lời nói đầu
Kinh tế thị trường đòi hỏi con người ta luôn luôn năng động nhất là trong lĩnh vực kinh doanh. Nó như một trò chơi có sức lôi cuốn kì lạ với những ai đã theo đuổi nó. Khi đã bước chân vào lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi con người ta phải luôn luôn năng động và sáng tạo.
Cho đến bây giờ, khi nền kinh tế thị trường đã gia nhập khá sâu và khá lâu vào suy nghĩ của các nhà kinh doanh Việt Nam thì chúng ta có thể khẳng định được rằng bất kì một nhà kinh doanh nào trong thời điểm hiện nay và
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1247 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hoạt động xúc tiến thương mại cho các Doanh nghiệp tại Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong tương lai đều hiểu rằng tiêu thụ sản phẩm là vấn đề cấp bách và vô cùng quan trọng mà nó có thể quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Nhưng muốn tiêu thụ sản phẩm trong cơ chế thị trường như hiện nay thì phải coi trọng vấn đề xúc tiến thương mại.
Như chúng ta đã biết để tồn tại được các doanh nghiệp cần phải có thị trường cho riêng mình và cần phải mở rộng thị trường. Trong khi đó thị trường nội địa lại quá nhỏ bé và cạnh tranh khốc liệt. Do đó , các doanh nghiệp có xu hướng tìm kiếm các thị trường nước ngoài. Và đây cũng là một trong những chủ trương của Đảng ta là hướng vào xuất khẩu tăng tích luỹ nội bộ cho nền kinh tế, thúc đẩy nhanh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, xúc tiến thương mại lại là một hoạt động khá mới mẻ với nhiều doanh nghiệp hiện nay. Việc tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại chưa được quan tâm đúng mức hoặc còn nhiều thiếu sót, sự hỗ trợ và giúp đỡ của Nhà nước và các tổ chức xúc tiến thương mại chưa nhiều và còn rời rạc. Tất cả những điều đó làm hạn chế hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cũng là một tổ chức mà trong đó có chức năng xúc tiến thương mại, đầu tư cho các doanh nghiệp. Do tầm quan trọng của xúc tiến thương mại và hơn nữa trong thời gian thực tập ở đây em thấy còn một số hạn chế trong lĩnh vực hoạt động này. Vì thế nên em chọn đề tài “Hoàn thiện hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam ” làm luận văn tốt nghiệp.
Luận văn của em trình bày gồm ba chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động xúc tiến thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
chương III: Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS. TS Nguyễn Duy Bột và cô giáo Th.s Nguyễn Thị Tuyết Mai đã giúp em hoàn thành luận văn này.
chương I.
lý luận chung về hoạt động xúc tiến thương mại
I. cơ sở lý luận của hoạt động xúc tiến thương mại.
Trong cơ chế thị trường như hiện nay, làn sóng cách kinh tế đã lan toả khắp thế giới. Đi đôi với nó là việc tự do hoá thương mại và phát triển mậu dịch quốc tế. Hầu hết các nước thực hiện Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá hướng về thị trường thế giới hiện nay được đặc trưng hoá bằng hai tính chất cơ bản là "cạnh tranh quyết liệt trên phạm vi toàn cầu và tiến bộ không ngừng về kỷ thuật và công nghiệp". Do đó các nước đều xác định cho mình những kế hoạch và phương hướng phù hợp để phát triển kinh tế. Tuy thế giới đang tiến hành nhanh quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá , tăng cường giao lưu buôn bán nhưng đều sử dụng triệt để các chính sách, các biện pháp bảo vệ thị trường trong nước và mở rộng thị trường ra nước ngoài để đảm bảo cho lợi ích của mình. Muốn giữ vững và mở rộng thị trường trong nước và quốc tế thì nhà nước và doanh nghiệp phải tiến hành nhiều hoạt động và biện pháp khác nhau như: Nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghiệp, xúc tiến thương mại, thay đổi kiểu dáng.... Trong đó xúc tiến thương mại đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nó tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp, giúp người tiêu dùng tiếp cận sản phẩm dễ dàng và có sự lựa chọn đúng cho nhu cầu của mình.
Đối với nước ta thuật ngữ xúc tiến thương mại còn khá mới mẻ. Do đó để hiểu rõ hơn về xúc tiến thương mại cũng như nội dung của đề tài này thì chúng ta cần phải nắm được khái niệm của một số thuật ngữ.
1.Một số khái niệm về xúc tiến thương mại.
Khi đưa ra nghiên cứu bất kỳ một vấn đề nào đó dù nó liên quan đến chính trị, kinh tế, xã hội thì cùng đều có rất nhiều quan điểm khác nhau lý giải cho vấn đề đó. Xúc tiến thương mại cũng vậy, tuỳ theo từng ngành nghề, lĩnh vực khác nhau mà các nhà nghiên cứu đưa ra những khái niệm và lý luận riêng về xúc tiến thương mại cho ngành nghề và lĩnh vực đó cho phù hợp nội dung và tính chất của nó.
Trước tiên ta sẽ tìm hiểu về thuật ngữ xúc tiến. Kể từ khi xuất hiện cho đến nay có rất nhiều khái niệm khác nhau và các khái niệm đó qua từng thời kỳ đã được nâng cao và ngày càng hoàn thiện hơn.
- Theo các nhà lý luận của các nước tư bản thì xúc tiến là hình thái quan hệ xác định giữa người mua và người bán, là lĩnh vực hoạt động định hướng vào việc chào hàng một cách năng động nhất.
- Các nhà kinh tế ở các nước đông Âu lại cho rằng xúc tiến là một công cụ, là chính sách thương mại nhằm làm năng động và gây ảnh hưởng định hướng giữa người bán và người mua, là một hoạt động tuyên truyền làm mục tiêu đạt được sự chú ý và chỉ ra những lợi ích của tập khách hàng tiềm năng về hàng hoá và dịch vụ.
Nói chung các khái niệm về xúc tiến đều được trình bày một cách chung nhất và có một nội dung cơ bản nhất gồm sự nổ lực, cố gắng nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp .
Còn xúc tiến thương mại cũng được hiểu theo nhiều gốc độ khác nhau mà điển hình là một số khái niệm.
“Xúc tiến thương mại là một lĩnh vực hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội kinh doanh mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương mại”. Theo luật Thương mại
Nhìn từ góc độ kinh doanh quốc tế, xúc tiến thương mại có thể là xúc tiến xuất khẩu, xúc tiến nhập khẩu và phát triển thương mại. Trong khi các nước phát triển như Nhật, Hà Lan,... tập trung và các hoạt động xúc tiến nhập khẩu thì nước ta trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai, các hoạt động xúc tiến thương mại lại tập trung vào việc xúc tiến xuất khẩu. Nên ta cần hiểu rõ về xúc tiến xuất khẩu và phát triển thương mại. Tuy chưa có tài liệu đề cập về vấn đề này một cách cơ bản và đầy đủ. Sau đây là khái niệm về xúc tiến thương mại và xúc tiến xuất khẩu mà người ta thường dùng.
- Xúc tiến xuất khẩu: Nó có nghĩa hẹp hơn xúc tiến thương mại, là hoạt động nhằm gia tăng việc bán, đưa hàng hoá, sản phẩm trong nước ra thị trường nước ngoài.Ông H.H Leerrenveld, giám đốc điều hành tạp chí nước ngoài CBI Brelbtin (Hà Lan) đã viết trong số 12/93 "Xúc tiến thương mại xuất khẩu là những dịch vụ được Chính phủ của một nước cung cấp để đáp ứng nhu cầu của các nhà xuất khẩu với mục tiêu làm đẩy mạnh sự tăng trưởng của xuất khẩu”.
- Phát triển thương mại: Được chia thành phát triển ngoại thương và phát triển nội thương. Phát triển ngoại thương gồm phát triển xuất khẩu và nhập khẩu.
- Hoạt động xúc tiến xuất khẩu là việc hộ trợ, tìm kiếm thị trường cho hàng hoá xuất khẩu.
Nếu đứng trên góc độ hoạt động thương mại ở các doanh nghiệp thì "xúc tiến thương mại là hoạt động có chủ đích trong hoạt động Marketing của các doanh nghiệp nhằm tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương mại”. Xúc tiến thương mại ở các doanh nghiệp bao gồm các hoạt động chính như: Quảng cáo, khuyến mãi, hội chợ, triển lãm bán hàng trực tiếp, quan hệ công chúng và các hoạt động khuyếch trương khác.
Tuy nhiên đề tài này nghiên cứu hoạt động xúc tiến thương mại của các tổ chức xúc tiến thương mại mà cụ thể là phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam nên khái niệm xúc tiến thương mại ở đây phải hiểu theo nghĩa rộng vừa mang tầm vĩ mô và vi mô đã được nêu ở trên theo luật thương mại do quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua.
2.Vai trò của các tổ chức xúc tiến thương mại.
Căn cứ vào mức độ nhìn nhận (tầm vĩ mô hay vi mô) người ta xác định khái niệm, nội dung của công tác xúc tiến thương mại. Dù là một doanh nghiệp (tham gia thương mại hàng hoá , hoặc thương mại dịch vụ) hay một xã, phường, tỉnh, một bộ,một ngành, một hiệp hội ngành nghề, một quốc gia, một khối liên kết kinh tế... dù là nền kinh tế phát triển hay đang phát triển thì trong lĩnh vực thương mại đều thấy sự hiện diện của xúc tiến thương mại.
Cùng với sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật đặc biệt là sự phát triển "vũ bảo" của kỹ thuật công nghiệp thông tin và ngành điện tử thương mại thế giới đã đi theo một chiều hướng mới không thể đảo ngược. Đó là xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại. Sự phát triển của quốc tế hoá, toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại là sản phẩm của quá trình cạnh tranh và hợp tác giữa do con người tạo ra nhưng đồng thời chính con người ở tất cả quốc gia trên thế giới hiện nay cũng đang coi đó là thách thức và cơ hội lớn đan xen nhau, đặc biệt là khi tiến vào kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên của khoa học kỹ thuật, của công nghiệp cao, của chất xám... Đứng trước tình hình đó các doanh nghiệp (các nhà sản xuất, ác nhà thương mại, các nhà cung ứng dịch vụ thương mại, tài chính, ngân hàng ) hiện nay đang từng ngày từng giờ tính toán và lựa chọn cho mình phương pháp quản lý điều hành tôí ưu trong mọi lĩnh vực: vốn, tài sản, công tác kế hoạch, sử dụng nguồn lực, thị trường kỷ thuật và công nghệ sản xuất, mạng lưới bán hàng, dây dựng uy tín doanh nghiệp, uy tín sản phẩp...để đạt được lợi thế cạnh tranh. Về nguyên lý thì xu thế toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại toàn thế giới sẽ tạo cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp cũng cố và tăng cường hệ thống tổ chức và nâng cao sức cạnh tranh để phát triể lâu dài.
Các doanh nghiệp còn phải chịu tác động của các tổ chức thương mại thế giới và khu vực. Hiện nay kim ngạch thương mại thế giới chủ yếu do các nước thành viên WTO buôn bán với nhau (chiếm khoảng 95%) chỉ có 5% là giao dịch của các nước không thành viên. Tư tưởng của WTO là: cơ hội buôn bán cho các doanh nghiệp thuộc mọi quốc gia trên thế giới chỉ bình đẳng khi thị trường được giải phóng và mở cửa cho mọi đối tượng. Những nguyên tắc chủ yếu của WTO về tổ chức thị trường, bình đẳng, tự do, có thể dự báo được, cạnh tranh, ưu tiên cho các nước phát triển. Như vậy có thể thấy WTO một mặt tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh hơn, vừa tới sự bình đẳng trong thương mại, nhưng đồng thời cũng tạo ra sự cạnh tranh hơn, đặt doanh nghiệp trước những thách thức lớn hơn. Ngoài WTO còn có các tổ chức kinh tế khác như NAFTA, FTAA, EU, và một số tổ chức có Việt Nam tham gia như: ASEAN, APEC, PECC, AFTA,...
Bên cạnh đó, hệ thống phân phối lưu thông truyền thống đang được thay thế dần bằng những phương thức mới. Hệ thống phân phối lưu thông cổ truyền 3 bậc: Nhà phân phối - Bán buôn - bán lẻ - người tiêu dùng thông qua hình thức đặt hàng qua bưu điện hoặc các điểm bán lẻ và cuối cùng là phân phối trực tiếp đến người tiêu dùng thông qua mạng Internet(Thương mại điện tử). Hơn nữa sự tiến bộ về ứng dụng công nghệ thông tin trong những năm qua đã phá vỡ nhiều tư duy cổ truyền thương mại ngày nay không chỉ bó hẹp vào các hình thức truyền thống mà chẳng bao lâu nữa vào thế kỷ 21, kỹ thuật thương mại sẽ có sự thay đổi lớn với sự sử dụng rộng rãi các phương tiện thông tin như: Internet, hệ kết nối, hệ kết nối mạng máy tính điện tử...
Chính trong môi trường như vậy, phần lớn các cộng đồng doanh nghiệp ở những nước đang phát triển với nhiều lý do khác nhau trong đó chủ yếu là do mức độ phát triển kinh tế của từng quốc gia đã không thể tự mình tăng được khối lượng xuất khẩu. Chính phủ phải bằng nhiều cách cung cấp cho các cộng đồng này những trợ giúp về nghiệp vụ và thúc đẩy hoạt động hổ trợ xúc tiến cho các doanh nghiệp.
Nếu xét về hình thức và nội dung hoạt động của từng cơ quan xúc tiến thương mại nhiều khi ta thấy các hoạt động giống nhau hoặc trùng lặp. Song nếu dùng tổng thể ta thấy được sự khác biệt về bản chất giữa các cơ quan xúc tiến thương mại của chính phủ và phi chính phủ (đặc biệt là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam ). Các phòng thương mại là các tổ chức tự nguyện, các hoạt động không thể dựa vào ngân sách và dựa vào phí hội viên mà các dịch vụ phòng thương maị và công nghệ Việt Nam đại diện cho quyền lợi của từng doanh nghiệp. Chiến lược phát triển của nó không bị ràng buộc bởi chiến lược kinh tế nói chung. Như vậy không phải khi nào các hoạt của VCCI cũng phù hợp xúc tiến thương mại của quốc gia. Các cơ quan này hoạt động theo pháp luật và không có cơ quan chủ quản. Như vậy để thực hiện mục tiêu quốc gia các nước và cộng đồng quốc tế đã thành lập cơ quan xúc tiến thương mại quốc tế và quốc gia. Khi nền kinh tế phát triển, các cơ quan xúc tiến thương mại có vai trò như những công cụ để thực hiện mục tiêu chiến lược. Các cơ quan xúc tiến thương mại chính phủ như xương sống của hệ thống xúc tiến thương mại, có vai trò chủ đạo trước cơ quan phi chính phủ và chính phủ nhỏ hơn. Điều này khẳng định vai trò quản lý và điều tiết của nhà nước trong cơ chế thị trường.
3. Chức năng của các tổ chức xúc tiến thương mại.
Các hoạt đỗng xúc tiến thương mại có thể được thực hiện bởi nhiều tổ chức, cơ quan và hoạt động của những tổ chức xúc tiến thương mại này thông thường bao gồm bốn chức năng cơ bản.
- Góp phần đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút FDI bằng việc hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường phát triển xuất khẩu, tìm kiếm giới thiệu dự án đối tác và cơ hội đầu tư nước ngoài.
- Tham mưu cho lãnh đạo thông qua việc tham gia các kiến nghị về các chính sách ngoại thương và đầu tư, các chiến lược phát triễn xuất khẩu và các chương trình xúc tiến xuất khẩu và thu hút FDI.
- Làm cầu nối giữa các nhà lãnh đạo và cộng đồng doanh nghiệp xuất khẩu các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
- Thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về xúc tiến thương mại và đầu tư với các tổ chức quốc tế và nước ngoài liên quan đến xúc tiến thương mại và đầu tư.
4. Các hình thức hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại.
Những hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại là nền tảng cho bất kỳ nỗ lực cho xuất khẩu nào. Chúng phải được thực hiện trong bất kỳ trường hợp nào, các hoạt động cụ thể bao gồm:
- Tư vấn kinh doanh đối với các doanh nghiệp. Các cơ quan xúc tiến thương mại phải có trách nhiệm tư vấn cho các doanh nghiệp về thị trường (cả trong và ngoài nước), mặt hàng, công nghệ, kỷ thuật kinh doanh, đặc biệt chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời cũng giúp đỡ, tư vấn và hướng dẫn cho các doanh nghiệp nước ngoài muốn phát triển kinh doanh tại nước sở tại.
- Giới thiệu doanh nghiệp và tìm kiếm bạn hàng: Tổ chức cho các đoàn doanh nghiệp Việt Nam giao tiếp với bạn hàng nước ngoài và ngược lại giới thiệu cho các doanh nghiệp nước ngoài có điều kiện thăm dò, khảo sát, tìm kiếm bạn hàng phát triển kinh doanh tại nước sở tại.
- Cung cấp thông tin: Thường xuyên phát hành thông tin hai chiều thông qua báo chi, băng hìng,đĩa CDROM... về thị trường hàng hoá, tìm kiếm đối tác, giới thiệu sản phẩm mới, từng bước hình thành kho thông tin và ngân hàng dữ liệu thương mại.
- Tổ chức hướng dẫn và hỗ trợ doanh nghiệp: Tổ chức, hướng dẫn và hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia triển lãm, hội chợ quảng cáo, khuyến mãi trong nước và quốc tế tạc điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất, các công ty thương mại giới thiệu một cách có hiệu quả sản phẩm của họ ra thị trường trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức như tổ chức các trung tâm giới thiệu sản phẩm, tuần lề giao dịch thương mại, toạ đàm và giao lưu thương mại, giới thiệu sản phẩm qua mạng...
- Tổ chức các trung tâm thương mại ở nước ngoài: Giúp đỡ hướng dẫn doanh nghiệp trong nước thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh hoặc thành lập công ty Việt Nam ở nước ngoài hoặc cửa hàng giới thiệu sản phẩm.
- Nghiên cứu, tổ chức thực hiện và giới thiệu: Nghiên cứu, tổ chức thực hiện và giới thiệu các hình thức thương mại mới như thương mại điện tử hoặc đặt hàng qua bưu điện nhằm từng bước hiện đại hoá nền thương mại trong nước theo kịp với tiến bộ kỷ thuật thương mại thế giới.
- Điều tra, thu nhập ý kiến, nguyện vọng của các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, từ đó đề xuất kiến nghị với cơ quan hữu quan của chính phủ về các chính sách quản lý kinh tế thương mại nhằm khai thác tối đa tiềm năng của các doanh nghiệp, đảm bảo cho thị trường luôn sôi động, động thời cơ quan xúc tiến thương mại cũng là một trong những công cụ của nhà nước để chuyển tải và quán triệt đường lối, chính sách quản lý kinh tế thương mại cho cộng đồng doanh nghiệp.
- Huấn luyện và đào tạo: Tổ chức các chương trình tập huấn ngắn ngày cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế theo hướng hiện đại hoá kỷ thuật thương mại và cập nhật thông tin mới về thị trường, kỹ năng quản lý,... nhằm từng bước xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam có bản lĩnh kinh nghiệm và kiến thức đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách hiện nay đối với các doanh nghiệp trong nước trước trào lưu quốc tế hoá và cạnh tranh quốc tế ngày càng mạnh và gay gắt.
- Tham gia các hoạt động chung: Tham gia các hoạt động chung về xúc tiến thương mại do các tổ chức xúc tiến thương mại của các nước hoặc tổ chức quốc tế đề xuất.
Phạm vi và mức độ chuyên sâu thực sự đối với các hoạt động của tổ chức xúc tiến thương mại phụ thuộc vào khả năng các nguồn lực, cả về nhân sự lẫn tài chính, vào những yêu cầu của nhà xuất khẩu, vào tính chất của các sản phẩm được xuất khẩu hay có thể được nhập khẩu, vào các đặc trưng của thị trường nước ngoài, và vào kinh nghiệm của chính tổ chức xúc tiến thương mại đó. Trong các nguồn lực khả dụng về nhân sự và tài chính là những yếu tố quan trọng hàng đầu. Do những yếu tố này, các mức độ thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại còn được chia ra:
- Mức độ căn bản: Những hoạt động phải được thực hiện trong bất cứ trường hợp nào. Những hoạt động này là những dịch vụ được gọi là cần thiết cho cộng đồng doanh nghiệp và cho việc đạt được các mục tiêu chung của chính sách xúc tiến thương mại quốc gia.
- Mức độ trung bình: Những hoạt động nên được thực hiện chỉ khi nào mà tổ chức xúc tiến thương mại đã phát triển tới một mức độ nhất định và đã có thể có một số kinh nghiệm trong việc hoàn thành các nghĩa vụ cơ bản của nó.
- Mức độ dài hạn: Những hoạt động có thể được thực hiện chỉ khi tổ chức xúc tiến thương mại thực sự có khả năng đảm nhiệm chúng.
II. nội dung hoạt động xúc tiến thương mại đối với doanh nghiệp
1. Tổ chức quảng cáo.
Xây dựng ngân sách dành cho quảng cáo: Căn cứ vào yêu cầu, mục tiêu của quảng cáo và các kinh doanh quảng cáo được lựa chọn, doanh nghiệp bắt tay vào xây dựng ngân sách quảng cáo cho từng mặt hàng. Vai trò của quảng cáo là để tăng nhu cầu về hàng hoá đó. Và doanh nghiệp cần phải tính toán chi đúng số tiền thực sự cần thiết để đạt được chỉ tiêu thực sự đã đề ra.
Quyết định thông tin quảng cáo : Gồm 3 giai đoạn
+ Hình thành ý tưởng thông tin: Để nảy sinh những ý tưởng nhằm giải quyết những nhiệm vụ, mục tiêu quảng cáo, những người sáng tác quảng cáo thường sử dụng nhiều phương thức khác nhau. Nhiều ý tưởng đã nảy sinh do trò chuyện trao đổi đối với người tiêu dùng, các đại lý, các chuyên gia và các đối thủ cạnh tranh.
+ Đánh giá và lựa chọn phương án thông tin: Người đăng quảng cáo cần đánh giá thông tin trên cơ sở các phương án thông tin có thể có để chọn ra thông điệp có hiệu quả nhất.
+ Thực hiện thông tin: Mức độ tác động của thông tin không chỉ phụ thuộc vào nội dung truyền đạt mà còn phụ thuộc vào cách truyền đạt. Người làm quảng cáo cần đưa tin làm sao để nó thu hút được sự quan tâm, chú ý của công chúng. Thông thường quảng cáo chuẩn bị đề cương trong đó nói rõ nhiệm vụ, nội dung, luận cứ, và văn phong của thông tin. Sau đó người quảng cáo phải tìm phong cách, văn phong, lời lẽ để thực hiện thông tin đó. Về phong cách thì bất kỳ thông tin nào cũng có thể được thực hiện theo những phương án khác nhau như:
+ Xác định phương thức tiến hành quảng cáo: Trong quảng cáo thường có một số phương thức tiến hành như: Quảng cáo hàng ngày liên tục, quảng cáo định kỳ, quảng cáo theo từng thời kỳ nhất định, quảng cáo đột xuất, chiến dịch quảng cáo.
+ Quyết định về phương tiện tuyền tin: Quy trình lựa chọn dựa vào: phạm vi, tần suất và cường độ tác động của thông tin quảng cáo lựa chọn những phương tiện quảng cáo cụ thể, thông qua các quyết định về lần sử dụng các phương tiện quảng cáo.
2. Tổ chức hoạt động khuyến mãi.
Tuỳ theo khả năng tài chính cũng như mục tiêu tham gia hoạt động khuyến mãi mà doanh nghiệp có thể xem xét các hình thức khuyến mãi chủ yếu.
- Giảm giá: Giảm giá trong một thời gian là một trong những kỹ thuật xúc tiến
- Phân phát mẫu hàng miễn phí: Đây là việc phân phát miễn phí cho người tiêu dùng. Các công ty sẽ cho nhân viên tiếp thị đến tận nhà khách hàng mục tiêu, hoặc gửi qua đường bưu điện, hoặc phát tại cửa hàng kèm theo những sản phẩm khác. Đây cũng là hình thức giới thiệu hàng hiệu quả nhất nhưng tốn kém.
- Phiếu mua hàng: Là loại giấy xác nhận người cầm giấy sẽ được hưởng ưu đãi giảm giá khi mua hàng, thông thường phiếu mua hàng sẽ được phát hành cho khách hàng khi khách hàng đến mua hàng tại công ty. Phiếu chứng nhận mua hàng này sẽ được sử dụng mua cho lần sau. Ngoài ra nó có thể được phát hành thông qua bưu điện, gói vào trong tay kèm theo một ấn phẩm khác. Cũng có thể nó là ấn phẩm được in trên báo hoặc tạp chí. Tỷ lệ phân phát tuỳ thuộc vào từng đợt khuyến mại.
- Trả lại tiền: Đây là hình thức bán giảm giá cho người trung gian chứ không phải tại cửa hàng bán lẻ.
- Thương vụ có chiết giá nhỏ: Đây là cách kích thích người tiêu dùng thông qua việc đảm bảo cho người tiêu dùng tiết kiệm được một phần chi phí so với giá bình thường của sản phẩm.
- Thi-cá cược- trò chơi: Là hình thức tạo ra cơ may nào đó cho khách hàng bằng cách tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, các trò chơi trong một thời gian nhất định.
- Phần thưởng cho các khách hàng thường xuyên: Để giữ khách hàng thừng xuyên, các công ty thường giảm giá cho các khách hàng này một tỷ lệ nhất định hoặc giảm giá dưới dạng khác như thêm một hàng hoá cùng loại.
- Dùng thử hàng hoá không phải trả tiền và một số các hình thức như: Phần thưởng, tặng vật phẩm có mang biểu tượng quảng cáo, chiết giá...
3. Tổ chức tham gia hội chợ, triển lãm.
Các vấn đề cần xem xét khi tiến hành tham gia hội chợ triển lãm là các hoạt động trước, trong và sau khi tham gia.
- Các hoạt động trước hội chợ triển lãm: Dựa vào mục tiêu đã đạt đặt ra các doanh nghiệp tiến hành lựa chọn nên tham gia vào loại hội chợ triển lãm nào phù hợp. Các khía cạnh để xem xét là loại hội chợ triển lãm, nơi tổ chức hội chợ triển lãm, thành phần tham gia và tham quan hội chợ triển lãm, nhà tổ chức hội chợ triển lãm. Ngoài ra, cần phải dự trù kinh phí, chuẩn bị yếu tố con người, cơ sở vật chất, thiết kế và xây dựng gian hàng cho việc tham gia hội chợ triển lãm.
- Các việc phải làm trong hội chợ triển lãm: trong hội chợ triển lãm các doanh nghiệp có rất nhiều công việc phải hoàn thành nhưng tựu chung lại có hai công việc chủ yếu nhất đó là giới thiệu hàng hoá và giao tiếp với khách hàng tại chỗ.
+ Giới thiệu hàng hoá: Thông qua giới thiệu sản phẩm các nhân viên của doanh nghiệp sẽ giới thiệu tình năng tác dụng của sản phẩm, điểm khác biệt giữa sản phẩm của doanh nghiệp với doanh nghiệp khác. Từ đó làm nổi bật tính ưu việt của sản phẩm, làm cho khách hàng hiểu và yêu mến hình ảnh của doanh nghiệp. Giới thiệu hàng hoá cho khách hàng có thể bằng nhiều cách như: phát tờ rơi, sử dụng catalogue, video, phát quà tặng hàng mẫu.
+ Giao tiếp và bán hàng tại hội chợ triển lãm : Hội chợ triển lãm là dịp quan trọng để các doanh nghiệp tiếp xúc với khách hàng mục tiêu. Khi tiếp xúc với khách hàng tại gian hàng triển lãm luôn cần có một người có trọng trách nhất định có đủ khả năng và thẩm quyền để trả lời những thắc mắc, yêu cầu của khách hàng. Tại bàn giao tiếp với khách hàng, các nhân viên cần có sổ ghi ý kiến của khách hàng.
- Các hoạt động diễn ra sau hội chợ triển lãm: Đánh giá kết quả đạt được khi tham gia hội chợ triển lãm doanh nghiệp cần tổ chức đánh giá kết quả của việc tham gia hội chợ triển lãm lần này để xem xét mức độ thành công như thế nào, cụ thể: số lượng đơn đặt hàng, giá trị hàng hoá bán ra, số bạn hàng thu hút được, đánh giá về sự phản ứng của khách hàng.
- Quan hệ với khách hàng sau thời gian hội chợ triển lãm: Sau hội chợ triển lãm doanh nghiệp tổ chức thành công sẽ thu hút được nhiều khách hàng và bạn hàng. Rất nhiều hợp đồng sẽ được ký kết sau hội chợ triển lãm muốn, muốn được như vậy doanh nghiệp cần có mối liên hệ liên tục và sát với khách hàng và bạn hàng.
4. Tổ chức các hoạt động khuyếch trương khác.
Xây dựng một chương trình phù hợp trước hết phải đưa ra được ngân sách đủ để thực hiện thành công chương trình theo mục tiêu đã chọn lựa, sau đó quyết định công cụ thích hợp. Các loại hoạt động, công cụ hiện nay thường được sử dụng là: tin tức (dựa trên các phương tiện thông tin đại chúng như: báo, đài, ti vi...) về doanh nghiệp, sản phẩm hay con người của doanh nghiệp những bài nói chuyện tuyên truyềnvề doanh nghiệp và sản phẩm của họ. Những sự kiện khuếch trương như; tổ chức hội thảo, họp báo, tổ chức kỷ niệm ngày thành lập doanh nghiệp, các hoạt động phục vụ công ích như: tài trợ, đỡ đầu các hoạt động xã hội, phương tiện nhận dạng như: biểu tượng công ty, đồng phục của công nhân viên, brochures...có thể giúp cho công chúng nhanh chóng nhận biết được doanh nghiệp. Sau khi lựa chọn được phương tiện, công cụ, doanh nghiệp cần tìm kiếm những thông tin hấp dẫn, độc đáo về doanh nghiệp và sản phẩm của nó, lựa chọn những thông tin có giá trị phản ánh tốt nhất hình ảnh doanh nghiệp và sản phẩm mong muốn có được trong quá trình truyền tin. Trong nhiều trường hợp doanh nghiệp phải chủ động tạo ra những câu chuyện hấp dẫn, những sự kiện khuyếch trương sau đó cơ quan thông tin đến phỏng vấn, đưa tin, doanh nghiệp không phải chi tiền cho việc đưa tin bài trên các phương tiện thông tin đại chúng.
5. Tổ chức thực hiện kế hoạch xúc tiến thương mại.
Xây dựng kế hoạch xúc tiến thương mại mà không đúng đối với việc tổ chức thực hiện giống như sự mơ mộng không thể biến mục tiêu thành thực tế. Vì vậy việc thực hiện kế hoạch xúc tiến thương mại cần phải gắn bó với việc xây dựng kế hoạch xúc tiến. Tổ chức triển khai kế hoạch xúc tiến gồm một loạt các công việc kế tiếp như sau: Xét duyệt lại mục tiêu, điều kiện môi trường và kế hoạch xúc tiến đã chọn. Đánh giá, điều chỉnh và đảm bảo các nguồn tổ chức bộ máy đã thực hiện; triển khai các kế hoạch, nghiệp vụ xúc tiến. Trong đó tổ chức bộ máy đã thực hiện và triển khai các kế hoạch xúc tiến là quan trọng.
- Tổ chức bộ máy thực hiện xúc tiến thương mại. Là việc thiết kế mô hình tổ chức bộ máy và quy định mới liên hệ với chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ phận trong tổ chức và trong nội bộ các bộ phận với nhau nhằm thực hiện mục tiêu đề ra. Nội dung tổ chức bộ máy thực hiện xúc tiến thương mại gồm 5 vấn đề:
+ Xác định mô hình tổ chức và phân phối mạng lưới xúc tiến phù hợp.
+ Quy định chức năng, nhiệm vụ và mối liên hệ trách nhiệm giữa các bộ phận, cá nhân trong tổ chức.
+ Xây dựng quy trình thực hiện nghiệp vụ xúc tiến thương mại.
+ Bố trí lao động phù hợp với công việc nhằm nâng cao hiệu quả xúc tiến thương mại.
+ Xem xét đánh giá và hoàn chỉnh tổ chức.
- Triển khai thực hiện kế hoạch xúc tiến thương mại: Sau khi xác định mục tiêu nhiệm vụ, nguồn lực và cơ cấu tổ chức cần tập trung mở rộng triển khai thực hiện kế hoạch xúc tiến thương mại của doanh nghiệp bao gồm kế hoạch quảng cáo, kế hoạch tham gia hội chợ triển lãm, kế hoạch khuyến mãi, kế hoạch quan hệ công chúng và các hoạt động khuyếch trương khác.
6. Tổ chức phân tích đánh giá kết quả xúc tiến thương mại.
Đối tượng đánh giá: Phân tích đánh giá hoạt động xúc tiến thương mại được thực hện ở nhiều mức độ khác nhau. Phân tích đánh giá hoạt động xúc tiến thương mại tổng quát (cấp doanh nghiệp); phân tích đánh giá hoạt động xúc tiến thương mại của từng cá nhân: phân tích, đánh giá hoạt động xúc tiến thương mại về chất lượng (hành vi cử chỉ, quan hệ với khách hàng, kết quả phân tích với khách hàng , thị trường); phân tích đánh giá hoạt động xúc tiến thương mại theo sản phẩm khu vực thị trường, khách hàng.
Đánh giá quảng cáo:Việc đánh giá hiệu quả quảng cáo là rất cần thiết cũng như hết sức khó khăn. Trước hết, người ta dựa vào doanh số để đánh giá hiệu quả quảng cáo. Quảng cáo làm tăng mức độ nhận biết và ưa thích hàng hoá lên bao nhiêu và cuối cùng làm tăng doanh số lên bao nhiêu. Ngoài ra, hiệu quả quảng cáo còn được đánh giá bằng các hiệu quả truyền thông bằng các chỉ tiêu như bao nhiêu người biết bao nhiêu người ưa thích thông điệp quảng cáo.
Đánh giá hiệu quả hoạt động khuyến mãi: Hiệu quả của chương trình khuyến mãi thường được dựa trên kết quả làm tăng doanh số. Các công ty sản xuất thường sử dụng phương pháp so sánh chỉ tiêu doanh số tiêu thụ trong thời gian trước, trong và sau khi thực hiện chương trình.
Đánh giá hiệu quả hoạt động quan hệ công chúng và các hoạt đông khuyếch trương khác. Cách đơn giản và dễ nhất mà nhiều doanh nghiệp cũng sử dụng đó là xem xét số lần xuất hiện thông tin về doanh nghiệp cùng sản phẩm trên các phương tiện truyền thông. Tuy nhiên, cách đo lường này không cho biết con số thực sự về số người đọc hay nghe, xem xét những bản tin đó, và ảnh hưởng, ấn tượng của những bản tin đó và ảnh hưởng, ấn tượng của những bản tin thông qua việc đo sự thay đổi trong hiểu biết thái độ của khách hàng đối với sản phẩm do kết quả của hoạt động quan hệ công chúng hoặc có thể đo lường hiệu quả qua việc đo tác động đối với doanh số và lợi nhuận.
III. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xúc tiến thương mại và yêu cầu hỗ trợ từ phía Nhà nước và các tổ chức xúc tiến thương mại .
1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xúc tiến thương mại.
Các doanh nghiệp không hoạt động trong chân không mà luôn chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố ảnh hưởng. Để ra quyết định chiến lược và quyết định đúng đắn trong quá trình lựa chọn mục tiêu và thực hiện thành công hoạt động xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp phải nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng nhằm tìm kiếm, phân tích và lựa chọn các thông tin phục vụ quá trình ra quyết định. Tuy nhiên, việc nghiên cứu thị trường và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp nói chung và hoạt động xúc tiến nói riêng đòi hỏi phải được thực hiện trên một khối lượng khổng lồ các thông tin mà hầu như không một doanh nghiệp nào có khả năng bao quát được.
Để giúp cho việc xem xét các yếu tố ảnh hưởng có hiệu quả, người ta thường nhóm các thông tin và yếu tố ảnh hưởng vào thành các nhóm yếu tố cơ bản, với cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, một cách mô tả tốt hơn cả là khách quan và chủ quan.
1.1. Các yếu tố chủ quan.
Chiến lược/ kế hoạch xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp luôn phụ._. thuộc chặt chẽ vào các yếu tố phản ánh tiềm lực của một doanh nghiệp cụ thể. Một chiến lược/ chương trình xúc tiến bình thường tốt nếu nó phù hợp với tiềm lực bên trong của mỗi doanh nghiệp.
Tiềm lực của doanh nghiệp phản ánh các yếu tố mang tính chủ quan và dường như có thể kiểm soát được ở một mức độ nào đó mà doanh nghiệp có thể sử dụng để thực hiện chiến lược/ kế hoạch xúc tiến và chinh phục khách hàng.
Tiềm lực của doanh nghiệp không phải là bất biến, có thể phát triển theo hướng mạnh lên hay yếu đi, nó có thể thay đổi toàn bộ (tổng quát) hay bộ phận (một vài yếu tố). Trong thực tế, các yếu tố thuộc tiềm lực doanh nghiệp thay đổi với mức độ chậm hơn(trễ) so với sự thay đổi liên tục của môi trường kinh doanh và có thể hạn chế khả năng phản ứng linh hoạt của doanh nghiệp trước sự thay đổi của các yêu cầu xúc tiến đặt ra. Cần có sự đánh giá đúng tiềm lực của doanh nghiệp (tiềm lực tiềm năng). Như vậy, nghiên cứu tiềm lực của doanh nghiệp cùng một lúc có hai nhiệm vụ:
- Đánh giá tiềm lực hiện tại để lập chiến lược/ kế hoạch xúc tiến và tổ chức thực hiện chiến lược/ kế hoạch xúc tiến.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển tiềm năng của doanh nghiệp để thực hiện thành công chiến lược xúc tiến thương mại.
Đánh giá, phân tích tiềm lực của doanh nghiệp có thể dựa vào các yếu tố cơ bản sau:
+ Khả năng tài chính của doanh nghiệp dành cho xúc tiến thương mại: Mọi hoạt động xúc tiến được tổ chức đều phải có một khoản tiền nhất định của doanh nghiệp chi cho nó. Khả năng lựa chọn công cụ xúc tiến, tần suất truyền đạt thông tin đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngân quỹ dành cho xúc tiến của doanh nghiệp. Một ngân sách xúc tiến quá hạn hẹp sẽ làm cho doanh nghiệp khó có thể đạt được mục tiêu của xúc tiến thương mại. Ngược lại, ngân sách xúc tiến quá lớn sẽ gây lãng phí. Hiện nay, một số doanh nghiệp chi phí cho xúc tiến thương mại được tính bằng tỷ lệ phần trăm doanh số. Ngân sách xúc tiến thương mại cũng như quy mô xúc tiến thương mại lại càng cao.
Nhân tố con người và trình độ tổ chức xúc tiến thương mại.
Hiệu quả của hoạt động xúc tiến thương mại phụ thuộc rất lớn vào yếu tố con người, con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Kenichi Ohma đã đặt con người ở vị trí số một, trên cả khả năng tài chính và tài sản khi dánh giá sức mạnh của một doanh nghiệp. Chính con người với năng lực thật của họ mới lựa chọn đúng phương án, chiến lược xúc tiến thương mại và sử dụng sức mạnh khác mà họ có (tài chính, công nghệ, kỹ thuật...) một cách hiệu quả nhất.
Nhân tố con người trong xúc tiến thương mại được xếp trên các giác độ. Người tiêu dùng, người làm công tác xúc tiến thương mại. Sự hiểu biết của người tiêu dùng về xúc tiến thương mại sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiếp nhận hưởng ứng các chương trình xúc tiến thương mại của doanh nghiệp. Hình thức xúc tiến như thế nào, ngân sách xúc tiến bao nhiêu trước hết phụ thuộc vào quan điểm của ban lãnh đạo doanh nghiệp. Xúc tiến thương mại sẽ sôi động hay tẻ nhạt phụ thuộc vào sự nhận thức về vai trò xúc tiến thương mại của ban lãnh đạo doanh nghiệp. Cuối cùng là các nhân viên làm công tác xúc tiến thương mại. Để cho khách hàng biết về một thông tin nào đó, các nhân viên làm công tác xúc tiến thương mại phải nắm bắt, phân tích tâm lý và các nhân tố ảnh hưởng đến ứng xử của khách hàng, từ đó đưa ra quyết định phương án xúc tiến phù hợp và hiệu quả.
Xúc tiến thương mại đạt được mục tiêu khi công tác tổ chức được quan tâm đúng mức. Khi tiến hành chương trình xúc tiến phải xây dựng kế hoạch xúc tiến cũng như chương trình hành động một cách khoa học. Trong suốt quá trình tổ chức thực hiện cần có sự kiểm tra sát sao để xúc tiến thương mại đạt hiệu quả cao nhất.
1.2. Các yếu tố khách quan.
Các yếu tố khách quan là yếu tố thuộc môi trường kinh doanh mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được. Nghiên cứu xu hướng vận động các môi trường kinh doanh là cực kỳ quan trọng bởi nó ảnh hưởng đến cách thức và hành vi mua sắm của khách hàng trên thị trường cũng như đến cách thức mà doanh nghiệp có thể đưa ra để thông tin nhằm chinh phục khách hàng.
Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Nhóm các yếu tố thuộc về quản lý vĩ mô là các chủ trương chính sách của Nhà nước tác động vào xúc tiến thương mại. Trong mỗi điều kiện cụ thể của từng nước, từng thị trường, từng thời kỳ mà các chủ trương, chính sách của Nhà nước tác động vào xúc tiến thương mại sẽ khác nhau. Các chủ trương, chính sách của Nhà nước sẽ tạo hành lang pháp lý cho xúc tiến thương mại.
Các yếu tố thuộc chính trị và pháp luật chi phối mạnh mẽ quá trình ra quyết định xúc tiến: Ví dụ như quyết định cấm quảng cáo thuốc lá và rượu, quy định về giới hạn và thời gian quảng cáo và số tiền quảng cáo trên truyền hình cho một sản phẩm hay một nhãn hiệu. Hệ thống pháp luật hoàn thiện không thiên vị là một trong những điều kiện tiền đề để hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược xúc tiến của doanh nghiệp.
Các yếu tố cơ bản thuộc môi trường thành phần này thường được lưu ý là:
- Quan điểm, mục tiêu định hướng phát triển xã hội và nền kinh tế của Đảng cầm quyền.
- Chương trình kế hoạch triển khai thực hiện các quan điểm, mục tiêu của Chính phủ và khả năng điều hành của Chính phủ.
- Mức độ ổn định chính trị xã hội
- Thái độ và phản ứng của các tổ chức xã hội, các nhà phê bình xã hội.
- Thái độ và phản ứng của dân chúng (người tiêu thụ).
Hệ thống pháp luật với mức độ hoàn thiện của nó và hiệu lực thực hiện pháp luật trong đời sống kinh tế xã hội.
Môi trường cạnh tranh
Cạnh tranh được xác định là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường với nguyên tắc ai hoàn thiện hơn, thoả mãn tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng người đó sẽ chiến thắng, sẽ tồn tại và phát triển. Duy trì cạnh tranh bình đẳng, đúng luật là nhiệm vụ của Chính phủ. Trong điều kiện đó vừa mở ra các cơ hội kiến tạo để các doanh nghiệp kiến tạo hoạt động của mình, vừa yêu cầu các doanh nghiệp phải vươn lên phía trước "vượt quá đối thủ". Điều kiện để ạnh tranh và các thành phần tham gia vào hoạt động kinh doanh để "vượt lên phía trước" tạo ra môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại , sản xuất ngày càng phát triển, nhu cầu tăng, số lượng chủ thể tham giai vào hoạt động kinh doanh ngày càng nhiều. Sự gia tăng nhanh chóng của doanh nghiệp làm cho nhân tố cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ngày càng nhiều. Sự gia tăng nhanh chóng của doanh nghiệp làm cho nhân tố cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ngày càng gay gắt. Để tiêu thụ được hàng hoá (bán được), nâng cao sức cạnh tranh, ngoài việc nâng cao hiệu quả chất lượng phục vụ khách hàng, các doanh nghiệp cần phải tổ chức tốt hoạt động xúc tiến thương mại. Xúc tiến thương mại giúp các doanh nghiệp chinh phục khách hàng tốt hơn. Như vậy, khi số lượng các chủ thể tham gia kinh doanh ngày càng nhiều, tính cạnh tranh càng cao đòi hỏi xúc tiến thương mại phải phát triển.
Chính sách kinh tế
Có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và ảnh hưởng đến hoạt động xúc tiến thương mại nói riêng. Hiện nay, khi ta thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập nền kinh tế, làm cho giao lưu thương mại giữa nước ta với các nước trong khu vực và thế giới tăng lên không ngừng. Phát triển kinh doanh trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp cần phải có những hiểu biết nhất định về thị trường quốc tế, giới thiệu được hàng hoá kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời xây dựng hình ảnh đẹp của doanh nghiệp cũng không dừng lại ở phạm vi trong nước mà được mở rộng trê thị trường quốc tế. Kinh tế đối ngoại phát triển sẽ tạo điều kiện cho xúc tiến thương mại phát triển và ngược lại, nghĩa là ở đây có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ hai chiều.
Mặt khác, với xu thế toàn cầu hoá nề kinh tế, những thành tựu phát triển về khoa học, công nghệ, về kỹ thuật quản lý kinh doanh, thiết bị tiên tiến trên thế giới cũng vì vậy mà có sự chuyển dịch nhanh chóng từ nước phát triển sang các nước đang phát triển. Do vậy , trình độ kinh nghiệm xúc tiến thương mại cũng vì thế mà yêu cầu được tăng lên về số lượng cũng như chất lượng.
2. Yêu cầu hỗ trợ từ phía Nhà nước và các tổ chức xúc tiến thương mại.
Trong thời điểm hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất khó khăn đó là thời hạn gia nhập AFTA và APEC đang đến gần, song song với nó chúng ta đang cố gắng để được gia nhập WTO. Như vậy mức độ cậnh tranh giữa hàng hoá Việt Nam và hàng hoá có liên quan ở các nước tại thị trường Việt Nam sẽ tăng lên, đây là một áp lực rất nặng nề đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng đứng vững, tồn tại và gây dựng uy tín của mình bằng cách tham gia tích cực các hoạt đỗng xúc tiến thương mại trước những áp lực, nhưng khó khăn thách thức đặt ra từ nhiều phía. bản than các doanh nghiệp đã có những cố gắng nỗ lực nhưng trên thực tế thì không có một doanh nghiệp nào có đủ khả năng để giải quyết được tất cả những khó khăn thách thức nêu trên.
Như chúng ta đã biết trên thế giới khái niệm xúc tiến thương mại đã có từ rất lâu đời, với ý nghĩa quảng bá bằng nhiều hoạt động phương thức khác nhau nhằm tăng sức mua bán, trao đổi hàng hoá, sản phẩm. Hoạt động xúc tiến thương mại là nhu cầu có tính quy ở mỗi quốc gia khi bước vaò nền kinh tế thị trường. nhận thức được tầm quan trọng của xúc tiến thương mại, tại nhiều quốc gia trên thế giới Nhà nước đã tham tích cực ngày càng nhiều các hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra cho các kế hoạch phát triển thương mại, phát triển kinh tế của mình. Họ đã thành lập các tổ chức xúc tiến thương mại để hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp phát triển sản xuất trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào.
Như vậy xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp qua thực tế đã chỉ ra rằng, hoạt động này chỉ thành công khi có sự tham gia hỗ trợ từ phía Nhà nước và các tổ chức xúc tiến thương mại. Cụ thể là:
Hình thành và tổ chức có hiệu quả hệ thống các cơ quan xúc tiến thương mại.
Tại Việt Nam hiện nay, hoạt động xúc tiến thương mại được một số cơ quan tổ chứcthực hiện thuộc hệ thống Chính phủ, hệ thống các tổ chức phi Chính phủ và các doanh nghiệp. Thuộc hệ thống Chính phủ cho tới nay tại Việt Nam, nhiều trung tâm xúc tiến thương mại đã được hình thành ở các Bộ, các Ngành, Bộ Thương - cơ quan quản lý Nhà nước về xúc tiến thương mại đã thành lập Cục xúc tiến thương mại theo quyết định số 78/2000/QĐ- TTg ngày 6/7/2000 của Thủ tướng Chính phủ. Cục xúc tiến thương mại có những quyền hạn sau:
- Giúp Bộ trưởng Bộ Thương mại định hướng công tác xúc tiến thương mại.
- Xây dựng hoặc tham gia xây dựng chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật về xúc tiến thương mại.
- Trình cấp có thẩm quyền ban hành các quy trình, quy phạm về xúc tiến thương mại.
- Hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các quy định.
- Nghiên cứu, dự báo và cung cấp các thông tin thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp công tác xúc tiến thương mại.
- Tổ chức tập huấn nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác xúc tiến thương mại và bồi dưỡng kỹ năng tác nghiệp trong thương mại cho cán bộ quản lý và kinh doanh thương mại.
- Chỉ đạo và hướng dẫn các sở thương mại về quản lý Nhà nước về nghiệp vụ xúc tiến thương mại.
- Giúp Bộ trưởng Bộ Thương mại chỉ đạo các đại diện thương mại ở nước ngoài tiến hành công tác xúc tiến thương mại, thực hiện hợp tác quốc tế về xúc tiến thương mại, cũng như các hoạt động quản lý Nhà nước khác về xúc tiến thương mại do Bộ Thương mại giao
Các trung tâm xúc tiến thương mại thuộc một số doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tư vấn pháp lý. Các trung tâm này hoạt động vơí tư cách là doanh nghiệp kinh doanh, thực hiện dịch vụ xúc tiến thương mại có thu phí của các doanh nghiệp là khách hàng theo thoả thuận
Nhìn từ kinh nghiệm cho thấy không có định chế nào, ngoại trừ tổ chức xúc tiến thương mại do Nhà nước lập ra, đủ điều kiện xét về quan điểm chuyên môn và tài chính để thực hiện hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại và đầu tư cho một quốc gia và quền lợi của toàn xã hội chứ không phải riêng lợi ích một ngành nghề nào, một cộng đồng nao.
Tuy nhiên, do tính đặc biệt của hoạt động xúc tiến thương mại, nếu chỉ có các tổ chức xúc tiến thương mại do Nhà nước thành lập, cấp kinh phí hoạt động, bố trí nhân sự, điều động theo hệ thống hành chính thì sẽ không đáp ứng kịp thời các yêu cầu hỗ trợ từ phía các doanh nghiệp. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là một tổ chức phi Chính phủ, không có chức năng quản lý Nhà nước về xúc tiến thương mại mà chỉ thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Sự song song tồn tại và hợp tác của cả hai hệ thông sẽ tạo ra việc thực hiện tốt hơn các nguồn lực của cả hai. Do đó, Nhà nước và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần tích cực hỗ trợ lẫn nhau để thực hiện tốt chức Phòng Thương mại và Công nghiệp năng xúc tiến thương mại của mình.
vi. sự cần thiết hoàn thiện hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Trong xu thế hiện nay khi mà kinh tế khu vực và thế giới đang tiến tới khu vực hoá, toàn cầu hoá. Điều đó có nghĩa là cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng khốc liệt và khó khăn hơn. Đối với Việt Nam chúng ta lại càng khó khăn hơn vì nền kinh tế của chúng ta có xuất phát điểm thấp. Bên cạnh đó Việt Nam mới tham gia mở cữa kinh tế thị trường. Do đó, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn và bỡ ngỡ. Xét một cách toàn diện thì có hai yếu tố cơ bản đòi hỏi sự cần thiết phải hoàn thiện hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Yếu tố khách quan: Như chúng ta đã biết nền kinh tế của thế giới ngày càng phát triển nhanh chóng như vũ bão. Nhu cầu giao lưu, trao đổi và mua bán hàng hoá cũng ngày càng tăng. Khối lượng thương mại thế giới ngày nay đã tăng khoảng 16 lần so với những năm 1950, thương mại toàn cầu tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng theo tỷ lệ của GDP thế giới. Hiện nay, tỷ lệ thương mại và GDP đã tăng đến 15 – 20 %, so với trước đây là 12 –13 % của các nước công nghiệp phát triển trong thời kỳ hoàng kim. Theo dự kiến đến năm 2005 thì khối lượng xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ thế giơi sẽ đạt 11.400 tỷ USD hay 28% GDP của thế giới so với năm 1998 (6500 tỷ USD ) tăng gần gấp đôi. Nhờ có cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là cách mạng thông tin liên lạc, nên thương mại quốc tế đã phát triển nhanh chóng cả về bề sâu và bề rộng. Có được những thành tựu đó phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của các tổ chức xúc tiến thương mại, đặc biệt là Phòng Thương mại và Công nghiệp của các nước trên thế giới. Đối với các nước trên thế giới hầu như tất cả các doanh nghiệp kinh doanh đều biết đến Phòng Thương mại và Công nghiệp và đều đánh giá cao của tổ chức xúc tiến thương mại này. Trong khi đó ở Việt Nam có nhiều doanh nghiệp chưa biết đến Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là gì, chức năng, nhiệm vụ của nó bao gồm những gì.
Bên cạnh đó xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hóa với các mặt tích cực và tiêu cực của nó sẽ tiếp tục diễn biến thông qua sự hợp tác và đấu tranh phức tạp
giữa các đối tác. Cục diện này tạo thuận lợi cho ta mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, mở rộng thị trường; đồng thời nước ta sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, trước mắt là việc Trung Quốc, vốn có sức cạnh tranh cao, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) để từ đó tận dụng được những ưu đãi của cơ chế toàn cầu đem lại. Trong khi đó nhiều doanh nghiệp Việt Nam không có khả năng thực hiện được hoạt động xúc tiến thương mại cho mình bởi các doanh nghiệp ở Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, bên cạnh đó có những doanh nghiệp chưa nhận thức được tầm quan trọng của xúc tiến thương mại trong cơ chế thị trường như hiện nay...
Trước tình hình của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng như vậy. Để Việt Nam có thể sớm gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội ở thị trường nước ngoài, kinh tế Việt Nam sớm hội nhập kinh tế thế giới. Là một tổ chức có chức năng hỗ trợ xúc tiến thương mại, đầu tư, đại diện và bảo vệ quyền lợi cho cộng đồng doanh nghiệp Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cũng giữ một vai trò quan trọng trong công việc chung này. Mà để làm tốt chức năng của mình thì Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phải ngày càng hoàn thiện hơn hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng, mở rộng thị trường, kinh doanh có hiệu quả. Để từ đó thu hút nhiều hội viên tham gia, nâng cao uy tín của Phòng.
Yếu tố chủ quan: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là một tổ chức phi Chính phủ. Có chức năng xúc tiến và hỗ trợ hoạt động thương mại và đầu tư, hợp tác khoa học công nghệ và các hoạt động kinh doanh khác của các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài. Do đó, trước tiên để tồn tại và phát triển Phòng phải tích cực nâng cao chất lượng các hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại. Trong những năm qua hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại của Phòng còn nhiều tồn tại và vướng mắc như: Đối với công tác cung cấp thông tin về các văn bản pháp quy tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vẫn chưa có nguồn cung cấp thường xuyên, đầy đủ chính xác và kịp thời; Việc cung cấp các thông tin khác như kinh tế, thị trường, bạn hàng ... là nhu cầu cấp thiết của doanh nghiệp, nhưng việc thu thập và tìm kiếm thông tin còn gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ cán bộ của Phòng còn trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm trong tiếp xúc các hội viên, chưa có nhiều ý kiến đóng góp giúp đỡ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Ngoài ra bộ phận phụ trách hội viên, các phòng ban khác chưa xem và coi viềc phát triển hội viên là nhiệm vụ trọng tâm của mình. Cơ sở vật chất của Phòng còn nhiều thiếu thốn, nguồn tài chính còn nhiều hạn hẹp...Tất cả những yếu tố trên đã làm ảnh hưởng đến hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Vì Thế hoàn thiện hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là một yêu cầu tất yếu khách quan mà mọi thành viên của Phòng cần phải ý thức được.
Chương II
Thực trạng hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp tại phòng thương mại và công nghiệp việt nam
i. khái quát về phòng thương mại và công nghiệp việt nam.
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam.
Với mục đích bảo vệ và hỗ trợ các doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thúc đẩy hợp tác các quan hệ kinh tế thương mại và khoa học công nghệ giữa Việt Nam với các nước. Ngày 29/04/1960, Thường vụ Hội đồng Chính phủ đã ký quyết định thành lập Phòng Thương mại nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngày 14/03/1963, Đại hội đầu tiên của Phòng thương mại được tổ chức với sự tham gia của đại diện 93 tổ chức hội viên trên toàn miền Bắc. Đại hội đã thảo luận và nhất trí về bản dự thảo điều lệ, thông qua phương hướng hoạt động và bầu ban trị sự của Phòng thương mại. Và đến ngày 27/04/1963, đã đi vào lịch sử của cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký quyết định số 58/CP Phê chuẩn điều lệ và cho phép Phòng thương mại được chính thức ra đời.
Trải qua hơn ba thập kỷ hoạt động và phát triển, cho đến tháng 4/ 1993. Đại hội toàn quốc lần thứ 2 của Phòng thương mại đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử phát triển của Phòng thương mại. Đó là Phòng thương mại được đổi tên thành Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, một tổ chức độc lập, phi Chính phủ; một người hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài đến tìm kiếm cơ hội kinh doanh ở Việt Nam.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là một tổ chức độc lập, phi chính phủ có tư cách pháp nhân và tự chủ về tài chính.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có tên giao dịch bằng tiếng Anh là Việt Nam Chamber of Commerce and Industry (VCCI).
Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam hoạt động theo pháp luật Việt Nam và theo điều lệ của phòng, được sự hỗ trợ và chịu sự giám sát của Nhà nước Việt Nam.
Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam đặt trụ sở chính ở Hà Nội, thủ đô nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và có các chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong và ngoài nước.
Gần 40 năm xây dựng và phát triển. Phòng thương mại và công nghiệp đã trải qua những chặng đường đáng nhớ.
1.1. Thời kỳ 1963-1974.
Đây là thời kỳ xây dựng tổ chức và hoạt động của phòng trong điều kiện cả nước có chiến tranh. Thời kỳ này, VCCI đã tích cực triển khai xây dựng bộ máy tổ chức, bao gồm những bộ phận chính như giao dịch quốc tế, pháp lý, hội chợ triển lãm, nghiên cứu và thông tin về thị trường. Hai hội đồng trọng tài ngoại thương và hàng hải được thành lập bên cạnh VCCI. Công việc của VCCI đang được tiến triển thì cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc nổ ra, trong tình hình đó VCCI tiếp tục các hoạt động của mình nhằm duy trì quan hệ thương mại với một số nước và thị trường, chủ yếu là thị trường các nước tư bản chủ nghĩa để đảm bảo các yêu cầu xuất nhập khẩu của đất nước, một mặt tham gia vào cuộc đấu tranh về pháp lý và chính trị chống những hoạt động bao vây, phong toả kinh tế, mặt khác tiếp tục công tác sưu tầm, nghiên cứu thị trường, thương nhân và luật lệ buôn bán của các nước để phục vụ cho hoạt động thương mại trong tương lai.
1.2. Thời kỳ từ năm 1975- 1985.
Đây là thời kỳ phòng mở rộng hoạt động trong phạm vi cả nước trong hoàn cảnh của một nền kinh tế bao cấp.
Sau giải phóng miền Nam, VCCI tiếp thu cơ sở cũ của Phòng thương mại Công kỹ nghệ Sài Gòn, tổ chức thành chi nhánh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong những năm đầu của thời kỳ này, mặc dù còn muôn vàn khó khăn do hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài để lại, bao vây cấm vận của Mỹ và các nước khác đối với Việt Nam, nhưng hoạt động của VCCI vẫn khá sôi động. Mỗi năm VCCI tổ chức cho 300 đến 400 đoàn thương nhân nước ngoài vào Việt Nam tìm hiểu thị trường, thiết lập quan hệ, giao dịch buôn bán. Trong giai đoạn này, VCCI đã thiết lập quan hệ với nhiều tổ chức quốc tế như : Phòng thương mại quốc tế, Phòng thương mại quốc gia và các Hiệp hội sản xuất kinh doanh, các tập đoàn công ty lớn ở các nước như Nhật Bản, australia, ASEAN, Hồng Kông, Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ,... Giữa năm 1982, VCCI đã tiến hành soạn thảo điều lệ sửa đổi, bổ sung thêm chức năng, mở rộng phạm vi hoạt động của VCCI. Theo bản điều lệ này, VCCI là một tổ chức hạch toán độc lập, tự chủ về tài chính, tự tạo nguồn thu để bù đắp các chi phí cho hoạt động của mình, không dựa vào ngân sách của Nhà nước. Do có một số khó khăn nên đại hội VCCI không tổ chức được. Tuy vậy, VCCI vẫn được Nhà nước chấp thuận từ năm 1993 được thành lập theo bản điều lệ mới.
Thời kỳ 1986 đến nay.
Hoạt động của Phòng thương mại và công nghiệp trong thời kỳ đổi mới.Với tình hình chính trị trên thế giới có nhiều biến động, sự kiện Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, Mỹ bao vây cấm vận kinh tế đã tác động không nhỏ đến tình hình kinh tế nước ta. Là tổ chức đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, xúc tiến thương mại và đầu tư, VCCI đã sớm nắm bắt được tình hình đề ra những hoạt động thích hợp, giúp các doanh nghiệp chuyển hướng và thâm nhập vào những thị trường mới một cách có hiệu quả vượt lên những khó khăn, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tạo ra đà tăng trưởng cao, đồng thời tập hợp ngày càng nhiều các doanh nghiệp và hiệp hội các doanh nghiệp vào tổ chức của mình, nhằm hướng dẫn, phối hợp, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp trên các quan hệ trong nước và quốc tế, đảm bảo quyền lợi chung của các cộng đồng, xây dựng và kiến nghị với Đảng và Chính phủ, có những giải pháp cho các vấn đề cụ thể thiết thực với từng lĩnh vực yếu trong nền kinh tế, khắc phục những mặt tồn tại của môi trường kinh doanh, phát huy nội lực của các doanh nghiệp.
2. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam.
2.1. Chức năng của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có những chức năng sau:
Đại diện để thúc đẩy và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trong các quan hệ trong nước và quốc tế.
Xúc tiến và hỗ trợ các hoạt động thương mại, đầu tư, hợp tác khoa học - công nghệ và các hoạt động kinh doanh khác của các doanh nghiệp ở Việt Nam và nước ngoài.
2.2. Nhiệm vụ của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Tập hợp, nghiên cứu ý kiến của các doanh nghiệp để phản ánh kiến nghị và tư vấn cho Nhà nước các vấn đề về pháp luật, chính sách kinh tế, tổ chức các cuộc tiếp xúc giữa các doanh nghiệp với các cơ quan Nhà nước để trao đổi thông tin và ý kiến nhằm cải thiện môi trường kinh doanh.
Tiến hành những hoạt động cần thiết để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp trước pháp luật.
Phối hợp và hỗ trợ các hiệp hội kinh doanh ở Việt Nam, hợp tác với các Phòng Thương mại và tổ chức hữu quan ở nước ngoài, tham gia các tổ chức khu vực và quốc tế phù hợp với mục đích của phòng và giúp đỡ các doanh nghiệp tham gia hoạt động của các tổ chức đó.
Tiến hành các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp phát triển quan hệ kinh doanh và đầu tư ở trong và ngoài nước như: Chắp mối và giới thiệu bạn hàng, cung cấp thông tin, hướng dẫn và tư vấn cho doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu, khảo sát thị trường, hội thảo, hội nghị, hội chợ, triển lãm, quảng cáo và các hoạt động xúc tiến khác.
Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong kinh doanh ở trong nước và quốc tế, xây dựng quan hệ lao động lành mạnh, bảo vệ môi trường, tham gia các hoạt động xã hội phù hợp với mục tiêu của Chính phủ.
Tổ chức đào tạo bằng những hình thức thích hợp để giúp các nhà kinh doanh nâng cao kiến thức và năng lực quản lý, kinh doanh.
Giúp đăng ký và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam và ở nước ngoài.
Cấp giấy chứng nhận xuất xứ cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam và chứng thực các chứng từ cần thiết khác trong kinh doanh, xác nhận các trường hợp bất khả kháng.
Giúp các doanh nghiệp trong và ngoài nước giải quyết bất đồng, tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải hoặc trọng tài; giúp phân bổ tổn thất chung khi có yêu cầu.
Thực hiện những công việc khác mà Nhà nước Việt Nam hoặc các tổ chức khác uỷ thác.
2.3 Cơ cấu tổ chức bộ máy của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam.
Các cơ quan lãnh đạo của Phòng thương mại bao gồm:
- Đại hội.
- Hội đồng quản trị.
- Ban thường trực.
- Ban kiểm tra.
Bên cạnh đó, còn có hội đồng cố vấn, trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, ban phân bổ tổn thất chung nhằm giúp Phòng Thương mại và Công nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Cơ quan Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có trên 30 đầu mối bao gồm các ban, trung tâm chuyên môn, các chi nhánh; Văn phòng đại diện của Phòngthương mại và công nghiệp Việt Nam trong và ngoài nước; công ty, tổ chức trực thuộc khác.
- Đại hội.
Đây là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Phòng. Đại hội gồm các đại biểu của hội viên được bầu từ các hiệp hội kinh doanh và các hội viên khác theo tỷ lệ hội viên ở các khu vực với số lượng và cơ cấu do Hội đồng quản trị quyết định. Đại hội có 2 loại: Đại hội thường kỳ và Đại hội bất thường. Đại hội thường kỳ do Hội đồng quản trị triệu tập 5 năm/ lần để giải quyết các vấn đề
+ Quyết định chương trình hoạt động của Phòng thương mại trong thời gian tới.
+ Quyết định sửa đổi điều lệ chung của Phòng.
+ Thông qua báo cáo của Phòng thương mại trong nhiệm kỳ qua.
+ Bầu Hội đồng quản trị và ban kiểm tra.
+ Thảo luận và quyết định các vấn đề khác về công tác của Phòng và các hội viên.
Đại hội bất thường được triệu tập bất kỳ thời gian nào theo quyết định của Hội đồng quản trị hoặc theo đề nghị của trên 1/2 số hội viên để giải quyết những vấn đề về tổ chức hoạt động của Phòng vượt quá thẩm quyền của Hội đồng quản trị. Khi triệu tập Đại hội thường kỳ, Hội đồng quản trị phải công bố chương trình nghị sự, quyết định về số lượng và cơ cấu đại biểu và hướng dẫn hội viên bầu đại biểu ít nhất là 30 ngày trước ngày Đại hội.
Hội đồng quản trị.
Là cơ quan do Đại hội bầu ra để lãnh đạo mọi hoạt động của Phòng trong thời gian giữa hai kỳ đại hội. Tổng số thành viên của Hội đồng quản trị do Đại hội quyết định, trong đó đảm bảo phải có ít nhất 3/4 số thành viên là đại diện hội viên chính thức của Phòng. Hội đồng quản trị gồm:
- Chủ tịch.
- Phó chủ tịch.
- Tổng thư ký.
- Các uỷ viên.
Chủ tịch, các Phó chủ tịch và Tổng thư ký của Hội đồng quản trị là chủ tịch, các Phó chủ tịch và Tổng thư ký của Phòng, có nhiệm kỳ cùng với Hội đồng quản trị.
Nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị là 5 năm. Thành viên của Hội đồng quản trị có thể miễn nhiệm trước thời gian theo quyết định của Đại hội bất thường hoặc theo đề nghị của trên 1/2 số hội viên chính thức. Trong trường hợp hội viên Hội đồng quản trị nghỉ hưu bị đình chỉ công tác hoặc vì lý do khác không thể thực hiện nhiệm vụ thì hội viên là pháp nhân có thành viên đó được cử người khác thay thế và phải thông báo cho Chủ tịch Hội đồng quản trị trong vòng 30 ngày sau khi xảy ra tình huống trên. Người được cử thay thế chỉ được công nhận là thành viên của Hội đồng quản trị với sự chấp thuận của ít nhất 2/3 số thành viên của Hội đồng quản trị. Các thành viên của Hội đồng quản trị có quyền tham dự đề cử, ứng cử biểu quyết và bỏ phiếu tại đại hội kỳ tiếp theo.
Nhiệm vụ của Hội đồng quản trị.
- Nghiên cứu và đề ra những công việc và biện pháp cần thiết để thực hiện nghị quyết của Đại hội.
- Quyết định chương trình công tác và kế hoạch ngân sách hàng năm của Phòng, xét duyệt các mức phí mà Phòng được thu, quy định hội phí và cách thu phí.
- Quyết định cơ cấu tổ chức của Phòng, quyết định thành lập các uỷ ban chuyên ngành, chuyên đề và các tổ chức bên cạnh Phòng.
- Bầu Chủ tịch, các Phó chủ tịch, Tổng thư ký và ban thường trực của Phòng.
- Giám sát hoạt động của ban thường trực và các tổ chức bên cạnh Phòng.
- Chuẩn bị nội dung và các vấn đề về tổ chức cho đại hội thường kỳ và bất thường.
- Quyết định mời các tổ chức, ._.xây dựng chính sách tham mưu cho Chính phủ.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phải tích cực nâng cao chât lượng của các hoạt động tư vấn cho doanh nghiệp, đáp ứng kịp thời những yêu cầu cần thiết, cấp bách của doanh nghiệp, Hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các nghị quyết, nghị định của Chính phủ, về chính sách luật pháp kinh doanh, các giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp đặc biệt là các diễn đàn, hội thảo chuyên đề bức xúc của doanh nghiệp phát huy tốt cả chi phối hợp với các Bộ ngành tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị, diển đàn lấy ý kiến của doanh nghiệp để xây dựng và ban hành các văn bản chính sách pháp luật kinh doanh. Tích cực tham gia các chương trình đề án hoàn thiện pháp luật của nhà nước đặc biệt là chương trình liên quan đến cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo môi trường kinh doanh thông thoáng và thuận lơị, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế: tư nhân doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tuyên truyền, giới thiệu rộng rải các chính sách, thông tin kinh tế và pháp luật cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước bằng nhiều hình thức khác nhau trực tiếp hoặc gián tiếp qua các ấn phẩm, các phương tiên thông tin đại chúng, qua đó góp phần nâng cao hiểu biết và ý thức pháp luật cho doanh nghiệp, tạolập nên môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng thuận lợi.
Góp ý xây dựng chiến lược phát triển kinh tế trong đó có chiến lược xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, sửa đổi và ban hành chính sách thông thoáng hơn cho doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho các hoạt động dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp. Tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi chính sách và thông tin kinh tế cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước
1.3. Công tác xúc tiến thương mại đầu tư.
Cải tiến công tác tổ chức đoàn thương mại ra nước ngoài khảo sát tìm kiếm thị trường và đối tác kinh doanh xuất nhập khẩu và đón tiếp các đoàn nước ngoài vào Việt Nam theo hướng tập trung vào các chương trình dự án và các hoạt động xúc tiến đem lại kêt quả cụ thể cho doanh nghiệp. Cần xác định rõ mục tiêu yêu cầu cụ thể của doanh nghiệp, tổng hợp và lập chương trình làm việc, hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các thoả thuận hợp tác sau các chuyến đi hoặc các cuộc gặp gỡ. Khai thác và hỗ trợ các thông tin trên mang tính chất định hướng, dự báo cho doanh nghiệp về thị trường các nước. Tranh thủ tuyên truyền, giới thiệu về môi trường đầu tư kinh doanh và các sản phẩm tiềm năng của doanh nghiệp trong các chuyến đi khảo sát, nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước.
Tiếp tục triển khai và nâng cao năng lực thực hiện các chương trình dự án về xúc tiến thương mại , đây là một hướng đi đúng và đã nhận được sự ủng hộ và kinh phí từ phía Nhà nước và các tổ chức đối tác. Tăng cường hợp tác và phối hợp đồng bộ với các tổ chức xúc tiến thương mại khác như Cục, Vụ, Viện và các Bộ, các hiệp hội doanh nghiệp trong nước và các Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài. Tích cực nghiên cứu kinh nghiệm của các tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài, các quy định , luật lệ của các tổ chức thương mại quốc tế để nâng cao hiệu qủa hỗ trợ doanh nghiệp. Thực hiện chiến lược ngoại giao kinh tế bằng việc đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các đại sứ quán các nước và sứ quán nước ta ở nước ngoài tăng cường khai thác thông tin thị trường và đối tác tiềm năng vào các thị trường mới và nhiều triển vọng như: Mỹ, TQ, Nga, ASEAN, hưỡng dẫn và hổ trợ các doanh nghiệp chủ động tìm kiếm khai thác và mở rộng xuất khẩu vào những thị trường này.
Đối với các hoạt động chắp mối kinh doanh. Đa dạng hoá các hình thức chấp mối kinh doanh cho doanh nghiệp, có thể trực tiếp thông qua các cuộc gặp gỡ, trao đổi gián tiếp thông qua các phương tiện như ấn phẩm, sách báo của phòng sách báo qua Mạng Internet trong đó chú trọng khuýến khích doanh nghiệp tham gia ứng dụng thương mại điện tử như xây dựng các trang Web quảng cáo doanh nghiệp, đưa thông tin lên mạng đồng thời khuyến khích Chính phủ nhanh chóng xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam. Tiếp tục cập nhật và hoàn thiện hồ sơ thị trường các nước hồ sơ sản phẩm và danh bạ doanh nghiệp Việt Nam để các đơn vị tự tra cứu và theo dõi.
Công tác đào tạo cần gẵn với chương trình, dự án của Chính phủ về đào tạo doanh nhân, doanh nghiệp đủ năng lực cạnh tranh khi hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời tranh thủ được nguồn tài trợ kinh phí nâng cao hơn chất lượng của hoạt động đào tạo thường xuyên, trực tiếp nâng cao kiến thức kinh doanh và năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp cần tiếp tục mở rộng hoạt động đào tạo giảng viên để nhân rộng mô hình đào tạo đến khắp các điạ phương trong cả nước trong đó có các nhóm đối tượng cần nhiều sự hỗ trợ như: phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số vv...
Đối với các hoạt động hội chợ triển lãm nâng cao chất lượng tổ chức hội chợ triển lãm theo hướng chủ trọng vào các nơi thiết thực đồng thời hội chợ triển lãm còn là dịp để các doanh nghiệp tìm hiểu thông tin, thị trường. Do đó tăng cường triển khai hội chợ, triển lãm hàng Việt Nam chất lượng cao ở các thị trường trọng điểm như: Mỹ, EU, Trung quốc ...
1.4. Công tác thông tin, tư vấn .
Triển khai và hoàn thiện hệ thống mạng thông tin nội (LAN) trong năm 2002 của toàn bộ hệ thống Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, tiết kiệm chi phí hành chính và đổi mới phương thức tổ chức công việc của phòng. Đào tạo và nâng cao kỹ năng sử dụng các phương tiện thông tin hiện đại cho các bộ của phòng. Các ban, chi nhanh, trung tâm, văn phòng đại diện, các công ty đơn vị trực thuộc tăng cường hợp tác trao đổi, khai thác thông tin và vận dụng thế mạnh của nhau để nâng cao hiệu quả hoạt động và hỗ trợ doanh nghiệp.
Đầu tư và phát triển Website của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trở thành công cụ hữu ích tăng cường hoạt động xúc tiến, chắp mối kinh doanh cho doanh nghiệp quảng bá vai trò hoạt động của phòng và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và tiến tới coi Website của phòng trở thành địa chỉ cung cấp thông tin chủ yếu và tiện ích cho việc tra cứu về thị trường và doanh nghiệp trong nước và các thị trường trọng điểm có hiệu quả.
Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của các công cụ thông tin ấn phẩm truyền thông như báo diễn đàn doanh nghiệp, các bản tin kinh tế.
1.5. Biện pháp nâng cao đội ngũ cán bộ
Khi chúng ta có một đội ngũ cán bộ tốt, có một kho thông tin giàu mạnh thì vấn đề xây dựng cho được một cơ chế hợp lý có thể động viên, phát huy tối đa khả năng của từng cán bộ, từng bộ phận sẽ là yếu tố quyết định thành công. Chúng ta thường nói đến phát huy nội lực. Nhưng để phát huy nội lực, cần có một chính sách đúng đắn, động viên được mọi người tìm tòi, suy nghĩ và phấn đấu làm việc. Cơ chế pháp lý đó bao gồm tổng thể từ cơ chế tiền lương, tiền thưởng chính sách đào tạo, đề bạt và khuyến khích vật chất . Cụ thể là:
- Chính sách tiền lương, tiền thưởng và các khuyến khích vật chất: Mặc dù đây không phải là đòn bẩy duy nhất để động viên mọi người làm việc nhưng nó có vị trí quan trọng trong việc động viên cán bộ. Chính sách tiền lương của ta dựa theo thang lương của Nhà nước nên mang nặng tính bình quân chủ nghĩa, không gắn với hiệu quả công việc. Mặc dù công việc của VCCI là xúc tiến nhưng chúng ta hoàn toàn có thể định lượng công việc và hiệu quả của nó. Từ đó nên có chính sách gắn thu nhập của cán bộ với khối lượng và hiệu quả công việc của họ
- Chúng ta có một chính sách để đào tạo và bồi dưỡng một số cán bộ chủ chốt. Hàng năm VCCI cần tổ chức nhiều lớp đào tạo kể cả cử nhiều cán bộ tham dự nhiều chương trình đào tạo nước ngoài, bồi dưỡng bổ sung cho họ những mảng còn yếu kém .Hình thành việc xây dựng một đội ngũ cán bộ cốt cán.
- Cần đầu tư nhiều cho lĩnh vực nghiên cứu và phát triển kể cả nghiên cứu phát triển từng hoạt động cũng như cho toàn bộ VCCI, nghiên cứu sâu về các thị trường như: nghiên cứu về thị trường may mặc trên thế giới, từ đó đưa ra các khuyến nghị cho các doanh nghiệp sản xuất gia công hàng may mặc về thị trường nào mà họ có thể tiếp cận, khó khăn thuận lợi của từng thị trường đối thủ là ai ...Nếu làm tốt lĩnh vực này chúng ta có thể phát triển các dịch vụ về tư vấn, điều tra thị trường ...mặt khác có thể khẳng định uy tín và nâng cao khả năng hợp tác với các hiệp hội ngành hàng .
- Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần xây dựng các chương trình cụ thể, sau đó phân công cho từng bộ phận thực hiện, có chế độ trao đổi thông tin, báo cáo với nhau. Các chương trình và cơ chế phối hợp này cần có chỉ đạo tập trung và thống nhất, chứ không chỉ đơn thuần là xây dựng mạng thông tin nội bộ.
1.6. Biện pháp cải tiến ngân sách cho Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Để phù hợp với cơ cấu ngân sách chung của các Phòng Thương mại trên thế giới( Thu từ hội phí hội viên:40%, thu từ các hoạt động:30-35%, thu Nhà nước và các tổ chức khác:25-30%) và có đủ kinh phí tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại với quy mô thì Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần phải tăng thu hội phí. Nguồn thu hội phí cần phải chiếm một tỷ lệ nhất định trong ngân sách hoạt động của Phòng vì đó là khoản thu ổn định. Cụ thể:
- Tăng mức thu hội phí tối thiểu từ 200000đ/ năm lên 500000đ/ năm. Điều này là cần thiết vì 200000đ chưa đủ gửi báo Diễn đàn doanh nghiệp cho hội viên chưa nói tới các hoạt động khác. Hơn nữa khá nhiều hiệp hội thu phí với cá nhân cũng khoảng 300000đ - 500000đ/ người/ năm
- Cần hợp tác mạnh với các địa phương để triển khai một số hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp và tuyên truyền về VCCI. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nên chú trọng các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp không tham gia xuất nhập khẩu ( trước đây chúng ta quá chú trọng đến các doanh nghiệp xuất khẩu) bởi vì số lượng doanh nghiệp này rất lớn nếu làm tốt sẽ làm tăng khối lượng hội viên của Phòng
- Cần làm tốt công tác quản lý và đôn đốc thu hội phí, cố gắng đẩy tỷ lệ thu hội phí lên khoảng 70 – 80%. Cần có sự phân biệt với hội viên nộp đầy đủ hội phí với hội viên không nộp hội phí
Một số khoản thu từ hoạt động khác. VCCI nên tập trung vào phát triển mạnh các hoạt động có giá trị tăng cao và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh như tư vấn và cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, sản phẩm và đầu tư. Tăng cường trao đổi dịch vụ môi giới cho xuất khẩu. Hiện nay Nhà nước đã có cơ chế riêng môi giới cho xuất khẩu nhằm khuyến khích cho xuất khẩu những dịch vụ này tuy khó khăn nhưng VCCI có nhiều lợi thế cả về cán bộ, nguồn thông tin và quan hệ. Để phát triển được các hoạt động dịch vụ cần xây dựng một cơ chế khuyến khích hợp lý. Phòng nên khuyến khích các cá nhân, bộ phận tìm tòi suy nghĩ và phát triển những dịch vụ hoạt động có thu. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần tách bạch các hoạt động làm hai loại. Một loại các hoạt động động xúc tiến sẽ được bao cấp từ ngân sách chung của Phòng, ngân sách này được xét duyệt hàng năm, căn cứ vào nhiệm vụ của từng bộ phận được ban thường trực phê duyệt. Còn một loại hoạt động áp dụng theo cơ chế dịch vụ
Tăng cường tiết kiệm những khoản chi: Việc tiết kiệm các khoản chicó thể thực hiện được nếu đó là công việc của mọi cá nhân, mọi bộ phận, bên cạnh đó VCCI nên nghiên cứu và đưa ra chế độ khoán chi hành chính. Chế độ khoán chi có mục đích tiết kiệm các khoản chi lãng phí chứ không đơn thuần là cắt giản ngân sách, nếu xây dựng chế độ khoán chi cũng như áp dụng cơ chế khuyến khích phát triển dịch vũ sẽ phải chấp nhận thu nhập cá nhân của các bộ phận khác nhau sẽ khác nhau...
1.7. Một số biện pháp khác.
Tăng cường mở rộng hợp tác với các cơ quan trong nước: Đâỷ mạnh hoạt động hỗ trợ xúc tiến Phòng Thương mại khó có thể có đủ tiềm lực về tài chính , về cán bộ để tự triển khai tất cả các hoạt động xúc tiến tại mọi miền tổ quốc. Vì thế sự hợp tác với các chính quyền địa phương, các tổ chức hiệp hội ngành hàng, các cơ quan xúc tiến địa phương sẽ là giải pháp hữu hiệu cho Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam mở rộng được quy mô hoạt
động và nâng cao uy tín với doanh nghiệp, thể hiện được vai trò của một tổ chức có tầm quốc gia, đồng thời Phòng lại nắm được tình hình của từng địa phương, từng ngành hàng một cách tốt hơn và sâu sát hơn với công tác hỗ trợ xúc tiến thương mại của VCCI.
Hợp tác quốc tế: Một số tổ chức quốc tế thường xuyên gửi tạp chí cho Phòng, nhưng Phòng vẫn chưa tận dụng tốt các thông tin này. Hơn thế nữa ít khi chúng ta yêu cầu và trao đổi với họ các chương trình cung cấp thông tin với quy mô lớn và chất lượng cao. do đó VCCI cần tăng cường giao lưu trao đổi thông tin.Với các Phòng thương mại nước ngoài; Phòng thương mại các nước tại Việt Nam; Phòng thương mại khu vực, ICC, các tổ chức quốc tế khác Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần phải khai thác triệt để các nội dung trong các bản hợp tác, nhất là các thị trường chủ yếu và thị trường mới có triển vọng đồng thời cung cấp thông tin về Việt Nam cho họ. Các ấn phẩm của Phòng phải được gửi cho họ và ngược lại yêu cầu họ gửi ấn phẩm cho ta. Tiến tới Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần có các thành viên hiệp hội hỗn hợp giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Bên cạnh đó Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nên tận dụng các nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế. phòng nên chủ động tìm kiếm và kêu gọi tài trợ, xây dựng chương trình trước sau đó vận động tìm kiếm tài trợ cho dự án vì nếu VCCI có sự chuẩn bị trước như vậy sẽ giúp các nhà tài trợ dẽ dàng phân tích các dự án khả thi. Tăng cường liên kết, hợp tác với tổ chức xúc tiến thương mại
2. Các biện pháp của Chính phủ.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là một tổ chức phi Chính phủ, phi lợi nhuận "phi Chính phủ " là vì nó tập hợp của các doanh nghiệp không làm quản lý Nhà nước. " Phi lợi nhuận" vì nó không phải là tổ chức kinh doanh lấy lời như các hội viên của nó. Mặc dù Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đều có những hoạt động tạo nguồn thu để bù đắp các chi phí hoạt động của mình và đầu tư phát triển. Do đó Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ kinh phí để Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có điều kiện tổ chức các dự án lớn, bên cạnh đó Nhà nước cần tăng cường sự quản lý của mình đối với hoạt động xúc tiến thương mại trên các phương diện:
2.1. Hoàn thiện hành lang pháp luật.
Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về xúc tiến thương mại. Xúc tiến thương mại của doanh nghiệp thì chịu sự quản lý của doanh nghiệp , còn xúc tiến thương mại nói chung lại chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Điều đó được thể hiện thông qua các văn bản do Chính phủ hoặc cơ quan chức năng ban hành. Cho đến nay, các văn bản pháp luật quy định về xúc tiến thương mại có Luật thương mại (Điều 38 qui định về xúc tiến thương mại); ngày 5.5.1999 Nhà nước ban hành Nghị định 32-CP để hướng dẫn thực hiện quảng cáo, khuyến mãi và hội chợ triển lãm theo luật doanh nghiệp. Chủ tịch HĐBT đã ra chỉ thị 36-CP ngày 5.11.99 quy định về biểu hiện của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động xúc tiến thương mại đã được xem xét và được điều chỉnh dần, nhằm tứng bước dần đưa xúc tiến thương mại và qui củ. Tuy nhiên, cho đến bây giờ vẫn còn những vấn đề sau cần phải được Nhà nước quan tâm và làm rõ như:
+ Qui định rõ trách nhiệm cụ thể của từng sai phạm trong xúc tiến thương mại .
+ Làm rõ phạm vị quyền hạn của từng tổ chức tham gia vào công tác quản lý Nhà nước về xúc tiến thương mại.
+ Sự phối hợp của các tổ chức trong quản lý Nhà nước về xúc tiến thương mại cần phải được đồng đều và nhất quán.
+ Cần có sự qui định rõ ràng hơn về thủ tục hải quan đối với hàng hoá đi dự hội chợ triển lãm ở nước ngoài cũng như hàng hoá được đem đi dự hội chợ triển lãm.
Khi hoàn thiện hệ thống văn bản được hoàn chỉnh thì Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam mới có thể làm tốt việc hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp .
Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về xúc tiến thương mại .
Hiện nay, nhà nước giao cho bộ thương mại là cơ quan quản lý Nhà nước về các hoạt động xúc tiến thương mại như quảng cáo, hội chợ triển lãm, khuyến mãi. Tuy nhiên Bộ thương mại mới chỉ quản lý được hoạt động khuyến mãi, hoạt động hội chợ triển lãm và việc quản lý này còn mang tính hình thức bởi Bộ thương mại không trực tiếp theo dõi hoạt động quảng cáo của doanh nghiệp (hội đồng quảng cáo chịu sự quản lý của Bộ thông tin ). Do đó Bộ thương mại rất khó thay mặt Nhà nước để quản lý hoạt động xúc tiến thương mại một cách chặt chẽ do đó Nhà nước cần phải hoàn thiện Bộ máy quản lý của mình để xúc tiến thương mại để các tổ chức xúc tiến thương mại nói chung và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nói riềng thực hiện nhiệm vụ của mình tốt hơn.
Chính phủ cần phải tăng cường chỉ đạo hợp tác giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với các Bộ, các ngành, các hiệp hội ngành hàng. Điều này sẽ tạo điều thuận lợi cho hoạt động của phòng như: hoạt động tập trung thông tin để từ đó chắt lọc ra những thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp, thu thập ý kiến kiến nghị... nhà nước cần phải làm cho các bộ, ngành hiểu rằng việc hợp tác giữa họ với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam không chỉ là trách nhiệm của mỗi bên mà còn mang laị quyền lợi cho nhau.
2.2. Phối hợp đồng bộ với các cơ quan trong việc tạo điều kiện xúc tiến thương mại.
Chính phủ cần có sự chỉ đạo để có sự phối hợp cung cấp thông tin chính xác cho các doanh nghiệp giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với các thương vụ ở nước ngoài. Lâu nay hoạt động của thương vụ ở các nước ngoài còn khá thụ động. Trong khi các doanh nghiệp vẫn còn non trẻ cả kinh nghiệm lẫn trình độ trên thị trường quốc tế. Không phải doanh nghiệp nào cũng đủ khả năng tham gia vào thị trường nước ngoài. Vì họ còn thiếu những kinh nghiệm, thông tin cần thiết giúp họ gia nhập thị trường quốc tế khỏi bị bỡ ngỡ và đặc biệt là tránh thất bại đáng tiếc. Vì vậy các thương vụ ở nước ngoài là đơn vị đóng vai trò quan trọng trong việc thu thập các thông tin về thị trường đó. Muốn nâng cao chất lượng hoạt động của các thương vụ nước ngoài và đạt hiệu quả tốt trong hợp tác giữa Phòng Thương mại và Công nghiệpViệt Nam với các thương vụ ở nước ngoài. Chính phủ có những biện pháp như:
+ Nhà nước phải thường xuyên hối thúc các thương vụ ở nước ngoài trong việc tạo sự thuận lợi cho Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong việc tổ chức các đoàn doanh nghiệp đi tìm hiểu thị trường, theo dõi cung cấp những thông tin cần thiết cho phòng thương mại, các đồng chí lãnh đạo Nhà nước phải giám sát các hoạt động của các thương vụ, kịp thời đưa ra những quyết định, giải pháp những chỉ thị cho các thương vụ để họ làm tốt công việc của mình.
+ Nhà nước cần hỗ trợ đào tạo các cán bộ của phòng nhất là các cán bộ trực tiếp thực hiện công tác hỗ trợ xúc tiến thương mại.
+ Hỗ trợ và giúp đỡ các đoàn doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài khảo sát, nghiên cứu thị trường. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam tìm hiểu thị trường.
Bên cạnh các biện pháp trên Nhà nước cần tạo hành làng pháp lý thuận lợi cho các hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp của phòng đặc biệt là việc đàm phán ký kết hiệp định thương mại với các nước. Đó là cơ sở để giải quyết những khó khăn còn tồn tại giữa hai phía, thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai bên, xác định những ưu đãi mà hai bên giành cho nhau. Tăng cường tham gia vào các tổ chức thương mại của khu vực và thế giới. Để kinh tế Việt Nam có điều kiện hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Và đó cũng là những thuận lợi, là cơ sở để Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có điểu kiện tiến hành cho các hoạt động xúc tiến thương mại của mình. Bởi thông qua các hiệp định thương mại,các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và thế giới sẽ thúc đẩy giao lưu trao đổi thương mại giữa các nước, mở rộng thị trường cho nhau cùng phát triển. Từ đó các hoạt động xúc tiến cũng phát triển và ngày càng được nâng cao về chất lượng.
2.3. Đối với các doanh nghiệp
Nhà nước cũng cần có những chính sách biện pháp để giải quyết các vấn đề vướng mắc cho doanh nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm của mình đáp ứng nhu cầu khách hàng.
Chính phủ cần phải thành lập trung tâm trình bày hàng mẫu tại các nước. trung tâm này nên được thành lập vơi sự phối hợp giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với bộ thương mại và các doanh nghiệp có nhu cầu trao đổi mua bán với thị trường nước ngoài. Trung tâm này có nhiệm vụ tiếp nhận và trưng bày hàng mẫu của doanh nghiệp trong nước gửi sang. Đồng thời nhận hàng của khách hàng và thu thập các mẫu mã gửi về Việt Nam, việc thành lập trung tâm này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệpViệt Nam giới thiệu sản phẩm của mình về mẫu mã giá cả, chất lượng...Mà không cần đến hội chợ hoặc các cuộc triển lãm. Từ đó có thể đàm phán ký kết hợp đồng mua bán giữa hai bên. cũng qua phòng trưng bày hàng mẫu,các doanh nghiệp Việt Nam có thể có được những ý kiến đóng góp trực tiếp của khách hàng những yêu cầu của khách hàng đối với những hàng hoá của Việt Nam. Bộ phận có liên quan tổng hợp và chuyển những thông tin cần thiết về Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và phòng sẽ chuyển cho các doanh nghiệp tham gia ở trung tâm. Nếu thành lập được trung tâm này hàng hoá Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội xuất khẩu sang thị trường các nước. Tuy nhiên việc chúng ta thành lập các trung tâm trưng bày hàng mẫu tại tất cả các nước có quan hệ thương mại với ta là một điều không đơn giản, bởi vì kinh phí của ta còn quá hạn hẹp. Ngay cả những nước giàu có, trên thế giới cũng không thể làm được điều đó bởi nó còn thuộc vào nhiều yếu tố nữa. Do đó vấn đề trước mắt là chúng ta nên đầu tư xây dựng các trung tâm này.Tại những nước có quan hệ thương mại vơi ta lâu dài, thị trường ổn định kim ngạch lớn.
Chính phủ cần có các biện pháp nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam. Hàng hoá của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu dưới dạng thô chưa qua chế bíên, hoặc chì là sơ chế, hàng gia công. Các loại mặt hàng có hàm lượng cao xuất khẩu chưa được nhiều. Cơ cấu hàng xuất khẩu của ta tương tự nhiều nước trong vùng. Do đó sức cạnh tranh của hàng Việt Nam rất kém. Điều đó làm cho hoạt động xúc tiến TM tìm kiếm thị trường và bạn hàng gặp nhiều khó khăn. vì thế nhà nước cần có các chính sách biện pháp để khắc phục tình trạng này như:
+ Khuyến khích xuất khẩu các hàng hoá có hàm lượng chất xám cao, hàng hoá có lợi thê so sánh ở Việt Nam bằng cách giảm hoặc không thu thuế xuất khẩu, hoàn thuế VAT...
+ Ban hành các văn bản về hàng hoá nhập khẩu Nhà nước cần phải nghiêm khắc xử lý các hàng hoá nhập lậu, hàng hoá kém chất lượng, hàng cấm nhập khẩu.
+ Có chính sách đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ. Trước mắt là thiết lập các viện nghiên cứu tập trung ứng dụng, tuy nhiên về lâu dài cần phải đầu tư nghiên cứu cơ bản. Ưu đãi để lôi kéo những người tài tham gia vào nghiên cứu. Có như vậy thì chúng ta mới có điểu kiện phát triển, tăng cường chất lượng hàng hoá, tăng sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó Chính phủ cũng cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp để đầu tư vào công nghệ mới, nhập nguyên vật liệu có chất lượng cao bằng các biện pháp như: Giảm Thuế, cho vay với lãi suất ưu đãi... Đối với dự án đầu tư nước ngoài phải khuyên khích những dự án tập trung vào ngành công nghiệp chế biến, những dự án có chuyên giao công nghệ tiên tiến nhất có tỉ lệ chất xám cao. Hạn chế những dự án đâù tư vào việc khai thác sản phẩm thô để xuất khẩu. Để có thể thu hút vốn đầu tư nước ngoài Nhà nước cần ban hành các chính sách pháp luật thuận lợi và thông thoang hơn cho các doanh nghiệp nươc ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng như các doanh nghiệp trong nước đầu tư sản xuất kinh doanh .
Ngoài ra chính phủ cần chú trọng đến các cơ quan quản lý có liên quan như: Cơ quan hải quan, cơ quan quản lý thị trường... để đốc thúc, giám sát giúp họ làm tốt công việc của mình. Hạn chế sự tiêu cực, qua đó ngăn chặn các hành vi như: buôn lậu, làm hàng giả... Bởi đây là những hoạt động vô cùng nguy hiểm ảnh hưởng đến hoạt động của toàn nền kinh tế, của từng doanh nghiệp làm ăn chân chính, làm giảm uy tín của các doanh nghiệp và vì những điều kiện khách quan, gián tiếp này sẽ làm cho hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trở nên khó khăn trong quá trình giúp các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm và tìm kiếm thị trường của mình.
Trên đây là những biện pháp mang tính chất vĩ mô là Nhà nước cần quan tâm, giúp đỡ để Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam làm tốt chức năng là thúc đẩy và đại diện quyền lợi cho các doanh nghiệp, hỗ trợ xúc tiến thương mại, đầu tư cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
3. Biện pháp đối với các doanh nghiệp.
Chức năng của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam bao gồm hai chức năng chính "đại diện để thúc đẩy và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng doanh nghiệp trong các quan hệ trong nước và quốc tế" chức năng thứ hai là :" hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư, hợp tác hoá khoa học công nghệ và các hoạt động kinh doanh khác của doanh nghiệp ở Việt Nam và ở nước ngoài".ở đây ta chỉ nghiên cứu chức năng thứ hai của phòng. Để phòng Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thực hiện tốt và có hiệu quả chức năng hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp của mình thì bên canh sự lỗ lực cố gắng không ngừng của phòng, sự đóng góp và ủng hộ của nhà nước thì các cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội kinh tế cũng phải tích cực giúp đỡ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ và đẩy lùi những hạn chế khó khăn của phòng.
Để có thể giúp đỡ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong quá trình hỗ trợ xúc tiến thương mại các doanh nghiệp , các hiệp hội kinh tế ... cần phải:
Tham gia đầy đủ các hoạt động của phòng, đóng hội phí đầy đủ. Quảng cáo, tuyên truyền những ảnh hưởng của phòng đến các doanh nghiệp chưa là hội viên, giúp họ nhìn nhận được những lợi ích mà họ sẽ đạt được khi tham gia vào Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Bởi không ai khác mà chính những hội viên là người quảng cáo hiệu quả nhất cho phòng. Qua đó phòng sẽ có nhiều hội viên tham gia, hiệu quả công việc sẽ cao hơn.
Các doanh nghiệp cần đầu tư cho những người phụ trách công tác xúc tiến thương mại gưỉ họ học ở những khoá đào tạo của phòng hoặc ở nước ngoài. Từ đó kiến thức của họ về xúc tiến thương mại sẽ được nâng cao, dễ dàng nắm bắt những thông tin mà Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cung cấp cho ra nhiều, bởi người làm xúc tiến thương mại là người hiểu rất rõ về khách hàng ( người tiều dùng). Do đó họ sẽ phải biết là mình cần phải tiếp nhận những thông tin cần thiết nào mà Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thông báo và xử lý thông tin đó như thế nào để đem lại hiệu quả tốt nhất.
Các doanh nghiệp cũng cần phải tăng cường đầu tư tài chính cho các hoạt động xúc tiến thương mại. Lựa chọn công cụ xúc tiến phù hợp. Ngân sách xúc tiến quá hạn hẹp sẽ làm cho doanh nghiệp có thể khó đạt được mục tiêu của xúc tiến thương mại , ngược lại ngân sách xúc tiến quá lớn gây lảng phí. Ngân sách xúc tiến càng cao, khả năng lựa chọn kỹ thuật xúc tiến thương mại cũng quy mô xúc tiến thương mại càng lớn. Giúp cho Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam hoàn tốt hơn chức năng hỗ trợ xúc tiến thương mại của phòng.
Doanh nghiệp cần đầu tư vào đổi mới công nghệ, khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh thị trường quốc tế. Do mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam bấy lâu nay phần lớn là hàng sơ chế nên giá trị xuất khẩu chưa cao. Vì thế các doanh nghiệp phải hợp tác với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tập trung vào thu thập những thông tin về lĩnh vực chuyển giao công nghệ để có được công nghệ tiên tiến.
Kết luận
Qua quá trình học tập, nghiên cứu tại trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân và quá trình thực tập tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam em thấy tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến thương mại đối với các doanh nghiệp là rất lớn.
Kinh tế thị trường là phải đối phó với cạnh tranh, đó là một thách thức đòi hỏi các doanh nghiệp phải vượt qua. Chính vì vậy, là một tổ chức phi chính phủ, có chức năng xúc tiến và hỗ trợ hoạt động thương mại, đầu tư, hợp tác khoa học công nghệ và các hoạt động khác của doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài hơn ai hết Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã không ngừng phấn đấu nỗ lực để hoàn thành nhiệm vụ của mình và đã đạt được những thành tựu quan trọng không thể phủ nhận được tạo sự ổn định và phát triển lâu dài của nền kinh tế
Tuy nhiên, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam vẫn còn một số mặt tồn tại về hoạt động xúc tiến thương mại cần khắc phục. Trong thời gian thực tập ở Phòng em đã tiến hành nghiên cứu một số biện pháp để nhằm hoàn thiện hơn hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp Việt Nam. Do phạm vi nghiên cứu rộng, giới hạn về thời gian và trình độ bản thân còn nhiều hạn chế chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót, kính mong nhận được sự chỉ bảo và đánh giá của thầy giáo PGS. TS Nguyễn Duy Bột và cô giáo Th.s Nguyễn Thị Tuyết Mai.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội: 6 / 2002
tài liệu tham khảo.
Philip kotle – Marketing căn bản – NXB thống kế
PGS. TS Nguyễn Duy Bột – Marketing quốc tế – NXB giáo dục 2000.
PGS. TS Nguyễn Duy Bột – Marketing thương mại quốc tế – NXB giáo dục 1999
PGS. TS Nguyễn Duy Bột – Thương mại quốc tế – NXB giáo dục 1999
PGS. TS. Nguyễn Bách Khoa – Marketing Thương mại – NXB giáo dục 1999
Văn kiện đại hội đảng VIII, Nghị quyết 12 NQ / TW ngày 03/01/1996, Nghị định 32/CP ngày 05/05/1999
PGS. TS. Trần Minh Đạo – Marketing căn bản – NXB thống kê 1998
PGS. TS. Nguyễn Duy Bột – PGS. TS. Đặng Đình Đào – Kinh tế thương mại – NXB Giáo dục 1997
Bộ luật thương mại nước CHXHCNVN – Học viện chính trị quốc gia 1999
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - Đối thoại và Hợp tác
Tạp chí thương mại, Tạp chí Tiếp thị quảng cáo, Tạp chí Kinh tế và phát triển, Tạp chí phát triển kinh tế, Tạp chí doanh nghiệp thương mại.
Thời báo kinh tế Việt Nam các kỳ.
Báo Diễn đàn doanh nghiệp các kỳ.
Các báo cáo năm của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Một số Catalogue và ấn phẩm khác của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- F0087.doc