Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cao su Sao Vàng

Lời mở đầu Nền kinh tế thị trường với sự tự do cạnh tranh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, mở ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội để vươn lên tự khẳng định mình. Tuy nhiên nó cũng đặt ra cho các doanh nghiệp không ít khó khăn thách thức phải giải quyết. Với lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, Công ty Cao su sao vàng đã không ngừng hoàn thiện công tác quản lí doanh nghiệp của mình, trong đó chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu quan trọng mà Công ty luôn quan tâm. Để tồn t

doc37 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1271 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cao su Sao Vàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại và đứng vững trong nền kinh tế thị trường, tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm là động lực chính của Công ty. Các nhà quản trị muốn đưa ra được quyết định đúng đắn về việc nâng cao hiệu quả sử dụng chi phí hay để điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh, thì các thông tin kế toán đưa ra phải thật sát thực. Điều đó đòi hỏi công việc hạch toán chi phí cần phải chính xác, giá thành sản phẩm cần được tính đúng và tính đủ. Nhận thức được tầm quan trọng của việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, em đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cao su sao vàng” cho chuyên đề kế toán trưởng của mình. Chuyên đề gồm ba nội dung chính sau: Phần 1. Những vấn đề lí luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất. Phần 2. Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cao su sao vàng. Phần 3. Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cao su sao vàng. Do những hạn chế về thời gian và trình độ, Chuyên đề sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định mong được sự góp ý để hoàn thiện hơn. Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp sản xuất Sự cần thiết của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kì phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác, quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp ba yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất hàng hoá cũng chính là quá trình tiêu hao của chính bản thân các yếu tố trên. Như vậy, để tiến hành sản xuất hàng hoá, người sản xuất phải bỏ chi phí về thù lao lao động, về tư liệu lao động, đối tượng lao động. Vì thế, sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất. Chi phí sản xuất Khái niệm chi phí sản xuất Chi phí sản xuất - kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp bỏ ra liên quan đến hoạt động sản xuất - kinh doanh trong một thời kì nhất định (tháng, quý, năm). Thực chất, chi phí là sự dịch chuyển vốn - chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ), là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một kì để thực hiện quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Để hiểu rõ hơn về chi phí cần phân biệt chi phí và chi tiêu: Chi phí là sự biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kì kinh doanh. Như vậy, chỉ được tính là chi phí của một kì hạch toán những hao phí về tài sản liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất trong kì chứ không phải mọi khoản chi ra trong kì hạch toán. Chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kì của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp (mua sắm vật tư, hàng hoá…), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh (chi cho sản xuất, chế tạo sản phẩm…) và chi cho quá trình tiêu thụ (chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo). Như vậy chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Tổng số chi phí phát sinh trong kì của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kì này. Chi phí và chi tiêu còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kì này nhưng chưa được tính vào chi phí (chi mua nguyên vật liệu về nhập kho nhưng chưa được sử dụng…) và có những khoản tính vào chi phí kì này nhưng thực tế chưa chi tiêu (chi phí trích trước). Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi tiêu và chi phí như vậy là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức dịch chuyển giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kĩ thuật hạch toán chúng. Khác với khái niệm chi phí sản xuất của kế toán Việt Nam, đối với kế toán Mỹ, chi phí sản xuất được hiểu là khoản hao phí bỏ ra để thu được một số của cải vật chất hay dịch vụ. Khoản hao phí này có thể là tiền mặt chi ra, tài sản chuyển nhượng hay dịch vụ hoàn thành…được đánh giá trên căn cứ tiền mặt. Còn theo quan điểm của kế toán Pháp, chi phí sản xuất là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp bỏ ra để phục vụ cho quá trình sản xuất. Chi phí bao gồm: chi phí mua nguyên vật liệu, hàng hoá và các khoản dự trữ khác. Phân loại chi phí sản xuất Chi phí sản xuất kinh doanh có rất nhiều loại, nhiều khoản khác nhau cả về nội dung, tính chất, công dụng, vai trò, vị trí…đối với quá trình kinh doanh. Để thuận lợi cho công tác quản lí và hạch toán, cần phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất. Hiện nay Công Cao su sao vàng đang áp dụng cách phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân chia theo khoản mục. Theo quy định hiện hành, giá thành sản phẩm ở Việt Nam bao gồm 5 khoản mục chi phí: Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp: phản ánh toàn bộ chi phí nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu… tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ. Chi phí nhân công trực tiếp: gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỉ lệ với tiền lương phát sinh. Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất (trừ chi phí vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp). Chi phí bán hàng: bao gồm toàn bộ những chi phí phát sinh liên quan đến tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ. Chi phí quản lí doanh nghiệp: bao gồm những chi phí phát sinh liên quan đến quản trị kinh doanh và quản lí hành chính trong doanh nghiệp. Theo Thông tư 89/2002/TT-BTC ngày 9/10/2002 hướng dẫn kế toán thực hiện 04 chuẩn mực kế toán ban hành theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC, ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, chi phí sản xuất chung được phân loại theo mối quan hệ với sản lượng sản phẩm sản xuất ra. Cụ thể như sau: Chi phí sản xuất chung cố định: là chi phí sản xuất gián tiếp không thay đổi theo sản lượng sản phẩm sản xuất ra như chi phí khấu hao TSCĐ và chi phí bảo dưỡng máy móc thiết bị, chi phí hành chính trong phân xưởng. Chi phí sản xuất chung biến đổi: là chi phí sản xuất gián tiếp thay đổi trực tiếp hoặc gần như trực tiếp theo số lượng sản phẩm dở dang. Ví dụ như: Chi phí ngyên vật liệu trực tiếp, Chi phí nhân công trực tiếp, chi phí dịch vụ mua ngoài. Ngoài cách phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. Chi phí còn có thể được phân loại theo những cách sau: Phân loại theo yếu tố chi phí. Phân loại theo quan hệ giữa chi phí sản xuất và khối lượng công việc sản phẩm hoàn thành. Phân loại theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh. Giá thành sản phẩm Khái niệm giá thành sản phẩm Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm lao vụ đã hoàn thành. Chỉ tiêu giá thành phải gắn liền với từng loại sản phẩm, được tính đối với số lượng sản phẩm đã hoàn thành khi kết thúc toàn bộ quy trình sản xuất, hay một giai đoạn sản xuất (bán thành phẩm) chứ không tính cho thành phẩm còn nằm trên dây chuyền sản xuất. Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kì kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan, không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng - tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Phân loại giá thành sản phẩm Để đáp ứng yêu cầu của quản lí, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được phân loại như sau: Giá thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất. Giá thành tiêu thụ (còn gọi là giá thành toàn bộ hay giá thành đầy đủ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành tiêu thụ được tính theo công thức: Giá thành toàn bộ của sản phẩm = Giá thành sản xuất của sản phẩm + Chi phí quản lí doanh nghiệp + Chi phí bán hàng Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lí biết được kết quả kinh doanh (lãi, lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Ngoài ra, giá thành còn có thể được phân loại theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: Mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí (phát sinh trong kì, kì trước chuyển sang) và các chi phí trích trước liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ, đã hoàn thành trong kì sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra bất kì ở kì nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong kì. Có thể phản ánh mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thông qua sơ đồ sau: Chi phí sản xuất dở dang đầu kì D B Chi phí sản xuất phát sinh trong kì C A Tổng giá thành Sản phẩm, dịch vụ hoàn thành Chi phí sản xuất dở dang cuối kì Qua sơ đồ ta thấy: AC = AB + BD – CD Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành = Chi phí sản xuất dở dang đầu kì + Chi phí sản xuất phát sinh trong kì - Chi phí sản xuất dở dang cuối kì Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở dang) đầu kì và cuối kì bằng nhau, hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí phát sinh trong kì. Trong mối quan hệ chặt chẽ đó, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng có những điểm khác nhau cơ bản sau: Về thời gian: giá thành sản phẩm chỉ gắn với một thời kì nhất định còn chi phí sản xuất thì liên quan đến nhiều kì như chi phí kì trước chuyển sang, chi phí kì này phát sinh không bao gồm các chi phí chuyển sang kì sau. Về sản phẩm: chi phí sản xuất không gắn trực tiếp với số lượng sản phẩm hoàn thành trong kì, còn giá thành được tính trên số lượng bán thành phẩm hay sản phẩm hoàn thành. Về giá trị: Tổng giá thành sản phẩm không bao gồm những chi phí sản xuất đã chi ra trong kì (chi phí chờ phân bổ ở kì sau) song giá thành sản phẩm lại tính cả chi phí đã chi ở kì trước được phân bổ cho kì này. Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kì khác với tổng giá thành sản phẩm của các sản phẩm hoàn thành trong kì. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất Kế toán chi phí sản xuất Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau. Đó là giai đoạn hạch toán chi tiết chi phí sản xuất phát sinh theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, giai đoạn công nghệ, phân xưởng… và giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết sản phẩm, sản phẩm theo đơn đặt hàng đã hoàn thành…theo đơn vị tính giá thành quy định. Việc phân chia này xuất phát từ yêu cầu quản lí, kiểm tra và phân tích chi phí, yêu cầu hạch toán kinh doanh nội bộ, theo đặc điểm quy trình công nghệ của từng doanh nghiệp và yêu cầu tính giá thành sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định. Có thể nói, việc phân chia quá trình hạch toán thành hai giai đoạn là do sự khác nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong hạch toán chi phí sản xuất - tức là đối tượng hạch toán chi phí sản xuất - và sản phẩm hoàn thành cần phải tính giá thành một đơn vị - tức là đối tượng tính giá thành. Như vậy, xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chính là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Về cơ bản, phương pháp hạch toán chi phí bao gồm các phương pháp hạch toán chi phí theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân xưởng, theo nhóm sản phẩm v.v.. Nội dung chủ yếu là kế toán mở thẻ (hoặc sổ) chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh các đối tượng liên quan đến từng đối tượng, hàng tháng tổng hợp chi phí theo từng đối tượng. Tuỳ theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho áp dụng trong doanh nghiệp mà công tác hạch toán chi phí sản xuất được thực hiện theo một trong hai phương pháp sau: Hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên (KKTX) và hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kì (KKĐK). Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu…được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất, hoặc sản phẩm, loại sản phẩm, lao vụ…) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng gián tiếp để phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan. Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng, số lượng sản phẩm… Để theo dõi các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo phương pháp kê khai thường xuyên, kế toán sử dụng TK 621 “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất) với kết cấu như sau: Bên Nợ: Tập hợp chi phí nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ. Bên Có: Giá trị vật liệu xuất dùng không hết. Kết chuyển chi phí vật liệu trực tiếp. Tài khoản 621 cuối kì không có số dư. Sơ đồ 1: Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp TK 151,152, 331, 111, 112.. TK 621 Vật liệu xuất dùng trực tiếp chế tạo sản phẩm, tiến hành lao vụ, dịch vụ Kết chuyển chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp Vật liệu dùng không hết nhập lại kho TK 152 TK 154 Kế toán chi phí nhân công trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản thù lao phải trả cho nhân công trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như tiền lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương (phụ cấp khu vực, độc hại, phụ cấp làm đêm, thêm giờ…). Ngoài ra, chi phí nhân công trực tiếp còn bao gồm các khoản đóng góp cho các quỹ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Kinh phí công đoàn do doanh nghiệp chịu và được tính vào chi phí kinh doanh theo một tỉ lệ nhất định với số tiền lương phát sinh của công nhân trực tiếp sản xuất. Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK 622 “Chi phí nhân công trực tiếp”. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí giống như TK 621. Bên Nợ: Tập hợp chi phí nhân công trực tiếp sản xuất sản phẩm thực hiện lao vụ, dịch vụ. Bên Có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản tính giá thành. Tài khoản 622 không có số dư cuối kì. Sơ đồ 2: Sơ đồ kế toán chi phí nhân công trực tiếp. TK 622 TK 154 Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp Lương và phụ cấp phải trả cho nhân công trực tiếp Các khoản đóng góp theo tỉ lệ với tiền lương thực tế của công nhân trực tiếp sản xuất phát sinh TK 334 TK 338 TK 335 Trích trước tiền lương phép, lương ngừng việc của công nhân trực tiếp sản xuất Kế toán chi phí sản xuất chung Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. Để theo dõi và phản ánh các khoản chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng TK 627 “Chi phí sản xuất chung”. Tài khoản này được mở theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất. TK 627 có kết cấu như sau: Bên Nợ: Chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kì. Bên Có: Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung. TK 627 cuối kì không có số dư do đã kết chuyển hay phân bổ hết cho các loại sản phẩm, dịch vụ, lao vụ và được chi tiết thành 6 tài khoản cấp 2: TK 6271 - Chi phí nhân viên phân xưởng TK 6272 - Chi phí vật liệu TK 6273 - Chi phí dụng cụ sản xuất TK 6274 - Chi phí khấu hao TSCĐ TK 6277 - Chi phí dịch vụ mua ngoài TK 6278 - Chi phí bằng tiền khác Sơ đồ 5: Kế toán chi phí sản xuất chung. TK 627 TK 111, 112, 138,152 Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung Lương và phụ cấp lương nhân viên phân xưởng BHXH, BHYT, KPCĐ (phần tính vào chí phí) TK 334 TK 338 TK 152, 153,142,242 TK 214 TK 111, 112, 331 TK 154 Công cụ, vật liệu xuất dùng phục vụ phân xưởng Khấu hao TSCĐ dùng cho phân xưởng Chi phí dịch vụ mua ngoài Phân bổ và kết chuyển chi phí sản xuất chung TK 133 Thuế GTGT đầu vào Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất Để phản ánh quá trình tổng hợp chi phí sản xuất phát sinh trong kì theo phương pháp kê khai thường xuyên, kế toán sử dụng TK 154 - “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”. TK 154 được mở chi tiết cho từng ngành sản xuất, từng nơi phát sinh chi phí hay từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm, từng loại lao vụ, dịch vụ…của các bộ phận sản xuất - kinh doanh chính, sản xuất kinh - doanh phụ (kể cả thuê ngoài gia công chế biến). Sơ đồ 6: Tổng hợp chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên. TK 154 Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp TK 621 TK 622 TK 627 TK 152, 111… TK 152, 155 TK 632 Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp Kết chuyển (hoặc phân bổ) chi phí sản xuất chung Tổng giá thành thực tế sản phẩm hoàn thành Nhập kho Tiêu thụ thẳng Chờ chấp nhận TK 157 Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang cuối kì ý nghĩa của việc đánh giá sản phẩm dở dang Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm doanh nghiệp cần phải tiến hành kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang. Giá thành sản phẩm có được tính đúng tính đủ hay không phụ thuộc vào việc giá trị sản phẩm dở dang có được tính chính xác hay không. Chính vì thế doanh nghiệp cần phải lựa chọn phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang phù hợp nhất với đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ sản xuất và tính chất sản phẩm của doanh nghiệp. Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang Doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang như sau: Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu chính. Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương. Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo 50% chi phí chế biến. Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc theo chi phí trực tiếp. Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí định mức hoặc kế hoạch. Tính giá thành sản phẩm Đối tượng tính giá thành sản phẩm Xác định đối tượng tính giá thành chính là việc xác định sản phẩm, bán thành phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối tượng đó có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay là sản phẩm của một giai đoạn sản xuất, tuỳ theo yêu cầu của chế độ kế toán mà doanh nghiệp áp dụng. Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là vấn đề có ý nghĩa lớn, mang tính định hướng cho tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Để phân biệt được đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là một, cần dựa vào các cơ sở sau: Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: (sản xuất giản đơn hay phức tạp) Với sản xuất giản đơn, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất một thứ sản phẩm) hoặc có thể là nhóm sản phẩm (nếu sản xuất nhiều loại sản phẩm). Đối tượng tính giá thành ở đây là sản phẩm cuối cùng. Với sản xuất phức tạp, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm… Còn đối tượng tính giá thành lại là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo. Loại hình sản xuất: (đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn) Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt nhỏ, đối tượng hạch toán chi phí là các đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn đặt hàng. Đối với sản xuất hàng loạt có khối lượng lớn, phụ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất (đơn giản hay phức tạp) mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ… Còn đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm. Yêu cầu và trình độ quản lí, tổ chức sản xuất kinh doanh: Dựa trên cơ sở trình độ, yêu cầu và tổ chức quản lí để xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành. Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành ở các góc độ khác nhau. Ngược lại, nếu trình độ thấp thì đối tượng đó có thể bị hạn chế và bị thu hẹp lại. Đơn vị tính giá thành và kì tính giá thành Đơn vị tính giá thành là căn cứ tính được thừa nhận phổ biến trong nền kinh tế quốc dân và phải phù hợp với tính chất hoá lí của sản phẩm. Đơn vị tính giá thành phải tương ứng với đơn vị tính đã ghi trong kế hoạch của doanh nghiệp. Trên cơ sở đối tượng tính giá thành đã xác định, căn cứ vào chu kì sản xuất sản phẩm, đặc điểm tổ chức sản xuất, tính chất sản phẩm, để xác định kì tính giá thành nhằm cung cấp số liệu về giá thành sản phẩm một cách kịp thời phục vụ cho công tác quản lí doanh nghiệp. Thông thường, những doanh nghiệp sản xuất với khối lượng lớn, chu kì sản xuất ngắn thì kì tính giá thành thích hợp là hàng tháng. Còn đối với những doanh nghiệp sản xuất đơn chiếc hoặc theo từng đơn đặt hàng, có chu kì sản xuất dài, sản phẩm hay nhóm sản phẩm hoàn thành khi kết thúc chu kì sản xuất của sản phẩm hay nhóm sản phẩm đó thì kì tính giá thành là thời điểm hoàn thành. Kì tính giá thành ở đây không trùng với thời điểm báo cáo. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm Phương pháp tính giá thành là một phương pháp hay hệ thống phương pháp được sử dụng để tính giá thành đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý kĩ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Phương pháp tính giá thành bao gồm: Phương pháp trực tiếp. Phương pháp tổng cộng chi phí. Phương pháp hệ số. Phương pháp tỉ lệ. Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ. Phương pháp liên hợp. Sổ kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Trước hết, kế toán mở sổ (hoặc thẻ) hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ phân sản xuất sản phẩm, nhóm sản phẩm…). Sổ được mở riêng cho từng TK 621, 622, 627, 154, 142, 335. Căn cứ để ghi vào sổ là sổ chi tiết các TK tháng trước và các chứng từ gốc, các bảng phân bổ (tiền lương, BHXH, vật liệu, dụng cụ, khấu hao…), bảng kê chi phí theo dự toán. Sổ có thể mở riêng theo từng đối tượng hoặc mở chung cho nhiều đối tượng. Tiếp theo đó, kế toán tập hợp chi phí phát sinh trong kì có liên quan đến từng đối tượng hạch toán. Sau đó, kế toán tổng hợp toàn bộ chi phí phát sinh theo từng nội dung thuộc từng đối tượng hạch toán vào cuối kì làm cơ sở cho việc tính giá thành. Đồng thời lập thẻ tính giá thành sản phẩm dịch vụ theo từng loại. Căn cứ để lập thẻ tính giá thành từng loại sản phẩm, dịch vụ là các thẻ tính giá thành sản phẩm kì trước, sổ hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh kì này và biên bản kiểm kê, đánh giá sản phẩm dở dang cuối kì cùng với bảng kê khối lượng sản phẩm, dịch vụ hoàn thành trong kì. Các doanh nghiệp đang sử dụng một trong bốn hình thức sổ kế toán sau: Hình thức Nhật kí chung. Hình thức Nhật kí - Sổ cái. Hình thức Chứng từ ghi sổ. Hình thức Nhật kí - Chứng từ. Hiện nay, Công ty Cao su sao vàng đang sử dụng hình thức sổ Nhật kí - Chứng từ để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Đây là hình thức sổ phù hợp với những doanh nghiệp có quy mô lớn, loại hình kinh doanh phức tạp, có trình độ quản lí cũng như trình độ kế toán cao. Hình thức sổ Nhật kí - Chứng từ dùng để tập hợp và hệ thống hoá các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo bên Có của các tài khoản kết hợp với việc phân tích các nghiệp vụ đó theo bên Nợ của các tài khoản đối ứng. Để theo dõi chi phí sản xuất kinh doanh, kế toán sử dụng các sổ chi tiết, Bảng phân bổ, Bảng kê số 4, Bảng kê số 5, Bảng kê số 6 và Nhật kí chứng từ số 7. Sơ đồ 7: Quy trình ghi sổ kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo hình thức sổ Nhật kí - Chứng từ. Chứng từ về chi phí sản xuất kinh doanh Bảng kê 4 Bảng kê 6 Bảng kê 5 Nhật kí chứng từ số 7 Thẻ tính giá thành Sổ cái TK 621, 622, 627, 154 Báo cáo kế toán Kế toán chi phí sản xuất tại Công ty cao su Sao Vàng. Chi phí sản xuất được tập hợp theo xí nghiệp sau đó phân bổ cho từng sản phẩm theo đơn giá kế hoạch. Hàng tháng kế toán chi phí, giá thành dựa vào Báo cáo sản lượng nhập kho do xí nghiệp tập hợp và đơn giá kế hoạch để phân bổ chi phí cho từng loại sản phẩm. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Để hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán tại Công ty cao su Sao Vàng sử dụng các tài khoản sau: TK 1521: cao su bán thành phẩm TK 621.2: chi phí nguyên vật liệu chính trực tiếp TK 621.3: chi phí nguyên vật liệu phụ trực tiếp TK 621.7: Van các loại Ngoài ra sử dụng các tài khoản liên quan khác như TK 152, TK 153 chi tiết theo từng loại nguyên vật liệu, TK 331, TK 133 trong trường hợp mua về dùng ngay. Việc hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp ban đầu được kế toán nguyên vật liệu theo dõi việc xuất dùng nguyên vật liệu theo từng xí nghiệp bao gồm 4 Xí nghiệp sản xuất chính, 3 Xí nghiệp sản xuất phụ và Xí nghiệp luyện cao su Xuân Hoà đến cuối tháng chuyển cho kế toán tập hợp chi phí vào các bảng kê 4, 5, 6. Khái quát qui trình hạch toán như sau: TK 152, 153 TK 6212 TK 154 Tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ Kết chuyển chi phí TK 152 Vật liệu dùng không hết trả nhập lại kho Sau đó tiến hành phân bổ chi phí cho các sản phẩm, công việc phân bổ được thực hiện riêng cho từng loại chi phí như sau: - Phân bổ chi phí cao su bán thành phẩm. Các chi phí nguyên vật liệu phát sinh ở cao su bán thành phẩm được theo dõi riêng và tính giá bán thành phẩm như một sản phẩm riêng biệt, khi sản phẩm này hoàn thành, nhập kho kế toán theo dõi ở TK 1521 như một loại nguyên vật liệu chính. Giá thành của cao su bán thành phẩm kế toán chỉ tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp, còn các chi phí khác kế toán phân bổ bổ sung vào chi phí của sản phẩm cuối cùng hoàn thành. Các xí nghiệp sản xuất cao su, khi sử dụng cao su bán thành phẩm thì kế toán không tập hợp vào một TK 621 riêng mà lại tập hợp chi phí nguyên vật liệu trong bán thành phẩm vào TK 6212 và TK 6213. Đây thực chất chính là phương pháp tính giá thành phân bước có tính bán thành phẩm được doanh nghiệp áp dụng không đầy đủ. Dựa vào Báo cáo sử dụng bán thành phẩm do các phân xưởng sản xuất gửi lên và kế toán căn cứ vào đơn giá kế hoạch và sản lượng sản phẩm sản xuất trong kì, tiến hành phân bổ chi phí bán thành phẩm, công thức phân bổ như sau: Chi phí bán thành phẩm thực tế cho sản phẩm i = Tổng chi phí bán thành phẩm thực tế x Chi phí bán thành phẩm kế hoạch cho sản phẩm i Tổng chi phí bán thành phẩm kế hoạch Trong đó, tổng chi phí bán thành phẩm thực tế là tổng chi phí bán thành phẩm phát sinh, tổng chi phí bán thành phẩm kế hoạch được xác định theo công thức sau: Tổng chi phí bán thành phẩm kế hoạch = ồ ( Sản lượng sản xuất sp i x Chi phí bán thành phẩm kế hoạch cho SPi ) Bảng phân bổ nguyên vật liệu trang 19. - Phân bổ chi phí nguyên vật liệu chính trực tiếp khác Công ty Cao Su Sao Vàng sử dụng TK 6212 để theo dõi khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp . Khoản mục này theo dõi cả nguyên vật liệu chính là cao su và hoá chất sử dụng để chế tạo bán thành phẩm và nguyên vật liệu chính khác là: vải mành, dây tanh dùng để chế tạo thành phẩm ở giai đoạn 2. Cuối kỳ kế toán căn cứ vào bảng phân bổ nguyên vật liệu để xác định giá trị vật liệu chính cần phân bổ cho từng loại. Các bước phân bổ chi phí nguyên vật liệu chính khác được tiến hành như sau: Chi phí nguyên vật liệu thực tế của sản phẩm i = Tổng chi phí nguyên vật liệu chính thực tế x đơn giá kế hoạch sản phẩm i Tổng chi phí nguyên vật liệu chính kế hoạch Trong đó: Tổng chi phí nguyên vật liệu chính theo kế hoạch = ồ ( Sản lượng sản xuất của SPi x Đơn giá nguyên vật liệu chính kế hoạch SPi ) Chi phí nguyên vật liệu phụ trực tiếp được kế toán theo dõi ở tài khoản 6213, công việc phân bổ chi phí nguyên vật liệu phụ trực tiếp được tiến hành tương tự. Hạch toán chi phí n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29730.doc
Tài liệu liên quan