kinh doanh của họ là gì? Đây là điều cực kỳ quan trọng làm tiền đề cho việc thiết lập các chương trình hành động phù hợp và công ty TNHH quảng cáo Liên Minh đã làm được điều đó. Hiện nay trên thị trường số lượng các công ty quảng cáo đã tăng lên nhanh chóng chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thành Phố Hồ Chí Minh…làm cho mức độ cạnh tranh trong nước gia tăng. Sự đa dạng hóa của các công ty quảng cáo là cung cấp những dịch vụ phong phú, giá bán, chất lượng, kiểu cách phân phối hàng hóa cũng như hình thức dịch vụ kèm theo đã làm tăng tính cạnh tranh trong các công ty quảng cáo. 1.3.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty trong một số năm qua: Trong thời gian hoạt động kể từ khi bắt đầu năm 2000 cho đến nay, công ty đã khẳng định được sự tồn tại và phát triển của mình. Điều đó được thể hiện khi các hợp đồng quảng cáo ngày càng nhiều cũng như lợi nhuận của công ty liên tục tăng qua các năm và có vị trí vững chắc trên thị trường. Có thể xem như trong cuộc chiến thương hiệu công ty TNHH quảng cáo Liên Minh đã đạt được thành công lớn, nếu chúng ta nhìn lại quá trình khẳng định mình trong những năm đầu của công ty thì có thể thấy được điều đó. Nhờ có sự nỗ lực hết mình, áp dụng những chính sách xúc tiến bán hàng thích hợp, hiện nay công ty đã vươn lên chiếm giữ khoảng 50% thị phần tức là công ty cung cấp khoảng 50% số lượng các dịch vụ quảng cáo. Sự gia tăng nhanh chóng doanh thu của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh do rất nhiều nguyên nhân tác động tới, nhưng có thể kể đến một số nguyên nhân chủ yếu sau: Chủng loại các ngành nghề kinh doanh của công ty được mở rộng, nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau về một loại hàng hóa dịch vụ, không chỉ tăng thêm các chương trình quảng cáo mà còn tăng thêm đối với hoạt động bán hàng và dạy nghề. Kết quả của việc xúc tiến nghiên cứu và bao quát thị trường tốt, sự cố gắng nỗ lực và sự phối hợp hoạt động nhịp nhàng của toàn thể các cán bộ công nhân viên trong công ty cũng là một nhân tố quan trọng không thể thiếu tác động tới việc doanh thu của công ty không ngừng tăng lên và kéo theo đó là lợi nhuận của công ty cũng không ngừng tăng qua các năm. Việc tăng doanh thu và lợi nhuận lên đã kích thích công ty tăng đầu tư mở rộng mặt bằng cơ sở và cũng loại bỏ những mắt xích kém hiệu quả. Công ty đã có chỗ đứng vững chắc trên thị trường qua 7 năm hoạt động, khách hàng đã quen thuộc với những dịch vụ quảng cáo thương mại.Khách hàng thường xuyên nhất của công ty là Mobiphone và truyền hình kĩ thuật số VTC. Các dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng cũng như công tác bảo hành sản phẩm đã được công ty thực hiện triệt để trong vòng 12 tháng kể từ khi sản phẩm được bán. Tức là bắt đầu từ khi khách hàng có nhu cầu về sản phẩm của công ty thì đã được gợi ý để chọn những sản phẩm sao cho thích hợp nhất và khách hàng thấy đúng yêu cầu đến khi vận chuyển, lắp đặt và sản phẩm mà khách hàng lựa chọn vẫn được công ty quan tâm đến trong 12 tháng tiếp theo đó. Hoạt động của công ty luôn hướng tới sư tối đa hóa lợi nhuận dựa trên cơ sở đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu nghĩa là chỉ cung cấp cho khách hàng những sản phẩm, dịch vụ đã qua kiểm tra đáp ứng các nhu cầu kĩ thuật. Vì thế phòng thiết kế cũng rất quan trọng đối với công ty vì họ có trách nhiệm kiểm tra, giám sát tình hình, hoàn thiện sản phẩm dịch vụ cho khách hàng đồng thời xử lý những sai sót bất ngờ xảy ra.Chính họ là một nhân tố quan trọng đem đến cho công ty uy tín đối với khách hàng, giúp cho công ty ngày càng nâng cao lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ cạnh tranh. II. Thực trạng phân tích tài chính doanh nghiệp của công ty TNHH quảng cáo Liên Minh: 1.1. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp: Nhìn chung, công ty đã sử dụng phương pháp tỷ số và phương pháp so sánh để phân tích tài chính. Việc sử dụng hai phương pháp này về khía cạnh nào đó cũng cho ta thấy những mặt cơ bản nhất của hoạt động tài chính. Nhưng hai phương pháp này chỉ thực sư phát huy hiệu quả khi nó đươc kết hợp nhuần nhuyễn, sử dụng đúng các chỉ tiêu và đặt chúng trong các mối liên hệ với các chỉ tiêu khác, với chỉ tiêu trung bình của ngành và các doanh nghiệp có cùng tính chất. Thế nhưng, việc sử dụng kết hợp hai phương pháp tỷ số này vẫn còn đơn điệu, cứng nhắc, các chỉ tiêu tính toán chưa đúng. Điều này gây ra sự hạn chế trong việc xác định điểm mạnh, điểm yếu, chất lượng các chỉ tiêu, dự báo tình hình để lãnh đạo ra quyết định. Cũng từ đòi hỏi của hai phương pháp này cũng nói lên những nhược điểm của chúng khi không tìm thấy số liệu so sánh. Mà tìm số liệu để so sánh trong điều kiện hiện nay là rất khó. Phương pháp DUPONT hiện đang được sử dung rộng rãi có ưu điểm trong việc tìm nguyên nhân của vấn đề nhưng vẫn chưa được công ty sử dụng, chưa kể các phương pháp ưu việt như phương pháp phân tích theo mô hình hồi quy kinh tế lượng, phương pháp tính độ co giãn giúp dự báo các chỉ tiêu. Phương pháp tỷ số thể hiện trong các bản báo cáo tài chính và một số chỉ tiêu tài chính sẽ được trình bày ở phần sau. 1.2. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp ở công ty TNHH quảng cáo Liên Minh: * Bảng báo cáo kết quả kinh doanh, công ty TNHH quảng cáo Liên Minh trong một số năm qua (giai đoạn 2003- 2006 ): Đơn vị: 1000 đ Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 Doanh thu thuần 8.542.300 9.346.723 11.555.782 13.457.321 Giá vốn 7.913.200 8.658.336 10.704.698 12.466.189 Chi phí quản lý kinh doanh 184.531 201.889 239.604 290.677 Chi phí khác 27.000 25.432 29.040 31.000 LNTT và lãi 417.587 461.066 582.440 669.455 Lãi vay 146.990 162.295 240.424 168.702 LNTT 270.597 298.771 342.014 500.753 Thuế thu nhập doanh nghiệp 86.591 95.606 109.445 160.241 Lợi nhuận sau thuế 184.006 203.165 232.571 340.512 Nguồn:phòng TC –KT công ty TNHH quảng cáo Liên Minh * Bảng cân đối kế toán công ty TNHH quảng cáo Liên Minh (giai đoạn 2003- 2006) Đơn vị: 1000 đ Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 I. tài sản lưu động -Tiền mặt -Tiền gửi ngân hàng -Phải thu khách hàng -Phải thu khác -VAT khấu trừ -Hàng tồn kho II. Tài sản cố định -TSCĐ (nguyên giá ) -Khấu hao -TSCĐ (giá trị còn lại ) 2.099.697 6.761 851.327 68.143 7.678 137.845 1.027.943 147.345 3.678 143.667 2.397.450 7.719 972.051 77.807 8.152 157.392 1.174.392 172.347 4.200 168.147 2.792.510 8.992 1.132.229 90.628 8.235 183.328 1.369.098 200.000 7.532 192.468 3.451.802 11.115 1.399.540 112.024 11.400 226.611 1.691.112 212.000 8.047 203.953 Tổng TS 2.243.364 2.565.597 2.984.978 3.655.755 I. Nợ phải trả -Nợ ngắn hạn -Nợ dài hạn II. Vốn chủ sở hữu 1.280.815 1.139.925 140.890 962.549 1.429.048 1.236.133 192.915 1.136.549 1.648.429 1.415.471 233.258 1.336.549 2.088.956 1.831.553 257.403 1.566.799 Tổng NV 2.243.364 2.565.579 2.984.978 3.655.755 Nguồn: Phòng TC – KT công ty TNHH quảng cáo Liên Minh * Phân tích tình hình tài chính của công ty: Sự phát triển của công ty được thể hiện qua tốc độ gia tăng của vốn năm 2003 nguồn vốn của công ty là 2.243.364.000 đồng, năm 2004 là 2.565.597.000 đồng (tăng 14,3% so với năm 2003 )…đến năm 2006 tổng nguồn là 3.655.755.000 đồng (tăng 62,9% so với năm 2003). Công ty TNHH quảng cáo Liên Minh đã khai thác tốt các nguồn huy động, tuy nhiên vốn tăng lên chủ yếu là do vay ngắn han.Trong đó tỷ trọng vốn chủ sở hữu qua các năm như sau: năm 2003 là 42,9%; năm 2004 là 44,3%...năm 2006 là 42,8%. Điều này, cho ta thấy công ty có xu hướng sử dụng nợ vay để tài trợ cho các tài sản của mình hơn là sử dụng vốn chủ sở hữu. Điều này, giúp công ty có khả năng gia tăng nhanh lợi nhuận nhưng vẫn nắm được ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5620.doc
Tài liệu liên quan