lời mở đầu
Xu thế quốc tế hoá và hội nhập kinh tế trên phạm vi toàn cầu là xu thế có tính quy luật tất yếu. Trước tác động của nó nhiều doanh nghiệp ra đời và suy vong. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường tạo ra môi trường cạnh tranh hết sức gay gắt buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền vững phải đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của thị trường, không những sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao mà còn phải tìm mọi biện pháp để hạ giá thành sản phẩm.
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1184 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện Kế toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty xây dựng số 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành hạ sẽ là tiền đề tích cực giúp doanh nghiệp đẩy mạnh tiêu thụ tăng nhanh vòng quay vốn và đem lại ngày càng nhiều lợi nhuận, từ đó tăng tích luỹ cho doanh nghiệp và nâng cao đời sống cho công nhân viên.
Để đạt được điều đó thì điều đầu tiên là các doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ chi phí sản xuất, tính toán chính xác giá thành sản phẩm thông qua bộ phận kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm sẽ giúp cho các nhà quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp phân tích đánh giá được tình hình sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn có hiệu quả hay không, tiết kiệm hay lãng phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành như thế nào... Từ đó đề ra các biện pháp hữu hiệu nhằm hạ thấp chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và đề ra các quyết định phù hợp cho sự phát triển kinh doanh và yêu cầu quản trị doanh nghiệp. Chính vì vậy mà việc tổ chức tốt công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một yêu cầu thiết yếu và luôn là một trong những vấn đề thời sự được các doanh nghiệp quan tâm.
Sau một thời gian thực tập tại công ty Xây dựng số 2, được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Nguyễn Thiện Đạt và các cô chú trên công ty Xây dựng số 2 em lựa chọn đề tài:
“Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty xây dựng số 2”
Nội dung của luận văn gồm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp sản xuất.
Phần II: Thực trạng tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng số 2.
Phần III: Phương hướng hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng số 2.
Với thời gian thực tập còn ít cùng với những kiến thức còn nhiều hạn chế, chắc chắn luận văn có nhiều sai sót, em rất mong được sự góp ý của các thầy cô và những độc giả quan tâm tới vấn đề này để cho luận văn được đầy đủ và hoàn chỉnh hơn.
phần I
Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp sản xuất
I-/ Những vấn đề chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
1-/ Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất.
1.1. Khái niệm chi phí sản xuất.
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác, quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp của ba yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đồng thời quá trình sản xuất hàng hoá cũng chính là quá trình tiêu hao của chính bản thân các yếu tố trên. Như vậy để tiến hành sản xuất hàng hoá, người sản xuất phải bỏ ra các chi phí về thù lao lao động, về tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vì thế sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất.
Như vậy chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quí, năm).
Trong các doanh nghiệp sản xuất, ngoài những chi phí cho việc sản xuất sản phẩm còn phát sinh những khoản chi phí khác như chi phí tiêu thụ sản phẩm (chi phí bảo quản, đóng gói, chi phí bán hàng,...) chi phí quản lý doanh nghiệp và các khoản chi phí mang tính chất sự nghiệp. Do đó chỉ những chi phí bỏ ra để tiến hành các hoạt động sản xuất sản phẩm mới được coi là chi phí sản xuất. Thực chất chi phí sản xuất là sự dịch chuyển vốn - chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ). Các chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển, để có thể hạch toán các loại chi phí có bản chất, đơn vị đo khác nhau và tập hợp chủng loại tạo nên giá trị sản phẩm, tất cả các chi phí trên phải được đo bằng một đơn vị đo đếm thống nhất, cụ thể trong đó đơn vị tiền tệ là thước đo hữu hiệu nhất.
Cần chú ý phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kỳ kinh doanh. Như vậy chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm: chi tiêu cho quá trình cung cấp (chi mua sắm vật tư, hàng hoá,...), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh (chi cho sản xuất, chế tạo sản phẩm, công tác quản lý,...) và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ (chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo,...).
Chi phí và chi tiêu là hai khác niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Tổng số chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kỳ này. Chi phí và chi tiêu không những khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng chưa được tính vào chi phí (chi mua nguyên, vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng) và có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu (chi phí trích trước).
Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi tiêu và chi phí trong các doanh nghiệp là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán chúng. Việc phân biệt chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu bản chất cũng như nội dung, phạm vi và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất. Về bản chất, chi phí sản xuất có cùng bản chất giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, ở các lĩnh vực khác nhau.
1.2. Phân loại chi phí sản xuất.
Việc phân loại chi phí sản xuất có tác dụng để kiểm tra và phân tích quá trình phát sinh chi phí và hình thành giá thành sản phẩm, nhằm nhận biết và động viên mọi khả năng tiềm tàng hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Căn cứ vào các tiêu chuẩn khác nhau, chi phí sản xuất của doanh nghiệp có thể được phân ra làm nhiều loại khác nhau.
1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất theo công cụ của chi phí.
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế công cụ, dụng cụ,... sử dụng vào sản xuất-kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập kho và phế liệu thu hồi).
- Chi phí nhiên liệu động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
- Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương: phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho toàn bộ công nhân viên chức.
- Chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ: phản ánh phần BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên chức.
- Chi phí khấu hao TSCĐ: phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ, phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh.
- Chi phí khác bằng tiền.
Cách phân loại này cho biết chi phí sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp gồm những nội dung chi phí nào, tỷ trọng bao nhiêu trong tổng chi phí. Do vậy cách phân loại này có thể được sử dụng để làm cơ sở cho việc lập, kiểm tra tình hình thực hiện dự toán chi phí, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ lương, tính toán nhu cầu vốn lưu động.
1.2.2. Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân chia theo khoản mục. Theo quy định hiện hành, giá thành sản xuất bao gồm 3 khoản mục chi phí:
- Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp: phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên, vật liệu chính, phụ, nhiên liệu,... tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
- Chi phí nhân công trực tiếp: gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ với tiền lương phát sinh.
- Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất.
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp tính được giá thành các loại sản phẩm đồng thời căn cứ vào công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh chi phí để xác định ảnh hưởng của sự biến động từng khoản mục đối với toàn bộ giá thành sản phẩm nhằm phân biệt và khai thác lực lượng tiềm tàng trong nội bộ doanh nghiệp để hạ thấp giá thành.
1.2.3. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với sản lượng sản xuất.
- Chi phí cố định (chi phí bất biến) là những chi phí không bị biến động trực tiếp theo sự thay đổi của khối lượng sản xuất sản phẩm. Thuộc loại chi phí này gồm có khấu hao TSCĐ, chi phí bảo dưỡng máy móc thiết bị, tiền thuê đất, thuê nhà, chi phí về quản lý doanh nghiệp.
- Chi phí biến đổi (chi phí khả biến) là những chi phí bị biến động một cách trực tiếp theo sự thay đổi của khối lượng sản xuất sản phẩm. Thuộc về chi phí này gồm có nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu và năng lượng dùng vào sản xuất, tiền lương chính của công nhân sản xuất,...
1.2.4. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với quá trình sản xuất.
Căn cứ vào mối quan hệ của chi phí sản xuất với quá trình sản xuất và việc chấp hành quy trình kỹ thuật sản xuất sản phẩm có thể chia chi phí thành hai loại:
- Chi phí cơ bản là những khoản chi phí chủ yếu cần thiết cho quá trình sản xuất sản phẩm kể từ lúc đưa nguyên vật liệu vào sản xuất cho đến lúc sản phẩm được chế tạo xong. Những chi phí này chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành. Bởi vậy để quản lý tốt những khoản chi phí này phải thực hiện định mức tiêu hao cho từng khoản và phải tìm mọi biện pháp giảm bớt định mức đó. Thuộc loại chi phí cơ bản gồm: nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu và năng lượng dùng vào sản xuất, tiền lương công nhân sản xuất, chi phí sử dụng thiết bị máy móc,...
- Chi phí chung là những khoản chi phí không có liên quan trực tiếp với quá trình sản xuất sản phẩm, quá trình xây lắp công trình, song cần thiết để tổ chức quản lý và phục vụ sản xuất của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất. Thuộc loại chi phí này gồm tiền lương cán bộ công nhân viên quản lý, các khoản về văn phòng, bưu điện,... Chi phí chung chiếm tỷ trọng không lớn trong giá thành, bởi vậy thông thường không định mức tiêu hao mà chỉ xây dựng chỉ tiêu chi trong kỳ kế hoạch.
1.2.5. Phân loại chi phí sản xuất theo đối tượng tập hợp chi phí.
- Chi phí trực tiếp: là chi phí khi phát sinh nó được tập hợp trực tiếp cho một đối tượng tập hợp chi phí xác định. Chi phí trực tiếp gồm những chi phí về nhân công và chi phí vật chất để làm ra một khối lượng sản phẩm nhất định.
- Chi phí gián tiếp: là chi phí khi phát sinh người ta không thể tập hợp trực tiếp cho một đối tượng tập hợp chi phí bởi vì nó liên quan đến nhiều đối tượng chi phí, do đó người ta phải tập hợp riêng sau đó phân bổ cho các đối tượng chi phí theo các đối tượng phù hợp.
2-/ Giá thành sản phẩm và các loại giá thành.
2.1. Giá thành sản phẩm.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, khi quyết định lựa chọn một phương án sản xuất một loại sản phẩm nào đó doanh nghiệp cần phải tính đến lượng chi phí bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đó. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp phải xác định được giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí phát sinh (phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang) và các chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra bất kể ở kỳ nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ giá thành sản phẩm của một doanh nghiệp biểu hiện chi phí cá biệt của doanh nghiệp để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Cùng một loại sản phẩm trên thị trường có thể có nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất nhưng do trình độ quản lý khác nhau, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp về loại sản phẩm đó cũng có sự khác nhau.
Trong công tác quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chỉ tiêu giá thành sản phẩm giữ một vai trò quan trọng để kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả của các biện pháp tổ chức, kỹ thuật, là thước đo mức chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp xác định được hiệu quả sản xuất và ra các quyết định trong sản xuất kinh doanh, là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xây dựng “chính sách” giá cả của doanh nghiệp đối với từng loại sản phẩm.
2.2. Các loại giá thành.
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau.
* Xét thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành bao gồm:
- Giá thành kế hoạch: giá thành kế hoạch được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch.
- Giá thành định mức: cũng như giá thành kế hoạch, giá thành định mức cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch. Giá thành định mức lại được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức sẽ thay đổi khi có sự thay đổi của các định mức chi phí.
- Giá thành thực tế: giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm.
* Xét theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ.
- Giá thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất (chi phí vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung). Bởi vậy giá thành sản xuất còn có tên gọi là giá thành công xưởng.
- Giá thành tiêu thụ (còn gọi là giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (chi phí sản xuất, chi phí quản lý và chi phí bán hàng). Do vậy giá thành tiêu thụ còn gọi là giá thành đầy đủ.
= + +
3-/ Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Khi tiến hành hoạt động sản xuất, doanh nghiệp phải bỏ ra các chi phí về vật tư, lao động và các chi phí khác. Tất cả các yếu tố đó tập hợp lại được gọi là chi phí sản xuất. Sau một thời gian nhất định, các yếu tố đó tạo thành một thực thể sản phẩm hoàn chỉnh. Kết quả của một quá trình chi phí các yếu tố sản xuất thể hiện ở chỉ tiêu giá thành sản phẩm sản xuất. Do vậy cả chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt thống nhất của một quá trình, chi phí là biểu hiện mặt hao phí còn giá thành biểu hiện mặt kết quả của quá trình sản xuất và chúng đều bao gồm những hao phí về lao động (V) và lao động vật hoá (C) mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình chế tạo sản phẩm. Tuy nhiên do bộ phận chi phí sản xuất giữa các kỳ không đều nhau nên giá thành và chi phí sản xuất lại khác nhau về lượng. Sự khác nhau này xuất phát từ kỳ kế toán khác với kỳ sản xuất và do tính chất kỹ thuật sản xuất sản phẩm tạo ra. Thông thường hàng tháng doanh nghiệp phải tính được giá thành sản phẩm vào những ngày cuối tháng, song gần đến ngày cuối tháng doanh nghiệp lại bỏ chi phí ra để sản xuất sản phẩm, những sản phẩm này lại chưa hoàn thành do đó những chi phí này còn đang ở dưới dạng sản phẩm dở dang. Do đó trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất, tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống.
Có thể phản ánh mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm qua sơ đồ dưới đây:
A B C D
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
Tổng giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn thành
Chi phí sản xuấtdở dang cuối kỳ
Qua sơ đồ ta thấy: AC = AB + BD - CD
= + -
Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở dang) đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
4-/ Nhiệm vụ của kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành.
Nền kinh tế thị trường với những đổi mới thực sự trong cơ chế quản lý kinh tế - tài chính đã khẳng định vai trò, vị trí của kế toán trong quản trị doanh nghiệp. Bằng những số liệu cụ thể, chính xác, khách quan và khoa học, kế toán được coi là một công cụ để điều hành, quản lý các hoạt động, tính toán hiệu quả kinh tế và kiểm tra bảo vệ, sử dụng tài sản vật tư, tiền vốn nhằm đảm bảo quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh và tự chủ về tài chính.
Để đáp ứng được yêu cầu quản lý kinh tế, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành phù hợp với đặc điểm quy trình công nghệ đặc điểm tổ chức sản xuất của doanh nghiệp.
- Tổ chức tập hợp và phân bổ từng loại chi phí sản xuất theo đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất để xác định bằng phương pháp thích hợp đã chọn.
- Xác định chính xác chi phí của sản phẩm dở dang cuối kỳ.
- Thực hiện tính giá thành sản phẩm kịp thời, chính xác theo đúng đối tượng tính giá thành và phương pháp tính giá thành hợp lý.
- Định kỳ, cung cấp các báo cáo về chi phí sản xuất và tính giá thành cho lãnh đạo doanh nghiệp và tiến hành phân tích tình hình thực hiện định mức, dự toán chi phí sản xuất, tình hình thực hiện kế hoạch, giá thành, đề xuất các kiến nghị cho lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra các quyết định thích hợp, trước mắt cũng như lâu dài đối với sự phát triển kinh doanh của doanh nghiệp.
II-/ Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
1-/ Đối tượng tập hợp và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.
1.1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất:
Để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được chính xác, kịp thời, đòi hỏi công việc đầu tiên mà nhà quản lý phải làm là xác định đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành sản phẩm. Vấn đề này có tầm quan trọng đặc biệt cả trong lý luận cũng như hạch toán và là nội dung cơ bản nhất của tổ chức hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm.
Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm 2 giai đoạn kế tiếp nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là giai đoạn hạch toán chi tiết chi phí sản xuất phát sinh theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, giai đoạn công nghệ,... và giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết sản phẩm đã hoàn thành,... theo đơn vị tính giá thành quy định thực chất việc phân chia quá trình sản xuất thành hai giai đoạn là do có sự khác nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong hạch toán chi phí sản xuất - đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và sản phẩm hoàn thành cần phải tính giá thành - đối tượng tính giá thành.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi giới hạn để tập hợp các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí.
Việc lựa chọn đối tượng tập hợp chi phí sản xuất ở từng doanh nghiệp có sự khác nhau. Thông thường người quản lý căn cứ vào:
- Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: sản xuất giản đơn hay phức tạp.
+ Với sản xuất giản đơn, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất 1 thứ sản phẩm) hoặc có thể là nhóm sản phẩm (nếu sản xuất nhiều thứ sản phẩm cùng một lúc).
+ Với sản xuất phức tạp, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm,...
- Căn cứ vào loại hình sản xuất.
+ Với sản xuất đơn chức và sản xuất hàng loạt nhỏ, đối tượng tập hợp chi phí là các đơn đặt hàng riêng biệt.
+ Với sản xuất hàng loạt, khối lượng lớn, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, giai đoạn công nghệ,...
- Căn cứ vào yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh. Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng tập hợp chi phí sản xuất ở các góc độ khác nhau, ngược lại, nếu trình độ thấp thì đối tượng đó có thể bị hạn chế và thu hẹp lại.
1.2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Nội dung chủ yếu của phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là trên cơ sở đối tượng hạch toán chi phí sản xuất đã xác định, thu nhận thông tin số liệu chi phí phát sinh, hạch toán chi phí sản xuất đã xác định, kế toán mở thẻ chi tiết, sổ chi tiết sản xuất. Định kỳ tổng hợp chi phí theo từng đối tượng, phục vụ cho việc phân tích, kiểm tra chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, xác định kết quả sản xuất kinh doanh nội bộ doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, kế toán áp dụng một trong các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất sau đây:
- Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo sản phẩm.
Theo phương pháp này, chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp và phân loại theo từng sản phẩm riêng biệt hoặc theo toàn bộ quá trình sản xuất (nếu như sản xuất một sản phẩm). Đối với sản xuất giản đơn, sản xuất ra một thứ hạng sản phẩm nhưng có tổ chức phân xưởng thì chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp trực tiếp cho từng sản phẩm (hoặc được phân bổ theo tỷ lệ, theo hệ số), còn chi phí sản xuất chung phân bổ cho từng sản phẩm theo một số tiêu thức phân bổ thích hợp. Khi áp dụng phương pháp hạch toán theo sản phẩm thì giá thành sản phẩm được xác định bằng phương pháp trực tiếp.
- Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm.
Theo phương pháp này, chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp, phân loại theo nhóm sản phẩm. Về cơ bản thì phương pháp này giống như phương pháp hạch toán theo sản phẩm. Tuy nhiên giá thành sản phẩm theo phương pháp này được tính bằng phương pháp liên hợp tức là đồng thời sử dụng các phương pháp: trực tiếp, hệ số và tỷ lệ.
- Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo chi tiết hoặc bộ phận sản phẩm.
Theo phương pháp này, chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp, phân loại theo từng chi tiết, bộ phận riêng biệt phù hợp với tính chất của quy trình công nghệ về cơ bản, phương pháp này giống 2 phương pháp trên. Khi áp dụng phương pháp này thì giá thành sản phẩm được xác định bằng cách tổng cộng chi phí sản xuất từ các bộ phận chi tiết.
- Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo giai đoạn công nghệ.
Theo phương pháp này, chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp và phân loại theo từng giai đoạn công nghệ. Trong mỗi giai đoạn công nghệ các chi phí lại phân tích cho từng sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm. Tuỳ vào yêu cầu có tính giá bán thành phẩm hay không mà áp dụng hạch toán chi phí sản xuất theo bán thành phẩm hoặc không tính giá bán thành phẩm. Trong các trường hợp sau đây thì cần áp dụng phương pháp hạch toán chi phí sản xuất có bán thành phẩm:
+ Khi một phần của bán thành phẩm được tiêu thụ ra ngoài.
+ Khi bán thành phẩm được Nhà nước cho phép tính trùng với tổng sản lượng.
+ Khi quy trình sản xuất bán thành phẩm là quá trình phức tạp, giá thành sản phẩm sẽ thiếu chính xác nếu không tính giá thành của bán thành phẩm.
+ Khi có yêu cầu tăng cường công tác quản trị, các giai đoạn công nghệ được phân cấp như một xí nghiệp hạch toán nội bộ.
Ngoài những trường hợp nêu trên, mọi trường hợp khác, hạch toán chi phí theo giai đoạn công nghệ phải được tổ chức theo phương án không có bán thành phẩm. Các chi phí được tập hợp theo từng giai đoạn công nghệ và theo sản phẩm, khi tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải cộng chi phí ở các giai đoạn công nghệ tương ứng theo từng khoản mục và theo từng sản phẩm. Khi áp dụng phương pháp này, giá thành sản phẩm được xác định bằng phương pháp trực tiếp, hệ số, tỷ lệ, tổng cộng chi phí.
2-/ Kế toán tập hợp chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại với tính chất và nội dung khác nhau, phương pháp hạch toán và tính nhập chi phí vào giá thành sản phẩm cũng khác nhau. Khi phát sinh, trước hết chi phí sản xuất được biểu hiện theo yếu tố chi phí rồi mới được biểu hiện thành các khoản rmục giá thành sản phẩm.
Việc tập hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý, khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác kịp thời được. Trình tự này phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành nghề, từng doanh nghiệp, vào mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, vào trình độ công tác quản lý và hạch toán,... Tuy nhiên, có thể khái quát chung việc tập hợp chi phí sản xuất qua các bước sau:
- Bước 1: Tập hợp chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử dụng.
- Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của các ngành sản xuất kinh doanh cho từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ.
- Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các loại sản phẩm có liên quan.
- Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ, tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm.
2.1. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên.
2.1.1. Kế toán tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu,... được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất hoặc sản phẩm, lao vụ,...) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí không thể tổ chức hạch toán riêng biệt được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan. Công thức phân bổ như sau:
= x
=
Để theo dõi các khoản chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng TK 621- Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất,...).
TK 621
- Giá trị nguyên, vật liệu xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm.
- Giá trị vật liệu xuất dùng không hết.
- Kết chuyển chi phí vật liệu trực tiếp.
x x x x x x
* Trình tự kế toán:
- Xuất kho nguyên, vật liệu sử dụng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
Nợ TK 621 : (Chi tiết theo từng đối tượng)
Có TK 152 : Giá thực tế xuất dùng theo từng loại.
- Trường hợp nhận vật liệu về không nhập kho mà xuất dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ, căn cứ giá thực tế xuất dùng.
Nợ TK 621 : (Chi tiết theo đối tượng).
Có TK 331,111,112 : Vật liệu mua ngoài.
Có TK 411 : Nhận cấp phát, liên doanh.
Có TK 154 : Tự sản xuất hay thuê ngoài gia công.
Có TK 331,336,338 : Vật liệu vay mượn.
- Giá trị vật liệu xuất dùng không hết.
Nợ TK 152 : (Chi tiết vật liệu).
Có TK 621 : (Chi tiết theo đối tượng).
- Cuối kỳ, kết chuyển chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp theo từng đối tượng để tính giá thành.
Nợ TK 154 : Chi tiết theo đối tượng.
Có TK 621 : Chi tiết theo đối tượng.
2.1.2. Kế toán tập hợp chi phí nhân công trực tiếp.
Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản thù lao phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như tiền lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương (phụ cấp khu vực, độc hại, phụ cấp làm đêm, thêm giờ,...). Ngoài ra chi phí nhân công trực tiếp còn bao gồm các khoản đóng góp cho các quỹ BHXN, BHYT, KPCĐ do chủ sử dụng lao động chịu và được tính vào chi phí kinh doanh theo một tỷ lệ nhất định với số tiền lương phát sinh của công nhân trực tiếp sản xuất.
Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK 622 - Chi phí nhân công trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí.
TK 622
- Chi phí nhân công trực tiếp sản xuất sản phẩm.
- Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản tính giá thành.
x x x x x x
* Phương pháp kế toán:
- Tính ra tổng số tiền công, tiền lương và phụ cấp phải trả trực tiếp cho công nhân sản xuất sản phẩm trong kỳ.
Nợ TK 622 : Chi tiết theo đối tượng.
Có TK 334 : Tổng số tiền lương phải trả cho công nhân.
- Trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định (phần tính vào chi phí-19%).
Nợ TK 622 : (Chi tiết theo đối tượng).
Có TK 338 (3382,3383,3384)
- Tiền lương tính trước vào chi phí và các khoản tiền lương tính trước khác.
Nợ TK 622 (Chi tiết theo đối tượng).
Có TK 335 Tiền lương trích trước.
- Cuối kỳ kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản tính giá thành theo từng đối tượng.
Nợ TK 154 (Chi tiết theo._. đối tượng).
Có TK 622 (Chi tiết theo đối tượng).
2.1.3. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất chung:
TK 627
- Chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kỳ.
- Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung.
- Kết chuyển C/P sản xuất chung vào chi phí sản phẩm hay lao vụ, dịch vụ
x x x x x x
Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. Để theo dõi các khoản chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng TK 627 - Chi phí sản xuất chung.
TK 627 được mở ra các tài khoản cấp 2:
TK 6271 : Chi phí nhân viên phân xưởng.
TK 6272 : Chi phí vật liệu.
TK 6273 : Chi phí dụng cụ sản xuất.
TK 6274 : Chi phí khấu hao TSCĐ.
TK 6277 : Chi phí dịch vụ mua ngoài.
TK 6278 : Chi phí bằng tiền khác.
* Phương pháp kế toán:
- Khi phát sinh chi phí của nhân viên quản lý phân xưởng.
Nợ TK 627 (6271 - Chi tiết phân xưởng, bộ phận).
Có TK 334 Tiền lương phải trả nhân viên.
Có TK 338 (3382,3383,3384).
- Chi phí vật liệu dùng chung cho từng phân xưởng.
Nợ TK 627 (6272 - Chi tiết theo từng phân xưởng).
Có TK 152 (Chi tiết tiểu khoản).
- Chi phí công cụ, dụng cụ dùng cho sản xuất.
+ Loại phân bổ 1 lần:
Nợ TK 627 (6273 - Chi tiết theo từng phân xưởng).
Có TK 153 (Chi tiết tiểu khoản).
+ Loại phân bổ nhiều lần:
- Khi xuất sử dụng:
Nợ TK 142 (1421)
Có TK 153
- Khi phân bổ công cụ vào chi phí:
Nợ TK 627 (6273 - Chi tiết)
Có TK 142 (1421)
- Trích khấu hao TSCĐ của phân xưởng.
Nợ TK 627 (6274 - Chi tiết từng phân xưởng).
Có TK 214 (Chi tiết tiểu khoản).
Đồng thời ghi Nợ 009: Tăng nguồn vốn khấu hao.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài.
Nợ TK 627 (6277 - Chi tiết theo từng phân xưởng).
Có TK 133 (1331) : Thuế VAT đầu vào (nếu có).
Có TK 111,112,...331 : Giá trị mua ngoài.
- Các chi phí bằng tiền khác.
Nợ TK 627 (6278 - Chi tiết từng phân xưởng).
Có TK 111,112,141,...
- Cuối kỳ, tiến hành phân bổ chi phí sản xuất chung theo tiêu thức phù hợp cho các đối tượng chịu chi phí.
Nợ TK 154 (Chi tiết theo từng đối tượng)
Có TK 627 (Chi tiết theo từng tiểu khoản)
Do chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trong phân xưởng cần thiết phải phân bổ khoản chi phí này cho từng đối tượng theo tiêu thức phù hợp.
= x
2.1.4. Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất.
Các chi phí sản xuất kể trên cuối cùng đều phải được tổng hợp vào Bên Nợ TK 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. TK 154 được mở chi tiết theo từng ngành sản xuất, từng nơi phát sinh chi phí hay từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm của các bộ phận sản xuất kinh doanh chính, phụ (kể cả thuê ngoài gia công chế biến).
TK 154
- Tập hợp các chi phí sản xuất trong kỳ (CPNVL trực tiếp, CPNC trực tiếp, CPSXC).
SDCK: Chi phí thực tế của sản phẩm dở dang, chưa hoàn thành
- Các khoản ghi giảm chi phí sản phẩm
- Tổng giá thành sản xuất thực tế.
* Phương pháp kế toán:
- Cuối kỳ, kết chuyển các chi phí vào giá thành sản xuất.
Nợ TK 154 : Tập hợp chi phí sản xuất.
Có TK 621 : Kết chuyển chi phí NVL trực tiếp.
Có TK 622 : Kết chuyển chi phí NC trực tiếp.
Có TK 627 : Kết chuyển chi phí sản xuất chung.
- Giá trị ghi giảm chi phí.
+ Phế liệu thu hồi hoặc vật liệu xuất dùng không hết nhập kho:
Nợ TK 152 (Chi tiết phế liệu, vật liệu)
Có TK 154 (Chi tiết sản phẩm)
+ Sản phẩm hỏng không sửa chữa được.
Nợ TK 1381
Có TK 154
+ Giá trị sản phẩm, vật tư thiếu hụt bất thường trong sản xuất.
Nợ TK 138,334,821
Có TK 154
- Giá thành thực tế sản phẩm lao vụ hoàn thành.
Nợ TK 155 Nhập kho thành phẩm.
Nợ TK 157 Gửi bán
Nợ TK 632 Tiêu thụ thẳng
Có TK 154 (Chi tiết sản phẩm, dịch vụ).
Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất (KKTX)
TK 621
TK 622
TK 627
TK 154
Chi phí NVL trực tiếp
Chi phí NC trực tiếp
Chi phí sản xuất chung
TK 152,111
TK 155,152
TK 157
TK 632
Các khoản ghi
giảm chi phí
Giá thành
thực tế
Nhập kho
Tiêu thụ
Gửi bán
2.2. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kỳ.
Khác với các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên, trong các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ, các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến hàng tồn kho không được ghi sổ liên tục. Bởi vậy, cuối kỳ doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê tất cả các loại nguyên, vật liệu, thành phẩm trong kho và tại các phân xưởng cùng với bộ phận sản xuất dở dang để xác định chi phí của sản phẩm hoàn thành của hàng đã bán. Vì thế, việc hạch toán chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp này cũng có những khác biệt nhất định.
2.2.1. Kế toán tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Do đặc điểm của phương pháp kiểm kê định kỳ nên chi phí vật liệu xuất dùng rất khó phân định được là xuất cho mục đích sản xuất, quản lý và tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy để phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm, lao vụ dịch vụ, kế toán cần theo dõi chi tiết các chi phí phát sinh liên quan đến từng đối tượng hoặc dựa vào mục đích sử dụng hay tỉ lệ định mức để phân bổ vật liệu xuất dùng cho từng mục đích.
Các chi phí được phản ánh trên TK 621 không ghi theo từng chứng từ xuất dùng nguyên, vật liệu mà được ghi một lần vào cuối kỳ hạch toán, sau khi tiến hành kiểm kê và xác định được giá trị nguyên vật liệu tồn kho và đang đi đường.
* Phương pháp kế toán.
- Đầu kỳ kết chuyển trị giá vật liệu chưa sử dụng.
Nợ TK 611 (6111)
Có TK 152 : Trị giá vật liệu tồn kho.
Có TK 151 : Trị giá vật liệu đang đi đường.
- Trong kỳ, phản ánh các nghiệp vụ làm tăng vật liệu.
Nợ TK 611 (6111)
Có TK 331,311,111,112,411
- Cuối kỳ căn cứ vào kết quả kiểm kê hàng tồn kho, phản ánh trị giá vật liệu chưa sử dụng.
Nợ TK 152
Nợ TK 151
Có TK 611 (6111)
- Xác định và kết chuyển trị giá vật liệu sử dụng cho các mục đích.
Nợ TK 621,627,641,642
Có TK 611 (6111)
Đồng thời kết chuyển chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp chi tiết theo từng đối tượng sử dụng.
Nợ TK 631
Có TK 621
2.2.2. Kế toán tập hợp chi phí nhân công trực tiếp.
Tài khoản sử dụng và cách tập hợp chi phí nhân công trực tiếp trong kỳ giống như phương pháp kê khai thường xuyên. Cuối kỳ để tính giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ, kế toán tiến hành kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào TK 631 theo từng đối tượng.
Nợ TK 631
Có TK 622
2.2.3. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất chung.
Toàn bộ chi phí sản xuất chung được tập hợp vào TK 627 và được chi tiết theo các tiểu khoản tương ứng và tương tự như với doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên. Sau đó sẽ được phân bổ vào TK 631 chi tiết theo từng đối tượng để tính giá thành.
Nợ TK 631
Có TK 627
2.2.4. Ké toán tổng hợp chi phí sản xuất.
TK 631
- Trị giá sản phẩm dở dang đầu kỳ và các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ liên quan tới chế tạo sản phẩm.
- Kết chuyển giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ vào TK 154
- Tổng giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành.
x x x x x x
Để phục vụ cho việc tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ, kế toán sử dụng TK 631 - Giá thành sản xuất. Tài khoản này được hạch toán chi tiết theo địa điểm phát sinh chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất,...) và theo loại, nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm, lao vụ,... của cả bộ phận sản xuất kinh doanh chính, sản xuất kinh doanh phụ, phí thuê ngoài gia công, chế biến.
* Phương pháp kế toán:
- Đầu kỳ, kết chuyển giá trị sản phẩm dở dang.
Nợ TK 631
Có TK 154
- Cuối kỳ, kết chuyển các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ theo từng loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ.
Nợ TK 631
Có TK 621
Có TK 622
Có TK 627
- Cuối kỳ, căn cứ vào kết quả kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang.
Nợ TK 154
Có TK 631
- Tổng giá thành sản phẩm, lao vụ hoàn thành.
Nợ TK 632
Có TK 631
TK 621
TK 622
TK 627
TK 631
Chi phí NVL trực tiếp
Chi phí NC trực tiếp
Chi phí sản xuất chung
kết chuyển hoặc phân bổ cho các đối tượng tính giá
TK 154
Giá trị sản phẩm
dở dang cuối kỳ
Tổng giá thành sản xuất
của sản phẩm, dịch vụ hoàn thành nhập kho, gửi bán hay tiêu thụ
TK 632
Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ
Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất (KKĐK)
3-/ Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ.
Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn đang nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm, doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang. Tuỳ theo đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ và tính chất của sản phẩm mà doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang sau:
3.1. Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo chi phí của nguyên vật liệu chính hoặc nguyên vật liệu trực tiếp.
Sử dụng phương pháp này trong trường hợp chi phí nguyên vật liệu chính hoặc nguyên vật liệu trực tiếp chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm. Người ta chỉ tính sản phẩm làm dở theo chi phí của nguyên vật liệu chính hoặc nguyên vật liệu trực tiếp còn các chi phí chế biến tính hết cho sản phẩm hoàn thành.
Công thức tính giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ:
= x
Trong trường hợp doanh nghiệp sản xuất có quy trình công nghệ trải qua nhiều giai đoạn sản xuất thì sản phẩm làm dở cuối kỳ ở giai đoạn sau được đánh giá theo nửa thành phẩm ở giai đoạn trước.
3.2. Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo phương pháp sản lượng hoàn thành tương đương.
Phương pháp này được sử dụng ở những doanh nghiệp mà trong sản phẩm, chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng không lớn mà chủ yếu là các chi phí chế biến (chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung). Theo phương pháp này thì sản phẩm làm dở trong kỳ phải chịu toàn bộ chi phí sản xuất theo mức độ hoàn thành. Do đó khi kiểm kê sản phẩm làm dở người ta phải đánh giá mức độ hoàn thành sau đó quy đổi sản phẩm làm dở theo sản phẩm hoàn thành tương đương.
* Đối với chi phí của nguyên vật liệu trực tiếp được bỏ vào một lần ngay từ khi bắt đầu sản xuất.
= x
* Đối với các chi phí chế biến thì phải đánh giá theo mức độ hoàn thành đã được quy đổi về sản lượng hoàn thành tương đương.
= x
3.3. Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo chi phí sản xuất định mức.
Phương pháp này được áp dụng ở những doanh nghiệp thực hiện việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm làm dở, đánh giá mức độ hoàn thành (nếu có) và chi phí sản xuất định mức cho một đơn vị sản phẩm để tính giá trị sản phẩm làm dở cuối kỳ.
= x x
4-/ Các phương pháp tính giá thành sản phẩm.
Phương pháp tính giá thành là một phương pháp hoặc hệ thống phương pháp được sử dụng để tính giá thành của đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Về cơ bản, phương pháp tính giá thành bao gồm nhiều phương pháp. Tuỳ thuộc vào đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng giá thành mà doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính giá thành cho phù hợp.
4.1. Phương pháp tính giá thành giản đơn.
Phương pháp này được áp dụng ở trong những doanh nghiệp có qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm giản đơn, khép kín từ khi đưa nguyên vật liệu vào cho tới khi sản phẩm hoàn thành. Số lượng mặt hàng ít, có khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, kỳ tính giá thành phù hợp với kỳ báo cáo như công nghiệp khai thác hoặc sản xuất điện nước.
Theo phương pháp này giá thành sản phẩm sẽ được tính bằng cách căn cứ trực tiếp vào chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ và giá trị sản phẩm làm dở đầu kỳ, cuối kỳ để tính theo công thức:
= + -
=
Trên cơ sở tính chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ, chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ, và chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ, kế toán lập bảng tính giá thành sản phẩm theo mẫu sau:
bảng tính giá thành sản phẩm
Loại sản phẩm:
Số lượng hoàn thành:
Đơn vị tính:
Khoản mục
Chi phí SX dở dang đầu kỳ
Chi phí SX phát sinh trong kỳ
Chi phí SX dở dang cuối kỳ
Tổng giá thành sản phẩm
Giá thành đơn vị
Chi phí NVL trực tiếp
Chi phí NC trực tiếp
Chi phí SX chung
Tổng cộng
4.2. Phương pháp tính giá thành sản phẩm phân bước.
Phương pháp này được áp dụng ở những doanh nghiệp có qui trình công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm phức tạp, kiểu liên tục, sản phẩm qua nhiều giai đoạn chế biến liên tục kế tiếp nhau, bán thành phẩm giai đoạn trước là đối tượng tiếp tục chế biến ở giai đoạn sau.
4.2.1. Phương pháp tính giá thành sản phẩm phân bước có tính giá thành của nửa thành phần ở bước trước.
+
+
+
Chi phí NVLtrực tiếp
Chi phí chế biến (NCTT,SXC)
Nửa thành phẩm 1
Chi phí chế biến (NCTT,SXC)
Nửa thành phẩm 2
Nửa thành phẩm (n-1)
Chi phí chế biến (NC trực tiếp SXC)
Thànhphẩm
Để tính giá thành của thành phẩm ở giai đoạn công nghệ cuối cùng phải xác định được giá thành của bán thành phẩm ở giai đoạn công nghệ trước đó và chi phí của bán thành phẩm giai đoạn trước chuyển sang cùng với các chi phí của giai đoạn sau để tính giá thành của bán thành phẩm giai đoạn sau. Cứ tính tuần tự như vậy cho đến giai đoạn công nghệ cuối cùng thì ta được giá thành của thành phẩm hoàn thành.
Trình tự tính giá thành gồm các bước sau:
- Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ giai đoạn 1.
- Lập bảng tính giá thành của nửa thành phẩm.
- Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ giai đoạn 2.
- Lập bảng tính giá thành sản phẩm theo mẫu sau.
bảng tính giá thành sản phẩm.
Loại sản phẩm:
Số lượng hoàn thành:
Đơn vị tính:
Khoản mục
Chi phí phát sinh trong kỳ
Tổng giá thành
Giá thành đơn vị
GĐ 1 chuyển sang
GĐ 2
Tổng
GĐ 1chuyển sang
GĐ 2
Tổng
Chi phí NVL trực tiếp
Chi phí NC trực tiếp
Chi phí SX chung
Tổng cộng
4.2.2. Tính giá thành sản phẩm phân bước không tính giá thành của nửa thành phẩm.
Trong trường hợp này đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở giai đoạn công nghệ cuối cùng. Do vậy chỉ cần tính toán xác định phần chi phí sản xuất của từng giai đoạn nằm trong thành phẩm, sau đó tổng cộng chi phí sản xuất của các giai đoạn trong thành phẩm ta được giá thành sản phẩm.
+
+
+
Chi phí SX GĐ 1theo khoản mục
Chi phí SX GĐ 1theo khoản mục
Chi phí SX GĐ ntheo khoản mục
Chi phí SX GĐ 1trong thành phẩm
Chi phí SX GĐ 2trong thành phẩm
Chi phí SX GĐ ntrong thành phẩm
Thànhphẩm
sơ đồ phương pháp tính giá thành sản phẩm phân bướckhông tính giá thành nửa thành phẩm
bảng tính giá thành sản phẩm
Số lượng hoàn thành:
Đơn vị tính:
Khoản mục
Chi phí SX giai đoạn i trong thành phẩm
Tổng giá thành
Giá thành đơn vị
Giai đoạn 1
Giai đoạn 2
Chi phí NVL trực tiếp
Chi phí NC trực tiếp
Chi phí SX chung
Tổng cộng
4.3. Phương pháp tính giá thành sản phẩm có loại trừ chi phí của sản phẩm phụ.
Phương pháp này được áp dụng ở những doanh nghiệp trong cùng một qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm, ngoài sản phẩm chính còn có cả các sản phẩm phụ.
Để tính được giá thành sản phẩm chính, đầu tiên phải xác định chi phí sản xuất cho sản phẩm phụ.
= x
= + - -
bảng tính giá thành sản phẩm
Số lượng:
Đơn vị tính:
Khoản mục
Chi phí SX dở dang đầu kỳ
Chi phí SX phát sinh trong kỳ
Chi phí SX dở dang cuối kỳ
Chi phí sản phẩm phụ
Tổng giá thành
Giá thành đơn vị
Chi phí NVL trực tiếp
Chi phí NC trực tiếp
Chi phí SX chung
Tổng cộng
4.4. Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng.
Phương pháp này được áp dụng ở những doanh nghiệp tổ chức sản xuất theo đơn đặt hàng, sản xuất sản phẩm đơn chiếc.
Bảng tính giá thành được mở cho từng đơn đặt hàng. Nếu trong tháng đơn đặt hàng chưa hoàn thành thì hàng tháng vẫn phải mở sổ kế toán chi tiết để tập hợp chi phí sản xuất cho đơn đặt hàng đó. Đến khi hoàn thành đơn hàng thì tập hợp chi phí sản xuất của các tháng lại.
bảng tính giá thành sản phẩm đơn đặt hàng a
Số lượng:
Đơn vị tính:
Ngày nhận sản xuất:
Ngày kết thúc:
Khoản mục chi phí
Phân xưởngsản xuất
Chi phí NVL trực tiếp
Chi phí NC trực tiếp
Chi phí SX chung
Tổng giá thành
Giá thành đơn vị
Phân xưởng 1
Phân xưởng 2
Tổng cộng
4.5. Phương pháp tính giá thành theo hệ số.
Phương pháp này được áp dụng trong những doanh nghiệp cùng một qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm với cùng một loại nguyên vật liệu tiêu hao nhưng thu được nhiều sản phẩm khác nhau.
Để tính được giá thành của từng loại sản phẩm người ta phải căn cứ vào hệ số tính giá thành được qui định cho từng loại sản phẩm rồi thực hiện theo các bước sau:
ồ
n
i=1
- Qui đổi sản lượng thực tế từng loại sản phẩm theo hệ số tính giá thành để làm tiêu chuẩn phân bổ.
= x
- Tính hệ số phân bổ chi phí cho từng sản phẩm.
Hi =
- Tính giá thành sản phẩm.
Giá thànhsản phẩm i
=
(
Chi phí SX dở dang đầu kỳ
+
Chi phí SX phát sinh trong kỳ
-
Chi phí SX dở dang cuối kỳ
)
x Hi
bảng tính giá thành sản phẩm A
Tên sản phẩm:
Số lượng:
Đơn vị:
Khoản mục
Chi phí SX dở dang đầu kỳ
Chi phí SX phát sinh trong kỳ
Chi phí SX dở dang cuối kỳ
Tổng
Sản phẩm A
Hệ số
ZA
Zđơn vị
Chi phí NVL trực tiếp
Chi phí NC trực tiếp
Chi phí SX chung
Tổng cộng
4.6. Phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ.
Phương pháp này được áp dụng trong những doanh nghiệp cùng một qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm, kết quả thu được những nhóm sản phẩm với qui cách, chủng loại phẩm chất khác nhau. Phương pháp này được thực hiện theo các bước sau:
- Lựa chọn những tiêu chuẩn phân bổ giá thành.
- Tính tỷ lệ giá thành.
=
- Tính giá thành thực tế của từng loại sản phẩm.
= x
bảng tính giá thành sản phẩm A1
Số lượng:
Đơn vị:
Khoản mục
Tiêu chuẩn phân bổ giá thành
Tỷ lệ giá thành
Tổng giá thành
Giá thành sản phẩm A1
Chi phí NVL trực tiếp
Chi phí NC trực tiếp
Chi phí SX chung
Tổng cộng
5-/ Sự cần thiết và nội dung hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành.
5.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Trong công tác quản lý tại một doanh nghiệp sản xuất, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu quan trọng luôn được các nhà doanh nghiệp quan tâm vì chúng gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh. Tổ chức kế toán đúng, hợp lý, chính xác chi phí sản xuất và tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý chi phí, giá thành sản phẩm, trong việc kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của chi phí phát sinh ở doanh nghiệp nói chung và ở các phân xưởng, tổ, đội sản xuất nói riêng. Thông qua số liệu do bộ phận kế toán tập hợp chi phí, tính giá thành, nhà quản lý doanh nghiệp biết được chi phí và giá thành thực tế của từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm, của hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác trong doanh nghiệp. Qua đó, người quản lý có thể phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm, tình hình sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn có hiệu quả, tiết kiệm hay lãng phí để từ đó có biện pháp hạ giá thành, đề ra các quyết định phù hợp với sự phát triển sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản trị doanh nghiệp.
Việc phân tích đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ có thể dựa trên giá thành sản phẩm chính xác. Về phần mình, tính chính xác của giá thành sản phẩm lại chịu ảnh hưởng của kết quả tổng hợp chi phí sản xuất. Do vậy tổ chức tốt công tác kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm để đảm bảo xác định đúng nội dung, phạm vi chi phí cấu thành trong giá thành, xác định đúng lượng giá trị các yếu tố chi phí đã dịch chuyển vào sản phẩm hoàn thành là yêu cầu cấp bách trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất rất nhiều mà chất lượng công tác quản lý chi phí và giá thành sản phẩm ở nước ta chưa chặt chẽ, dẫn đến một số doanh nghiệp tiền bạc sức lực bỏ ra nhiều mà hiệu quả lại không cao. Thực tế cho thấy, nhiều đơn vị hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành chưa chính xác, hạch toán các khoản chi phí bất hợp lý vào giá thành, có đơn vị chưa tính đủ chi phí sản xuất vào giá thành sản phẩm trong kỳ. Tất cả các chi phí phát sinh như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung đề tập hợp và phân bổ vào giá thành sản xuất trong kỳ nhưng không phân biệt được đâu là biến phí, đâu là định phí, điều đó làm cho việc phân tích các nhân tố làm tăng hay giảm giá thành rất khó khăn.
Như vậy, xuất phát từ những lý do trên, việc đổi mới hoàn thiện, tổ chức hạch toán đúng, hợp lý và chuẩn xác chi phí sản xuất và tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm đã trở thành điều kiện không thể thiếu được để thực hiện hạch toán kinh tế. Hạch toán kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một khâu trung tâm của toàn bộ công tác hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp sản xuất nói riêng.
5.2. Nội dung hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành.
* Hoàn thiện khâu hạch toán ban đầu.
Tất cả các công cụ quan sát ghi chép ban đầu nhằm mục đích “sao, chụp” nguyên hình các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được gọi là thông tin hạch toán ban đầu. Tính chính xác kịp thời và toàn diện của thông tin ban đầu có ý nghĩa quyết định đến chất lượng của toàn bộ thông tin hạch toán. Để đảm bảo thu thập thông tin ban đầu với qui mô lớn nhất, chất lượng cao nhất và hao phí cho công tác hạch toán thấp nhất cần tổ chức hạch toán ban đầu và từng bước hoàn thiện khâu hạch toán ban đầu. Muốn vậy, doanh nghiệp phải tiến hành tổ chức hạch toán ban đầu thống nhất.
- Thống nhất về số lượng, nội dung, đơn vị tính và phương pháp tính các chỉ tiêu hạch toán ban đầu cho từng đối tượng cụ thể của hạch toán.
- Thống nhất về số lượng, kết cấu và nội dung của các biểu mẫu hạch toán ban đầu tương ứng với số lượng chỉ tiêu nói trên.
- Thống nhất về tổ chức chỉ đạo các công việc hạch toán ban đầu: ghi chép, đối chiếu, kiểm tra, phê phán.
- Thống nhất về trình tự luân chuyển và sử dụng các thông tin hạch toán ban đầu.
* Hoàn thiện việc tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất vào việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành.
Hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp là bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong toàn bộ hệ thống chế độ kế toán doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực kinh tế, mọi thành phần kinh tế đều phải thực hiện và áp dụng thống nhất hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp do Bộ Tài chính ban hành chính thức theo Quyết định số 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/1995 và áp dụng thống nhất trong cả nước từ ngày 1/1/1996.
Theo yêu cầu của kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, kế toán phải nắm được những thông tin về tình hình biến động của các khoản chi phí, phải biết được chi phí bỏ ra là bao nhiêu từ đó tập hợp, phân bổ làm cơ sở để tính giá thành sản phẩm. Để cung cấp được các thông tin đó, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm sử dụng các tài khoản chủ yếu sau:
- TK 621 : Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
- TK 622 : Chi phí nhân công trực tiếp.
- TK 627 : Chi phí sản xuất chung.
- TK 631 : Giá thành sản xuất (áp dụng theo phương pháp KKĐK).
- TK 154 : Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang.
* Hoàn thiện tổ chức vận dụng hệ thống sổ kế toán.
Việc tổ chức hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong đó có việc tổ chức hoàn thiện vận dụng hệ thống sổ kế toán phù hợp với chế độ kế toán và yêu cầu quản lý của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đang trở thành mối quan tâm cấp thiết đối với tất cả những người làm công tác kế toán tại doanh nghiệp sản xuất.
Trong hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, sổ sách kế toán phải đảm bảo đơn giản thuận tiện cho việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành, cung cấp thông tin kịp thời nhanh chóng. Căn cứ vào yêu cầu quản lý, đặc điểm tình hình cung cấp và xử lý thông tin của doanh nghiệp, trình độ nghiệp vụ của nhân viên kế toán mà doanh nghiệp có thể lựa chọn bộ sổ thích hợp với đơn vị mình. Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất áp dụng các hình thức sổ kế toán sau:
- Hình thức sổ kế toán Nhật ký sổ cái.
- Hình thức sổ kế toán Chứng từ ghi sổ.
- Hình thức sổ kế toán Nhật ký chứng từ.
- Hình thức sổ kế toán Nhật ký chung.
* Hoàn thiện việc lập báo cáo kế toán:
Báo cáo kế toán có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành và kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như trong từng ngành, từng doanh nghiệp. Thông qua báo cáo kế toán, lãnh đạo các cấp có thể biết được một cách toàn diện và hệ thống tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình chi phí và kết quả. Đồng thời, báo cáo kế toán còn là cơ sở cung cấp số liệu cần thiết để tiến hành phân tích, đánh giá hiệu quả kinh doanh, phát hiện các tiềm năng chưa sử dụng, đề xuất biện pháp thích hợp nhằm động viên khả năng tiềm tàng, cải tiến công tác quản lý.
Mặc dù chế độ báo cáo kế toán hiện hành có nhiều ưu điểm so với trước song nó cũng không tránh khỏi thiếu sót nhất định. Để tăng hiệu xuất quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước cũng như tăng cường tính kiểm tra và đánh giá hoạt động kinh doanh, hệ thống báo cáo hiện hành phải được hoàn thiện hơn nữa.
phần II
thực trạng tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng số 2
I-/ Vài nét về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty.
1-/ Quá trình hình thành và phát triển của công ty.
Công ty Xây dựng số 2 tên giao dịch quốc tế là VINACONCO 2 là một doanh nghiệp Nhà nước, hạch toán kinh tế độc lập, trực thuộc Tổng công ty Xuất nhập khẩu Xây dựng Việt Nam - Bộ Xây dựng. Tiền thân của công ty Xây dựng số 2 là công ty Kiến trúc Xuân Hoà được thành lập theo Quyết định số 713/BKT-TCCB ngày 1/4/1970 của Bộ Xây dựng. Khi mới thành lập công ty chỉ thực hiện nhiệm vụ xây dựng trong phạm vi khu vực Xuân Hoà và một vài công trình công nghiệp, dân dụng, văn hoá thuộc các tỉnh phía Bắc sông Hồng. Hiện nay hoạt động xây lắp của công ty ngoài địa bàn Hà Nội ra còn có mặt ở 15-17 tỉnh thành phố từ Vinh trở ra. Qua 30 năm hoạt động, trải qua nhiều khó khăn, vất vả trong thời kỳ đầu, công ty đã từng bước phát triển và khẳng định vị trí của mình trên thị trường xây dựng. Các công trình do công ty thi công không những tăng về mặt số lượng, về địa bàn hoạt động mà còn đảm bảo cả về chất lượng và hiệu quả kinh tế. Sự trưởng thành vượt bậc của công ty còn được thể hiện thông qua các lần công ty tham gia và đã trúng thầu nhiều công trình, hạng mục công trình đạt chất lượng cao và 11 công trình được cấp huy chương vàng. Hiện công ty đang được đánh giá cao trong ngành xây dựng cơ bản, uy tín của công ty ngày càng được củng cố và phát triển.
2-/ Chức năng nhiệm vụ và đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty.
Công ty xây dựng số 2 là công ty chuyên về xây dựng các công trình công nghiệp và dân dụng. Từ khi Bộ Xây dựng quyết định cho sáp nhập, phạm vi kinh doanh của công ty đã được mở rộng trong các lĩnh vực như thi công các công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị và khu công nghiệp, xây dựng các công trình giao thông, sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng, đầu tư phát triển và kinh doanh nhà ở,... Ngoài ra, công ty còn có dịch vụ xuất khẩu công nhân lao động ra nước ngoài, điều đó giúp cho tay nghề của công nhân được nâng cao và doanh thu của công ty cũng được tăng lên.
Công ty được Nhà nước giao vốn để kinh doanh do vậy mà việc quản lý và sử dụng vốn kinh doanh phải theo chế độ chính sách của Nhà nước để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh và bảo toàn được vốn cho Nhà nước. Trong kinh doanh, công ty thực hiện đầy đủ các cam kết trong hợp đồng mua bán thi công xây dựng các công trình, thường xuyên chỉ đạo kiểm tra và đôn đốc các đơn vị trực thuộc hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra. Đối với cấp trên công ty thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ nộp ngân sách, báo cáo chính xác tình hình tài chính cũng như tình hình kinh doanh của công ty.
Cũng như các doanh nghiệp xây dựng khác, các công trình do công ty đảm nhận luôn luôn có giá dự toán. Giá dự toán là cơ sở để công ty tổ chức hoạt động thi công trên thực tế nhằm tránh khỏi lệch hướng và cuối kỳ, công ty so sánh kết quả thực tế với giá trị dự toán. Quy trình công nghệ sản xuất tại công ty như sau:
Xử lý nền móng
Xây dựng thôcác công trình
Lắp đặt máy móc thiết bị
Hoàn thiệnđiện nước
Mỗi công đoạn lại bao gồm rất nhiều công việc cụ thể và phức tạp khác. Kết quả của toàn bộ hoạt động công ty phụ thuộc vào chất lượng của từng công việc cụ thể ấy. Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty được tiến hành bởi các đội xây dựng (gồm 14 đội) có thể cùng một lúc tiến hành trên một công trình. Đứng đầu mỗi đội là đội trưởng, trong mỗi đội lại bao gồm nhiều tổ: nề, ốp lát, hàn điện,... và các đội lắp máy điện nước. Công việc cụ thể công ty khoán cho các đội trưởng và các đội tiếp tục giao lại cho các tổ.
3-/ Tình hình tổ chức bộ máy quản lý và bộ máy kế toán của công ty.
3.1. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý sản xuất.
Qua thời gian hoạt động khá dài, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý kinh doanh của công ty đã có nhiều thay đổi về số lượng nhân viên, về cơ cấu quản lý cũng như về phạm vi quản lý.
Cho đến nay, công ty xây dựng số 2 - Vinaconco 2 đã có bộ máy hoàn thiện, gọn nhẹ, hoạt động có năng suất và kết quả cao.
sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của công ty
Văn phòngcôngty
Phòng kế hoạch kỹ thuật
Phòng tổ chức lao động tiền lương
Phòng kế toán tài chính
Các đội 1á14
Giám đốc
* Ban giám đốc gồm có: 01 giám đốc và 02 phó giám đốc.
- Giám đốc: là người quyết định các phương án kinh doanh các nguồn tài chính và chịu trách nhiệm về mọi mặt trước Tổng công ty, trước pháp luật về quá trình hoạt động của công ty.
- Hai phó giám đốc kỹ thuật về điện nước và xây dựng là người giúp việc cho giám đốc, trực tiếp điều hành và theo dõi mọi hoạt động của công ty.
- Văn phòng công ty làm nhiệm vụ chuẩn bị và thẩm tra kiểm tra các thủ tục pháp chế hành chính về các phương án quyết định trước khi trình giám đốc, tổ chức thực hiện công tác văn thư, đánh máy, in ấn, phụ trách công tác tiếp tân, tiếp khách trong công ty, quản lý nhà làm việc, nhà ở, các công trình phúc lợi công cộng thuộc công ty.
- Phòng kế hoạch - kỹ thuật thi công: nhiệm vụ chung của phòng là tổng hợp, tham mưu cho ban lãnh đạo công ty, lập kế hoạch xây dựng, theo dõi kiểm tra đôn đốc các bộ phận các đơn vị thực hiện nhiệm vụ kế hoạch, quản lý và chỉ đạo về kỹ thuật toàn bộ các ._.n cứ vào kết quả tập hợp chi phí sản xuất và các tài liệu liên quan để tính ra giá thành khố lượng xây lắp hoàn thành của từng công trình theo phương pháp trực tiếp. Thành phần của giá thành gồm 4 khoản mục: nguyên vật liẹu trực tiếp, nhân công trực tiếp, máy thi công và sản xuất chung khác.
Căn cứ vào bảng phân bổ chi phí nguyên vật liệu và công cụ dụng cụ, bảng phân bổ tiền lương, bảng tổng hợp chi phí máy thi công, bảng tổng hợp chi phí chung, kế toán lập được sổ chi tiết chi phí sản xuất của từng công trình chotừng tháng. Sổ chi tiết chi phí sản xuất từng tháng là căn cứ để kế toán lập bảng tổng hợp chi phí cho một quý riêng đối với chi phí máy thi công và chi phí sản xuất chung, do những loại chi phí này gồm nhiều khoản mục chi phí cụ thể nên kế toán còn lập bảng tổng hợp chi phí máy thi công và chi phí sản xuất chung theo quý.
Bảng 17:
sổ chi tiết chi phí sản xuất
Công trình: Khách sạn La Thành
Tháng 12/1999
TT
Tên khoản mục chi phí
NVL trực tiếp
N.công trực tiếp
Máy thi công
Sản xuất chung
Tổng
Thuê ngoài
Nhân công
Khác
Vật tư
6271
6273
6277
6278
1
NVL trực tiếp
759.953.000
759.953.000
2
NC trực tiếp
370.104.750
370.104.750
3
Máy thi công
65.976.000
5.220.000
12.004.400
1.200.000
84.400.400
4
Sản xuất chung
111.003.002
12.504.608
32.310.000
47.740.000
203.557.610
Tổng cộng
759.953.000
370.104.750
65.976.000
5.220.000
12.004.400
1.200.000
111.003.002
12.504.608
32.310.000
47.740.000
1.418.015.760
Bảng 18:
Bảng tổng hợp chi phí máy thi công
Quý 4/1999
Công trình: Khách sạn La Thành.
Tên chi phí
Tháng
Vật tư
Nhân công
Khác
Thuê ngoài
Tổng
10
1.068.000
4.645.800
10.683.916
58.718.640
75.116.356
11
1.092.000
4.750.200
10.924.000
60.038.160
76.804.364
12
1.200.000
5.220.000
12.004.400
65.976.000
84.400.400
Tổng
3.360.000
14.616.000
33.612.000
184.732.800
236.321.120
Bảng 19:
Bảng tổng hợp chi phí sản xuất chung
Quý 4/1999
Công trình: Khách sạn La Thành
Tên chi phí
Tháng
Nhân công
Công cụ dụng cụ
Dịch vụ mua ngoài
Bằng tiền khác
Tổng
10
98.792.670
11.129.101
28.755.900
42.488.600
181.166.271
11
101.012.730
11.379.192
29.402.100
43.443.400
185.237.422
12
111.003.002
12.504.608
32.310.000
47.740.000
203.557.610
Tổng
310.808.402
35.012.901
90.468.000
133.672.000
569.961.303
Bảng 20:
Bảng tổng hợp chi phí
Quý 4/1999
Công trình: Khách sạn La Thành
Tên chi phí
Tháng
Nhân công
Công cụ dụng cụ
Dịch vụ mua ngoài
Bằng tiền khác
Tổng
10
676.358.170
329.393.227
75.116.356
181.166.271
1.262.034.024
11
691.557.230
336.795.322
76.804.364
185.237.422
1.290.394.338
12
759.953.000
370.104.750
84.400.400
203.557.610
1.418.015.760
Tổng
2.127.868.400
1.036.293.299
236.321.120
569.961.303
3.970.444.122
Cuối cùng, dựa vào các kết quả tính được kế toán ghi vào bản báo cáo giá thành xây lắp.
Bảng 21:
Báo cáo giá thành xây lắp
Quý 4/1999
Công trình: Khách sạn La Thành
Khoản mục chi phí
Tổng phát sinh trong kỳ
Dở dang đầu kỳ
Dở dang cuối kỳ
Giá thành
1. NVL trực tiếp
2.127.868.400
45.956.400
37.845.012
2.135.979.788
2. NC trực tiếp
1.036.293.299
22.206.240
18.431.179
1.040.068.360
3. Máy thi công
236.321.120
5.064.000
4.203.061
237.182.059
4. SX chung
569.961.303
12.213.432
10.137.148
572.037.587
Tổng
3.970.44.122
86.440.072
70.616.400
3.985.267.794
Phần III
Phương pháp hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng số 2
I-/ Nhận xét, đánh giá tình hình tập hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng số 2.
Ngành xây dựng cơ bản là một bộ phận quan trọng chủ chốt trong nền kinh tế. Do đó Nhà nước cần quản lý chặt chẽ quá trình hoạt động của các doanh nghiệp xây lắp. Việc quản lý chi phí xây lắp trong các công ty xây dựng vẫn còn gặp những khó khăn vướng mắc nên hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành phải tuân theo những nguyên tắc nhất định.
1-/ Nguyên tắc chung trong hạch toán chi phí xây lắp và tính giá thành sản phẩm.
Trước hết các doanh nghiệp cần xác định rõ nội dung và phạm vi của chi phí xây lắp và giá thành các công trình (hay hạng mục công trình) hoàn thành. Theo quy định của chế độ tài chính hiện hành, chi phí xây lắp bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung và chi phí máy thi công.
Khác với các doanh nghiệp công nghiệp khác, chi phí nhân công trực tiếp trong các doanh nghiệp xây dựng cơ bản không bao gồm các khoản trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ). Chi phí xây lắp không bao gồm chi phí quản lý doanh nghiệp, tuy thực chất chi phí quản lý cũng là để phục vụ cho q úa trình thi công và hoàn thành bàn giao công trình cho chủ đầu tư. Những khoản chi phí như: chi phí đầu tư, chi phí hoạt động tài chính, chi phí bất thường cũng không được tính vào chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Hiện nay, Nhà nước ta quản lý rất chặt chẽ việc tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp thông qua các quy định cụ thể về việc lập dự toán xây lắp.
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp phải tìm ra biện pháp hạ giá thành cho việc tiết kiệm chi phí tối đa. Những chi phí này phải là chi phí phát sinh trong quá trình thi công. Tiết kiệm chi phí nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng công trình, muốn vậy các doanh nghiệp phải biết tổ chức giám sát chặt chẽ quá trình phát sinh và hạch toán chi phí.
Nhằn hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, các doanh nghiệp xây dựng cơ bản nói chung và công ty xây dựng số 2 nói riêng phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Đối tượng, phương pháp hạch toán chi phí, tính giá thành phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm của đơn vị.
- Việc hạch toán chi phí, tính giá thành đúng chế độ.
- Bộ máy kế toán có trình độ chuyên môn cao.
- Bộ máy quản lý doanh nghiệp quan tâm theo dõi sâu sát quá trình hoạt động cụ thể trong doanh nghiệp.
Tóm lại, một vấn đề các doanh nghiệp cần quan tâm là tìm ra giải pháp tối ưu để đưa chế độ kế toán phù hợp với thực tiễn của đơn vị mình.
2-/ Những ưu điểm trong công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng số 2.
Qua thời gian thực tập tại công ty xây dựng số 2, em nhận thấy trong mấy năm trở lại đây, cùng với xu hướng thay đổi chung của nền kinh tế thì hoạt động xây dựng cơ bản của công ty cũng đã có những biến đổi để thích ứng. Từ một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo cơ chế quản lý tập trung, khi chuyển sang cơ chế thị trường, công ty cũng gặp rất nhiều khó khăn trong những năm đầu. Nhưng với sự năng động của bộ máy quản lý cùng với sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ công nhân viên trong công ty, đến nay công ty đã khắc phục được những khó khăn và hoạt động xây lắp đã mang lại hiệu quả nhất định. Để đạt được kết quả này, tất cả các phòng ban, các đội xây lắp của công ty đã được tổ chức sắp xếp lại cho phù hợp với quy mô hoạt động của công ty.
Song song với quá trình chuyển đổi ấy thì hệ thống công tác tài chính kế toán của công ty cũng không ngừng được đổi mới và hoàn thiện cả về cơ cấu lẫn phương pháp hạch toán, nó giúp cho doanh nghiệp thấy được những kết quả kinh doanh cụ thể thông qua các chỉ tiêu về chi phí, giá thành, lãi lỗ,... Để thấy rõ kết quả hoạt động của bộ máy kế toán trong việc hạch toán, đặc biệt là công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty, chúng ta cần thấy rõ những ưu nhược điểm của bộ máy kế toán.
* Ưu điểm của bộ máy kế toán của công ty.
Công ty là một đơn vị làm ăn có hiệu quả, luôn chấp hành quy định của Nhà nước. Bộ máy quản lý tại công ty được tổ chức rõ ràng và phát huy hiệu quả, với bộ máy kế toán luôn làm việc nghiêm túc, giám đốc có thể kịp thời theo dõi tình hình thực tế và có biện pháp điều chỉnh kịp thời những sai lệch giữa thực tế và dự toán. Phòng kế hoạch kỹ thuật có các nhân viên luôn giám sát quá trình thực hiện kế hoạch. Phòng kế toán bố trí các nhân viên có trình độ, thường xuyên cung cấp thông tin cho phòng kế hoạch kỹ thuật nên quá trình lập kế hoạch luôn sát với thực tế.
Công ty áp dụng hình thức sổ Nhật ký chung, một hình thức phù hợp với thực tế tổ chức sản xuất kinh doanh tại công ty. Hệ thống chứng từ, sổ sách kế toán được lập theo đúng quy định và đảm bảo phù hợp với hoạt động kế toán tại doanh nghiệp, đã tạo ra được mối quan hệ lẫn nhau giữa các phần hành trong toàn bộ hệ thống kế toán của công ty. Quy trình luân chuyển chứng từ đúng và hợp lý góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được nhanh chóng, chính xác. Ngoài ra công ty còn đặc biệt chú trọng tới việc lập hệ thống sổ chi tiết nhằm cung cấp đầy đủ thông tin cho người quản lý, tạo điều kiện cho tổng hợp kế toán cuối kỳ và lập báo cáo giá thành.
Cách hạch toán và phương pháp tính giá thành tại công ty đúng chế độ, rõ ràng, cụ thể và phù hợp với tình hình tại công ty. Công ty sử dụng máy tính điện tử vào công tác kế toán nên đảm bảo độ chính xác của thông tin kế toán, cung cấp thông tin nhanh, biểu sổ đẹp. Công ty tổ chức hạch toán chi phí theo bốn khoản mục giá thành nên công tác tính giá thành gặp nhiều thuận lợi.
Công ty giao khoán công việc cho các đội tự quản lý nhưng vẫn theo dõi chặt chẽ nên quá trình thi công đảm bảo đúng chất lượng và không sai lệch nhiều so với dự toán. Tại công trình, công ty đều bố trí nhân viên kế toán, thủ kho để tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ. Công ty đã giao cho người chỉ huy công trình chịu trách nhiệm trước công ty về quá trình thi công.
* Những ưu điểm cụ thể trong quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành tại công ty.
- Công ty hạch toán và quản lý chi phí vật tư.
Hàng tuần, các đội phải lập kế hoạch mua vật tư. Sau khi duyệt xong, công ty cung cấp vật tư và tiền vốn cho các đội, các đội phải tự tổ chức quá trình thi công vừa đảm bảo giám sát chặt chẽ chi phí vật tư vừa đảm bảo sự linh hoạt trong hoạt động của các đội. Việc công ty chỉ giao cho các đội mua sắm các loại vật tư nhỏ, không quan trọng mà công ty trực tiếp ký hợp đồng mua bán nhưng vật tư có giá trị lớn, chính và quan trọng giúp công ty nắm vững được thị trường giá cả, tiện cho việc lập kế hoạch lần sau. Đồng thời, công ty còn có thể trực tiếp đề ra các biện pháp giảm chi phí vật tư qua việc chọn nguồn hàng rẻ, có điều kiện thiết lập các quan hệ với nhà cung cấp.
Vật tư mua do đội phụ trách phải qua duyệt tạm ứng đảm bảo quá trình sử dụng vật tư phù hợp với dự toán. Đồng thời, đối với vật tư công ty ký, các đội phải cử người đi lĩnh về nên giảm chi phí quản lý tại công ty (công ty không cần lập kho tại công ty).
Công tác hạch toán chi tiết và tổng hợp chi phí vật liệu trực tiếp tại công ty rất có hiệu quả và đúng chế độ. Tại các công trình, khi nghiệp vụ phát sinh các đội phải kịp thời hoàn chứng từ lại cho công ty để hạch toán. Công ty lập các bảng kê chi tiết vật tư chính và phụ giúp cho việc theo dõi vật tư vào cuố kỳ dễ dàng. Các đội cũng phải lập bảng theo dõi chi tiết vật tư tạo điều kiện cho kế toán kiểm tra, đối chiếu vào cuối kỳ. Hơn nữa, việc lập bảng tổng hợp chi phí vật tư cho tất cả các cong trình giúp cho công ty dễ so sánh giữa các công trình.
- Quản lý chi phí nhân công.
Công tác hạch toán chi phí nhân công trực tiếp tại công ty có rất nhiều ưu điểm như hình thức khoán được sử dụng trong công ty để giao việc cho công nhân tạo động lực thúc đẩy người lao động có ý thức trách nhiệm hơn với công việc về cả chất lượng và thời gian, đảm bảo tiến độ thi công của công ty. Vì nếu không khoán gọn mà trả lương theo thời gian thi công như trước dễ dẫn đến trường hợp công nhân làm cố tính kéo dài thời gian để hưởng lương. Mẫu hợp đồng làm khoán được lập rõ ràng, cụ thể.
Quá trình lao động của công nhân được theo dõi thường xuyên qua bảng chấm công. Bảng thanh toán lương ghi rõ số công, số tiền của từng công nhân (do các đội trưởng lập theo từng đội) giúp cho kế toán tổng hợp lập bảng tổng hợp lương và tính giá thành rõ ràng.
- Quản lý chi phí máy thi công.
Công tác hạch toán các chi phí liên quan đến máy thi công thành một khoản riêng, rõ ràng, cụ thể thông qua việc lập bảng tổng hợp chi phí máy thi công.
Việc sử dụng nhật trình máy và lệnh điều động giúp công ty xác định rõ khoảng thời gian hoạt động tại một công trình của một máy thi công qua ngày tháng ghi trên lệnh điều động.
Cuối kỳ, kế toán lập bảng tổng hợp chi phí thuê máy (chi tiết theo loại máy, số ca, số tiền một ca), chi phí nhiên liệu cho chạy máy (chi tiết theo loại vật tư, loại máy, số lượng và đơn giá), chi phí nhân công cho chạy máy. Qua đó, người quản lý hiểu rõ cấu thành chi phí sử dụng máy thi công và kế toán tổng hợp thuận lợi trong việc tính giá thành, phân tích hiệu quả sử dụng máy và tỷ trọng của từng loại chi phí trong chi phí máy và tỷ trọng chi phí máy trong giá thành.
* Chi phí chung khác.
Tương tự chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung được tổng hợp thành bảng riêng trong đó chi tiết từng loại chi phí tạo điều kiện cho công tác quản lý, tổng hợp có hiệu quả.
Đối với công cụ dụng cụ, do hoạt động xây dựng cơ bản có đặc trưng là thời gian thi công kéo dài nên các loại công cụ, dụng cụ thường khá cố định tại một công trình. Do đó công ty không phải phân bổ chi phí này cho các công trình và đây cũng là điểm thuận lợi tại công ty xây dựng số 2.
Bên cạnh những ưu điểm đó, công tác hạch toán chi phí tại công ty cũng có những điểm tồn tại.
3-/ Những tồn tại trong công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm tại công ty.
* Về công tác quản lý và hạch toán chi phí.
Trên thực tế, công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng cơ bản gặp rất nhiều khó khăn do hoạt động xây dựng cơ bản có những đặc điểm riêng so với các doanh nghiệp sản xuất khác. Do vậy công tác hạch toán nói chung và công tác tính giá thành, tập hợp chi phí nói riêng tại công ty xây dựng số 2 không tránh khỏi những hạn chế nhất định.
- Đối với chi phí vật tư: công ty tuy lập bảng theo dõi chi tiết vật tư tại các đội nhưng vẫn chưa theo dõi thật cụ thể việc nhập, xuất vật tư tại công trường (công ty không lập phiếu nhập kho, phiếu xuất kho tại công trường,...). Đồng thời, bảng theo dõi chi tiết vật tư lập chung cho mọi loại vật tư nên tính tổng hợp chưa cao.
- Đối với chi phí nhân công: công ty lập các hợp đồng làm khoán còn theo mẫu cũ, chưa đổi mới.
Công ty giao khoán cho từng đội, đội trưởng tiến hành chia lương nhưng công ty lại không theo dõi cụ thể quá trình chia lương nên dễ dẫn đến tình trạng người lao động hưởng không đúng công sức và đội trưởng dễ hưởng lợi.
Khi công ty lập bảng tổng hợp lương cho từng công trình, chưa ghi rõ mỗi công nhân làm bao nhiêu đối với một hợp đồng làm khoán nhất định và hưởng bao nhiêu lương đối với phần việc đó. Bộ phận tạp vụ cũng không chi tiết cụ thể công việc của từng người.
- Đối với các chi phí điện nước: công ty mới chỉ tập hợp lại theo tổng số mà chưa chi tiết ra theo từng loại. Đối với chi phí bằng tiền khác cũng tương tự. Như vậy, nhìn vảo bảng tổng hợp chi phí chung và sổ chi tiết chi phí người quản lý chỉ biết tổng chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác chứ không biết rõ ràng gồm những loại chi phí gì.
* Về bộ máy kế toán: hiện nay bộ máy kế toán tại công ty xây dựng số 2 chỉ gồm 7 người. Công ty ngày càng phát triển lớn mạnh, số lượng các nghiệp vụ phát sinh ngày càng nhiều. Do đó, bộ máy kế toán tại công ty rất vất vả trong việc hạch toán các loại chi phí nhất là vào lúc tổng hợp cuối kỳ. Bộ phận kế toán tiền lương và tiền mặt do một người phụ trách là không đủ do công ty phải chi, thu tiền mặt thường xuyên. Ngoài ra, công ty chỉ có một nhân viên kế toán tổng hợp, như vậy là quá tải. Sự thiếu hụt nhân viên chắc chắn sẽ hạn chế phần nào khả năng của bộ máy kế toán tại công ty.
II-/ Những phương hướng và giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng số 2.
Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chi phí nói chung và công tác hạch toán chi phí, tính giá thành sản phẩm tại công ty, công ty cần tiếp tục phát huy những ưu điểm và tìm ra các phương hướng giải quyết, khắc phục những tồn tại nhằm làm cho công tác kế toán của công ty thực sự trở thành một công cụ quản lý nhạy bén. Qua nghiên cứu tìm hiểu tại công ty, dựa trên những kiến thức thu được qua ghế nhà trường cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Nguyễn Thiện Đạt và các cô chú trên công ty, em xin mạnh dạn đề ra các giải pháp sau:
1-/ Đối với chi phí vật tư.
Vật tư chiếm tỷ trọng lớn nhất trong giá thành nên việc quản lý chặt chẽ chi phí vật tư là rất cần thiết.
- Tại mỗi công trình, công ty có bố trí thủ kho, nhân viên kế toán. Vì vậy, công ty nên tận dụng lực lượng lao động này để tổ chức hạch toán chặt chẽ hơn nữa quá trình nhập vật tư về công trường và quá trình xuất vật tư thực cho thi công. Tuy dự toán lập hàng tuần nhưng dự toán không thể hoàn thành chính xác, do đó để kiểm soát chặt chẽ hơn nữa, nâng cao hiệu quả hơn nữa quá trình quản lý trong đơn vị, sử dụng tiết kiệm hơn nữa vật tư thì khi vật tư về nhập kho công trường, các đội nên lập phiếu nhập kho công trường. Việc lập phiếu nhập kho công trường cần có sự giám sát, xác nhận của đội trưởng, thủ kho, nhân viên kế toán, nhân viên phụ trách thu mua. Ví dụ như lúc mua dây thép buộc một ly về công trình Khách sạn La Thành, phiếu nhập kho được lập như sau:
Bảng
phiếu nhập kho công trường
Số:............
Công trình: Khách sạn La Thành
Ngày 7/12/1999
Tên người nhập: Nguyễn Quốc Việt
STT
Tên quy cách
Đơn vị tính
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
Xin nhập
Thực nhập
1
Dây thép buộc 1 ly
kg
400
400
6.200
2.480.000
Phiếu nhập kho được lập thành hai liên: một liên thủ kho giữ để lập thẻ kho, một liên chuyển lên cho kế toán đội giữ cùng hoá đơn để chuyển lên phòng kế toán công ty và lập bảng chi tiết vật tư vào cuối kỳ.
Khi xuất vật tư cho thi công, thủ kho ghi vào thẻ kho, lấy xác nhận của kế toán và người xin lĩnh vật tư. Sau khi kiểm tra đủ số lượng, chất lượng, thủ kho xuất vật tư cho người có nhu cầu. Trong quá trình thi công, đội trưởng có trách nhiệm quản lý vật tư đảm bảo cho quá trình nhập và xuất vật tư chính xác và hiệu quả. Cuối tháng, phiếu nhập kho công trường, thẻ kho và các hoá đơn mua hàng sẽ được gửi lên phòng kế toán công ty để ghi sổ và đối chiếu số liệu. Bảng này sẽ được sử dụng để lập luôn bảng tổng hợp vật tư sử dụng cho công trình. Các đội sẽ không cần phải lập bảng theo dõi vật tư.
Như vậy, ta có thể thấy việc lập phiếu nhập kho công trình khiến cho quá trình tổ chức luân chuyển chứng từ ban đầu đối với yếu tố vật liệu trong công ty rõ ràng và chặt chẽ hơn, có nghĩa là hiệu quả quản lý chi phí cao hơn.
- Do vật tư được nhập vào kho, nếu công ty lập phiếu nhập kho và thẻ kho, công ty nên lập sổ danh điểm bằng cách lập cho mỗi loại vật tư một danh mục và đánh mã số cho vật tư. Mỗi vật tư được đánh một mã duy nhất.
Ví dụ: VT - 001 - Xi măng.
VT - 0011: Xi măng của nhà máy Hoàng Thạch.
VT - 0012: Xi măng của nhà máy Clinfon.
VT - 0013: Xi măng của công ty vật tư kỹ thuật xi măng.
Bảng:
Đơn vị : Công ty xây dựng số 2 - Vinaconco 2.
Điện thoại :
sổ danh điểm vật tư
TT
Danh điểm
Tên vật tư
Đơn vị
Đơn giá
Thành tiền
1
2
3
4
5
6
1
VT - 0011
Xi măng Hoàng Thạch
tấn
825.000
12.375.000
2-/ Đối với chi phí nhân công (công nhân sản xuất tạp vụ, công nhân lái máy,...) công tác hạch toán cần thêm một số cong việc sau:
- Như trên ta đã thấy, việc công ty để cho các đội trưởng tự chia lương cho công nhân dễ dẫn đến tình trạng người lao động không nhận được mức tiền công xứng đáng với công sức họ bỏ ra. Để đảm bảo quyền lợi cho người lao động, công ty nên trực tiếp theo dõi quá trình chia lương cho công nhân của các đội. Đồng thời các đội, các tổ theo dõi quá trình hoạt động của công nhân qua bảng chấm công và theo dõi với hợp đồng này, công nhân nào tham gia thi công và tham gia thời gian là bao lâu.
Cuối tháng, kế toán tiền lương và nhân viên kế toán đội lập bảng tổng hợp lương theo từng hợp đồng làm khoán. Sau khi kế toán trên công ty kiểm tra khớp số liệu giữa các bảng chấm công, hợp đồng làm khoán và bảng tổng hợp lương theo hợp đồng do công ty lập và do đội lập, kế toán công ty mới lập bảng tổng hợp lương theo từng công trình.
Bảng
bảng tổng hợp lương theo hợp đồng
Hợp đồng số 234
Tổ: Nề - đội 1.
Tên công nhân
Số công
Loại công
Đơn giá
Thành tiền
1. Nguyễn Hoàng Dũng
6
Tổ trưởng
35.000
210.000
2. Đinh Văn Hoàng
4,5
Công thợ
30.000
135.000
3. Phạm Huy Thông
4,5
Công thợ
30.000
135.000
....
...
...
...
...
Tổng
x
x
x
2.250.000
Bảng này sẽ là căn cứ để kế toán tiền lương lập bảng tổng hợp lương theo tổ và bảng tổng hợp lương theo công trình.
Khoản mục chi phí nhân công không chỉ có vai trò là một bộ phận cấu thành trong giá thành sản phẩm của công ty mà còn liên quan đến nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Do vậy, ngoài việc chú ý giảm chi phí nhân công, công ty cần chú ý áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao năng suất lao động của công nhân bằng cách sử dụng hợp lý lực lượng lao động phù hợp với khả năng của người lao động, không ngừng nâng cao trình độ tay nghề của người lao động và đảm bảo đời sống cũng như an toàn trong quá trình làm việc cho người lao động.
3-/ Đối với chi phí sản xuất chung.
* Công cụ, dụng cụ:
Hiện nay, công ty không tổ chức ghi chép quá trình tập hợp chi phí công cụ, dụng cụ rõ ràng trước khi lên bảng phân bổ chi phí công cụ, dụng cụ. Do đó, việc kiểm tra tính chính xác của việc tổng hợp loại chi phí này là rất khó khăn và tốn nhiều thời gian. Theo ý kiến của em, công ty nên quy định lập bảng tổng hợp chi phí công cụ, dụng cụ.
Ví dụ, đối với công trình khách sạn La Thành: căn cứ vào sổ chi tiết chi phí xây dựng cơ bản và kết quả kiểm kê, trước khi tổng hợp chi phí công cụ dụng cụ vào sổ kế toán, kế toán tổng hợp lập bảng tổng hợp chi phí công cụ, dụng cụ.
Mẫu của bảng này như sau:
Bảng
bảng tổng hợp chi phí công cụ dụng cụ
Công trình: Khách sạn La Thành
Tháng 12/1999
STT
Tên công cụ, dụng cụ
Số tiền
1
Cột chống
6.716.690
2
Cốp pha
8.040.020
3
Quần áo bảo hộ
810.000
...
...
...
Tổng
12.504.608
Có thể thấy rõ là với bảng này, người quản lý và bản thân đội ngũ kế toán trong công ty có thể kiểm tra số liệu chi phí công cụ dụng cụ dễ dàng.
* Các chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác.
Trước khi ghi nghiệp vụ chi phí theo sổ tổng cộng (đối với chi phí dịch vụ mua ngoài) hay trước khi kết chuyển vào giá thành (đối với chi phí bằng tiền khác), kế toán nên lập bảng tổng hợp chi phí rồi sau đó mới hạch toán vào các sổ kế toán có liên quan.
Bảng
bảng tổng hợp chi phí dịch vụ mua ngoài
Công trình: Khách sạn La Thành
Tháng 12/1999
STT
Tên loại phí
Số tiền
1
Điện
24.098.250
2
Nước
8.211.750
Tổng
32.310.000
Do hiện nay chi phí dịch vụ mua ngoài được ghi theo sổ tổng cộng, để chi tiết hơn kế toán nên ghi theo từng loại nghiệp vụ chi phí.
Ví dụ:
1. Nợ TK 627 - Điện - K/s La Thành.
Có TK 331
2. Nợ TK 627 - Nước - K/s La Thành.
Có TK 331
Như vậy, cách hạch toán chi tiết như trên sẽ làm tăng tính cụ thể của thông tin kế toán. Nếu xem sổ chi tiết TK 627, người quan tâm có thể biết được chi phí điện là bao nhiêu, nước là bao nhiêu.
4-/ Đối với việc lập bảng tổng hợp chi phí cuối kỳ kế toán.
Tại công ty, việc tính giá thành sản phẩm dở dang và hoàn thành được thực hiện vào mỗi quý. Vì vậy công ty lập bảng tổng hợp chi phí cho tất cả các công trình vào cuối quý. Tuy nhiên, để tiện cho việc lập bảng tổng hợp chi phí chung hàng quý, công ty nên lập bảng tổng hợp chi phí cho toàn bộ hoạt động của công ty hàng tháng như sau:
Bảng
bảng tổng hợp chi phí tháng 12/1999
TT
Tên công trình
NVL trực tiếp
NC trực tiếp
Máy thi công
Sản xuất chung
Tổng
1
2
3
4
5
6
7
1
K/s La Thành
759.953.000
370.104.750
84.400.400
203.557.610
1.418.015.760
2
NH liên doanh
227.985.900
111.031.420
26.093.900
69.709.771
434.821.991
3
BĐ Lập Thạch
....
...
....
...
...
...
....
....
...
....
....
....
Tổng
1.899.882.500
555.157.120
211.001.000
544.123.985
3.210.164.605
Bảng này có ưu điểm là giúp người quản lý có thể nắm được một cách tổng quát tương quan từng loại chi phí giữa các công trình trong một tháng.
5-/ Về phần mềm kế toán công ty sử dụng.
Thực tế sử dụng tại công ty xây dựng số 2 cho thấy, tuy phần mềm kế toán công ty sử dụng rất có tác dụng trong việc nâng cao hiệu quả của công tác kế toán tại công ty nhưng phần mềm này vẫn còn tồn tại một số nhược điểm cần khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả hơn nữa.
- Việc nhập chứng từ vào máy tại công ty hiện nay chỉ cho phép nhập những nghiệp vụ có định khoản đơn. Đối với những định khoản kép, kế toán viên tại công ty phải chia nghiệp vụ đó ra làm nhiều nghiệp vụ nhỏ hơn. Như vậy là rất mất thời gian. Vậy công ty nên nghiên cứu tìm ra biện pháp có thể nhập được nghiệp vụ có định khoản kép.
- - Do công ty là đơn vị xây dựng nên các công trình công công ty thi công là theo hợp đồng kinh tế. Đối với những hợp đồng cải tạo, sửa chữa nâng cấp công trình hoặc có thể xây mới, có giá trị nhỏ, chỉ khi hoàn thành mới quyết toán bàn giao cho chủ đầu tư nên việc tính giá thành theo hợp đồng thuận lợi hơn. Nhưng hiện tại công ty mới chỉ có hệ thống mã số cho các công trình. Theo ý kiến em, công ty nên xây dựng hệ thống mã số cho các hợp đồng này và quản lý những công trình này theo mã số hợp đồng.
Ví dụ: HD - 001 : Hợp đồng cải tạo Trường cấp II Hàm Yên.
HD - 002 : Hợp đồng trạm thu phí giao thông.
- Việc áp dụng máy vi tính vào công tác kế toán đã làm giảm nhẹ rất nhiều công sức cho nhân viên kế toán trong công ty. Tuy nhiên, việc sử dụng máy vi tính để làm kế toán không phải là công việc đơn giản. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hơn nữa, công ty nên tổ chức cử cán bộ đi học thêm về máy vi tính để họ có khả năng khai thác mọi chức năng ưu việt của máy vi tính.
6-/ Về hệ thống tài khoản công ty sử dụng.
Do trong thành phần giá thành của một công trình xây dựng bao gồm 4 khoản mục chi phí: nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp, máy thi công và sản xuất chung. Trong đó chi phí máy thi công gồm chi phí vât liệu cho chạy máy, chi phí nhân công lái máy, chi phí khấu hao máy thi công... Vì vậy, cần phải theo dõi riêng khoản mục chi phí này. Việc theo dõi khoản mục chi phí này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xác định tỷ trọng của chúng trong giá thành. Hiện tại, ở công ty chi phí vật liệu cho chạy máy được hạch toán vào TK 621, khoản mục chi phí tiền lương công nhân lái máy được hạch toán vào TK 622 và có những khoản mục chi phí được hạch toán vào TK 627. Vào cuối kỳ hạch toán, kế toán tổng hợp chỉ có thể căn cứ vào các bảng chi tiết và tổng hợp chi phí của từng khoản mục chi phí để tổng hợp chi phí. Như vậy, độ chính xác và hiệu quả về thời gian sẽ thấp. Do đó em thấy công ty nên mở thêm một tài khoản - TK 623 - Chi phí máy thi công, gồm các tài khoản cấp II:
- TK 6231 : Chi phí nhân công điều khiển máy, phản ánh các khoản tiền lương, tiền công, phụ cấp lương, các khoản trích theo lương tính vào chi phí của công nhân điều khiển máy thi công.
- TK 6232 : Chi phí vật liệu, công cụ dụng cụ dùng cho máy thi công.
- TK 6234 : Chi phí khấu hao máy thi công.
- TK 6237 : Chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí thuê ca máy thi công, thuê ngoài sửa chữa máy thi công.
- TK 6238 : Chi phí khác ngoài các khoản chi phí trên, trích trước chi phí sửa chữa máy thi công.
Ta có thể thấy rằng, việc sử dụng TK 623 sẽ làm tăng tính chi tiết của sổ sách kế toán trong công ty. Ta sẽ có sổ kế toán riêng cho TK 623 mà không phải chung với sổ kế toán của TK 621, 622, 627 như trước và quy mô các loại sổ của công ty sẽ bớt cồng kềnh hơn.
Tóm lại, có thể thấy rằng để nâng cao hiệu quả công tác hạch toán chi phí thi công và tính giá thành sản phẩm công trình xây dựng hoàn thành nói riêng và nâng cao hiệu quả toàn bộ hoạt động của công ty nói chung, công ty có rất nhiều biện pháp để sử dụng. Tuy nhiên, để sự thay đổi đem lại tác dụng lớn, công ty cần thực hiện tốt và đồng bộ các biện pháp sao cho biện pháp này có tác động tích cực tới biện pháp kia. Có như vậy công cuộc đổi mới tại công ty mới có tính lâu dài. Đây là nguyên tắc chung cho tất cả các đơn vị kinh tế tham gia kinh doanh trên thị trường.
kết luận
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh vô cùng gay gắt, quyết liệt, yêu cầu đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp là làm thế nào với một khối lượng nguyên vật liệu và tiền vốn nhất định có thể tạo ra sản phẩm có chất lượng cao nhất, hiệu quả nhất. Để có được lợi nhuận phục vụ cho tái sản xuất mở rộng, mỗi doanh nghiệp phải hạ được giá thành sản phẩm thấp hơn giá thành bình quân trên thị trường. Hạ được giá thành nhưng chất lượng phải đảm bảo, mẫu mã phải đẹp và độ thẩm mỹ cao. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản cũng không nằm ngoài quy luật đó. Không những thế yêu cầu đối với chất lượng và độ thẩm mý của sản phẩm xây dựng còn khắt khe hơn. Để có được những thông tin cần thiết cho các quyết định đầu tư, chủ doanh nghiệp phải căn cứ vào công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm.
Một thực trạng đặt ra là công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cần được không ngừng hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước hiện nay.
Xuất phát từ điều đó, em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty Xây dựng số 2” với hy vọng đóng góp được chút gì dù rất nhỏ bé vào công cuộc đổi mới của công ty.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Nguyễn Thiện Đạt cùng các cô chú, anh chị tại phòng kế toán công ty đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
mục lục
tài liệu tham khảo
1- Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp. Trường ĐH Kinh tế Quốc dân - NXB Tài chính - Hà Nội - 7/1998.
2- Tài chính doanh nghiệp sản xuất - Trường ĐH Tài chính kế toán - NXB Tài chính - Hà Nội -1997.
3- Kế toán chi phí (theo hệ thống kế toán Mỹ) - NXB Thống kê - 1994.
4- Kế toán, kiểm toán và phân tích tài chính doanh nghiệp - NXB Tài chính 1996.
5-/ Hệ thống văn bản pháp quy về đổi mới quản lý đầu tư và xây dựng - Tập 1 - NXB Xây dựng.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0220.doc