Mục lục
Trang
Lời mở đầu
P
hân tích tài chính có thể được định nghĩa như một tổng thể các phương pháp cho phép đánh giá tình hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, giúp cho việc ra quết định quản trị và đánh giá doanh nghiệp một cách chính xác.
Trong những năm gần đây, khủng hoảng tài chính và những nguy cơ mất ổn định đang tác động mạnh mẽ đến nền tài chính của mỗi quốc gia, trong đó chủ thể phải đối mặt thường xuyên với những nguy cơ đó chính là các doanh nghiệp. Thực tế đã chỉ ra r
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện nội dung phân tích tình hình tài chính của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng công trình 646, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ằng tình hình tài chính doanh nghiệp ổn định là một trong những nhân tố cơ bản để giữ vững và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. ở nước ta, khu vực doanh nghiệp mới bước vào hoạt động theo cơ chế thị trường được hơn chục năm nay, kinh nghiệm chưa nhiều và trình độ quản lí còn thấp. Đại đa số các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, tích luỹ chưa đáng kể, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh còn thấp. Có thể nói tình hình tài chính của khu vực doanh nghiệp hiện nay nói chung còn chứa đựng nhiều nguy cơ mất ổn định. Thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập khu vực và Thế Giới thì việc đảm bảo hoạt động tài chính doanh nghiệp được an toàn, lành mạnh, ổn định và phát triển có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì thế việc chỉ ra những bất ổn của thực trạng tài chính doanh nghiệp để từ đó có biện pháp điều chỉnh kịp thời và hiệu quả là việc làm rất quan trọng hiện nay đối với các doanh nghiệp.
Hơn nữa, để thực hiện mục tiêu kinh doanh của mình, doanh nghiệp cần thiết phải tạo lập, quản lí, phân phối và sử dụng vốn của mình thông qua các hoạt động tài chính doanh nghiệp. Hoạt động tài chính và tình hình tài chính doanh nghiệp lành mạnh, hiệu quả sẽ tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh và ngược lại, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả sẽ góp phần làm cho tình hình tài chính và hoạt động tài chính doanh nghiệp lành mạnh, hiệu quả. Hiểu rõ được tình hình tài chính và thực trạng tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quản lí doanh nghiệp nói chung, quản lí tài chính nói riêng. Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp được sử dụng như một công cụ hữu hiệu nhất nhằm thực hiện mục tiêu ấy.
Mặt khác, không chỉ có Nhà Nước, cơ quan thuế, nhà quản trị là những người thường xuyên quan tâm đến tình hình tài chính của các doanh nghiệp, mà các đối tượng khác như : các cổ đông hiện tại hoặc người đang muốn trở thành cổ đông của doanh nghiệp, các nhà phân tích tài chính, ngân hàng, người mua tín phiếu của doanh nghiệp, công ty mẹ, các doanh nghiệp khác... cũng rất muốn dễ dàng hiểu được các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp để ra những quyết định theo những mục đích khác nhau. Tuy nhiên, để có được những thông tin thực sự chất lượng và hiệu quả về tình hình tài chính của doanh nghiệp, phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng thì không phải đơn giản. Công việc này chỉ được thực hiện nhanh chóng, chính xác bởi phân tích tài chính doanh nghiệp cùng sự trợ giúp của máy tính. Hay nói cách khác là phân tích tài chính sẽ giúp người quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp hiểu được quá khứ và đưa ra được những dự tính cần thiết cho tương lai của doanh nghiệp.
Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp nói trên, cùng với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Thạc sỹ Lương Thị Trâm, em đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài :
“ Hoàn thiện nội dung phân tích tình hình tài chính của Công Ty Cổ Phần Đầu Tư và Xây Dựng Công Trình 646.”
Với đề tài này, em đã triển khai cụ thể trong luận văn thành ba mục lớn là:
Chương I : Cơ sở lí luận phân tích tình hình tài chính trong các doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng nội dung phân tích tình hình tài chính của Công Ty Cổ Phần Đầu Tư và Xây Dựng Công Trình 646.
Chương III: Phương hướng hoàn thiện nội dung phân tích tình hình tài chính của Công Ty Cổ Phần Đầu Tư và Xây Dựng Công Trình 646.
Do chưa có kinh nghiệm thực tế và kiến thức của em còn nhiều hạn hẹp cho nên luận văn của em chắc chắn còn nhiều chỗ thiếu sót cần sửa chữa.
Vậy nên em rất kính mong nhận được sự chỉ bảo tận tình của cô giáo Lương Thị Trâm, các thầy cô giáo trường Đại học Thương Mại, các anh chị phòng Kế toán Công Ty Cổ Phần Đầu Tư và Xây Dựng Công Trình 646, cùng bạn bè để em có thể hoàn thành tốt nhất bản luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 30 tháng 4 năm 2004
Sinh viên
Thái Anh Tuấn
Lớp K36- D5 Khoa Kế Toán Tài Chính.
Chương I: Cơ sở lí luận phân tích tình hình tài
chính trong các doanh nghiệp.
I. Bản chất, chức năng và vai trò của Tài Chính Doanh Nghiệp.
1. Bản chất của Tài Chính Doanh Nghiệp.
Tài Chính doanh nghiệp là Tài Chính của các pháp nhân kinh tế. Đặc biệt Tài Chính doanh nghiệp của các pháp nhân kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất là một bộ phận rất quan trọng của Hệ Thống Tài Chính trong nền Kinh Tế Thị Trường. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có các yếu tố cần thiết là các tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn tiền tệ nhất định để đầu tư vào các yếu tố đó. Số vốn ứng trước này phải được tạo lập bởi các nguồn khác nhau và được phân chia theo những quan hệ tỉ lệ nhất định tương ứng với các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất. Đây là điểm xuất phát làm nảy sinh ra những quan hệ phân phối và tái phân phối, các quan hệ tài chính trong quá trình tái sản xuất xã hội. Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình kết hợp các yếu tố cần thiết để tạo ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ và tiêu thụ thông qua thị trường. Số tiền thu về sẽ được sử dụng để bù đắp các khoản chi phí vật chất đã tiêu hao, trả tiền công cho người lao động, nộp thuế cho Nhà Nước, phần còn lại là lợi nhuận thuộc về doanh nghiệp.
Theo cảm nhận trực quan thì chúng ta thường hiểu phạm trù Tài Chính nói chung và Tài Chính doanh nghiệp nói riêng là tiền tệ và các quỹ tiền tệ. Nhưng xét về thực chất thì tiền tệ và quỹ tiền tệ chỉ là hình thức biểu hiện bên ngoài mà bên trong nó ẩn dấu những quan hệ phức tạp. Đó là luồng chuyển dịch có giá trị gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp. Như chúng ta đã biết, điểm xuất phát của mọi quá trình sản xuất kinh doanh là phải có một số vốn ứng trước, và đặc điểm nổi bật của đồng vốn trong doanh nghiệp là chúng vận động không ngừng. Sự vận động của vốn rất đa dạng, đó là sự chuyển dịch giá trị từ chủ thể này sang chủ thể khác hoặc trong cùng một chủ thể.
C.Mac đã khái quát hoá chu kì vận động của vốn tiền tệ trong quá trình tái sản xuất nói chung và quá trình sản xuất kinh doanh nói riêng theo sơ đồ:
TLSX
T H ...SX...H’...T’
SLĐ
Sơ đồ trên cho thấy, nhờ sự vận động của vốn tiền tệ mà quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghịêp được tiến hành liên tục. Sự vận động của vốn tiền tệ đã làm nảy sinh hàng loạt các mối quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong các khâu của quá trình tái sản xuất trong nền Kinh Tế Thị Trường.
Muốn thực hiện quá trình này, doanh nghiệp phải thực hiện hàng loạt các mối quan hệ tài chính tiền tệ. Song nhìn chung các quan hệ kinh tế nảy sinh trong việc phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của các doanh nghiệp thường được biểu hiện qua ba nhóm quan hệ:
Quan hệ giữa doanh nghiệp và Nhà Nước: thể hiện qua việc doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ với Nhà Nước như nộp các khoản thuế, lệ phí ...Ngược lại các doanh nghiệp Nhà Nước thường được Ngân sách Nhà Nước cấp vốn để hoạt động.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế xã hội khác: thể hiện trong việc góp vốn liên doanh liên kết, vay và trả nợ vay Ngân hàng, cho vay vốn, thanh toán do mua hoặc bán tài sản, vật tư hàng hoá dịch vụ...
Quan hệ kinh tế giữa các bộ phận trong nội bộ doanh nghiệp : thường phát sinh trong các trường hợp thanh toán giữa các bộ phận trong doanh nghiệp, phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp, hình thành và sử dụng các quỹ của doanh nghiệp, trả lương, trợ cấp, thưởng phạt vật chất đối với người lao động...
Mặc dù những mối quan hệ trên đây phản ánh nội dung kinh tế khác nhau, song chúng đều có chung hai đặc trưng là:
Đều là những quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị được phản ánh qua sự chuyển dịch các bộ phận giá trị trong quá trình sản xuất.
Từ góc độ một doanh nghiệp để xét thì những quan hệ này đều nảy sinh trong quá trình phân phối của cải của xã hội nhằm tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh: vốn cố định, vốn lưu động, quỹ khấu hao, quỹ tiền lương...
Hai đặc trưng này có mối quan hệ hữu cơ với nhau để phản ánh hình thức và nội dung của các quan hệ tài chính doanh nghiệp. Các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị là phương tiện để “hút” vốn hoặc “bơm” vốn, tạo ra sự chuyển dịch các bộ phận giá trị trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Nói cách khác là để hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất thiết phải bằng phương thức phân phối dưới hình thức giá trị. Như vậy Tài Chính Doanh Nghiệp không phải là tiền tệ và quỹ tiền tệ theo nghĩa thông thường, mà là sự vận động của giá trị gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp. Trong quá trình đó đã phát sinh và hình thành các luồng tiền tệ gắn liền với hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các luồng tiền tệ bao gồm luồng tiền tệ đi vào doanh nghiệp và các luồng tiền tệ xuất ra khỏi doanh nghiệp tạo thành sự vận động của các luồng tài chính doanh nghiệp.
Tóm lại, qua phân tích trên cho phép ta rút ra khái niệm về Tài Chính doanh nghiệp là:
Tài Chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị nảy sinh trong quá trình phân phối của cải xã hội gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ cho yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các nhu cầu chung của xã hội.
2. Chức năng của tài chính doanh nghiệp.
2.1. Chức năng phân phối của tài chính doanh nghiệp.
Xét trên góc độ Vĩ Mô, phân phối tài chính là sự phân chia tổng sản phẩm Quốc Dân theo những tỉ lệ và xu hướng nhất định cho tiết kiệm và tiêu dùng nhằm tích tụ, tập trung vốn để đầu tư phát triển kinh tế và thoả mãn nhu cầu chung của Nhà Nước, Xã Hội và cá nhân. Đối tượng phân phối là của cải xã hội dưới hình thức giá trị, là các nguồn Tài Chính, là tiền tệ đang vận động một cách độc lập với tư cách là phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ trong quá trính tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.Trong khi đó chủ thể phân phối có thể rất khác nhau: Nhà Nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, hộ gia đình hay cá nhân dân cư. Việc phân phối các nguồn Tài Chính bị chi phối bởi quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của các chủ thể đối với các nguồn Tài Chính trong lĩnh vực kinh tế hoặc bởi các quan hệ xã hội như quyền lực chính trị của Nhà Nước, quan hệ xã hội trong các tổ chức xã hội, trong cộng đồng dân tộc và quốc tế. Ta có thể tóm tắt một số đặc điểm của chức năng phân phối Tài Chính như sau:
Phân phối Tài Chính luôn gắn liền với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định.
Phân phối Tài Chính là sự phân phối chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, nó không kèm theo sự thay đổi của hình thái giá trị. Nói cách khác, phân phối của Tài Chính là sự phân phối dưới hình thức giá trị, không đi kèm với sự vận động ngược chiều của hai hình thái giá trị như trong mua bán hàng hoá.
Thông qua chức năng phân phối Tài Chính, các quỹ tiền tệ nhất định được hình thành hoặc được sử dụng nhưng chính trong quá trình đó, bản chất của Tài Chính- phân phối dưới hình thức giá trị vẫn không thay đổi. Các quỹ tiền tệ được hình thành và khuyếch trương, được sử dụng, được chia nhỏ vì những mục đích nhất định, theo tác dụng hẹp hay rộng hơn, nhưng đó vẫn là quá trình phân phối với sự vận động của các nguồn Tài Chính.
Phân phối Tài Chính bao hàm cả quá trình phân phối lần đầu (giữa những người tạo ra sản phẩm xã hội) và quá trình phân phối lại, trong đó bao trùm rộng lớn có tính đặc trưng là phân phối lại. Phân phối lần đầu sản phẩm xã hội là sự phân phối được tiến hành trong lĩnh vực sản xuất cho những chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra của cải vật chất hay thực hiện các dịch vụ. Phân phối lần đầu đươc thực hiện trước hết và chủ yếu trong các khâu cơ sở của hệ thống Tài Chính. Qua phân phối lần đầu, sản phẩm xã hội và thu nhập Quốc Dân dưới hình thức giá trị mới chỉ hình thành nên những phần thu nhập cơ bản. Dừng lại ở đó thì chưa thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Do đó nảy sinh nhu cầu khách quan của xã hội đối với tái phân phối. Phân phối lại là tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản, sử dụng những quỹ tiền tệ chứa đựng những nguồn lực Tài Chính đã được hình thành trong phân phối lần đầu ra phạm vi xã hội rộng hơn.
Nếu xét trên phạm vi vi mô thì quá trình vận động vốn tiền tệ để thực hiện quá trình sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp, đó là một tất yếu khách quan của tài chính doanh nghiệp. Việc phân phối này được thực hiện dưới hình thức giá trị của của cải xã hội và ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất.
Việc phân phối này là sự chuyển dịch giá trị tiền tệ từ chủ thể này sang chủ thể khác hoặc trong cùng một chủ thể, từ một hình thức sở hữu này sang một hình thức sở hữu khác. Nội dung của phân phối bao gồm : kết thúc một quá trình sản xuất, tiêu thụ được sản phẩm , doanh nghiệp có doanh thu. Để thực hiện quá trình tái sản xuất, doanh thu biểu hiện bằng tiền được phân phối như sau:
Bù đắp chi phí vật chất : khấu hao TSCĐ, chi phí về nguyên vật liệu...
Trả lương cho cán bộ công nhân viên, chi phí về thuê mướn chuyên gia, tiền công thuê ngoài...
Nộp thuế cho ngân sách Nhà Nước.
Trả nợ vay, trả lợi tức cổ phiếu, trái phiếu...
Phần còn lại gọi là lợi nhuận của doanh nghiệp, số lợi nhuận này được trích một phần nộp vào Ngân Sách Nhà Nước gọi là thuế Thu nhập doanh nghiệp, phần còn lại dùng để trích lập các quỹ doanh nghiệp.
Tóm lại, chức năng phân phối có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp. Thực hiện tốt chức năng này không những có tác dụng thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển, mà còn góp phần làm hoàn thiện chế độ quản lí kinh tế Tài Chính bằng Pháp Luật của Nhà Nước.
2.2. Chức năng giám đốc của tài chính.
Chức năng này cũng là thuộc tính vốn có khách quan của Tài Chính doanh nghiệp. Nó thể hiện khả năng của Tài Chính trong việc giám sát mục đích, tính hiệu quả của việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp.
Đặc trưng của chức năng này là:
Giám đốc bằng đồng tiền thông qua việc xác định và thực hiện các chỉ tiêu Tài Chính. Vì các chỉ tiêu Tài Chính là những tấm gương phản ánh một cách trung thực và toàn diện tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó có thể giúp nhà quản lí có khả năng điều chỉnh các hoạt động Tài Chính, hoạt động sản xuất kinh doanh đi đúng vào các mục tiêu đã định.
Giám đốc Tài Chính là giám đốc bằng đồng tiền nhưng nó không đồng nhất với mọi loại kiểm tra, kiểm soát bằng đồng tiền khác. Nó được thực hiện thông qua sự vận động của đồng vốn nhưng không phải với tất cả các chức năng của tiền tệ mà chỉ sử dụng chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ.
Giám đốc Tài Chính được thực hiện đối với quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Vì vậy giám đốc Tài Chính có tính toàn diện, thường xuyên liên tục rộng rãi và kịp thời.
Giám đốc Tài Chính không chỉ được thực hiện đối với sự vận động của tiền vốn mà còn thực hiện cả đối với sự vận động của vật tư, lao động. Hay nói cách khác là ở đâu có việc sử dụng các nguồn lực Tài Chính thì ở đó có sự kiểm tra giám sát Tài Chính.
Với những đặc trưng trên thì nội dung của chức năng giám đốc tài chính bao gồm các nội dung sau:
giám đốc việc xây dựng các chỉ tiêu và thực hiện các chỉ tiêu của các kế hoặch đầu tư, xây dựng, kế hoặch tài chính, kế hoặch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, kế hoặch phân phối thu nhập, kế hoặch vay vốn trả nợ...
giám đốc các khoản phải nộp ngân sách.
giám đốc các khoản phải thu phải trả.
giám đốc khả năng thanh toán bằng tiền đối với các khoản nợ.
giám đốc việc thực hiện các chế độ quản lí kinh tế tài chính của Nhà Nước.
giám đốc mối quan hệ cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn cũng như tính hợp lí của những cân đối đó.
Mục đích của giám đốc tài chính là nhằm phát hiện những tồn tại, những ưu điểm trong quá trình thực hiện các chỉ tiêu kế hoặch sản xuất kinh doanh, đồng thời qua đó đánh giá chính xác được kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cho nên chức năng giám đốc của tài chính sẽ giúp doanh nghiệp có thể đưa ra những biện pháp hiệu quả nhằm khắc phục những tồn tại, phát huy những mặt mạnh, đồng thời điều chỉnh các hoạt động tài chính của doanh nghiệp đi đúng vào mục tiêu đã định.
Giữa chức năng giám đốc và chức năng phân phối của tài chính doanh nghiệp có mối quan hệ hỗ trợ và tác động lẫn nhau. Thực hiện tốt chức năng này là cơ sở để thực hiện tốt chức năng kia và ngược lại.
3. Vai trò của tài chính doanh nghiệp.
Vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động, thậm chí có thể là tiêu cực đối với kinh doanh là do nhiều nhân tố tác động. Sở dĩ như vậy là do: Tài Chính không chỉ là một phạm trù kinh tế khách quan mà nó còn là công cụ để quản lí kinh tế. Sự phát huy vai trò tác dụng của công cụ này không chỉ phụ thuộc vào khả năng, trình độ của người quản lí, mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan như môi trường kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, và cơ chế quản lí kinh tế Vĩ Mô của Nhà Nước, hay nói cách khác là mức độ can thiệp bằng “bàn tay hữu hình” của Nhà Nước vào nền kinh tế.
Song song với việc chuyển sang nền kinh tế Thị Trường, Nhà Nước đã hoạch định hàng loạt các chính sách đổi mới nhằm xoá bỏ cơ chế tập trung bao cấp, xác lập cơ chế quản lí năng động như: chính sách khuyến khích đầu tư kinh doanh, mở rộng khuyến khích giao lưu vốn, đẩy mạnh kinh tế đối ngoại... Trong điều kiện môi trường kinh doanh đã từng bước được cải thiện Tài chính doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện thuận lợi để phát huy vai trò của mình trên những mặt cơ bản sau đây:
3.1. Tài Chính doanh nghiệp là một công cụ khai thác, thu hút các nguồn Tài Chính nhằm đảm bảo nhu cầu vốn cho đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp trước đây, các doanh nghiệp Nhà Nước đều được Ngân Sách tài trợ vốn, nếu thiếu vốn sẽ được Ngân Hàng cho vay với lãi suất ưu đãi. Với cơ chế bao cấp nặng nề như vậy nên vai trò khai thác thu hút vốn của doanh nghiệp không được đặt ra như một vấn đề cấo thiết, có tính sống còn đối với các doanh nghiệp. Chế độ cấp phát giao nộp một mặt đã thủ tiêu tính chủ động của các doanh nghiệp, mặt khác đã tạo ra sự cân đối giả tạo về quan hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế . Đây là lí do chủ yếu để lí giải câu hỏi tại sao trong thời kì bao cấp lại vắng mặt thị trường vốn.
Chuyển sang nền Kinh Tế Thị Trường nhiều thành phần, các doanh nghiệp Nhà Nước chỉ còn là một bộ phận cùng song song tồn tại với nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Cạnh tranh và khát vọng lợi nhuận đã thực sự trở thành động lực, thôi thúc các doanh nghiệp tăng cường đầu tư, đổi mới thiết bị công nghệ, đầu tư vào những ngành nghề mới, đầu tư để chiếm lĩnh thị trường...Tình hình trên đây đã làm gia tăng nhu cầu vốn trong nền kinh tế.
Trong nền Kinh Tế Thị Trường, sự hoạt động của quy luật cung cầu rất mạnh mẽ. ở đâu ở lĩnh vực nào có nhu cầu, thì ở đó sẽ có nguồn cung cấp. Vì vậy, khi các doanh nghiệp có nhu cầu vốn thì tất yếu thị trường vốn sẽ được hình thành với hình thức đa dạng của nó. Đây là môi trường hết sức thuận lợi để các doanh nghiệp chủ động khai thác, thu hút các nguồn vốn trong xã hội nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2. Tài Chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả.
Cũng như việc khai thác sử dụng vốn, việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Trong nền Kinh Tế Thị Trường, yêu cầu của các quy luật kinh tế đã đặt ra trước mọi doanh nghiệp những chuẩn mực hết sức khắt khe: sản xuất không phải với bất kì giá nào, phải bán được hàng hoá, dịch vụ mà thị trường cần và chấp nhận được, chứ không phải bán những cái gì mà mình có. Trước sức ép nhiều mặt của thị trường đã buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả.
Điều lưu ý ở đây là cần có sự phân biệt giữa chỉ tiêu lợi nhuận với chỉ tiêu hiệu quả kinh tế. Nói chung sự gia tăng hiệu quả kinh tế sẽ bao hàm cả yếu tố tăng chỉ tiêu lợi nhuận. Song ngược lại, có những trường hợp tăng chỉ tiêu lợi nhuận nhưng lại không có hiệu quả, ví dụ để đạt mức lợi nhuận tăng gấp đôi trong khi phải sử dụng vốn tăng gấp mười lần, thì đó không phải là hiệu quả kinh tế. Vì thế, hiệu quả kinh tế chỉ có thể có đựơc khi vốn được sử dụng tiết kiệm mà vẫn phải đảm bảo mức gia tăng lợi nhuận.
Trong nền Kinh Tế Thị Trường, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều được phản ánh bằng các chỉ tiêu giá trị, các chỉ tiêu Tài Chính, bằng các số liệu của Kế Toán và Bảng Cân Đối Kế Toán. Với đặc điểm này, người cán bộ Tài Chính phải có khả năng phân tích, giám sát các hoạt động kinh doanh, điều chỉnh các quan hệ tỉ lệ, dự báo những xu hướng phát triển để đảm bảo sản xuất kinh doanh với hiệu quả cao, vốn kinh doanh được bảo toàn và tiết kiệm.
3.3. Tài Chính doanh nghiệp được sử dụng như một công cụ để kích thích thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Khác với nền kinh tế tập trung, trong nền kinh tế Thị Trường các quan hệ Tài Chính doanh nghiệp được mở ra trên một phạm vi rộng lớn. Đó là những quan hệ với hệ thống Ngân Hàng Thương Mại, với các tổ chức Tài Chính Thế Giới, các thành viên góp vốn đầu tư liên doanh, các cổ đông, các khách hàng mua bán sản phẩm hàng hoá dịch vụ và những quan hệ Tài Chính trong nội bộ doanh nghiệp.
Những quan hệ Tài Chính trên đây có thể diễn ra khi cả hai bên cùng có lợi và trong khuôn khổ của Pháp Luật. Dựa vào khả năng này, nhà quản lí có thể sử dụng các công cụ Tài Chính như: đầu tư, xác định lãi suất, cổ tức, giá bán hoặc mua sản phẩm dịch vụ, tiền lương, tiền thưởng để kích thích tăng năng suất lao động, kích thích tiêu dùng, kích thích thu hút vốn... nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng trong hoạt động kinh doanh.
Trong những biện pháp sử dụng các công cụ Tài Chính nêu trên, việc sử dụng công cụ đầu tư Tài Chính thường đem lại hiệu quả kinh tế cao và vững chắc nhất. Đầu tư đổi mới kĩ thuật, đặc biệt là đầu tư vào yếu tố con người sẽ tạo ra khả năng rộng lớn để tăng năng suất lao động. Đây là nhân tố hết sức quan trọng nhằm tăng khả năng cạnh tranh và kéo dài chu kì sống của doanh nghiệp.
3.4. Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tình hình Tài Chính doanh nghiệp là tấm gương phản ánh trung thực mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua các số liệu Kế Toán, các chỉ tiêu Tài Chính như hệ số thanh toán, hiệu quả sử dụng vốn, hệ số sinh lời, cơ cấu các nguồn vốn và cơ cấu phân phối sử dụng vốn... người quản lí có thể dễ dàng nhận biết thực trạng tốt xấu trong các khâu của qúa trình sản xuất kinh doanh. Với khả năng đó, người quản lí có thể kịp thời phát hiện các khuyết tật và các nguyên nhân của nó để điều chỉnh quá trình kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu đã dự định.
Để sử dụng có hiệu quả công cụ kiểm tra Tài Chính, đòi hỏi nhà quản lí doanh nghiệp cần tổ chức tốt công tác hạch toán Kế Toán, hạch toán thống kê, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu phân tích Tài Chính và duy trì nề nếp chế độ phân tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp.
II. Khái niệm và ý nghĩa của việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
1. Khái niệm phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tài chính được các nhà quản lí bắt đầu chú ý từ cuối thế kỉ ixx. Từ đầu thế kỉ thứ xx đến nay, phân tích tài chính thực sự phát triển và được chú trọng hơn bao giờ hết bởi nhu cầu quản lí doanh nghiệp có hiệu quả ngày càng tăng, sự phát triển mạnh mẽ của Hệ Thống Tài Chính, sự phát triển của các tập đoàn kinh tế và khả năng sử dụng rộng rãi của công nghệ thông tin. Nghiên cứu phân tích tài chính là khâu quan trọng trong quản lí kinh doanh.Vậy phân tích tài chính là gì ?
Phân tích tài chính được hiểu là việc sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép sử lí các thông tin Kế Toán và các thông tin khác về quản lí nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Hay nói cách khác, phân tích tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu tài chính hiện hành với quá khứ.
2. ý nghĩa của việc phân tích tình hình tài chính.
Thông qua việc phân tích tình hình tài chính, người sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai và triển vọng của doanh nghiệp. Bởi vậy, việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như ban giám đốc, các nhà đầu tư, các cổ đông các chủ nợ, các nhà cho vay tín dụng, các nhân viên ngân hàng, các nhà quản lí, các nhà bảo hiểm...kể cả các cơ quan Chính Phủ và người lao động. Mỗi một nhóm người này có những nhu cầu thông tin khác nhau và do vậy, mỗi nhóm có xu hướng tập trung vào những khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của doanh nghiệp. Mặc dù mục đích của họ khác nhau nhưng thường liên quan với nhau,vì thế các công cụ và kĩ thuật phân tích cơ bản mà họ sử dụng để phân tích tình hình tài chính lại giống nhau.
Đối với các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Ngoài ra, các nhà quản trị còn quan tâm đến nhiều mục tiêu khác nhau: tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, cung cấp nhiều sản phẩm hàng hoá dịch vụ với chi phí thấp, đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường...Tuy nhiên một doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện được các mục tiêu này nếu đáp ứng được hai thử thách sống còn là: kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ. Một doanh nghiệp bị thua lỗ liên tục, rút cục sẽ bị cạn kiệt các nguồn lực và buộc phải đóng cửa. Mặt khác, nếu doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ đến hạn thì cũng bị buộc phải ngừng hoạt động và đóng cửa.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của họ hướng chủ yếu vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy họ đặc biệt chú ý đến số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển đổi thành tiền nhanh, từ đó so sánh số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm tới số lượng vốn chủ sở hữu, bởi vì số vốn chủ sở hữu này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro. Không mấy ai sẵn sàng cho vay nếu các thông tin cho thấy người vay không bảo đảm chắc chắn rằng khoản vay đó có thể và sẽ được thanh toán ngay khi đến hạn.
Đối với các nhà cung cấp vật tư hàng hoá dịch vụ, họ phải quyết định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hay không ? nhóm người này cũng giống như chủ ngân hàng, họ cần phải biết khả năng thanh toán của khách hàng hiện tại và thời gian sắp tới.
Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như sự rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lời, khả năng thanh toán vốn... Vì vậy, họ cần những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh và các tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Đồng thời các nhà đầu tư cũng rất quan tâm tới việc điều hành hoạt động vả tính hiệu quả của công tác quản lí. Những điều đó nhằm đảm bảo sự an toàn và tính hiệu quả cho các nhà đầu tư.
Bên cạnh các chủ doanh nghiệp, các nhà quản lí, nhà đầu tư, các chủ ngân hàng, nhà cung cấp còn có nhiều nhóm người khác cũng quan tâm tới tài chính của doanh nghiệp. Đó là cơ quan tài chính, thuế thống kê, chủ quản, các nhà phân tích tài chính, người lao động... Những người này có nhu cầu thông tin về cơ bản giống như các chủ ngân hàng, các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp... bởi vì nó liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tương lai của họ.
Như vậy có thể nói mục đích tối cao và quan trọng nhất của phân tích tài chính là giúp những người ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác thực trạng, tiềm năng của doanh nghiệp.
III. Nguồn tài liệu và phương pháp sử dụng để phân tích tình hình Tài Chính doanh nghiệp.
1. Nguồn tài liệu phân tích.
Để tiến hành phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, người phân tích phải sử dụng rất nhiều tài liệu khác nhau, trong đó chủ yếu là các báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính là những tài liệu rất hữu ích đối với các nhà quản trị doanh nghiệp và là nguồn thông tin tài chính chủ yếu đối với người ngoài doanh nghiệp. Báo cáo tài chính không những cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo mà còn cho thấy những kết quả hoạt động mà doanh nghiệp đạt được trong một thời kì nào đó. Sau đây, em xin giới thiệu hai báo cáo tài chính chủ yếu của doanh nghiệp là Bảng Cân Đối Kế Toán và Báo Cáo Kết Quả Kinh Doanh.
1.1. Bảng Cân Đối Kế Toán:
Bảng Cân Đối Kế Toán là một báo cáo tài chính chủ yếu, phản ánh tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp theo hai cách đánh giá: Tài sản và nguồn hình thành tài sản tại thời điểm lập báo cáo. Theo quy định hiện hành, Bảng cân đối kế toán có kết cấu ngang, theo hình thức này, bảng được chia thành hai bên: bên trái phản ánh tài sản, bên phải phản ánh nguồn vốn, hoặc có thể có kết cấu dọc , nghĩa là gồm hai phần: phần tài sản và phần nguồn vốn.
Phần Tài sản phản ánh toàn bộ giá trị của Tài sản hiện có của doanh nghiệp, bao gồm Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn (loại A) và Tài sản cố định & đầu tư dài hạn (loại B). Mỗi loại lại được bao gồm nhiều chỉ tiêu khác nhau được sắp xếp theo một trình tự phù hợp với yêu cầu của công tác quản lí trong từng giai đoạn. Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu thuộc phần tài sản của Bảng cân đối kế toán phản ánh vốn hiện có của doanh nghiệp ở thời điểm lập báo cáo; Còn xét về mặt pháp lí, nó phản ánh vốn thuộc quyền sở hữu và quản lí của doanh nghiệp.
Phần nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành của tài sản, bao gồm nợ phải trả (loại A) và nguồn vốn chủ sở hữu (loại B). Mỗi loại A và B lại bao gồm các chỉ tiêu khác nhau và cũng được sắp xếp theo một trình tự thích hợp với yêu cầu của công tác quản lí. Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu thuộc phần nguồn vốn của Bảng cân đối kế toán phản ánh các nguồn hình thành của tài sản hiện có của doanh nghiệp; Còn xét về phương diện pháp lí, các chỉ tiêu này._. phản ánh trách nhiệm pháp lí của doanh nghiệp đối với các đối tượng đầu tư vốn (nhà nước, ngân hàng, cổ đông...) cũng như đối với khách hàng thông qua công nợ phải trả. Qua nghiên cứu kết cấu của Bảng cân đối kế toán ta thấy Bảng cân đối kế toán có các đặc điểm sau đây:
Các chỉ tiêu được phản ánh dưới hình thái giá trị cho nên người ta có thể tổng hợp được toàn bộ tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định, từ đó cho phép đánh giá khái quát được tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu đó.
Thời điểm để phản ảnh các chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán là đầu năm và cuối kì, do đó cho phép ta nghiên cứu được sự biến động của tài sản cũng như của nguồn vốn giữa các kì kế toán.
Bảng cân đối kế toán được chia làm hai phần (có thể kết cấu theo kiểu hai bên hoặc một bên) là phần “Tài sản” và phần “Nguồn vốn”, tổng giá trị Tài sản luôn bằng tổng giá trị Nguồn vốn. Nếu cụ thể hoá quan hệ cân đối nói trên, ta có:
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn
hoặc là
Tài sản lưu động + Tài sản cố định = Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu
và đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn
Qua các quan hệ cân đối nói trên cũng cho phép ta thấy được sơ bộ về thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Bảng Cân Đối Kế Toán mẫu B01- DN có dạng như sau:
Tài sản
nguồn vốn
A. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
A. Nợ phải trả
I. Tiền
I. Nợ ngắn hạn
II. Các khoản đầu tư Tài Chính ngắn hạn
II. Nợ dài hạn
III. Các khoản phải thu
III. Nợ khác
IV. Hàng tồn kho
V. Tài sản lưu động khác
B. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
B. Nguồn vốn chủ sở hữu
I. Tài sản cố định
I. Nguồn vốn – quỹ
II. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
II. Nguồn kinh phí
III. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang
IV. Các khoản kí quỹ kí cược dài hạn
tổng tài sản
tổng nguồn vốn
1.2. Báo Cáo Kết Quả Kinh Doanh.
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tình hình kết quả hoạt động kinh doanh cũng như tình hình thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà Nước trong một kì kế toán.
Thông qua các chỉ tiêu trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể kiểm tra, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoặch, dự đoán chi phí sản xuất, giá vốn, doanh thu sản phẩm vật tư hàng hoá đã tiêu thụ, tình hình chi phí, thu nhập của hoạt động khác và kết quả kinh doanh sau một kì kế toán.
Thông qua số liệu trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể kiểm tra tình hình thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với nhà nước về các khoản thuế và các khoản phải nộp khác.
Đồng thời thông qua Báo cáo kết quả kinh doanh người ta còn có thể đánh giá xu hướng phát triển của doanh nghiệp qua các kì khác nhau.
Báo cáo kết quả kinh doanh gồm 3 phần sau:
Phần I : Lãi, lỗ.
Phần II : Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.
Phần III : Thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm.
1.3. Những tài liệu cần thiết khác phục vụ cho việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tài chính có mục tiêu đi tới dự đoán tài chính, dự đoán kết quả tương lai của doanh nghiệp, trên cơ sở đó mà đưa ra được những quyết định phù hợp. Chính vì thế cho nên ngoài việc nghiên cứu Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Thuyết minh báo cáo tài chính của doanh nghiệp thì còn cần phải tập hợp đầy đủ các thông tin liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, như các thông tin chung về kinh tế, tiền tệ, thuế khoá của quốc gia và quốc tế, các thông tin về ngành kinh tế, các thông tin về pháp lí, về kinh tế đối với doanh nghiệp.
Mặt khác sự tồn tại phát triển cũng như quá trình suy thoái của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố : có những yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài, có những yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan. Các yếu tố bên trong bao gồm những yếu tố thuộc về tổ chức doanh nghiệp, ngành sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh, quy trình công nghệ, năng lực của lao động...Còn các yếu tố bên ngoài có thể là sự tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế, tiến bộ khoa học kĩ thuật, chính sách tiền tệ, chính sách thuế...Việc thu thập và nghiên cứu đầy đủ các tài liệu và các yếu tố kể trên là điều kiện thuận lợi giúp cho việc phân tích tài chính doanh nghiệp được xem xét một cách triệt để và toàn diện nhất.
2. Phương pháp phân tích.
Phương pháp phân tích tài chính được sử dụng nhiều nhất là phương pháp so sánh. Phương pháp này được dùng để xác định xu hướng phát triển và mức độ biến động của các chỉ tiêu kinh tế. Để có thể tiến hành so sánh giữa các số liệu với nhau, đòi hỏi người phân tích phải giải quyết được bốn vấn đề là:
Một là, phải thiết lập các tiêu chuẩn so sánh. Tiêu chuẩn so sánh ở đây là chỉ tiêu được chọn làm căn cứ so sánh (thường là số liệu kì gốc). Tuỳ theo yêu cầu của phân tích mà chọn các căn cứ hoặc kì gốc thích hợp. Khi nghiên cứu về tốc độ tăng trưởng thì kì gốc được chọn làm căn cứ so sánh là tài liệu của năm trước. Hoặc là để xem xét kết quả đạt được của doanh nghiệp với đơn vị khác thì kì gốc được chọn là tiêu chuẩn trung bình của các doanh nghiệp trong cùng ngành kinh doanh....
Hai là, giữa các chỉ tiêu kinh tế phải đảm bảo tính so sánh được. Điều kiện có thể so sánh được giữa các chỉ tiêu kinh tế phải được quan tâm cả về không gian lẫn thời gian, có nghĩa là các chỉ tiêu kinh tế được lựa chọn để so sánh phải phản ánh cùng một nội dung kinh tế, có cùng phương pháp tính toán, có cùng đơn vị tính. Ngoài ra, các chỉ tiêu đó phải được quy đổi về cùng một quy mô hoạt động với các điều kiện kinh doanh tương tự nhau.
Ba là, phải xác định rõ mục tiêu so sánh là gì. Quá trình so sánh giữa các chỉ tiêu được thể hiện dưới ba hình thái là số tuyệt đối, số tương đối và số bình quân. Mỗi một hình thái ứng với một mục tiêu so sánh tương ứng. Nếu như so sánh bằng số tuyệt đối phản ánh biến động về mặt quy mô hoặc khối lượng của các chỉ tiêu phân tích, thì so sánh bằng số tương đối phản ánh mối quan hệ tỉ lệ, kết cấu của từng chỉ tiêu trong tổng thể, hoặc biến động về mặt tốc độ của chỉ tiêu đang xem xét giữa các kì với nhau.Trong khi đó việc sử dụng số bình quân sẽ cho thấy tính phổ biến của chỉ tiêu phân tích.
Bốn là, các chỉ tiêu kinh tế có thể được phân tích theo chiều dọc hoặc phân tích theo chiều ngang. Phân tích theo chiều dọc là quá trình so sánh, xác định các tỉ lệ, quan hệ tương quan giữa các dữ kiện trên báo cáo tài chính của kì hiện hành. Còn quá trình so sánh, xác định tỉ lệ và chiều hướng tăng giảm của các dữ kiện trên báo cáo tài chính của nhiều kì khác nhau được gọi là quá trình phân tích theo chiều ngang. Phân tích theo chiều ngang có thể ảnh hưởng bởi lạm phát, vì vậy kết quả chỉ có ý nghĩa khi người phân tích loại trừ ảnh hưởng của biến động giá.
Ngoài phương pháp so sánh, phân tích tài chính doanh nghiệp còn được thực hiện bởi các phương pháp khác như : phương pháp thay thế liên hoàn, phương pháp số chênh lệch, phương pháp cân đối, phương pháp dùng biểu, sơ đồ phân tích, phương pháp chỉ số... Việc kết hợp sử dụng nhiều phương pháp sẽ cho kết quả phân tích khách quan và chính xác.
Chương II: Thực trạng phân tích tình hình tài chính của công ty cổ phần đầu tư & xây dựng 646
I. Một số nét khái quát về Công Ty Cổ Phần Đầu Tư & Xây Dựng 646.
Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công Ty Cổ Phần Đầu Tư& Xây Dựng 646.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã và đang đóng góp vai trò ngày càng quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước, tạo nhiều việc làm và của cải cho xã hội. Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà Nước đã đề ra nhiều chính sách khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp ngày càng phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn. Hiện nay ở nước ta có 6 loại hình doanh nghiệp chính là : công ty TNHH, công ty tư nhân, công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty Nhà Nước và Hợp Tác Xã. Trong đó loại hình doanh nghiệp công ty cổ phần đang dần chiếm ưu thế và trở nên phổ biến. Không riêng gì ở nước ta mà trên Thế Giới loại hình công ty cổ phần cũng đã phát triển rất mạnh mẽ, các công ty lớn như Sony, Microsoft, General Electronic...đều là công ty cổ phần. Sở dĩ như vậy là do loại hình công ty cổ phần có nhiều ưu điểm hơn các loại hình công ty khác. Trước hết một công ty nếu được thành lập dưới dạng công ty cổ phần sẽ có khả năng thu hút được rất nhiều các nhà đầu tư. Ngoài phương thức huy động vốn phổ thông như các công ty khác là liên doanh, liên kết, vay nợ, công ty cổ phần còn được phép phát hành các loại chứng khoán ra thị trường nhằm huy động vốn. Đây là kênh huy động vốn rất hiệu quả chỉ có ở công ty cổ phần. Ngoài ra sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lí đã mang lại cho loại hình công ty cổ phần một thời gian hoạt động đươc xem như là vĩnh viễn. Thậm chí ngay cả khi các nhà quản lí công ty bị bãi nhiệm, từ nhiệm, hoặc là các cổ đông rút vốn góp của mình ra khỏi công ty bằng cách bán các cổ phần của mình cho những nhà đầu tư khác thì vẫn không làm gián đoạn hoạt động của công ty. Mặt khác, không giống như các loại hình công ty hợp danh hay công ty tư nhân, công ty cổ phần chỉ có trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn kinh doanh của mình, điều này có nghĩa là các cổ đông sẽ không chịu trách nhiệm cá nhân trước nghĩa vụ tài chính của công ty. Nếu công ty bị phá sản thì không ai được quyền yêu cầu liên đới các tài sản riêng của các cổ đông của nó đối với các nghĩa vụ trả nợ của công ty.
Nằm trong xu thế phát triển chung ấy, ngày 20/7/2001, Công Ty Cổ Phần Đầu Tư và Xây Dựng Công Trình 646 đã được thành lập với vốn điều lệ là 6.000.000.000 đồng, hoạt động theo giấy chứng nhận Đăng Kí Kinh Doanh số : 0103000465 do sở Kế Hoặch và Đầu Tư - UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 08/8/2001. Công ty có trụ sở chính tại số 9- ngách 88/1- đường Võ Thị Sáu- Phường Thanh Nhàn- Quận Hai Bà Trưng – HN. Tên giao dịch tiếng Anh là Investment and construction no 646 joint- stock company, viết tắt là 646 J.S.C. Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng công trình 646 được thành lập nhằm mục đích kinh doanh các ngành nghề sau:
Xây dựng dân dụng, công nghiệp ( đầu tư, xây dựng các khu dân cư, đô thị, khu kinh tế và khu công nghiệp tập trung).
Xây dựng các công trình giao thông, thuỷ lợi.
Buôn bán, cho thuê máy móc, thiết bị xây dựng.
Buôn bán hàng tư liệu sản xuất, tư liêu tiêu dùng.
Hiện nay, công ty có một đội ngũ cán bộ kĩ thuật giàu kinh nghiệm, công nhân kĩ thuật, thợ chuyên môn lành nghề và các trang thiết bị máy móc chuyên dùng để thực hiện việc xây lắp các công trình, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng công nghiệp, dân dụng, xây dựng các công trình giao thông, thuỷ lợi với yêu cầu chất lượng kĩ thuật cao.
Là một công ty mới thành lập, trước mắt còn nhiều khó khăn về vốn, về nhân sự, về tổ chức quản lí, nhưng trong 4 năm hoạt động vừa qua công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng công trình 646 luôn đặt chất lượng và tiến độ thi công ở vị trí hàng đầu trong chiến lược phát triển của mình.
2. Cơ cấu tổ chức quản lí của công ty:
Sơ đồ tóm tắt cơ cấu tổ chức của công ty :
Hội Đồng Quản trị
Ban Giám Đốc
Phòng
Kế Hoạch
Kĩ Thuật
Phòng
Kế Toán Tài Chính
QLDA
Hạ tầng
Phòng
TB- VT
Đội
XDCT5
Đội
XDCT 4
Đội
XDCT 3
Đội
XDCT 2
Đội
XDCT 1
Phòng
Hành Chính
Tổng Hợp
Theo sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty thì Hội đồng quản trị là cơ quan quản lí cao nhất của công ty do Đại hội Đồng cổ đông bầu ra. HĐQT có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội Đồng cổ đông. Sau đây là một số quyền và nghĩa vụ của HĐQT:
Quyết định chiến lược phát triển công ty.
Kiến nghị loại cổ phiếu và tổng số cổ phiếu được quyền chào bán của từng loại .
Quyết định chào bán cổ phần mới trong phạm vi số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; quyết định huy động thêm vốn theo hình thức khác.
Quyết định phương án đầu tư.
Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ; thông qua hợp đồng mua, bán, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty.
Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Giám đốc và cán bộ quản lí quan trọng khác của công ty; quyết định mức lương và lợi ích của cán bộ quản lí đó.
Quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lí nội bộ công ty, quyết định thành lập công ty con, lập chi nhánh văn phòng đại diện và việc góp vốn mua cổ phần của doanh nghiệp khác.
Trình quyết toán tài chính hàng năm lên Đại hội Đồng cổ đông.
Quyết định giá chào bán cổ phần và trái phiếu của công ty; định giá tài sản góp vốn không phải là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng.
Kiến nghị việc tổ chức lại hoặc giải thể công ty.
Thành viên HĐQT có quyền yêu cầu Giám đốc, Phó giám đốc điều hành công ty, cán bộ quản lí các đơn vị khác trong công ty cung cấp thông tin và tài liệu về tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh của công ty và các đơn vị trong công ty.
Chịu trách nhiệm trước Đại hội Đồng cổ đông về những sại phạm trong quản lí, vi phạm điều lệ, vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho công ty.
Giám đốc công ty do HĐQT bổ nhiệm, là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước HĐQT về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Giám đốc công ty có quyền và nghĩa vụ sau:
Quyết định về tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động hàng ngày của công ty.
Tổ chức thực hiện các quyết định của HĐQT.
Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh về phương án đầu tư của công ty.
Kiến nghị phương án bố trí cơ cấu tổ chức, quy chế quản lí nội bộ công ty.
Ngoài ra, Giám Đốc công ty còn có một số quyền và nghĩa vụ khác được quy định cụ thể trong điều lệ công ty.
Bên cạnh HĐQT và ban Giám Đốc công ty, trong cơ cấu tổ chức của công ty còn bao gồm: phòng Hành Chính Tổng Hợp; phòng Kế Toán Tài Chính; phòng Kế Hoặch Kỹ Thuật; phòng Thiết Bị Vật Tư; Bộ phận Chủ Nhiệm công trình; các đội thi công công trình... Tất cả các phòng ban này chịu sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc, tự triển khai tiến hành các công việc được giao cũng như có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc giải quyết các công việc chung.
3. Tổ chức bộ máy Kế Toán và hình thức Kế Toán áp dụng của công ty:
Do Công Ty Cổ Phần Đầu Tư Và Xây Dưng Công Trình 646 là một đơn vị kinh doanh xây lắp nên địa bàn kinh doanh sản xuất của công ty là rất rộng lớn. Cùng một thời điểm, công ty có thể tiến hành thi công trên địa bàn Hà Nội, Bắc Giang, Lào Cai, Thái Nguyên, Đà Nẵng... Chính vì thế việc theo dõi và hạnh toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh là rất khó khăn. Để khắc phục vấn đề này, công ty đã lựa chọn mô hình tổ chức bộ máy kế toán phân tán với sơ đồ như sau:
Kế toán trưởng
Bộ phận tài chính
Bộ phận kế toán các hoạt động chung
Bộ phận tổng hợp kiểm tra
Bộ phận kế toán phòng TB-VT
Kế toán vật tư hàng hoá
Kế toán máy thi công
Kế toán thanh toán
Theo mô hình này, bộ máy Kế Toán của công ty được tổ chức bao gồm phòng Kế Toán tại văn phòng công ty(trụ sở chính) và bộ phận Kế Toán ở phòng Thiết Bị- Vật Tư được phép hạch toán độc lập. Phòng Kế Toán tại trụ sở chính của công ty có nhiệm vụ tổng hợp tài liệu kế toán gửi lên từ các phòng ban chức năng khác như bộ phận máy thiết bị, bộ phận Chủ Nhiệm công trình, phòng Hành Chính Tổng Hợp, phòng Kế Hoạch Kĩ Thuật, các đội thi công công trình ... sau đó tiến hành ghi chép các nghiệp vụ này và lập báo cáo tài chính. Đồng thời phòng Kế Toán của công ty còn có trách nhiệm hướng dẫn hạch toán cho bộ phận Kế Toán phòng TB- VT, giúp ban Kiểm Soát, ban Giám Đốc tiến hành công tác kiểm tra Kế Toán, Tài Chính ở các bộ phận khác của công ty. Kế toán phòng Thiết Bị Vật Tư có nhiệm vụ thực hiện các nghiệp vụ kế toán tương đối hoàn chỉnh theo sự phân cấp của phòng kế toán: hạch toán ban đầu, hạch toán tổng hợp, hạch toán chi tiết các nghiệp vụ kế toán ở bộ phận mình, lập báo cáo tài chính theo quy định gửi phòng Kế Toán tại trụ sở chính của công ty.
Công ty Cổ Phần Đầu Tư & Xây Dựng Công Trình 646 sử dụng hình thức kế toán Nhật Kí Chung. Theo hình thức này, sổ Nhật Kí Chung là sổ kế toán căn bản để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo thứ tự thời gian và theo nội dung kinh tế của nghiệp vụ phát sinh. Số liệu của sổ Nhật Kí Chung sẽ được sử dụng để ghi vào Sổ Cái.
Sau đây là Sơ đồ trình tự hạch toán của hình thức Nhật Kí Chung :
Sổ quỹ
Chứng từ gốc hoặc bảng tổng hợp chứng từ.
Sổ chi tiết
Nhật kí chung
Nhật kí chuyên dùng
Bảng tổng hợp chi tiết
Sổ cái
Bảng cân đối số phát sinh
Báo cáo tài chính
Ghi chú: Ghi hàng tháng
Ghi cuối tháng
Đối chiếu kiểm tra
Trình tự hạch toán :
Hàng ngày kế toán các nghiệp vụ căn cứ vào các chứng từ gốc ghi các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào sổ Nhật Kí Chung theo thứ tự thời gian.
Những nghiệp vụ kinh tế cần tổ chức hạch toán chi tiết (như nghiệp vụ tập hợp chi phí sử dụng máy thi công) thì đồng thời với việc ghi Nhật Kí Chung, kế toán sẽ tiến hành ghi vào các sổ Kế Toán Chi Tiết.
Cuối tháng căn cứ vào sốn liệu của Nhật Kí Chung để ghi Sổ Cái.
Cuối tháng cộng sổ Kế Toán Chi Tiết để lập Bảng Tổng Hợp Chi Tiết của từng tài khoản, đối chiếu số liệu ở Sổ Cái với Bảng Tổng Hợp Chi Tiết và đối chiếu số tiền ở sổ quỹ với số liệu tài khoản tiền mặt ở Sổ Cái. Căn cứ vào số liệu ở Sổ Cái để lập Bảng Cân Đối Số Phát Sinh. Căn cứ vào số liệu ở Bảng Cân Đối để đối chiếu số phát sinh ở Bảng Tổng Hợp các sổ chi tiết để lập các Báo Cáo Tài Chính.
II. Thực trạng công tác phân tích tình hình tài chính của công ty.
Trong số những thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì thông tin về tài chính doanh nghiệp là những thông tin được nhà quản lí quan tâm hàng đầu. Tình hình tài chính doanh nghiệp lành mạnh và ổn định là điều kiện cần để một doanh nghiệp phát triển bền vững. Trước tiên nhà quản lí cần thông tin về sự biến động và cơ cấu phân bổ tài sản của doanh nghiệp để ra những quyết định điều chỉnh về quy mô, năng lực sản xuất kinh doanh, xem xét có cần phải điều chỉnh lại cơ cấu tài sản không, cần mua sắm thêm máy móc thiết bị hay tăng dự trữ nguyên vật liệu sản xuất...Song song với thông tin về sự biến động và cơ cấu phân bổ tài sản, những thông tin về nguồn vốn của công ty sẽ chỉ rõ khả năng tự chủ về tài chính của công ty, khuyến cáo công ty nên có những chính sách tài trợ như thế nào, cần tăng vay nợ hay phát huy vai trò của vốn chủ sở hữu để quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đem lại kết quả tối đa. Quan trọng hơn cả là những thông tin về tình hình công nợ của công ty. Trong quá trình điều hành hoạt động của doanh nghiệp, để tránh tình trạng doanh nghiệp bị các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản do mất khả năng thanh toán, nhà quản trị luôn quan tâm đến các khoản phải thu, phải trả của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những quyết định để xử lí các khoản nợ quá hạn, tới hạn, hạn chế tối đa những khoản nợ nần dây dưa khó đòi gây thiệt hại cho công ty. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hiệu quả kinh doanh luôn là mối quan tâm thường trực với bất kì một doanh nghiệp nào. Nhà quản lí cần thông tin về hiệu quả sử dụng các loại nguồn lực, kết quả thu được cuối cùng là cao hay thấp, chiều hướng phát triển như thế nào để từ đó có những quyết định điều chỉnh kịp thời nhằm tối thiểu hoá chi phí và tối đa hoá kết quả thu được.
Ngoài các thông tin trên, nhà quản lí còn cần rất nhiều thông tin khác nữa để đưa ra những quyết định chính xác liên quan đến tình hình tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, khối lượng thông tin tài chính cần phân tích quá nhiều, nhận thức của cán bộ kế toán ở mỗi công ty lại khác nhau, cho nên nội dung phân tích tài chính của công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng công trình 646 chỉ được triển khai theo 4 nội dung nhỏ là:
Phân tích sự biến động và cơ cấu phân bổ tài sản.
Phân tích cơ cấu phân bổ và sự biến động của nguồn vốn.
Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán công nợ của công ty.
Phân tích hiệu quả kinh doanh của công ty.
Sau đây chúng ta sẽ đi sâu xem xét chi tiết từng nội dung này:
1. Phân tích sự biến động của tài sản và cơ cấu phân bổ tài sản.
1.1. Phương pháp và nội dung phân tích.
Để nắm bắt được một cách đầy đủ thực trạng tài chính cũng như tình hình sử dụng tài sản của công ty, cần thiết phải đi sâu xem xét các mối quan hệ và tình hình biến động của các khoản mục trong Bảng Cân Đối Kế Toán nói chung và của phần Tài Sản nói riêng. Tổng số Tài Sản của công ty bao gồm hai loại là Tài Sản Lưu Động và Tài Sản Cố Định. Tài sản nhiều hay ít, tăng hay giảm, phân bổ cho từng khâu từng giai đoạn hợp lí hay không sẽ ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân tích sự biến động và tình hình phân bổ tài sản là để đánh giá tình hình tăng giảm tài sản, tình hình phân bổ tài sản như thế nào để từ đó đánh giá việc sử dụng vốn của doanh nghiệp có hợp lí hay không. Với ý nghĩa quan trọng như vậy cho nên bộ phận kế toán của công ty đã sử dụng phương pháp so sánh theo chiều ngang và chiều dọc để phân tích tình hình biến động và cơ cấu phân bổ tài sản của công ty theo những nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, xem xét sự biến động của tổng tài sản cũng như từng loại tài sản thông qua việc so sánh giữa năm trước so với năm sau cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối của tổng số tài sản cũng như chi tiết đối với từng loại tài sản. Qua đó thấy được sự biến động về quy mô kinh doanh, năng lực kinh doanh của công ty.
Thứ hai, xem xét cơ cấu vốn có hợp lí không? cơ cấu vốn đó tác động như thế nào đến quá trình kinh doanh và có phù hợp với tính chất ngành nghề kinh doanh của công ty hay không? Tất cả được xem xét thông qua việc xác định tỉ trọng của từng loại tài sản trong tổng tài sản, đồng thời so sánh tỉ trọng từng loại giữa năm trước so với năm sau để thấy được sự biến động của cơ cấu vốn.
Thực hiện hai nội dung trên, bộ phận kế toán của công ty đã lập Bảng phân tích sự biến động và tình hình phân bổ tài sản theo mẫu sau:
Bảng 2.1. Bảng phân tích sự biến động và tình hình phân bổ vốn
(đơn vị: đồng)
Chỉ tiêu
Đầu năm
Cuối kì
Tăng giảm
ST
TT%
ST
TT%
ST
TL%
TT%
A.TSLĐ & ĐTNH
11189521869
69,4
19260125572
83,6
8070603703
72,1
14,2
I. Tiền
2292757149
20,5
5369149139
27,9
3076391990
134,2
7,4
II.CK ĐTTCNH
0
0
0
0
0
_
0
III.CK phải thu
645053534
5,8
6453110132
33,5
5808056598
900,4
27,7
IV.Hàng tồn kho
8187317856
73,2
7369506673
38,3
-817811183
-9,9
-34,9
V.TSLĐ#
64393330
0,5
68359628
0,3
3966298
6,2
-0,2
B.TSCĐ & ĐTDH
4924842994
30,6
3774931157
16,4
-1149911837
-23,3
-14,2
I.TSCĐ
4924842994
100
3751472738
99,4
-1173370256
-23,8
-0,6
II.ĐTTCDH
0
0
0
0
0
_
0
III.CFXDCBDD
0
0
23458419
0,6
23458419
_
0,6
IV. Kí quỹ kí cược dài hạn
0
0
0
0
0
_
0
Tổng TS
16114364863
100
23035056729
100
6920691866
42,95
_
Nhận xét:
Cuối kì kinh doanh, tổng Tài Sản của công ty tăng khá mạnh so với đầu năm là 42,95% tương ứng 6.920.691.866 đồng. Nguyên nhân chủ yếu là do TSLĐ và ĐTNH tăng mạnh về cuối kì với tỉ lệ 72,1% ứng với 8.070.603.703 đồng, trong khi TSCĐ và ĐTDH lại giảm sút mạnh cả về số tiền và tỉ trọng(-23,3%). Tuy nhiên việc tổng Tài Sản của công ty về cuối kì tăng mạnh cho thấy quy mô kinh doanh của công ty có vẻ như đang dần được mở rộng. Đi vào xem xét từng loại tài sản cho thấy:
Cơ cấu TSCĐ & ĐTDH trong tổng Tài Sản của công ty cả đầu năm và cuối kì là chưa hợp lí với doanh nghiệp xây lắp. Tỉ trọng TSCĐ và ĐTDH không những nhỏ mà còn giảm về cuối kì. Nguyên nhân của hiện tượng này là do trong kì số máy móc thiết bị mới được trang bị thêm tăng rất nhỏ so với số máy móc cũ cần thanh lí và số trích khấu hao trong năm. Đây là điều bất lợi mà công ty cần khắc phục trong thời gian tới nhằm tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật của công ty để đảm bảo tiến độ và chất lượng thi công các công trình. CFXDCB chiếm tỉ trọng quá nhỏ và chỉ tăng lên vào cuối năm khi công ty trúng thầu một số công trình và tiến hành xây dựng lán trại phục vụ thi công. Các khoản Đầu Tư Tài Chính Dài Hạn không phát sinh cũng là vấn đề cần xem xét nhằm tăng năng lực tài chính của công ty. Bởi vì Đầu Tư Tài Chính Dài Hạn sẽ đem lại nguồn lợi tức lâu dài cho công ty, và nó phù hợp với xu thế chung là đa dạng hoá các hoạt động để giảm thiểu rủi ro tài chính.
Trong khi TSCĐ và ĐTDH giảm đi thì TSLĐ và ĐTNH cuối kì so với đầu năm lại tăng 72,1% ứng với 8.070.603.703 đồng và chủ yếu là do các khoản Phải thu tăng lên (900,4%), đặc biệt là các khoản Phải thu của khách hàng. Trong khi đó tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn cũng tăng nhưng chậm hơn các khoản phải thu. Điều đó cho thấy ở thời điểm cuối kì khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp được tăng lên, công ty có điều kiện thuận lợi để thực hiện các giao dịch cần tiền. Tuy nhiên dự trữ quá nhiều tiền và lâu thì không phải là tốt. Các khoản phải thu tăng nhanh dẫn đến tỉ trọng các khoản phải thu đầu năm là 5,8% đến cuối kì là 33,5%, tăng 27,7%. Điều này cho thấy công ty chưa tích cực trong việc thu hồi các khoản nợ phải thu nhằm giảm bớt ứ đọng vốn trong khâu thanh toán, tránh để doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn quá nhiều.
Hàng tồn kho giảm 34,9% ứng với 817.811.183 đồng nguyên nhân chủ yếu là do Chi Phí Xây Dựng Cơ Bản Dở Dang giảm đi vì các công trình đã được hoàn thành bàn giao theo tiến độ thi công.
Tóm lại, qua việc phân tích bảng trên cho thấy: cơ cấu tài sản của công ty là chưa hợp lí, các loại tài sản cần thiết để mở rộng quy mô, tăng năng lực sản xuất kinh doanh thì không tăng trong khi các loại tài sản không cần thiết lại tăng mạnh, đặc biệt là các khoản phải thu. Chính vì lẽ đó trong thời gian tới cần hết sức chú ý đến khả năng thanh toán của các chủ đầu tư, hạn chế rủi ro trong khâu thanh toán, dự trữ tiền và hàng tồn kho vừa đủ phù hợp với nhu cầu xây lắp và thực hiện các giao dịch cần tiền, tăng tốc độ luân chuyển vốn.
1.2. Ưu và nhược điểm.
Việc phân tích sự biến động và cơ cấu phân bổ tài sản của công ty như trên là cách làm rất hiệu quả. Thông qua Bảng phân tích sự biến động và cơ cấu phân bổ tài sản của công ty, người đọc được cung cấp các thông tin quan trọng sau:
Sự biến động của TSCĐ ảnh hưởng đến quy mô và năng lực sản xuất kinh doanh của công ty như thế nào.
Sự biến động của tiền và đầu tư tài chính ngắn hạn có làm tăng khả năng ứng phó của công ty đối với các khoản nợ đến hạn hay không.
Sự biến động của hàng tồn kho chịu ảnh hưởng lớn bởi nhân tố nào trong quá trình sản xuất kinh doanh từ khâu dự trữ, sản xuất thi công đến khâu bàn giao quết toán công trình.
Công ty có thái độ như thế nào đối với sự biến động của các khoản phải thu, đã thúc đẩy công tác thanh toán thu hồi nợ hay chưa, và đã có chính sách tín dụng như thế nào đối với khách hàng của công ty.
Với những thông tin này, giám đốc công ty có thể đưa ra những quyết định quan trọng nhằm tăng cường năng lực sản xuất kinh doanh cũng như điều chỉnh lại cơ cấu tài sản của doanh nghiệp sao cho hợp lí để việc sử dụng vốn kinh doanh đem lại hiệu quả cao nhất. Hay nói cách khác, qua Bảng phân tích trên giám đốc công ty cũng như nhà đầu tư, ngân hàng, cổ đông, cơ quan thuế... có thể thấy rõ được tác động của từng loại tài sản đối với quá trình kinh doanh và chính sách tài chính của doanh nghiệp trong việc tổ chức huy động vốn.
Xuất phát từ những ưu điểm trên, trong thời gian tới công ty nên tiếp tục duy trì công tác phân tích sự biến động và cơ cấu phân bổ tài sản để góp phần tăng cường hiệu quả quản lí kinh doanh nói chung và quản lí tài chính doanh nghiệp nói riêng.
2. Phân tích cơ cấu và sự biến động của nguồn vốn.
2.1. Phương pháp và nội dung phân tích.
Phân tích cơ cấu và sự biến động của nguồn vốn nhằm mục đích đánh giá khái quát khả năng tự tài trợ về mặt tài chính của doanh nghiệp, xác định mức độ độc lập và tự chủ trong sản xuất kinh doanh hoặc những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong việc khai thác nguồn vốn. Tiêu chí để đánh giá là nếu nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỉ trọng cao và có xu hướng tăng thì điều đó cho thấy khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính của doanh nghiệp là cao, mức độ phụ thuộc về mặt tài chính đối với các chủ nợ thấp và ngược lại. Để làm được điều này, công ty đã sử dụng phương pháp so sánh từng loại nguồn vốn giữa năm trước so với năm sau cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối, xác định và so sánh giữa năm trước so với năm sau về tỉ trọng từng loại nguồn vốn trong tổng số để xác định chênh lệch cả về số tiền, tỉ lệ và tỉ trọng. Không những thế công ty cần kết hợp xem xét sự biến động và cơ cấu phân bổ của nguồn vốn với các chính sách tài trợ của công ty và hiệu quả kinh doanh mà công ty đạt được, để từ đó có thể dự đoán những thuận lợi và khó khăn trong tương lai mà doanh nghiệp sẽ gặp phải. Chính điều đó đã đem lại hiệu quả lớn trong việc phân tích cơ cấu và sự biến động nguồn vốn của công ty.
Cũng giống như phân tích tình hình biến động và cơ cấu phân bổ tài sản, để phân tích công ty lập bảng phân tích cơ cấu và sự biến động của nguồn vốn như sau:
Bảng 2.2. Bảng phân tích cơ cấu và sự biến động của nguồn vốn
(đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu
Đầu năm
Cuối kì
Tăng giảm
ST
TT%
ST
TT%
ST
TL%
TT%
A.Nợ phải trả
10154,6
63,1
16992,5
73,8
6837,9
67,3
10,7
I.Nợ ngắn hạn
10061,8
99,1
16942,5
99,7
6880,7
68,4
0,6
1.Vayngắn hạn
0
0
0
0
0
_
0
2.Nợ dài hạn đến hạn trả
13,4
0,13
0
0
-13,4
-100
-0,13
3.Phải trả cho người bán
6175,8
61,38
16907,4
99,79
10731,6
173,8
38,41
4.Người mua trả tiền trước
3855,2
38,32
0
0
-3855,2
-100
-38,32
5.Thuế và các khoản phải nộp
15,5
0,15
27,8
0,16
12,3
78,9
0,01
6.Phải trả CNV
0
0
0
0
0
_
0
7.Phải trả NB
0
0
0
0
0
_
0
8.CK phải trả nộp khác
1,8
0,02
7,3
0,05
5,5
301,2
0,03
II.Nợ dài hạn
92,8
0,9
50
0,3
-42,8
-46,1
-0,6
1.Vay dài hạn
92,8
100
50
100
-42,8
-46,1
0
2.Nợ dài hạn
0
0
0
0
0
_
0
III.Nợ khác
0
0
0
0
0
_
0
B.NVCSH
5959,8
36,9
6042,6
26,2
82,8
1,4
-10,7
I.Nguồn vốnquỹ
5959,8
100
6042,6
100
82,8
1,4
0
1.NVKD
6000
100,7
6000
99,3
0
0
-1,4
2.Chênh lệch đánh giá lại TS
0
0
0
0
0
_
0
3.Chênh lệch tỉ giá
0
0
0
0
0
_
0
4.Quỹ ĐTPT
0
0
0
0
0
_
0
5.Quỹ DPTC
0
0
0
0
0
_
0
6.Lợi nhuận chưa phân phối
-40,2
-0,7
42,6
0,7
82,8
-205,8
1,4
7.Nguồn vốn ĐTXDCB
0
0
0
0
0
_
0
II.Nguồn ._.m bảo vốn cho sản xuất kinh doanh, mà còn quan tâm đến khả năng kinh doanh lâu dài của công ty.
Để đáp ứng nhu cầu này, phân tích cấu trúc tài chính và tình hình đầu tư trước hết sẽ làm rõ các vấn đề sau đây:
Cấu thành nguồn vốn ở doanh nghiệp như thế nào ? có lợi về mặt tài chính của công ty hay không ?
Trong điều kiện nào công ty có thể sử dụng vốn vay mượn vào kinh doanh để đem lại lợi ích cho chủ sở hữu?
Vị trí TSCĐ quan trọng đến mức nào?
Việc đầu tư ở doanh nghiệp ra sao? có đảm bảo hiệu quả kinh doanh trong tương lai hay không ?
Song để giải quyết các vấn đề đã nêu thì cần phải tính toán, phân tích các chỉ tiêu sau :
Bảng 3.2.
Chỉ tiêu
Công thức tính
ý nghĩa kinh tế
1.Hệ số nợ
Nợ phải trả *100%
Tổng tài sản
Phản ánh mức độ phụ thuộc về mặt tài chính
2.Hệ số tự tài trợ VCSH
Nguồn vốn chủ sở hữu * 100%
Tổng tài sản
Phản ánh sự đóng góp của chủ sở hữu đối với tài sản đang sử dụng.
3.Tỉ suất đầu tư
Tài sản cố định *100%
Tổng tài sản
Phản ánh vị trí của TSCĐ trong tổng tài sản.
4.Tỉ suất tự tài trợ TSCĐ và ĐTDH
Nguồn vốn chủ sở hữu * 100%
Giá trị TSCĐ và ĐTDH
Mức độ đóng góp của chủ sở hữu đối với các khoản sử dụng dài hạn.
5.Tỉ suất vốn cổ phần
Vốn cổ phần của các cổ đông * 100%
Tổng tài sản
Phản ánh mức độ đảm bảo đối với các chủ nợ của công ty.
Phương pháp phân tích là so sánh giữa năm sau so với năm trước theo từng chỉ tiêu, đồng thời xem xét nguyên nhân dẫn đến sự biến động của từng chỉ tiêu, kết hợp với việc xem xét lợi nhuận kinh doanh đạt được mà có quyết định cụ thể về cấu trúc tài chính và đầu tư phù hợp.
Sử dụng số liệu của công ty trong hai năm 2002, 2003 ta có bảng sau:
Bảng 3.3.
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
So sánh
1.Hệ số nợ (%)
63,02
73,77
10,75
2.Hệ số tự tài trợ tổng quát (%)
36,98
26,23
-10,75
3.Tỉ suất vốn cổ phần (%)
37,23
26,05
11,18
4.Tỉ suất đầu tư (%)
30,56
16,29
-14,27
5.Tỉ suất tự tài trợ TSCĐ và ĐTDH (%)
121,01
160,07
39,06
Nhận xét:
Kết quả tính được ở trên cho thấy trong khi tỉ suất tự tài trợ TSCĐ và ĐTDH tăng mạnh (39,06%) thì tỉ suất tự tài trợ tổng quát lại giảm đi đáng kể (- 10,75%). Qua đó cho thấy một thực tế bất cập ở công ty là khả năng tự tài trợ về đầu tư TSCĐ của công ty là tương đối lớn vì TSCĐ và ĐTDH chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng tài sản. Kết cấu tài sản như vậy là chưa phù hợp với doanh nghiệp xây lắp. Trong khi đó thông qua tỉ suất tự tài trợ tổng quát trong cả hai năm đều cho thấy khả năng tự trang trải của công ty chưa chiếm được một nửa, không những vậy lại còn có xu hướng giảm về cuối kì. Từ đây công ty cần xem xét, kiểm tra lại công nợ phải trả, đặc biệt là công nợ đến hạn, quá hạn để có biện pháp cần thiết cho công tác quản lí của công ty. Tình trạng này được thấy rõ hơn khi hệ số nợ năm 2003 tăng 10,75% so với năm 2002 thể hiện mức độ phụ thuộc về tài chính của công ty vào đơn vị khác đang tăng lên. Tỉ suất vốn cổ phần tuy có giảm, song đi vào nghiên cứu tài liệu cho thấy số vốn cổ phần của công ty không thay đổi (năm 2002 là 6.000.000.000 đồng, năm 2003 là 6.000.000.000 đồng) trong khi tổng tài sản tăng , chứng tỏ công ty đã tăng quy mô kinh doanh thể hiện công ty đang phát triển.
2.2. Phân tích tình hình sử dụng nguồn tài trợ vốn trong năm.
Để xem xét trong năm doanh nghiệp đã có những khoản đầu tư nào? làm cách nào doanh nghiệp mua sắm được tài sản? doanh nghiệp đang gặp khó khăn hay đang phát triển? người ta tiến hành phân tích tình hình khai thác và sử dụng nguồn tài trợ vốn trong năm.
Trước khi tiến hành phân tích ta cần liệt kê sự thay đổi các chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán giữa năm nay với năm kế trước theo mẫu sau:
Bảng 3.4. Liệt kê sự biến động của tài sản và nguồn vốn
Tăng
Giảm
Tài sản
1...
Nguồn vốn
1...
Sau đó lập bảng phân tích tình hình sử dụng nguồn tài trợ vốn trong năm (bảng này được kết cấu thành hai phần : phần “nguồn tài trợ vốn” và phần “sử dụng vốn”, mỗi phần được chia thành hai hai cột : “số tiền” và “tỉ trọng”) theo tiêu thức:
Nếu tăng phần tài sản, giảm phần nguồn vốn ghi vào phần sử dụng vốn.
Nếu tăng phần nguồn vốn, giảm phần tài sản thì ghi vào phần nguồn tài trợ vốn, cụ thể:
Bảng 3.5. Phân tích nguồn tài trợ vốn.
Nguồn tài trợ vốn
Số tiền
Tỉ trọng(%)
các loại nguồn vốn tăng.
các loại tài sản giảm
Sử dụng vốn
Số tiền
Tỉ trọng(%)
các loại tài sản tăng
các loại nguồn vốn giảm
Nếu áp dụng những lí luận trên vào tình hình thực tế của công ty thì trước hết ta có bảng liệt kê sự biến động của tài sản và nguồn vốn như sau:
Bảng 3.6. Bảng liệt kê sự biến động của tài sản và nguồn vốn
( Đơn vị : đồng )
Tài sản
2002
2003
Tăng giảm
1.Tiền mặt
2.288.875.391
5.364.615.412
3.075.740.021
2.Tiền gửi ngân hàng
3.881.758
4.533.727
651.969
3.Các khoản phải thu
645.053.534
6.453.110.132
5.808.056.598
4.CFSXKDDD
8.187.317.856
7.369.506.673
(817.811.183)
5.Tài sản lưu động khác
64.393.330
68.359.628
3.966.298
6.Nguyên giá TSCĐ
5.947.688.682
5.754.221.604
(193.467.078)
7.Khấu hao TSCĐ
(1.022.845.688)
(2.002.748.866)
(979.903.178)
8.CFXDCBDD
0
23.458.419
23.458.419
Nguồn vốn
1.Nợ ngắn hạn
10.061.814.130
16.942.481.484
6.880.667.354
2.Vay dài hạn
92.800.000
50.000.000
(42.800.000)
3.Lợi nhuận chưa phân phối
(40.249.267)
42.575.245
82.824.512
Bảng 3.7. Bảng phân tích tình hình sử dụng nguồn tài trợ vốn năm 2003.
(Đơn vị : đồng)
Nguồn tài trợ vốn
Số tiền
Tỉ trọng (%)
1.Tăng nợ ngắn hạn
6.880.667.354
76,8
2.Tăng lợi nhuận chưa phân phối
82.824.512
0,9
3.Tăng khấu hao TSCĐ
979.903.178
11
4.Giảm CFSXKDDD
817.811.183
9,1
5.Giảm Nguyên giá TSCĐ
193.467.078
2,2
Cộng
8.954.673.305
100
Sử dụng vốn
1.Tăng tiền mặt
3.075.740.021
34,3
2.Tăng tiền gửi ngân hàng
651.969
0,007
3.Tăng các khoản phải thu
5.808.056.598
64,9
4.Tăng TSLĐ khác
3.966.298
0,04
5.Tăng CFXDCBDD
23.458.419
0,3
6.Giảm vay dài hạn
42.800.000
0,453
Cộng
8.954.673.305
100
Nhận xét:
Qua bảng phân tích trên cho thấy công ty đã mua sắm tài sản bằng cách tăng nợ ngắn hạn, giảm chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, tăng lợi nhuận chưa phân phối và giảm nguyên giá tài sản cố định. Tổng cộng vốn từ các nguồn trên cung cấp là 8.954.673.305 đồng, trong đó nguồn cung cấp lớn nhất là nợ ngắn hạn chiếm 76,8% tổng số nguồn vốn cung cấp trong năm. Tổng cộng nguồn vốn 8.954.673.305 đồng doanh nghiệp đã dùng để tài trợ cho sự gia tăng của Chi phí xây dựng cơ bản dở dang, tăng tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tăng các khoản phải thu và Tài sản lưu động khác. Việc tăng Chi phí xây dựng cơ bản dở dang chứng tỏ trong năm công ty cần xây dựng các công trình tạm thời như lán trại để phục vụ thi công. Tăng các khoản phải thu(64,9%) và tài sản lưu động khác cho thấy doanh thu của công ty đang tăng. Tuy nhiên việc tăng dự trữ tiền mặt và tiền gửi quá nhiều chỉ đáp ứng được nhu cầu khả năng thanh toán nợ nhanh của công ty, trong khi lại gây ứ đọng vốn dẫn đến tình trạng kém hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Công ty nên chú ý đầu tư đổi mới TSCĐ phục vụ thi công nhằm tăng năng lực sản xuất kinh doanh của công ty hơn nữa. Như vậy trong năm công ty phát triển chủ yếu dựa vào vốn vay ngắn hạn mà chưa phát huy vai trò của vốn chủ sở hữu, qua đó cho thấy sự phát triển của công ty hiện nay là không chắc chắn. Đây là vấn đề cấp bách đòi hỏi ban giám đốc công ty phải có giải pháp kịp thời và hữu hiệu trong thời gian tới nhằm đưa công ty thoát khỏi tình trạng khó khăn hiện thời và tiếp tục phát triển bền vững.
2.3. Phân tích quan hệ bù đắp giữa nguồn vốn với các loại tài sản.
Như chúng ta đã biết, Bảng cân đối kế toán có thể có kết cấu theo kiểu hai bên hoặc một bên, và được chia làm hai phần là phần “Tài sản” và phần “Nguồn vốn”. Tổng “Tài sản” luôn bằng tổng “Nguồn vốn”. Phần “Nguồn vốn” phản ánh nguồn hình thành của tài sản, bao gồm Nợ phải trả và Nguồn vốn chủ sở hữu. Mỗi loại nguồn vốn này lại được chia thành các chỉ tiêu khác nhỏ hơn, được sắp xếp theo một trình tự thích hợp với yêu cầu của công tác quản lí. Tuy nhiên nếu chia Nguồn vốn của Bảng cân đối kế toán theo cách khác, tức là thành Nguồn vốn Thường Xuyên và Nguồn vốn Tạm Thời thì ta sẽ có:
Nguồn vốn Thường Xuyên = Nguồn vốn chủ sở hữu + Nợ dài hạn.
Nguồn vốn Tạm Thời = Nợ ngắn hạn.
Việc phân chia như vậy nhằm mục đích thấy được rằng Nguồn vốn Thường Xuyên có bù đắp cho TSCĐ hay không, qua đó mà đưa ra những đánh giá về tình hình tài chính của doanh nghiệp có ổn đinh không? Tiêu chí để xem xét mối quan hệ bù đắp giữa Nguồn vốn với các loại tài sản là nếu Nguồn vốn Thường Xuyên ( > ) TSCĐ và ĐTDH, tức là Nguồn vốn Tạm Thời ( < ) TSLĐ và ĐTNH thì tình hình tài chính của doanh nghiệp là tốt, vì doanh nghiệp đã dùng Nguồn vốn Thường Xuyên đầu tư cho TSLĐ và ĐTNH. Trường hợp ngược lại sẽ cho những kết luận xấu về tình trạng tài chính của doanh nghiệp.
Để thực hiện nội dung này, người ta thường lập bảng phân tích gồm 6 cột, trong đó các chỉ tiêu TSCĐ và ĐTDH, TSLĐ và ĐTNH, Nợ phải trả, Nguồn vốn chủ sở hữu là những chỉ tiêu tổng hợp được lấy từ Bảng cân đối kế toán mẫu B01- DN của doanh nghiệp.
Sau đây để cụ thể hoá nội dung quan hệ bù đắp giữa Nguồn vốn với các loại tài sản của doanh nghiệp, công ty có thể tiến hành phân tích như sau:
Bảng 3.8. : Bảng phản ánh mối quan hệ bù đắp giữa nguồn vốn với các loại tài sản.
(Đơn vị : đồng )
Tài sản
Năm 2002
Năm 2003
Nguồn vốn
Năm 2002
Năm 2003
A.TSLĐ và ĐTNH
11.189.521.869
19.260.125.572
A.Nợ phải trả
10.154.614.130
16.992.481.484
trong đó Nợ dài hạn
92.800.000
50.000.000
B.TSCĐ và ĐTDH
4.924.842.994
3.774.931.157
B.NVCSH
5.959.750.733
6.042.575.245
Tổng Tài Sản
16.114.364.863
23.035.056.729
Tổng Nguồn vốn
16.114.364.863
23.035.056.729
Từ bảng trên ta có:
+ Nguồn vốn Thường Xuyên:
Năm 2002 = 92.800.000+ 5.959.750.733 = 6.052.550.733 (đồng).
Năm 2003 = 50.000.000+ 6.042.575.245 = 6.092.575.245 (đồng).
+ Nguồn vốn Tạm Thời :
Năm 2002 = 10.061.814.130 (đồng).
Năm 2003 = 16.942.481.484 (đồng).
Như vậy, trong cả hai năm Nguồn vốn Thường Xuyên của công ty luôn (>) TSCĐ và ĐTDH nên dẫn đến Nguồn vốn Tạm Thời (<) TSLĐ và ĐTNH. Điều này cho thấy tình hình huy động và sử dụng các nguồn vốn của công ty là khá tốt.b Trong các niên độ tới, nội dung trên cần được tiến hành phân tích thường xuyên nhằm đưa ra những điều chỉnh kịp thời khi có sự mất cân đối trong quan hệ bù đắp giữa nguồn vốn với các loại tài sản, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
2.4. Phân tích hiệu quả tài chính của công ty.
Hiệu quả tài chính là vấn đề thường được các nhà đầu tư rất quan tâm, vì đó là thái độ ghìn giữ và phát triển nguồn vốn chủ sở hữu của một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có hiệu quả tài chính cao sẽ là một doanh nghiệp có điều kiện tốt để tăng trưởng. Hay nói một cách khác phân tích hiệu quả tài chính là việc đánh giá sự tăng trưởng của tài sản doanh nghiệp so với tổng số vốn mà doanh nghiệp thực có thông qua khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu theo công thức sau:
Tỉ suất sinh lợi = Lợi nhuận sau thuế * 100%
của vốn chủ sở hữu Nguồn vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu này thể hiện một trăm đồng vốn đầu tư của chủ sở hữu sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cuối cùng.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là tại sao lại phải phân tích hiệu quả tài chính?
Trước hết như chúng ta đã biết, để có thể tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp luôn phải sử dụng các nguồn vốn khác nhau. Và vấn đề đặt ra là doanh nghiệp nên gia tăng vốn chủ sở hữu hay huy động vốn vay? Để trả lời câu hỏi này, các nhà quản trị cần có những chứng cớ rõ ràng về khả năng tạo ra các khoản lãi từ việc sử dụng các loại nguồn vốn thông qua quá trình phân tích hiệu quả tài chính.
Hơn nữa, hiệu quả tài chính là thông tin đặc biệt quan trọng đối với những người cho vay vì lợi nhuận đối với họ là một giao ước đảm bảo an toàn cho đồng vốn mà họ đã bỏ ra.
Ngoài ra, hiệu quả kinh doanh và hiệu quả tài chính là hai nội dung có quan hệ mật thiết với nhau. Nếu chỉ xem xét hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thông qua hiệu quả kinh doanh như công ty đã thực hiện ở chương II thì sẽ là phiến diện. Thực tế đã chứng minh rằng một doanh nghiệp có thể có hiệu quả kinh doanh cao nhưng lại đạt hiệu quả tài chính thấp vì các chính sách tài trợ không phù hợp.
Để phân tích hiệu quả tài chính, người ta thường so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tài chính kì này so với kì trước, từ đó có thể đưa ra những đánh giá về mức độ tăng giảm, xu hướng phát triển của hiệu quả tài chính của công ty.
Ngoài ra, người ta còn thiết lập các công thức thể hiện mối liên quan giữa chỉ tiêu hiệu quả tài chính với các nhân tố ảnh hưởng, có 4 nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. Sau đây ta sẽ đi sâu phân tích chiều hướng tác động của từng nhân tố đến hiệu quả tài chính.
Nhân tố nhứ nhất có tác động đến hiệu quả tài chính là hiệu quả kinh doanh. ảnh hưởng này có thể được nhận diện qua việc chi tiết hoá chỉ tiêu tỉ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu:
LNST
Tỉ suất sinh lời của =
vốn chủ sở hữu VCSH
Tỉ suất sinh lời của = LNTT * (1- t) * DTT * TS
vốn chủ sở hữu DTT TS VCSH
Trong đó, LNTT : là lợi nhuận trước thuế, LNST = LNTT *(1- t)
DTT: là doanh thu thuần.
TS : là tài sản.
VCSH: là vốn chủ sở hữu.
t : là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
Như vậy thông qua công thức trên, ta thấy rằng tỉ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu có mối liên hệ với chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận trên doanh thu và hiệu suất sử dụng tài sản. Rõ ràng, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng cao sẽ dẫn đến khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu càng lớn và ngược lại.
Nhân tố nhứ hai là khả năng tự chủ về tài chính của công ty. Khả năng tự chủ tài chính được thể hiện qua chỉ tiêu tỉ suất tự tài trợ. Có thể thấy rằng, ứng với hiệu quả kinh doanh cho trước nếu tỉ suất tự tài trợ càng lớn thì hiệu quả tài chính của doanh nghiệp sẽ càng nhỏ. Ta có thể xem xét mối quan hệ này qua công thức sau:
Tỉ suất sinh lời = LNTT *(1- t) * TS
vốn chủ sở hữu TS VCSH
hay HTC = HKD * 1 * (1-t)
HTTT
Trong đó, HTTT : là hệ số tự tài trợ của doanh nghiệp, HTTT = VCSH
HKD : là hiệu quả kinh doanh. TS
HTC : là hiệu quả tài chính.
t : là Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
Nhân tố thứ ba là đòn bẩy tài chính. Đòn bẩy tài chính được định nghĩa là tỉ lệ nợ phải trả trên nguồn vốn chủ sở hữu ( N :VCSH). Thực chất nó thể hiện cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp ở thời điểm hiện tại. Cấu trúc tài chính như thế nào là do chính sách tài chính của doanh nghiệp quyết định. Liên quan đến đòn bẩy tài chính, công thức của hiệu quả tài chính được viết lại như sau:
Tỉ suất sinh lời = LNTT*(1-t) * TS
vốn chủ sở hữu TS VCSH
= LNTT *(1-t) * ( N+VCSH )
TS VCSH
= LNTT *(1-t) * ( 1+ N )
TS VCSH
= LNTT *(1- t) * ( 1+ ĐBTC )
TS
hay HTC = HKD * (1-t) * (1+ ĐBTC )
Trong đó, N: là nợ phải trả.
ĐBTC: là đòn bẩy tài chính.
t : thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
Qua đó có thể thấy rằng, nếu hệ số đòn bẩy tài chính càng cao thì hiệu quả tài chính của doanh nghiêp sẽ được tăng lên. Tuy nhiên trong công thức trên tỉ suất sinh lời của tài sản = HKD = (LNTT : TS) vẫn còn ảnh hưởng bởi cấu trúc nguồn vốn, vì lợi nhuận để tính chỉ tiêu này đã trừ đi chi phí lãi vay. Do vậy để xem xét riêng ảnh hưởng của việc vay nợ và đòn bẩy tài chính đối với hiệu quả tài chính thì ta phải lập lại công thức trên như sau:
Khả năng sinh lời kinh tế của tài sản = RE = LNTT + LV
TS
hay RE = LNTT + N * r
TS
LNTT = RE * TS – N * r
LNTT = RE (N + VCSH) – N * r
LNTT= N * (RE - r) + VCSH * RE
LNST = (N * (RE - r) + VCSH *RE) * (1-t)
Tỉ suất sinh lời = LNST = (N * (RE - r) + VCSH * RE) * (1-t)
của vốn chủ sở hữu VCSH VCSH
= ( RE + ( RE –r ) * N ) * (1- t )
VCSH
= ( RE + ( RE –r ) * ĐBTC ) * (1- t )
Trong đó, LV: là lãi vay.
N: là nợ phải trả.
r : là lãi suất vay.
t : là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
RE : là tỉ suất sinh lời kinh tế của tài sản.
Kết quả cuối cùng cho thấy, nếu tỉ suất sinh lời kinh tế của tài sản (RE) lớn hơn lãi suất vay thì việc vay nợ sẽ làm cho hiệu quả tài chính của doanh nghiệp tăng lên. Trong trường hợp này đòn bẩy tài chính được gọi là đòn bẩy dương. Doanh nghiệp nên vay thêm để kinh doanh nếu có nhu cầu mở rộng kinh doanh mà vẫn giữ được hiệu quả kinh doanh như cũ. Ngược lại nếu tỉ suất sinh lời kinh tế của tài sản (RE) nhỏ hơn lãi vay thì việc vay nợ sẽ làm cho hiệu quả tài chính của doanh nghiệp giảm và rủi ro của doanh nghiệp tăng lên vì hệ số tự tài trợ giảm. Trong trường hợp này đòn bẩy tài chính được gọi là đòn bẩy âm. Doanh nghiệp không nên vay thêm để kinh doanh.
Nhân tố thứ tư là khả năng thanh toán lãi vay. Khả năng thanh toán lãi vay là hệ số được xem xét trong mối quan hệ giữa (Lợi nhuận trước thuế+ lãi vay) và lãi vay. Ta có:
Lợi nhuận truớc thuế + Lãi vay
Khả năng thanh toán lãi vay =
Lãi vay
Khả năng thanh toán lãi vay càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao, lợi nhuận tạo ra được sử dụng để trả nợ vay và tạo phần tích luỹ cho doanh nghiệp. Chỉ tiêu này nhỏ hơn hoặc bằng 1 chứng tỏ vốn sử dụng không có hiệu qủa, và doanh nghiệp phải sử dụng vốn chủ sở hữu để trả lãi vay.
Nếu tách chỉ tiêu tỉ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu thành nhiều thành phần khác nhau ta sẽ thấy rõ mối quan hệ giữa khả năng thanh toán lãi vay với tỉ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu.
LNST
Tỉ suất sinh lời =
của vốn chủ sở hữu VCSH
= (LNTT + LV) * LNST * TS
TS LNTT +LV VCSH
Vì TS = N + VCSH nên công thức trên có thể được viết lại như sau:
Tỉ suất sinh lời = ( LNTT + LV ) * LNST * ( 1 + N )
vốn chủ sở hữu TS LNTT +LV VCSH
Nếu gọi t là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thì LNST = LNTT *( 1- t), ta có:
Tỉ suất sinh lời = ( LNTT + LV ) * LNTT * (1-t ) * ( 1 + N )
vốn chủ sở hữu TS LNTT +LV VCSH
= ( LNTT + LV ) * ( LNTT + LV –LV) * (1- t) * ( 1 + N )
TS LNTT +LV VCSH
= ( LNTT + LV ) * ( 1- LV ) * (1- t ) * ( 1 + N )
TS LNTT +LV VCSH
= ( LNTT + LV ) * ( 1- 1 ) * (1- t ) * ( 1 + ĐBTC )
TS KNTTLV
Trong đó, KNTTLV : là Khả năng thanh toán lãi vay.
ĐBTC = N : là đòn bẩy tài chính.
VCSH
Qua đó ta nhận thấy khi trị giá chỉ tiêu khả năng thanh toán lãi vay lớn hơn 1 thì hiệu quả tài chính của doanh nghiệp sẽ tăng lên và ngược lại.
Tóm lại, có 4 nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính là:
Hiệu quả kinh doanh.
Khả năng tự chủ tài chính.
Đòn bẩy tài chính.
Khả năng thanh toán lãi vay.
Trong đó hiệu quả kinh doanh ảnh hưởng cùng chiều đối với hiệu qủa tài chính. Khả năng tự chủ về tài chính ảnh hưởng ngược chiều với hiệu quả tài chính. Đòn bẩy tài chính có tác dụng tích cực tới hiệu quả tài chính khi tỉ suất sinh lời kinh tế của tài sản (RE) lớn hơn lãi suất vay bình quân (r), nếu ngược lại sẽ có tác dụng tiêu cực. Khả năng thanh toán lãi vay khi (>) 1 sẽ có tác động cùng chiều với hiệu quả tài chính của doanh nghiệp.
Trên cơ sở xác định mức độ ảnh hưởng cuả các nhân tố, người phân tích sẽ tìm ra được các nguyên nhân, dự đoán được các biện pháp để cải thiện hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. ở đây trong quá trình vận dụng số liệu để tính toán, nếu chúng ta sử dụng phương pháp thay thế liên hoàn để định lượng chính xác mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến hiệu quả tài chính của công ty thì sẽ rất khó khăn. Bởi vì phương pháp thay thế liên hoàn chỉ thích hợp đối với thương số và tích số, trong khi ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính và khả năng thanh toán lãi vay đến hiệu quả tài chính lại được biểu diễn ở dạng đa thức. Để khắc phục hạn chế này ta sẽ sử dụng bảng so sánh 5 cột nhằm chỉ rõ chiều hướng tác động của từng nhân tố với hiệu quả tài chính .
Từ số liệu Báo cáo tài chính của công ty, bảng sau đây sẽ minh hoạ nội dung phân tích hiệu quả tài chính của công ty.
Bảng 3.9.
Chỉ tiêu
năm 2002
năm 2003
So sánh tăng giảm
ST
TL%
1.Vốn chủ sở hữu bình quân
5.938.114.715
6.001.162.989
63048274
1,06
2.Lợi nhuận trước thuế + lãi vay
287.804.486
202.132.535
-85671951
-29,77
3.Chi phí lãi vay
217.109.521
80.336.194
-136773327
-62,9
4.Lợi nhuận sau thuế
48.072.576
82.821.512
34748936
72,28
5.Tỉ suất sinh lời vốn chủ sở hữu = (4) : (1)
0,81%
1,38%
0,57
-
6.Khả năng thanh toán lãi vay = (2) : (3)
1,33
2,52
1,19
-
7.Tỉ suất sinh lời kinh tế của tài sản (RE)
2,23%
1,03%
-1,2
-
8.Tỉ suất tự tài trợ
36,98%
26,05%
-10,93
-
9.Tỉ suất sinh lời của tài sản
0,55%
0,62%
0,07
-
10.Lãi suất vay bình quân
2,14%
0,47%
-1,67
-
Ghi chú : chỉ tiêu tỉ suất tự tài trợ và tỉ suất sinh lời của tài sản được lấy từ bảng 2.6.
Nhận xét:
Bảng phân tích trên cho thấy, khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu năm 2003 tăng đáng kể so với năm 2002. Nếu trong năm 2002, cứ 100 đồngvốn chủ sở hữu chỉ tạo ra 0,81 đồng lợi nhuận sau thuế thì con số này đến năm 2003 tăng lên là 1,38 đồng. Để làm rõ nhân tố nào ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính cần quan tâm đến các yếu tố về hiệu quả kinh doanh, tác động của đòn bẩy tài chính, khả năng thanh toán lãi vay và khả năng tự chủ về tài chính. Có thể nhận thấy tỉ suất tự tài trợ năm 2003 ( 26,05% ) thấp hơn hẳn so với năm 2002 (36,98%), trong khi hiệu quả kinh doanh tăng rõ rệt qua hai năm (thể hiện qua chỉ tiêu tỉ suất sinh lời của tài sản tăng lên năm sau so với năm trước). Song hiệu quả kinh doanh còn tăng cao hơn nữa nếu tỉ suất sinh lời kinh tế của tài sản (RE) năm 2003 không giảm so với năm 2002. Như vậy, hiệu quả tài chính của công ty tăng lên chính là nhờ công ty đã tăng hiệu quả của hoạt động kinh doanh và sử dụng hợp lí đòn cân nợ mặc dù tỉ suất nợ hiện nay của công ty còn mang quá nhiều rủi ro. Tỉ suât sinh lời kinh tế của tài sản (RE) trong cả hai năm luôn lớn hơn lãi suất vay bình quân (r) cho thấy việc sử dụng đòn bẩy tài chính tại công ty đã ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả tài chính của công ty. Bên cạnh đó chỉ tiêu về khả năng thanh toán lãi vay có khuynh hướng tăng trong hai năm đã làm rõ hơn về sự gia tăng hiệu quả tài chính của công ty. Việc gia tăng hiệu quả tài chính không chỉ làm tăng giá trị của công ty mà còn tạo tiền đề để tích luỹ vốn cho phát triển kinh doanh.
III. Điều kiện để thực hiện các phương hướng đã nêu.
1. Những kiến nghị đối với công ty.
Theo mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy quản lí của công ty, ngoài phòng kế toán đặt trụ sở chính của công ty thì phòng Thiết Bị Vật Tư cũng là bộ phận được phép tổ chức hạch toán độc lập. Định kì phòng Thiết Bị Vật Tư có trách nhiệm lập các Báo cáo tài chính kèm các chứng từ kế toán nộp về phòng kế toán tại trụ sở chính của công ty. Tuy nhiên phòng Thiết Bị Vật Tư không có trách nhiệm thực hiện hoạt động phân tích kinh tế nói chung và phân tích tài chính nói riêng. Phương thức tổ chức phân tích tài chính được áp dụng hiện nay tại công ty là phân tích tập trung, có nghĩa là các hoạt động phân tích được giao cho phòng kế toán của công ty, các phòng ban bộ phận khác trong công ty chỉ có trách nhiệm cung cấp thông tin và nhận kết quả phân tích. ưu điểm của phương thức này là các thông tin tập trung vào một đầu mối nên thuận lợi cho việc xử lí thông tin đầu vào và tiện lợi khi phân tích tổng hợp hoạt động kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Tuy nhiên nhược điểm của phương thức tổ chức này là đòi hỏi các cán bộ kế toán của phòng kế toán phải là những chuyên gia phân tích và phải nắm bắt được toàn bộ các hoạt động kinh doanh của công ty. Đây là một trở ngại lớn vì khối lượng công việc cần xử lí quá nhiều, ngoài nội dung phân tích tài chính, cán bộ kế toán còn phải thực hiện rất nhiều nội dung khác như : phân tích chi phí, phân tích lợi nhuận và phân phối lợi nhuận, phân tích doanh thu, phân tích tình hình thực hiện chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ...Hơn nữa việc thu thập và xử lí các thông tin từ các báo cáo tài chính, các hợp đồng vay nợ, các loại hoá đơn, phiếu thu, phiếu chi, giấy tạm ứng, biên bản nghiệm thu bàn giao công trình... để phục vụ phân tích tài chính sẽ mất rất nhiều thời gian. Chính vì thế, để công tác phân tích tài chính nói riêng và phân tích kinh tế của doanh nghiệp nói chung đạt hiệu quả cao hơn, công ty nên áp dụng phương thức tổ chức phân tích kết hợp (phương thức tổ chức phân tích vừa tập trung vừa phân tán) thay vì áp dụng phương thức tổ chức phân tích tập trung như hiện nay. Theo phương thức này, các bộ phận chức năng sẽ tự tiến hành phân tích các vấn đề do mình phụ trách, sau đó cung cấp các thông tin và kết quả cho bộ phận phân tích tập trung là phòng kế toán nhằm giảm nhẹ bớt khối lượng công việc cần giải quyết của phòng này. Chẳng hạn như ngoài chức năng hạch toán độc lập thì phòng Thiết Bị Vật Tư còn có nhiệm vụ phân tích chi phí và giá thành sản phẩm. Phòng kế toán chỉ đảm nhiệm công tác phân tích tài chính của toàn công ty, phân tích tình hình lợi nhuận và phân phối lợi nhuận mà không không kiêm nhiệm các nội dung phân tích khác, đồng thời có trách nhiệm kiểm tra sự chính xác của các báo cáo phân tích do các phòng ban khác chuyển lên trước khi trình ban giám đốc công ty. Nếu làm được như vậy thì công tác phân tích tài chính của công ty mới đem lại hiệu quả cao, tạo sự an toàn cho các đối tượng sử dụng thông tin.
Bên cạnh việc tổ chức công tác phân tích khoa học và hợp lí, thì việc thu thập và xử lí thông tin trong phân tích cũng là nội dung quan trọng nhằm đảm bảo kết quả phân tích chính xác và khách quan. Như chúng ta đã biết phân tích tài chính có mục tiêu đi tới những dự đoán tài chính, dự đoán kết quả trong tương lai của công ty, trên cơ sở đó mà đưa ra được những quyết định phù hợp. Như vậy trong quá trình thu thập thông tin để phục vụ cho công tác phân tích tài chính, không thể chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu các báo biểu tài chính của công ty mà phải tập hợp đầy đủ các thông tin liên quan đến tình hình tài chính của công ty, như các thông tin chung về kinh tế, tiền tệ, thuế khoá, các thông tin về ngành kinh tế của công ty, các thông tin về pháp lí đối với công ty. Có như vậy thì việc phân tích tài chính của công ty mới không phiến diện và cho kết quả sai lầm. Sau khi thu thập được các thông tin cần thiết thì cần phải kiểm tra các thông tin này trước khi đưa vào phân tích. Trước hết là kiểm tra tính hợp pháp của các số liệu và tài liệu thu thập được. Sau đó cần kiểm tra:
tính đúng đắn của các ghi chép trong các biểu mẫu thống kê và báo cáo.
tính thống nhất của các chỉ tiêu được phản ánh trong các tài liệu khác nhau.
độ chính xác của các số liệu tính toán, ghi chép.
Mục đích của việc kiểm tra số liệu là để thiết lập sự phản ánh một cách trung thực và khách quan thực tế của các hoạt động tài chính của doanh nghiệp, để làm cơ sở cho việc phân tích đánh giá được chuẩn xác. Ngoài ra thông qua việc kiểm tra số liệu để phát hiện những sai lệch và nhầm lẫn cố ý trong các số liệu thống kê và báo cáo.
Tóm lại, lựa chọn hình thức tổ chức phân tích thích hợp và thu thập xử lí thông tin phục vụ phân tích khoa học là hai công việc cần được tiến hành song song trước khi phân tích tài chính doanh nghiệp. Thực hiện tốt hai công tác này sẽ là tiền đề để nâng cao chất lượng của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp.
2. Những kiến nghị đối với Nhà Nước.
Hiện nay đang tồn tại một bất cập khá phổ biến ở tất cả các doanh nghiệp là công tác phân tích kinh tế nói chung và phân tích tài chính nói riêng chưa thực sự được chú trọng. Nhiều doanh nghiệp không tiến hành phân tích kinh tế, hoặc có thì rất sơ sài. Đây là điều bất lợi cho các doanh nghiệp trong việc tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo thế cạnh tranh trên thị trường. Nên chăng Nhà Nước cần sớm ban hành văn bản quy định hoạt động phân tích kinh tế là hoạt động bắt buộc đối với các doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát triển hơn nữa. ý nghĩa của phân tích kinh tế đã cho thấy việc ban hành quy định trên là điều rất cần thiết. Bởi lẽ, trong nền Kinh Tế Thị Trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, những doanh nghiệp làm ăn nhỏ lẻ, chụp giật, không có kế hoặch kinh doanh rõ ràng chi tiết thì sẽ không thể tồn tại được lâu. Đây là vấn đề tất yếu sẽ xảy ra, nhất là trong năm tới chúng ta sẽ ra nhập tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO. Muốn tạo được thế đứng vững chắc trên thị trường thì các doanh nghiệp, bao gồm cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều phải được tổ chức hoạt động quy củ, có nghĩa là các kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp phải được lập, được tổ chức thực hiện, được kiểm soát chặt chẽ từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng mới có thể đem lại kết quả cao. Tuy nhiên để có được những kế hoạch khả thi thì đòi hỏi doanh nghiệp phải khai thác được những thông tin chất lượng. Phân tích kinh tế nói chung và phân tích tài chính nói riêng sẽ đảm nhiệm trách nhiệm quan trọng này. Nếu như kế toán chỉ phản ánh lại các nghiệp vụ phát sinh thông qua các con số cụ thể thì phân tích kinh tế sẽ cho ta thấy “mặt chất” của những con số này. Số liệu kế toán sau khi đã được xử lí bởi các kĩ thuật của phân tích kinh tế sẽ là căn cứ quan trọng để ra quyết định quản lí trong doanh nghiệp. Hơn nữa, khi doanh nghiệp có nhu cầu khuyếch trương danh tiếng hoặc kêu gọi sự đầu tư vốn thì các thông tin do phân tích kinh tế cung cấp sẽ là phương tiện hữu ích thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư. Với vai trò quan trọng như vậy cho nên Nhà Nước cần sớm có văn bản quy định hoạt động kinh tế là hoạt động bắt buộc đối với các doanh nghiệp cũng như việc lập các Báo cáo tài chính vào cuối niên độ, trong đó nội dung phân tích tài chính cần được quan tâm hàng đầu.
Cùng với việc ban hành văn bản quy định hoạt động phân tích kinh tế là hoạt động bắt buộc, Nhà Nước cũng cần điều chỉnh lại thời hạn nộp Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành, các Báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải nộp vào cuối tháng 2 hàng năm. Song niên độ kế toán lại thường kết thúc vào 31 tháng 12 hàng năm nên tính cập nhật của các Báo cáo tài chính đã bị giảm đi rất nhiều. Trong khi đó, phân tích kinh tế và phân tích tài chính lại sử dụng số liệu của các Báo cáo tài chính để phân tích nên kết quả phân tích chắc chắn sẽ mất đi tính thời sự, đôi khi còn thiếu chính xác gây thiệt hại cho người sử dụng thông tin.
Tóm lại, để hoạt động phân tích tài chính đem lại kết quả cao nhất, Nhà Nước cần sớm ban hành quy định bắt buộc đối với hoạt động này và điều chỉnh lại thời hạn nộp các Báo cáo tài chính sớm hơn.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36164.doc