Lời mở đầu
Nền kinh tế phát triển càng ngày càng năng động hơn, đây là tính tất yếu của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá và hiện đang phát triển mạnh mẽ, tác động đến toàn bộ lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hay kinh doanh dịch vụ thì giá thành luôn là yếu tố rất quan trọng để doanh nghiệp có thể tái sản xuất và tìm kiếm lợi nhuận. Chi phí và giá thành chính là thước đo mức chi phí tiêu hao phải bù đắp sau mỗi chu kì sản xuất kinh doanh. Vì trước khi quyết đ
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1189 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong Công ty cổ phần Lilama 10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịnh lựa chọn sản xuất bất kì sản phẩm nào thì bản thân doanh nghiệp phải nắm bắt được nhu cầu thị trường, giá cả thị trường và điều tất yếu phải xác định đúng đắn mức chi phí sản xuất, tiêu hao sản phẩm mà doanh nghiệp phải đầu tư. Mặt khác giá thành còn là công cụ quan trọng để doanh nghiệp có thể kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả của các biện pháp tổ chức kĩ thuật. Có thể nói chi phí và giá thành là tấm gương phản chiếu toàn bộ biện pháp, tổ chức quản lý kinh tế, liên quan đến tất cả các yếu tố chi phí trong sản xuất. Đảm bảo việc hạch toán chi phí và giá thành chính xác, kịp thời, phù hợp với đặc điểm hình thành và phát sinh chi phí ở từng doanh nghiệp là yêu cầu có tính xuyên suốt trong quá trình hạch toán. Do đó chi phí và giá thành với các chức năng vốn có của nó đã trở thành mục tiêu kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong quản lý hiệu quả và chất lượng sản xuất kinh doanh. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải vận dụng các phương thức tổ chức, quản lý tổ chức kinh doanh sao cho có hiệu quả để hạ thấp giá thành sản phẩm, giúp doanh nghiệp có thể tự tin đứng vững trên thị trường trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Công ty Cổ phần Lilama 10 là công ty hoạt động nhiều năm trong lĩnh vực xây lắp. Đây là một ngành kinh tế kĩ thuật tổng hợp có vị trí hết sức quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước, là ngành sản xuất vật chất trang bị tài sản cố định, năng lực cho những ngành khác trong nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp xây lắp là đơn vị kinh tế cơ sở, là nơi trực tiếp sản xuất kinh doanh, gồm một tập thể lao động nhất định có nhiệm vụ sử dụng các tư liệu lao động và đối tượng lao động để sản xuất ra các sản phẩm xây lắp phục vụ cho nhu cầu tái sản xuất của nền kinh tế. Đặc điểm nổi bật của ngành xây lắp là vốn đầu tư lớn, thời gian thi công dài nên phải tổ chức nghiệm thu và thanh toán theo từng phần khối lượng công trình chứ không chở đến khi công trình hoàn tất mới thanh toán như trong công nghiệp. Phần lớn số vốn của ngành xây lắp bỏ vào những công trình chưa hoàn thành. Vì vậy phải cố gắng tập trung tiền vốn để rút ngắn thời hạn thi công xây dựng. Những thông tin về chi phí và giá thành đóng một vai trò quan trọng, những thông tin này giúp cho các nhà quản trị phân tích, đánh giá chính xác được tình hình sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn có hiệu quả, từ đó đề ra những biện pháp hạ giá thành nâng cao chất lượng sản phẩm.
Cùng với sự đổi mới trong chế độ kế toán của nhà nước, nhiều bước cải tiến đã được thực hiện trong công tác kế toán cho phù hợp với những thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế, tuy nhiên còn nhiều hạn chế mà bộ phận kế toán của Công ty Cổ phẩn Lilama 10 còn chưa khắc phục kịp thời. Trải qua một khoảng thời gian không dài được học tập và thực tế tại công ty, với sự giúp đỡ của các cán bộ công nhân viên trong phòng kế toán, cũng như việc nhận thức được tầm quan trọng của công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong hoạt động của công ty, em đã chọn đề tài :’’ Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong Công ty Cổ phần Lilama 10”.
PHẦN MỘT: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
Đặc điểm của hoạt động xây lắp ảnh hưởng đến kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất công nghiệp nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân.
Một bộ phận lớn của thu nhập quốc dân, của quỹ tích lũy cùng với vốn đầu tư của nước ngoài được sử dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản.So với các ngành sản xuất khác, ngành XDCB có những đặc điểm về kinh tế - kỹ thuật riêng biệt, thể hiện rất rõ nét ở sản phẩm xây lắp và quá trình tạo ra sản phẩm của ngành. Điều này đã chi phối đến công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc... có quy mô lớn, kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài...Do đó, việc tổ chức quản lý và hạch toán sản phẩm xây lắp phải lập dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công). Quá trình sản xuất xây lắp phải so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo, đồng thời để giảm bớt rủi ro phải mua bảo hiểm cho công trình xây lắp.
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất (xe máy, thiết bị thi công, người lao động...) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý sử dụng, hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết và dễ mất mát hư hỏng...
Sản phẩm xây lắp từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công trình bàn giao đưa vào sử dụng thường kéo dài. Nó phụ thuộc vào quy mô, tính phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc thường diễn ra ngoài trời chịu tác động rất lớn của các nhân tố môi trường như nắng, mưa, lũ lụt...Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý, giám sát chặt chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự toán.
Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu), do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp không thể hiện rõ (vì đã quy định giá cả, người mua, người bán sản phẩm xây lắp có trước khi xây dựng thông qua hợp đồng giao nhận thầu).
Những đặc điểm trên đã ảnh hưởng rất lớn đến kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp. Công tác kế toán vừa phải đáp ứng yêu cầu chung về chức năng, nhiệm vụ kế toán của một doanh nghiệp sản xuất vừa phải đảm bảo phù hợp với đặc thù của loại hình doanh nghiệp xây lắp
Vai trò, nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
Nền kinh tế thị trường hiện nay đang phát triển có sự điều tiết của nhà nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá theo quy luật cung - cầu. Vì vậy doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải có chỗ đứng vững vàng trên thị trường, phải không ngừng chiếm lĩnh và mở rộng thị trường. Đối với các doanh nghiệp xây lắp, các công trình phải hoàn thành đúng thời hạn, chất lượng đảm bảo, giá thành hợp lý. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải chú trọng tốt công tác kế toán chi phí sản xuất và tính toán chính xác giá thành sản phẩm. Công tác kế toán này được chú trọng sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với bản thân doanh nghiệp, với nhà nước và cả với các bên có liên quan.
Đối với doanh nghiệp, nếu làm tốt công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sẽ giúp doanh nghiệp nhận thức đúng đắn thực trạng của quá trình sản xuất, quản lý và cung cấp thông tin kịp thời chính xác cho các cán bộ quản lý để có biện pháp phù hợp nhằm tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Có như vậy doanh nghiệp mới tăng lợi thế cạnh tranh, đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả cũng như có sự chủ động về tài chính.
Đối với nhà nước công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đến thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp cho nhà nước. Mặt khác với các doanh nghiệp mà nhà nước đầu tư vốn thì nhà nước cần quan tâm xem vấn đề sử dụng vốn như thế nào.
Công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm còn ảnh hưởng cả đến bên thứ ba, đó chính là ngân hàng, nhà đầu tư, khách hàng…để bản thân họ thực hiện các quyết định đầu tư phù hợp, có lợi cho bản thân.
Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm còn có vai trò quan trọng trong doanh nghiệp xây lắp, xét trên góc độ quản lý. Thông qua chỉ tiêu giá thành doanh nghiệp có thể đánh giá được hiệu quả của quá trình sản xuất, chứng minh được khả năng phát triển và việc sử dụng các yếu tố vật chất đã thực sự hợp lý hay chưa. Ngoài ra nó còn cho biết chất lượng của sản phẩm cũng như trình độ tổ chưc sản xuất, các biện pháp kinh tế kĩ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
Theo quy định hiện hành trong xây dựng cơ bản hiện nay, chỉ áp dụng hình thức đấu thầu và chỉ định thầu, không áp dụng hình thức giao thầu. Vì vậy để trúng thầu xây dựng thi công một công trình thì phải xây dựng một giá thầu hợp lý cho công trình đó dựa trên định mức đơn giá xây dựng do nhà nước ban hành trên cơ sở giá thành của doanh nghiệp đồng thời phải đảm bảo kinh doanh có lãi. Muốn đạt được những điều trên, kế toán cần thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:
Phàn ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời toàn bộ chi phí sản xuất thực tế phát sinh
Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức chi phí vật tư, lao động, sử dụng máy thi công và các chi phí khác phát sinh ngoài dự toán, các khoản thiệt hại, mất mát, hư hỏng.
Kiểm tra việc tính toán chi phí và giá thành cho từng hạng mục công trình, công trình, từng sản phẩm và lao vụ, vạch ra cac biện pháp hạ tổng giá thành một cách hợp lý.
Xác định đúng đắn công tác xây lắp đã hoàn thành, từ đó làm cơ sở bàn giao và thanh toán giá trị trong công việc đó. Định kì kiểm tra và đánh giá giá thành thi công dở dang theo nguyên tắc đã được quy định
Bản chất và nội dung kinh tế của kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm
Khái niệm và phân loại chi phí sản xuất
2.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kì nhất định
Theo kế toán tài chính, chi phí được nhận thức như những khoản phí tổn thực tế phát sinh gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp để đạt được một sản phẩm, một dịch vụ, của cải nhất định.
Theo kế toán quản trị, chi phí có thể là dòng phí tổn thực tế gắn liền với hoạt động sản xuất hàng ngày khi tổ chức thực hiện, kiểm tra, ra quyết định, chi phí cũng có thể là dòng phí tổn ước tính để thực hiện dự án, những phí tổn mất đi do chọn lựa phương án, hy sinh cơ hội kinh doanh.
Trong kinh doanh, ngoài những chi phí có tính chất sản xuất còn có thể phát sinh những chi phí không có tính chất sản xuất. Để hiểu đúng khái niệm trên ta cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu của doanh nghiệp. Chi tiêu là sự chi ra, sự giảm đi thuần tuý của tài sản không kể các khoản đó đã dùng vào việc gì và dùng như thế nào. Như vậy, chi phí sản xuất chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải là mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào việc gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp gồm: Chi tiêu cho quá trình cung cấp ( chi mua sắm vật tư, hàng hoá…), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh( chi cho sản xuất, chi cho chế tạo sản phẩm, cho công tác quản lý) và chi tiêu cho cho quá trình tiêu thụ sản phẩm( chi cho vận chuyển, bốc dỡ, chi cho quảng cáo…). Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí.
2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh có rất nhiều loại, nhiều khoản, khác nhau về nội dung, tính chất…trong quá trình kinh doanh. Xuất phát từ các mục đích và yêu cầu khác nhau của quản lý, chi phí sản xuất cũng được phân loại theo những tiêu thức khác nhau.
Xét về mặt lý luận và thực tiễn, có rất nhiều cách phân loại chi phí khác nhau như phân theo nội dung kinh tế, theo công dụng, theo vị trí, theo quan hệ của chi phí với quá trình sản xuất…Mỗi cách phân loại này đều đáp ứng ít nhiều cho mục đích quản lý, hạch toán, kiểm tra, kiểm soát chi phí phát sinh…ở các góc độ phát sinh. Vì thế các cách phân loại đều tồn tại, bổ sung cho nhau và giữ vai trò nhất định trong quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
2.1.2.1. Phân loại chi phí theo tính chất và nội dung của kinh tế (yếu tố)
Căn cứ để phân loại: căn cứ vào tính chất, nội dung của chi phí- không phân biệt chi phí thuộc chức năng kinh doanh nào.
Các loại chi phí: có 7 yếu tố chi phí như sau:
Yếu tố chi phí nguyên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ…sử dụng vào sản xuất- kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
Yếu tố chi phí nhiên liệu, động lực được sử dụng vào quá trình sản xuất- kinh doanh trong kì (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
Yếu tố chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương: phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho toàn bộ công nhân, viên chức.
Yếu tố chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn: phản ánh phần bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn trích theo tỉ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho công nhân viên.
Yếu tố chi phí khấu hao tài sản cố định: phản ánh tổng số khấu hao tài sản cố định phải trích trong kì của tất cả tài sản cố định sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kì.
Yếu tố chi phí dịch vụ kinh doanh mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh.
Yếu tố chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh ở các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kì.
Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố có tác dụng cho biết nội dung, kết cấu, tỷ trọng từng loại chi phí đã sử dụng vào quá trình sản xuất trong tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Số liệu chi phí sản xuất theo yếu tố là cơ sở để xây dựng các dự toán chi phí, xác định nhu cầu về vốn, xây dựng các kế hoạch về lao động, vật tư, tài sản…trong doanh nghiệp. Nó còn là cơ sở để phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, cung cấp số liệu lập thuyết minh BCTC ( phần sản xuất kinh doanh theo yếu tố ) từ đó để tính và tổng hợp thu nhập quốc dân.
2.1.2.2. Phân loại chi phí theo khoản mục
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu…dùng trực tiếp cho thi công xây lắp như: gỗ, gạch, đá,đinh, kẽm, than, củi, dầu lửa, bê tông đúc sẵn, thiết bị vệ sinh, thiết bị thông gió, chiếu sáng, truyền dẫn…
Chi phí nhân công trực tiếp: tiền lương, phụ cấp, khoản phải trả khác cho công nhân trực tiếp thi công. Chi phí nhân công trực tiếp không bao gồm khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của công nhân trực tiếp xây lắp.
Chi phí sử dụng máy thi công: chi phí liên quan đến hoạt động của máy thi công- nhiên liệu, tiền lương, phụ cấp của công nhân điều khiển máy, khấu hao, bảo dưỡng, sửa chữa…Chi phí sử dụng máy thi công không bao gồm khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của công nhân điều khiển và phục vụ máy thi công.
Chi phí sản xuất chung: chi phí tổ chức phục vụ xây lắp phát sinh trong phạm vi công trường xây dựng, như tiền lương nhân viên quản lý dựng, công cụ dụng cụ thi công, chi phí lán trại tạm thời, điện nước, điện thoại, tài liệu kĩ thuật, khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của công nhân trực tiếp xây lắp, công nhân điều khiển và phục vụ máy thi công và nhân viên quản lý xây dựng.
Cách phân loại chi phí sản xuất này có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định địa điểm sử dụng chi phí, công dụng của từng khoản mục chi phí và mức phân bổ từng khoản chi phí đó giúp cho việc xác định chỉ tiêu giá thành được nhanh chóng và kịp thời.
2.1.2.3. Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với mức độ hoạt động
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí đồng thời làm căn cứ ra quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất được phân loại theo mối quan hệ với công việc hoàn thành. Việc phân loại này có tác dụng cung cấp thông tin để hoạch định và kiểm soát chi phí, nghiên cứu mối quan hệ chi phí- khối lượng- lợi nhuận, phân tích điểm hoà vốn để ra quyết định kinh doanh; cung cấp thông tin để kiểm soát hiệu quả hoạt động kinh doanh theo dạnh số dư đảm phí (kế toán quản trị).
Biến phí: là những chi phí thay đổi tỷ lệ với mức độ hoạt động của doanh nghiệp. Xét về tổng số, biến phí thay đổi tỷ lệ thuận với khối lượng hoạt động. Còn xét trên một khối lượng hoạt động thì biến phí thường là hằng số đối với mọi mức hoạt động. Trong doanh nghiệp xây lắp, biến phí gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công.
Định phí: là những chi phí mà về tổng số không thay đổi khi có sự thay đổi mức độ hoạt động của đơn vị. Về tổng số thì chi phí cố định không thay đổi, nhưng ngược lại nếu xét trên một đơn vị khối lượng hoạt động thì nó tỷ lệ nghịch với mức độ hoạt động
Chi phí hỗn hợp: là loại chi phí mà bản thân nó gồm cả các yếu tố của biến phí và định phí. Xét ở mức độ hoạt động căn bản chi phí hỗn hợp thường thể hiện các đặc điểm của định phí, còn ở mức độ vượt quá mức căn bản thì nó thể hiện đặc điểm của biến phí
2.1.2.4. Phân loại chi phí theo khả năng quy nạp
Chi phí trực tiếp: là những chi phí liên quan trực tiếp đến từng đối tượng kế toán tập hợp chi phí như một loại sản phẩm, một hoạt động hay một địa điểm nhất định và có thể hạch toán trực tiếp cho sản phẩm, công việc đó.
Chi phí gián tiếp: là các chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng kế toán tập hợp chi phí, không thể quy nạp trực tiếp cho từng đối tượng kế toán chi phí được, mà phải tập hợp theo từng nơi phát sinh chi phí, sau đó quy nạp cho từng đối tượng ( sản phẩm, hoạt động hay một địa điểm nhất định) theo phương pháp phân bổ gián tiếp.
Ngoài các cách phân loại ở trên thì còn rất nhiều các cách phân loại chi phí sản xuất khác như: chi phí ban đầu và chi phí chuyển đổi, chi phí cơ bản và chi phí chung, chi phí năm trước và chi phí năm nay.
2.2. Khái niệm và phân loại giá thành sản phẩm
2.2.1. Khái niệm giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí bằng tiền để hoàn thành khối lượng xây lắp theo quy định
Tất cả những khoản chi phí (bao gồm phát sinh trong kì, kì trước chuyển sang) và các chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành trong kì sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra bất kể ở kì nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong kì.
2.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm
Do những nét đặc thù riêng của ngành xây lắp nên việc phân loại giá thành sản phẩm xây lắp cũng có những loại giá thành khác nhau như sau:
2.2.2.1. Giá thành dự toán công trình xây lắp
Là tổng số chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây lắp công trình.Sản phẩm xây lắp của ngành xây dựng cơ bản thường có giá trị lớn, thời gian thi công dài, mang tính đơn chiếc, kết cấu phức tạp, quy mô lớn. Đồng thời việc đầu tư xây dựng mỗi công trình đều có liên quan đến vốn đầu tư cho công trình đó. Vì vậy, mỗi giai đoạn thiết kế có một dự toán tương ứng chính xác và cụ thể phù hợp với nội dung của từng giai đoạn đó. Giá thành dự toán được áp dụng theo định mức và khung giá quy định áp dụng cho từng vùng lãnh thổ. Giá thành dự toán nhỏ hơn giá trị dự toán công trình ở phần thu nhập chịu thuế tính trước và thuế giá trị gia tăng đầu ra (thu nhập chịu thuế tính trước được tính theo tỉ lệ quy định của nhà nước).
Giá trị dự toán công trình, hạng mục công trình
=
Giá thành dự toán công trình, hạng mục công trình
+
Thu nhập chịu thuế tính trước
+
Thuế GTGT đầu ra
2.2.2.2. Giá thành kế hoạch công tác xây lắp
Là giá thành xác định xuất phát từ những điều kiện cụ thể ở mỗi đơn vị xây lắp trên cơ sở biện pháp thi công, các định mức, đơn giá áp dụng trong đơn vị. Giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở những định mức tiên tiến về đơn giá, biện pháp tổ chức thi công của nội bộ doanh nghiệp. Từng công việc đều được đánh giá xây dựng định mức tiêu hao nguyên vật liệu và lao động dựa trên định mức quy định của nhà nước, nó phản ánh trình độ quản lý giá thành của doanh nghiệp, đồng thời là cơ sở để doanh nghiệp phấn đấu hạ giá thành sản phẩm của mình.
Giá thành kế hoạch thường nhỏ hơn giá thành dự toán ở mức hạ giá thành kế hoạch:
Giá thành kế hoạch công tác xây lắp
=
Giá thành dự toán công tác xây lắp
_
Mức hạ giá thành kế hoạch
2.2.2.3. Giá thành thực tế công tác xây lắp
Là toàn bộ các chi phí thực tế để hoàn thành bàn giao khối lượng xây, lắp mà đơn vị đã nhận thầu, giá thành thực tế được xác định theo số liệu kế toán.
Giá thành thực tế công tác xây lắp không chỉ bao gồm những chi phí trong định mức mà còn có thể bao gồm cả những chi phí khác phát sinh như: thiệt hại phá đi làm lại, thiệt hại ngừng sản xuất, mất mát, hao hụt vật tư do nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp.
Ba loại giá thành trên thường có mối quan hệ về lượng như sau:
Giá thành dự toán ≥ Giá thành kế hoạch ≥ Giá thành thực tế
2.3 Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với nhau vì nội dung cơ bản của chúng là biểu hiện bằng tiển của hao phí về lao động sống và lao động vật hoá
Nếu xét về lượng hao phí thì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có sự khác nhau, sự khác nhau này xuất phát từ quá trình sản xuất, kết quả của quá trình sản xuất và kì tính giá thành ở những quy trình sản xuất sản phẩm.
Chi phí sản xuất gắn liền với những thời kì đã phát sinh chi phí, còn giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành không phân biệt là chi phí đó đã chi ra kì trước hay kì này.
Chi phí sản xuất trong kì không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm dở dang cuối kì và sản phẩm hỏng, còn giá thành không liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kì trước chuyển sang.
Sơ đồ 1: Mối quan hệ chi phí sản xuất và giá thành sản xuất sản phẩm.
Chi phí sản xuất
Giá thành sản xuất sản phẩm
Cùng nội dung kinh tế: Hao phí của các nguồn lực
Liên quan với thời kì sản xuất
Liên quan với khối lượng thành phẩm
Riêng biệt của từng kì sản xuất
Có thể là chi phí sản xuất của nhiều kì
Liên quan đến thành phẩm, sản phẩm dở dang
Liên quan với thành phẩm
Kế toán chi phí sản xuất
Đối tượng và phương pháp kế toán chi phí sản xuất
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là phạm vi, giới hạn để tập hợp chi phí. Xác định đối tượng tập hợp chi phí là xác định nơi phát sinh chi phí và đối tượng chịu chi phí.
Việc xác định đúng đắn đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có ý nghĩa quan trọng trong việc tập hợp chi phí cũng như đảm bảo tính chính xác kịp thời trong việc xác định giá thành sản phẩm xây lắp.
Xuất phát từ đặc điểm sản xuất trong kinh doanh xây lắp, có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp, sản phẩm được sản xuất đơn chiếc riêng lẻ, theo đơn đặt hàng và việc tổ chức sản xuất được phân chia thành nhiều công trường, nhiều khu vực thi công nên đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là: đơn đặt hàng, sản phẩm hay nhóm sản phẩm, giai đoạn công việc, khu vực thi công.
Theo sản phẩm hay đơn đặt hàng
Sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp là công trình, hạng mục công trình, hạng mục công trình hoàn thành. Hàng tháng, chi phí sản xuất phát sinh có liên quan đến công trình, hạng mục công trình nào thì được tập hợp vào đối tượng đó một cách thích hợp.
Theo bộ phận sản phẩm.
Bộ phận xây dựng cơ bản là các giai đoạn xây lắp của công trình, hạng mục công trình có dự toán riêng.
Hàng tháng, chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp cho từng giai đoạn xây lắp có liên quan.
Khi hoàn thành, tổng cộng chi phí theo các giai đoạn chính là giá thành Z sản phẩm xây lắp.
Theo nhóm sản phẩm
Được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp xây lắp cùng lúc thi công một số công trình, hạng mục công trình theo cùng một thiết kế (hoặc thiết kế gần giống nhau) theo phương thức thi công nhất định và trên cùng một địa điểm.
Hàng tháng, chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp theo từng nhóm sản phẩm.
Khi hoàn thành toàn bộ, kế toán phải xác định Z đơn vị sản phẩm hoàn thành.
Theo giai đoạn công nghệ.
Được áp dụng đối với doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất cấu kiện lắp sẵn. Trong các doanh nghiệp đó, toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm được chia ra thành nhiều giai đoạn công nghệ, vật liệu được chế biến liên tục từ khâu đầu cho đến khâu cuối theo một trình tự nhất định.
3.2. Tổ chức kế toán chi tiết chi phí sản xuất, chứng từ thanh toán và tài khoản sử dụng
Trong doanh nghiệp xây lắp, đối tượng hạch toán chi phí là từng công trình, hạng mục công trình, đơn đặt hàng…kế toán phải tổ chức việc lập chứng từ kế toán cho từng đối tượng tập hợp chi phí ( đối với những chi phí trực tiếp), còn những chi phí chung theo khoản mục chi phí chung để tập hợp chi phí và phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí theo tiêu thức hợp lý. Đồng thời, kế toán cần mở sổ chi tiết từng tài khoản chi phí đáp ứng yêu cầu theo dõi từng khoản mục chi phí và từng đối tượng tập hợp chi phí như sổ chi tiết TK 621 công trình A, sổ chi tiết TK 621 công trình B…
Chứng từ thanh toán: Để tập hợp các chi phí sản xuất xây lắp phát sinh, kế toán sử dụng các chứng từ như: các chứng từ thuộc về yếu tố chi phí như vật tư (phiếu xuất kho), tiền lương (bảng thanh toán lương), khấu hao tài sản cố định (bảng tính và phân bổ khấu hao), tiền mặt (phiếu chi, giấy đề nghị tạm ứng), tiền gửi ngân hàng (giấy báo có, giấy báo nợ, uỷ nhiệm chi)…
Tài khoản sử dụng
Tài khoản 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: dùng để phản ánh chi phí nguyên vật liệu phát sinh liên quan trực tiếp đến việc xây lắp hay lắp đặt công trình. Tài khoản 621 được mở chi tiết cho từng đối tượng hạch toán chi phí tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý của doanh nghiệp, chẳng hạn công trình, hạng mục công trình, các giai đoạn thi công , nhóm hạng mục công trình…
Tài khoản 622- Chi phí nhân công trực tiếp:phản ánh tiền lương phải trả như tiền lương, tiền công, tiền thưởng, phụ cấp…cho công nhân tham gia trực tiếp vào quá trình xây lắp gồm cả công nhân do doanh nghiệp quản lý và cả lao động thuê ngoài. Đối với hoạt động xây lắp, tài khoản này không phản ánh các khoản trích theo lương như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí côn g đoàn. Tài khoản 622 cũng được mở chi tiết theo đối tượng hạch toán chi phí giống như tài khoản 621.
Tài khoản 623- Chi phí sử dụng máy thi công: dùng để tập hợp và phân bổ chi phí sử dụng máy thi công như máy đào đất, xúc đất, trộn bê tông …phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây lắp công trình trong trường hợp doanh nghiệp xây lắp công trình theo phương thức thi công hỗn độn vừa thủ công vừa kết hợp bằng máy. Trường hợp doanh nghiệp thi công xây lắp công trình hoàn toàn bằng máy thì mọi chi phí cho hoạt động không sử dụng tài khoản 623- chi phí sử dụng máy thi công mà hạch toán trực tiếp vào các tài khoản 621, 622, 627. Ngoài ra không hạch toán vào tài khoản 623 các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn tính theo lương của công nhân điều khiển, sử dụng máy thi công. Tài khoản 623 có 6 tài khoản cấp 2:
Tài khoản 6231-chi phí nhân công: phản ánh lương chính, lương phụ, phụ cấp lương phải trả cho công nhân trực tiếp điều khiển, phục vụ xe, máy thi công.
Tài khoản 6232-chi phí vật liệu: phản ánh chi phí nhiên liệu, vật liệu khác phục vụ xe, máy thi công.
Tài khoản 6233- chi phí sử dụng công cụ sản xuất: phản ánh chi phí công cụ, dụng cụ lao động sử dụng cho máy thi công.
Tài khoản 6234- chi phí khấu hao máy thi công.
Tài khoản 6237- chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh chi phí dịch vụ mua ngoài như thuê ngoài sửa chữa xe, máy thi công , bảo hiểm xe, máy thi công, chi phí phải trả cho nhà thầu phụ…
Tài khoản 6238- chi phí khác bằng tiền
Tài khoản 627- chi phí sản xuất chung: phản ánh chi phí phục vụ công trình thi công xây lắp phát sinh ở các bộ phận, đội sản xuất thi công xây lắp. TK 627 được mở chi tiết cho từng bộ phận xây lắp. Tài khoản 627 có 6 tài khoản cấp 2
Tài khoản 6271- chi phí nhân viên phân xưởng: phản ánh tiền lương, phụ cấp, tiền ăn giữa ca nhân viên quản lý đội xây dựng, công trường xây dựng, các khoản trích theo lương theo tỉ lệ quy định của công nhân trực tiếp xây lắp, công nhân sử dụng máy thi công, nhân viên phục vụ trên công trường và nhân viên quản lý đội xây dựng ( thuộc biên chế của doanh nghiệp).
Tài khoản 6272- chi phí vật liệu phục vụ thi công
Tài khoản 6273- chi phí công cụ dụng cụ phục vụ thi công.
Tài khoản 6274- chi phí khấu hao tài sản cố định thuộc phạm vi công trường.
Tài khoản 6277- chi phí dịch vụ mua ngoài.
Tài khoản 6278- chi phí khác bằng tiền.
Tài khoản 154- chi phí sản xuất kinh doanh dở dang: dùng để tổng hợp chi phí sản xuất phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên. Tài khoản 154 được mở chi tiết theo đối tượng hạch toán chi phí, ví dụ chi tiết theo từng công trình, từng hạng mục công trình… Tài khoản 154 có 4 tài khoản cấp 2:
Tài khoản 1541- xây lắp: tổng hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm xây lắp và phản ánh giá trị sản phẩm xây lắp dở dang cuối kì.
Tài khoản 1542- sản phẩm khác: tổng hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm khác và phản ánh giá trị sản phẩm khác dở dang cuối kì ( cấu kiện xây lắp).
Tài khoản 1543- dịch vụ: tổng hợp chi phí sản xuất, tính giá thành dịch vụ và phản ánh dịch vụ dở dang cuối kì.
Tài khoản 1544- chi phí bảo hành xây lắp: dùng để tổng hợp chi phí bảo hành công trình xây dựng, lắp đặt thực tế phát sinh trong kì và giá trị công trình bảo hành xây lắp còn dở dang cuối kì.
Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là những chi phí về vật liệu chính, vật liệu phụ, các cấu kiện, các bộ phận kết cấu công trình, vật liệu luân chuyển tham gia cấu thành thực thể công trình xây lắp hoặc giúp cho việc thực hiện và hoàn thành khối lượng xây lắp như: Sắt thép, xi măng, tấm xi măng đúc._. sẵn, gạch, gỗ, cát, đá, sỏi, kèo sắt, cốp pha, đà giáo...Nó không bao gồm vật liệu, nhiên liệu sử dụng cho máy thi công và sử dụng cho quản lý đội công trình.
Chi phí vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá thành công tác xây lắp. Do vậy, việc hạch toán chính xác chi phí vật liệu có ý nghĩa quan trọng để xác định lượng tiêu hao vật chất trong sản xuất cũng như tính chính xác, hợp lý của giá thành sản phẩm xây lắp.
Hạch toán CPNVLTT, kế toán phải tôn trọng những quy định có tính nguyên tắc sau:
Vật liệu sử dụng cho xây dựng công trình, hạng mục công trình nào thì tính trực tiếp cho công trình hạng mục công trình đó trên cơ sở các chứng từ gốc có liên quan, theo số lượng thực tế đã sử dụng và theo trị giá thực tế xuất kho.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm cả giá trị vật kết cấu và thiết bị kèm theo- đèn, quạt, thiết bị vệ sinh, thông gió…
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp không bao gồm giá trị thiết bị của chủ đầu tư giao để lắp đặt
Cuối kỳ hạch toán hoặc khi công trình đã hoàn thành, phải tiến hành kiểm kê số vật liệu chưa sử dụng hết ở các công trường, ở các bộ phận sản xuất để tính số vật liệu thực tế sử dụng cho công trình, đồng thời phải hạch toán đúng số phế liệu thu hồi ( nếu có ) theo từng đối tượng công trình.
Trong điều kiện vật liệu sử dụng cho việc xây dựng nhiều hạng mục công trình thì kế toán áp dụng phương pháp phân bổ để tính chi phí vật liệu trực tiếp cho từng đối tượng hạng mục công trình theo tiêu tức hợp lý như: định mức tiêu hao, chi phí vật liệu trực tiếp theo dự toán. Ví dụ có thể tỷ lệ với mức tiêu hao:
Chi phí vật liệu phân bổ cho từng đối tượng
=
Tổng chi phí vật liệu cần phân bổ
x
Tỷ lệ phân bổ
Trong đó:
Tỉ lệ hay hệ
số phân bổ
Tổng chi phí vật liệu cần phân bổ
Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng
Trong kế toán chi phí nguyên vật liệu, kế toán phải sử dụng triệt để hệ thống định mức tiêu hao vật liệu áp dụng trong xây dựng cơ bản và phải tác động tích cực để không ngừng hoàn thiện hệ thống định mức đó.
TK 152
TK 632
TK 111, 112, 331
( nếu có)
Thuế GTGT
TK 133
Mua vật liệu dùng trực tiếp chế tạo sản phẩm
TK 152
Xuất kho VL sử dụng trực tiếp cho chế tạo SP
TK 154
CP NVL vượt trên mức bình thường
TK 621
Cuối kỳ tính,phân bổ kết chuyển CPNVLTT
VL dùng không hêt
nhập kho cho kỳ sau
Sơ đồ 2: Hạch toán tổng hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
3.4. Kế toán nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản thù lao phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như tiền lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương (phụ cấp khu vực, đắt đỏ, độc hại, phụ cấp làm thêm).
Kế toán CPNCTT của hoạt động xây lắp phải tôn trọng những quy định sau:
Tiền lương, tiền công phải trả cho công nhân liên quan đến công trình, hạng mục công trình nào thì phải hạch toán trực tiếp cho công trình, hạng mục công trình đó trên cơ sở các chứng từ gốc về lao động và tiền lương. Trong điều kiện sản xuất xây lắp không cho phép tính trực tiếp chi phí nhân công cho từng công trình thì kế toán phải phân bổ chi phí nhân công trực tiếp cho các đối tượng theo các tiêu thức như: tiền lương định mức hay giờ công định mức.
Đối với các khoản chi phí trích theo tiền lương phải trả của công nhân trực tiếp xây lắp ( BHXH, BHYT, KPCĐ ) thì được tính vào chi phí sản xuất chung của hoạt động xây lắp.
TK 334
Tiền lương và phụ cấp
Lương phải trả CNV
TK 335
Trích trước tiền lương nghỉ phép
của CN trực tiếp sản xuất
TK 141
Tạm ứng để thực hiện giá trị
giao khoán nội bộ
TK 622
Cuối kỳ tính, phân bổ, kết chuyển CPNCTT
TK 154
TK 632
Chi phí NCTT vượt trên mức bình thường
Sơ đồ 3: Kế toán tổng hợp chi phí nhân công trực tiếp
3.5. Kế toán chi phí sử dụng máy thi công
Máy thi công là các loại xe máy chạy bằng động lực (điện, xăng dầu, khí nén…) được sử dụng trực tiếp để thi công xây lắp công trình như: máy trộn bê tông, cần cẩu, máy đào xúc đất, máy ủi, máy đóng cọc…
CPSDMTC là toàn bộ chi phí về vật liệu, nhân công và các chi phí khác có liên quan đến sử dụng máy thi công và được chia thành hai loại: chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời.
Chi phí thường xuyên: là những chi phí phát sinh trong quá trình sử dụng máy thi công được tính thẳng vào chi phí của ca máy như: tiền lương của công nhân trực tiếp điều khiển hay phục vụ xe máy, chi phí về nhiên liệu, động lực, vật liệu dùng cho máy thi công, khấu hao và sửa chữa thường xuyên xe máy thi công, tiền thuê xe máy thi công…
Chi phí tạm thời: Là những chi phí phải phân bổ dần theo thời gian sử dụng máy thi công như: chi phí tháo lắp, vận chuyển, chạy thử máy thi công khi di chuyển từ công trình này đến công trình khác; chi phí về xây dựng, tháo dỡ công trình tạm thời loại nhỏ như: lều, lán phục vụ cho sử dụng máy thi công. Những chi phí này có thể phân bổ dần hoặc trích trước theo kế hoạch cho nhiều kỳ.
Kế toán CPSDMTC cần tôn trọng những quy định sau:
Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công phải phù hợp với hình thức quản lý, sử dụng máy thi công của doanh nghiệp, thông thường có hai hình thức quản lý, sử dụng máy thi công là: tổ chức máy thi công riêng biệt chuyên thực hiện các khối lượng thi công bằng máy hoặc giao máy thi công cho các đội, xí nghiệp xây lắp.
Nếu doanh nghiệp xây lắp tổ chức đội máy thi công riêng biệt thì tuỳ thuộc vào đội máy có tổ chức kế toán riêng hay không mà CPSDMTC được hạch toán phù hợp. Nếu đội máy có tổ chức kế toán riêng thì chi phí sử dụng máy và giá thành của ca máy hoặc khối lượng do máy đã hoàn thành được hạch toán giống như bộ phận sản xuất phụ. Chi phí sử dụng máy thi công tính cho các công trình, hạng mục công trình có thể tính theo giá thành thực tế của ca máy hoặc khối lượng do máy đã hoàn thành hay tính theo giá khoán nội bộ.
Nếu doanh nghiệp xây lắp không tổ chức đội máy thi công riêng biệt mà giao máy cho các đội, xí nghiệp xây lắp sử dụng thì chi phí sử dụng máy phát sinh ( kể cả chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời ) được hạch toán vào TK 623 – Chi phí sử dụng máy thi công.
Chi phí sử dụng máy thi công phải được hạch toán chi tiết theo từng loại máy hoặc nhóm máy thi công, đồng thời phải chi tiết theo các khoản mục quy định.
Tính toán, phân bổ chi phí sử dụng máy thi công cho các đối tượng sử dụng ( công trình, hạng mục công trình ) phải dựa trên cơ sở giá thành 1 giờ/máy, giá thành 1ca/máy hoặc 1 đơn vị khối lượng công việc thi công bằng máy hoàn thành
Trường hợp doanh nghiệp xây lắp không tổ chức đội máy thi công riêng biệt
TK 632
CPSDMTC vượt trên mức bình thường
TK 152,153,142,
111,112,331
TK 623
Xuất kho hoặc mua ngoài NVL, CCDC
sử dụng cho máy thi công
Cuối kỳ phân bổ, kết chuyển CPSDMTC vào từng công trình,HMCT
TK 154
TK 133
VAT(nc)
Khấu hao máy thi công
TK 214
CPDVmua ngoài,CP bằng tiền khác
phát sinh liên quan đến máy thi công
TK 331,111,112
Tiền lương phải trả công nhân
điều khiển máy
TK 334
TK 133
VAT(nc)
Phân bổ dần CP trả trước
CP phải trả
TK 142,242,335
Sơ đồ 4.1 Tổng hợp chi phí sử dụng máy thi công
Trường hợp doanh nghiệp xây lắp tổ chức đội máy thi công riêng biệt
Sơ đồ 4.2. Tổng hợp chi phí sử dụng máy thi công
TK 627
TK 111,152
TK 334,338
Chi phí nhân viên
TK 152,153
Chi phí vật liệu, dụng cụ
TK 154
Các khoản giảm chi phí
sản xuất chung
Kết chuyển chi phí
sản xuất chung
TK 214
Khấu hao TSCĐ
TK 142,335
CP phân bổ dần, CP trích trước
CP phải trả
TK 111,112.141,331
Cp dịch vụ mua ngoài
CP bằng tiền khác
TK 133
Thuế GTGT đầu vào
không được khấu trừ
nếu được tính vào CPSXC
TK 632
CPSXC cố định không được tính vào GTSP mà tính vào GVHB
3.6. Kế toán chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. Chi phí sản xuât chung bao gồm nhiều khoản chi phí khác nhau có mối quan hệ gián tiếp đối với các đối tượng xây lắy như: tiền lương nhân viên quản lý đội xây dựng, các khoản trích bảo hiểm xã hội , bảo hiểm y tế , kinh phí công đoàn phải trả cho công nhân trực tiếp xây dựng, công nhân SDMTC và nhân viên quản lý đội, khoản khấu hao TSCĐ và những chi phí khác liên quan đến hoạt động chung của đội.
Kế toán chi phí sản xuất chung cần tôn trọng những quy định sau:
Phải tổ chức hạch toán CPSXC theo từng công trình, hạng mục công trình, đồng thời phải chi tiết theo các điều khoản quy định.
Thường xuyên kiểm tra tình hình thực hiện các dự toán CPSXC và các khoản giảm chi phí sản xuất chung.
Khi thực hiện khoán các chi phí sản xuất chung cho các đội xây dựng phải quản lý tốt chi phí đã giao khoán, từ chối không thanh toán cho các đội nhận khoán số chi phí sản xuất chung ngoài dự toán, bất hợp lý.
Trường hợp chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều đối tượng xây lắp khác nhau, kế toán phải tiến hành phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng liên quan theo các tiêu thức hợp lý như: chi phí nhân công trực tiếp hoặc chi phí sản xuất chung theo dự toán.
3.7. Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang cuối kì
Chi phí sản xuât xây lắp tập hợp theo từng khoản mục: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung trên các tài khoản 621, 622, 623, 627 sẽ được kết chuyển vào TK 154- chi phí sản xuất kinh doanh dở dang để tổng hợp chi phí sản xuất phát sinh. Khi có khối lượng công tác xây lắp hoàn thành bàn giao thì doanh nghiệp tiến hành tính Z thực tế sản phẩm xây lắp hoàn thành bàn giao.
Sản phẩm dở dang trong xây dựng cơ bản được xác định hàng tháng bằng phương pháp kiểm kê, đánh giá vào ngày cuối tháng. Trong biên bản kiểm kê cần ghi rõ khối lượng sản phẩm dở dang thuộc đối tượng xây lắp nào, mức độ hoàn thành như thế nào.
Tuỳ thuộc vào phương thức giao nhận thầu giữa A và B, kế toán có thể áp dụng một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang sau:
Xác định theo chi phí thực tế phát sinh: đối với những công trình, hạng mục công trình được quy định thanh toán một lần sau khi hoàn thành toàn bộ thì sản phẩm dở dang là tổng chi phí phát sinh từ lúc khởi công cho đến cuối tháng đó
Xác định theo tỉ lệ hoàn thành sản phẩm: đối với những công trình, hạng mục công trình được quy định thanh toán theo giai đoạn quy ước thì sản phẩm dở dang là các giai đoạn xây lắp chưa hoàn thành và được đánh giá theo chi phí thực tế trên cơ sở phân bổ chi phí thực tế đã phát sinh cho các giai đoạn xây lắp đã hoàn thành và chưa hoàn thành căn cứ vào giá thành dự toán và mức độ hoàn thành của chúng.
Chi phí dở dang đầu kì
Chi phí phát sinh tron kì
Tổng chi phí theo giá dự toán của khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao và khối lượng dở dang cuối kì của các giai đoạn
Hệ số phân bổ chi phí thực tế hoàn thành theo các giai đoạn
Xác định theo đơn giá dự toán: đối với những công trình, hạng mục công trình được quy định thanh toán định kì theo khối lượng của từng loại công việc, bộ phận kết cấu trên cơ sở đơn giá dự toán thì sản phẩm dở dang là những khối lượng công việc chưa hoàn thành và được đánh giá theo chi phí thực tế.
4. Kế toán tính giá thành sản phẩm
4.1. Đối tượng và kì tính giá thành
Đối tượng tính giá thành trong doanh nghiệp xây lắp là sản phẩm hoàn chỉnh và sản phẩm hoàn thành theo giai đoạn quy ước
Sản phẩm hoàn chỉnh (theo đơn đặt hàng)
Là các công trình, hạng mục công trình đã xây lắp xong đến giai đoạn cuối cùng của toàn bộ quy trình công nghệ và chuẩn bị bàn giao cho đơn vị sử dụng
Giá thành sản phẩm hoàn chỉnh là thước đo bù đắp chi phí đã bỏ ra nhưng khôn đáp ứng yêu cầu quản lý kịp thời vì chỉ tính được khi công trình, hạng mục công trình hoàn thành.
Sản phẩm hoàn thành theo giai đoạn quy ước
Là các đối tượng xây lắp chưa kết thúc toàn bộ công tác quy định trong thiết kế kĩ thuật mà chỉ kết thúc việc thi công một giai đoạn nhất định ( các giai đoạn, công việc hoặc khối lượng xây lắp có thiết kế và dự toán riêng đã hoàn thành).
Giá thành sản phẩm hoàn thành theo giai đoạn quy ước phục vụ kịp thời cho việc kiểm tra tình hình sử dụng các loại chi phí.
Căn cư xác định đối tượng tính giá thành: Phương pháp lập dự toán (cho công trình, hạng mục công trình) và phương pháp thanh toán giữa hai bên A và B; thanh toán một lần hay thanh toán nhiều lần
Do đặc thù của công việc mà kế toán xây lắp sẽ tiến hành phân ra kỳ tính giá thành, đó là thời kỳ mà kế toán cần phải tiến hành công việc tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành và được xác định như sau:
Nếu đối tượng tính giá thành là từng công trình, hạng mục công trình hoàn thành hoặc theo đơn đặt hàng thì thời điểm tính giá thành là khi công trình, hạng mục công trình hoặc đơn đặt hàng hoàn thành
Nếu đối tượng tính giá thành là các hạng mục công trình được quy định thanh toán theo giai đoạn xây dựng thì kỳ tính giá thành là theo giai đoạn xây dựng hoàn thành.
Nếu đối tượng tính giá thành là hạng mục công trình được quy định thanh toán định kỳ theo khối lượng từng loại công việc trên cơ sở giá dự toán thì kỳ tính giá thành là cuối tháng hoặc cuối quý.
Ở đây chúng ta cần phân biệt rõ mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản xuất
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Về bản chất chúng đều là phạm vi, giới hạn mà chi phí sản xuất được tập hợp theo đó và cùng phục vụ cho công tác quản lý, phân tích và kiểm tra chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm. Tuy vậy giữa hai khái niệm này vẫn có sự khác nhau nhất định:
Xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là xác định phạm vi, giới hạn tổ chức kế toán chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Xác định đối tượng tính giá thành là xác định phạm vi, giới hạn của chi phí liên quan đến kết quả sản xuất đã hoàn thành.
Trong thực tế, có những trường hợp một đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất bao gồm nhiều đối tượng tính giá thành. Ngược lại, một đối tượng tính giá thành cũng có thể bao gồm nhiều đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Cũng có thể trong doanh nghiệp đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất trùng với đối tượng tính giá thành sản phẩm.
Phương pháp tính giá thành.
Phương pháp trực tiếp (giản đơn)
Phương pháp này thường áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp mới đi vào hoạt động hoặc bắt đầu sản xuất sản phẩm mới. Đối với các doanh nghiệp sản xuất giản đơn, chu kỳ sản xuất ngắn, số lượng mặt hàng ít và sản xuất với khối lượng lớn thì đối tượng tính giá thành thường là từng loại sản phẩm. Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất và quy trình công nghệ kế toán xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành, đây là cơ sở để tổ chức ghi chép ban đầu theo từng khoản mục chi phí, cuối kỳ tiến hành kết chuyển các khoản mục sang TK 154 để tính giá thành sau khi đã xác định được chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cuối kỳ. Theo phương pháp này giá thành sản phẩm được tính như sau:
Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ
=
CPSX dở dang đầu kỳ
+
CPSX phát sinh trong kỳ
−
CPSX dở dang cuối kỳ
Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng
Theo phương pháp này giá thành được tính theo từng đơn đặt hàng riêng biệt, việc tổ chức kế toán chi phí cũng phải được chi tiết theo từng đơn đặt hàng từ lúc khởi công cho đến khi hoàn thành
Giá thành đơn đặt hàng chính là toàn bộ chi phí phát sinh kể từ lúc bắt đầu thực hiện cho đến khi kết thúc đơn đặt hàng hay khi đơn đặt hàng đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật thỏa thuận trong hợp đồng.
Phương pháp cộng chi phí
Áp dụng khi quá trình thi công được tổ chức theo nhiều giai đoạn công việc, nhiều đội xây dựng. Do đó, cuối kỳ chi phí phát sinh của từng giai đoạn công việc phải được tổng hợp lại với nhau để tính ra giá thành của sản phẩm xây lắp. Công thức tính giá thành:
Z = Z1 + Z2 + Z3 +……+ Zn
Trong đó: Z là tổng giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ.
Z1, Z2, Z3, ……. Zn: là chi phí sản xuất của từng giai đoạn.
5. Tổ chức hệ thống sổ trong kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Việc tổ chức hệ thống sổ kế toán tổng hợp và chi tiết phụ thuộc vào hình thức kế toán mà doanh nghiệp áp dụng. Theo chế độ kế toán hiện hành, doanh nghiệp xây lắp có thể áp dụng một trong các hình thức kế toán sau:
Nhật ký chung.
Nhật ký chứng từ
Chứng từ ghi sổ
Nhật ký sổ cái
Hình thức kế toán máy
Tuỳ theo đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc điểm của bộ máy kế toán và tình hình thực tế của doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp lựa chọn cho mình một hình thức phù hợp. Tuy nhiên do đặc thù của ngành xây lắp là quản lý sản phẩm đơn chiếc nên hình thức kế toán nào cũng phải sử dụng sổ Cái và sổ chi tiết ( mở cho từng đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành) của các TK 621, 622, 623, 627, 154
6. Tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong điều kiện ứng dụng máy vi tính.
Việc áp dụng phần mềm làm cho công tác kế toán nói chung, công việc tập hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm nói riêng giảm bớt đi rất nhiều. Kế toán cần xác định đối tượng tập hợp chi phí, đối tượng tính giá thành phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp và yêu cầu quản lý từ đó phân loại, mã hoá các đối tượng cho phép nhận diện, tìm kiếm các đối tượng một cách nhanh chóng tránh nhầm lẫn. Đồng thời cần khai báo danh mục các đối tượng quản lý như: danh mục tài khoản, danh mục khách hàng…tổ chức tập hợp, kết chuyển hoặc phân bổ chi phí sản xuất theo đúng đối tượng đã xác định, tổ chức hệ thống sổ, báo cáo kế toán, báo cáo quản trị và đăng nhập hệ thống này trên phần mềm kế toán.
Kế toán chi phí, giá thành trong điều kiện ứng dụng kế toán máy cần tuân theo các nguyên tắc:
Việc tập hợp chi phí sản xuất hoàn toàn do máy tự nhận dữ liệu từ các bộ phận liên quan và máy tự tính toán phân bổ chi phí trong kỳ theo các nguyên tắc đã định.
Căn cứ vào kết quả kiểm kê, đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo từng đối tượng kế toán nhập dữ liệu vào máy.
Lập thao tác các bút toán điều chỉnh, bút toán khoá sổ, kết chuyển cuối kỳ trên cơ sở hướng dẫn có sẵn.
Căn cứ vào yêu cầu của người sủ dụng thông tin tiến hành kiểm tra, cung cấp các báo cáo cần thiết.
Quy trình xử lý hệ thống hoá thông tin trong kế toán máy ( theo hình thức Nhật ký chung ).
Chứng từ gốc → nhập vào máy → chứng từ trên máy → xử lý của phần mềm kế toán → Sổ Nhật ký chung, Sổ Cái, Sổ chi tiết tài khoản, BCTC, báo cáo khác.
PHẦN HAI: THỰC TRẠNG KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN LILAMA 10
2.1Mối quan hệ giữa đặc điểm chung của công ty với kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Công ty cổ phần LILAMA 10 trước đây được gọi là công ty Lắp máy và Xây dựng số 10, tiền thân là Xí nghiệp lắp máy số 10 thuộc liên hiệp các Xí nghiệp Lắp máy Bộ xây dựng thành lập năm 1983. Công ty Lắp máy và Xây dựng số 10 được thành lập theo Quyết định số 004/BXD – TCLD ngày 27 tháng 01 năm 1993 và Quyết định số 05/BXD – TCLD ngày 12 tháng 01 năm 1996 có tên giao dịch quốc tế là “ MACHINERY ERECTION AND CONTRUCTION COMPANY- No.10”, viết tắt là EEC.10. Đây là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc tổng công ty lắp máy Việt Nam (LILAMA), hạch toán độc lập và có đủ tư cách pháp nhân.
Trong tháng 1 năm 2007 Công ty Lắp máy và Xây dựng số 10 chính thức chuyển hình thức sở hữu, từ Doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần, đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp, dưới đây gọi là Công ty Cổ phần Lilama 10. Hiện nay tổng giá trị cổ phiếu của công ty tính theo mệnh giá là 90.000.000 VNĐ.
Đây là một Công ty lớn về quy mô, là một Công ty chủ đạo của Tổng Công ty Lắp máy và Xây dựng Việt Nam. Các công trình Công ty đã và đang thi công xây dựng rất đa dạng từ các công trình công nghiệp, thủy điện, thủy lợi, các công trình gia công lắp máy và xây dựng, các công trình dân dụng…Việc thi công xây lắp các công trình này đều có đặc điểm chung là: sản xuất ở những địa điểm khác nhau, sản phẩm khác nhau; sản phẩm có giá trị lớn, thời gian xây lắp dài; có bộ phận sản xuất phụ cung cấp vật liệu, cấu kiện, bê tông…cho xây lắp, giống như trong sản xuất công nghiệp; có đội xe cơ giới thi công , được tổ chức thành đơn vị hạch toán trực thuộc, vừa phục vụ thi công vừa cung cấp dịch vụ cho bên ngoài.
Do đặc thù sản xuất kinh doanh cũng như quy mô hoạt động của Công ty nên tổ chức bộ máy quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh được thiết kế theo mô hình vừa tập trung vừa phân tán, có nhiều đơn vị trực thuộc: Xí nghiệp 10-1, Xí nghiệp 10-2, Xí nghiệp 10-4, Nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép.
Công ty cổ phần LILAMA 10 là Doanh nghiệp hoạt động lâu năm trong lĩnh vực xây lắp, do đó công ty đã xây dựng được một quy trình công nghệ sản xuất hợp lý hoàn toàn phù hợp với đặc điểm kinh doanh của mình. Công nghệ thi công xây lắp của Công ty kết hợp giữa thủ công, cơ giới và sản xuất giản đơn. Nhìn chung, các sản phẩm của Công ty có quy trình công nghệ tổng quan như sau:
Sơ đồ 07: Quy trình tổ chức, chế tạo, lắp đặt
Đấu thầu, thương thảo và ký kết hợp đồng
Phân giao nhiệm vụ thành lập công trường
Bóc tách bản vẽ, lập dự toán biện pháp thi công an toàn
Mua vật tư, điều động thiết bị, vật tư
Thi công, chế tạo và lắp đặt
Giám sát kỹ thuật, kiểm tra chất lượng, nghiệm thu công trình
Nghiệm thu, bàn giao
Quyết toán, thanh lý hợp đồng
Căn cứ vào đặc điểm sản xuất của ngành xây dựng và đặc điểm quy trình tổ chức lắp đặt, đối tượng theo dõi, quản lý chi phí và tính giá thành là các công trình. Nhưng vì các công trình thường có giá trị lớn, khối lượng công việc thi công hoàn thành nhiều nên Công ty sẽ chia thành các phần công việc nhỏ hơn để dễ dàng theo dõi và quản lý. Với mỗi khoản mục chi tiết, Công ty có thể lập kế hoạch, dự toán cụ thể.
Bộ máy kế toán của công ty được tổ chức theo hình thức nửa tập trung nửa phân tán. Tại từng tổ đội sản xuất trực tiếp tại công trình trực thuộc các xí nghiệp có các nhân viên kế toán làm nhiệm vụ thu thập kiểm tra chứng từ liên quan đến việc thuê mua, sử dụng nguyên vật liệu theo từng công trình; tập hợp các số liệu có liên quan; định kì hàng tháng gửi lên phòng tài chính kế toán của công ty. Tại nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép có bộ phận kế toán riêng, bộ phận này thực hiện toàn bộ công tác kế toán liên quan đến đơn vị mình, sau đó lập Báo cáo kế toán gửi lên phòng Tài chính kế toán tại Công ty. Tại Công ty có phòng Tài chính kế toán, có nhiệm vụ tổng hợp tất cả các số liệu của toàn Công ty, lập các báo cáo kế toán định
Việc tổ chức bộ máy kế toán như vậy là hoàn toàn phù hợp với nhưng đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty, do công ty có nhiều xí nghiệp đơn vị thành viên, các công trình thi công trong thời gian dài, việc tập hợp nguyên vật liệu của quá trình sản xuất mang những đặc điểm riêng của đơn vị xây lắp. Mặt khác sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất (xe máy, thiết bị thi công, người lao động...) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý sử dụng, hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết và dễ mất mát hư hỏng... Vì vậy đòi hỏi phải có bộ phận kế toán trực tiếp tại công trường để đảm bảo tính hiệu quả kịp thời của công tác kế toán.
Hình thức kế toán: Hiện tại công ty đang áp dụng hình thức nhật kí chung.
Với công tác kế toán của công ty là rất lớn thì hình thức này là hoàn toàn phù hợp.
Niên độ kế toán: bắt đầu từ 01/01 và kết thúc vào 31/12 hàng năm.
Đơn vị tiền tệ được sử dụng để lập chứng từ, ghi sổ kế toán là đồng Việt Nam. Việc chuyển đổi các đồng tiền khác sang VNĐ tại thời điểm phát sinh theo tỷ giá Ngân hàng Nhà nước công bố.
Thuế GTGT: kê khai theo phương pháp khấu trừ
Ghi nhận TSCĐ theo giá gốc, khấu hao TSCĐ theo phương pháp đường thẳng, thời gian khấu hao theo hướng dẫn tại QĐ206/ 2003 TC- BTC ngày 12/12/2003 về chế độ quản lý, sử dụng và tính khấu hao TSCĐ của Bộ Tài chính.
Hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên, trị giá hàng tồn kho cuối kỳ được xác định theo phương pháp bình quân gia quyền, trị giá nguyên vật liệu, hàng hoá xuất kho là giá thực tế đích danh.
Tình hình trích lập dự phòng: Trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho căn cứ vào tình hình tồn kho đầu năm, tình hình nhập, xuất kho trong năm và tình hình biến động giá cả vật tư, hàng hoá để xác định trị giá thực tế hàng tồn kho và trích lập dự phòng.
Phương pháp xác định doanh thu và phương pháp xác định phần công việc đã hoàn thành của hợp đồng xây dựng: Doanh thu xác định theo giá trị khối lượng thực hiện từng công trình, hạng mục công trình được nhà thầu xác nhận. Phần công việc đã hoàn thành của hợp đồng xây dựng sử dụng phương pháp đánh giá.
Quy trình ghi sổ:
Hàng ngày khi có các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, căn cứ vào chứng từ kế toán hoặc Bảng tổng hợp chứng từ kế toán cùng loại đã được kiểm tra tính hợp lý, hợp lệ, kế toán nhập dữ liệu vào máy tính, chương trình sẽ tự động cập nhật thông tin vào sổ kế toán tổng hợp ( Sổ Nhật ký chung, Sổ Cái…) và các sổ, thẻ kế toán chi tiết liên quan.
Cuối tháng ( hoặc vào bất kỳ một thời điểm cần thiết nào ) kế toán có thể thực hiện các thao tác cộng khoá sổ và lập Báo cáo tài chính. Cuối tháng chương trình sẽ tự động lập các bút toán kết chuyển, phân bổ lên các báo cáo, biểu tổng hợp ( Sổ Cái, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Bảng Cân đối kế toán ).
Cuối tháng, cuối năm, sổ kế toán tổng hợp và sổ kế toán chi tiết được in ra giấy, đóng thành quyển và thực hiện các thủ tục pháp lý theo quy định về sổ kế toán ghi bằng tay.
2.1.1 Đặc điểm chung về kế toán chi phí sản xuất
2.1.1.1 Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất tại Công ty rất đa dạng và phức tạp. Để giảm bớt khó khăn trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, Công ty phân loại chi phí theo khoản mục. Chi phí sản xuất bao gồm: chi phí sản xuất chung, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công.
2.1.1.2 Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
Với tính chất phức tạp của công nghệ và sản phẩm sản xuất mang tính đơn chiếc, có cấu tạo vật chất riêng, mỗi công trình, hạng mục công trình có dự toán thiết kế thi công riêng nên đối tượng hạch toán chi phí sản xuất của Công ty là các công trình, hạng mục công trình
Công ty tập hợp chi phí sản xuất theo phương pháp trực tiếp, các chi phí trực tiếp có liên quan đến công trình nào thì tập hợp trực tiếp cho công trình đó. Nếu các chi phí không thể tập hợp trực tiếp được vì nó liên quan đến nhiều công trình hoặc là chi phí chung toàn doanh nghiệp thì tập hợp theo từng nhóm đối tưọng. Cuối kỳ, kế toán phân bổ theo các tiêu thức hợp lý (thường là căn cứ vào giá trị sản lượng từng công trình).
Công ty cổ phần LILAMA 10 tổ chức hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất tại Công ty như sau:
- Khi phát sinh các khoản chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung liên quan đến từng công trình, hạng mục công trình, kế toán tiến hành tập hợp các chi phí.
- Các khoản chi phí liên quan đến nhiều công trình, hạng mục công trình, kế toán tiến hành phân bổ chi phí theo tiêu thức chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
- Xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ và tính giá thành cho từng công trình, hạng mục công trình.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm toàn bộ giá trị thực tế của nguyên vật liệu cần thiết trực tiếp tạo ra sản phẩm hoàn thành như là giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, vật kết cấu, giá trị thiết bị kèm theo vật kiến trúc… Các loại vật liệu này thường được mua ngoài về nhập kho hoặc xuất thẳng đến công trình. Đối với các doanh nghiệp xây lắp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi phí cũng như giá thành (thường chiếm khoảng 70% - 80% tổng chi phí).
Chi phí NVL trực tiếp tại Công ty bao gồm các NVL phục vụ cho xây dựng như: sắt, thép, cát, gạch, xi măng, nhựa đường, xăng, dầu…
Do sản phẩm của công ty phân bổ rải rác ở nhiều nơi nên để thuận tiện cho việc thi công và hạn chế trong vận chuyển, công ty đã xây dựng các kho vật liệu phân tán, tuy nhiên không phải trong kho vật liệu nào và lúc nào cũng có thể cung ứng đủ số lượng và chủng loại phục vụ cho thi công cho nên đối với những loại vật liệu không có sẵn trong kho này công ty sẽ tiến hành mua ngoài, hầu hết NVL được công ty cung cấp theo hình thức nhập thẳng đến tận công trình, với một số thiết bị mua vào với khối lượng lớn mà chưa sử dụng ngay thì vẫn tiến hành nhập kho.
Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản tiền lương, tiền công phải trả theo khối lượng công việc hay số ngày công của công nhân trực tiếp thực hiện khối lượng công việc công trình, bao gồm: tiền lương cơ bản, phụ cấp lương, phụ cấp làm thêm giờ và các khoản tiền công trả cho lao động thuê ngoài. Việc tính đầy đủ tiền công, phân phối tiền lương một cách hợp lý sẽ khuyến khích người lao động có trách nhiệm hơn đối với công việc được giao.
Chi phí nhân công trực tiếp chiếm tỷ trọng lớn thứ hai ( sau chi phí NVL trực tiếp) trong giá thành của công trình hoàn thành, vì vậy việc hạch toán chi phí nhân công trực tiếp cần được đặc biệt chú trọng vì nó không những ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô giá thành mà còn ảnh hưởng lớn đến thu nhập của người lao động. Cũng như NVL, khi có công trình mới, chủ nhiệm công trình căn cứ vào dự toán khối lượng và tiến độ công việc sẽ lập tờ trình xin điều chuyển công nhân. Giám đốc căn cứ vào đó viết lệnh điều chuyển công nhân theo yêu cầu của công trình. Trong trường hợp số công nhân không đủ đáp ứng theo yêu cầu công ty sẽ tiến hành thuê nhân công ở ngoài.
Hiện nay công ty đang áp dụng hai hình thức trả lương đó là lương sản phẩm ( lương khoán ) và lương thời gian.
+ Lương sản phẩm ( lương khoán ): được áp dụng đối với những công nhân trực tiếp sẩn xuất theo khối lượng công việc cụ thể với đơn giá lương khoán khi công việc hoàn thành được tính giá. Đây là hình._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28933.doc