Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Việt Hà

Danh mục các từ viết tắt trong luận văn BCTC : Báo cáo tài chính BHXH : Bảo hiểm xã hội BHYT : Bảo hiểm y tế CP : Chi phí CP NVLTT : Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp CP NCTT : Chi phí nhân công trực tiếp CP SXC : Chi phí sản xuất chung CP SXKD DD : Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang CBCNV : Cán bộ công nhân viên GVHB : Giá vốn hàng bán HSCB : Hệ số cấp bậc KD : Kinh doanh LCB : Lương cơ bản Lương cb ngày : Lương cơ bản ngày Lương cv : Lương công việc NVL : Nguy

doc126 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Việt Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên vật liệu PX : Phân xưởng SXKD : Sản xuất kinh doanh TK : Tài khoản XNK : Xuất nhập khẩu Lời mở đầu Nền kinh tế thị trường với sự tự do cạnh tranh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, mở ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội để vươn lên tự khẳng định mình. Tuy nhiên nó cũng đặt ra cho các doanh nghiệp không ít khó khăn thách thức phải giải quyết. Với lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, Công ty Việt Hà đã không ngừng hoàn thiện công tác quản lí doanh nghiệp của mình, trong đó chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu quan trọng mà Công ty luôn quan tâm. Để tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị trường, tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm là động lực chính của Công ty. Các nhà quản trị muốn đưa ra được quyết định đúng đắn về việc nâng cao hiệu quả sử dụng chi phí hay để điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh, thì các thông tin kế toán đưa ra phải thật sát thực. Điều đó đòi hỏi công việc hạch toán chi phí cần phải chính xác, giá thành sản phẩm cần được tính đúng và tính đủ. Nhận thức được tầm quan trọng của việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, em đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Việt Hà” cho luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn gồm ba nội dung chính sau: Phần 1. Những vấn đề lí luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất. Phần 2. Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Việt Hà. Phần 3. Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Việt Hà. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Văn Thuận cùng các anh chị phòng kế toán Công ty Việt Hà đã tận tình hướng dẫn, giúp em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Phần 1. Những vấn đề lí luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất 1.1. Sự cần thiết của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kì phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác, quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp ba yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất hàng hoá cũng chính là quá trình tiêu hao của chính bản thân các yếu tố trên. Như vậy, để tiến hành sản xuất hàng hoá, người sản xuất phải bỏ chi phí về thù lao lao động, về tư liệu lao động, đối tượng lao động. Vì thế, sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất. Chi phí sản xuất 1.1.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất Chi phí sản xuất - kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp bỏ ra liên quan đến hoạt động sản xuất - kinh doanh trong một thời kì nhất định (tháng, quý, năm). Thực chất, chi phí là sự dịch chuyển vốn - chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ), là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một kì để thực hiện quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Để hiểu rõ hơn về chi phí cần phân biệt chi phí và chi tiêu: Chi phí là sự biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kì kinh doanh. Như vậy, chỉ được tính là chi phí của một kì hạch toán những hao phí về tài sản liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất trong kì chứ không phải mọi khoản chi ra trong kì hạch toán. Chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kì của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp (mua sắm vật tư, hàng hoá…), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh (chi cho sản xuất, chế tạo sản phẩm…) và chi cho quá trình tiêu thụ (chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo). Như vậy chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Tổng số chi phí phát sinh trong kì của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kì này. Chi phí và chi tiêu còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kì này nhưng chưa được tính vào chi phí (chi mua nguyên vật liệu về nhập kho nhưng chưa được sử dụng…) và có những khoản tính vào chi phí kì này nhưng thực tế chưa chi tiêu (chi phí trích trước). Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi tiêu và chi phí như vậy là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức dịch chuyển giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kĩ thuật hạch toán chúng. Khác với khái niệm chi phí sản xuất của kế toán Việt Nam, đối với kế toán Mỹ, chi phí sản xuất được hiểu là khoản hao phí bỏ ra để thu được một số của cải vật chất hay dịch vụ. Khoản hao phí này có thể là tiền mặt chi ra, tài sản chuyển nhượng hay dịch vụ hoàn thành…được đánh giá trên căn cứ tiền mặt. Còn theo quan điểm của kế toán Pháp, chi phí sản xuất là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp bỏ ra để phục vụ cho quá trình sản xuất. Chi phí bao gồm: chi phí mua nguyên vật liệu, hàng hoá và các khoản dự trữ khác. 1.1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất Chi phí sản xuất kinh doanh có rất nhiều loại, nhiều khoản khác nhau cả về nội dung, tính chất, công dụng, vai trò, vị trí…đối với quá trình kinh doanh. Để thuận lợi cho công tác quản lí và hạch toán, cần phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất. Hiện nay Công ty Việt Hà đang áp dụng cách phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân chia theo khoản mục. Theo quy định hiện hành, giá thành sản phẩm ở Việt Nam bao gồm 5 khoản mục chi phí: Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp: phản ánh toàn bộ chi phí nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu… tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ. Chi phí nhân công trực tiếp: gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỉ lệ với tiền lương phát sinh. Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất (trừ chi phí vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp). Chi phí bán hàng: bao gồm toàn bộ những chi phí phát sinh liên quan đến tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ. Chi phí quản lí doanh nghiệp: bao gồm những chi phí phát sinh liên quan đến quản trị kinh doanh và quản lí hành chính trong doanh nghiệp. Theo Thông tư 89/2002/TT-BTC ngày 9/10/2002 hướng dẫn kế toán thực hiện 04 chuẩn mực kế toán ban hành theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC, ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, chi phí sản xuất chung được phân loại theo mối quan hệ với sản lượng sản phẩm sản xuất ra. Cụ thể như sau: Chi phí sản xuất chung cố định: là chi phí sản xuất gián tiếp không thay đổi theo sản lượng sản phẩm sản xuất ra như chi phí khấu hao TSCĐ và chi phí bảo dưỡng máy móc thiết bị, chi phí hành chính trong phân xưởng. Chi phí sản xuất chung biến đổi: là chi phí sản xuất gián tiếp thay đổi trực tiếp hoặc gần như trực tiếp theo số lượng sản phẩm dở dang. Ví dụ như: Chi phí ngyên vật liệu trực tiếp, Chi phí nhân công trực tiếp, chi phí dịch vụ mua ngoài. Ngoài cách phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. Chi phí còn có thể được phân loại theo những cách sau: Phân loại theo yếu tố chi phí. Phân loại theo quan hệ giữa chi phí sản xuất và khối lượng công việc sản phẩm hoàn thành. Phân loại theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh. 1.1.2. Giá thành sản phẩm 1.1.2.1. Khái niệm giá thành sản phẩm Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm lao vụ đã hoàn thành. Chỉ tiêu giá thành phải gắn liền với từng loại sản phẩm, được tính đối với số lượng sản phẩm đã hoàn thành khi kết thúc toàn bộ quy trình sản xuất, hay một giai đoạn sản xuất (bán thành phẩm) chứ không tính cho thành phẩm còn nằm trên dây chuyền sản xuất. Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kì kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan, không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng - tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. 1.1.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm Để đáp ứng yêu cầu của quản lí, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được phân loại như sau: Giá thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất. Giá thành tiêu thụ (còn gọi là giá thành toàn bộ hay giá thành đầy đủ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành tiêu thụ được tính theo công thức: Giá thành toàn bộ của sản phẩm = Giá thành sản xuất của sản phẩm + Chi phí quản lí doanh nghiệp + Chi phí bán hàng Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lí biết được kết quả kinh doanh (lãi, lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Ngoài ra, giá thành còn có thể được phân loại theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính. 1.1.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: Mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí (phát sinh trong kì, kì trước chuyển sang) và các chi phí trích trước liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ, đã hoàn thành trong kì sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra bất kì ở kì nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong kì. Có thể phản ánh mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thông qua sơ đồ sau: A C c c b d Chi phí sản xuất dở dang đầu kì Chi phí sản xuất phát sinh trong kì Tổng giá thành Sản phẩm, dịch vụ hoàn thành Chi phí sản xuất dở dang cuối kì Qua sơ đồ ta thấy: AC = AB + BD – CD Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành = Chi phí sản xuất dở dang đầu kì + Chi phí sản xuất phát sinh trong kì - Chi phí sản xuất dở dang cuối kì Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở dang) đầu kì và cuối kì bằng nhau, hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí phát sinh trong kì. Trong mối quan hệ chặt chẽ đó, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng có những điểm khác nhau cơ bản sau: Về thời gian: giá thành sản phẩm chỉ gắn với một thời kì nhất định còn chi phí sản xuất thì liên quan đến nhiều kì như chi phí kì trước chuyển sang, chi phí kì này phát sinh không bao gồm các chi phí chuyển sang kì sau. Về sản phẩm: chi phí sản xuất không gắn trực tiếp với số lượng sản phẩm hoàn thành trong kì, còn giá thành được tính trên số lượng bán thành phẩm hay sản phẩm hoàn thành. Về giá trị: Tổng giá thành sản phẩm không bao gồm những chi phí sản xuất đã chi ra trong kì (chi phí chờ phân bổ ở kì sau) song giá thành sản phẩm lại tính cả chi phí đã chi ở kì trước được phân bổ cho kì này. Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kì khác với tổng giá thành sản phẩm của các sản phẩm hoàn thành trong kì. 1.1.4. ý nghĩa và nhiệm vụ của kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu kinh tế cơ bản phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quản lí tốt chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là yêu cầu quan trọng đối với các doanh nghiệp trong môi trường kinh tế cạnh tranh hiện nay. Việc tính đúng, đủ giá thành giúp cho phản ánh đúng tình hình thực hiện và kết quả thực hiện giá thành của doanh nghiệp, xác định đúng đắn kết quả kinh doanh trong kì. Trong một phạm vi nhất định giá thành vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Cần phải xem xét giá thành trên nhiều góc độ khác nhau để sử dụng chỉ tiêu giá thành một cách hiệu quả nhất.Tính khách quan của giá thành chính là tính tất yếu của sự di chuyển và kết tinh giá trị tư liệu sản xuất và sức lao động trong sản phẩm. Nhưng giá thành lại là một đại lượng được tính toán trên cơ sở chi phí sản xuất chi ra trong kì nên nó mang những yếu tố chủ quan nhất định. Từ đó cho thấy, giá thành sản phẩm là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh những tiêu hao trong quá trình sản xuất sản phẩm nhưng cũng đồng thời là thước đo năng lực và trình độ quản lí kinh tế của doanh nghiệp. Từ những ý nghĩa đó, nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là phải ghi chép và phản ánh một cách đầy đủ, trung thực về mặt lượng chi phí sản xuất đồng thời phải tính toán chi phí theo đúng nguyên tắc, xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí, phản ánh chi phí theo đúng thời điểm, địa điểm phát sinh. Để tính đúng và tính đủ giá thành, kế toán phải dựa trên cơ sở của việc tính chính xác chi phí sản xuất và tính đủ mọi hao phí bỏ ra theo đúng chế độ quy định. Tính đủ giá thành cũng đồng nghĩa với việc loại bỏ những chi phí không liên quan đến giá thành sản phẩm. 1.2. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất 1.2.1. Kế toán chi phí sản xuất 1.2.1.1. Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau. Đó là giai đoạn hạch toán chi tiết chi phí sản xuất phát sinh theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, giai đoạn công nghệ, phân xưởng… và giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết sản phẩm, sản phẩm theo đơn đặt hàng đã hoàn thành…theo đơn vị tính giá thành quy định. Việc phân chia này xuất phát từ yêu cầu quản lí, kiểm tra và phân tích chi phí, yêu cầu hạch toán kinh doanh nội bộ, theo đặc điểm quy trình công nghệ của từng doanh nghiệp và yêu cầu tính giá thành sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định. Có thể nói, việc phân chia quá trình hạch toán thành hai giai đoạn là do sự khác nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong hạch toán chi phí sản xuất - tức là đối tượng hạch toán chi phí sản xuất - và sản phẩm hoàn thành cần phải tính giá thành một đơn vị - tức là đối tượng tính giá thành. Như vậy, xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chính là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Về cơ bản, phương pháp hạch toán chi phí bao gồm các phương pháp hạch toán chi phí theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân xưởng, theo nhóm sản phẩm v.v.. Nội dung chủ yếu là kế toán mở thẻ (hoặc sổ) chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh các đối tượng liên quan đến từng đối tượng, hàng tháng tổng hợp chi phí theo từng đối tượng. Tuỳ theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho áp dụng trong doanh nghiệp mà công tác hạch toán chi phí sản xuất được thực hiện theo một trong hai phương pháp sau: Hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên (KKTX) và hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kì (KKĐK). 1.2.1.2. Chứng từ kế toán Các loại chứng từ sử dụng để kế toán chi phí sản xuất bao gồm: Chứng từ phản ánh chi phí lao động: Bảng phân bổ tiền lương và các khoản trích theo lương: BHYT, BHXH, KPCĐ. Chứng từ phản ánh chi phí vật tư: Bảng phân bổ vật liệu, công cụ, dụng cụ. Bảng kê, hoá đơn chứng từ mua vật liệu công cụ, dụng cụ không nhập kho mà sử dụng ngay cho kinh doanh. Chứng từ phản ánh chi phí khấu hao TSCĐ: Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ. Chứng từ phản ánh dịch vụ mua ngoài như hoá đơn mua hàng, chứng từ chi tiền mặt. Chứng từ phản ánh thuế, phí và lệ phí doanh nghiệp phải nộp, đã nộp. Chứng từ phản ánh các khoản chi bằng tiền khác. Việc tập hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp lí, khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời. Trình tự này phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành, từng doanh nghiệp, mối quan hệ của hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp và trình độ công tác quản lí. Thông thường trình tự hạch toán chi phí sản xuất như sau: Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản liên quan đến đối tượng sử dụng. Bước 2: Tính toán và phân bổ chi phí cho từng đối tượng sử dụng. Bước 3: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kì. Bước 4: Tính tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm hoàn thành. 1.2.1.3. Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu…được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất, hoặc sản phẩm, loại sản phẩm, lao vụ…) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng gián tiếp để phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan. Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng, số lượng sản phẩm… Để theo dõi các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo phương pháp kê khai thường xuyên, kế toán sử dụng TK 621 “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất) với kết cấu như sau: Bên Nợ: Tập hợp chi phí nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ. Bên Có: Giá trị vật liệu xuất dùng không hết. Kết chuyển chi phí vật liệu trực tiếp. Tài khoản 621 cuối kì không có số dư. TK 151,152, 331, 111, 112.. TK 621 Vật liệu xuất dùng trực tiếp chế tạo sản phẩm, tiến hành lao vụ, dịch vụ Kết chuyển chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp Vật liệu dùng không hết nhập lại kho TK 152 TK 154 Sơ đồ 1: Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 1.2.1.4. Kế toán chi phí nhân công trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản thù lao phải trả cho nhân công trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như tiền lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương (phụ cấp khu vực, độc hại, phụ cấp làm đêm, thêm giờ…). Ngoài ra, chi phí nhân công trực tiếp còn bao gồm các khoản đóng góp cho các quỹ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Kinh phí công đoàn do doanh nghiệp chịu và được tính vào chi phí kinh doanh theo một tỉ lệ nhất định với số tiền lương phát sinh của công nhân trực tiếp sản xuất. Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK 622 “Chi phí nhân công trực tiếp”. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí giống như TK 621. Bên Nợ: Tập hợp chi phí nhân công trực tiếp sản xuất sản phẩm thực hiện lao vụ, dịch vụ. Bên Có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản tính giá thành. Tài khoản 622 không có số dư cuối kì. TK 622 TK 154 Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp Lương và phụ cấp phải trả cho nhân công trực tiếp Các khoản đóng góp theo tỉ lệ với tiền lương thực tế của công nhân trực tiếp sản xuất phát sinh TK 334 TK 338 TK 335 Trích trước tiền lương phép, lương ngừng việc của công nhân trực tiếp sản xuất Sơ đồ 2: Sơ đồ kế toán chi phí nhân công trực tiếp. 1.2.1.5. Kế toán chi phí trả trước Chi phí trả trước (còn gọi là chi phí chờ phân bổ) là các khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng chưa tính hết vào chi phí sản xuất - kinh doanh của kì này mà được tính cho hai hay nhiều kì hạch toán sau đó. Đây là những khoản chi phí phát một lần quá lớn hoặc do bản thân chi phí phát sinh có tác dụng tới kết quả hoạt động của nhiều kì hạch toán. Kế toán sử dụng TK 142 để phản ánh các khoản chi phí trả trước phân bổ hết cho các đối tượng chịu chi phí trong năm tài chính. Nội dung phản ánh của tài khoản này như sau: Bên Nợ: Tập hợp các khoản chi phí trả trước thực tế phát sinh. Bên Có: Các khoản chi phí trả trước đã phân bổ vào chi phí sản xuất kinh doanh. Dư Nợ: Các khoản chi phí trả trước thực tế đã phát sinh nhưng chưa phân bổ vào chi phí sản xuất kinh doanh. Tài khoản 142 chi tiết thành hai tiểu khoản: 1421: Chi phí trả trước. 1422: Chi phí chờ kết chuyển . Chi phí trả trước thuộc đối tượng chịu chi phí trong năm tài chính bao gồm: Giá trị công cụ, dụng cụ nhỏ xuất dùng thuộc loại phân bổ nhiều lần (từ 2 lần trở lên). Giá trị sữa chữa lớn TSCĐ ngoài kế hoạch. Tiền thuê TSCĐ, phương tiện kinh doanh… trả trước. Giá trị bao bì luân chuyển, đồ dùng cho thuê. Dịch vụ mua ngoài trả trước (điện, điện thoại, vệ sinh, nước…). Chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp (với doanh nghiệp có chu kỳ kinh doanh dài). Chi phí mua bảo hiểm tài sản, bảo hiểm kinh doanh, lệ phí giao thông, bến bãi… Chi phí nghiên cứu, thí nghiệm, phát minh, sáng chế… (giá trị chưa tính vào TSCĐ vô hình). Theo thông tư số 89/2002/TT-BTC ngày 9/10/2002, các chi phí thực tế đã phát sinh nhưng có liên quan đến kết quả hoạt động SXKD của nhiều niên độ kế toán và việc kết chuyển các khoản chi phí này vào chi phí SXKD của các niên độ kế toán sau được phản ánh vào TK 242. Tương tự như TK 142 kết cấu của TK 242 như sau: Bên Nợ: Chi phí trả trước dài hạn phát sinh trong kì. Bên Có: Các khoản chi phí trả trước dài hạn phân bổ vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh trong kì. Dư Nợ: Các khoản chi phí trả trước dài hạn chưa tính vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh của năm tài chính. Chi phí trả trước dài hạn bao gồm: Chi phí trả trước về thuê hoạt động TSCĐ (quyền sử dụng đất, nhà xưởng, kho tàng, văn phòng làm việc, cửa hàng và TSCĐ khác) phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhiều năm tài chính. Tiền thuê cơ sở hạ tầng cho nhiều năm và phục vụ cho kinh doanh nhiều kì. Chi phí trả trước phục vụ cho hoạt động kinh doanh của nhiều năm tài chính. Chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí quảng cáo phát sinh trong giai đoạn trước khi hoạt động. Chi phí nghiên cứu có giá trị lớn. Chi phí cho giai đoạn triển khai không đủ tiêu chuẩn ghi nhận là TSCĐ vô hình. Chi phí đào tạo cán bộ quản lí và công nhân kĩ thuật. Chi phí di chuyển địa điểm kinh doanh, hoặc tổ chức lại doanh nghiệp. Lợi thế thương mại trong trường hợp mua lại doanh nghiệp, sáp nhập doanh nghiệp có tính chất mua lại. Chi phí mua các loại bảo hiểm (bảo hiểm cháy, nổ, bảo hiểm tài sản…) và các loại lệ phí mà doanh nghiệp mua và trả một lần cho nhiều niên độ kế toán. Công cụ, dụng cụ xuất dùng một lần với giá trị lớn và bản thân công cụ, dụng cụ tham gia vào hoạt động kinh doanh trên một năm tài chính phải phân bổ dần vào đối tượng chịu chi phí trong nhiều năm. Các khoản khác. TK 142, 242 TK 627, 641, 642, 241, 635 Phân bổ dần chi phí trả trước vào các kì hạch toán Chi phí trả trước thực tế Thực tế phát sinh Giá trị công cụ dụng cụ, bao bì luân chuyển cho thuê xuất dùng TK 111, 112, 331, 334… TK 153 TK 911 Kết chuyển dần chi phí bán hàng, chi phí quản lí vào TK xác định kết quả DĐKxxx TK 641, 642 Kết chuyển chi phí bán hàng, chi phí quản lí Sơ đồ 3: Sơ đồ kế toán chi phí trả trước. 1.2.1.6. Kế toán chi phí phải trả Chi phí phải trả (còn gọi là chi phí trích trước) là những khoản chi phí thực tế chưa phát sinh nhưng được ghi nhận là chi phí của kì hạch toán. Đây là những khoản chi phí trong kế hoạch của đơn vị mà do tính chất hoặc yêu cầu quản lí nên được tính trước vào chi phí kinh doanh cho các đối tượng chịu chi phí nhằm đảm bảo cho giá thành sản phẩm, lao vụ, chi phí bán hàng, chi phí quản lí khỏi đột biến tăng khi những khoản chi phí này phát sinh. Các khoản chi phí phải trả được theo dõi, phản ánh trên TK 335 “Chi phí phải trả”. Nội dung phản ánh của tài khoản này như sau: Bên Nợ: Tập hợp chi phí phải trả thực tế phát sinh. Bên Có: Các khoản chi phí phải trả được ghi nhận (đã trích trước ) vào chi phí trong kì theo kế hoạch. Dư Có: Các khoản chi phí phải trả đã tính vào chi phí kinh doanh nhưng thực tế chưa phát sinh. Chi phí phải trả trong doanh nghiệp thường bao gồm: Tiền lương phép theo kế hoạch của công nhân sản xuất. Chi phí sữa chữa TSCĐ trong kế hoạch. Thiệt hại ngừng sản xuất trong kế hoạch. Chi phí bảo hành sản phẩm trong kế hoạch. Lãi tiền vay chưa đến hạn trả. Tiền thuê TSCĐ, mặt bằng kinh doanh, dụng cụ, công cụ… chưa trả. Các dịch vụ mua ngoài sẽ cung cấp. TK 335 TK 622 Tiền lương phép, lương ngừng việc của công nhân sản xuất Tiền lương phép, lương ngừng việc thực tế phải trả Các chi phí thực tế phải trả khác thực tế phát sinh TK 334 TK 241, 331,111,112 TK 627, 641, 642 Trích trước chi phí phải trả vào chi phí kinh doanh TK 711 Kết chuyển khoản chênh lệch giữa chi phí phải trả thực tế nhỏ hơn chi phí phải trả kế hoạch Sơ đồ 4: Sơ đồ kế toán chi phí phải trả. 1.2.1.5. Kế toán chi phí sản xuất chung Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. Để theo dõi và phản ánh các khoản chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng TK 627 “Chi phí sản xuất chung”. Tài khoản này được mở theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất. TK 627 có kết cấu như sau: Bên Nợ: Chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kì. Bên Có: Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung. TK 627 cuối kì không có số dư do đã kết chuyển hay phân bổ hết cho các loại sản phẩm, dịch vụ, lao vụ và được chi tiết thành 6 tài khoản cấp 2: TK 6271 - Chi phí nhân viên phân xưởng TK 6272 - Chi phí vật liệu TK 6273 - Chi phí dụng cụ sản xuất TK 6274 - Chi phí khấu hao TSCĐ TK 6277 - Chi phí dịch vụ mua ngoài TK 6278 - Chi phí bằng tiền khác TK 627 TK 111, 112, 138,152 Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung Lương và phụ cấp lương nhân viên phân xưởng BHXH, BHYT, KPCĐ (phần tính vào chí phí) TK 334 TK 338 TK 152, 153,142,242 TK 214 TK 111, 112, 331 TK 154 Công cụ, vật liệu xuất dùng phục vụ phân xưởng Khấu hao TSCĐ dùng cho phân xưởng Chi phí dịch vụ mua ngoài Phân bổ và kết chuyển chi phí sản xuất chung TK 133 Thuế GTGT đầu vào Sơ đồ 5: Kế toán chi phí sản xuất chung. 1.2.1.6. Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất Để phản ánh quá trình tổng hợp chi phí sản xuất phát sinh trong kì theo phương pháp kê khai thường xuyên, kế toán sử dụng TK 154 - “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”. TK 154 được mở chi tiết cho từng ngành sản xuất, từng nơi phát sinh chi phí hay từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm, từng loại lao vụ, dịch vụ…của các bộ phận sản xuất - kinh doanh chính, sản xuất kinh - doanh phụ (kể cả thuê ngoài gia công chế biến). TK 154 Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp TK 621 TK 622 TK 627 TK 152, 111… TK 152, 155 TK 632 Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp Kết chuyển (hoặc phân bổ) chi phí sản xuất chung Tổng giá thành thực tế sản phẩm hoàn thành Nhập kho Tiêu thụ thẳng Chờ chấp nhận TK 157 Sơ đồ 6: Tổng hợp chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên. 1.2.2. Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang cuối kì 1.2.2.1. ý nghĩa của việc đánh giá sản phẩm dở dang Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm doanh nghiệp cần phải tiến hành kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang. Giá thành sản phẩm có được tính đúng tính đủ hay không phụ thuộc vào việc giá trị sản phẩm dở dang có được tính chính xác hay không. Chính vì thế doanh nghiệp cần phải lựa chọn phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang phù hợp nhất với đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ sản xuất và tính chất sản phẩm của doanh nghiệp. 1.2.2.2. Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang Doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang như sau: Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu chính. Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương. Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo 50% chi phí chế biến. Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc theo chi phí trực tiếp. Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí định mức hoặc kế hoạch. Trong đó xác định giá trị sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương được tính như sau: Kế toán dựa theo mức độ hoàn thành và số lượng sản phẩm dở dang để quy đổi sản phẩm dở dang thành sản phẩm hoàn thành. Tiêu chuẩn quy đổi thường dựa vào giờ công hoặc tiền lương định mức. Để đảm bảo tính chính xác của việc đánh giá, phương pháp này chỉ nên áp dụng để tính các chi phí chế biến, còn các chi phí nguyên vật liệu chính phải được xác định theo số thực tế đã dùng. Giá trị vật liệu chính nằm trong sản phẩm dở dang = Số lượng sản phẩm dở dang cuối kì x Toàn bộ giá trị vật liệu chính xuất dùng Số lượng thành phẩm + Số lượng sản phẩm dở dang Chi phí chế biến nằm trong sản phẩm dở dan._.g = Số lượng sản phẩm dở dang cuối kì (quy đổi ra thành phẩm) x Tổng chi phí chế biến Số lượng thành phẩm + Số lượng sản phẩm dở dang (quy đổi ra thành phẩm) Chi phí chế biến ở đây bao gồm: Giá trị vật liệu phụ tiêu hao cho sản xuất, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. 1.2.3. Tính giá thành sản phẩm 1.2.3.1. Đối tượng tính giá thành sản phẩm Xác định đối tượng tính giá thành chính là việc xác định sản phẩm, bán thành phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối tượng đó có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay là sản phẩm của một giai đoạn sản xuất, tuỳ theo yêu cầu của chế độ kế toán mà doanh nghiệp áp dụng. Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là vấn đề có ý nghĩa lớn, mang tính định hướng cho tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Để phân biệt được đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là một, cần dựa vào các cơ sở sau: Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: (sản xuất giản đơn hay phức tạp) Với sản xuất giản đơn, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất một thứ sản phẩm) hoặc có thể là nhóm sản phẩm (nếu sản xuất nhiều loại sản phẩm). Đối tượng tính giá thành ở đây là sản phẩm cuối cùng. Với sản xuất phức tạp, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm… Còn đối tượng tính giá thành lại là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo. Loại hình sản xuất: (đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn) Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt nhỏ, đối tượng hạch toán chi phí là các đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn đặt hàng. Đối với sản xuất hàng loạt có khối lượng lớn, phụ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất (đơn giản hay phức tạp) mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ… Còn đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm. Yêu cầu và trình độ quản lí, tổ chức sản xuất kinh doanh: Dựa trên cơ sở trình độ, yêu cầu và tổ chức quản lí để xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành. Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành ở các góc độ khác nhau. Ngược lại, nếu trình độ thấp thì đối tượng đó có thể bị hạn chế và bị thu hẹp lại. 1.2.3.2. Đơn vị tính giá thành và kì tính giá thành Đơn vị tính giá thành là căn cứ tính được thừa nhận phổ biến trong nền kinh tế quốc dân và phải phù hợp với tính chất hoá lí của sản phẩm. Đơn vị tính giá thành phải tương ứng với đơn vị tính đã ghi trong kế hoạch của doanh nghiệp. Trên cơ sở đối tượng tính giá thành đã xác định, căn cứ vào chu kì sản xuất sản phẩm, đặc điểm tổ chức sản xuất, tính chất sản phẩm, để xác định kì tính giá thành nhằm cung cấp số liệu về giá thành sản phẩm một cách kịp thời phục vụ cho công tác quản lí doanh nghiệp. Thông thường, những doanh nghiệp sản xuất với khối lượng lớn, chu kì sản xuất ngắn thì kì tính giá thành thích hợp là hàng tháng. Còn đối với những doanh nghiệp sản xuất đơn chiếc hoặc theo từng đơn đặt hàng, có chu kì sản xuất dài, sản phẩm hay nhóm sản phẩm hoàn thành khi kết thúc chu kì sản xuất của sản phẩm hay nhóm sản phẩm đó thì kì tính giá thành là thời điểm hoàn thành. Kì tính giá thành ở đây không trùng với thời điểm báo cáo. 1.2.3.3. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm Phương pháp tính giá thành là một phương pháp hay hệ thống phương pháp được sử dụng để tính giá thành đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý kĩ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Phương pháp tính giá thành bao gồm: Phương pháp trực tiếp. Phương pháp tổng cộng chi phí. Phương pháp hệ số. Phương pháp tỉ lệ. Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ. Phương pháp liên hợp. Phương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn): phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn và chu kì sản xuất ngắn như các nhà máy điện, nước, các doanh nghiệp khai thác (quặng, than, gỗ…). Giá thành sản phẩm = Tổng chi phí sản xuất + - Chênh lệch giữa giá trị sản phẩm dở dang đầu kì so với cuối kì Số lượng sản phẩm hoàn thành Đối với doanh nghiệp sản xuất giản đơn, là những doanh nghiệp có quy trình sản xuất giản đơn, khép kín từ khâu đưa nguyên liệu vào đến khi hoàn thành sản phẩm; mặt hàng sản xuất ít, khối lượng lớn, chu kì sản xuất ngắn, kì tính giá thành định kì hàng tháng phù hợp với kì báo cáo, đối tượng tính giá thành tương ứng với đối tượng tập hợp chi phí sản xuất; thì công việc tính giá thành thường được tiến hành vào cuối tháng theo phương pháp trực tiếp (giản đơn) hoặc phương pháp liên hợp. 1.2.4. Sổ kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Trước hết, kế toán mở sổ (hoặc thẻ) hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ phân sản xuất sản phẩm, nhóm sản phẩm…). Sổ được mở riêng cho từng TK 621, 622, 627, 154, 142, 335. Căn cứ để ghi vào sổ là sổ chi tiết các TK tháng trước và các chứng từ gốc, các bảng phân bổ (tiền lương, BHXH, vật liệu, dụng cụ, khấu hao…), bảng kê chi phí theo dự toán. Sổ có thể mở riêng theo từng đối tượng hoặc mở chung cho nhiều đối tượng. Tiếp theo đó, kế toán tập hợp chi phí phát sinh trong kì có liên quan đến từng đối tượng hạch toán. Sau đó, kế toán tổng hợp toàn bộ chi phí phát sinh theo từng nội dung thuộc từng đối tượng hạch toán vào cuối kì làm cơ sở cho việc tính giá thành. Đồng thời lập thẻ tính giá thành sản phẩm dịch vụ theo từng loại. Căn cứ để lập thẻ tính giá thành từng loại sản phẩm, dịch vụ là các thẻ tính giá thành sản phẩm kì trước, sổ hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh kì này và biên bản kiểm kê, đánh giá sản phẩm dở dang cuối kì cùng với bảng kê khối lượng sản phẩm, dịch vụ hoàn thành trong kì. Các doanh nghiệp đang sử dụng một trong bốn hình thức sổ kế toán sau: Hình thức Nhật kí chung. Hình thức Nhật kí - Sổ cái. Hình thức Chứng từ ghi sổ. Hình thức Nhật kí - Chứng từ. Hiện nay, Công ty Việt Hà đang sử dụng hình thức sổ Nhật kí - Chứng từ để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Đây là hình thức sổ phù hợp với những doanh nghiệp có quy mô lớn, loại hình kinh doanh phức tạp, có trình độ quản lí cũng như trình độ kế toán cao. Hình thức sổ Nhật kí - Chứng từ dùng để tập hợp và hệ thống hoá các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo bên Có của các tài khoản kết hợp với việc phân tích các nghiệp vụ đó theo bên Nợ của các tài khoản đối ứng. Để theo dõi chi phí sản xuất kinh doanh, kế toán sử dụng các sổ chi tiết, Bảng phân bổ, Bảng kê số 4, Bảng kê số 5, Bảng kê số 6 và Nhật kí chứng từ số 7. Chứng từ về chi phí sản xuất kinh doanh Bảng kê 4 Bảng kê 6 Bảng kê 5 Nhật kí chứng từ số 7 Thẻ tính giá thành Sổ cái TK 621, 622, 627, 154 Báo cáo kế toán Sơ đồ 7: Quy trình ghi sổ kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo hình thức sổ Nhật kí - Chứng từ. 1.3. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở một số nước trên thế giới 1.3.1. Tại Pháp Theo kế toán Pháp, chi phí sản xuất được hiểu là số tiền bỏ ra để mua các yếu tố cần thiết để tạo ra sản phẩm mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Chi phí gồm hai bộ phận: Chi phí mua hàng hoá, vật tư, các loại dự trữ cho sản xuất. Các phí tổn phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh. Không tính vào chi phí những số tiền bỏ ra như mua sắm TSCĐ hữu hình, vô hình, mua chứng khoán…Nhưng được tính vào chi phí một số khoản doanh nghiệp không phải trả. Giá thành sản phẩm bao gồm giá phí sản xuất và giá phí phân phối. Giá phí sản xuất bao gồm những giá phí vật liệu sử dụng trong sản xuất và các chi phí về sản xuất như chi phí nhân công, tu bổ sữa chữa, khấu hao. Giá phí phân phối bao gồm các chi phí về tiêu thụ sản phẩm, chi phí vận chuyển bao bì, đóng gói, thuế bảo hiểm… Đối với kế toán Việt Nam, Giá thành sản xuất sản phẩm được tính dựa vào chi phí sản xuất sản phẩm. Còn đối với kế toán Pháp thì: Giá thành sản xuất sản phẩm = Giá phí sản xuất + Giá phí phân phối Như vậy, giá thành sản phẩm của kế toán Pháp có thêm chỉ tiêu giá phí phân phối. Trong đó giá phí phân phối của kế toán Pháp thực chất là Chi phí bán hàng. Xuất phát từ quan điểm giá thành là toàn bộ hao phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được bù đắp bằng doanh thu bán hàng nên nội dung cấu thành giá thành sản phẩm của kế toán Pháp phản ánh đầy đủ lượng hao phí mà doanh nghiệp phải bù đắp. Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm: Kế toán Pháp sử dụng phương pháp kiểm kê định kì để hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Kết chuyển tồn cuối năm TK chi phí quản lí thông thường Giảm giá, bớt giá, hồi khấu kết chuyển vào cuối năm Kết chuyển tồn đầu năm TK thuế, đảm phụ và các khoản phải nộp TK dịch vụ mua ngoài TK mua hàng TK chênh lệch tồn kho NVL, TK chênh lệch tồn kho các loại dự trữ sản xuất khác TK nguyên liệu TK các loại dự trữ sản xuất khác TK tiền mặt, tiền gửi ngân hàng Tài khoản dự phòng TK Nhà nước - Thuế doanh thu TK nhân viên lương nợ lại TK kết quả hoạt động kinh doanh TK chi phí nhân viên Chi mua hàng, dịch vụ Nộp thuế theo định kì Xác định lương của nhân viên Kết chuyển chi phí Kết chuyển chi phí Kết chuyển chi phí Kết chuyển chi phí Kết chuyển chi phí Kết chuyển chi phí Sơ đồ 8: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của kế toán Pháp 1.3.2. Tại Mỹ Theo kế toán Mỹ, chi phí là khoản hao phí bỏ ra để thu được một số của cải, vật chất, dịch vụ. Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu đo lường các khoản hao phí vật chất mà doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Giá thành chia thành hai loại: Giá thành sản phẩm (hay giá phí sản xuất): là các chi phí liên quan quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành (hay giá phí) chung cho kì kế toán: là các giá phí liên quan các hoạt động chung cho kì kế toán. Như vậy, giá thành chung bao gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lí doanh nghiệp. Khi xuất dùng nguyên vật liệu, kế toán Mỹ hạch toán thẳng giá trị nguyên vật liệu vào chi phí sản xuất kinh doanh dở dang Nợ TK “ Sản phẩm dở dang” Có TK “ Nguyên vật liệu” Tương tự như vậy đối với chi phí nhân công trực tiếp Nợ TK “Sản phẩm dở dang” Có TK “Tiền lương” Riêng đối với chi phí sản xuất chung thì không hạch toán thẳng vào chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Sở dĩ như vậy là do nguyên vật liệu và chi phí nhân công gián tiếp phục vụ nhu cầu chung trong phân xưởng không thể tập hơp trực tiếp cho từng đơn đặt hàng hay quá trình sản xuất, nên các chi phí đó được hạch toán tương tự kế toán Việt Nam . Kế toán Mỹ và kế toán Việt Nam thường hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên. Phương pháp hạch toán chi phí theo kiểm kê định kì ít được sử dụng. Khái quát kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp kê khai thường xuyên của kế toán Mỹ thông qua sơ đồ sau: K/c CP SXC Giá thành sản phẩm hoàn thành Chi phí dịch vụ mua ngoài dùng cho sản xuất CP NVL gián tiếp Tk phải trả CNV TK khấu hao luỹ kế TK phải trả người bán TK chi phí SXC Tài khoản nguyên vật liệu TK GVHB TK sản phẩm dở dang TK thành phẩm CP NVL TT Khấu hao TSCĐ dùng cho sản xuất Chi phí nhân công gián tiếp Chi phí nhân công trực tiếp Giá vốn thành phẩm tiêu thụ Sơ đồ 9: Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp kiểm kê định kì của kế toán Mỹ Phần 2. Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Việt Hà 2.1. Những đặc điểm kinh tế - kĩ thuật của Công ty Việt Hà ảnh hưởng đến kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cho đến nay Công ty Việt Hà đã có được 37 năm hoạt động. Do yêu cầu của Nhà nước cũng như để đáp ứng nhu cầu của thị trường Công ty Việt Hà đã qua rất nhiều lần đổi tên, thay đổi mặt hàng, cũng như thay đổi quy trình sản xuất. Năm 1966 theo quyết định của UBND Thành phố Hà Nội, hợp tác xã Ba Nhất đổi tên thành “Xí nghiệp nước chấm chuyên sản xuất nước chấm, dấm, tương”. Xí nghiệp nước chấm này trực thuộc Sở Công nghiệp Hà nội. Các sản phẩm sản xuất đều theo chỉ tiêu, kế hoạch và pháp lệnh. Sau khi Nghị quyết hội nghị Trung ương VI và Nghị quyết 25, 26 CP ngày 21/10/1981 của Chính phủ cho phép các xí nghiệp tự lập kế hoạch, một phần tự khai thác vật tư nguyên liệu và tự tiêu thụ, Xí nghiệp đã áp dụng cơ chế đa dạng hóa sản phẩm với nhiều chủng loại mặt hàng như: rượu, mỳ sợi, dầu ăn, bánh phồng tôm, kẹo các loại…phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Với thành tích đó ngày 4/5/1982 Xí nghiệp được đổi tên thành Nhà máy thực phẩm Hà Nội theo quyết định 1652 QĐUB của UBND Thành phố Hà Nội. Lúc này Nhà máy có khoảng 500 công nhân, sản xuất vẫn mang tính thủ công. Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 ra đời, quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được phát huy. Với chính sách này nhà máy được quyền huy động mọi nguồn vốn và quỹ, tự chủ trong việc xác định phương án sản xuất kinh doanh.Vì vậy, thời kì này Nhà máy đã mạnh dạn đầu tư sản xuất sản phẩm để xuất khẩu sang Liên Xô cũ và một số nước Đông Âu. Cho đến năm 1989 - 1990 khi biến động chính trị ở Liên Xô và một số nước Đông Âu xảy ra, kéo theo sự suy sụp về kinh tế ở các nước đó, Nhà máy nước chấm mất đi nguồn tiêu thụ, tình hình sản xuất trở nên khó khăn. Cuối năm 1990, Nhà máy hầu như không sản xuất và chờ giải thể. Đứng trước tình hình đó, ban lãnh đạo Nhà máy đã đề ra mục tiêu chính là: Đổi mới công nghệ, đầu tư chiều sâu, tìm phương hướng sản xuất sản phẩm có giá trị cao, liên doanh liên kết trong và ngoài nước. Được các cấp các ngành thành phố giúp đỡ, Nhà máy quyết định đi vào sản xuất mặt hàng bia. Đây là hướng đi dựa trên các nghiên cứu về thị trường, nguồn vốn và phương hướng lựa chọn kỹ thuật và công nghệ. Nhà máy đã mạnh dạn vay vốn đầu tư, mua thiết bị sản xuất bia hiện đại của Đan Mạch để sản xuất bia lon, với tên gọi là bia Halida. Bên cạnh đó Nhà máy còn sản xuất bia hơi. Tháng 6/ 1992 theo quyết định 1224/QĐUB nhà máy được đổi tên là Nhà máy bia Việt Hà. Ngày 1/4/1993 Nhà máy quyết định dùng dây truyền sản xuất bia lon Halida và quyền sử dụng đất của mình để liên doanh với hãng bia Carlsberg của Đan Mạch, với mục đích là có được sự ổn định hơn cho nhãn hiệu bia Halida và nguồn lợi nhuận từ hoạt động liên doanh. Đến tháng 10 năm 1993, liên doanh chính thức đi vào hoạt động với tên gọi “Nhà máy bia Đông Nam á” trong đó phần vốn góp của Nhà máy bia Việt Hà là 72,67 tỷ đồng, chiếm 40% tổng số vốn liên doanh. Hoạt động cũng như việc hạch toán của Nhà máy bia Đông Nam á hoàn toàn độc lập với nhà máy bia Việt Hà. Sau khi đã liên doanh với hãng bia Carlsberg, Nhà máy bia không còn sản xuất bia lon hay bia chai nữa mà chỉ sản xuất sản phẩm bia hơi chất lượng cao và nước khoáng tên gọi là Opal. Hoạt động của Nhà Máy bia Việt Hà ngày càng phát triển vững mạnh. Được sự đồng ý của Sở Công nghiệp Hà Nội và theo quyết định của Uỷ Ban nhân dân Thành phố Hà Nội, đến ngày 2/11/1994, Nhà máy đổi tên thành Công ty bia Việt Hà, trụ sở tại số 245, đường Minh Khai, quận Hai Bà Trưng. Lúc bấy giờ trực thuộc công ty bao gồm hai phân xưởng sản xuất bia hơi (phân xưởng I tại công ty, phân xưởng II tại số 47 Quỳnh Lôi), một trung tâm thể dục thể thao tại 493 Trương Định - quận Hai Bà Trưng và một phân xưởng sản xuất nước khoáng Opal đóng ở thành phố Nam Định. Công ty còn dự định sản xuất thêm sản phẩm dấm ăn với tên gọi là Vivi. Trong đó Công ty xác định bia hơi vẫn là sản phẩm chính. Vào giai đoạn này cái tên bia hơi Việt Hà đã trở nên quen thuộc với người tiêu dùng ở Hà Nội và một số tỉnh lân cận. Năm 1998, để thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, theo quyết định số 35/98QĐUB ngày 15/9/1998 của UBND Thành phố Hà Nội, Công ty tiến hành cổ phần hoá phân xưởng II tại 57 Quỳnh Lôi thành công ty cổ phần tên gọi là Công ty cổ phần Việt Hà. Tại Công ty cổ phần này Công ty bia Việt Hà giữ số cổ phần chi phối là 20%. Công ty cổ phần Việt Hà hoạt động và hạch toán độc lập. Năm 1999, theo quyết định 5775/QĐUB của UBND Thành phố Hà nội ngày 29/12/1999, Công ty bia Việt Hà tiếp tục cổ phần hoá Trung tâm thể dục thể thao tại 493 Trương Định thành Công ty cổ phần, trong đó Công ty bia Việt Hà giữ 37% số vốn điều lệ. Cũng như vậy công ty cổ phần mới này hoạt động và hạch toán độc lập với Công ty bia Việt Hà. Do nhu cầu mở rộng hơn nữa lĩnh vực kinh doanh nên Công ty bia Việt Hà cần có một tên gọi phù hợp hơn. Vì vậy đầu năm 2002, Công ty bia Việt Hà đã đổi tên thành Công ty sản xuất kinh doanh đầu tư và dịch vụ Việt Hà gọi tắt là Công ty Việt Hà (theo Quyết định số 6103/QĐ-UB ngày 04/09/2002 của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà nội). Cuối năm 2002, do yêu cầu của Nhà nước, hai công ty là Công ty kinh doanh thực phẩm vi sinh và Xí nghiệp mỹ phẩm Hà Nội đã sáp nhập vào Công ty Việt Hà. Như vậy, cho đến nay Công ty Việt Hà đang sản xuất và kinh doanh các mặt hàng sau: bia hơi, nước tinh khiết Opal. Mặt hàng mỹ phẩm hiện vẫn chưa được tiếp tục sản xuất, Công ty chỉ đang tập trung giải quyết số mỹ phẩm còn tồn kho. Riêng đối với dấm ăn Vivi, do Nhà máy dấm Vivi đang trong quá trình xây dựng nên hiện nay sản phẩm dấm ăn Vivi cũng chưa đi vào sản xuất. Công ty dự kiến sẽ đưa sản phẩm này ra thị trường trong một thời gian không xa nữa. Với mục đích để nâng cao hiệu quả kinh doanh và mở rộng quy mô sản xuất, hiện nay Công ty Việt Hà có các đơn vị thành viên sau: Nhà máy bia Việt Hà (tại Công ty Việt Hà: 245 Minh Khai, Hà Nội ) Nhà máy nước tinh khiết Opal (300 Trường Chinh, Nam Định) Nhà máy dấm Vivi (đang xây dựng) Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp và dịch vụ mỹ phẩm (trụ sở chính tại Công ty Việt Hà) Các đơn vị thành viên của Công ty Việt Hà không hạch toán độc lập mà toàn bộ hoá đơn chứng từ ở đó đều được chuyển đến Công ty Việt Hà để hạch toán. Nhà máy nước tinh khiết Opal ở Nam Định vẫn thực hiện nộp thuế như quy định cho địa phương. Tiến tới, để phù hợp với chủ trương của Nhà nước các đơn vị thành viên sẽ hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con. Sau khi thực hiện liên doanh với hãng bia Carlsberg. Toàn bộ dây chuyền sản xuất bia lon và bia chai của Công ty Việt Hà chuyển giao cho Công ty bia Đông Nam á. Hiện nay, Công ty chỉ tập trung sản xuất sản phẩm chính là bia hơi, còn sản phẩm nước khoáng Opal hiện đang trong giai đoạn thâm nhập thị trường. Cho đến nay bia hơi Việt Hà đã có một chỗ đứng vững chắc trong thị trường bia hơi của Hà Nội và các tỉnh lân cận. Sau quá trình nghiên cứu các đặc điểm như nhu cầu và tầng lớp khách hàng, mức thu nhập của những người tiêu dùng, đặc điểm về thời tiết v.v.. Công ty xác định sản phẩm bia hơi sẽ là sản phẩm chiến lược của mình. Bia hơi có một số đặc điểm khác so với một số sản phẩm thông thường khác ở chỗ khả năng tiêu thụ của nó phụ thuộc vào thời tiết, khoảng thời gian sản phẩm được tiêu thụ nhiều là từ tháng 3 đến tháng 11. Trong những tháng cao điểm của mùa hè Công ty phải sản xuất với công suất tối đa. Tổng công suất của nhà máy là 18 triệu lít bia hơi một năm. Thị phần của bia hơi Việt Hà hiện nay tại Hà Nội chiếm khoảng 35%, chỉ đứng sau bia hơi Hà Nội (chiếm thị phần xấp xỉ 40%). Công ty Việt Hà là doanh nghiệp Nhà nước, hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, tự chủ về tài chính, có con dấu riêng, hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước, thuộc UBND Thành phố Hà nội, dưới sự quản lí trực tiếp của Sở Công nghiệp Hà Nội. Mục tiêu của Công ty hiện nay là đa dạng hoá các loại hình sản phẩm nhưng vẫn đảm bảo chất lượng và có sự cải tiến sản phẩm truyền thống. Chiến lược của Công ty là trong tương lai sẽ sản xuất kinh doanh bia hơi, bia lon, bia chai và các loại nước khoáng, nước giải khát có ga, không ga… Bên cạnh đó, chiến lược lâu dài của Công ty còn là xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước ngoài, thực hiện liên doanh, liên kết với các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước. Hiện nay, chức năng chính của Công ty vẫn là tập trung sản xuất sản phẩm bia hơi và từng bước đưa sản phẩm nước khoáng Opal vào thị trường. Từ chức năng đó, Công ty có nghĩa vụ với Nhà nước là thực hiện nộp thuế GTGT đối với mặt hàng nước khoáng và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng bia hơi. Ngoài ra Công ty còn phải nộp các loại thuế khác theo quy định của Nhà nước. Bên cạnh đó để thực hiện tốt chức năng của mình Công ty còn tập trung nâng cao trình độ tay nghề của đội ngũ công nhân viên cũng để bắt kịp công nghệ mới, tình hình mới nhằm thúc đẩy sự phát triển của Công ty. 2.1.2. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lí của Công ty Bộ máy quản lí của công ty được được thực hiện theo mô hình kết hợp (trực tuyến – chức năng). Với mô hình này, những quyết định quản lí do các phòng chức năng nghiên cứu, đề xuất với thủ trưởng. Khi được thủ trưởng thông qua biến thành mệnh lệnh được truyền đạt từ trên xuống dưới theo tuyến đã quy định. Nhà máy bia Việt Hà Công ty KD XNK tổng hợp và dịch vụ Mỹ phẩm Nhà máy nước khoáng Opal Nhà máy dấm Vivi Giám đốc PGĐ tổ chức hành chính PGĐ kĩ thuật PGĐ tài chính, kinh doanh Phòng hành chính Phòng tổ chức Phòng bảo vệ Phòng KT, KCS Phòng kế hoạch kho, vận tải Phòng BH - marketing Phòng Tài chính -Kế toán Sơ đồ 10: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lí của Công ty Việt Hà Giám đốc là người có quyền cao nhất trong Công ty, có trách nhiệm quản lí, điều hành mọi hoạt động của Công ty trên cơ sở chấp hành đúng đắn chủ trương, chính sách, chế độ Nhà nước, chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Phó giám đốc kĩ thuật có nhiệm vụ theo dõi, chỉ đạo và giám sát thực hiện công tác nghiệp vụ của các phòng ban phân xưởng bao gồm: phòng kĩ thuật - KCS, phòng kế hoạch - kho - vận tải, Nhà máy bia Việt Hà (đóng tại Công ty, 254 Minh Khai), những công việc liên quan đến công tác sản xuất, kĩ thuật và chất lượng sản phẩm, an toàn lao động, vệ sinh thực phẩm. Phó giám đốc hành chính - tổ chức có nhiệm vụ theo dõi chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của các phòng ban bao gồm phòng hành chính quản trị, phòng tổ chức nhân sự, phòng bảo vệ, những công tác liên quan đến công tác hành chính, tổ chức nhân sự, bảo vệ, phong trào thi đua… Phó giám đốc kinh doanh có nhiệm vụ theo dõi chỉ đạo và giám sát thực hiện công tác nghiệp vụ của các phòng ban bao gồm phòng tài chính, phòng kế hoạch - kho - vận tải, phòng bán hàng marketing, ban điều hành vận tải, cửa hàng dịch vụ giới thiệu sản phẩm, những công việc liên quan đến công tác tài chính và kinh doanh. Các phòng ban chức năng chịu sự điều hành trực tiếp của các Phó giám đốc. Ngoài việc thực hiện các chức năng của mình các phòng ban còn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm kiểm tra, đối chiếu số liệu và giúp đỡ nhau hoàn thành tốt công việc được giao. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban như sau: Phòng KT - KCS có nhiệm vụ kiểm tra nguyên nhiên vật liệu trước khi mua về nhập kho, trước khi đưa vào sản xuất; kiểm tra tình hình hoạt động của hệ thống máy móc thiết bị sản xuất; kiểm tra việc chấp hành quy trình kĩ thuật phương pháp thao tác của công nhân, kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi tiêu thụ. Phòng tổ chức có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc về tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh, bố trí nhân sự phù hợp với yêu cầu phát triển của Công ty, theo dõi lao động tiền lương, xem xét nâng bậc lương cho CBCNV theo chế độ quy định, theo dõi thi đua, chế độ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thân thể, làm các chế độ về huân huy chương. Phòng hành chính quản trị có nhiệm vụ sắp xếp lịch công tác, hội nghị của công ty; tiếp khách đối nội, đối ngoại của công ty; sắp xếp, điều hành xe ôtô con phục vụ công tác; tiếp nhận công văn cũng như mọi yêu cầu, kiến nghị của CBCNV trong Công ty và báo cáo giám đốc giải quyết; kết hợp với công đoàn tạo điều kiện cho CBCNV trong phòng tích cực tham gia các phong trào thi đua trong Công ty, phong trào vệ sinh phòng bệnh, an toàn nơi làm việc; lập dự trù chi phí hành chính hàng tháng và thực hiện theo kế hoạch được duyệt; quản lí tài liệu lưu trữ cũng như các trang thiết bị hành chính trong Công ty; tổ chức quản lí nhà ăn và bộ phận y tế phục vụ CBCNV. Phòng kế hoạch vật tư có nhiệm vụ phát hiện nhu cầu vật tư, kiểm kê số vật tư tồn kho, mua sắm vật tư, nhập kho và bảo quản vật tư, cấp phát vật tư. Phòng bán hàng - marketing có nhiệm vụ thu thập các thông tin về thị trường, hoạch định các chính sách sản phẩm, hoạch định các chính sách về giá cả, hoạch định chính sách phân phối, hoạch định chính sách hỗ trợ tiêu thụ. Phòng tài chính kế toán có nhiệm vụ ghi chép, tổng hợp, tham mưu cho cấp trên các vấn đề về tài chính như tạo vốn, sử dụng vốn, quản lý vốn (chủ yếu là quản lý lưu thông, thanh toán, các quan hệ tín dụng) và kế toán sổ sách, tính toán chi phí - thu nhập, lỗ lãi, lập các Báo cáo tài chính. 2.1.3. Đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm bia hơi Nguyên vật liệu chính bao gồm: malt, gạo, hops (hoa Hublon), enzym (cerflo, termamil), hoá chất nấu (H3PO4, CaCl2, CaSO4, Hexametyles), men bia, bột trợ lọc, giấy lọc, hoá chất tẩy rửa (P3reencone, P3oxonia, NaOH). Trong đó Malt (lúa mạch qua sơ chế chưa rang) được nhập khẩu chủ yếu của Đan Mạch, Anh. Hoa Hublon tạo hương vị bia cũng được nhập khẩu từ Đan Mạch hoặc Đức. Các nguyên liệu khác như gạo, chất trợ lọc…được mua trong nước. Vật liệu phụ bao gồm: hoá chất phòng thí nghiệm, cát lọc nước, than hoạt tính, hoá chất xử lí nước (zaven, hạt cation…), ga NH3, các loại dầu, mỡ bôi trơn, dầu lạnh…phục vụ cho qúa trình sản xuất. Ngoài ra để hoàn thành quy trình sản xuất bia còn sử dụng Nhiên liệu: xăng, dầu ôtô, ga bếp. Các phụ tùng thay thế vật tư sửa chữa. Các trang bị, phương tiện: máy móc, thiết bị sản xuất, trang bị bảo hộ lao động…. Bao bì: bom bia và dụng cụ chứa đựng bia; các loại bao bì khác. Gạo tẻ Dịch hoá Nấu Xay nghiền Men giống Lên men phụ Bia thành phẩm Đường hoá Malt Nấu hoa Hoa hublon Lọc trong Lọc Xay nghiền, ngâm Nước Lên men chính Sơ đồ 11: Quy trình công nghệ sản xuất bia Quá trình sản xuất sản phẩm từ nguyên liệu đầu vào cho đến thành phẩm xuất xưởng đều được điều hành và kiểm soát một cách chặt chẽ. Đặc điểm tiêu thụ sản phẩm Hiện nay, với sự thành công của sản phẩm bia hơi Việt Hà, Công ty đã có hơn 200 đại lí ở Hà Nội và các tỉnh lân cận. Các đại lí được phân thành 3 cấp, sự phân cấp này phụ thuộc vào quy mô và mức độ tiêu thụ hàng của đại lí đó. Đại lí cấp 1 được hưởng giá mua thấp nhất sau đó đến đại lí cấp 2 và cấp 3. Tất cả các đại lí của Công ty không được hưởng hoa hồng bán hàng, do vậy Công ty không kiểm soát giá bán ra của các đại lí. Công ty chỉ đầu tư cơ sở vật chất ban đầu cho các đại lí, giao hàng cho các đại lí với giá bia hơi nhập cho các đại lí phụ thuộc vào cấp của đại lí đó. Việc hạch toán của các đại lí hoàn toàn độc lập với Công ty. 2.2. Tổ chức bộ máy và bộ sổ kế toán của Công ty Việt Hà 2.2.1. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán của Công ty Bộ máy kế toán của công ty gồm 8 người, làm việc theo nguyên tắc tập trung. Công ty có các phần hành kế toán sau: Kế toán TSCĐ. Kế toán nguyên vật liệu và thanh toán với người bán. Kế toán lương, các khoản trích theo lương và tình hình thanh toán với người lao động. Kế toán tiền mặt. Kế toán tiền gửi ngân hàng. Kế toán thuế. Kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành; Kế toán thành phẩm hàng hoá. Kế toán tiêu thụ và thanh toán với người mua. Lập báo cáo kế toán cuối kì. Kế toán trưởng Thu ngân Phần hành kế toán Tài chính (Do kế toán trưởng đảm nhiệm) - Sử dụng vốn - Nguồn vốn - Cân đối thu chi 2 Thu ngân 1 Thủ quỹ 1 quản lý chứng từ hoá đơn 1 KT viên - Tiềnmặt - Công nợ - NVL , công cụ - Lương & phân bổ lương Phó phòng (kiêm KT tổng hợp) - TSCĐ - Giá thành - Lập BCTC 1 KT viên - TGNH - D thu - Thành phẩm - Thuế Sơ đồ 12: Tổ chức bộ máy kế toán của Công ty Việt Hà Kế toán trưởng trực tiếp phụ trách toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ tài chính, kế toán trong Công ty, chịu trách nhiệm lập kế hoạch cân đối thu chi hàng tháng, quý, năm phục vụ cho sản xuất kinh doanh theo đúng chế độ tài chính. Đồng thời kế toán trưởng còn có nhiệm vụ tổng hợp các thông tin tài chính để tham mưu cho giám đốc các vấn đề liên quan đến lĩnh vực tài chính, kế toán giúp thực hiện tốt hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Phó phòng kế toán phụ trách phần hành TSCĐ, tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm, phần hành kế toán tổng hợp và lập báo cáo tài chính đảm nhận những trách nhiệm sau: Theo dõi, phản ánh tình hình tăng giảm TSCĐ trong toàn công ty, tính toàn phân bổ số khấu hao hàng quý. Tập hợp toàn bộ các thông tin về tình hình chi phí sản xuất của toàn Công ty. Từ đó tính giá thành sản phẩm bia hơi và nước khoáng theo quý. Lập các Báo cáo tài chính định kì cũng như đột xuất gửi các cơ quan chức năng theo đúng quy định. Đáp ứng kịp thời các Báo cáo về tài chính khi trưởng phòng, ban giám đốc yêu cầu. Kế toán tiền mặt, công nợ, nguyên vật liệu, lương và phân bổ lương có những chức năng nhiệm vụ sau: Theo dõi thường xuyên mọi hoạt động thu chi của quỹ tiền mặt. Kiểm tra, theo dõi và thanh toán những chứng từ liên quan đến hoạt động mua bán có phát sinh các khoản phải thu, phải trả trong quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty. Theo dõi, giám sát hoạt động xuất nhập tồn vật tư, nguyên liệu. Tính đúng đủ mọi chi phí mua nguyên vật liệu để xác định đúng giá mua nguyên vật liệu. Theo dõi, quản lí, phản ánh tình hình về lương, thưởng, các khoản trích theo lương. Kế toán TGNH, doanh thu, thành phẩm và các khoản thuế có những nhiệm vụ sau: Theo dõi, giám sát thường xuyên mọi hoạt động của các khoản TGNH. Chứng từ, Sổ theo dõi chi tiết tài khoản phải được cập nhật hằng ngày, thường xuyên đối chiếu số dư với ngân hàng. Theo dõi tình hình nhập - xuất - tồn thành phẩm trong kì ._.oanh dở dang đầu kì D cuối kì : Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cuối kì Như em đã trình bày ở phần đặc điểm tổ chức công tác kế toán của Công ty Việt Hà, sản phẩm bia hơi không có nhập kho nên tổng số lượng nhập kho (ở mẫu số của công thức trên) của bia hơi chính là tổng số lượng tiêu thụ. Vì thế căn cứ số lượng bia hơi bán ra trong quý, kế toán có được số lượng bia hơi thành phẩm nhập kho để tính giá thành sản phẩm. Để tính được giá thành đơn vị sản phẩm theo công thức trên thì kế toán phải xác định D cuối kì. Theo như phần kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang, ta đã tính được số dư cuối kì của TK 1541. Từ Sổ kế toán tổng hợp TK 1541 ta có số dư đầu kì TK 1541, phát sinh trong kì của TK 1541 và giá trị phế liệu thu hồi. Như vậy, giá thành bia hơi được tính như sau: Zđơn vị = 925.235.120 + 10.606.669.012 – 16.815.176 – 1.167.600.526 4.154.866,5 = 2.490 (đồng) Từ các số liệu trên Sổ kế toán tổng hợp TK 1541 và số lượng bia hơi nhập kho, máy tính cho phép kết xuất Bảng tính giá thành bia hơi như sau: Công ty Việt Hà Phòng tài chính Giá thành sản xuất bia hơi Từ ngày 01/07/2002 đến ngày 30/09/2002 Đơn vị: đồng Số TT Chỉ tiêu Trị giá 1 I - Chi phí sản xuất dở dang đầu kì 925.235.120,00 2 II - Tổng chi phí sản xuất trong kì 10.606.669.012,00 3 1 - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 5.526.808.498,00 4 2 - Chi phí nhân công trực tiếp 922.734.652,00 5 3 - Chi phí sản xuất chung 4.157.125.862,00 6 III - Các khoản giảm trừ 1.184.415.702,00 7 1 - Giá trị phế liệu thu hồi 16.815.176,00 8 2 - Giá trị nguyên vật liệu tồn kho phân xưởng 44.442.254,00 9 3 - Giá trị sản phẩm dở dang cuối kì 1.123.158.272,00 10 IV - Tổng giá thành thực tế nhập kho (I+II+III) 10.347.488.430,00 11 V- Sản lượng thành phẩm (lít) 4.154.866,50 12 VI - Giá thành sản xuất (IV/V) (đ/lít) 2.490,00 Biểu 33: Giá thành sản xuất bia hơi Phần 3. Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty Việt Hà 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Việt Hà Đối với một doanh nghiệp sản xuất thông thường, có thể nói đạt được lợi nhuận cao là mục tiêu hàng đầu. Nhất là trong môi trường kinh doanh cạnh tranh gay gắt như hiện nay, càng đòi hỏi các doanh nghiệp quan tâm nhiều đến tiết kiệm chi phí giảm giá thành và tối đa hoá lợi nhuận. Điều này đặt ra cho các doanh nghiệp là cần phải tổ chức quản lí sản xuất và hạch toán kinh doanh có hiệu quả. Trong đó, hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng. Là một doanh nghiệp sản xuất, Công ty Việt Hà cũng nhận thấy được tầm quan trọng của việc tổ chức hạch toán chính xác chi phí sản xuất cũng như tính đúng và tính đủ giá thành. Kế toán chính xác chi phí sản xuất không chỉ là việc tổ chức ghi chép, phản ánh đầy đủ, trung thực về mặt lượng chi phí mà cả việc tính toán các chi phí bằng tiền theo đúng nguyên tắc và phản ánh từng loại chi phí theo từng địa điểm phát sinh, thời điểm xảy ra, xác định đúng đối tượng chịu chi phí. Tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm là hai bước công việc liên tiếp và gắn bó hữu cơ với nhau. Do đó cần phải tổ chức công tác tập hợp chi phí sản xuất một cách hợp lí, khoa học và từ đó giá thành mới được tính đúng. Việc tính đúng, tính đủ giá thành giúp phản ánh đúng đắn tình hình và kết quả thực hiện giá thành của doanh nghiệp, xác định đúng đắn kết quả tài chính, tránh tình trạng lãi giả lỗ thật. 3.2. Một số nguyên tắc hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty Việt Hà Hoàn thiện kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm cần dựa trên các nguyên tắc sau: Hoàn thiện trên cơ sở tôn trọng cơ chế tài chính, tôn trọng chế độ kế toán. Vì kế toán không chỉ là công cụ quản lí kinh tế của đơn vị mà còn là công cụ quản lí nền kinh tế của Nhà nước. Tổ chức công tác kế toán tại các đơn vị kinh tế được phép vận dụng cơ chế tài chính và chế độ kế toán trên cơ sở đặc thù của đơn vị chứ không bắt buộc phải dập khuôn hoàn toàn theo chế độ nhưng vẫn phải tôn trọng cơ chế và chế độ kế toán. Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trên cơ sở phù hợp với đặc điểm tổ chức quản lí sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải đảm bảo đáp ứng được thông tin kịp thời, chính xác cho nhà quản lí. Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải dựa trên cơ sở tiết kiệm chi phí với mục đích hiệu quả kinh doanh cao. Yêu cầu đối với kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm: Phải nắm vững nội dung và bản chất kinh tế của chi phí Phải phân loại chi phí sản xuất hợp lí theo yêu cầu của công tác quản lý và hạch toán. Phải phân định chi phí với giá thành sản phẩm và nắm rõ mối quan hệ giữa chúng Phải nắm được các cách phân loại giá thành khác nhau phục vụ cho công tác quản lý và hạch toán. Xác định đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm phù hợp. Xác định trình tự hạch toán và tổng hợp chi phí sản xuất thích ứng. 3.3. Đánh giá kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Việt Hà 3.3.1. Những ưu điểm Công ty Việt Hà là doanh nghiệp sản xuất có quy mô vừa. Bộ máy kế toán của Công ty tương đối hoàn thiện. Hiện nay, Công ty Việt Hà sử dụng phần mềm kế toán tự viết áp dụng cho tất cả các phần hành kế toán. Các nhân viên phòng kế toán đều là những người có năng lực, điều hành công việc kế toán cả thủ công lẫn trên máy tính thành thạo. Phần mềm kế toán của Công ty sử dụng được viết riêng phù hợp với đặc điểm hạch toán của Công ty. Mặc dù vậy, do phương pháp ghi sổ theo hình thức Nhật kí - chứng từ đòi hỏi chi tiết nên một số phần kế toán vẫn còn phải hạch toán thủ công như hạch toán chi tiết nguyên vật liệu hay hạch toán chi tiết tiền mặt và TGNH. Riêng đối với kế toán phần hành chi phí thì được làm hoàn toàn bằng máy tính. Phần hành kế toán chi phí và tính giá thành là một phần hành kế toán chủ chốt của Công ty. Hiện tại Công ty đang sản xuất hai mặt hàng là bia hơi và nước khoáng Opal, hai mặt hàng này được sản xuất độc lập. Do đặc điểm nguyên vật liệu cũng như quy trình sản xuất khác nhau nên hai việc hạch toán hai sản phẩm này cũng độc lập với nhau. Vì thế có thể dễ dàng theo dõi từ việc phát sinh chi phí cho đến tập hợp chi phí và tính giá thành của từng mặt hàng. Đồng thời kế toán cũng theo dõi số tổng hợp của cả hai mặt hàng để tính được tổng chi phí sản xuất trong kì của toàn Công ty. Sự trợ giúp của máy tính trong việc hạch toán kế toán nói chung và hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành nói riêng đã mang lại hiệu quả cao. Kế toán máy giúp cho việc tính toán được nhanh chóng và chính xác. Đồng thời giúp giảm được sự cồng kềnh về sổ sách, tiết kiệm được thời gian và nhân công. Mặc dù áp dụng kế toán máy nhưng hệ thống chứng từ, sổ sách kế toán của Công ty Việt Hà vẫn tuân thủ chế độ kế toán hiện hành mà Bộ Tài chính quy định cho các doanh nghiệp áp dụng hình thức sổ Nhật kí - chứng từ. Đồng thời các sổ sách này cũng phù hợp với đặc điểm riêng của công tác hạch toán kế toán tại Công ty. Sổ sách kế toán được tổ chức khoa học, chặt chẽ đáp ứng đầy đủ nhu cầu cung cấp thông tin. Qua đó đã tăng cường hiệu quả làm việc của bộ máy kế toán. Có thể nhận thấy việc hạch toán nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ của Công ty Việt Hà là chặt chẽ. Trong giới hạn của đề tài này em chỉ đề cập đến khâu xuất nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ. Hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên mặc dù không được phù hợp với một doanh nghiệp có nhiều chủng loại vật liệu, công cụ dụng cụ và có nghiệp vụ xuất vật liệu thường xuyên như Công ty Việt Hà. Nhưng đây là phương pháp có độ chính xác cao (trong điều kiện áp dụng kế toán máy), có thể xác định được lượng nhập, xuất, tồn kho từng loại nguyên vật liệu ở bất kì thời điểm nào. Cách theo dõi nguyên vật liệu của Công ty chặt chẽ ở chỗ là vừa theo dõi được chi tiết tình hình nhập, xuất, tồn cuả từng danh điểm nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ (trên Sổ chi tiết vật liệu) lại vừa theo dõi theo hoá đơn xuất nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ (Trên bảng kê chi tiết bút toán TK 621, TK 627). Đồng thời kế toán còn theo dõi số tổng họp của phiếu xuất vật tư trên Bảng kê chi tiết xuất vật tư theo nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, công cụ… Như vậy, có thể nói công tác hạch toán nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ nói chung và hạch toán xuất nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ nói riêng của Công ty có nhiều ưu điểm, đã đáp ứng được các nhu cầu quản lí khác nhau. Là một doanh nghiệp sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít và sản xuất ngắn ngày, quy trình sản xuất liên tục, không có bán thành phẩm nhập kho Công ty Việt Hà chọn phương pháp tính giá thành sản phẩm theo phương pháp giản đơn là hợp lí. Từ đặc điểm về sản phẩm và yêu cầu quản lí, em thấy việc tập hợp chi phí sản xuất riêng cho từng loại sản phẩm như ở Công ty Việt Hà như vậy là phù hợp và tối ưu. Với chỉ hai mặt hàng sản xuất, Công ty có thể dễ dàng theo dõi được hiệu quả của từng mặt hàng đem lại thông qua việc tập hợp chi phí riêng biệt. Cũng từ yêu cầu tập hợp chi phí riêng cho từng mặt hàng như vậy nên việc chi tiết tài khoản của Công ty cũng đã đáp ứng được yêu cầu kế toán. Như đối với TK 154, kế toán đã chi tiết thành: TK 1541 - chi phí sản xuất kinh doanh dở dang bia hơi TK 1542 - chi phí sản xuất kinh doanh dở dang nước Opal Hướng chi tiết như thế thống nhất với yêu cầu của việc hạch toán. Còn đối với các TK 621, TK 622, TK 627 các Bảng kê chi tiết bút toán đều được chi tiết cho từng phân xưởng sản xuất nên việc theo dõi các chi phí này dễ dàng và thuận tiện. Việc chi tiết TK 621 thành hai tiểu khoản: TK 6211 - chi phí nguyên vật liệu chính; TK 6212 - chi phí nguyên vật liệu phụ - đã giúp kế toán của Công ty không mất thời gian vào việc tách đối tượng chế biến (nguyên vật liệu chính) ra khỏi nguyên vật liệu trực tiếp. Từ đó, giúp cho việc xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kì nhanh chóng và chính xác. 3.3.2. Một số tồn tại Về tài khoản sử dụng Mặc dù sự phân chia hệ thống tài khoản riêng cho phân xưởng bia hơi và nước khoáng Opal như vậy là hợp lí, tuy nhiên nếu xét cụ thể hơn thì việc chi tiết một số tài khoản như hiện nay vẫn còn có nhược điểm. Đối với TK 627 hướng chi tiết tài khoản như Công ty đang dùng nhằm mục đích để gọn nhẹ số tiểu khoản sử dụng. Nhưng nếu chi tiết TK 627 như thế sẽ dẫn đến khó khăn trong việc xem xét cũng như kiểm tra chi phí phát sinh từ đâu. Ví dụ như tại Công ty hiện nay, ngoài chi phí nhân viên, chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ và chi phí khấu hao, tất cả các chi phí khác đều được hạch toán vào TK 6277. Như vậy kế toán sẽ khó khăn trong việc theo dõi nguyên nhân phát sinh chi phí, điều này tạo nên sự không rõ ràng và còn có thể dẫn đến gian lận trong ghi chép kế toán. Bên cạnh đó, Công ty không nên phán ánh số BHYT và BHXH trên cùng một TK 3383. Như vậy, thứ nhất người kiểm tra rất khó để kiểm tra số BHYT và BH XH đã trích vào chi phí là bao nhiêu. Thứ hai, việc sử dụng TK như vậy là không đúng với chế độ kế toán hiện hành. Về sử dụng sổ sách kế toán Trong khâu xuất nguyên vật liệu và công cụ, dụng cụ, kế toán theo dõi trên các loại sổ như vậy là đầy đủ và hợp lí. Tuy nhiên cách ghi của Bảng kê chi tiết xuất vật tư của Công ty theo em là chưa khoa học. Nếu để phục vụ mục đích quản lí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ thì kế toán không cần theo dõi riêng cho nguyên vật liệu của bia hơi và nước khoáng mà chỉ cần theo dõi theo danh điểm nguyên vật liệu như Sổ chi tiết vật tư. Còn với Bảng kê chi tiết xuất vật tư, mục đích của này là theo dõi số vật tư xuất cho sản xuất chi tiết theo nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ.v.v…của hai phân xưởng. Vì thế cần thiết phải thấy được tổng số xuất nguyên vật liệu cho phân xưởng bia hơi và nước khoáng trên Bảng kê chi tiết xuất vật tư. Nhưng ở Công ty Việt Hà, Bảng kê chi tiết xuất vật tư không có kết cấu thật phù hợp. Ví dụ như ở Bảng kê chi tiết xuất vật tư (biểu3), mặc dù các chứng từ xuất vật tư cho sản xuất bia hơi và nước khoáng là tách biệt nhưng các chứng từ này cùng được phán ánh chung trên cùng một Bảng kê tiết xuất vật tư (biểu 3), số tổng cộng cuối Sổ này là tổng số vật tư xuất dùng cho cả bia hơi và nước khoáng. Nếu như người xem muốn biết số xuất nguyên vật liệu của bia hơi thì phải làm thao tác cộng các hoá đơn xuất vật tư của bia hơi trên Bảng kê. Về mẫu Bảng phân bổ khấu hao của Công ty, mẫu Bảng phân bổ khấu hao Công ty Việt Hà đang sử dụng không cho thấy được số khấu hao trích kì trước cũng như số khấu hao tăng, giảm trong kì. Điều này gây bất lợi cho nhà quản lí trong việc so sánh biến động khấu hao TSCĐ trong kì. Đối với Bảng tính giá thành sản phẩm, theo em còn có nhược điểm. Trong Bảng tính giá thành sản phẩm của Công ty Việt Hà chỉ có những chi phí phát sinh trong kì mới được chi tiết theo từng khoản mục. Còn chi phí sản xuất kinh doanh dở dang đầu kì và cuối kì thì không được chi tiết theo khoản mục chi phí. Với Bảng tính giá thành như thế dẫn đến sẽ khó khăn khi muốn so sánh đối chiếu về tỉ lệ các loại chi phí sản xuất trong tổng giá thành sản phẩm. Ngoài ra, kế toán cần phản ánh phát sinh của TK 335 trên Bảng kê số 6 như quy định. Về tính giá xuất nguyên vật liệu Hiện nay, Công ty đang sử dụng phương pháp bình quân cả kì dự trữ để tính giá xuất nguyên vật liệu. Phương pháp này có ưu điểm là giảm nhẹ được việc hạch toán chi tiết nguyên vật liệu so với các phương pháp tính giá xuất khác. Nhưng phương pháp này có nhược điểm là chỉ đến cuối kì kế toán mới tính được giá xuất nguyên vật liệu, điều này làm ảnh hưởng đến các khâu kế toán khác, đồng thời giá xuất nguyên vật liệu không được chính xác. Kì hạch toán của Công ty Việt Hà lại theo quý, đấy là một khoảng thời gian dài. Vì thế tính giá xuất nguyên vật liệu theo phương pháp bình quân cả kì dự trữ không những làm ảnh hưởng tiến độ của những khâu kế toán khác mà còn không phản ánh được chính xác giá xuất nguyên vật liệu. Từ đó dẫn đến sai lệch về chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí sản xuất chung và giá thành sản phẩm. Sản xuất bia hơi ở Công ty Việt Hà có đặc điểm là quy trình sản xuất ngắn, có nhiều danh điểm nguyên vật liệu, nhu cầu xuất nguyên vật liệu và công cụ, dụng cụ trong kì lớn, nhiều lần. Vì thế Công ty nên sử dụng phương pháp tính giá xuất nguyên vật liệu và công cụ dụng cụ phù hợp hơn. Vả lại, với sự trợ giúp của kế toán máy thì khối lượng công việc của việc tính giá xuất nguyên vật liệu không còn là điều lo ngại. Về việc trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất và trích trước các khoản thiệt hại ngừng sản xuất Tại Công ty Việt Hà, tuy chỉ có một phân xưởng sản xuất bia hơi nhưng trong phân xưởng có đến 12 tổ sản xuất, số lượng công nhân sản xuất của Công ty cũng khá lớn. Thêm vào đó, sản phẩm bia hơi là sản phẩm tiêu thụ theo mùa vụ, sản xuất cũng phụ thuộc vào mùa vụ. Chính vì vậy, Công ty nên thực hiện trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất và trích trước thiệt hại ngừng sản xuất theo kế hoạch. Có như vậy mới tránh được hiện tượng giá thành thay đổi đột ngột khi có các chi phí này phát sinh. Về kế toán nguyên vật liệu xuất dùng không hết Hiện nay, tại Công ty Việt Hà, cuối kì vật liệu xuất dùng không hết vẫn để trên dư Nợ TK 154. Cụ thể như sau: Trong kì khi xuất nguyên vật liệu cho sản xuất bia hơi kế toán ghi: Nợ TK 621 - PX bia: 5.526.808.498 Có TK 152: 5.526.808.498 Cuối kì sau khi kiểm kê nguyên vật liệu xuất dùng không hết kế toán có được số lượng và giá trị nguyên vật liệu tồn kho phân xưởng nhưng kế toán không nhập lại kho số nguyên vật liệu này mà vẫn xem đó như một khoản phát sinh của TK 621 và kết chuyển về TK 1541. Nợ TK 1541: 5.526.808.498 Có TK 621 - PX bia: 5.526.808.498 Như vậy, tổng giá trị nguyên vật liệu xuất dùng không hết cuối kì và giá trị sản phẩm dở dang cuối kì sau khi kiểm kê là số Dư cuối kì của TK 1541. Mặc dù cách hạch toán như vậy không làm thay đổi chi phí sản xuất thực tế phát sinh và giá thành sản phẩm trong kì, nhưng với cách hạch toán này dẫn đến sự không chính xác trong việc hạch toán TK 621, và phản ánh chi phí NVLTT trên Bảng kê số 4, Nhật kí chứng từ số 7. Về phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang Phương pháp “xác định giá trị sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương” mà Công ty đang sử dụng chỉ nên áp dụng để tính các chi phí chế biến trong sản phẩm dở dang, còn với chi phí nguyên vật liệu chính của sản phẩm dở dang thì cần phải xác định theo số thực tế đã dùng. Tuy nhiên, hiện nay Công ty vẫn đang đánh giá sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương trong đó giá trị sản phẩm dở dang không được tách riêng cho chi phí nguyên vật liệu chính và chi phí chế biến. Điều này làm cho giá trị sản phẩm dở dang tính được là không chính xác. 3.4. Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Việt Hà Về tài khoản sử dụng Đối với TK 627 nên được chi tiết như sau: TK 6271 - Chi phí nhân viên phân xưởng. TK 6272 - Chi phí vật liệu. TK 6273 - Chi phí dụng cụ sản xuất. TK 6274 - Chi phí khấu hao tài sản cố định. TK 6277 - Chi phí dịch vụ mua ngoài. TK 6278 - Chi phí bằng tiền khác. Việc chi tiết TK 627 như vậy giúp cho kế toán theo dõi nguồn gốc phát sinh các chi phí sản xuất chung được rõ ràng hơn. Trên thực tế, tại phân xưởng sản xuất bia hơi của Công ty Việt Hà có rất nhiều các nghiệp vụ phát sinh đối với TK 627, nhất là trong mùa sản xuất cao điểm. Chính vì vậy việc chi tiết TK 627 như trên là cần thiết. Theo chế độ hiện hành, TK 621 “chi phí nguyên vật liệu trực tiếp” dùng để phản ánh toàn bộ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (bao gồm chi phí nguyên vật liệu chính và nguyên vật liệu phụ). Tại Công ty Việt Hà, kế toán đã chi tiết TK 621 thành: TK 6211 - chi phí nguyên vật liệu chính, TK 6212 - chi phí nguyên vật liệu phụ - Theo em đây là một ưu điểm, vì nhờ cách chi tiết tài khoản như thế kế toán sẽ không mất thời gian vào việc tách nguyên vật liệu trực tiếp thành đối tượng chế biến (nguyên vật liệu chính) và chi phí chế biến (nguyên vật liệu phụ). Từ đó, việc xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kì sẽ nhanh chóng và chính xác, tạo điều kiện cho việc xác định giá thành sản phẩm được kịp thời. Vậy em xin kiến nghị với Bộ Tài chính mở thêm chi tiết TK 621 như trên. Bên cạnh đó Công ty nên hạch toán BHXH vào TK 3383, BHYT vào TK 3384. Về sổ sách kế toán Từ nhược điểm đã nêu ở trên, theo em kế toán nên theo dõi các chứng từ xuất vật tư của bia hơi và nước khoáng trên hai Bảng kê chi tiết xuất vật tư. Hoặc có thể ghi trên một sổ nhưng tách thành hai cột là bia hơi và nước khoáng. Như thế kế toán sẽ có được tổng số xuất nguyên vật liệu của bia hơi (theo loại vật tư) khi cần tìm và vẫn có được sổ tổng cộng số xuất vật tư để sản xuất của cả hai sản phẩm. Đề cập đến Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ cho thấy với mẫu Bảng phân bổ khấu hao TSCĐ như hiện nay Công ty đang sử dụng đã không phản ánh được mức khấu hao tăng, mức khấu hao giảm trong kì. Vì thế, Công ty nên sử dụng mẫu Bảng tính và phân bổ khấu hao như sau: Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ Quý… năm… Số TT Chỉ tiêu Tỷ lệ KH hoặc thời gian SD Nơi sử dụng Toàn DN TK 627-Chi phí SXC TK 641 TK 642 TK 241 TK 142 TK 335 N/giá TSCĐ Số KH PX bia PX Opal 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 1 I. Số khấu hao đã trích quý trước 2 - 3 - 4 II. Số KH tăng trong quý 5 - 6 - 7 III. Số KH giảm trong quý 8 - 9 - 10 Số KH phải trích quý này (I+II-III) 11 - 12 - Biểu 34: Mẫu Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ Về tính giá xuất nguyên vật liệu Việc áp dụng phương pháp tính giá xuất nguyên vật liệu theo phương pháp bình quân cả kì dự trữ như hiện nay Công ty Việt Hà đang sử dụng có thể nói là không hợp lí, nhất là khi kì hạch toán của Công ty lại theo quý. Vì thế theo em, Công ty nên sử dụng phương pháp giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập để tính giá xuất nguyên vật liệu. Phương pháp tính giá này cũng tính cho từng danh điểm nguyên vật liệu. Mặc dù tính giá xuất nguyên vật liệu sau mỗi lần nhập chỉ thường áp dụng đối với những doanh nghiệp có ít danh điểm nguyên vật liệu, và số lần nhập của mỗi loại nguyên vật liệu không nhiều. Tuy nhiên hiện nay, với sự trợ giúp của kế toán máy thì số danh điểm nguyên vật liệu và số lần nhập không còn là vấn đề phức tạp. Việc tính giá xuất nguyên vật liệu sau mỗi lần xuất đảm bảo cho giá xuất nguyên vật liệu được chính xác hơn và không làm ảnh hưởng đến tiến độ của các khâu khác. Phương pháp tính giá bình quân sau mỗi lần nhập của nguyên vật liệu như sau: Giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập = Giá thực tế vật liệu tồn kho sau mỗi lần nhập Số lượng thực tế tồn kho sau mỗi lần nhập Về việc trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất và trích trước các khoản thiệt hại ngừng sản xuất Lương nghỉ phép của công nhân sản xuất và các khoản thiệt hại ngừng sản xuất theo kế hoạch kế toán hạch toán vào TK 335. Nợ TK 622: (lương nghỉ phép của công nhân sản xuất) Nợ TK 627, 641, 642: (Thiệt hại ngừng sản xuất theo kế hoạch) Có TK 335: (trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất và thiệt hại ngừng sản xuất theo kế hoạch). Về hạch toán nguyên vật liệu xuất dùng không hết Theo đúng chế độ kế toán hiện hành, cuối kì đối với vật liệu xuất dùng không hết phải nhập kho trở lại. Vì vậy, với số nguyên vật liệu xuất dùng không hết của Công ty, kế toán cần hạch toán như sau: Nợ TK 152: 44.442.254 Có TK 621 - PX bia: 44.442.254 Sau đó mới thực hiện kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: (số nguyên vật liệu thực tế dùng cho sản xuất: 5.526.808.498 – 44.442.254 =5.482.366.244). Nợ TK 1541: 5.482.366.244 Có TK 621 - PX bia: 5.482.366.244 Về phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang Hiện nay, Công ty Việt Hà đang áp dụng phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương. Kế toán của Công ty đã không tách riêng chi phí nguyên vật liệu chính và chi phí chế biến trong sản phẩm dở dang mà gộp chung các chi phí đó để tính giá trị sản phẩm dở dang, cách tính như vậy là chưa chính xác. Vẫn là đánh giá sản phẩm dở dang theo phương pháp sản lượng ước tính tương đương nhưng em xin đề xuất cách tính chính xác hơn cách tính mà Công ty đang sử dụng: Ta có: Tổng giá trị sản phẩm dở dang = Giá trị vật liệu chính nằm trong sản phẩm dở dang + Chi phí chế biến nằm trong sản phẩm dở dang. Trong đó: Giá trị vật liệu chính trong sản phẩm dở dang = Số lượng sản phẩm dở dang cuối kì x Toàn bộ giá trị vật liệu chính xuất dùng Số lít thành phẩm + Số lít sản phẩm dở dang Chi phí chế biến nằm trong sản phẩm dở dang = Số lít sản phẩm dở dang cuối kì (quy đổi ra thành phẩm) x Tổng chi phí chế biến Số lít thành phẩm + Số lít sản phẩm dở dang (quy đổi ra thành phẩm) Chi phí chế biến ở đây bao gồm: Giá trị vật liệu phụ tiêu hao nằm trong sản phẩm dở dang, chi phí nhân công trực tiếp nằm trong sản phẩm dở dang, chi phí sản xuất chung nằm trong sản phẩm dở dang. Như vậy, để tính được giá trị sản phẩm dở dang theo cách tính mới, kế toán cần tính được chi phí vật liệu chính và chi phí chế biến. Mặc dù hiện tại giá trị phế liệu thu hồi của Công ty không được tách riêng cho chi phí nguyên vật liệu chính và chi phí nguyên vật liệu phụ. Tuy nhiên, có thể căn cứ vào tỉ lệ nguyên vật liệu chính và nguyên vật liệu phụ sản xuất để xác định tỉ lệ nguyên vật liệu chính và nguyên vật liệu phụ trong phế liệu thu hồi. Từ Sổ tổng hợp chi tiết xuất vật tư của nguyên vật liệu chính và nguyên vật liệu phụ ta có được giá trị nguyên vật liệu chính và nguyên vật liệu phụ xuất sản xuất trong kì của bia hơi. Giá trị nguyên vật liệu chính xuất dùng trong kì: 4.997.488.662 (đồng) Giá trị nguyên vật liệu phụ xuất dùng trong kì: 529.319.836 (đồng) Theo biểu 32 (Bảng tồn kho phân xưởng bia hơi) ta có: Giá trị nguyên vật liệu chính xuất dùng không hết trong kì: 34.412.328 (đồng) Giá trị nguyên vật liệu phụ xuất dùng không hết trong kì: 10.029.926 (đồng) Giá trị nguyên vật liệu chính xuất dùng trong kì và giá trị nguyên vật liệu phụ xuất dùng trong kì trừ đi giá trị nguyên vật liệu chính và nguyên vật liệu phụ tương ứng xuất dùng không hết trong kì thì có được giá trị nguyên vật thực tế đã dùng cho sản xuất trong kì. Kết hợp với Sổ kế toán tổng hợp TK 621, TK 622, TK 627, TK 154 ta lập được Bảng tổng hợp chi phí sản xuất bia hơi như sau: (Phần nguyên vật liệu xuất dùng không hết đã được trừ ra trong chi phí nguyên vật liệu trực tiếp). Bảng tổng hợp chi phí sản xuất bia hơi Từ ngày 01/07/2002 đến ngày 30/09/2002 Đơn vị: đồng Chỉ tiêu Giá trị SPDD đầu kì CPSX phát sinh trong kì Phế liệu thu hồi (tiền bán bã bia) 1. Chi phí NVLTT 480.247.008 5.482.366.244 16.815.176 - Chi phí NVL chính 434.757.995 4.963.076.334 15.222.442 - Chi phí NVL phụ 45.489.012 519.289.910 1.592.734 2. Chi phí NCTT 80.830.162 922.734.652 - 3. Chi phí SXC 364.157.950 4.157.125.862 - Tổng cộng 925.235.120 10.056.222.676 16.815.176 Biểu 35: Bảng tổng hợp chi phí Là kì đầu tiên áp dụng cách tính giá trị sản phẩm dở dang cuối kì như trên, nên kế toán sẽ căn cứ vào tỉ lệ chi phí của các khoản mục chi phí phát sinh trong kì để tính các khoản mục chi phí trong giá trị sản phẩm dở dang đầu kì. Căn cứ vào Bảng tổng hợp chi phí sản xuất bia hơi trên, ta tính được giá trị sản phẩm dở dang cuối kì như sau: Giá trị vật liệu chính trong sản phẩm dở dang = 434.757.995 + 4.963.076.334 – 15.222.442 x 563.608,5 4.154.866,5 + 563.608,125 = 642.937.397 (đồng) Chi phí NVL phụ nằm trong sản phẩm dở dang = 45.489.012 + 519.289.910 – 1.592.734 x (563.608,125 x 80%) 4.154.866,5 + (563.608,125 x 80%) = 55.133.883 (đồng) Chi phí NCTT nằm trong sản phẩm dở dang = 80.830.162 + 922.734.652 x (563.608,125 x 80%) 4.154.866,5 + (563.608,125 x 80%) = 98.245.352 (đồng) Chi phí SXC nằm trong sản phẩm dở dang = 364.157.950 + 4.157.125.862 x (563.608,125 x 80%) 4.154.866,5 + (563.608,125 x 80%) = 442.617.273 (đồng) Từ đó ta có chi phí sản xuất dở dang cuối kì của bia hơi là: Chi phí sản xuất dở dang cuối kì = 642.937.397 + 55.133.883 + 98.245.352 + 442.617.273 = 1.238.933.905 (đồng) Như vậy so sánh với cách tính giá trị sản phẩm dở dang của Công ty Việt Hà đang sử dụng ta có chi phí dở dang cuối kì theo cách tính mới lớn hơn: 1.238.933.905 - 1.123.158.272 = 115.775.633 (đồng) (ở đây đã loại trừ giá trị nguyên vật liệu xuất dùng không hết mà chỉ đề cập đến giá trị sản phẩm dở dang). Với các yếu tố khác không đổi thì khi chi phí dở dang cuối kì tăng lên sẽ làm cho giá vốn hàng bán bia hơi sẽ giảm đi 115.775.633 (đồng) và lợi nhuận trước thuế của Công ty sẽ tăng lên 115.775.633 (đồng). Có thể tính được giá thành mới như sau: Tổng giá thành bia hơi = 925.235.120 + 10.562.226.758 - 1.238.933.905 = 10.248.527.937 (đồng) Giá thành đơn vị bia hơi = 10.248.527.973 4.154.866,5 = 2.467 (đồng) Với cách xác định giá trị sản phẩm dở dang như trên, ta có thể lập Bảng tính giá thành mới, trong đó cả chi phí dở dang đầu kì và chi phí dở dang cuối kì đều được chi tiết theo khoản mục. Em xin đề xuất mẫu Thẻ tính giá thành như sau: (giá trị nguyên vật liệu tồn kho phân xưởng và phế liệu thu hồi đã trừ vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kì). Thẻ tính giá thành sản phẩm Từ 01/07/2002 đến 30/09/2002 Tên sản phẩm: Bia hơi Đơn vị: đồng Chỉ tiêu Tổng số tiền Chia ra theo khoản mục CP NVLTT CP NCTT CP SXC 1 2 3 4 5 1. CP SXKD DD đầu kì 925.235.120 480.247.008 80.830.162 364.157.950 2. CP SXKD phát sinh trong kì 10.562.226.758 5.482.366.244 922.734.652 4.157.125.862 3. CP SXKD DD cuối kì 1.238.933.905 698.071.280 98.245.352 442.617.273 4. Tổng giá thành sản phẩm 10.248.527.973 5.264.541.972 905.319.462 4.078.666.539 5. Giá thành đơn vị sản phẩm 2.467 1276 218 982 Biểu 36: Thẻ tính giá thành sản phẩm Kết luận Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu kinh tế cơ bản phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tính đúng, tính đủ giá thành được dựa trên cơ sở của công tác hạch toán chính xác chi phí sản xuất. Điều này khẳng định lại ý nghĩa của việc hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất nói chung và tại Công ty Việt Hà nói riêng. Luận văn đã nêu lên những vấn đề lí luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất, đồng thời cũng khái quát đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Việt Hà. Đặc biệt luận văn đi sâu phản ánh thực trạng công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm bia hơi thông qua việc mô tả cụ thể quy trình kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm bia hơi tại Công ty Việt Hà. Sau khi so sánh giữa thực trạng với lí thuyết cũng như so sánh với chế độ kế toán hiện hành, luận văn đã đề cập đến một số điểm mà công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành còn vướng mắc. Từ đó luận văn đã đề xuất một số kiến nghị với mục đích để hoàn thiện công tác kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Việt Hà. Qua thời gian thực tập tại Công ty Việt Hà, kết hợp với những kiến thức học ở trường, em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp với đề tài “Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Việt Hà”. Đây là một đề tài đòi hỏi sự tìm hiểu, nghiên cứu một cách lâu dài và nghiêm túc. Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, em đã được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Trần Văn Thuận và sự giúp đỡ của Công ty Việt Hà. Em xin gửi lời cám ơn chân thành nhất đến thầy giáo và các anh chị ở phòng kế toán Công ty Việt Hà. Danh mục tài liệu tham khảo Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp. Chủ biên: TS. Đặng Thị Loan - NXB Giáo dục 2001. Lí thuyết và thực hành kế toán tài chính. Chủ biên: TS. Nguyễn Văn Công - NXB Tài chính 2001. Giáo trình kế toán Quốc tế. Chủ biên TS. Nguyễn Minh Phương - TS. Nguyễn Thị Đông - NXB Thống kê 2002. Tạp chí tài chính. Tạp chí kế toán. Thông tư số 89/2002/TT-BTC ngày 9/10/2002. Mục lục Trang Danh mục tài liệu tham khảo ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29656.doc