Hoàn thiện nghiệp vụ kế toán trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank)

Lời mở đầu Hệ thống ngõn hàng Việt Nam được tỏch thành hai cấp kể từ năm 1988 theo nghị định 53/HĐBT của Chớnh phủ. Kể từ đú, cỏc NHTM Việt Nam đó hoạt động kinh doanh như bất kỳ một doanh nghiệp nào nhằm tỡm kiếm lợi nhuận, hoạt động trờn cơ sở hạch toỏn kinh tế độc lập, lời ăn lỗ chịu. Với đối tượng kinh doanh của ngõn hàng là tiền tệ-một sản phẩm tài chớnh rất nhạy cảm với mọi thay đổi và biến động, nờn hoạt động kinh doanh ngõn hàng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Để cú thể phỏt triển bền vững

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1385 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện nghiệp vụ kế toán trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và ổn định trong một mụi trường cũn nhiều bấp bờnh, vấn đề đặt ra đối với cỏc NHTM là phải nhận biết được cỏc rủi ro và quản lý giảm thiểu cỏc rủi ro ấy. Để tạo ra nền tảng và cơ sở phỏp lý cho cỏc NHTM trong việc hạn chế và khắc phục những tổn thất do rủi ro mang lại, nhằm giỳp cỏc ngõn hàng lành mạnh hoỏ hoạt động tài chớnh, Thống đốc ngõn hàng nhà nước Vịờt Nam đó chớnh thức cho phộp cỏc ngõn hàng thực hiện việc trớch lập dự phũng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngõn hàng. Việc cho phộp cỏc NHTM duy trỡ nguồn dự phũng để xử lý rủi ro là điều hoàn toàn thớch hợp trong cơ chế thị trường, phự hợp với thụng lệ quốc tế. Và nguồn quỹ này đó thực sự trở thành chiếc phao cứu cỏnh cho cỏc NHTM thời kinh tế thị trường. Tuy nhiờn, Hoạt động trớch lập và sử dụng dự phũng vẫn cũn là một nghiệp vụ mới mẻ đối với cỏc ngõn hàng, cũng như cỏc quy định về nghiệp vụ này vẫn chưa được hoàn chỉnh. Bởi vậy, việc thực hiện trớch lập và dự phũng để xử lý rủi ro trờn thực tế ở cỏc ngõn hàng vẫn cũn nhiều vấn đề cần nghiờn cứu và xem xột. Trong quỏ trỡnh thực tập tại ngõn hàng No và PTNT Hà Nội, xuất phỏt từ sự mới mẻ và ý nghĩ của vấn đề này, em đó mạnh dạn đi sõu nghiờn cứu thực tiễn thực hiện nghiệp vụ trớch lập và dự phũng rủi ro tại chi nhỏnh. Từ cỏc kết quả thu được, em đó hoàn thành chuyờn đề tụt nghiệp với đề tài: “Thực trạng và giải phỏp hoàn thiện nghiệp vụ kế toỏn trớch lập và sử dụng dự phũng rủi ro trong hoạt động ngõn hàng tại chi nhỏnh ngõn hàng No và PTNT Hà Nội”. Chuyờn đờ gồm ba phần: Chương I: Cơ sở lý luận về nghiệp vụ kế toỏn trớch lập và sử dụng dự phũng rủi ro trong hoạt động của NHTM. Chương II: Thực trạng về nghiệp vụ kế toỏn trớch lập và sử dụng dự phũng rủi ro trong hoạt động tại chi nhỏnh ngõn hàng No và PTNT Hà Nội. Chương III: Giải phỏp hoàn thiện nghiệp vụ kế toỏn trớch lập và sử dụng dự phũng rủi ro trong hoạt động tại chi nhỏnh ngõn hàng No và PTNT Hà Nội. Em xin chõn thành cảm ơn sự giỳp đỡ nhiệt tỡnh của cỏn bộ, nhõn viờn phũng kế toỏn, cỏc phũng ban cũng như ban lónh đạo của ngõn hàng No và PTNT Hà Nội. Em cũng xin cảm ơn thầy Nguyễn Đức Hiển đó tận tỡnh giỳp đỡ em hoàn thành luận văn này. Do hạn chế về mặt kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn, nờn chắc chắn luận văn cũn nhiều thiếu sút. Em rất mong nhận được những đúng gúp, phờ bỡnh của cỏc thầy cụ và cỏc bạn. Chương I Cơ sỞ lý luẬn vỀ nghiỆp vỤ kẾ toỏn trớch lẬp và sỬ dỤng dỰ phũng rỦi ro trong hoẠt đỘng cỦa NHTM NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHTM Khỏi niệm NHTM: Quỏ trỡnh hỡnh thành và phỏt triển của ngõn hàng là một quỏ trỡnh lịch sử lõu dài. Ở thời kỳ đầu cỏc ngõn hàng hoạt động độc lập với nhau và thực hiện cỏc chức năng trung gian tớn dụng, trung gian thanh toỏn trong nền kinh tế và phỏt hành giấy bạc ngõn hàng. Nhưng chớnh sự mở rộng và phỏt triển của lưu thụng hàng hoỏ đó dẫn đến sự phõn hoỏ trong hệ thống ngõn hàng, hỡnh thành nờn cỏc ngõn hàng trung ường và hệ thống cỏc ngõn hàng trung gian. Hoạt động ngõn hàng ngày càng phỏt triển và mở rộng đó tạo nờn sự ra đời của cỏc ngõn hàng hoạt động trong lĩnh vực riờng: NHTM, ngõn hàng đầu tư, ngõn hàng phỏt triển,… NHTM là một loại hỡnh trung gian khỏ phỏt triển và giữ vai trũ tương đối quan trọng trong toàn bộ hệ thống ngõn hàng, cũng như trong nền kinh tế. Cú rất nhiều định nghĩa khỏc nhau về ngõn hàng thương maih. Luật ngõn hàng của Phỏp năm 1941 đó định nghĩa: “được coi là ngõn hàng là những xia nghiệp hành nghề thường xuyờn nhận của cụng chỳng dưới hỡnh thức kớ thỏc hay hỡnh thức khỏc cỏc số tiền mà họ dựng cho chớnh họ vào cỏc nghiệp vụ chiết khấu, tớn dụng hay dịch vụ tài chớnh”. Cũn theo điều 20 luật cỏc TCTD của Việt Nam năm 1997 : “ TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và cỏc quy định khỏc của phỏp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngõn hàng với nội dung nhận tiền gửi để cấp tớn dụng, cung cấp cỏc dịch vụ thanh toỏn”. Như vậy, mặc dự cú nhiều cỏch định nghĩa khỏc nhau nhưng cú thể thấy NHTM là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ . Cú nghĩa là, NHTM tỡm kiếm lợi nhuận thong qua cỏc hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ mà chủ yếu là nhận tiền gửi từ những người cú nguồn vốn dư thừa, sử dụng số tiền đú để cho vay những người cú nhu cầu về vốn và cung ứng cỏc dịch vụ thanh toỏn rộng rói cho những người cú nhu cầu sử dụng dịch vụ ngõn hàng. Lợi nhuận của ngõn hàng chớnh là phần chờnh lệch giữa số lói phải trả cho người gửi tiền và sổ lói thu được từ hoạt động cấp tớn dụng, cựng với cỏc khoản phớ thu được qua việc cung cấp cỏc dịch vụ. NHTM được tỏch thành nhúm riờng, phõn biệt với cỏc ngõn hàng trung gian và cỏc tổ chức tớn dụng khỏc. Một trong những lớ do là tổng tài sản của NHTM luụn là khối lượng lớn nhất trong tổng tài sản của toàn bộ hệh thống ngõn hàng và tỷ lệ vốn cho vay vào mục đớch thương mại và cụng nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của một NHTM. Sự phỏt triển của nển kinh tế khiến cho khỏi niệm về ngõn hàng, NHTM đang thay đổi vỡ cú sự pha trộn cỏc hoạt động truyền thống của ngõn hàng với cỏc loại hỡnh trung gian tài chớnh khỏc, nhưng NHTM vẫn đúng vai trũ quan trọng nhất trong hệ thống tài chớnh của mỗi nước. Trong tổng lưu chuyển tiền tệ của mỗi nền kinh tế, lưu chuyển tiền tệ của cỏc trung gian tài chớnh chiếm 2/3. Và cỏc NHTM chiếm 2/3 trong tổng lưa chuyển vốn của cỏc trung gian tài chớnh. Hoạt động của NHTM rỏt đa dạng, phong phỳ và cú phậm vị rộng lớn, do đú, nú cú thể đỏp ứng được đày đủ lợi ớch của bất kỳ hệ thống tài chớnh nào. NHTM cú thể tồn tại ở nhiều dạng sử hữu khỏc nhau: NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, NHTM liờn doanh hoặc chi nhỏnh NHTM nước ngoài. 1.1.2 Chức năng của NHTM trong nền kinh tế: Có thể nói, đặc trưng hoạt động của NHTM được thể hiện rõ nhất thông qua các chức năng của NHTM: * Chức năng làm thủ quĩ cho xã hội Đây là chức năng đầu tiên có từ thời kì sơ khai của hoạt động ngân hàng, xuất phát từ nhu cầu đảm bảo tài sản và mong muốn tích luỹ giá trị. Thực hiện chức năng này, NHTM là nơi nhận tiền gửi của các cá nhân, các doanh nghiệp và các tổ chức. Ngân hàng giữ tiền cho khách hàng của mình và đáp ứng các yêu cầu chi tiêu của họ. Khi nền kinh tế phát triển, thu nhập của cá nhân, doanh nghiệp ngày càng cao, tích luỹ ngày càng lớn thì nhu cầu bảo đảm an toàn về tài sản và mong muốn được sinh lời từ khoản tiền có được của các chủ thể kinh tế cũng ngày càng cao. Vì thế, chức năng này của ngân hàng ngày càng phát triển. Nó đem lại lợi ích cho cả ngân hàng và khách hàng. Đối với ngân hàng, việc nhận các khoản tiền gửi là cơ sở để tạo ra nguồn vốn cho hoạt động ngân hàng. Nguồn vốn huy động là nguồn vốn lớn nhất, đảm bảo cho ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh. * Chức năng trung gian thanh toán Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, trao đổi hàng hoá ngày càng phức tạp thì việc thanh toán trực tiếp giữa các chủ thể kinh tế bằng tiền mặt có rất nhiều hạn chế, đó là rủi ro mất mát khi vận chuyển, chi phí thanh toán lớn... Vì thế, xuất hiện nhu cầu thanh toán qua ngân hàng. Việc ngân hàng nhận các khoản tiền gửi, thực hiện các yêu cầu thu chi của khách hàng chính là tiền đề để ngân hàng thực hiện vai trò trung gian thanh toán. Khi ngân hàng thực hiện thanh toán theo yêu cầu thu chi của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hay nhập vào tài khoản tiền gửi tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của khách hàng thì tức là ngân hàng đã thực hiện vai trò tring gian thanh toán. Chức năng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các hoạt động kinh tế. Thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt, đảm bảo thanh toán an toàn, giúp các chủ thể kinh tế thực hiện thanh toán nhanh chóng và hiệu quả. Nhờ đó, nó góp phần làm tăng tốc độ lưu thông hàng hoá, tốc độ luân chuyển vốn và do đó tăng hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội. Việc cung cấp các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt cũng góp phần tăng thu nhập, tạo uy tín cho ngân hàng. Việc chu chuyển tiền tệ hiện nay trong bất kì một nền kinh tế nào cũng chủ yếu là thông qua hệ thống NHTM và chỉ khi chức năng trung gian thanh toán được khẳng định như là thủ quỹ của xã hội. * Chức năng trung gian tín dụng Ngân hàng nhận các khoản tiền gửi từ các chủ thể kinh tế - đó là những khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, nhờ đó ngân hàng hình thành nên quĩ cho vay và đem cho vay đối với các chủ thể kinh tế khác đang có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, NHTM đã khắc phục được những hạn chế của quá trình tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tài sản xã hội, thệ hiện rõ bản chất của các NHTM: đi vay để cho vay. Bằng chức năng này, NHTM trở thành cầu nối giữa người có vốn dư thừa và người có nhu cầu về vốn và đem lại lợi ích cho cả người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay. Người gửi tiền thoả mãn được nhu cầu an toàn tài sản và kiếm được lời từ khoản lãi tiền gửi. Người đi vay thoả mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi tiêu, thanh toán. NHTM tìm kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất, đây là nguồn thu quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Chức năng này của NHTM còn đem lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế, vì nó đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất thông qua việc chuyển hoá vốn nhàn rỗi thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. 1.1.3 Vai trò của NHTM trong nền kinh tế: NHTM đóng vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế. Trước hết, NHTM là nơi cung ứng vốn cho nền kinh tế. NHTM, thông qua hoạt động nhận tiền gửi và các dịch vụ thanh toán, đã đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rõi và tạm thời nhàn rỗi, rồi thông qua hoạt động cấp tín dụng, cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế. Với vai trò này, NHTM trở thành cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất, mở rộng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong nền kinh tế thị trường, NHTM hoạt động một cách có hiệu quả còn là một công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Không những góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, hệ thống NHTM còn thực hiện việc tập hợp và phân bổ vốn của thị trường, dẫn dắt các luồng tiền tệ trong lưu thông, điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô. NHTM còn là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế. Với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán và các nghiệp vụ ngân hàng khác, NHTM tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng phát triển. Thông qua các hoạt động với các NHTM nước ngoài, hệ thống NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động cuả nền tài chính quốc tế. Ngày nay, những hoạt động của hệ thống NHTM là không thể thiếu đối với bất kì một nền kinh tế nào. 1.2 dự phòng rủi ro trong hoạt động của nhtm: 1.2.1 Rủi ro - nhân tố tất yếu trong hoạt động NHTM: Có thế nói, hoạt động của NHTM gần gũi nhất với nhân dân và nền kinh tế. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, hoạt động và dịch vụ của ngân hàng ngày càng xuất hiện nhiều hơn, tham gia vào mọi hoạt động của nền kinh tế và đời sống con người. Cũng vì thế, hoạt động ngân hàng trở thành lĩnh vực nhạy cảm, là hệ thần kinh của nền kinh tế. Đối tượng kinh doanh của NHTM là tiền tệ và hoạt động kinh doanh của các ngân hàng là hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Do đó, hoạt động của ngân hàng rất nhạy cảm với mọi biến động của nền kinh tế. Những biến động về giá cả, về quan hệ cung cầu, về chu kì phát triển của nền kinh tế, về lạm phát, về thất nghiệp,... đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nguồn vốn hoạt động của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập và huy động được để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh, bao gồm vốn huy động, vốn đi vay, vốn khác và vốn tự có. Trong đó, vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu và đóng vai trò quan trọng nhất.Tuy nhiên nguồn vốn này lại không thuộc sở hữu của ngân hàng mà là nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, được tạo lập từ nhiều hình thức khác nhau nên tính ổn định thấp, dễ biến động. Vì thế, hoạt động của ngân hàng trở nên rất rủi ro. Hoạt động sử dụng vốn của các ngân hàng hiện nay đã được đa dạng hoá nhưng hoạt động chủ yếu vẫn là cấp tín dụng, chiếm tỉ trọng tới 60% - 70% trong tổng tài sản có của các NHTM. Tuy nhiên, khi ngân hàng cho khách hàng vay, ngân hàng phải gánh chịu rủi ro. Món vay có thể được trả lại đầy đủ nhưng cũng có thể trở nên khó đòi và ngân hàng có thể mất toàn bộ số tiền cho vay. Như vậy, tín dụng – hoạt động chủ yếu của ngân hàng lại là mảng kinh doanh chứa đựng rất nhiều rủi ro. Thêm vào đó, đối tượng khách hàng của ngân hàng rất đa dạng, từ cá nhân, hộ gia đình, đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các tổng công ty... và hoạt động trên mọi địa bàn, từ thành phố đến vùng núi xa xôi; mọi lĩnh vực ngành nghề kinh doanh, từ sản xuất, phân phối, lưu thông đến tiêu dùng. Do đó, một điều tất yếu là rủi ro rất dễ xảy ra đối với các hoạt động của ngân hàng. 1.2.2 Rủi ro trong hoạt động của NHTM: 1.2.2.1 Rủi ro lãi suất: Một ngân hàng chịu rủi ro lãi suất khi có sự không cân xứng về kì hạn giữa tài sản có và tài sản nợ. Khi lãi suất thị trường biến động, cùng với sự không cân xứng về kì hạn sẽ làm cho ngân hàng gặp rủi ro. Rủi ro lãi suất được biểu hiện ở ba dạng: * Rủi ro lãi suất tái tài trợ tài sản nợ: Trong trường hợp ngân hàng duy trì tài sản có có kì hạn dài hơn so với tài sản nợ thì ngân hàng đứng trước rủi ro về lãi suất trong việc tái tài trợ đối với tài sản nợ. Rủi ro sẽ thành hiện thực nếu trong những năm tiếp theo, lãi suất huy động vốn có xu hướng tăng lên trên mức lãi suất đầu tư tín dụng dài hạn. * Rủi ro lãi suất tái đầu tư tài sản có: Ngược lại với trường hợp trên, nếu ngân hàng duy trì tài sản có có kì hạn ngắn hơn so với tài sản nợ và lãi suất đầu tư có xu hướng thấp hơn lãi suất huy động thì ngân hàng gặp rủi ro về lãi suất trong việc tái đầu tư đối với tài sản có. * Rủi ro giảm giá trị tài sản: Giá trị thị trường của tài sản có hay tài sản nợ của ngân hàng là dựa trên khái niệm giá trị hiện tại của tiền tệ. Nếu lãi suất thị trường tăng lên thì mức chiết khấu giá trị tài sản cũng tăng lên và vì thế giá trị hiện tại của tài sản có hay tài sản nợ giảm xuống và ngược lại. Vì thế nếu kì hạn của tài sản có và tài sản nợ không cân xứng nhau, ví dụ tài sản có có kì hạn lớn hơn tài sản nợ thì khi lãi suất thị trường tăng, giá trị tài sản có giảm nhanh và nhiều hơn so với sự giảm giá trị của tài sản nợ – ngân hàng đã gặp rủi ro giảm giá trị tài sản khi lãi suất thay đổi. 1.2.2.2 Rủi ro ngoại hối: Trong nền kinh tế hiện nay, các ngân hàng không chỉ bó hẹp hoạt động trong một quốc gia mà các ngân hàng đã da dạng hoá danh mục đầu tư quốc tế. Hoạt động kinh doanh ngân hàng không chỉ liên quan đến nội tệ mà cả ngoại tệ, vì thế hoạt động ngân hàng chứa đựng cả rủi ro ngoại hối. Khi ngân hàng duy trì một trạng thái hối đoán mở, mở trường hoặc mở đoản, thì khi tỷ giá biến động, giá trị tài sản có ròng bằng ngoại tệ sẽ thay đổi và rủi ro ngoại hối xảy ra khi giá trị này âm. Ngoài ra, khi kì hạn tài sản có ngoại tệ và tải sản nợ ngoại tệ không cân xứng nhau thì rủi ro có thể xảy ra với ngân hàng khi lãi suất ngoại tệ biến động tương tự như rủi ro lãi suất. 1.2.2.3 Rủi ro thanh khoản: Rủi ro thanh khoản là tình trạng ngân hàng không có đủ nguồn vốn hoặc không thể tìm được nguồn từ bên ngoài để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình. Rủi ro thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Rủi ro thanh khoản xảy ra đối với các ngân hàng là thường xuyên. Nguyên nhân chính xuất phát từ đặc điểm mang tính đặc thù của bảng cân đối tài sản của ngân hàng: đó là các ngân hàng dùng các nguồn vốn ngắn hạn bên tài sản nợ để tài trợ cho các tài sản dài hạn bên tài sản có. Trong điều kiện bình thường, nhu cầu thanh khoản của một ngân hàng có thể dự đoán trước được và được đảm bảo bằng tiền mặt dự trữ hoặc các tài sản có có tính lỏng cao. Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt, khi người dân mất lòng tin vào ngân hàng hoặc nhu cầu rút tiền có tính chất thời vụ mà ngân hàng không dự tính trước được, đòi hỏi ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền lớn hơn mức bình thường thì ngân hàng có thể phải đối mặt với rủi ro thanh khoản. Trong trường hợp đó, ngân hàng sẽ phải bán các tài sản có độ thanh khoản thấp để đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền. Vì vậy, rủi ro thanh khoản có thể ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động ngân hàng. 1.2.2.4 Rủi ro tín dụng: Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay hoặc là thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kì hạn. Khi ngân hàng cung cấp bất kì một khoản tín dụng nào cho khách hàng thì nó phải thoả mãn ba nguyên tắc: khoản tín dụng đó phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, phải có bảo đảm tín dụng và phải được hoàn trả cả gốc và lãi theo đúng kì hạn đã cam kết. Tuy nhiên, khi ngân hàng đã cấp tín dụng cho khách hàng, vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà khoản vay đó không được hoàn trả đúng hạn hoặc mất hoàn toàn khả năng thu hồi lại. Khi đó rủi ro tín dụng đã xảy ra với ngân hàng. Nó dẫn đến những tổn thất về tài chính cho ngân hàng, dẫn đến sự thua lỗ hoặc thậm chí phá sản. Rủi ro tín dụng bao gồm rủi ro giao dịch và rủi ro danh mục. Rủi ro giao dịch là rủi ro phát sinh khi ngân hàng tích luỹ các khoản cho vay, nó bao gồm rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ. Rủi ro lựa chọn là rủi ro liên quan đến hoạt động thẩm định và phân tích tín dụng. Rủi ro bảo đảm là rủi ro xuất phát từ các tiêu chuẩn bảo đảm của khoản tín dụng như các điều khoản trong hợp đồng tín dụng, các loại tài sản đảm bảo và mức độ an toàn của tài sản đảm bảo. Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan tới các quá trình, thao tác nghiệp vụ tín dụng từ việc xây dựng và thực hiện các chính sách tín dụng, việc xem xét và quản lý danh mục cho vay đến việc xếp hạng tín dụng và kĩ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề. Rủi ro danh mục bao gồm rủi ro nội tại và rủi ro tập trung. Rủi ro nội tại là rủi ro xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt của chủ thể đi vay hay của ngành kinh tế. Rủi ro tập trung là rủi ro xảy ra khi mức dư nợ của ngân hàng tập trung vào một số khách hàng, một số ngành kinh tế hoặc một khu vực địa lý hoặc một số hình thức cho vay. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Đó có thể là nguyên nhân khách quan xuất phát từ môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường pháp lý, .. hoặc nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng như trình độ quản lý, trình độ cán bộ, đạo đức nghề nghiệp, thông tin không cân xứng... hoặc nguyên nhân chủ quan từ khách hàng như cố tình không trả nợ, sử dụng sai mục đích tiền vay... hoặc nguyên nhân xuất phát từ tài sản đảm bảo như giá trị giảm, không bán được... 1.2.2.5 Rủi ro hoạt động ngoại bảng: Hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng cân đối tài sản, nhưng lại có thể tạo ra nhưng tài sản có và tài sản nợ bổ sung cho bảng cân đối nội bảng. Đối với những hoạt động ngoại bảng, ngân hàng đã thu được phí và hạch toán vào bảng báo cáo thu nhập chi phí trong khi chưa phải sử dụng đến vốn kinh doanh. Vì thế, hoạt động này đem lại thu nhập cho ngân hàng nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Khi các đối tác của ngân hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đã cam kết trong các nghiệp vụ bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán và các cam kết về nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ... thì ngân hàng sẽ phải sử dụng vốn kinh doanh của mình để thực hiện các nghĩa vụ bảo lãnh, khi ấy tài sản ngoại bảng chuyển thành tài sản nội bảng và ngân hàng gặp phải rủi ro. Do sự phong phú, đa dạng của các hoạt động ngoại bảng cũng như việc sử dụng tích cực một số hoạt động ngoại bảng vào việc phòng ngừa rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối và rủi ro tín dụng... nên việc quản trị và điều hành có hiệu quả các nghiệp vụ ngoại bảng là điều rất cần thiết. 1.2.2.6 Rủi ro công nghệ và hoạt động: Rủi ro cộng nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không tạo ra được những khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính khi mở rộng qui mô hoạt động. Việc đầu tư cho công nghệ có thể tạo cho ngân hàng một sức cạnh tranh mạnh mẽ, cho phép ngân hàng phát triển các sản phẩm mới, tiên tiến hiện đại. Nhưng đầu tư cho công nghệ bao giờ cũng là những khoản đầu tư rất lớn nên rủi ro về công nghệ xảy ra có thể gây nên những hậu quả nặng nề như giảm khả năng cạnh tranh, dẫn đến sự phá sản của ngân hàng trong tương lai Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể phát sinh bất cứ khi nào nếu hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc khi hệ thống hỗ trợ bên trong ngừng hoạt động. Rủi ro hoạt động xảy ra có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới các giao dịch thường xuyên của ngân hàng và gây thiệt hại không nhỏ cho ngân hàng. 1.2.2.7 Các rủi ro khác: Ngoài các rủi ro cơ bản trên, hoạt động ngân hàng có thể gặp phải một số rủi ro khác như: rủi ro quốc gia, rủi ro bắt nguồn từ yếu tố kinh tế vĩ mô như lạm phát tăng, sự biến động của giá cả hàng hoá, thất nghiệp... hoặc rủi ro xuất phát do ảnh hưởng của chiến tranh, sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, sự thay đổi đột ngột về thuế, rủi ro đạo đức... 1.2.3 Vai trò của dự phòng rủi ro hoạt động của NHTM: Những hoạt động của NHTM luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, hay nói cách khác, NHTM là nơi chứa đựng, hứng chịu các rủi ro của nền kinh tế. Những rủi ro này không chỉ dẫn tới những tác động xấu ảnh hưởng xấu tới hoạt động của bản thân ngân hàng mà nó còn gây ra những ảnh hưởng xấu tới toàn bộ hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Hoạt động của NHTM có liên quan tới nhiều chủ thể kinh tế, vì thế khi ngân hàng gặp rủi ro thì những cá nhân, doanh nghiệp có giao dịch với ngân hàng cũng đồng thời phải gánh chịu rủi ro. Với vai trò là trung gian tài chính, NHTM cũng đồng thời là tác nhân làm lan truyền và nhân rộng rủi ro trong nền kinh tế. Chính vì có các trung gian tài chính là các NHTM mà trong các cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính, tác hại đã nhanh chóng lan truyền làm sụp đổ, phá sản các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Mặt khác, sự sụp đổ trong hệ thống NHTM là có tính dây truyền. Khi một ngân hàng gặp rủi ro dẫn đến phá sản thì nó sẽ kéo theo các ngân hàng khác cũng gặp khó khăn và điều đó có thể làm sụp đổ cả hệ thống ngân hàng của quốc gia đó. Chính vì thế, bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng là rất quan trọng. Điều đó được thể hiện ở một số vấn đề mấu chốt như vốn điều lệ, khả năng cung cấp những sản phẩm tạo nguồn thu chi tài chính, quản trị điều hành tài chính, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro... Đối với mỗi loại rủi ro có thể gặp phải, NHTM đều có những biện pháp cụ thể để hạn chế và xử lý những tổn thất. Điều quan trọng nhất đối với các ngân hàng là nâng cao được tính chủ động và tự chịu trách nhiệm trong việc xử lý rủi ro. Trích lập và sử dụng quĩ dự phòng rủi ro là một trong những biện pháp chủ động của các ngân hàng để phòng ngừa rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh. Nó được xem như một chiếc đai an toàn nhằm giảm thiểu những ảnh hưởng của rủi ro đối với hoạt động của NHTM. Vì thế, vai trò của trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro ngày càng trở nên quan trọng đối với hoạt động của bất kì ngân hàng nào: + Khi rủi ro xảy ra, ngân hàng sử dụng các nguồn khác nhau để bù đắp cho những tổn thất gặp phải. Đó có thể là tiền bồi thường của các nhân, tập thể gây ra tổn thất, hoặc tiền bồi thường của các tổ chức bảo hiểm, hoặc số tiền thu về do bán, phát mại tài sản đảm bảo, hoặc nguồn dự phòng đã trích... Như vậy, dự phòng rủi ro được trích hàng quý vào chi phí hoạt động là một biện pháp giúp các NHTM bảo đảm an toàn vốn, giảm thiểu những tổn thất trong quá trình hoạt động kinh doanh. Có thể coi nguồn quỹ này là chiếc phao cứu cánh cho các NHTM thời kinh tế thị trường. + Dự phòng rủi ro góp phần làm tăng tính chủ động trong xử lý rủi ro của các NHTM. Do là nguồn dự phòng được tính vào chi phí hoạt động của ngân hàng, các ngân hàng tự tính toán trên cơ sở phân loại tài sản Có, nên đây là nguồn quỹ mà các ngân hàng có thể sử dụng một cách chủ động để xử lý khi cần thiết. Nó cũng thể hiện tính tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng - tự cân đối giữa thu nhập và chi phí để đảm bảo hiệu quả hoạt động. + Nguồn dự phòng rủi ro còn góp phần làm sạch tình hình tài chính của các NHTM. Bởi lẽ, nguồn quỹ này giúp các ngân hàng chủ động xử lý được các khoản nợ xấu trên bảng cân đối, đồng thời cũng kích thích ngân hàng tìm mọi biện pháp để thu nợ. Do vậy, trên bảng cân đối của ngân hàng, số nợ quá hạn sẽ giảm xuống, tình hình tài chính của ngân hàng trở nên lành mạnh hơn. + Đồng thời, việc trích lập dự phòng rủi ro còn là yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Vì nó khuyến khích các ngân hàng sát sao hơn trong việc quản lý, đẩy mạnh việc xử lý thu hồi những khoản nợ tồn đọng, quan tâm nhiều hơn trong việc đầu tư mới đảm bảo khả năng thu hồi nợ để không phải trích lập dự phòng quá lớn, ảnh hưởng đến thu nhập của cán bộ nhân viên ngân hàng. 1.3 Nghiệp vụ kế toán trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro trong hoạt động của NHTM: Nhận thức về vai trò của dự phòng rủi ro đối với hoạt động của NHTM và phù hợp với thông lệ quốc tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản qui định việc trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng: + Quyết định số 48/1999/QĐ- NHNN5 ngày 8 tháng 2 năm 1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành qui định về việc phân loại tài sản “ Có”, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng: + Công văn số 582/CV- NHNN5 ngày 23 tháng 6 năm 1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro của tổ chức tín dụng. + Và mới đây nhất, để nâng cao hơn nữa công tác trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro, ngày 27 tháng 11 năm 2000 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 488/2000/QĐ- NHNN5 về việc phân loại tài sản “ Có “, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, thay thế cho quyết định số 48 và công văn số 582. Việc Ngân hàng Nhà nước ban hành những văn bản này đã tạo hành lang pháp lý rõ ràng và ổn định cho các NHTM trong việc thực hiện trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro. 1.3.1 Một số qui định chung: * Khái niệm cơ bản: + Rủi ro trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là những tổn thất có thể xảy ra trong hoạt động ngân hàng. + Dự phòng rủi ro là dự phòng được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng thông qua việc trích lập dự phòng cho phần giá trị tài sản “ Có “ có khả năng không thể thu hồi được. + Sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng là việc tổ chức tín dụng hạch toán nội bảng ra hạch toán ngoại bảng. * Việc tổ chức thực hiện: + Đối với việc trích lập dự phòng rủi ro: Trong thời hạn 15 ngày làm việc đầu tiên tháng thứ ba mỗi quý, tổ chức tín dụng thực hiện việc phân loại tài sản “ Có “ tại thời điểm cuối ngày của ngày cuối cùng tháng thứ hai và trích lập dự phòng để xử lý rủi ro theo các tỷ lệ qui định. + Đối với việc xử lý rủi ro: Việc xử lý rủi ro được thực hiện một quý một lần sau khi đã thực hiện trích lập dự phòng rủi ro và chỉ được xử lý rủi ro trong phạm vi dự phòng hiện có. Việc xử lý rủi ro là công việc nội bộ nên tổ chức tín dụng không được thông báo cho khách hàng biết, trừ những khoản nợ đã được Chính phủ cho phép xoá nợ cho khách hàng. + Tổ chức tín dụng không được điều chỉnh giảm số nợ trong hồ sơ cho vay đối với phần nợ được coi là rủi ro và đã được xử lý bằng dự phòng rủi ro. Tổ chức tín dụng vẫn phải có biện pháp để thu hồi nợ triệt để theo chế độ hiện hành như đối với các khoản nợ được chính phủ cho phép xoá nợ đối với khách hàng. + Mọi khoản tiền thu hồi được từ những khoản vay đã được coi là rủi ro và đã được xử lý bằng dự phòng được coi là doanh thu của tổ chức tín dụng và được hạch toán vào thu nhập bất thường. 1.3.2 Tài khoản sử dụng trong nghiệp vụ kế toán trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro của NHTM: Hệ thống tài khoản kế toán của các tổ chức tín dụng của Việt Nam qui định hoạt động tín dụng được theo dõi trên các tài khoản loại 2. Trong đó, các tài khoản có liên quan đến việc hạch toán trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro gồm: + Tài khoản 201, 221: Tài khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. + Tài khoản 2051, 2061, 2111, 2121, 2141... Tài khoản nợ trong hạn và đã được gia hạn nợ. Các tài khoản này có kết cấu như sau: Bên Nợ ghi: Số tiền cho khách hàng vay Bên Có ghi: Số tiền khách hàng trả nợ Số tiền chuyển nợ quá hạn Số dư Nợ: Phản ánh số tiền khách hàng còn đang nợ ngân hàng. ` Hạch toán chi tiết: Mở tài khoản chi tiết cho từng khách hàng vay vốn. + Tài khoản 2052, 2062, 2112, 2122, ...: Tài khoản nợ quá hạn đến 180 ngày có khả năng thu hồi. + Tài khoản 2053,2063, 2113, 2123, ...: Tài khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày có khả năng thu hồi. + Tài khoản 2058, 2068, 2118, 2128, ...: Tài khoản nợ khó đòi Các tài khoản này có kết cấu như sau: Bên nợ ghi: Số tiền cho vay phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi Bên Có ghi: Số tiền khách hàng trả nợ Số dư Nợ: Phản ánh số dư nợ quá hạn, nợ khó đòi khách hàng chưa trả. Hạch toán chi tiết: Mở tài khoản chi tiết theo từng khách hàng có nợ quá hạn, nợ khó đòi. Số dư của các tài khoản loại 2 này chính là căn cứ để ngân hàng tính toán số dự phòng phải trích. + Tài khoản 209, 219, 229, 239, ...: Tài khoản dự phòng phải thu khó đòi. Các tài khoản này có kết cấu: Bên Có ghi: Số dự phòng phải thu khó đòi tính vào chi phí Bên Nợ ghi: Khoản phải thu khó đòi không thu được phải xử lý xoá nợ Kết chuyển số chênh lệch về dự phòng phải thu khó đòi đã lập không sử dụng còn lại đến cuối niên độ kế toán. Số dư Có: Phản ánh dự phòng khoản phải thu khó đòi còn lại cuối kì. + Tài khoản 8722: Tài khoản chi dự phòng, gồm các khoản chi dự phòng giảm giá c._.hứng khoán, dự phòng nợ phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá vàng, ngoại tệ. Tài khoản có kết cấu: Bên Nợ ghi: Các khoản chi trích lập dự phòng trong năm Bên Có ghi: Kết chuyển số dư cuối năm vào tài khoản lợi nhuận năm nay khi quyết toán. Số dư Nợ: Phản ánh các khoản chi trích lập dự phòng trong năm. + Tài khoản 97: Tài khoản nợ khó đòi chờ xử lý. Tài khoản này dùng để hạch toán các khoản nợ bị tổn thất đã dùng dự phòng rủi ro để bù đắp đang trong thời gian theo dõi để có thể tiếp tục thu hồi dần. Thời gian theo dõi trên tài khoản này phải theo qui định của nhà nước nhưng nếu không thu được thì cũng huỷ bỏ. Tài khoản này có kết cấu như sau: Bên Nhập: Số tiền nợ khó đòi được bù đắp đưa ra theo dõi ngoại bảng. Bên Xuất: Số tiền thu hồi được của khách hàng Số tiền nợ bị tổn thất đã hết thời gian theo dõi. Số còn lại: Phản ánh số nợ bị tổn thất được bù đắp nhưng vẫn tiếp tục theo dõi để thu hồi. 1.3.3 Nghiệp vụ kế toán trích lập dự phòng rủi ro của NHTM: 1.3.3.1 Căn cứ để trích lập: Việc trích lập dự phòng rủi ro của các NHTM được thực hiện dựa trên việc phân loại tài sản “ Có “ hoạt động ngân hàng: 1. Tài sản “ Có “ của hoạt động tín dụng được phân nhóm như sau: Nhóm 1 gồm: Những khoản cho vay chưa đến hạn trả nợ ( kể cả kỳ hạn nợ gia hạn ) Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác chưa đến hạn thanh toán. Những khoản cho thuê tài chính chưa đến hạn trả tiền thuê. Nhóm 2 gồm: Những khoản cho vay có bảo đảm bằng tài sản đã quá hạn trả nợ dưới 181 ngày, những khoản cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đã quá hạn trả nợ dưới 91 ngày. Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã quá hạn thanh toán trong thời gian dưới 61 ngày. Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền thuê trong thời hạn dưới 181 ngày. Nhóm 3 gồm: Những khoản cho vay có bảo đảm bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 181 ngày đến dưới 361 ngày, những khoản cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 91 ngày đến dưới 181 ngày. Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã quá hạn thanh toán từ 31 ngày đến dưới 61 ngày. Số tiền trả thay cho người được bảo lãnh nhưng chưa thu hồi được trong thời gian từ 61 ngày đến dưới 181 ngày. Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền thuê từ 181 ngày đến dưới 361 ngày. Nhóm 4 gồm: Những khoản cho vay có bảo đảm bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 361 ngày trở lên, những khoản cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 181 ngày trở lên. Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã quá hạn thanh toán từ 61 ngày trở lên. Số tiền trả thay cho người được bảo lãnh nhưng chưa thu hồi được từ 181 ngày trở lên. Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền thuê từ 361 ngày trở lên. 2. Tài sản “ Có “ của các dịch vụ thanh toán: Các khoản thanh toán hộ khách hàng, tổ chức tín dụng khác ( không bao gồm những khoản trả thay người được bảo lãnh ) đã quá hạn thu hồi. Tỉ lệ trích dự phòng áp dụng cho các tài sản “ Có “ Đối với hoạt động tín dụng: Trích theo tỉ lệ 0%, 20%, 50%, 100% tương ứng cho các nhóm 1,2,3,4. Đối với các dịch vụ thanh toán: Trích theo tỉ lệ 20%. Số tiền dự phòng phải trích lập của tổ chức tín dụng bao gồm số tiền dự phòng phải trích cho hoạt động cấp tín dụng và số tiền dự phòng phải trích cho hoạt động dịch vụ thanh toán. Ngân hàng không phải trích lập dự phòng cho các khoản vay bằng nguồn vốn tài trợ, uỷ thác đầu tư theo từng Hiệp định đã kí kết với các tổ chức nước ngoài, đã được trích dự phòng theo yêu cầu của từng hiệp định. 1.3.3.2 Phương pháp hạch toán: * Hàng quý, các tổ chức tín dụng thực hiện phân loại tài sản Có, tính số dự phòng rủi ro phải trích theo qui định và so sánh với số dự phòng hiện có. Nếu số tiền phải trích lập dự phòng lớn hơn số tiền dự phòng hiện còn thì tổ chức tín dụng phải trích thêm phần chênh lệch thiếu và hạch toán như sau: Nợ: TK chi dự phòng Có: TK quĩ dự phòng * Trường hợp số tiền phải trích lập dự phòng nhỏ hơn số tiền dự phòng hiện còn thì tổ chức tín dụng phải hoàn lại phần chênh lệch thừa để giảm số tiền dự phòng đã trích và hạch toán như sau: Nợ: TK quĩ dự phòng Có: TK thu nhập bất thường 1.3.4 Nghiệp vụ kế toán sử dụng dự phòng rủi ro của NHTM: 1.3.4.1 Điều kiện sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro: * Các trường hợp được sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro của các NHTM: 1. Khi khách hàng vay vốn, người bảo lãnh vay vốn, người phát hành thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác, người bảo lãnh thương phiếu, bên thuê tài chính, người được cung ứng dịch vụ thanh toán là các tổ chức bị phá sản giải thể và đã hoàn thành việc thanh toán tài sản. Mức xử lý rủi ro bằng mức tổn thất sau khi đã thanh toán tài sản của tổ chức bị phá sản, giải thể. 2.Tài sản “ Có “ có thời gian quá hạn ( kể cả trường hợp các tổ chức bị phá sản, giải thể nhưng chưa hoàn thành việc thanh toán tài sản ) như sau: - Những khoản cho vay có bảo đảm bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 721 ngày trở lên, những khoản cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 361 ngày trở lên. - Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã quá hạn thanh toán từ 91 ngày trở lên. - Số tiền trả thay cho người được bảo lãnh nhưng chưa thu hồi được từ 361 ngày trở lên. - Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền thuê từ 721 ngày trở lên. - Số tiền thanh toán hộ khách hàng, tổ chức tín dụng khác ( Không bao gồm những khoản trả thay cho người được bảo lãnh) đã quá hạn thu hồi từ 181 ngày trở lên. 3. Những khoản nợ cho vay được chính phủ cho phép xoá nợ cho khách hàng nhưng không được chính phủ cấp nguồn để bù đắp mà chưa được sử dụng dự phòng để xử lý. * Điều kiện về hồ sơ làm căn cứ để xử lý rủi ro: Hồ sơ phải bao gồm: - Hồ sơ về cho vay và thu hồi nợ; chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác; bảo lãnh; cho thuê tài chính; các dịch vụ thanh toán và các giấy tờ khác có liên quan đến những rủi ro. - Đối với trường hợp khách hàng là các tổ chức bị phá sản, giải thể thì còn phải có quyết định tuyên bố phá sản của toà án hoặc quyết định giải thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo qui định của pháp luật (bản sao có công chứng) và báo cáo thi hành quyết định tuyên bố phá sản, báo cáo kết thúc việc thi hành tuyên bố phá sản của phòng thu hành án, văn bản giải quyết các khoản nợ của tổ chức bị giải thể (bản sao có công chứng). - Đối với những rủi ro xuất phát từ các khoản cho vay được chính phủ cho phép xoá nợ thì còn phải có văn bản của chính phủ cho phép xoá nợ cho khách hàng. * Điều kiện về việc tổ chức xử lý rủi ro: Tổ chức tín dụng phải thành lập Hội đồng xử lý rủi ro do Chủ Tịch Hội Đồng quản trị hoặc Tổng giám đốc (Giám Đốc) làm chủ tịch và có các thành viên bắt buộc gồm Trưởng ban kiểm soát, Kế toán trưởng, Trưởng phòng tín dụng, Trưởng phòng kiểm tra nội bộ, các thành viên khác do Hội đồng quản trị hoặc Tổng giám đốc (Giám Đốc) quyết định. Hội đồng xử lý rủi ro thực hiện các nhiệm vụ sau: - Xem xét việc phân loại tài sản “ Có “, trích lập dự phòng rủi ro của quí hiện hành do Tổng giám đốc ( Giám Đốc ) thực hiện. - Xem xét báo cáo tình hình theo dõi, sao kê và thực hiện thu hồi nợ đối với những rủi ro đã được xử lý. - Quyết định việc xử lý rủi ro của quí hiện hành và phương án thu hồi nợ trong quí tiếp theo đối với những rủi ro đã được xử lý. Trong phương án phải xác định rõ thời gian và những biện pháp áp dụng để thu hồi nợ. 1.3.4.2 Phương pháp hạch toán: * Khi tiến hành sử dụng dự phòng để bù đắp rủi ro, các NHTM hạch toán: Nợ: TK quĩ dự phòng Có: TK nợ quá hạn, nợ khó đòi. Đồng thời ghi Nhập: TK Nợ khó đòi đã xử lý * Đối với những khoản tiền thu hồi được từ những rủi ro đã được xử lý bằng dự phòng thì được coi là doanh thu của tổ chức. Khi thu nợ, hạch toán: Nợ: TK thích hợp Có: TK thu nhập bất thường Đồng thời ghi Xuất: TK Nợ khó đòi đã xử lý. Các bước hạch toán về trích lập và sử dụng dự phòng như trên là qui định chung cho các NHTM. Tuỳ từng ngân hàng cụ thể mà việc áp dụng có thể có một số điều chỉnh cho phù hợp với hệ thống tài khoản, tình hình hoạt động kinh doanh…của mỗi đơn vị nhưng phải tuân thủ theo đúng các qui định chung. Sơ đồ 1: Sơ đồ hạch toán trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro trong hoạt động của NHTM TK 79 TK Dự phòng TK 8722 (1b) (1a) TK thích hợp (3a) TK nợ quá hạn (2b) Nhập: TK97 Nợ khó đòi (3b) Xuất: TK97 (2a) 1) a- Trích lập dự phòng rủi ro b- Hoàn lại phần dự phòng chênh lệch thừa 2) a- Sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro b- Đưa khoản nợ ra theo dõi ngoại bảng 3) a- Thu hồi được nợ khó đòi đã xử lý bằng dự phòng b- Xuất sổ theo dõi ngoại bảng. 1.3.5 Phân biệt dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng và dự phòng giảm giá tài sản: Theo nghị định 166/1999/NĐ - CP ngày 19/11/1999 của chính phủ về Chế độ tài chính đối với các tổ chức tín dụng thì được tính vào chi phí hoạt động của ngân hàng ngoài dự phòng rủi ro còn có dự phòng giảm giá chứng khoán và dự phòng giảm giá hàng tồn kho. Đây là hai khoản dự phòng được ngân hàng trích lập và hạch toán vào chi phí hoạt động để nhằm bù đắp cho những tổn thất có thể xảy ra do giảm giá hàng tồn kho và giảm giá chứng khoán đầu tư. Tuy nhiên hai khoản dự phòng này vẫn có những khác biệt so với dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Việc xác định thời điểm ghi nhận và giá trị cần dự phòng của hai khoản dự phòng này là vấn đề bị ảnh hưởng nhiều bởi sự xét đoán và ước lượng. Việc trích lập dự phòng giảm giá chứng khoán và giảm giá hàng tồn kho chỉ được thực hiện khi giá cả trên thị trường thấp hơn giá trị đang hạch toán tại sổ sách kế toán. Việc dự phòng này có thể được xem như một biện pháp để giúp xác định trung thực và hợp lý giá trị tài sản, cũng như phản ánh đúng kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Việc trích lập dự phòng được thực hiện cho từng loại hàng tồn kho và chứng khoán bị giảm giá vào thời điểm khoá sổ kế toán để lập báo cáo tài chính năm. Tổ chức tín dụng căn cứ vào tình hình giảm giá, số lượng hàng tồn kho thực tế và giá chứng khoán trên thị trường để xác định mức dự phòng theo công thức: Mức dự phòng chứng khoán, hàng tồn kho = Lượng hàng tồn kho hoặc chứng khoán bị giảm giá tại thời điểm 31/12 x ( Giá hàng tồn kho, chứng khoán hạch toán trên sổ sách kế toán – Giá thực tế trên thị trường thời điểm 31/12 ) Giá thực tế trên thị trường tại thời điểm 31/12 được hiểu là: + Đối với hàng tồn kho: là giá do Tổng giám đốc Tổ chức tín dụng quy định dựa trên giá bán thực tế của hàng hoá cùng loại trên thị trường hoặc dựa trên mức giá do Nhà nước quy định. + Đối với chứng khoán: là giá bán niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán đối với các loại chứng khoán có giao dịch trên thị trường chứng khoán. Đối với chứng khoán không niêm yết, Tổng giám đốc của Tổ chức tín dụng quy định dựa trên giá bán thực tế của chứng khoán cùng loại trên thị trường Tuy nhiên việc trích lập này phải đảm bảo không làm kết quả kinh doanh của tổ chức tín dụng bị lỗ, sau khi đã hoàn nhập dự phòng trích năm trước. Do các khoản tổn thất về giảm giá chứng khoán và giảm giá hàng tồn kho được hạch toán vào kết quả kinh doanh nên tổ chức tín dụng phải hoàn nhập toàn bộ dự phòng đã trích vào thu nhập. Cụ thể: cuối mỗi năm, trước khi khoá sổ kế toán lập báo cáo quyết toán tài chính, tổ chức tín dụng hoàn nhập toàn bộ khoản dự phòng đã trích lập cuối năm trước vào thu nhập trong năm để xác định kết quả kinh doanh, đồng thời tiến hành trích lập dự phòng mới cho năm sau theo qui định hiện hành. Dự phòng giảm giá tài sản, ở đây bao gồm dự phòng giảm giá chứng khoán và dự phòng giảm giá hàng tồn kho, ghi nhận những khả năng giảm giá của tài sản so với giá trị ban đầu của tài sản. Nó cũng được coi là một chi phí hoạt động nhưng không phải là chi phí phát sinh thường xuyên trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng và nó cũng chỉ được sử dụng để bù đắp những tổn thất do rủi ro giảm giá tài sản gây ra mà thôi. 1.3.6 Phân biệt dự phòng rủi ro và quĩ dự phòng tài chính: Khi tổn thất xảy ra, ngoài việc sử dụng nguồn dự phòng đã trích và hạch toán vào chi phí, các ngân hàng còn có thể sử dụng quỹ dự phòng tài chính để bù đắp những thiệt hại xảy ra. Quỹ dự phòng tài chính cũng là một nguồn dự trữ tài chính để đảm bảo an toàn cho hoạt động của NHTM. Việc trích lập và sử dụng nguồn quỹ này có những đặc trưng khác với dự phòng rủi ro. Theo Nghị định 166/1999/NĐ- CP của Chính phủ ngày 19/11/1999 về chế độ tài chính đối với các tổ chức tín dụng thì các tổ chức tín dụng phải trích lập quỹ dự phòng tài chính từ phần lợi nhuận sau thuế còn lại trước quỹ dự phòng tài chính: Lợi nhuận còn lại trước quỹ dự phòng tài chính = Lợi nhuận sau thuế – ( Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ 5% + Bù đắp lỗ năm trước + Nộp tiền thu về sử dụng vốn ngân sách + Nộp tiền vi phạm pháp luật) Quỹ dự phòng tài chính = Lợi nhuận còn lại trước quỹ dự phòng tài chính x10% Quỹ dự phòng tài chính thường được lập hàng năm, cuối kỳ báo cáo sau khi đã xác định được kết quả hoạt động kinh doanh, xác định được lợi nhuận của ngân hàng. Khác với dự phòng rủi ro, nguồn để trích lập quỹ dự phòng tài chính xuất phát từ chính kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Có nghĩa là, ngân hàng chỉ lập quỹ này khi ngân hàng thực sự hoạt động có lợi nhuận, quỹ không thể lập từ nguồn tài chính không có thực. Ngân hàng cũng không thể trích lập quỹ bao nhiêu tuỳ thích mà số dư của quỹ bị giới hạn không được vượt quá 25% vốn điều lệ của ngân hàng. Quỹ dự phòng tài chính được dùng để bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình kinh doanh sau khi đã được bù đắp bằng tiền bồi thường của các tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất; của tổ chức bảo hiểm xã hội và sử dụng dự phòng trích lập trong chi phí. Như vậy, quỹ dự phòng tài chính có thể coi như là biện pháp cuối cùng để bù đắp rủi ro, bảo đảm an toàn vốn cho hoạt động ngân hàng trong trường hợp tổn thất thực tế vượt quá khả năng của các nguồn bù đắp khác. CHƯƠNG 2 thực trạng về nghiệp vụ kế toán trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro trong hoạt động tại chi nhánh ngân hàng no và ptnt hà nội 2.1 khái quát về chi nhánh ngân hàng no và ptnt hà NộI 2.1.1 Sự ra đời và phát triển của ngân hàng No và PTNT Hà Nội: Hà Nội là địa bàn có nhiều thuận lợi cho hoạt động ngân hàng. Ngoài thế mạnh về điều kiện tự nhiên, địa lý kinh tế, Hà Nội còn có thuận lợi về kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội. Hệ thống giao thông phát triển khá, mạng lưới dịch vụ phát triển mạnh trong mấy năm gần đây. Hà Nội là nơi tập trung hầu hết các tổng công ty nhà nước, công ty, các công ty nước ngoài và liên doanh với nước ngoài, là nơi tập trung rất đông các doanh nghiệp ( 61 tổng công ty, 914 doanh nghiệp nhà nước,4000 doanh nghiệp và công ty tư nhân, 360 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, gần 90000 hộ sản xuất dịch vụ... ) Mạng lưới các doanh nghiệp ở Hà Nội và cùng với nó là số lượng dân chúng đông đúc có đời sống vật chất và thu nhập ngày càng cao là thị trường tiền gửi và cho vay đầy tiềm năng đối với các ngân hàng. Ngân hàng No và PTNT Hà Nội là một chi nhánh của ngân hàng No và PTNT Việt Nam, được thành lập theo quyết định 51/QĐ - NHQĐ ngày 27 tháng 6 năm 1988. Từ khi ra đời đến nay, ngân hàng No và PTNT Hà Nội đã trải qua 3 giai đoạn phát triển: * Giai đoạn 1988- 1990: là thời kỳ hình thành và định hình, nhận bàn giao từ ngân hàng Công thương 4 quận nội thành. Thời kỳ này ngân hàng bao gồm 1 trung tâm và cả 12 ngân hàng huyện là ngân hàng các huyện Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm, Mê Linh, Sóc Sơn, Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Phúc Thọ, Sơn Tây, Ba Vì. Biên chế của ngân hàng thời kỳ này lên tới 1182 người. Đến năm 1990, nguồn vốn của ngân hàng đạt 141 tỷ đồng, dư nợ đạt 120 tỷ đồng. * Giai đoạn 1991 – 1996: là thời kì hoạt động ngân hàng hướng theo cơ chế thị trường nên ngân hàng đã tự lực về vốn và tìm kiếm thị trường đầu tư. Từ tháng 10 năm 1991, theo chủ trương của trên, ngân hàng No Hà Nội đã bàn giao 7 ngân hàng huyện cho các tỉnh Hà Tây và Vĩnh Phú. Trong đó, 6 chi nhánh ngân hàng huyện được bàn giao cho ngân hàng No tỉnh Hà Tây là chi nhánh huyện Hoài Đức, Thạch Thất, Ba Vì, Sơn Tây, Đan Phượng, Phúc Thọ và chi nhánh huyện Mê Linh được bàn giao về ngân hàng No tỉnh Vĩnh Phú. Đến năm 1995, ngân hàng No Hà Nội cũng bàn giao 5 chi nhánh ngân hàng huyện ngoại thành: Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Sóc Sơn, Từ Liêm cho trung tâm điều hành ngân hàng No. Giai đoạn này ngân hàng tiến hành nhanh chóng mở rộng mạng lưới kinh doanh và bắt đầu hình thành hệ thống các chi nhánh ngân hàng phục vụ người nghèo. Các hoạt động của ngân hàng được phát triển và ngày càng đa dạng. Đồng thời ngân hàng cũng thực hiện khoán tài chính và bắt đầu thực hiện kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế trong giai đoạn này. * Giai đoạn 1997- nay: là thời kì ngân hàng No đổi tên thành ngân hàng No và PTNT, ngân hàng No Hà Nội đổi tên thành ngân hàng No và PTNT Hà Nội. Các mặt hoạt động của ngân hàng thời gian này có bước tiến vượt bậc. Trong thời gian ngắn, ngân hàng đã mở thêm 2 chi nhánh cấp 2 ( là chi nhánh Tràng Tiền và chi nhánh Chương Dương), 21 phòng giao dịch và 10 quĩ tiết kiệm, góp phần tạo lập nguồn vốn, đảm bảo cho sự cân đối chung của cả hệ thống. Cho tới nay, ngân hàng No và PTNT Hà Nội bao gồm 1 trung tâm, 13 chi nhánh và 42 phòng giao dịch. Ngân hàng hoạt động theo quyết định 169QĐ-HĐQT-ngày 7/9/2000 của chủ tịch Hội đồng quản trị ngân hàng No và PTNT Việt Nam. Trong thời gian này, ngân hàng đã không ngừng mở rộng các mặt hoạt động và tăng cường thu hút thêm nhiều khách hàng. Ngân hàng không chỉ cho vay ngắn hạn mà còn tập trung cho vay và đầu tư trung dài hạn, các dịch vụ thanh toán được mở rộng, các hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế được đẩy mạnh... Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ và ban lãnh đạo, trong những năm qua, ngân hàng No và PTNT Hà Nội đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Từ nguồn vốn và dư nợ rất thấp, đến nay ngân hàng đã có khối lượng vốn đứng đầu ở Hà Nội và trong toàn hệ thống ngân hàng No và PTNT, dư nợ không ngừng tăng trưởng. Ngân hàng vẫn đang tiếp tục phát triển và mở rộng không ngừng để phục vụ ngày càng tốt hơn việc phát triển nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế nói chung ở thủ đô Hà Nội. 2.1.2 Mô hình tổ chức của ngân hàng No và PTNT Hà Nội: Bộ máy tổ chức của ngân hàng No và PTNT được áp dụng theo phương thức quản lý trực tuyến: ban giám đốc quản lý tất cả các phòng ban ở trung tâm cũng như các phòng ban tại các chi nhánh và phòng giao dịch trực thuộc. Mỗi phòng ban thực hiện những chức năng và nhiệm vụ được qui định rõ ràng, có quyền hạn và trách nhiệm cụ thể. Các phòng ban ở trung tâm quản lý về mặt nghiệp vụ đối với các phòng ban tương ứng tại các chi nhánh ngân hàng quận, các phòng giao dịch và các quĩ tiết kiệm. Sơ đồ 2: Bộ máy tổ chức của ngân hàng No và PTNT Hà Nội Ban Giám đốc Phòng kinh doanh Phòng Kiểm soát nội bộ Phòng Tổ chức cán bộ Phòng vi tính Phòng kế hoạch Phòng thanh toán quốc tế Phòng Ngân quỹ Phòng Kế toán Phòng Marketing Phòng Hành chính Phòng thẩm định Chi nhánh cấp II Loại 4 Phòng giao dịch Phòng kinh doanh Phòng kế toán ngân quỹ Chi nhánh cấp II Loại 5 Tổ Kế Toán ngân quỹ Tổ tín dụng Với mô hình tổ chức như trên, ban lãnh đạo của ngân hàng có thể nắm bắt kịp thời tình hình hoạt động kinh doanh của tất cả các chi nhánh quận và các phòng giao dịch. Từ đó ban lãnh đạo sẽ có biện pháp chỉ đạo hợp lý, chính xác giải quyết những vướng mắc trong quá trình hoạt động nhằm đáp ứng kịp thời mọi yêu cầu phát sinh. * Tổ chức bộ máy kế toán của ngân hàng No và PTNT Hà Nội: Phòng kế toán tài chính của ngân hàng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như thực hiện giao dịch với khách hàng, quản lý về mặt tài chính, thực hiện công tác thanh toán chi tiêu nội bộ, tổng hợp báo cáo cân đối... Để có thể thực hiện tốt các yêu cầu đặt ra, hiện nay tại phòng Kế toán Tài chính của trung tâm có hơn 40 cán bộ nhân viên. Trong đó có 1 Trưởng phòng, 2 phó phòng, 2 kiểm soát viên và 4 trưởng giao dịch. Phòng Kế toán Tài chính của trung tâm ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ hàng ngày phát sinh tại trung tâm còn kiêm chức năng phụ trách quản lý nghiệp vụ đối với các ngân hàng chi nhánh quận. Tại các chi nhánh ngân hàng quận, các phòng giao dịch đều có các bộ phận kế toán để xử lý kịp thời các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và gửi báo cáo về phòng Kế toán Tài chính của trung tâm. TrưởngPhòng Kế Toán Phó Phòng Kế Toán Trưởng Giao Dịch Giao dịch viên Kế Toán Viên Kiểm soát viên Sơ đồ 3: Sơ đồ tổ chức phòng Kế toán tại ngân hàng No và PTNT Hà Nội TrưởngPhòng Kế Toán Để đáp ứng yêu cầu của hoạt động ngân hàng, kể từ tháng 4/2003 tới nay, với việc triển khai dự án hiện đại hoá ngân hàng, phòng Kế toán Tài chính đã được trang bị hệ thống máy vi tính nối mạng và phần mềm chuyên dụng. Nhờ vậy, mô hình tổ chức của phòng cũng có sự thay đổi. Việc giao dịch với khách hàng không phải phân theo các bộ phận như trước mà được thay bằng các teller giao dịch một cửa. Hiện tại bộ phận giao dịch khách hàng có tất cả 9 cửa giao dịch. Điều này đã góp phần đẩy nhanh tốc độ thanh toán, giúp cho việc quản lý số liệu kịp thời và hiệu quả hơn. 2.1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng No và PTNT Hà Nội: 2.1.3.1 Tình hình hoạt động kinh doanh nói chung của ngân hàng No và PTNT Hà Nội: Bảng 1: Tình hình nguồn vốn và dư nợ của ngân hàng No và PTNT Hà Nội trong một số năm. Đơn vị: tỷ đồng. Năm 2000 2001 2002 2003 Nguồn vốn huy động + Nguồn vốn VNĐ + Nguồn vốn ngoại tệ 3345 3117 228 4257 3866 391 6152 5378 774 9748 9005 743 Dư nợ + Dư nợ VNĐ +Dư nợ ngoại tệ 1295 1022 273 1572 1237 335 2003 1630 373 2798 2230 568 ( Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm 2000,2001,2002,2003 của ngân hàng No và PTNT Hà Nội) Với những thuận lợi và cả những khó khăn gặp phải trong quá trình hoạt động kinh doanh, ngân hàng No và PTNT Hà Nội đã biết tranh thủ những thuận lợi, tận dụng thời cơ, từng bước vượt qua khó khăn, nhờ vậy, chi nhánh đã đạt được những kết quả đáng kể trong hoạt động kinh doanh những năm qua, khẳng định được vị thế của mình trong hệ thống NHTM Việt Nam. Qua các số liệu trên, có thể thấy tốc độ tăng trưởng hàng năm của ngân hàng là khá cao. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn hàng năm hơn 50%, tốc độ tăng trưởng bình quân của mức dư nợ hàng năm hơn 30%. Đây là tốc độ phát triển rất nhanh. Nó chứng tỏ ngân hàng thực sự hoạt động có hiệu quả trong việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư cũng như trong việc cấp tín dụng cho nền kinh tế. Số khách hàng giao dịch với ngân hàng ngày càng tăng. Tài khoản tiền gửi từ 2560 tài khoản ( năm 1988) tăng lên 9570 tài khoản ( năm 2002). Tài khoản ngoại tệ từ 615 tài khoản (năm 1996) lên 1208 tài khoản (năm 2002). Tài khoản cho vay tăng từ 4102 tài khoản (năm 1988) lên 10425 tài khoản (năm 2002). Tài khoản cho vay ngoại tệ từ 120 tài khoản (năm 1996) lên 916 tài khoản (năm 2002). Tổng doanh số thanh toán ( Nợ + Có ) tăng từ 6066 tỷ (năm 1988) lên 27501 tỷ (năm 1997) và đạt 95538 tỷ (năm 2002). Ngân hàng có quan hệ thanh toán với trên 500 ngân hàng khắp các châu lục và mở được 1800 L/C nhập khẩu, hơn 120 L/C xuất khẩu. Tốc độ thanh toán tăng từ 26 triệu USD (năm 1997) lên 107 triệu USD (năm 2001). Những con số này thể hiện tinh thần, thái độ phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn của cán bộ nhân viên ngân hàng No Hà Nội. Nó cũng thể hiện sự phát triển rất nhanh của chi nhánh. Bên cạnh đó, chi nhánh đã triển khai thực hiện tốt Đề án phát triển kinh doanh giai đoạn 2001-2005 đã được ngân hàng No và PTNT Việt Nam phê duyệt: đó là mở rộng mạng lưới. Trong những năm qua, một loạt các chi nhánh cấp 2 loại 5 và phòng giao dịch đã được mở trên khắp các quận nội thành. Do vậy đã thu hút được lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư khá lớn, tạo điều kiện cho chi nhánh có đủ nguồn vốn đáp ứng cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư các dự án lớn mở rộng sản xuất, thay đổi thiết bị công nghệ, triển khai xây dựng khu đô thị mới... Đặc biệt, trong năm 2003 ngân hàng No và PTNT Hà Nội là một trong những ngân hàng đầu tiên trong hệ thống được ngân hàng No và PTNT Việt Nam triển khai áp dụng chương trình WB - đây là chương trình ứng dụng công nghệ hiện đại giao dịch một cửa trực tiếp với khách hàng. Đến nay, 100% các chi nhánh trực thuộc và trung tâm đã thực hiện giao dịch một cửa, giúp cho công tác quản lý hoạt động kinh doanh, quản lý tài chính được chính xác, nhanh chóng. Chi nhánh cũng mở rộng các loại hình dịch vụ tiện ích nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng như chuyển tiền nhanh, thu đổi ngoại tệ, dịch vụ Fone- bankinh, dịch vụ thẻ ATM rút tiền tự động... Những dịch vụ tiện ích này đã đem lại nguồn thu đáng kể cho ngân hàng 2.1.3.2 Tình hình hoạt động tín dụng của ngân hàng No và PTNT Hà Nội: Trong những năm qua, ngân hàng No và PTNT Hà Nội đã sử dụng tốt đồng vốn huy động vào việc cho vay có hiệu quả. Khối lượng tín dụng ngày một tăng cả về số lượng và chất lượng, phạm vi kinh doanh và đối tượng khách hàng không ngừng được mở rộng. Nhờ vậy hoạt động tín dụng đã đem lại nguồn thu ổn định cho ngân hàng. Bảng 2: Tình hình hoạt động tín dụng của ngân hàng No và PTNT Hà Nội qua một số năm. Đơn vị: Tỷ đồng. Thời điểm 2001 2002 2003 So sánh 2002/2001 So sánh 2003/2002 +/- %+/- +/- %+/- Tổng dư nợ 1572 2003 2798 +431 +27,4% +795 +39,7% Chia theo thời hạn: + Ngắn hạn +Trung hạn 1143 429 1258 745 1819 979 +115 +316 +10,1% +73,7% +561 +234 +45% +31% Chia theo đồng tiền + Bằng VND + Bằng ngoại tệ 1237 335 1630 373 2230 568 +393 +38 +32% +11% +600 +195 +63% +52% ( Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm 2000,2001,2002,2003 của ngân hàng No và PTNT Hà Nội) Từ 1997 đến nay, không chỉ dừng lại ở các khách hàng truyền thống và lĩnh vực truyền thống, hoạt động cho vay của ngân hàng đã được mở rộng về cả phạm vi và đối tượng khách hàng. Ngân hàng đã mở rộng đầu tư tín dụng cho mọi thành phần kinh tế, chú trọng mở rộng cho vay trung dài hạn để hỗ trợ cho các doanh nghiệp đổi mới thiết bị, mở rộng qui mô sản xuất. Qua các số liệu trên, có thể thấy, trong ba năm gần đây, mức dư nợ của chi nhánh không ngừng tăng. Chỉ trong thời gian 2 năm mức dư nợ đã tăng gần gấp đôi. Trong đó, cho vay ngắn hạn vẫn là chủ yếu, nhưng tỷ trọng cho vay trung dài hạn cũng ngày càng tăng trong tổng dư nợ. Tốc độ tăng của dư nợ trung dài hạn là hơn hẳn so với dư nợ ngắn hạn. Cho vay bằng VNĐ của chi nhánh vẫn là chính, nhưng cho vay bằng ngoại tệ cũng đang được đẩy mạnh, với tốc độ tăng trưởng cao. Vốn đầu tư tín dụng của ngân hàng được tập trung chủ yếu cho các dự án, phương án thực sự có hiệu quả, không phân biệt thành phần kinh tế. Thời gian qua, ngân hàng đã mở rộng phương thức cho vay đồng tài trợ với các NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần trên địa bàn, đồng thời mở rộng cho vay hộ sản xuất, cho vay sinh hoạt đối với các tầng lớp dân cư với mức dư nợ lên tới hàng trăm tỷ đồng. Cùng với sự tăng trưởng về số lượng tín dụng, chất lượng tín dụng của ngân hàng cũng ngày càng tăng. Đó là do ngân hàng đã có nhiều biện pháp thích hợp như: qui trách nhiệm cụ thể cho từng cá nhân, từng bộ phận trong việc thẩm định tín dụng; theo dõi chặt chẽ qui trình sử dụng vốn vay cũng như việc trả nợ của khách hàng; nâng cao nhận thức của cán bộ tín dụng; thực hiện cơ chế khoán tài chính và tiền lương cùng với sự chỉ đạo chặt chẽ; công tác kiểm tra kiểm soát được thực hiện thường xuyên... Từ năm 2001, ngân hàng đã thành lập Ban chỉ đạovà tổ chuyên thu nợ quá hạn và nợ đã xử lý rủi ro từ trung tâm đến tất cả các ngân hàng quận, đã phối hợp với các ngành chức năng có liên quan nên đã thu hồi được gần 10 tỷ đồng nợ tồn đọng từ nhiều năm nay. 2.2 thực trạng nghiệp vụ kế toán trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tại chi nhánh ngân hàng no và ptnt hà nội: 2.2.1 Sự cần thiết của dự phòng rủi ro trong hoạt động của chi nhánh ngân hàng No và PTNT Hà Nội: Hoạt động của ngân hàng No và PTNT Hà Nội cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro như bất kì ngân hàng nào. Mặc dù các biện pháp đánh giá, quản lý rủi ro ngày càng được hoàn thiện hơn, nhưng vẫn không thể loại bỏ hoàn toàn những rủi ro vốn có của hoạt động ngân hàng, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Các biện pháp để nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM vẫn gặp một số trở ngại: + Qui chế cho vay mới nhất của Ngân hàng Nhà nước ban hành kèm theo quyết định số 1627/2001/QĐ - NHNN ngày 31/12/2001 đã tạo nhiều thuận lợi cho các ngân hàng trong việc cấp tín dụng. Theo đó khách hàng xin vay sẽ được đánh giá theo nhiều tiêu chí như năng lực pháp lý, uy tín, năng lực lãnh đạo, tình hình tài chính ... Tuy nhiên, việc đánh giá và thẩm định chính xác năng lực khách hàng không phải là điều dễ dàng. Nó chịu ảnh hưởng từ nhiều nhân tố khách quan và các nhân tố chủ quan xuất phát từ năng lực của cán bộ tín dụng, những rủi ro mang tính đạo đức... Vì thế rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Đối với ngân hàng No và PTNT Hà Nội nói riêng và hệ thống NHTM Việt Nam nói chung hiện nay, bên cạnh nguy cơ phát sinh rủi ro tín dụng do sự yếu kém của chất lượng tín dụng xuất phát từ việc chưa tuân thủ các điều kiện vay vốn, thực hiện không đầy đủ các yếu tố của bộ hồ sơ cho vay, các biện pháp bảo đảm tiền vay không có hiệu quả... thì hoạt động của các NHTM đang chứa đựng nguy cơ đổ vỡ cap do mức dư nợ tồn đọng rất lớn. Tỷ lệ nợ tồn đọng của các NHTM Việt Nam hiện nay lớn gấp 4 lần vốn tự có. Đây là những khoản nợ để lại do yếu tố lịch sử từ thời kì bao cấp, nhưng nó lại đang trở thành một gánh nặng rất lớn cho ngân hàng trong quá trình lành mạnh hoá tài chính. Ngày 5/10/2001 thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 149/2001/ QĐ - TTg về việc phê duyệt đề án xử lý nợ tồn đọng của các NHTM tính đến hết ngày 31/12/2000. Tuy nhiên, việc xử lý nợ tồn đọng còn gặp rất nhiều khó khăn. + Một nguyên tắc đối với bất kì một khoản vay nào là ngân hà._., đáp ứng đầy đủ theo chính sách của nhà nước với người lao động. Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, chi nhánh sẽ tiếp tục mở rộng mạng lưới kinh doanh. Trong năm sẽ khai trương thêm 10 đến 13 phòng giao dịch, từng bước nâng cấp từ 5 đến 7 phòng giao dịch hoạt động có hiệu quả lên chi nhánh cấp 2 loại 5. Đến hết năm 2004, chi nhánh sẽ có tất cả 55 phòng giao dịch, 12 chi nhánh cấp 2 loại 4 và 8 chi nhánh cấp 2 loại 5. Ngân hàng cũng phấn đấu không ngừng nâng cao phong cách giao dịch văn minh lịch sự, tận tình chu đáo gắn với việc thực hiện văn hoá doanh nghiệp nhằm giải quyết mọi nhu cầu giao dịch của khách hàng nhánh gọn, đơn giản, chính xác. Để tiếp tục duy trì tăng trưởng ở mức độ cao, trong năm tới, chi nhánh chủ động đa dạng hoá các hình thức huy động vốn từ dân cư, đẩy mạnh công tác thanh toán điện tử để thu hút vốn từ các tổ chức kinh tế. Đồng thời, mở rộng quan hệ quốc tế để tiếp tục nhận các nguồn vốn từ các dự án uỷ thác đầu tư nước ngoài và trong nước. Đối với hoạt động tín dụng, chi nhánh tập trung hướng đầu tư chủ yếu vào kinh tế hộ và các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, mở rộng cho vay các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, chi nhánh tiếp tục sử dụng một số vốn nhất định để đầu tư vào tín phiếu, trái phiếu kho bạc nhà nước... Đặc biệt ngân hàng coi trọng việc nâng cao chất lượng tín dụng, phát huy tính tự chủ tự chịu trách nhiệm của từng cán bộ; bố trí lại lực lượng lao động, tăng cường cán bộ tín dụng để mở rộng dư nợ cho các thành phần kinh tế; tăng cường công tác thẩm định; áp dụng chặt chẽ cơ chế bảo đảm tiền vay, bảo lãnh phải có tài sản đảm bảo, mở L/C phải gắn với ký quỹ ... Ngân hàng cũng tập trung xử lý nợ tồn đọng nhóm 1,2,3 theo Quyết định 149 của Thủ tướng Chính phủ đồng thời tích cực xử lý cơ bản nợ cho vay của các doanh nghiệp phá sản, giải thể, sắp xếp lại. Ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh công tác tin học, hiện đại hoá hoạt động ngân hàng gắn với phát triển sản phẩm mới có hiệu quả, như đẩy nhanh tốc độ thực hiện dự án WB, phát triển các chương trình phần mềm, gia nhập tổ chức Visa, Master card... kết nối các hoạt động với quốc tế, mở rộng việc kết nối thanh toán điện tử qua mạng... Bên cạnh đó, ngân hàng tiếp tục tăng cường đào tạo cán bộ một cách toàn diện để có thể đáp ứng yêu cầu trong quá trình hội nhập AFTA và WTO của Việt Nam trong những năm tới. Muốn đạt được những mục tiêu đã đề ra trong năm 2004 cũng như trong những năm tiếp theo, ngân hàng No và PTNT Hà Nội cần phải thực hiện tốt việc lành mạnh hoá tình hình tài chính, cụ thể là phải giải quyết tốt những khoản nợ tồn đọng gây ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng và nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động tại thời điểm hiện tại. Có như vậy, hoạt động ngân hàng mới thực sự an toàn và phát triển. Điều quan trọng đối với ngân hàng là phải áp dụng các biện pháp cần thiết để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh. Trong đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ dự phòng rủi ro, khai thác tốt vai trò và ý nghĩa của quỹ này là một biện pháp thực sự có hiệu quả và ngân hàng cần chú trọng quan tâm hơn nữa trong những năm tiếp theo. Đối với công tác trích lập dự phòng và xử lý rủi ro, chi nhánh đề ra một số phương hướng cụ thể trong năm 2004 như sau: + Tổng hợp tình hình và xử lý kịp thời việc trích lập dự phòng và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro, cũng như kết quả thu hồi các khoản nợ đã được xử lý rủi ro của tất cả các chi nhánh quận và trung tâm. + Xây dựng dự kiến trích lập dự phòng và kế hoạch thu hồi nợ đã xử lý rủi ro phù hợp với tình hình của từng chi nhánh, đơn vị để trên cơ sở đó chỉ đạo các đơn vị thực hiện trích lập dự phòng và xử lý rủi ro đạt và vượt mức chỉ tiêu liên bộ giao và định hướng hoạt động của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc ngân hàng No và PTNT Việt Nam. + Tổ chức kiểm tra một số chi nhánh và triển khai xây dựng đề cương cho các chi nhánh tự kiểm tra, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro. + Tiếp tục củng cố và hoàn thiện công tác thông tin báo cáo nhằm nâng cao chất lượng hoạt động trong công tác tổng hợp trích lập dự phòng. + Tham gia nghiên cứu đề tài khoa học để hoàn chỉnh quy trình trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro của hệ thống ngân hàng No và PTNT Việt Nam. 3.2 giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ kế toán trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng: 3.2.1 Hoàn thiện căn cứ trích lập dự phòng rủi ro: Để việc trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng phản ánh thực chất hơn về chất lượng hoạt động của NHTM thì việc trích lập phải dựa trên những căn cứ phù hợp hơn. Có nghĩa là tài sản Có của NHTM phải được phân loại theo các tiêu thức hợp lý hơn, dựa trên cả yếu tố định tính chứ không chỉ yếu tố định lượng, dựa trên yếu tố rủi ro của các tài sản chứ không chỉ dựa trên yếu tố thời hạn của các tài sản như hiện nay. Mọi loại tài sản đều có thể đưa đến những rủi ro cho ngân hàng. Các khoản cho vay vốn lưu động, trang trải hàng tồn kho, cho vay trung dài hạn, cho thuê tài chính, đầu tư, góp vốn cổ phần, tài sản khác..., tất cả đều tiềm ẩn những rủi ro có thể xảy ra. Tuy nhiên, đối với mỗi cách thức sử dụng vốn của ngân hàng thì lại chịu ảnh hưởng của những nhân tố khác nhau, do đó mức độ rủi ro cũng khác nhau. Vì thế, việc trích lập dự phòng rủi ro chỉ thực chất khi ngân hàng trích lập dựa trên việc đánh giá chính xác mức độ rủi ro của các tài sản Có khác nhau. Muốn vậy ngân hàng cần thường xuyên đánh giá chất lượng tài sản Có, phân tích các điều kiện khách quan và chủ quan có thể ảnh hưởng đến chất lượng tài sản Có, từ đó tiến hành phân loại tài sản Có hợp lý hơn, làm căn cứ cho việc trích lập dự phòng. Chẳng hạn, đối với hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thì ngân hàng cần tiến hành đánh giá và phân loại ngay tại thời điểm mà khoản vay được thực hiện và sau đó tái xét và phân loại lại trong suốt vòng đời của khoản vay những thay đổi đáng kể về chất lượng tín dụng của nó. Việc kiểm tra và đánh giá lại cần quan tâm đến hiệu quả của khoản cho vay, cũng như điều kiện tài chính của khách hàng. Việc phân loại các khoản cho vay của ngân hàng có thể dựa trên nhiều tiêu thức hoặc chuẩn mực khác nhau do các cơ quan quản lý quy định nhưng đều phải dựa trên khả năng và tinh thần tự giác hoàn trả nợ, gồm cả vốn gốc và lãi, của khách hàng. Ví dụ như, hoạt động cho vay của ngân hàng có thể được phân loại thành năm hạng như sau: + Đạt tiêu chuẩn hoặc bình thường ( standard or pass ): là các khoản cho vay mà ngân hàng không nghi ngờ gì về khả năng trả nợ của khách hàng. Hay nói cách khác, các khoản cho vay này được đảm bảo đầy đủ, cả vốn gốc và lãi bằng tiền hoặc các giá trị thay thế cho tiền như chứng chỉ tiền gửi ngân hàng, tín phiếu kho bạc và trái phiếu. Đây là các khoản vay của các doanh nghiệp có khả năng thanh khoản cao, có sẵn nguồn vốn thay thế, xu hướng phát triển thuận lợi; những cá nhân có khả năng thanh toán cao nhờ có các nguồn trả nợ được xác định rõ ràng. + Cần quan tâm hoặc cảnh giá ( specially mentioned or watch ): là các khoản cho vay có thể tiềm ẩn yếu tố mất khả năng hoàn trả nợ vay trong tương lai nếu không kiểm tra hoặc xem xét. Ví dụ như những khoản cho vay bằng hợp đồng vay không thoả đáng, thiếu kiểm soát tài sản đảm bảo, hoặc thiếu giấy tờ chứng nhận sở hữu,... hoặc những khoản cho vay cấp cho khách hàng hoạt động theo một xu hướng bất lợi, có bảng cân đối kế toán ở tình trạng mất cân bằng nhưng khả năng hoàn trả chưa quá mức trầm trọng. + Dưới chuẩn ( substandard ): là những khoản cho vay mà khả năng trả nợ bị thiệt hại, nguồn trả nợ cơ bản bị thiếu hụt và ngân hàng phải cần đến nguồn trả nợ thứ cấp. Đó là những tài sản thế chấp, bán tài sản cố định, tái tài trợ hoặc vốn khác. Đây có thể là những khoản cho vay ngắn hạn cho những khách hàng mà chu kì ngân quỹ không đủ để hoàn trả khoản nợ khi đáo hạn, hoặc những khoản cho vay ứng trước đối với những khách hàng mà vốn chủ sở hữu thiếu một cách nghiêm trọng... Những khoản nợ quá hạn ít nhất 30 ngày cũng thường được xếp vào hạng dưới chuẩn. + Khó đòi ( doubtful ): là những khoản cho vay mà khả năng tổn thất là rõ ràng, việc thu hồi nợ trọn vẹn là đáng ngờ và không chắc chắn. Những khoản vay đã quá hạn ít nhất 180 ngày là thuộc hạng này, trừ phi những khoản vay đó có đảm bảo. Khả năng tổn thất của những khoản vay này là rõ ràng nhưng chưa đến mức xếp hạng tổn thất. + Tổn thất ( loss ): là những khoản vay được xem là không thể thu hồi, giá trị thấp kém, mặc dù vẫn được coi là tài sản của ngân hàng nhưng trong tương lai không có khả năng phục hồi. Những khoản cho vay quá hạn ít nhất 1 năm đều được xếp hạng tổn thất, trừ khi khoản vay đó có đảm bảo chắc chắn. Đối với mỗi hạng được xếp loại như trên, ngân hàng cũng có thể phân loại một cách chi tiết hơn và có cách theo dõi phù hợp với từng loại. Chẳng hạn, với các khoản vay xếp hạng đạt tiêu chuẩn hoặc cần quan tâm, ngân hàng có thể chỉ cần kiểm tra và tái phân loại 2 lần mỗi năm, còn đối với các khoản vay xếp hạng dưới chuẩn hoặc khó đòi, ngân hàng cần kiểm tra thường xuyên hơn theo từng quý hoặc từng tháng tuỳ từng mức độ. Đặc biệt, đối với khoản vay bị xếp hạng tổn thất, ngân hàng cần theo dõi thường xuyên để có biện pháp xử lý kịp thời.Trên cơ sở phân loại nợ thành các hạng khác nhau, ngân hàng có thể trích dự phòng rủi ro theo những tỷ lệ tương ứng cụ thể như sau: Hạng Tỷ lệ trích lập dự phòng Đạt tiêu chuẩn Cần quan tâm Dưới chuẩn Khó đòi Tổn thất 1% - 2% 5% - 10% 10% - 30% 50% - 75% 100% Để xác định tỷ lệ trích lập phù hợp, các ngân hàng cần xét đến mọi yếu tố có thể tác động đến khả năng thu hồi của danh mục cho vay như chất lượng tín dụng, kinh nghiệm trước đây về tổn thất, chất lượng và trình độ quản trị cho vay, việc thu hồi nợ và cách thức xử lý nợ, những thay đổi của môi trường... Tuỳ vào ảnh hưởng của các nhân tố đến hoạt động cụ thể của từng ngân hàng mà ngân hàng sẽ xác định được tỷ lệ thích hợp. Đối với các NHTM Việt Nam hiện nay, do hệ thống tài khoản kế toán áp dụng đều phân chia các khoản nợ theo tiêu thức thời hạn, nên việc phân loại tài sản Có theo tiêu thức khác có thể rất phức tạp. Tuy nhiên, các ngân hàng cần chủ động phân loại nợ theo mức độ rủi ro tuỳ vào tình hình cụ thể của mình để việc trích lập thực chất hơn và đáp ứng đúng yêu cầu dự phòng của ngân hàng. 3.2.2 Mở rộng phạm vi đối tượng trích lập dự phòng: Đối với tình hình thực hiện trích lập dự phòng cụ thể của các NHTM Việt Nam, do chưa thể ngay lập tức thay đổi được căn cứ phân loại tài sản Có, và việc trích lập dựa trên tiêu chí thời hạn của khoản vay là chủ yếu, nên để hoàn thiện hơn việc trích lập dự phòng thì các NHTM cần mở rộng đối tượng trích lập: + Đối với bất kỳ khoản cho vay nào của ngân hàng, ngay khi giải ngân ra đã có thể tiềm ẩn rủi ro. Cho dù ngân hàng đã thẩm định rất kĩ thì những biến động mang tính khách quan có thể ảnh hưởng đến khoản vay. Bởi thế, ngay khi khoản vay mới được giải ngân hoặc đang ở trạng thái bình thường, chưa phải là quá hạn thì cũng không có nghĩa là ngân hàng sẽ không gặp rủi ro. Vì thế ngay khi cho vay, ngân hàng cần trích lập dự phòng rủi ro cho khoản vay đó theo một tỷ lệ nhất định, khoảng từ 1% đến 2% giá trị của khoản vay. Tuy trích lập với tỷ lệ thấp nhưng ngân hàng cần duy trì việc trích lập này thường xuyên để có nguồn ổn định đảm bảo đáp ứng khi tổn thất xảy ra. + Những khoản nợ đã được ngân hàng điều chỉnh kỳ hạn nợ ( lãi hoặc gốc ) hoặc được ngân hàng gia hạn nợ theo thoả thuận với khách hàng hiện nay không được xếp vào nợ quá hạn, nhưng thực chất đó cũng là nợ quá hạn bởi lẽ khách hàng đã không có khả năng hoàn trả nợ khi đến hạn. Do đó, ngân hàng cũng phải trích dự phòng rủi ro cho các khoản cho vay này. Tỷ lệ trích có thể dựa trên số lần điều chỉnh hoặc gia hạn nợ cụ thể đối với từng khách hàng, hoặc thời gian gia hạn cụ thể đối với từng khoản vay. + Đối với khách hàng có quan hệ tín dụng với nhiều ngân hàng, nhiều tổ chức tín dụng khác nhau, khi khách hàng có một khoản vay bị xếp vào dạng quá hạn ở một ngân hàng thì ngân hàng cũng cần trích lập dự phòng cho khoản vay của khách hàng đó ở ngân hàng mình, dù khoản vay đó vẫn chưa quá hạn. Việc trích lập này để đảm bảo an toàn cho ngân hàng vì khi một khoản vay đã quá hạn thì các khoản vay khác của khách hàng đó cũng tiềm ẩn nguy cơ khó thu hồi. Tuy nhiên tỷ lệ trích lập đối với những khoản vay này chỉ cần rất nhỏ vì nếu không sẽ gây ra ứ đọng vốn và tăng chi phí không cần thiết cho ngân hàng. + Các ngân hàng cũng cần thay đổi quan niệm về một khách hàng vay. Khách hàng vay của ngân hàng có thể là một pháp nhân hoặc một thể nhân. Các khách hàng này độc lập một cách tương đối với nhau nhưng giữa họ có thể có những mối quan hệ với nhau hoặc phụ thuộc vào nhau, ví dụ công ty A là cổ đông của công ty B, công ty mẹ công ty con... Vì thế khi một khách hàng gặp khó khăn sẽ kéo theo khách hàng khác gặp khó khăn trong việc hoàn trả nợ. Do đó, một khách hàng của ngân hàng không chỉ được hiểu là một pháp nhân hay một thể nhân mà phải hiểu là một nhóm khách hàng có quan hệ với nhau. Khi tính toán phân loại tài sản Có hay chuyển nợ quá hạn, ngân hàng cần chú ý tới mối quan hệ giữa các khách hàng để trích lập dự phòng đầy đủ. + Ngân hàng cần trích lập dự phòng cho cả các khoản lãi của các khoản nợ khó thu hồi. Khi một khoản nợ của ngân hàng không thu hồi được thì khoản lãi của khoản vay đó cũng sẽ không thu được. Do đó, nó gây ảnh hưởng đến kế hoạch doanh thu của ngân hàng. Việc trích lập này có thể chỉ cần thực hiện theo một tỷ lệ nhỏ của khoản lãi mà ngân hàng nhẽ ra thu được. Tuy nhiên điều này sẽ phản ánh chính xác hơn những thiệt hại mà ngân hàng phải gánh chịu khi rủi ro xảy ra. + Đối với các hoạt động bảo lãnh thanh toán của ngân hàng, ngân hàng đã thu được phí bảo lãnh nhưng chưa phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà mới chỉ theo dõi ngoại bảng. Vì thế, rủi ro có thể xảy ra bất cứ khi nào. Trong hoạt động của các ngân hàng hiện đại ngày nay, hoạt động bảo lãnh rất phát triển dưới nhiều hình thức, nên đây là hoạt động tiềm ẩn rất nhiều rủi ro đối với ngân hàng. Do đó, các ngân hàng cũng cần duy trì một tỷ lệ trích lập dự phòng nhất định cho hoạt động này. + Các ngân hàng ngày nay phát triển rất nhiều hình thức dịch vụ thanh toán khác nhau. Mỗi hình thức thanh toán lại dựa trên việc ứng dụng những kĩ thuật, những chương trình phần mềm, những máy móc thiết bị... khác nhau. Nhưng có thể thấy các hình thức thanh toán qua ngân hàng đều dựa trên việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc triển khai các sản phẩm. Do đó, rủi ro hoạt động của các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng là rất lớn. Điều này đòi hỏi các ngân hàng cần quan tâm hơn đến việc trích lập dự phòng rủi ro cho các dịch vụ thanh toán. Mức độ lệ thuộc vào công nghệ của các hình thức thanh toán khác nhau là khác nhau, nên rủi ro hoạt động của mỗi hình thức thanh toán cũng khác nhau. Vì thế, các ngân hàng cần phân chia dịch vụ thanh toán thành các loại khác nhau và áp dụng những tỷ lệ trích lập dự phòng riêng cho từng loại. + Đối với những khoản nợ đang trong thời gian được khoanh nợ, giãn nợ theo các quyết định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, theo quyết định 488 thì các NHTM không cần trích lập dự phòng rủi ro mà sẽ được ngân sách cấp bù. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào tình hình hoạt động kinh doanh cụ thể, các ngân hàng cũng có thể duy trì một tỷ lệ trích lập phù hợp cho những khoản nợ này. Đây sẽ là nguồn quỹ để các ngân hàng chủ động xử lý các khoản nợ khoanh trong phạm vi khả năng có thể, trong trường hợp ngân sách chưa cấp nguồn bù đắp, góp phần nhanh chóng làm lành mạnh hoá tình hình tài chính. Điều này cũng góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. + Bên cạnh những khoản dự phòng được trích lập theo tỷ lệ nhất định đối với từng nhóm tài sản Có được phân loại dựa trên các mức độ rủi ro khác nhau, thì các NHTM cũng cần duy trì một khoản dự phòng chung. Dự phòng chung được duy trì để bù đắp cho những tổn thất tiềm tàng, mặc dù không được xác định chi tiết cho từng khoản mục nào, nhưng có trong bất kì danh mục cho vay nào. Khoản dự phòng chung này có thể được trích lập dựa trên cơ sở tổng mức dư nợ của ngân hàng. Đối với các NHTM, chỉ tiêu mức độ dự phòng nợ xấu là chỉ tiêu phản ánh mức độ dự phòng của ngân hàng có thể bù đắp được những khoản nợ không đòi được. Chỉ tiêu này được tính bằng: Mức độ dự phòng nợ xấu = Tổng mức dự phòng nợ xấu/ Tổng số nợ xấu Theo thông lệ quốc tế, chỉ số này là 30%. Đây là mốc giúp các NHTM Việt Nam tự điều chỉnh trong việc trích lập dự phòng rủi ro để đảm bảo mức dự phòng hợp lý và cũng là cơ sở để Ngân hàng Nhà nước đề xuất với Bộ Tài chính trong việc đảm bảo thực hiện theo thông lệ Quốc tế về trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng. 3.2.3 Nâng cao nhận thức của Ban lãnh đạo ngân hàng: Trích lập dự phòng và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro là biện pháp phòng ngừa rủi ro dựa trên cơ sở tự chịu trách nhiệm, tự chủ của các ngân hàng. Việc trích lập dự phòng sẽ ảnh hưởng đến chi phí hoạt động, và do đó ảnh hưởng đến lợi nhuận hàng năm của các ngân hàng, ảnh hưởng đến thu nhập của các nhân viên. Vì thế, mức dự phòng được trích lập cho thất thoát vốn phải dựa chủ yếu trên cơ sở nhận thức của Ban lãnh đạo ngân hàng về chất lượng hoạt động của ngân hàng tại những thời điểm nhất định. Cụ thể là Ban lãnh đạo phải thường xuyên rà soát lại các khoản cho vay có vấn đề và chất lượng tín dụng nói chung, phân tích các điều kiện tài chính kinh tế hiện tại và tương lai, kinh nghiệm trong quá khứ về mức độ thất thoát vốn... Nếu ban lãnh đạo ngân hàng có nhận thức đúng về vai trò của dự phòng rủi ro đối với hoạt động ngân hàng thì việc trích lập dự phòng sẽ được thực hiện một cách nghiêm túc và thực chất hơn. Số dự phòng được trích vào chi phí sẽ phản ánh đúng rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải, chi phí hoạt động của ngân hàng được tính toán hợp lý hơn. Nhờ đó, ngân hàng vừa có nguồn để đáp ứng kịp thời khi rủi ro xảy ra nhưng cũng đảm bảo thu nhập của cán bộ nhân viên. Tuy nhiên, ban lãnh đạo ngân hàng cũng cần nhận thức một cách đúng đắn rằng không nên quá dựa dẫm và ỷ lại vào nguồn quỹ này. Bởi lẽ, việc quá ỷ lại vào việc đã có dự phòng có thể khiến các ngân hàng liều lĩnh hơn khi cho vay, không tiến hàng thẩm định khả năng trả nợ của khách hàng một cách khoa học, nới lỏng các điều kiện cấp tín dụng... dẫn đến chất lượng tín dụng thấp kém. Vì thế rủi ro có thể xảy ra liên tục, số tiền được trích vào dự phòng tăng liên tục, ngân hàng sẽ giảm vốn và giảm cho đến khi không còn đủ điều kiện để hoạt động. Nguồn quỹ dự phòng có thể là một nguồn vốn hữu hiệu để các ngân hàng xử lý rủi ro nhưng cũng có thể là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Điều đó tuỳ thuộc vào nhận thức đúng đắn của ban lãnh đạo ngân hàng về vai trò của dự phòng rủi ro, để từ đó có kế hoạch chỉ đạo thích hợp, khai thác tốt nhất ý nghĩa của nguồn quỹ này. 3.2.4 Tăng cường tính chủ động trong sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro: Việc sử dụng nguồn dự phòng để xử lý rủi ro là công việc nội bộ của ngân hàng, khách hàng không được biết cũng như sau khi đã được xử lý rủi ro, ngân hàng vẫn có các biện pháp tích cực để thu hồi lại những khoản nợ đó. Vì thế, hoàn toàn có thể nới lỏng các điều kiện trong việc sử dụng nguồn dự phòng đã trích để các ngân hàng chủ động hơn trong việc xử lý rủi ro Chẳng hạn, các ngân hàng có thể mở rộng phạm vi phân quyền xử lý rủi ro cho các chi nhánh, cụ thể ở đây là ngân hàng No và PTNT Việt Nam mở rộng phạm vi phân quyền cho các chi nhánh trực thuộc. Việc xử lý rủi ro tập trung ở trụ sở chính có thể thuận lợi cho việc quản lý hòan toàn hệ thống nhưng lại làm giảm đi tính chủ động của các chi nhánh trực tiếp thực hiện giao dịch cũng như làm giảm tính kịp thời của việc xử lý. Do vậy, ngân hàng No và PTNT Việt Nam có thể phân quyền rộng hơn cho các chi nhánh, để các chi nhánh tự xử lý rủi ro căn cứ trên số dự phòng hiện có cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh thay vì tập hợp về Trụ sở chính và đợi kết quả xử lý, chánh trường hợp có sự chênh lệch về thời gian. Mức xử lý rủi ro cho từng khách hàng trong các trường hợp cụ thể có thể linh hoạt hơn thay vì bị giới hạn ở mức 1 tỷ đồng và 2 tỷ đồng như hiện nay. Các chi nhánh có thể tự điều chỉnh mức này tùy thuộc vào những tổn thất phải gánh chịu. Bên cạnh đó, cũng cần giảm bớt các điều kiện về hồ sơ, giấy tờ mà các chi nhánh phải lập. Hiện nay, để một khoản vay được xử lý rủi ro, các chi nhánh phải tập hợp rất nhiều giấy tờ có liên quan mất rất nhiều thời gian nên việc xử lý không kịp thời. Khối lượng giấy tờ nầy tập trung ở trụ sở chính cũng làm giảm hiệu quả công tác ra quyết định xử lý rủi ro. Vì vậy, thay vào đó, các chi nhánh có thể căn cứ dựa trên hồ sơ cũng như tình hình theo dõi khách hàng vay trước đây để xử lý rủi ro khi cần thiết. Như vậy, việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi rõe phản ánh kịp thời nhu cầu tài chính của ngân hàng trong tong điều kiện cụ thể. Ngoài ra, các chi nhánh cũng sẽ tự chủ hơn trong việc cân đối thu chi đảm bảo lành mạnh hóa tình hình tài chính. 3.2.5 Nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng: Cán bộ ngân hàng là người trực tiếp thực hiện các giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng. Nên nếu có những dấu hiệu có thể xảy ra thì cán bộ ngân hàng sẽ là người nhận biết sớm nhất. Và cũng là người thấy được biện xử lý hữu hiệu nhất. Vì thế nếu trình độ của cán bộ ngân hàng, đặc biệt là trình độ của cán bộ tín dụng ngày càng được nâng cao thì những rủi ro có thể xâyr ra với ngân hàng sẽ được ngăn chặn kịp thời, và hoạt động ngân hàng sẽ an toàn và hiệu quả hơn. Do đó bát cứ ngân hàng nào cũng cần coi trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực. Một nguồn nhân lực với trình độ cao sẽ là điều kiện không thể thiếu để các NHTM Vịêt Nam phát triển ổn định và hội nhập quốc tế. Các ngân hàng cần xây dựng được các chiến lược, các kế hoạch cụ thể về đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng một cách thường xuyên. Đó là các chương trình đào tạo để đội ngũ cán bộ được nâng cao tay nghế, cũng như cập nhật, bổ sung các kiến thức mới về kinh tế tiền tệ, về tư duy kinh doanh trong điều kiện mới, về công nghệ ngân hàng hiện đại. Đối với công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro, cán bộ ngân hàng cần thường xuyên được cập nhật thông tin mới về sự thay đổi của môi trường, các chính sách, các điều kiện kinh doanh của ngân hàng cũng như của các doanh nghiệp là khách hàng của ngân hàng, cũng như cần được trau dồi kịp thời các kỹ thuật phân tích rủi ro, kỹ thuật xếp hạng tín dụng mới. Có như vậy, cán bộ ngân hàng mới đánh giá chính xác hơn về những rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải, cũng như có ý thức hơn trong việc phòng ngừa rủi ro. 3.2.6 Hoàn thiện hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro: Để việc trích lập dự phòng được thực hiện kịp thời và hợp lý, tránh tăng chi phí hoạt động của ngân hàng một cách không cần thiết, thì ngân hàng phải kiểm soát được chất lượng tài sản Có. Muốn vậy, ngân hàng cần phải có các biện pháp thu thập, phân tích và quản lý thông tin có hiệu quả. Các thông tin mà ngân hàng thu thập có thể là các thông tin về khách hàng vay, về xếp hạng doanh nghiệp, về thị trường trong và ngoài nước, về các chính sách kinh tế vĩ mô…hoặc cũng có thể là các thông tin kịp thới về tình hình hoạt động của ngân hàng, về tình hình huy động vốn hay cấp tín dụng của các chi nhánhh trực thuộc…Viẹc thu thập và quản lý các thông tin này là rất quan trọng, nó giúp cho ngân hàng đánh giá được chính xác những rủi ro tiềm ẩn, từ đó có biện pháp phòng ngừa thích hợp Tuy nhiên công tác thu thập và cập nhật thông tin tại các ngân hàng gặp không ít khó khăn. Đối với việc thu thập thông tin về hoạt động nội bộ của các chi nhánh thì tính cập nhật chưa cao do mạng lưới chi nhánh quá rộng vớu nhiều cấp, số lượng khách hàng quá lớn, hệ thống thông tin khách hàng phải thu thập từ nhiều chương trình giao dịch khác nhau như chương trình giao dịch Foxpro, chương trình giao dịch ngân hàng bán lẻ, chương trình hiện đại hoá hệ thống thanh toán và kế toán khách hàng của dự án WB. Đối với việc thu thập các thông tin bên ngoài thì chưa hiệu quả do trình độ của cán bộ tin học còn bất cập, trang thiết bị còn thiếu thốn. Để thu thập thông tin có hiệu quả thì việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại là rất cần thiết. Việc thực hiện chương trình quản lý thông tin ngân hàng tập trung dựa trên việc ứng dụng công nghệ thông tin giúp cho ngân hàng rất nhiều trong công tác quản lý nguồn vốn tài sản, quản lsy rủi ro… nhờ đó ngân hàng sẽ cải thiện được hiệu quả kinh doanh. Trong năm 2003, Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro của ngân hàng No và PTNT Việt Nam đã triển khai chương trình thông tin khách hàng mới trên cơ sở dữ liệu ORACLE trong toàn hệ thống. Việc triển khai chương trình này đã giúp cho dữ liệu của các chi nhánh được cập nhật thường xuyên và chất lượng thông tin thu thập đã được nâng cao, đảm bảo độ chính xác đối với thông tin về dư nợ tín dụng.Trong những năm tới ngân hàng cần hoàn thiện hơn nữa chương trình naỳ để các chi nhánh có thể dẽ dàng truy vấn thông tin khách hàng vay cũng như xây dựng các báo cáo đầu ra về cơ cấu dư nợ, mức dư nợ,tình trạng nợ..từ kho dữ liệu đã được xây dựng Bên cạnh đó, để dáp ứng yêu cầu của các chi nhánh trong quá trình thẩm định dự án cần tìm hiêu thông tin về công nghệ, thị trường, giá cả… cần xây dựng được mối liên hệ làm việc với các cán bộ, ngành liên quan. Chẳng hạn, thông qua mối liên hệ đó, ngân hàng có thể có được thông tin về việc sắp xếp, tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước, về xếp hạng tín dụng…qua đó giúp cho công tác thẩm định, đánh giá tín dụng. Ngoài ra để việc khai thác thông tin có hiệu quả, các ngân hàng cần giành một số vốn nhất định để đầu tư hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế để có sự hỗ trợ về kỹ thuật, cũng như nâng cao trình độ tin học của cán bộ nhân viên. Tăng cường sự hỗ trợ của kiểm toán và thanh tra ngân hàng: Việc trích lập dự phòng có ảnh hưởng tới chi phí hoạt động của ngân hàng do đó ảnh hưởng tới lợi nhuận cũng như sổ thuế phải nộp của ngân hàng. Ngân hàng hoạt động không lành mạnh có thể lợi dụng đìều này để làm tăng chi phí hoạt động, giảm bớt số thuế phải nộp cho nhà nước. Vì thế việc kiểm tra giám sát việc thực hiện trích lập dự phòng của các ngân hàng là cần thiết để tránh lạm dụng nguồn quỹ này. Các ngân hàng có thể tự kiểm tra hoạt động này thông qua công tác kiểm toán nội bộ. Các cơ quan quản lý có thể kiểm tra về công tác trích lập dự phòng của một ngân hàng thông qua hạot động kiểm toán độc lập hoặc thanh tra ngân hàng. Bởi vậy, các kết quả kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập hay thanh tra ngân hàng là căn cứ quan trọng để đánh giácông tác trích lập dự phòng của một ngân hàng. Bản thân ngân hàng cũng như các cơ quan quản lý cần quan tâm đến nguồn thông tin này để đánh giá chính xác hơn về công tác trích lập dự phòng của ngân hàng, từ đó có những điều chỉnh kịp thời. Bên cạnh đó, kết quả kiểm toán hay thanh tra ngân hàng cũng là căn cứ quan trọng để các ngân hàng có cái nhìn tổng quát về mọi hoạt động, từ đó xác định một mức dự phòng hợp lý hơn. các kiểm toán viên hay thanh tra viên dựa trên dựa kinh nghiệm của mình có thể tư vấn cho ngân hàng một mức dự phòng hợp lý hơn. Bởi vậy các ngân hàng cần quan tâm hơn đến các kết quả kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập và kết quả thanh tra ngân hàng. Các kiểm toán viên và thanh tra viên cần tăng cường sự hỗ trợ cho ngân hàng trong việc xác định và trích lập dự phòng. Một số kiến nghị: 3.3.1 Đối với Ngân hàng nhà nước: Do việc trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng còn rất mới mẻ ở Việt Nam nên Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh các quy định cho phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như phù hợp với tình hình thực tế của các NHTM Việt Nam. Những quy định của Ngân hàng Nhà nước sẽ góp phần định hướng cũng như tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các ngân hàng trong việc trích lập dự phòng để xử lý rủi ro. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng cần đề xuất với Bộ Tài Chính để các NHTM được phép duy trì một tỷ lệ dự phòng hợp lý hơn. 3.3.2 Đối với ngân hàng No và PTNT Hà Nội: Trong điều kiện các quy định về trích lập dự phòng chưa được điều chỉnh kịp thời, thì bản thân ngân hàng No và PTNT Hà Nội cần tìm các biện pháp linh hoạt để nguồn quỹ dự phòng được sử dụng hiệu quả hơn. Ngân hàng phải không ngừng nâng cao nhận thức của cán bộ nhân viên về ý nghĩa của nguồn quỹ này, đảm bảo cho việc trích lập dự phòng đúng và đủ. Căn cứ vào đìêu kiện thực tế của ngân hàng, ngân hàng có thể áp dụng các hình thức phân loại nợ hợp lý hơn, để việc trích dự phòng phản ánh đúng rủi ro của ngân hàng. Kết Luận Hệ thống NHTM Việt Nam trong suốt thời gian qua đã có những chuyển biến rõ rệt và không ngừng hoàn thiện về mọi mặt để đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Nhưng đi kèm với việc mở rộgn và phát triển, các ngân hàng đồng thời cũng phải đối mặt với môi trường kinh doanh phức tạp hơn. Việc cho phép các ngân hàng trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh là rất phù hợp với hệ thống cải cách ngân hàng Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Việc trích đúng, trích đủ dự phòng rủi ro có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện khẩu lệnh “ phòng bệnh hơn chữa bệnh”, làm giảm đi những chi tiêu quá mức và không hợp lý của ngân hàng. Nguồn quỹ này là một mguồn vững chắc giúp các ngân hàng bù đắp những tổn thất mất vốn trong một môi trường đầu tư mới tiềm ẩn biết bao rủi ro. Nó rất thích hợp vứi một nền kinh tế đang phát triển, với một hành lang pháp lý chưa thực sự đầy đủ để bảo vệ các ngân hàng. Do mới đưa vào áp dụng nên việc thực hiên trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro ở các ngân hàng cũng khôgn tránh khoỉ những vướng mắc. các NHTM cần phối hợp chặt chẽ với ngân hàng nhà nước và Bột Tài Chính để đảm bảo rằng các NHTM trích đúng và đủ dự phòng rủi ro. Trong tương lai, những sửa đổi trong cơ chế, quy định về trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro cho phù hợp với thông lệ quốc tế chắc chắn sẽ góp phần ânng cao ý nghĩa của công tác này trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29416.doc
Tài liệu liên quan