Tài liệu Hoàn thiện lập kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội: TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài:
HOÀN THIỆN LẬP KẾ HOẠCH NGUỒN VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN NAM HÀ NỘI
Họ và tên sinh viên : Tường Thị Nhung
Chuyên ngành : Quản lý kinh tế
Lớp : Quản lý kinh tế 46B
Khóa : 46
Hệ : Chính quy
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS.Nguyễn Thị Ngọc Huyền
HÀ NỘI, NĂM 2008
Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Khoa Khoa học Quản lý, đặc biệt là cô giáo - PGS.TS Nguyễn... Ebook Hoàn thiện lập kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội
101 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện lập kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thị Ngọc Huyền đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình làm chuyên đề Tốt nghiệp.
Em cũng xin cám ơn ban giám đốc cùng toàn thể nhân viên của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội, đặc biệt là các cô chú, các chị trong phòng Nguồn vốn Kế hoạch Tổng hợp đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo để em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Do còn hạn chế về mặt nhận thức, khả năng phân tích và tổng hợp các vấn đề cũng như sự vận dụng lý luận vào thực tiễn nên bài viết còn nhiều thiếu sót, các giải pháp đưa ra còn thiếu khả quan, rất mong nhận được sự phê bình, đóng góp chân thành từ quý thầy cô để chuyên đề được hoàn thiện hơn./
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Nghĩa
AGRIBANK
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
CN
Chi nhánh
CNH – HĐH
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
DA
Dự án
ĐP
Địa phương
HĐBT
Hội đồng bộ trưởng
HĐKD
Hoạt động kinh doanh
HĐQT
Hội đồng quản trị
HĐV
Huy động vốn
HN
Hà Nội
KH
Kế hoạch
KHNV
Kế hoạch nguồn vốn
KHTH
Kế hoạch tổng hợp
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHNo
Ngân hàng nông nghiệp
NHNo & PTNT
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
NHTM
Ngân hàng thương mại
NV
Nguồn vốn
QD
Quốc doanh
QĐ
Quyết định
PGD
Phòng giao dịch
TCCB
Tổ chức cán bộ
TCKT
Tổ chức kinh tế
TCTD
Tổ chức tín dụng
TG
Tiền gửi
TH
Thực hiện
TK
Tổng kết
TP
Thành phần
TTg
Thủ tướng
TTQT
Thanh toán quốc tế
TW
Trung Ương
WTO
Tổ chức thương mại quốc tế
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Biểu 2.1. Biểu đồ tăng trưởng HĐV giai đoạn 2003 – 2007. 40
Biểu 2.2. Biểu cơ cấu theo loại tiền 2003-2007 51
Sơ đồ 1.1: Quy trình lập kế hoạch 17
Sơ đồ 2.1. Cơ cấu tổ chức của NHNo & PTNT Nam Hà Nội........................38
Sơ đồ 2.2. Quy trình lập kế hoạch nguồn vốn tại NHNo & PTNT Nam Hà
Nội................................................................................................................. 60
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………….1
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẬP KẾ HOẠCH NGUỒN VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI……………………………………………..4
1.1. Tổng quan về hệ thống kế hoạch của Ngân hàng Thương mại 4
1.1.1. Ngân hàng thương mại 4
1.1.2. Hệ thống kế hoạch của ngân hàng thương mại 9
1.1.2.1. Xét theo góc độ thời gian 10
1.1.2.2. Xét trên góc độ nội dung 10
1.1.2.3. Xét theo góc độ nghiệp vụ 11
1.2. Kế hoạch nguồn vốn của Ngân hàng thương mại 12
1.2.1. Khái niệm về kế hoạch nguồn vốn 12
1.2.2. Các loại kế hoạch nguồn vốn của Ngân hàng thương mại 13
1.2.3. Vai trò của kế hoạch nguồn vốn 16
1.3. Lập kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng thương mại 18
1.3.1. Khái niệm lập Kế hoạch 18
1.3.2. Bộ máy lập kế hoạch nguồn vốn 19
1.3.3. Nguyên tắc lập kế hoạch nguồn vốn 21
1.3.4. Quy trình lập Kế hoạch nguồn vốn 22
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến lập Kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng thương mại 26
1.4.1. Các yếu tố chủ quan 26
1.4.2. Các yếu tố khách quan 31
PHẦN II: THỰC TRẠNG LẬP KẾ HOẠCH NGUỒN VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN NAM HÀ NỘI………………………………………………………………………….34
2.1. Giới thiệu về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội 34
2.1.1. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội 34
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội 36
2.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội 38
2.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội 39
2.2.1. Về công tác huy động vốn 39
2.2.2. Về công tác Tín dụng 42
2.2.2.1. Dư nợ tại địa phương: 43
2.2.2.2. Dư nợ hộ Trung ương: 44
2.2.3. Về công tác Kinh doanh ngoại hối và phát triển sản phẩm dịch vụ 45
2.2.4. Về công tác Kế toán Tài Chính 46
2.3. Thực trạng lập Kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội. 47
2.3.1. Thực trạng kế hoạch Nguồn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội 47
2.3.3. Thực trạng về quy trình lập Kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội 60
2.4. Đánh giá về công tác lập Kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội 65
2.4.1. Những mặt đạt được 65
2.4.2. Những hạn chế còn tồn tại 70
2.4.3. Nguyên nhân 73
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN LẬP KẾ HOẠCH NGUỒN VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN NAM HÀ NỘI……………………………………………..75
3.1. Định hướng hoàn thiện lập kế hoạch của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội 75
3.1.1. Mục tiêu 75_Toc197882678
3.1.2. Định hướng phát triển 76
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện lập Kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội 79
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy trình lập kế hoạch nguồn vốn 80
3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện, nâng cao chất lượng các loại kế hoạch. 81
3.2.3. Phát triển công nghệ 83
3.2.4. Nâng cao chất lượng, năng lực đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng …………………………………………………………………….84
3.2.5. Một số giải pháp khác 85
3.3. Một số kiến nghị 86
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ 86
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà Nước 88
3.3.3. Kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam. 89
3.4. Những tiền đề nhằm thực hiện những kiến nghị trên. 90
KẾT LUẬN………………………………………………………………....91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập kinh tế với thế giới, kinh tế nước ta trong mấy năm gần đây đã phát triển nhanh và tương đối ổn định, thu nhập của người dân ngày càng được nâng cao. Năm 2007, là năm đầu tiên Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, cùng với nền chính trị ổn định chính là điều kiện thuận lợi thu hút các công ty lớn, các tập đoàn tài chính xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam. Hàng loạt các doanh nghiệp, các tổ chức xuất hiện ở Việt Nam và ngành Ngân hàng cũng không loại trừ khỏi xu thế đó. Cùng với sự xuất hiện của các tổ chức này là các dòng vốn đầu tư ồ ạt chảy vào Việt nam. Hàng loạt các ngân hàng thương mại cổ phần xuất hiện trên thị trường tài chính Việt Nam nhằm huy động, thu hút các dòng vốn đó, và cả nguồn tiền dư thừa trong dân cư.
Về phía các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay thì công tác huy động vốn vẫn còn gặp phải một số khó khăn, tồn tại nhưng đây cũng chính là nguồn tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Bởi các ngân hàng đều kinh doanh theo phương thức “vay để cho vay”, do vậy để thu được lợi nhuận từ hoạt động cho vay, các ngân hàng phải huy động được một nguồn vốn lớn. Mặt khác, đứng trước xu thế của nền kinh tế hiện nay, các ngân hàng này đều đang phải cố gắng phát triển hoạt động kinh doanh của mình để có thể tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng như hiện nay.
Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam nói chung, và với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Nam Hà Nội nói riêng, thì công tác huy động vốn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phát triển ngân hàng và xây dựng thương hiệu AGRIBANK. Do vậy ngân hàng luôn luôn quan tâm tới việc xây dựng kế hoạch nguồn vốn để huy động vốn từ các nguồn trong xã hội một cách hiệu quả nhất, tối ưu nhất mà chi phí huy động thấp nhất, nhằm đem lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong suốt thời gian thực tập tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội em thấy vấn đề này hết sức thiết thực và có ý nghĩa thực tiễn cao. Được sự chỉ bảo và hướng dẫn tận tình của Cô giáo PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền, bản thân em đã có được sự tiếp cận bước đầu hợp lý để tìm hiểu các thông tin tổng quan về công tác lập kế hoạch nói chung cũng như đi sâu vào tìm hiểu công tác lập kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội. Được sự chỉ bảo và giúp đỡ của các anh chị,cô chú trong phòng Nguồn vốn - Kế hoạch tổng hợp cũng đã giúp em bước đầu làm quen với công việc của một cán bộ lập kế hoạch và hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Vì vậy, em đã chọn đề tài “Hoàn thiện lập kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề được trình bày thành ba phần:
Phần I: Một số vấn đề chung về kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng Thương mại
Phần II: Thực trạng lập kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội
Phần III: Một số giải pháp hoàn thiện lập kế hoạch nguồn vốn tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội.
Mục đich nghiên cứu: Trên cơ sở hệ thống lý luận cơ bản về lập kế hoạch và phân tích thực trạng lập kế hoạch nguồn vốn của NHNo & PTNT Nam Hà Nội đề xuất ra những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch nguồn vốn của NHNo & PTNT Nam Hà Nội
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là toàn bộ hệ thống văn bản chính sách về công tác lập kế hoạch của NHNo & PTNT Nam Hà Nội
Phạm vi nghiên cứu: Do còn có những điều kiện khách quan và chủ quan nên phạm vi nghiên cứu của chuyên đề chỉ tập trung vào công tác lập kế hoạch nguồn vốn của NHNo & PTNT Nam Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu: Chuyên đề sử dụng phương pháp luận biện chứng theo phương pháp nghiên cứu truyền thống như phương pháp diễn dịch, quy nạp…cùng với các phương pháp phân tích, so sánh, thống kê… để làm rõ bản chất của vấn đề.
Do sự hạn chế về mặt thời gian và kiến thức nên Chuyên đề thực tập của em chắc chắn không tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của Cô và các anh chị, cô chú trong phòng Nguồn vốn - Kế hoạch Tổng hợp đề chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Sinh viên thực hiện
Tường Thị Nhung
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẬP KẾ HOẠCH NGUỒN VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về hệ thống kế hoạch của Ngân hàng Thương mại
1.1.1. Ngân hàng thương mại
Khái niệm và vai trò của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Vậy mà vẫn có sự nhầm lẫn trong việc định nghĩa ngân hàng là gì? Rõ ràng, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng (các dịch vụ) mà chúng thực hiện trong nền kinh tế như dịch vụ tiền gửi, bao thanh toán, cho vay, bảo lãnh,cho thuê tài chính, dịch vụ tư vấn tài chính, …. Vấn đề là ở chỗ không chỉ chức năng của các ngân hàng đang thay đổi mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh chính sách của ngân hàng cũng không ngừng thay đổi. Thực tế là, rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quĩ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quĩ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế.
Xét trên góc độ những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” PGS.TS Phan Thị Thu Hà – Giáo trình Ngân hàng thương mại – NXB Thống Kê, 2006, trang 11.
.
Khái niệm này về ngân hàng được coi là khái niệm ngân hàng và cũng được coi là khái niệm của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng Thương mại là loại ngân hàng có đặc tính nổi bật nhất là chỉ làm những nghiệp vụ ngân hàng có tính ngắn hạn. Mà hoạt động ngân hàng là hoạt động thương mại nên những ngân hàng cho vay ngắn hạn như vậy được gọi là ngân hàng thương mại.
Như vậy ngân hàng thương mại là loại ngân hàng quan trọng hơn hết trong hệ thống ngân hàng. Vậy vai trò của ngân hàng thương mại là như thể nào? Tại sao lại nói nó là ngân hàng quan trọng nhất trong hệ thống ngân hàng?
Ngân hàng thương mại thực hiện các chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và làm dịch vụ tiền tệ, tư vấn tài chính cho các ngân hàng.
Ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ chủ yếu không phải vốn tự có, mà chủ yếu kinh doanh bằng vốn của những người gửi tiền qua vai trò trung gian tín dụng, làm môi giới cho các nhà đầu tư và những người có tích luỹ. Ngân hàng thương mại nắm trong tay một bộ phận lớn nhất của cải xã hội dưới dạng giá trị nhưng không có quyền sở hữu chúng, mà các ngân hàng thương mại chỉ có quyền sử dụng với những điều kiện ràng buộc đòi hỏi ngân hàng thương mại phải chịu trách nhiệm vật chất đồi với những người chủ sở hữu thực sự của các tài sản này và sử dụng tài sản vốn đúng với điều kiện ràng buộc sao cho có hiệu quả nhất.
Ngân hàng thương mại còn là một trung gian tài chính. Đây chính là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của ngân hàng thương mại và nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tài chính là hoạt động cầu nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn từ những người có thể vì lý do nào đó không dùng nó một cách sinh lợi sang những người có ý muốn dùng nó để sinh lợi. Nói một cách khác, ngân hàng thương mại tập hợp tài lực của khách hàng này và đem chuyển cho người khác sử dụng theo phương thức kinh doanh “vay để cho vay”. Như vậy, xuất hiện một nét đặc thù chính của ngân hàng khi đóng vai trò là trung gian tài chính: thu thập những đồng tiền có sẵn và đem cho vay đối với những người cần có tiền để sử dụng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, sinh hoạt …
Chức năng thứ hai của ngân hàng thương mại là chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán. Tức là ngân hàng tiến hành nhận tiền vào tài khoản hoặc chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản. Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng hoá và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán. Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các tài khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay.
Một số nghiệp vụ hoạt động chính của hệ thống ngân hàng cũng như ngân hàng thương mại
Ngoài thực hiện các chức năng trên, ngân hàng thương mại còn có các nghiệp vụ, các dịch vụ ngân hàng. Các nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại là: Nghiệp vụ huy động vốn; đầu tư vốn; kinh doanh chứng khoán; kinh doanh ngân hàng quốc tế; làm dịch vụ cho khách hàng và các dịch vụ khác.
* Nghiệp vụ Huy động vốn:
Huy động vốn là một trong những hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, nó chính là hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại, do đó nó có ảnh hưởng lớn tới chất lượng hoạt động cũng như quy mô hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ huy động vốn nhằm tạo cơ sở cho các hoạt động tín dụng ( cho vay ), các hoạt động đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác.
Ngân hàng có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau bao gồm những khoản mà người dân gửi vào, các khoản ngân hàng đi vay từ các tổ chức trong nền kinh tế như vay Ngân hàng Nhà nước, vay các ngân hàng thương mại khác, vay các tổ chức tín dụng, vay trên thị trường vốn, vay trên thị trường tiền tệ … Đặc điểm của loại tiền gửi là chúng phải được thanh toán, kể cả khi chúng là những khoản tiền gửi có kỳ hạn hay là những khoản tiền gửi không có kỳ hạn, hay chưa đến hạn. Do đó chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi và nó là đối tượng cần phải dự trữ bắt buộc. Nhưng đây chính là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng thương mại vì tiền gửi luôn chiếm trên 50% tổng nguồn vốn của các ngân hàng.
* Nghiệp vụ tín dụng
Hoạt động tín dụng chính là các hoạt động bao gồm việc cung cấp các khoản nợ thương mại, các khoản nợ theo chỉ định và theo kế hoạch của ngân hàng, và cả các khoản nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Nếu nguồn vốn chính là mục tiêu tăng trưởng của ngân hàng thương mại thì tín dụng lại là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở các ngân hàng thương mại, nó phản ánh hoạt động đặc trưng của từng ngân hàng, đó chính là hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư. Trong nghiệp vụ tín dụng, mục đích của các ngân hàng luôn là kiếm được lợi nhuận trên cơ sở phục vụ các nhu cầu tín dụng của các cá nhân cũng như của các tổ chức trong xã hội. Khi đó ngân hàng sẽ cung cấp cho đối tác của mình những điều kiện cần thiết để họ thực hiện các hoạt động theo mục đích của họ và trên cơ sở tìm kiếm thu nhập, lợi nhuận. Đối tác của ngân hàng là các cá nhân, là các doanh nghiệp,tổ là các chức hay chính phủ… có nhu cầu, sẽ nhận được sự tài trợ của ngân hàng nếu các đối tác đó đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của ngân hàng.
Hình thức tài trợ ở đây có thể là cho vay tiêu dùng, cho vay thương mại, tài trợ cho các dự án…Trong đó, cho vay thương mại chính là hình thức mà ngân hàng có thể thực hiện chiết khấu thương phiếu, mà thực tế là cho vay đối với người bán hay cho vay trực tiếp đối với khách hàng là người mua. Dựa trên điều kiện thực tế hiện nay, khi mà thu nhập của người tiêu dùng ngày càng tăng cao cùng với sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới các nhà tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng của ngân hàng. Bên cạnh việc cho vay ngắn hạn, các ngân hàng thương mại hiện nay ngày càng năng động trong việc tài trợ cho các dự án trung và dài hạn, đặc biệt là tài trợ cho xây dựng nhà máy, phát triển công nghệ cao, cho vay bất động sản, kinh doanh chứng khoán…
* Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối
Đây là một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ (mua bán ngoại tệ). Ngân hàng sẽ đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính hiện nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
* Nghiệp vụ cung ứng các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Khi các cá nhân, các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng, khách hàng chỉ cần mang giấy đó đến ngân hàng, khách hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt là an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí, đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Khi các ngân hàng mở chi nhánh, thanh toán qua ngân hàng được mở rộng phạm vi, nó sẽ càng tạo nhiều tiện ích cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến khích các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Như vậy một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch, nó cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong ngành ngân hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều hình thức, thể thức thanh toán được phát triển như Uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng thẻ…
Mặt khác, các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
1.1.2. Hệ thống kế hoạch của ngân hàng thương mại
Kế hoạch kinh doanh là công cụ điều hành kinh doanh trong toàn hệ thống ngân hàng thương mại. Kế hoạch được coi là công cụ để thiết lập cũng như thực hiện các chỉ tiêu, các quyết định kinh doanh của tổ chức.
Chúng ta có thể hiểu công tác kế hoạch theo nhiều cách khác nhau. Kế hoạch chính là một quá trình liên tục, được tính từ khi chuẩn bị xây dựng cho đến khi tổ chức thực hiện kế hoạch nhằm đưa hoạt động của doanh nghiệp đi theo những mục tiêu đã định. Chúng ta cũng có thể hiểu kế hoạch là một phương thức, cách thức quản lý doanh nghiệp, tổ chức theo những mục tiêu đã đề ra, bao gồm toàn bộ các hành vi can thiệp một cách có chủ định của nhà lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp, tổ chức vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của đơn vị nhằm đạt được những mục tiêu đã đặt ra.
1.1.2.1. Xét theo góc độ thời gian
Nếu xét về góc độ thời gian thì hệ thống kế hoạch của một tổ chức bao gồm:
+ Kế hoạch dài hạn: là những kế hoạch cho thời kỳ từ 5 năm trở nên. Nó thường nhấn mạnh về các ràng buộc tài chính, được xây dựng dựa trên cơ sở ngoại suy từ quá khứ, để đưa ra những dự báo trong môi trường kinh doanh mà doanh nghiệp, tổ chức đã tham gia.
+ Kế hoạch trung hạn: Là những kế hoạch cho thời kỳ từ 1 năm đến 5 năm. Nó thường đưa ra những định hướng ngắn hơn cho doanh nghiệp, cụ thể cho kế hoạch dài hạn.
+ Kế hoạch ngắn hạn: Là những kế hoạch cho thời kỳ dưới 1 năm. Nó chỉ ra tiến độ, những hành động có thời gian dưới 1 năm, và nó chỉ ra cách thức sử dụng cụ thể các nguồn lực của doanh nghiệp, tổ chức để thực hiện mục tiêu trong kế hoạch trung và dài hạn.
1.1.2.2. Xét trên góc độ nội dung
Nếu xét trên góc độ nội dung thì kế hoạch của doanh nghiệp, tổ chức được chia thành kế hoạch chiến lược và kế hoạch tác nghiệp.
+ Kế hoạch chiến lược: Các kế hoạch chiến lược được xây dựng bởi những nhà quản lý cấp cao nhằm xác định những mục tiêu tổng thể cho doanh nghiệp, cho tổ chức. Kế hoạch chiến lược thường được xây dựng cho khoảng thời gian từ 2,3 năm trở nên, cũng có một số trường hợp có thể lên tới 10 năm. Do đó, kế hoạch chiến lược thường là những kế hoạch thể hiện những tầm nhìn xa về vị thế của doanh nghiệp trong tương lai, nó tác động tới các mảng hoạt động lớn, liên quan tới toàn bộ tương lai của tổ chức; nó cũng chỉ ra những định hướng lớn cho phép doanh nghiệp đạt được những mục tiêu đã đề ra.
+ Kế hoạch tác nghiệp: Là kế hoạch bao gồm những chi tiết cụ thể hoá của các kế hoạch chiến lược thành những hoạt động hàng năm, hàng quý, hàng tháng và hàng tuần, thậm chí cả hàng ngày như kế hoạch nhân công, kế hoạch tiến độ, kế hoạch nguyên vật liệu tồn kho… Kế hoạch tác nghiệp được đặt ra nhằm mục đích bảo đảm cho mọi người trong tổ chức đều hiểu về các mục tiêu của tổ chức và xác định rõ trách nhiệm của họ liên quan như thế nào trong việc thực hiện các mục tiêu đó và tiến hành các hoạt động như thế nào để đạt được những kết quả theo như dự kiến. Như vậy, kế hoạch tác nghiệp chỉ có một phạm vi hạn hẹp ở trong một mảng hoạt động nào đó của tổ chức.
1.1.2.3. Xét theo góc độ nghiệp vụ
Nếu xét theo góc độ các nghiệp vụ, dịch vụ thì kế hoạch của ngân hàng chia thành:
+ Kế hoạch nguồn vốn: Chính là kế hoạch thể hiện các chỉ tiêu về nguồn vốn, đặc biệt là về công tác huy động vốn của ngân hàng. Bất cứ một ngân hàng nào đều phải xây dựng cho mình kế hoạch nguồn vốn, bởi vốn chính là yếu tố đầu vào quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh của mọi ngân hàng, cũng như mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức.
+ Kế hoạch dư nợ: Đây chính là kế hoạch được thể hiện công tác cho vay, sử dụng vốn của ngân hàng, bao gồm các chỉ tiêu về dư nợ, nợ quá hạn, nợ xấu…. Nó được xây dựng dựa trên cơ sở phân loại khách hàng A,B,C và các nhu cầu ây vốn bổ sung trong kỳ kế hoạch, sở giao dịch và các chi nhánh tổng hợp theo các chương trình hoặc các dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả đã được thẩm định
+ Kế hoạch tài chính: là bộ phận quan trọng trong kế hoạch kinh doanh, các chỉ tiêu tài chính phải phản ánh các mục tiêu kinh doanh. Đồng thời kết quả thực hiện các chỉ tiêu tài chính là cơ sở để định hướng, điều chỉnh các mục tiêu kinh doanh nhằm đạt lợi nhuận cao nhất. Nó thể hiện tình hình thực hiện kế hoạch tài chính năm hiện hành của toàn hệ thống và tổng hợp các chi nhánh; đánh giá chung về thực hiện kế hoạch, phân tích các yếu tố ảnh hưởng…
1.2. Kế hoạch nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về kế hoạch nguồn vốn
Như chúng ta đã biết công tác huy động vốn rất quan trọng đối với hệ thống ngân hàng cũng như các ngân hàng thương mại, nó chính là nghiệp vụ làm cơ sở cho các hoạt động khác của ngân hàng như hoạt động cho vay, đầu tư, kinh doanh chứng khoán…. Để công tác huy động vốn có hiệu quả cao thì các ngân hàng thường đưa ra các kế hoạch của mình về việc huy động vốn.
Do vậy chúng ta có thể đưa ra khái niệm kế hoạch nguồn vốn như sau: Kế hoạch nguồn vốn là một loại kế hoạch bao gồm các phương thức, cách thức quản lý doanh nghiệp, tổ chức theo những mục tiêu đề ra, nó bao gồm toàn bộ các hành vi can thiệp có chủ định của nhà lãnh đạo và nhà quản lý doanh nghiệp, của tổ chức vào lĩnh vực nguồn vốn của đơn vị nhằm đạt được những mục tiêu đặt ra.
1.2.2. Các loại kế hoạch nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
Phân theo loại tiền:
Nguồn vốn của một ngân hàng thương mại bao gồm tiền nội tệ và tiền ngoại tệ. Do đó, nếu phân theo loại tiền thì kế hoạch nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm có kế hoạch nội tệ và kế hoạch ngoại tệ.
+ Kế hoạch nội tệ: chính là kế hoạch về đồng tiền nội tệ của quốc gia đó. Nó bao gồm tất cả các khoản tiền, các khoản đầu tư bằng đồng nội tệ của đất nước đó, như các khoản tiền tiết kiệm của dân cư, các khoản đầu tư của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng khác trong nước, hoặc các khoản vay từ Ngân hàng Nhà nước, từ các ngân hàng thương mại khác…Kế hoạch nguồn nội tệ sẽ cho chúng ta biết tình hình nguồn vốn nội tệ theo từng kỳ hạn (năm, quý) của ngân hàng là bao nhiêu, và nó được hình thành từ những nguồn nào, nó chiếm bao nhiêu phần trăm (%) so với tổng nguồn huy động của ngân hàng.
+ Kế hoạch ngoại tệ. Là kế hoạch nhằm thu hút các khoản tiền bằng các đồng tiền của các nước khác. Các khoản tiền, khoản đầu tư này được đưa vào nước ta thông qua các tổ chức, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, hay từ việc buôn bán, kinh doanh quốc tế…Nó còn bao gồm cả các khoản tiền uỷ thác đầu tư của các tổ chức kinh tế, tổ chức phi kinh tế trên thế giới nhằm tài trợ, hay đầu tư vào Việt Nam như Ngân hàng Thế giới WB, quỹ tiền tệ thế giới IMF, các nguồn vốn ODA, hay FDI… Để thu hút các nguồn ngoại tệ này, các ngân hàng thương mại Việt Nam đều phải xây dựng cho mình kế hoạch về nguồn ngoại tệ hợp lý, nhằm thu hút tối đa nguồn ngoại tệ này để tăng nguồn vốn cho ngân hàng mình, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng mình, nhưng không bị phụ thuộc quá nhiều vào chúng…
Phân theo các tổ chức:
Nếu phân theo các tổ chức nguồn vốn của bất kỳ một ngân hàng thương mại nào đều bao gồm tiền gửi dân cư, tiền gửi của các tổ chức kinh tế - xã hội, tiền vay các tổ chức tín dụng khác và tiền uỷ thác đầu tư. Do đó hệ thống kế hoạch nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm kế hoạch về tiền gửi dân cư, kế hoạch về tiền gửi của các tổ chức kinh tế - xã hội, kế hoạch về tiền vay các tổ chức tín dụng khác và kế hoạch về tiền uỷ thác đầu tư
+ Kế hoạch về Tiền gửi dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng chính là các khoản tiền tiết kiệm. Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, người dân có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn.
Do đó kế hoạch về tiền gửi dân cư của ngân hang chính là kế hoạch xây dựng nhằm mục đích thu hút ngày càng nhiều lượng tiền gửi của dân cư vào ngân hàng mình.
+ Kế hoạch tiền gửi các tổ chức kinh tế - xã hội
Các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội có những khoản thu bằng tiền sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, các ngân hàng đã đưa ra hình thức gửi tiền có kỳ hạn. Một mặt là giúp người gửi tăng thu, mặt khác nó cũng là phương thức để các ngân hàng tăng nguồn vốn của mình. Khi người gửi tiền gửi tiền có kỳ hạn thì họ không được sử dụng các hình thức thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu thì người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, nhưng tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn.
+ Kế hoạch tiền vay các tổ chức tín dụng.
Tiền vay của các tổ chức tín dụng chính là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy, nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác, từ các tổ chức tín dụng là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiểu trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay từ Ngân hàng Nhà nước. Điều đặc biệt là khoản vay này có thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Cuối cùng thì kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi, và của ngân hàng đi vay thì tăng lên.
+ Kế hoạch tiền uỷ thác đầu tư.
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ … Các hoạt động này đã tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng. Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình thành nên ngu._.ồn uỷ thác đầu tư, làm gia tăng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Do vậy các ngân hàng hiện nay đều xây dựng cho mình kế hoạch về tiền uỷ thác đầu tư.
Phân theo kỳ hạn:
Nếu phân theo kỳ hạn thì hệ thống kế hoạch của ngân hàng thương mại bao gồm:
+ Kế hoạch dài hạn (5 năm – 10 năm)
Là loại hình kế hoạch mang tính chiến lược được xây dựng trên cơ sở chủ trương, phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước thông qua Nghị Quyết Đại hội Đảng toàn quốc và các chỉ tiêu tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, của ngành ngân hàng gắn với đề án cơ cấu lại của từng ngân hàng thương mại.
+ Kế hoạch năm:
Là loại hình kế hoạch mang tính bắt buộc được xây dựng trên cơ sở các mục tiêu, phương hướng và các chỉ tiêu do Hội đồng quản trị phê duyệt hàng năm. Chỉ tiêu kế hoạch nguồn vốn hàng năm là cơ sở để xây dựng kế hoạch lợi nhuận ( là chỉ tiêu quản lý bắt buộc và được phê duyệt riêng trong kế hoạch tài chính năm ), là căn cứ đánh giá thi đua và mức độ hoàn thành kế hoạch hàng năm của đơn vị.
+ Kế hoạch quý
Là loại hình kế hoạch cụ thể của kế hoạch năm. Nó chỉ ra những chỉ tiêu, những mục tiêu cụ thể của ngân hàng thương mại trong thời gian ngắn là 1 quý. Việc chia ra kế hoạch quý do Sở giao dịch, Chi nhánh cấp 1 đăng ký để Tổng giám đốc thông báo phù hợp với khả năng tăng trưởng nguồn vốn, dư nợ để thực hiện kế hoạch năm.
1.2.3. Vai trò của kế hoạch nguồn vốn
Kế hoạch nguồn vốn trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung chỉ đơn thuần là những chỉ tiêu pháp lệnh cứng nhắc, chỉ là sự phân phối theo các nhu cầu về vốn của kế hoạch tổng thể, hiện nay thì điều này không còn phù hợp với cơ chế thị trường. Trong cơ chế mới, kế hoạch nguồn vốn đã mang vai trò khác, không còn mang tính pháp lệnh nữa mà nó mang tính định hướng phát triển, thuyết phục gián tiếp, đưa ngân hàng phát triển theo đúng hướng đã định thông qua những bản kế hoạch mang tính chủ động và gián tiếp.
Kế hoạch nguồn vốn giúp cho ngân hàng phác thảo những ý tưởng và những định hướng các tiến triển của ngân hàng bằng cách chỉ ra những rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải và những cơ hội có thể xảy ra. Các khung tổng quát do kế hoạch nguồn vốn thiết lập là những công cụ chỉ đạo và điều hành việc huy động vốn và sử dụng vốn, nó giúp ngân hàng khắc phục những bất trắc trong việc huy động vốn, bảo quản và sử dụng vốn cũng như các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng, do sự thiếu thông tin hoặc méo mó thông tin thị trường.
Kế hoạch nguồn vốn còn làm nổi bật những dữ kiện quan trọng, những yếu tố then chốt của thành công mà phù hợp với môi trường kinh doanh và thực trạng về các khả năng và nguồn lực của ngân hàng. Từ đó định hướng được sự quan tâm của ngân hàng đúng hướng.
Kế hoạch nguồn vốn còn giúp cho việc gắn kết các hoạt động của ngân hàng, đảm bảo hiệu quả và tính phù hợp trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tức là công tác kế hoạch tạo ra khả năng tác nghiệp kinh tế trong ngân hàng. Kế hoạch nguồn vốn phối hợp hoạt động của các bộ phận chức năng khác nhau nhằm thực hiện mục tiêu tối thiếu chi phí, đem lại hiệu quả cao nhất cho các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mặt khác, kế hoạch nguồn vốn còn tạo cơ sở cho việc nhìn nhận logic các nội dung hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau, từ đó nó sẽ giúp cho các hoạt động kinh doanh khác sẽ không bị rối loạn và ít tốn kém hơn.
1.3. Lập kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm lập Kế hoạch
Lập kế hoạch kinh doanh là một bước quan trọng mà bất cứ một nhà doanh nghiệp cẩn trọng nào cũng cần tiến hành cho dù quy mô của doanh nghiệp ở mức độ nào.
Có nhiều cách hiểu về chức năng lập kế hoạch. Xét trên góc độ ra quyết định thì “lập kế hoạch là một loại ra quyết định đặc thù để xác định một tương lai cụ thể mà các nhà quản lý mong muốn cho tổ chức của họ”. PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà, PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền – Giáo trình Khoa học quản lý I – NXB Khoa học và kỹ thuật, 2004, trang 333
Lập kế hoạch không phải là một sự kiện đơn thuần có bắt đầu và có kết thúc rõ ràng. Lập kế hoạch là một quá trình tiếp diễn phản ánh và thích ứng với những biến động diễn ra trong môi trường của mỗi tổ chức. Xét trên góc độ này, lập kế hoạch được coi là quá trình thích ứng với sự không chắc chắn bằng việc xác định các phương án hành động để đạt được những mục tiêu cụ thể của tổ chức.
Mặt khác, như chúng ta đã biết kế hoạch là một văn bản thể hiện ý đồ phát triển của chủ thể quản lý với đối tượng quản lý thông qua các giải pháp thực thi. Do đó, lập kế hoạch là việc đưa ra những phương án hoạt động cho doanh nghiệp trong tương lai. Các phương án này là sự kết hợp khác nhau giữa các yếu tố nguồn lực hiện có và các nguồn lực có thể huy động được trong tương lai của doanh nghệp dựa trên những cơ hội, những thách thức của môi trường bên ngoài tác động tới doanh nghiệp. Từ các phương án đó, doanh nghiệp sẽ quyết định lựa chọn một phương án tối ưu nhất và có tính khả thi nhất và phù hợp với từng bộ phận trong doanh nghiệp để làm sao đạt được hiệu quả cao nhất.
Nói tóm lại, lập kế hoạch là quá trình xác định mục tiêu và lựa chọn các phương thức để đạt được các mục tiêu đó. Nếu không có kế hoạch, nhà quản lý có thể không biết tổ chức và khai thác con người và các nguồn lực khác của tổ chức một cách có hiệu quả, thậm chí không có được một ý tưởng rõ ràng về cái họ cần tổ chức và khai thác. Và nếu không có kế hoạch các nhà quản lý và nhân viên của họ có rất ít cơ hội để đạt được mục tiêu của mình, sẽ không biết khi nào và ở đâu họ phải làm gì.
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường tiền tệ, nên công tác lập kế hoạch của ngân hàng thương mại cũng giống như của một doanh nghiệp, tất cả đều vì mục tiêu đạt hiệu quả cao nhất trong kinh doanh là Tối đa hoá lợi nhuận.
1.3.2. Bộ máy lập kế hoạch nguồn vốn
Như chúng ta đã biết đối với ngân hàng thương mại hay các tổ chức tài chính thì nguồn vốn là rất quan trọng. Do vậy, tất cả mọi ngân hàng thương mại hay các tổ chức tài chính đều phải xây dựng cho mình một bộ máy lập kế hoạch nguồn vốn. Bộ máy này bao gồm cơ cấu tổ chức của bộ máy và đội ngũ cán bộ nhân viên.
Đầu tiên là cơ cấu tổ chức của bộ máy. Tuỳ theo quy mô của từng ngân hàng, của từng tổ chức tài chính mà bộ máy lập kế hoạch nguồn vốn có thể khác nhau. Nhưng nhìn chung cơ cấu bộ máy lập kế hoạch thường bao gồm phòng Kế hoạch tổng hợp của Trụ sở chính, phòng kế hoạch tổng hợp của các chi nhánh cấp I, cấp II, của phòng giao dịch. Các phòng giao dịch, các chi nhánh sẽ dựa trên tình hình kinh doanh của phòng giao dịch, của chi nhánh, của địa bàn nơi phòng giao dịch, chi nhánh hoạt động mà phòng kế hoạch đưa ra bản kế hoạch nguồn vốn sao cho phù hợp với khả năng của mình và bản kế hoạch đó phải có tính khả thi và phải đáp ứng được các yêu cầu đặt ra. Để bản kế hoạch trở thành một bản kế hoạch hợp pháp, nó phải được ban lãnh đạo các cấp phê duyệt trở thành một văn bản có tính pháp lý. Khi đó kế hoạch này có thể thực thi. Nhưng để bản kế hoạch này thực thi có hiệu quả nhất thì nhất thiết phải có sự phối hợp giữa phòng kế hoạch với các phòng ban khác. Như vậy, bộ máy lập kế hoạch của ngân hàng không chỉ bao gồm phòng kế hoạch các cấp mà nó còn bao gồm cả ban lãnh đạo, và sự phối hợp của các phòng ban khác trong phòng ngân hàng.
Tiếp theo đó là nguồn nhân lực của bộ máy lập kế hoạch. Nguồn nhân lực của bộ máy lập kế hoạch rất quan trọng, nó chính là nhân tố chính, quan trọng nhất của công tác lập kế hoạch. Như chúng ta đã biết, con người là nhân tố quan trọng nhất, điều hành mọi hoạt động của tổ chức, của ngân hàng. Nếu một ngân hàng có cơ cấu tổ chức bộ máy lập kế hoạch tốt, hoàn chỉnh mà không có đội ngũ cán bộ lập kế hoạch có trình độ cao, có trình độ chuyên môn cao thì bản kế hoạch mà họ lập ra cũng không có tính hiệu quả cao, không có tính khả thi cao. Đội ngũ cán bộ lập kế hoạch ở đây bao gồm toàn bộ các cán bộ nhân viên làm việc ở phòng kế hoạch. Đây chính là nguồn nhân lực chính của bộ máy lập kế hoạch, là những người chịu trách nhiệm xây dựng bản kế hoạch nguồn vốn. Bên cạnh nguồn nhân lực này, nguồn nhân lực của bộ máy lập kế hoạch còn có ban lãnh đạo của ngân hàng, còn có các cán bộ nhân viên các phòng ban khác trong ngân hàng. Ban lãnh đạo ngân hàng là người sẽ phê duyệt bản kế hoạch đó. Còn các cán bộ nhân viên các phòng ban khác là người phối hợp với các cán bộ phòng kế hoạch xây dựng và tổ chức thực thi kế hoạch đó.
1.3.3. Nguyên tắc lập kế hoạch nguồn vốn
Kế hoạch kinh doanh là công cụ điều hành kinh doanh trong toàn hệ thống Ngân hàng thương mại, do đó việc lập kế hoạch cần phải thực hiện theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất là nguyên tắc thống nhất. Nguyên tắc này yêu cầu đảm bảo sự phân chia và phối hợp chặt chẽ trong quá trình xây dựng, triển khai tổ chức thực hiện kế hoạch giữa các cấp, các phòng ban chức năng trong một tổ chức, doanh nghiệp thống nhất. Tính thống nhất trong công tác kế hoạch doanh nghiệp, tổ chức nhằm đạt mục tiêu hướng tới mục đích chung của doanh nghiệp cũng như vì sự phát triển của từng bộ phận cấu thành của tổ chức.
Thứ hai, là nguyên tắc tham gia. Nguyên tắc này có nghĩa là các thành viên trong doanh nghiệp, trong tổ chức đều tham gia những hoạt động cụ thể trong công tác kế hoạch, không phụ thuộc vào nhiệm vụ, chức năng của họ. Công tác kế hoạch có sự tham gia của các thành viên trong doanh nghiệp, trong tổ chức sẽ cho phép người lao động tham gia trực tiếp vào công việc kế hoạch phát huy được tính chủ động của mình đối với hoạt động của doanh nghiệp, của tổ chức.
Thứ ba, đó là nguyên tắc linh hoạt. Chúng ta nên coi mỗi phương án kế hoạch là một kịch bản chứ không nên quan niệm đó là một văn bản pháp lý. Tương ứng với mỗi kịch bản là những điều kiện áp dụng cụ thể về nguồn lực, thị trường và các điều kiện kinh doanh khác. Ngoài kế hoạch chính cần xây dựng những bộ phận kế hoạch dự phòng để có thể tạo dựng trong kế hoạch một khả năng thay đổi phương hướng khi những sự kiện không lường trước xảy ra.
Thứ tư là nguyên tắc khả thi. Nếu tất cả ba nguyên tắc trên đều thoả mãn nhưng tính khả thi của kế hoạch đó không có thì kế hoạch đó cũng không thể thực thi được. Do đó một kế hoạch kinh doanh cần phải tuân theo nguyên tắc khả thi. Nguyên tắc này thể hiện ở tính khả thi ở các mục tiêu kế hoạch đặt ra. Các mục tiêu này phải đòi hỏi sự cố gắng của người chịu trách nhiệm thực hiện nhưng lại không được quá cao so với khả năng của doanh nghiệp và phải sát thực và có thể đạt được. Muốn được như vậy thì hệ thống các mục tiêu kế hoạch đuợc đưa ra phải được xây dựng trên quá trình phân tích các chỉ tiêu kinh tế, chính trị, xã hội đồng thời nó phải được dựa trên những đánh giá một cách khách quan, chính xác về thực lực của doanh nghiệp.
1.3.4. Quy trình lập Kế hoạch nguồn vốn
Bất cứ một kế hoạch nào cũng được lập theo các bước sau:
Đánh giá các phương án và lựa chọn
phương án tối ưu
Ra quyết định và thể chế hoá quyết định
Thiết lập các mục tiêu
Nghiên cứu - dự báo và thiết lập các tiền đề
Xây dựng các phương án
Sơ đồ 1.1 : Quy trình lập kế hoạch.
Bước 1: Nghiên cứu - dự báo và thiết lập các tiền đề.
Nghiên cứu và dự báo là điểm bắt đầu của việc lập kế hoạch. Để lập một kế hoạch thành công, có tính khả thi thì những nhà lập kế hoạch cần phải nghiên cứu và dự báo về những tác động của môi trường bên ngoài có những thuận lợi hay có những bất lợi gì đối với việc thực hiện kế hoạch. Các nhà lập kế hoạch cũng cần phải hiểu biết và nắm chắc về những điểm mạnh, diểm yếu của doanh nghiệp mình, về sự cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh. Từ đó có thể đưa ra những bản kế hoạch hợp lý, có tính khả thi, giúp doanh nghiệp mình có thể tận dụng những điểm mạnh của doanh nghiệp mình, tận dụng những thuận lợi của môi trường bên ngoài và khắc phục những điểm yếu của mình, tránh được những đe doạ từ môi trường bên ngoài, cũng như những mối đe doạ từ các đối thủ cạnh tranh nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
Tiền đề lập kế hoạch chính là các dự báo, các chính sách cơ bản có thể áp dụng. Nó chính là các giả thiết cho việc lập kế hoạch. Các tiền đề này có thể là về địa bàn hoạt động, quy mô hoạt động, mức giá, sản phẩm gì, triển khai công nghệ gì, mức chi phí, mức lương sẽ trả cho công nhân, mức cổ tức và các khía cạnh khác của các lĩnh vực tài chính, xã hội, chính trị khác.
Tiền đề cũng có thể là các dự báo, các chính sách còn chưa ban hành.
Các tiền đề được giới hạn theo các giả thiết có tính chất chiến lược hoặc cấp thiết để dẫn đến một kế hoạch. Các tiền đề này có ảnh hưởng nhiều nhất tới sự hoạt động của kế hoạch đó. Sự nhất trí về các tiền đề là điều kiện quan trọng để lập kế hoạch phối hợp. Do đó không nên đòi hỏi những kế hoạch và ngân quỹ từ cấp dưới khi chưa có, trước hết, những chỉ dẫn cho những người đứng đầu các bộ phận của mình.
Bước 2: Thiết lập các mục tiêu
Mục tiêu chính là một trạng thái trong tương lai mà doanh nghiệp muốn đạt tới, tuỳ thuộc vào nguồn lực của tổ chức, chúng ta phải xác định được tất cả các mục tiêu có thể có của kế hoạch. Các mục tiêu đưa ra cần phải xác định rõ thời hạn thực hiện và được lượng hoá đến mức cao nhất có thể. Mặc dù mỗi một tổ chức đều có cả hai loại mục tiêu là mục tiêu định tính và mục tiêu định lượng, nhưng mục tiêu định lượng có vẻ rõ ràng hơn và dễ thực hiện hơn.
Nếu xét trên khía cạnh thứ tự ưu tiên thực hiện mục tiêu thì các mục tiêu của tổ chức có thể được chia thành mục tiêu hàng đầu và mục tiêu hàng thứ hai. Những mục tiêu hàng đầu liên quan đến sự sống còn, sự thành đạt của tổ chức, đó chính là các mục tiêu về lợi nhuận, doanh số hay thị phần. Còn các mục tiêu hàng thứ hai lại liên quan đến tính hiệu quả của tổ chức. Nó cũng rất quan trọng tới sự thành công của một tổ chức, nhưng không phải lúc nào những mục tiêu này cũng ảnh hưởng tới sự sống còn của tổ chức. Những mục tiêu này có thể thể hiện mức độ quan tâm của khách hàng đối với những sản phẩm, dịch vụ của tổ chức, tới sự phát triển sản phẩm mới hay tính hiệu quả của công tác quản lý hành chính của tổ chức đó.
Trước đây, các tổ chức cũng như các doanh nghiệp ở khu vực tư nhân và khu vực Nhà nước thường chú trọng hơn tới các mục tiêu hàng đầu, để nhằm duy trì sự tồn tại và thành đạt của tổ chức mình. Nhưng những năm gần đây, các tổ chức này dường như đều chú trọng tới các mục tiêu hàng thứ hai để thu hút khách hàng, được coi là ảnh hưởng về lâu dài đến sự sống còn của tổ chức và cả các mục tiêu hàng đầu với sự ảnh hưởng trực tiếp và trước mắt hơn.
Cho dù có xác định mục tiêu nào là quan trọng hơn, cần chú trọng nhiều hơn, thì điều quan trọng là phải xác định được các mục tiêu thật rõ ràng, có thể đo lường được và phải có tính khả thi.
Cuối cùng chúng ta cần phải lựa chọn mục tiêu ưu tiên cho một kế hoạch nào đó bởi chúng ta luôn bị giới hạn về nguồn lực. Mặt khác bất cứ một tổ chức nào cũng đều có rất nhiều mục tiêu, và nhiều khi những mục tiêu này mâu thuẫn về mặt lợi ích với nhau, do đó chúng ta cần phải lựa chọn một số mục tiêu ưu tiên cho một kế hoạch nào đó.
Bước 3: Xây dựng các phương án
Sau khi nghiên cứu các tiền đề, và đưa ra các mục tiêu, chúng ta cần xây dựng các phương án hành động để thực hiện những mục tiêu. Về nguyên tắc chúng ta phải xác định tất cả những phương án có thể có. Nhưng trên thực tế, chúng ta không thể xác định tất cả các phương án có thể có, bởi vì chúng ta bị giới hạn về nguồn lực, giới hạn về thông tin… Do đó chúng ta cần phân tích rõ các nguồn lực hiện có của mình để xây dựng được các phương án có tính khả thi.
Mỗi một phương án mà chúng ta xây dựng cần trả lời được hai câu hỏi:
+ Các giải pháp để thực thi phương án
+ Nguồn lực để thực thi phương án được lấy ở đâu?
Như vậy, chỉ có những phương án có triển vọng nhất mới được đưa ra phân tích.
Bước 4: Đánh giá các phương án và lựa chọn phương án tối ưu
Sau khi đã xây dựng được các phương án các nhà lập kế hoạch cần tìm ra các phương án tối ưu nhất, phương án khả thi nhất. Do đó chúng ta cần phải đánh giá các phương án theo các tiêu chuẩn phù hợp với mục tiêu đã đề ra và phải trung thành cao nhất với các tiền đề đã xác định.
Tuỳ theo từng loại kế hoạch mà các chỉ tiêu, tiêu chuẩn đưa ra để làm căn cứ đánh giá là khác nhau. Chúng ta có thể dung các chỉ tiêu về hiệu quả, hiệu lực của phương án để đánh giá các phương án. Chúng ta cần phải phân tích mức độ rủi ro của phương án tức là chúng ta xác định mức độ mạo hiểm của phương án đó, để so sánh các phương án đó với nhau, từ đó sẽ xác định được phương án tối ưu nhất.
Bước 5: Ra quyết định và thể chế hoá quyết định
Sau các bước trên, chúng ta đã xác định được phương án tối ưu nhất. Lúc này, chúng ta cần ra quyết định để phân bổ con người và các nguồn lực khác của tổ chức cho việc thực hiện kế hoạch. Và như vậy chúng ta đã có một bản kế hoạch.
Để bản kế hoạch này có thể được thực thi thì chúng ta, những nhà lập kế hoạch, cần đệ trình bản kế hoạch này lên cấp trên, để cấp trên xem xét, đưa ra quyết định có thực thi kế hoạch này hay không. Khi cấp trên đã quyết định thì bản kế hoạch này sẽ được thể chế hoá thành văn bản. Bước tiếp theo sẽ là việc xây dựng các kế hoạch phụ trợ và lượng hoá kế hoạch bằng ngân quỹ để kế hoạch có thể thực thi một cách nhanh chóng.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến lập Kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng thương mại
Bất cứ một tổ chức nào hay một doanh nghiệp nào đều chịu tác động từ các yếu tố bên trong và cả bên ngoài tổ chức, hay còn gọi là các yếu tố khách quan và chủ quan.
1.4.1. Các yếu tố chủ quan
Thứ nhất là các quan điểm của lãnh đạo. Điều này có ảnh hưởng khá lớn tới công tác lập kế hoạch nói chung cũng như công tác lập kế hoạch nguồn vốn nói riêng. Khi các quan điểm của các lãnh đạo không rõ ràng, các văn bản chỉ đạo không cụ thể, chung chung sẽ gây khó khăn cho các cán bộ lập kế hoạch nguồn vốn. Bởi khi đó, họ sẽ không biết chắc chắn được quan niệm của ban lãnh đạo là như thế nào, họ sẽ khó có thể xây dựng được bản kế hoạch phù hợp với quan điểm, với mong muốn của các nhà lãnh đạo. Do đó, các quan điểm của các nhà lãnh đạo ngân hàng phải rõ ràng, sáng suốt, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của họ về công tác lập kế hoạch nói chung cũng như lập kế hoạch nguồn vốn nói riêng phải chính xác, cụ thể. Từ đó sẽ tạo thuận lợi cho các cán bộ kế hoạch có thể lập được những bản kế hoạch phù hợp hơn, có tính khả thi cao hơn, có hiệu quả thiết thực cao hơn.
Thứ hai là kế hoạch cho lập kế hoạch. Bất cứ một doanh nghiệp, một tổ chức, một ngân hàng nào hay một cá nhân nào khi tiến hành một hoạt động nào dù nhỏ hay to, dù đơn giản hay phức tạp … đều phải xảy dựng cho mình một kế hoạch. Công tác lập kế hoạch nguồn vốn cũng vậy. Chúng ta phải xây dựng một kế hoạch cho việc lập kế hoạch nguồn vốn thật cụ thể, rõ ràng, phải chỉ ra các mục tiêu, phương thức, cách thức … mà chúng ta sẽ thực hiện công tác lập kế hoạch. Khi chúng ta đã có bản kế hoạch này thì công tác lập kế hoạch nguồn vốn sẽ được thực hiện theo đúng hướng, đạt đuợc những mục tiêu đã định trước.
Thứ ba đó chính là nhóm yếu tố thuộc bộ máy tổ chức và quản lý của ngân hàng như mô hình kinh doanh của ngân hàng, bộ máy lập kế hoạch của ngân hàng, khả năng ứng dụng công nghệ vào các lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng, vào việc tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mới của ngân hàng… Việc ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ vào việc tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mới sẽ đa dạng hoá các hình thức, các dịch vụ của ngân hàng. Từ đó giúp ngân hàng có thể thoả mãn một cách tối đa nhu cầu của khách hàng, sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn đặc biệt là các khách hàng tiềm năng, khả năng thu hút vốn của ngân hàng sẽ dễ dàng hơn…
Nguồn lực và cơ cấu của bộ máy lập kế hoạch của ngân hàng cũng ảnh hưởng tới việc huy động nguồn vốn. Bởi vì, một tổ chức có cơ cấu hợp lý sẽ giúp cho tổ chức đó dễ dàng mở rộng quy mô kinh doanh của mình. Nhưng mặt khác, như chúng ta đều biết bất cứ một doanh nghiệp nào, một tổ chức nào có cơ cấu tổ chức hợp lý, hoàn hảo mà không có con người lãnh đạo thì nó cũng chỉ là một bộ máy, nó không thể vận hành, không thể đạt được những mục tiêu đã đặt ra, đối với ngân hàng cũng vậy. Đặc biệt là trong khâu lập kế hoạch thì vai trò của các cán bộ công nhân viên là rất quan trọng, đây chính là những người vạch ra các kế hoạch phát triển của ngân hàng dựa trên những đặc điểm, tình hình của môi trường bên ngoài cũng như nguồn lực bên trong ngân hàng. Do đó trình độ của đội ngũ cán bộ nhân viên cũng có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của ngân hàng.
Thứ tư là nhóm yếu tố bao gồm các công cụ cho lập kế hoạch nguồn vốn như phương pháp, quy trình và hệ thống thông tin. Các phương pháp lập kế hoạch nguồn vốn phải là các phương pháp rõ ràng, dễ hiểu, đơn giản…mà tất cả mọi người đều có hiểu và thể thực hiện được. Không được dùng các phương pháp mang tính chất “đánh đố”, chung chung… Bởi nếu các phương pháp này không dễ hiểu thì mọi người sẽ rất khó khăn trong việc tiếp thu và hiểu những phương pháp đó, nó sẽ gây cản trở cho công tác thực hiện kế hoạch. Như vậy, kế hoạch sẽ rất khó có thể thực hiện thành công và đạt hiệu quả cao.
Không những vậy, quy trình và hệ thống thông tin cũng có ảnh hưởng tới công tác lập kế hoạch nguồn vốn của ngân hàng. Nếu quy trình lập kế hoạch không rõ ràng thành từng bước cụ thể, không mạch lạc và không chỉ ra được các công việc trong các bước của quy trình và hệ thống thông tin không chính xác, không cụ thể thì cũng gây ảnh hưởng tiêu cực tới công tác lập kế hoạch. Điều này sẽ gây khó khăn cho các cá nhân, các cán bộ tham gia công tác lập và thực hiện kế hoạch nói chung và kế hoạch nguồn vốn nói riêng. Họ sẽ không biết được tại bước này của quy trình họ phải làm những công việc gì. Đối với các cán bộ lâu năm, đã có kinh nghiệm thì điều này có thể không phải là khó khăn đối với họ. Nhưng đối với các cán bộ, các cá nhân có thể là mới vào nghề, có thể là các cán bộ ở các phòng ban khác tham gia vào công tác thực hiện kế hoạch, họ chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế, chưa có nhiều kiến thức chuyên môn, nên việc thông tin thiếu chính xác là rất khó khăn đối với họ trong việc thực hiện kế hoạch. Và ngược lại, nếu quy trình lập kế hoạch rõ ràng, hệ thống thông tin chính xác…sẽ có những tác động tích cực tới công tác lập kế hoạch nguồn vốn. Nó sẽ giúp các cán bộ tham gia công tác lập và thực hiện kế hoạch nguồn vốn hiểu rõ hơn về kế hoạch đó, giúp họ thực hiện thành công kế hoạch…
Thứ năm là nhóm các yếu tố tạo động lực cho lập và thực hiện kế hoạch. Đó chính là nhóm các yếu tố tác động tới lợi ích của mọi người, mọi cá nhân tham gia công tác lập và thực hiện kế hoạch như: lợi nhuận mà họ sẽ thu được khi mà lập kế hoạch và thực hiện thành công kế hoạch đó, và việc phân phối lợi nhuận thu được từ việc thực hiện kế hoạch đó cho mọi người có công bằng hay không …Nhưng quan trọng nhất vẫn là yếu tố phân phối lợi nhuận thu được từ việc thực hiện thành công kế hoạch đó tới mọi người, mọi cá nhân tham gia. Bởi tất cả mọi người khi tham gia bất cứ một công việc nào, họ đều mong muốn mình sẽ được nhận phần thu nhập tương xứng với sức lao động mà họ bỏ ra. Nếu như việc phân phối lợi nhuận thu được từ công tác lập và thực hiện kế hoạch đó không công bằng giữa mọi người, họ sẽ không còn tin tưởng vào bộ máy quản lý nữa, họ sẽ cảm thấy thất vọng và không muốn tham gia vào công tác lập và thực hiện kế hoạch nữa. Ngược lại, lợi nhuận thu đó được phân phối một cách công bằng giữa các cá nhân tham gia vào công tác lập và thực hiện kế hoạch, họ sẽ cảm thấy thu nhập mà họ được nhận xứng đáng với công sức mà họ đã bỏ ra, nhưng điều quan trọng là họ thấy mình được đối xử bình đẳng, công bằng. Điều này sẽ tạo cho họ động lực, khuyến khích họ tiếp tục tham gia tích cực vào công tác lập và thực hiện kế hoạch.
Thứ sáu là phối hợp trong lập kế hoạch và truyền thông. Đây cũng là một yếu tố có ảnh hưởng nhiều tới công tác lập kế hoạch nguồn vốn của ngân hàng. Một bản kế hoạch đã được xây dựng, đã được ban lãnh đạo thông qua nhưng nếu không truyền thông, không thông báo cho các đơn vị, các phòng ban khác để họ cùng phối hợp thực hiện thì bản kế hoạch đó cũng không thành công. Một bản kế hoạch thành công, có hiệu quả chính là bản kế hoạch có sự tham gia của tất cả mọi cán bộ nhân viên trong ngân hàng, chứ không phải chỉ là các cán bộ phòng kế hoạch. Do vậy cần phải truyền thông để mọi người hiểu và cùng thực hiện kế hoạch đó.
Thứ bảy là việc kiểm soát bao gồm cả kiểm soát trong khâu lập kế hoạch và cả trong khâu thực hiện kế hoạch. Chúng ta phải kiểm soát trong khâu lập kế hoạch để xem việc lập kế hoạch nguồn vốn có theo đúng quy trình lập kế hoạch hay không, xem có những khó khăn nào cần khắc phục hay không, nghiên cứu về thị trường mục tiêu… Bởi một bản kế hoạch được lập rất hoàn chỉnh, có tính khả thi rất cao, nhưng nó vẫn chỉ là một bản kế hoạch trên lý thuyết mà thực tế đôi khi không giống như những giả định của chúng ta khi lập kế hoạch, khi thực hiện trên thực tế, có thể sẽ có những khó khăn nhất định. Do vậy, chúng ta cần kiểm soát khâu lập kế hoạch nhất là khâu nghiên cứu thị trường mục tiêu để có thể để xây dựng được bản kế hoạch hợp lý nhất, đáp ứng được các yêu cầu, nguyên tắc của việc lập kế hoạch nguồn vốn, có hiệu quả nhất. Không những thế, chúng ta phải kiểm soát cả khâu thực hiện kế hoạch, xem việc thực hiện kế hoạch có đúng như bản kế hoạch hay không, xem trong quá trình thực hiện kế hoạch này có những khó khăn nào cần khắc phục không, có cần phải điều chỉnh không... Nếu các cách thức, hay phương thức thực hiện kế hoạch mà bản kế hoạch đưa ra không phù hợp với thực tế khu vực mà ngân hàng hoạt động thì chúng ta cần phải điều chỉnh sao cho phù hợp để kế hoạch được thực hiện với hiệu quả cao nhất.
Ngoài ra các yếu tố liên quan tới lĩnh vực hoạt động của ngân hàng như quy mô hoạt động của ngân hàng lớn hay nhỏ, tỷ lệ tăng trưởng và thị phần hoạt động của ngân hàng, khả năng phát triển và mở rộng thị trường cũng như lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng … cũng ảnh hưởng tới công tác lập kế hoạch nguồn vốn của ngân hàng. Một ngân hàng có tỷ lệ tăng trưởng cao, có thị phần hoạt động cao thì sẽ tạo ra lòng tin, tạo ra uy tín đối với khách hàng của mình, từ đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn, và uy tín của ngân hàng cũng ngày càng được nâng cao, khả năng cạnh tranh của ngân hàng với các ngân hàng khác cũng được nâng cao hơn. Ngược lại một ngân hàng có quy mô hoạt động nhỏ, thị phần nhỏ, tỷ lệ tăng trưởng thấp thì chứng tỏ ngân hàng đó vẫn còn yếu kém trong việc huy động vốn, chưa tạo ra được lòng tin cho khách hàng của mình đối với ngân hàng mình…Khi đó ngân hàng sẽ phải điều chỉnh lại kế hoạch nguồn vốn sao cho phù hợp với tình hình lúc đó của ngân hàng. Như vậy, tất cả những yếu tố này đều ảnh hưởng tới công tác lập kế hoạch nguồn vốn của ngân hàng.
1.4.2. Các yếu tố khách quan
Trước tiên là nhóm các yếu tố vĩ mô ảnh hưởng tới hoạt động của tổ chức bao gồm các nhân tố như lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá cũng như thu nhập của dân cư… Tất cả các nhân tố trên đều có tác động tới hoạt động của tổ chức, của doanh nghiệp. Tuỳ theo từng nhân tố mà tác động của nó tới hoạt động của ngân hàng là tích cực hay tiêu cực. Ví dụ như nhân tố lạm phát nếu lạm phát cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, giá cả các mặt hàng tăng cao, khi đó lượng tiền lưu thông ở bên ngoài thị trường cần nhiều hơn, lượng tiền tiết kiệm sẽ bị giảm đi, do đó nó sẽ tác động tiêu cực tới việc huy động vốn của ngân hàng. Hay khi nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, thu nhập của người dân cao hơn, người dân sẽ có nhu cầu tiết kiệm một phần thu nhập của mình, điều này sẽ tác động tích cực tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng, từ đó nó sẽ có ảnh hưởng tới công tác lập kế hoạch nguồn vốn của ngân hàng.
Nhóm yếu tố thứ hai là nhóm yếu tố ảnh hưởng tới môi trường chính trị, pháp luật như chính sách tiền tệ, chính sách thuế của nhà nước, mức độ ổn định của tình hình chính trị đất nước, hay thái độ của nhà nước đối với vấn đề sở hữu, cạnh tranh độc quyền cũng như mối quan hệ và ảnh hưởng của nhà nước đối với doanh nghiệp, đối với tổ chức… Nếu một quốc gia có nền chính trị ổn định thì sẽ thu hút được một lượng vốn lớn từ các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước, dòng tiền đầu tư sẽ chảy về nước đó nhiều hơn. Các ngân hàng sẽ ngày càng phát triển nhờ nhu cầu gửi tiền, chuyển tiền của các nhà đầu tư đó. Mặt khác các chính sách của nhà nước cũng sẽ tác động tới việc huy động vốn của ngân hàng, tuỳ theo nội dung của từng chính sách mà các ngân hàng phải xây dựng cho mình chính sách phát triển của ngân hàng mình cho phù hợp với chính sách mà nhà nước đã ban hành nhằm thúc đẩy các ngân hàng phát triển vì sự tồn tại của mình, vì sụ phồn thịnh của ngân hàng mình, của đất nước.
Nhóm yếu tố thứ ba là nhóm yếu tố về văn hoá – xã hội như lối sống, nhận thức của dân chúng, môi trường xã hội, trình độ dân trí, chất lượng các hoạt động giáo dục, y tế…. Cũng giống như hai nhóm nhân tố trên thì nhóm nhân tố này cũng có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực tới hoạt động của ngân hàng tuỳ theo từng nhân tố. Tuỳ theo thói quen, lối sống của người dân mà nó tác động tới sự phát triển, phồn thịnh của hệ thống ngân hàng. Người dân Việt Nam từ xưa đều có thói quen giữ tiền mặt để chi tiêu, họ không quen dùng thẻ ATM hay dùng séc như một số nước khác, do đó nó sẽ gây khó khăn cho việc phát triển hình thức huy động vốn thông qua hình thức thẻ ATM… Hiện nay thì trình độ dân trí của người dân đã nâng cao, nhận thức của họ cũng cao hơn so với trước đây, nên họ có xu hướng gửi tiền vào ngân hàng hơn là giữ tiền ở trong nhà, do vậy khả năng huy động vốn của ngân hàng từ trong dân cư cao hơn, dễ hơn, thuận lợi hơn….v.v.
Nhóm yếu tố khách quan thứ tư chính là các yếu tố về khoa học công nghệ như hệ thống cơ sở hạ tầng, hệ thống thông tin trình độ áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, công nghệ quản lý…
Nhóm thứ năm chính là các đối thủ cạnh tranh cả trong nước và quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đã gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới WTO, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế đã xuất hiện ở thị trường Việt Nam. Do đó hàng loạt các ngân hàng đã được thành lập, cả các ngân hàng tư nhân hay các ngân hàng nước ngoài, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển, nhu cầu vốn của các doanh nghiệp trê._.ường, các doanh nghiệp cố phần hoá có nhiều nguồn thu từ bán cổ phần, tăng vốn…trong khi đó ngân hàng là kênh duy nhất để gửi nguồn tạm thời nhàn rỗi của dân cư, các tổ chức kinh tế, xã hội. Nguồn ngoại tệ tăng chậm, nhu cầu cho vay ngoại tệ tăng cao do ảnh hưởng của nhập siêu lớn.
- Những tháng cuối năm:
+ Nguồn vốn ODA và đầu tư trực tiếp nước ngài đạt cao nhất từ trước tới nay.
+ Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, thu hút tiền từ lưu thông về thông qua việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.
+ Thị trường địa ốc, chứng khoán ấm dần lên, các Ngân hàng thương mại phải giải ngân các dự án lớn đã cam kết, cho vay khắc phục lũ lụt thiên tai tập trung vào cuối năm. Nhu cầu vay vốn phục vụ Tết nguyên đán cũng ảnh hưởng đến tăng trưởng dư nợ của Chi nhánh cao.
Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các Ngân hàng trong lãi suất, các sản phẩm dịch vụ của một ngân hàng hiện đại như thẻ ATM, thẻ nội địa, thẻ quốc tế…Đặc biệt sự không nghiêm túc thực hiện cam kế về lãi suất huy động vốn của các ngân hàng thương mại cổ phần.
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN LẬP KẾ HOẠCH NGUỒN VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN NAM HÀ NỘI
3.1. Định hướng hoàn thiện lập kế hoạch của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội
3.1.1. Mục tiêu
Năm 2008 được dự báo là năm thị trường Tài chính - Tiền tệ có nhiều biến động lớn. Hàng loạt chính sách điều chỉnh của Nhà nước sẽ được thực thi trong năm : Tăng khung giá các loại đất; điều chỉnh chính sách quản lý giá các mặt hàng như: Xăng dầu, Than, điện… theo cơ chế thị trường; Thị trường Bất động sản biến động khó lường; Lãi suất VNĐ tiếp tục ở mức cao, các Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng 100% vốn nước ngoài được thành lập và đi vào hoạt động; Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ theo hướng kiểm soát lạm phát… Đây là những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động đầu tư tín dụng cho doanh nghiệp. Đây cũng chính là những cơ hội và những thách thức trong việc cạnh tranh phát triển của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong lộ trình “Hội nhập và xây dựng Tập đoàn tài chính ngân hàng”. Để tiếp tục xây dựng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam phát triển bền vững, Ngân hàng đã xác định mục tiêu tổng quát như sau: “Tập trung sức toàn bộ hệ thống, thực hiện bằng được những nội dung cơ bản theo tiến độ Đề án cơ cấu lại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã được phê duyệt và tập trung xây dựng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam thành tập đoàn tài chính; tiếp tục duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo cân đối, an toàn và khả năng sinh lời, đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nông thôn, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng đủ năng lực cạnh tranh; tập trung đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư và đổi mới công nghệ ngân hàng phù hợp với hiện đại hoá, đủ năng lực hội nhập. Nâng cao năng lực tài chính và phát triển giá trị thương hiệu trên cơ sở đẩy mạnh và kết hợp với văn hoá doanh nghiệp”
Hướng theo mục tiêu tổng quát của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, mục tiêu phấn đấu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội năm 2008 là: Phát huy tính dân chủ, đoàn kết, tự chủ để phấn đấu hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2008 tạo tiền đề để cuối năm đạt hạng doanh nghiệp loại AAA.
Mục tiêu cụ thể của NHNo & PTNT Nam Hà Nội về công tác lập kế hoạch nguồn vốn đó là xây dựng kế hoạch nguồn vốn hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế và nguồn lực của Ngân hàng nhằm thu hút tối đa nguồn vốn huy động với chi phí thấp nhất, đạt hiệu quả cao nhất.
3.1.2. Định hướng phát triển
Đối với công tác huy động vốn:
- Phấn đấu tổng nguồn vốn cuối năm đạt 9.000 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn huy động tại địa phương là 6.814 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2007.
- Tỷ lệ tiền gửi dân cư chiếm 30% tổng nguồn vốn huy động tại địa phương ( khoảng 2.700 tỷ đồng ).
- Từng bước cải thiện cơ cấu nguồn vốn theo hướng ổn định và hiệu quả.
- Không để xảy ra bất cứ trường hợp vi phạm quy chế điều hành kế hoạch, quản lý hạn mức dư nợ, quy chế quản lý lãi suất….
Các chỉ tiêu cụ thể cho từng loại hình huy động vốn có thể theo dõi ở bảng sau:
Bảng 3.1. Kế hoạch cụ thể cho các chỉ tiêu huy động vốn năm 2008
Đơn vị: Tỷ đồng
TT
Chỉ tiêu
Thực hiện năm 2007
Kế hoạch năm 2008
+/- số tương đối
+/- số tuyệt đối
A
TỔNG NGUỒN VỐN
8320
9000
680
8,2%
A1
NV huy động hộ TW
2186
2186
0
0%
A2
NV huy động địa phương
6134
6814
680
11,09%
1
NỘI TỆ
5562
6182
620
11,15%
A
TG DÂN CƯ
1544
1752
208
13%
TG không kỳ hạn
12
15
3
29%
TG dưới 12 tháng
151
186
35
23%
TG từ 12 tháng trở nên
1382
1551
169
12,23%
B
TG TCKT – XH
3488
3900
412
11,8%
TG không kỳ hạn
1065
1100
35
3,3%
TG dưới 12 tháng
135
159
24
17,8%
TG từ 12 tháng trở lên
2288
2641
353
15,43%
C
TG TCTD
530
530
0
0%
*
Nguồn vốn khác
2186
2186
0
0%
2
NGOẠI TỆ
572
632
60
10,5%
A
TG DÂN CƯ
452
478
26
5,8%
TG không kỳ hạn
2
3
1
50%
TG dưới 12 tháng
101
113
12
12%
TG từ 12 tháng trở lên
349
362
13
3,7%
B
TG TCKT – XH
78
115
36
47%
TG không kỳ hạn
71
90
19
27%
TG dưới 12 tháng
4
22
17
383%
TG từ 12 tháng trở lên
2
3
1
21%
C
TG TCTD
39
39
0
O%
D
TG UỶ THÁC ĐẦU TƯ
3
0
-3
-100%
Nguồn: Báo cáo thuyết minh kế hoạch năm 2008
Đối với công tác Tín dụng
- Phấn đấu đạt mức dư nợ tại địa phương cuối năm là 2.400 tỷ đồng, tăng trưởng 23% so với năm 2007.
- Tỷ lệ cho vay trung và dài hạn: 60% tổng dư nợ.
- Số lượng khách hàng mới tăng từ 30% đến 35% so với năm 2007, đến 31/12/2008 có 30.000 doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với NHNo.
- Tỷ lệ nợ xấu: tối đa 2% tổng dư nợ
Kế hoạch về các chỉ tiêu chi tiết theo dõi ở bảng sau:
Bảng 3.2. Cơ cấu chi tiết cho từng loại dư nợ cụ thể
Đơn vị: Tỷ đồng
STT
CHỈ TIÊU
Thực hiện năm 2007
Kế hoạch năm 2008
+/- So năm trước
Số tiền
%
I
Nội tệ
1.021
1.161
140
14%
a
Ngắn hạn
599
600
1
0%
b
Trung hạn
98
120
22
22,4%
c
Dài hạn
324
441
117
36,1%
II
Ngoại tệ USD quy đổi
848
1.012
164
19,34%
Ngoại tệ USD nguyên tệ
52.981
63.225
10.244
19,34%
a
Ngắn hạn
16.500
27.500
11.000
66,7%
Ngắn hạn quy đổi
264
440
176
66,7%
b
Trung hạn
625
625
0
0%
Trung hạn quy đổi
10
10
0
0%
c
Dài hạn
35.856
35.100
-756
-2%
Dài hạn quy đổi
574
562
-12
-2%
III
Ngoại tệ EUR quy đổi
75
87
12
16%
Ngoại tệ EUR nguyên tệ
3.274
3.800
526
16%
IV
Tổng dư nợ
1.944
2.260
316
16%
1
Nội tệ
1.021
1.161
140
14%
2
Ngoại tệ quy đổi
923
1.099
176
19%
Dư nợ trung và dài hạn
1.081
1.220
139
13%
Tỷ lệ trung và dài hạn
56%
54%
0
-2%
Nguồn: Báo cáo thuyết minh kế hoạch năm 2008
Công tác Tài chính.
- Phấn đấu quỹ thu nhập cuối năm đạt mức 114 tỷ đồng, tăng trưởng 10% so với năm 2007 (đủ quỹ thu nhập chi lương và thưởng theo quy định)
- Tỷ lệ thu ngoài Tín dụng trên 10%.
- Tỷ lệ chi khác: 2% tổng chi.
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện lập Kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội
Chúng ta đều biết, Ngân hàng không thể tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình nếu như ngân hàng rơi vào tình trạng thiều vốn hoặc huy động vốn quá nhiều nhưng không sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động được. Do vậy hoạt động quan trọng nhất đối với mọi ngân hàng là lập kế hoạch nguồn vốn đặc biệt là về hoạt động huy động vốn, hay chúng ta có thể gọi là hoạt động “đầu vào”, nếu như “đầu vào” thuận lợi sẽ góp phần cho “đầu ra” thông thoáng hơn. Nhưng các yếu tố “đầu vào” lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, như môi trường kinh doanh, các yếu tố thuộc về bản chất của ngân hàng như chiến lược kinh doanh phát triển cùa ngân hàng, chiến lược về khách hàng, các chính sách về lãi suất của ngân hàng... Thời kỳ 2003-2007 là thời kỳ mà Ngân hàng Nông nghiệp Nam Hà Nội đã đạt được những mục tiêu nhất định trong công tác lập kế hoạch nguồn vốn, tuy nhiên bên cạnh những mặt đạt được đó, ngân hàng vẫn còn có một số tồn tại, khó khăn như đã phân tích ở trên. Ngân hàng thực hiện kế hoạch nguồn vốn trong công tác huy động vốn dựa trên nguyên tắc là: Nguồn vốn tăng trưởng ổn định, huy động tối đa nguồn lực tài chính của chính ngân hàng, cũng như của bên ngoài, tăng cường huy động vốn từ các nguồn vốn có kỳ hạn và nguồn nội tệ để có thể cải thiện cơ cấu nguồn vốn. Do vậy, để đạt được những mục tiêu đã đề ra, để phát huy tối đa tiềm năng của mình, cũng như tăng khả năng cạnh tranh của mình thì ngân hàng đã tập trung thực hiện một số giái pháp sau nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch nguồn vốn để đạt được hiệu quả cao nhất.
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy trình lập kế hoạch nguồn vốn
Kết hợp nghiên cứu thị trường và thiết lập mục tiêu
Lập kế hoạch suy cho cùng là thiết lập các chương trình hành động nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Một bản kế hoạch hoàn thiện khi nó có hệ thống mục tiêu nhất định. Do vậy, để công tác lập kế hoạch diễn ra thuận lợi thì phải chú ý tới chất lượng của hệ thống mục tiêu muốn thực hiện. Mục tiêu chính là cái mà ngân hàng cần vươn tới, là kết quả mà ngân hàng mong muốn có trong tương lai. Mục tiêu cần vươn tới cần phải đảm bảo các chỉ tiêu cơ bản là mục tiêu phải rất cụ thể, có thể đo lường được, phải thể hiện được tham vọng và có tính khả thi, có thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu. Do đó, biện pháp ở đây là để có một mục tiêu đảm bảo các tiêu chí trên trong một bản kế hoạch nguồn vốn thì phải kết hợp chặt chẽ giữa việc nghiên cứu thị trường với công tác thiết lập nên mục tiêu. Việc kết hợp giữa việc nghiên cứu thị trường và thiết lập nên mục tiêu sẽ đảm bảo tính thiết thực của mục tiêu và đảm bảo cho mục tiêu đề ra là hướng vào thị trường, hướng vào khách hàng, vào đối thủ cạnh tranh của ngân hàng. Việc kết hợp giữa nghiên cứu thị trường và mục tiêu cũng sẽ làm cho mục tiêu đề ra mang tính thiết thực hơn. Và với những mục tiêu lớn, mục tiêu chiến lược thì cần được chia nhỏ thành các mục tiêu chiến thuật và mục tiêu tác nghiệp. Qua đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác lập kế hoạch.
Mặt khác, mục tiêu đề ra phải phù hợp với chính sách của Đảng, của Ngân hàng Nhà nước và của cả NHNo & PTNT Việt Nam nhằm đảm bảo sự điều tiết định hướng của Ngân hàng Nhà nước. Để làm được điều đó, Ngân hàng Nông nghiệp Nam Hà Nội phải hiểu rõ và quán triệt đường lối và chính sách của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam giao cho. Đồng thời, mục tiêu được đề ra trong kế hoạch nguồn vốn phải luôn tôn trọng mục tiêu dài hạn và chiến lược phát triển của ngân hàng Nông nghiệp Nam Hà Nội nói riêng và NHNo & PTNT Việt Nam nói chung.
Củng cố lại công tác thống kê, báo cáo trong toàn hệ thống
- Tăng cường cán bộ chuyên trách làm công tác thống kê tại tất cả các đơn vị bao gồm các chi nhánh, các phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh...
- Triển khai tập huấn chế độ báo cáo thống kê trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam
3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện, nâng cao chất lượng các loại kế hoạch.
Phát triển thêm các hình thức sản phẩm mới
Hiện nay, thì các sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng Nông nghiệp Nam Hà Nội đã được cải tiến nhiều song sự cạnh tranh của các sản phẩm này vẫn còn yếu do các sản phẩm chưa được đa dạng, phong phú. Vì vậy, trong kế hoạch nguồn vốn của mình, ngân hàng cần phát triển thêm các hình thức huy động mới, tạo ra các sản phẩm mới, sản phẩm mũi nhọn của ngân hàng mình nhằm tạo ra sự khác biệt so với các sản phẩm của các ngân hàng khác, từ đó sẽ tăng khả năng huy động vốn và khả năng cạnh tranh của ngân hàng so với các ngân hàng khác.
Vậy để xác định các sản phẩm mới cần đưa ra thì ngân hàng không những phải căn cứ vào các loại kế hoạch nguồn vốn, căn cứ vào việc phát triển các hình thức huy động vốn của ngân hàng mà ngân hàng cần phải căn cứ vào nhu cầu của khách hàng để từ đó đưa ra những chính sách phát triển, đưa ra những sản phẩm mới nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Vị trí mà Ngân hàng Nông nghiệp Nam Hà Nội đặt trụ sở hiện nay là một nơi trung tâm của khu phía Nam Hà Nội, gần nhiều trường Đại học, gần nhiều khu đô thị mới... dân cư đông đúc, dân cư có thu nhập khá... Đây là yếu tố rất thuận lợi cho ngân hàng trong việc phát triển các dịch vụ của mình như: đa dạng hoá các hình thức tiền gửi thanh toán hưởng lãi, không hưởng lãi có ưu đãi các dịch vụ khác, phát triển các dịch vụ thanh toán, dịch vụ thẻ, tăng cường các trạm thẻ ATM...
Mặt khác, dân cư là một đối tượng tiềm năng của hoạt động huy động vốn của ngân hàng, bởi tiền tiết kiệm của dân cư có tính chất ổn định, lâu dài; đồng thời nếu như ngân hàng hạn chế khả năng mở rộng mối quan hệ với các tổ chức kinh tế, xã hội thì việc Chi nhánh Nam Hà Nội xác định việc huy động vốn từ dân cư là mũi nhọn, là quan trọng của công tác huy động vốn là hoàn toàn đúng, và phù hợp với xu thế hiện nay. Do vậy, ngân hàng cần tập trung phát triển các sản phẩm hướng tới nhóm khách hàng này, có thể bằng các hình thức khuyến mại, các hình thức tiết kiệm mới đa dạng hơn, phong phú hơn và có khả năng thu hút khách hàng nhiều hơn nhằm nâng cao chất lượng kế hoạch nguồn vốn từ dân cư.
Thay đổi chính sách điều hành và quản lý lãi suất huy động
Như chúng ta đã biết, lãi suất là một công cụ quan trọng có tính quyết định trong việc huy động vốn của hệ thống ngân hàng, do vậy lãi suất có ảnh hưởng lớn tới chất lượng các loại kế hoạch nguồn vốn của ngân hàng. Lãi suất thực chất chính là cái giá của việc sử dụng vốn khách hàng gửi vào ngân hàng. Lãi suất là thành phần chính, chủ yếu trong chi phí của ngân hàng, nhưng nó cũng chính là khoản thu nhập của người gửi tiền hay của người mua các loại chứng khoán ngân hàng ngoài những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Tất cả mọi khách hàng đều muốn họ sẽ thu được một khoản lợi nhuận, một khoản thu nhập tốt nhất từ những món tiền mà họ gửi vào ngân hàng, trong khi đó ngân hàng thì lại muốn huy động được những món tiền có chi phí thấp để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Đây là một mâu thuẫn luôn luôn tồn tại ở tất cả mọi ngân hàng trong hệ thống ngân hàng thương mại. Để giái quyết mâu thuẫn này, các ngân hàng trong công tác lập kế hoạch của mình, đều phải đề ra các chính sách, biện pháp hợp lý để quản lý lãi suất huy động vốn. Các chính sách này đều phải đảm bảo cho ngân hàng có thể huy động được tối đa nguồn vốn với chi phí hợp lý, và cũng phải đảm bảo được quyền lợi của người gửi tiền và của cả ngân hàng. Việc xây dựng chính sách này, ngân hàng phải dựa trên cơ sở chính sách khách hàng và phải đưa ra mức lãi suất hợp lý, hiệu quả; phải đảm bảo tính linh hoạt của nó; phải phản ánh đúng tình hình cung và cầu trên thị trường vốn và phải tuân thủ theo đúng yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng có chính sách lãi suất hợp lý sẽ giúp cho việc thu hút khách hàng, nâng cao chất lượng các loại kế hoạch nguồn vốn, nó còn giúp tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
3.2.3. Phát triển công nghệ
Trong nền kinh tế hiện nay thì yếu tố công nghệ có vai trò hết sức quan trọng, nó chính là đòn bẩy của sự phát triển, là điều kiện để các ngân hàng có thể dễ dàng hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến các chất lượng của các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, nó cũng ảnh hưởng đến hình ảnh của một ngân hàng, đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay, khoa học công nghệ ngày càng thâm nhập sâu hơn vào tất cả các lĩnh vực của đời sống.
Do vậy, để nâng cao chất lượng công tác lập kế hoạch cũng như nâng cao chất lượng hoạt động của mình, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng mình so với các ngân hàng khác thì ngân hàng phải áp dụng những thành tựu mới nhất, tiên tiến nhất của tiến bộ khoa học công nghệ, phải áp dụng những thiết bị, máy móc hiện đại nhất để quá trình xử lý các nghiệp vụ của ngân hàng diễn ra an toàn, nhanh chóng, chính xác và thuận tiện; Ngân hàng cũng phải đề ra các tiêu chuẩn đề thực hiện việc tiêu chuẩn hoá, hiện đại hoá các hoạt động của ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế...
3.2.4. Nâng cao chất lượng, năng lực đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng
Con người chính là yếu tố quan trọng nhất, quyết định trong mọi hoạt động của mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức. Đối với ngành ngân hàng thì con người chính là hình ảnh của ngân hàng trong lòng khách hàng, họ chính là nhân tố góp phần vào việc ngân hàng có gây được ấn tượng tốt đối với khách hàng hay không, có giữ chân được khách hàng hay không...Do vậy, công tác tuyển dụng và đào tạo nhân lực tại các ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng. Để nâng cao chất lượng hoạt động ngân hàng thì ngân hàng cần phải có chiến lược xây dựng và phát triển nguồn nhân lực một cách đồng bộ, hiệu quả.
Đối với công tác tuyển dụng nhân viên: ngân hàng phải căn cứ vào nhu cầu bổ sung nguồn nhân lực còn thiếu của các phòng ban để tuyển thêm nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển của chi nhánh, đảm bảo quá trình hoạt động và phát triển của ngân hàng và kế hoạch hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong thời gian tới. Sau khi xác định được nhu cầu cần tuyển dụng thì ngân hàng tổ chức tuyển dụng sao cho tuyển dụng được đội ngũ nhân viên đúng với chuyên môn cần tuyển.
Đối với công tác đào tạo cán bộ ngân hàng, thì chuyên môn luôn có một vai trò rất quan trọng, Ngân hàng đã liên tục mở các lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ nhân viên để bổ sung cho họ những kiến thức về chuyên môn, cũng như những kiến thức mới về công nghệ ngân hàng, về công tác quản lý.... Ngân hàng có thể mời các chuyên gia về giảng dạy tại chính ngân hàng mình hoặc cũng có thể trợ cấp kinh phí cho các cán bộ công nhân viên theo học các lớp học buổi tối ở các trường đại học chuyên ngành, hoặc ngân hàng có thể tạo điều kiện cho cán bộ nhân viên đi khảo sát thực tế tại các ngân hàng bạn ở trong nước cũng như ở nước ngoài...
3.2.5. Một số giải pháp khác
- Tập trung tổng kết chuyên đề kế hoạch tổng hợp, đánh giá đúng mặt được, chưa được, phân tích kỹ những mặt còn tồn tại để xây dựng những giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi những chỉ tiêu kế hoạch nguồn vốn đã đề ra trong bản kế hoạch nguồn vốn ngay từ những tháng đầu năm.
- Cụ thể hoá chiến lược phát triển từ từng năm. Đảm bảo kinh doanh có hiệu quả trên cơ sở có giải pháp cụ thể để tăng trưởng nguồn vốn nội và ngoại tệ theo kế hoạch và tính ổn định. Thực hiện cân đối tích cực theo hướng: Có nguồn vốn mới được cho vay tập trung đầu tư tín dụng ở vùng nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp xuất khẩu đảm bảo chất lượng , đáp ứng đủ vốn đã cam kết đầu tư các dự án lớn, đồng tài trợ về nhiều giải pháp để ngăn chặn nợ xấu phát sinh, đảm bảo khả năng thanh khoản cao, bền vững, hiệu quả. Đồng thời tăng cường năng lực tài chính từ hệ số an toàn, tăng vốn tính đến thực sự chuyển từng đơn vị hoạt động thành trung tâm sinh lời, đảm bảo tăng thu, tiết kiệm chi tạo lợi nhuận ngày càng tăng và có đủ sức để trích lập dự phòng rủi ro và tăng mức sống cho cán bộ nhân viên.
- Rà soát lại toàn bộ các văn bản hiện hành để tiếp tục bổ sung, chỉnh sửa, xây dựng các chính sách, chế độ, quy trình nghiệp vụ, quản trị nội bộ để từ đó tạo hành lang cho việc huy động đảm bảo đúng pháp luật, tiến tới theo thông lệ quốc tế và phù hợp với tình hình thực tế như các tỷ lệ bảo toàn an toàn vốn...
- Tiếp tục mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại, kinh doanh vốn, hợp tác quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức tài chính quốc tế, Chính phủ và các bộ ngành trong việc khai thác và thu hút các dự án nước ngoài; chú trọng khai thác các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài...
- Nâng cao tính kỷ cương, kỷ luật trong điều hành kế hoạch, thực hiện việc kiểm tra định kỳ và đột xuất về việc chấp hành chế độ kế hoạch của Trụ sở chính và các cấp ngân hàng, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
- Tiếp tục sắp xếp lại mạng lưới hoạt động theo quyết định 888 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước gắn với ttăng cường cơ sở vật chất, tiện ích phục vụ, nâng cao năng suất lao động cho cán bộ và lợi ích cho khách hàng.
- Thường xuyên tổ chức tập huấn cơ chế quản lý kế hoạch cho đội ngũ làm công tác kế hoạch để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
Hoàn thiện môi trường pháp lý là một yêu cầu tất yếu đối với nền kinh tế nói chung và đối với ngành ngân hàng nói riêng, nó sẽ tạo ra hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động của ngân hàng và nó cũng tạo ra niềm tin của khách hàng vào sự vững mạnh của ngân hàng. Chính phủ cần đẩy mạnh quá trình thực hiện hai bộ luật Ngân hàng, và bộ luật Kế hoạch, cần xây dựng hướng dẫn chi tiết, đầy đủ, dễ hiểu việc thực hiện hai bộ luật này để nó có tính kỷ cương cao, phù hợp với tình hình thực tế. Việc ban hành các văn bản phải có sự thống nhất chặt chẽ và sự phối hợp giữa các cấp, các ngành hữu quan để hoàn thiện và tạo lập các văn bản khác, và cũng để cho hệ thống pháp lý đồng bộ. Việc các văn bản Luật và dưới luật được ban hành một cách đồng bộ, một cách có hệ thống sẽ giúp cho mọi hoạt động tài chính tiền tệ, tín dụng đều được pháp luật hoá, nó sẽ tạo một môi trường ổn định về pháp lý, chính sách cho các ngân hàng giúp tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho các ngân hàng hoạt động.
Chính phủ cũng cần đánh giá một cách toàn diện và xử lý hợp lý các mối quan hệ giữa nguồn lực bên trong và bên ngoài nước theo hướng là đảm bảo cho nợ của quốc gia nằm trong phạm vi an toàn, kiểm soát được. Do vậy, chính phủ cần chỉ đạo và quán triệt các bộ, ngành các cấp lập kế hoạch nguồn vốn sao cho thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn.
Chính phủ cũng cần xác định rõ các lĩnh vực, các công trình mà Nhà nước phải đầu tư toàn bộ, các lĩnh vực cần huy động vốn để xây dựng các kế hoạch nguồn vốn cụ thể cho việc huy động vốn theo cơ chế minh bạch, không phân biệt thành phần kinh tế tư nhân hay nhà nước...
Ngoài ra, nhà nước cần sớm ban hành các quy chế, quy định về việc công bố thông tin, về các thông tin, số liệu mà ngân hàng, các tổ chức tín dụng cần phải công khai; các thông tin, số liệu này phải có cơ quan kiểm duyệt để minh bạch hoá thông tin; phải có hệ thống thông tin thích hợp, phải cung cấp những thông tin cần thiết cho công chúng theo hướng phù hợp với thông lệ, quy định của quốc tế.
Như vậy, tất cả sự tham gia của Chính phủ, của Nhà nước cần phải hướng tới mục tiêu là tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho các ngân hàng; mọi hoạt động huy động vốn cũng như các hoạt động khác của ngân hàng phải được diễn ra công khai, hợp pháp nhằm tránh gây tổn thất cho các chủ sở hữu, cho các bên tham gia. Mặt khác, Nhà nước cũng cần phải xem xét lại việc thực hiện các chính sách của mình thông qua các công cụ của thị trường tài chính, thị trường tiền tệ nhằm tăng tính tự chủ, sáng tạo cho các ngân hàng và phù hợp với nền kinh tế thị trường.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà Nước
Thứ nhất là Ngân hàng Nhà nước cần đẩy mạnh việc điều hành có hiệu quả các chính sách tài chính, chính sách tiền tệ nhằm duy trì sự ổn định tiền tệ của quốc gia, để người gửi tiền yên tâm gửi tiền vào các ngân hàng thay vì họ mua vàng hay ngoại tệ, bất động sản.... Không những thế, nó sẽ giúp cho các ngân hàng hoạt động dễ dàng hơn, có hiệu quả hơn, giúp các ngân hàng có thể tồn tại được. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền tệ hợp lý hơn với mục đích là khuyến khích người dân gửi tiền bằng các công cụ lãi suất, tỷ giá, thị trường mở và một số công cụ khác nhằm bảo đảm tối đa quyền lợi của người gửi tiền.
Thứ hai là Ngân hàng Nhà nước cần đẩy mạnh nghiệp vụ thị trường mở, một trong những công cụ phổ biến để điều hành chính sách tiền tệ nhưng không cần trực tiếp tác động vào lãi suất, sẽ không gây ra những biến động bất lợi cho việc đầu tư. Ngân hàng Nhà nước cũng cần phải duy trì mức tỷ giá ổn định, bởi trong điều kiện hiện nay xu hướng hội nhập kinh tế, các mối quan hệ đan xen lẫn nhau, nhất là quan hệ kinh tế tiền tệ ... thì chính sách tỷ giá có vai trò rất quan trọng.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng cần có những chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại ứng dụng thành tựu của khoa học công nghệ vào trong các lĩnh vực kinh doanh, các sản phẩm của mình; có chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên có năng lực, có thể cử các nhân viên có năng lực, có trình độ chuyên môn đi đào tạo tại các ngân hàng bạn và các ngân hàng thế giới. Ngân hàng Nhà nước cũng phải tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại trong nước có điều kiện tham gia vào các hoạt động kinh doanh liên ngân hàng, vào các hoạt động kinh doanh mới đặc biệt là lĩnh vực Chứng khoán. Đồng thời Ngân hàng Nhà nước cũng phải cho phép các ngân hàng thương mại được cải thiện các công tác thanh toán, về kỹ thuật, về trình độ công nghệ để phù hợp với Ngân hàng Nhà nước và phù hợp với xu thế chung, nhằm nâng cao khả năng thanh toán nhanh chóng, an toàn và chính xác.
3.3.3. Kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam.
- Ban hành Quy chế huy động vốn trong toàn Hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam để phù hợp với quá trình hiện đại hoá Ngân hàng, tạo thêm nhiều sản phẩm tiện ích cho người gửi tiền và sử dụng dịch vụ của Ngân hàng Nông nghiệp.
- Đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn, bám sát lãi suất thị trường đề thu hút khách hàng, nâng cao tính cạnh tránh với các Ngân hàng khác.
- Kiến nghị Trụ sở chính làm người trực tiếp giao dịch, quan hệ với các cơ quan như Bộ và các cơ quan ngang Bộ trong việc tìm kiếm các dự án có vốn đầu tư nước ngoài để đăng ký làm ngân hàng phục vụ.
- Kiến nghị Trụ sở chính có biện pháp quản lý lãi suất, ít nhất là trong địa bàn các đô thị lớn có nhiều ngân hàng, để giảm thiểu tính cạnh tranh không lành mạnh ngay trong nội bộ Ngân hàng Nông nghiệp. Tăng cường tính kịp thời thông báo lãi suất của các Ngân hàng Nông nghiệp lớn trên trang Web của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
- NHNo & PTNT Việt Nam cần xem xét lại tỷ lệ dự trữ thanh toán và lãi suất điều vốn dự trữ thanh toán để giảm giá đầu vào vốn khả dụng, đảm bảo tính cạnh tranh của ngân hàng với các ngân hàng khác.
- NHNo &PTNT Việt Nam nên giao quyền chủ động hơn cho các đơn vị trong việc đào tạo, tập huấn nghiệp vụ, cử cán bộ đi đào tạo ngắn ngày tại nước ngoài để đáp ứng yêu cầu hội nhập.
- Cải tiến hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu kinh doanh đối ngoại, kết nối thanh toán giao dịch, vấn tin,... với các khách hàng lớn.
3.4. Những tiền đề nhằm thực hiện những kiến nghị trên.
- Hoàn thiện các chính sách, các quy định về công tác lập kế hoạch phải đồng bộ về các giải pháp với nhau nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm. Và các chính sách, quy định này phải phù hợp với quá trình hội nhập, tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các hoạt động của các ngân hàng...
- Nâng cao trình độ của các cán bộ làm công tác lập kế hoạch, cũng như toàn bộ cán bộ nhân viên trong ngân hàng.
- Nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, hệ thống thông tin quảng cáo nhằm nâng cao uy tín của ngân hàng đối với người dân và với các khách hàng.
- Tích cực nghiên cứu thị trường, phát hiện các thị trường mục tiêu nhằm thu hút và giữ chân các khách hàng lớn, tiềm năng
- Tích cực,chủ động tham gia “hội nhập nhưng không hoà tan”
KẾT LUẬN
Có thể nói huy động vốn là nhu cầu thiết yếu của bất cứ một ngân hàng nào, là vấn đề quan trọng trong hoạt động ngân hàng. Việc làm chủ các nguồn vốn huy động sẽ giúp các ngân hàng chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì vậy công tác lập kế hoạch cho việc huy động vốn là quan trọng đối với mọi ngân hàng. Trong điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay thì việc huy động vốn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn tiền nhàn rỗi từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội, từ các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính khác trong nền kinh tế để có vốn đầu tư vào các doanh nghiệp, các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, góp phần vào việc tăng trưởng, phát triển kinh tế đất nước. Không những thế việc huy động vốn còn giúp các ngân hàng có thể đứng vững, có thể cạnh tranh được với các ngân hàng khác trong xu thế hội nhập kinh tế như hiện nay. Điều này cũng chính là nguyên nhân khiến cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội quyết định tập trung vào công tác huy động vốn, xây dựng các kế hoạch huy động vốn sao cho đạt hiệu quả cao nhất..., xác định đây chính là một lĩnh vực kinh doanh có tính chất chủ đạo của mình.
Công tác lập kế hoạch huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam cung cấp các thông tin về các hình thức, các phương thức huy động vốn, các phương thức marketing nhằm nâng cao uy tín của ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng....
Do sự trải nghiệm thực tế của em còn ít ỏi, và nhận thức còn hạn hẹp nên bài viết này của em chắc chắn còn nhiều thiếu xót, em mong các thầy cô hướng dẫn, chỉ bảo em để em có nhìn nhận đúng đắn nhất.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân – Giáo trình Khoa học quản lý I - PGS.TS Đoàn Thu Hà, PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền – NXB Khoa học và kỹ thuật – 2004 – Hà Nội
2
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân – Giáo trình Ngân hàng thương mại – PGS.TS Phan Thị Thu Hà –NXB Thống kê – 2006 – Hà Nội
3
Lê Văn Tư - Quản trị Ngân hàng thương mại – NXB Tài chính, 2005
4
PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn - Nghiệp vụ ngân hàng thương mại – NXB Thống kê
5
Vũ Thị Hoa - Luận văn “Giải pháp thực hiện kế hoạch huy động vốn giai đoạn 2006 – 2010 tại ngân hàng đầu tư phát triển Thăng Long” – Khoá 45, khoa Kinh tế phát triển
6
Quyết định số 115/QĐ-HĐQT-KHTH của NHNo & PTNT Việt Nam V/v ban hành Quy định về xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh đối với sở giao dịch, chi nhánh trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam.
7
Các báo cáo tổng kết kết quả hoạt động từ năm 2003 đến năm 2007 của NHNo & PTNT Nam Hà Nội
8
Báo cáo tổng kết chuyên đề về công tác kế hoạch tổng hợp năm 2006, phương hướng mục tiêu và giải pháp năm 2007 của NHNo & PTNT Nam Hà Nội
9
Báo cáo thuyết minh kế hoạch kinh doanh năm 2008 của NHNo & PTNT Nam Hà Nội
10
Quy chế về Tổ chức và hoạt động của Chi nhánh NHNo & PTNT Việt Nam (Ban hành kèm theo Quyết định số 1377/QĐ/HĐQT-TCCB ngày 24 tháng 12 năm 2007 của Hội đồng quản trị NHNo & PTNT Việt Nam)
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20248.doc