Hoàn thiện hoạt động xuất khẩu đá xây dựng tại Công ty XNK thủ công mỹ nghệ Artexport

LỜI MỞ ĐẦU Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ (Artexport) là một công ty đầu ngành trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ tại Việt Nam hiện nay. Tiền thân là một tổng công ty nhà nước chuyên về hoạt động xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ, trải qua 45 năm xây dựng và trưởng thành, Artexport đã phát triển lớn mạnh với ba lĩnh vực hoạt động chính: xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ, bất động sản và tài chính. Artexport là một điển hình của mô hình công ty nhà nước, thực hiện chính

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1421 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hoạt động xuất khẩu đá xây dựng tại Công ty XNK thủ công mỹ nghệ Artexport, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sách cổ phần hóa để thích nghi với điều kiện phát triển của nền kinh tế đất nước. Trong lĩnh vực xuất khẩu thủ công mỹ nghệ, Công ty luôn là một đầu tàu của Việt Nam trong việc thâm nhập và phát triển thị trường mới. Với các mặt hàng truyền thống như thuê ren, gốm sứ… chỗ đứng của Công ty khá vững chãi trên thị trường quốc tế. Từ những năm 2000 trở lại đây, Công ty tham gia vào xuất khẩu đá xây dựng, một mặt hàng đang tăng trưởng cao trong thời gian gần đây. Sau một thời gian hoạt động trong lĩnh vực mới này, Công ty đã có nhiều thành tích ấn tượng, đồng thời có những bài học kinh nghiệm quý báu. Sau một thời gian thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport với sự tận tình giúp đỡ của cô Đặng Thị Thảo, trưởng phòng xuất nhập khẩu tổng hợp 2 và dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Đỗ Thị Đông, tôi đã hoàn thành Báo cáo chuyên đề “Hoàn thiện hoạt động xuất khẩu đá xây dựng tại Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport”. Báo cáo gồm ba phần: Phần 1: Tổng quan về Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport Phần 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu đá xây dựng tại Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport Phần 3: Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động kinh doanh xuất khẩu đá xây dựng tại Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨUTHỦ CÔNG MỸ NGHỆ - ARTEXPORT 1.1. Giới thiệu chung về công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport 1.1.1. Những nét khái quát về chung về công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ, tên viết tắt là Artexport (Viet Nam Art And Handicraft Product Export – Import Company). Công ty có trụ sở chính tại 2A – Phạm Sư Mạnh – phường Phan Chu Trinh – quận Hoàn Kiếm – Hà Nội. Artexport được thành lập 23/12/1964 theo quyết định 671/BNgT – TCCB của Bộ Ngoại Thương (nay là Bộ Công Thương), ban đầu gồm hai phòng nghiệp vụ: phòng thủ công và phòng mỹ nghệ tách ra từ Tổng công ty xuất khẩu tạp phẩm TOCONTAP Bộ Ngoại Thương, Artexport có tên ban đầu là Tổng công ty Xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ. Ngày 31/01/1993, Bộ Thương Mại ra quyết định số 334/TM – TCCB đổi tên Tổng công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ thành Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ. Theo thông tư số 07/TM – TCCP ngày 11/11/1993, Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ được xếp hạng là doanh nghiệp hạng I trực thuộc Bộ Công Thương. Công ty là đơn vị được phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, hoạt động theo pháp luật Việt Nam, theo chế độ hạch toán kinh tế, tự chủ về tài chính, có tư cách pháp nhân, có tài khoản tiền Việt Nam và tiền ngoại tệ tại Ngân hàng, có con dấu riêng để giao dịch. Ngày 04/10/2004, theo chủ trương chính sách của Đảng, công ty được cổ phần hóa (vốn điều lệ ban đầu là 32 tỷ Việt Nam đồng) và được đổi tên thành Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport. 1.1.2.Quá trình hình thành và phát triển Trải qua 45 năm hình thành và phát triển, Artexport đã trải qua nhiều sự thay đổi để thích nghi với sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Có thể chia quá trình hình thành và phát triển của công ty ra thành các giai đoạn chủ yếu như sau: - Giai đoạn 1964 – 1975: Artexport được thành lập vào những năm tháng khó khăn nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Được thành lập theo quyết định số 617/BNgT – TCCB, tách ra từ Tổng công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm, cơ sở vật chất của công ty ban đầu rất nghèo nàn, cán bộ quản lý kiêm nghiệp vụ chỉ có 36 người làm việc ở hai phòng mới hình thành là phòng mây tre đan và phòng mỹ nghệ sơn mài. Dưới sự lãnh đạo của Bộ Ngoại thương, công ty đã sớm ổn định tổ chức, bước đầu thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ được giao, cụ thể là tổ chức sản xuất, thu mua, tái chế, đóng gói, kinh doanh xuất nhập khẩu độc quyền hàng thủ công mỹ nghệ theo kế hoạch của Bộ giao. Vượt qua bao gian khó, Artexport đã có được 600.000 rúp kim ngạch xuất khẩu trong năm 1965, chỉ sau một năm thành lập. Kim ngạch xuất khẩu năm 1968 của Artexport đã lên đến 6 triệu rúp, tăng 10 lần chỉ sau 4 năm thành lập. Vừa hoạt động vừa kiện toàn tổ chức, đến thời điểm này, ngoài trụ sở chính tại Hà Nội, Artexport còn có một chi nhánh ở Hải Phòng và 3 xí nghiệp thành viên là: Xí nghiệp Mỹ nghệ xuất khẩu, Xí nghiệp Thảm len Đống Đa và Xí nghiệp Thảm đay Lực Điền (Hưng Yên). Hệ thống các kho nguyên liệu chiến lược giao nhận tại các tỉnh cũng được xây dựng kịp thời, như Đồng Quan, Xâm Động, Thường Tín, Thanh Trì, Từ Sơn… Đến những năm 70, tuy chiến tranh ác liệt ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất, vận chuyển hàng hóa xuất khẩu, nhưng kim ngạch xuất khẩu của Artexport vẫn không ngừng tăng lên. Năm 1970, kim ngạch vẫn đạt 8 triệu rúp. Dưới bom đạn của kẻ thù, công ty vừa lo sản xuất ở các địa phương, vừa bám cảng, bám hàng. Năm 1972, năm cao điểm nhất của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, kim ngạch xuất khẩu của Artexport đã đạt tới 15 triệu rúp, tạo đà cho những năm tiếp theo đạt bình quân 30 triệu rúp đến thời điểm năm 1975. - Giai đoạn 1976 - 1986: Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất cùng chung xây Chủ nghĩa xã hội (CNXH). Tổng công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ là số ít đơn vị phía Bắc sớm đặt chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước và Bộ Ngoại giao là sớm xây dựng cơ sở sản xuất, hướng dẫn tay nghề làm hàng thủ công mỹ nghệ, đưa công ăn việc làm đến người dân những vùng mới giải phóng, giúp họ sớm ổn định cuộc sống, đồng thời giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Với trách nhiệm được giao, số đông cán bộ có kinh nghiệm đã được biệt phái vào các chi nhánh, từ đó tỏa đi các địa phương, vừa hướng dẫn vừa khôi phục các làng nghề truyền thống như: điêu khắc đá Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng; gỗ và thêu ở Huế; dạy nghề làm thảm cói, đay ở các tỉnh Long An, Cửu Long, Đồng Tháp, đặc biệt giai đoạn này, các cán bộ của công ty đã khôi phục và mở rộng nhanh chóng quy mô sản xuất của các cơ sở vốn có như: gốm nhẹ lửa Đồng Nai, sơn mài Sông Bé, đồ gỗ Nha Trang, các loại thảm sơ dừa ở Nghĩa Bình, Phú Khánh, Bến Tre. Công ty được Bộ hỗ trợ về vốn đã phối hợp cùng các địa phương xây dựng và mở rộng các nhà máy kéo sợi len, nhà máy đay ở thành phố Hồ Chí Minh… Để tiêu thụ hàng, Artexport miền Nam còn thành lập công ty Viettimex Hồng Kông do đoàn thương mại tại Hồng Kông phụ trách. Hồng Kông là một thị trường có sức tiêu thụ lớn, nhờ vậy, những hàng tồn kho trước đây ở thành phố Hồ Chí Minh được tiêu thụ nhanh chóng. Các khu vực trọng điểm hàng xuất khẩu của Artexport tại thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hòa, Mỹ Tho, Đồng Tháp… thường đạt tổng mức trên 30 triệu rúp mỗi năm. Trong khi đó, tại miền Bắc cũng liên tục phát triển, mở rộng quy mô sản xuất và xuất khẩu các ngành nghề như dâu tằm, thảm len, thêu, sơn mài… Các mặt hàng này được phát triển mạnh mẽ hơn cả về sản lượng và chất lượng do thị trường tiêu thụ ở các nước Xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn. Khu vực thị trường Tư bản chủ nghĩa cũng ngày càng được mở rộng hơn. - Giai đoạn 1987 - 2004: đây là thời kỳ công cuộc đổi mới theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Đổi mới toàn diện từ cách nghĩ đến cách làm. Trong hoạt động kinh tế, các doanh nghiệp buộc phải tìm cách thoát ra khỏi lối mòn tập trung quan liêu bao cấp sang tự chủ kinh doanh, năng động và chủ động tìm kiếm thị trường. Năm 1988, kim ngạch xuất khẩu của Artexport lên tới 98 triệu rúp, chiếm tỉ trọng cao nhất trong toàn ngành (toàn ngành Thương mại thời điểm này đạt 800 triệu rúp). Đây chính là đỉnh cao trong quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty Artexport cho tới thời điểm đó. Artexport đã khẳng định là một trong những Tổng công ty dẫn đầu về thành tích kinh doanh của Bộ Ngoại thương với quy mô rộng khắp trên toàn quốc và uy tín trên thị trường thế giới. Từ những năm 1990, việc chuyển đổi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường diễn ra ngày càng sâu sắc, nhiều doanh nghiệp đã bị xóa sổ. Năm 1991, sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống chính trị ở các nước Đông Âu đã khiến công ty mất tới 85% thị trường xuất khẩu hàng hóa của mình. Giai đoạn này, công tác xúc tiến thương mại được đẩy nhanh hơn bao giờ hết: công ty cử nhiều đoàn tham gia các hội chợ, triển lãm, thông qua thương vụ, Việt kiều, đoàn ngoại giao ở các nước để tìm kiếm thị trường. Cùng với các biện pháp về tổ chức sắp xếp lại lao động, đào tạo nguồn nhân lực mà công ty đã trụ vững qua thời kỳ cam go này. Từ những năm 1991 đến 1998, kim ngạch bình quân đạt khoảng 15 triệu USD, tuy mức độ chưa cao nhưng mức thực hiện có chiều hướng tăng dần và điều quan trọng, qua những giai đoạn khó khăn đó, công ty đã tìm được cho mình hướng đi đầy triển vọng cho những năm tiếp theo. Trong 5 năm 1999 - 2004, công ty đã có những bước chuyển mạnh mẽ để phù hợp với xu thế mới của thị trường: từ thế độc quyền chuyển hẳn sang cạnh tranh bình đẳng với nhiều thành phần kinh tế khác trong tổ chức sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ; cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực châu Á; tiếp đến năm 2001, kinh tế thế giới lâm vào suy thoái sau sự kiện khủng bố 11/9 vào nước Mỹ khiến sức mua của thị trường thế giới giảm đáng kể, tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị trường gặp nhiều khó khăn…Năm 1999, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 23,23 triệu USD thì năm 2001 đã là 25,688 triệu USD, năm 2003 lên tới 27,8 triệu USD và năm 2004 đạt 32,5 triệu USD. Nộp ngân sách năm 2003 đạt mức 18 tỷ VNĐ, gấp đôi so với năm 1999, thu nhập bình quân từ 1,2 triệu đồng/người/tháng của năm 1999 đã đạt trên 2 triệu đồng/người/tháng năm 2004; bình quân mỗi cán bộ công nhân viên nộp ngân sách gần 80 triệu đồng/năm. Đến năm 2004, công ty đã có mối quan hệ bạn hàng và mở rộng thị trường ra 40 nước trên thế giới. Đặc biệt là từ đầu năm 2004, Công ty đã đưa vào sử dụng trụ sở làm việc tại 31 - 33 Ngô Quyền, với gần 10.000m² văn phòng đạt tiêu chuẩn văn minh, hiện đại. - Giai đoạn 2004 đến nay: Năm 2005, Công ty thực hiện cổ phần hóa và chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần với quyền lực cao nhất trong tay Đại hội đồng cổ đông. Thay đổi loại hình doanh nghiệp nhưng Artexport vẫn kiên trì thực hiện những định hướng của công ty ngay từ ngày đầu mới thành lập, đó là: mở rộng thị trường xuất khẩu thủ công mỹ nghệ Việt Nam, xây dựng và bảo tồn các làng nghề truyền thống, hỗ trợ đào tạo tay nghề, nâng cao tay nghề cho lao động tại làng nghề, phát triển ngành hàng thủ công mỹ nghệ với nhiều chủng loại sản phẩm mới, mẫu mã đa dạng. Giai đoạn chuyển mình từ một công ty nhà nước sang hoạt động kinh doanh theo mô hình công ty cổ phần trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt đã tạo nên một sức ép để cán bộ công nhân viên trong công ty nỗ lực phấn đấu vươn lên, tìm được nhiều thị trường mới, khách hàng mới, tạo giá trị gia tăng nhiều hơn trên mỗi đơn hàng. Thành tích trong thời kỳ này chính là việc công ty đã không ngừng mở rộng lĩnh vực hoạt động sang lĩnh vực bất động sản và tài chính. Đây là một nền tảng cơ sở tốt để công ty phát triển ngày càng đa dạng hóa mặt hàng và thị trường. 1.2. Các đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu của Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport 1.2.1. Sản phẩm và thị trường Sản phẩm của công ty rất đa dạng về chủng loại và phong phú về mẫu mã. Có thể nói sản phẩm của công ty bao gồm phần lớn các hàng thủ công mỹ nghệ có tiếng của Việt Nam, như: gốm sứ, thêu ren, cói, đồ gỗ, mỹ nghệ sơn mài, mây tre đan… Về mặt hàng mây tre đan: đặc trưng nổi bật của khí hậu Việt Nam là nhiệt đới gió mùa, rất thuận lợi cho các loại mây, tre, nứa… phát triển, do đó, mặt hàng mây tre đan là mặt hàng rất phổ biến tại nước ta. Ngay từ những ngày đầu thành lập với hai phòng: mây tre đan và mỹ nghệ sơn mài, Artexport chủ động trong việc liên kết với bà con nông dân tại các làng nghề truyền thống để thu mua, tái chế và xuất khẩu mặt hàng này ra thị trường thế giới. Không chỉ dừng lại ở đó, cán bộ công ty đã xuống tận làng nghề để hướng dẫn bà con về các kỹ thuật làm hàng mây tre đan xuất khẩu, đồng thời tìm kiếm ra được các nguyên liệu mới, phục vụ tốt hơn cho công tác làm hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, như: cỏ, rơm rạ, xơ dừa, mây tre, cói đan, bẹ ngô… Về mặt hàng mỹ nghệ sơn mài: đặc điểm của mặt hàng này đòi hỏi tính tỉ mỉ và sự tinh xảo rất cao. Vậy nên, muốn có được những mặt hàng đáp ứng được yêu cầu cao của khách hàng, Artexport đã phải tìm hiểu kĩ nhu cầu của khách hàng cũng như là tìm tới những nghệ nhân có tên tuổi tại các làng nghề để làm ra được những sản phẩm mang tính nghệ thuật cao và có giá trị. Về mặt hàng gốm sứ: đây là mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất quen thuộc ở Việt Nam và được bạn bè thế giới đánh giá cao về chất lượng cũng như là tính nghệ thuật của sản phẩm. Với các làng nghề nổi tiếng như Bát Tràng, sản phẩm gốm cung cấp cho xuất khẩu là rất dồi dào. Tuy nhiên, vấn đề mẫu mã và quy trình sản xuất sao cho sản phẩm đạt được chất lượng tốt nhất luôn là một thách thức với các làng nghề bao đời nay. Với tâm huyết với làng nghề, năm 1995, thông qua một bạn hàng quen thuộc người Nhật Bản, Artexport đã mạnh dạn đầu tư 30 ngàn USD để nhập khẩu về chiếc lò nung 1m³ sử dụng nguyên liệu khí gas. Đây là một sự thay đổi to lớn trong cách thức tạo ra sản phẩm của làng nghề truyền thống như Bát Tràng. Cũng nhờ đó mà cuộc sống của người dân khấm khá hẳn lên. Về mặt hàng thêu: đây là sản phẩm mà khách hàng quốc tế đặc biệt thích thú khi đến thăm các gian hàng triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Sản phẩm này không chỉ là kết quả của sự lao động cần cù của người nghệ nhân mà nó còn chứa đựng trong đó cả tâm hồn và tình cảm của người nghệ sỹ dân gian đã sáng tạo ra nó. Do đặc điểm như vậy, mặt hàng này luôn được công ty chú trọng phát triển, không chỉ thuần túy về tính kinh tế, mà cao hơn, đó là đem hình ảnh đất nước con người Việt Nam quảng bá ra khắp thế giới. Về mặt hàng đá xây dựng: đá xây dựng là một mặt hàng ít được nhắc đến khi chúng ta đề cập tới ngành hàng thủ công mỹ nghệ, tuy nhiên, mặt hàng này cũng có một thị trường xuất khẩu rất tiềm năng, khi mà lãnh thổ Việt Nam có nhiều loại đá phù hợp với việc trang trí và sử dụng trong xây dựng. Mặt khác, đá xây dựng cũng là một mặt hàng tạo ra nhiều công ăn việc làm cho các địa phương khó khăn, góp phần cải thiện cuộc sống người dân. Trên đây là một số mặt hàng tiêu biểu của Artexport. Với sự phong phú và đa dạng của các sản phẩm thủ công mỹ nghệ tại Việt Nam, công ty đang nỗ lực tìm kiếm những sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Thị trường xuất khẩu của Artexport cũng rất đa dạng và phong phú. Nếu như trong những ngày đầu thành lập, thị trường chủ yếu của công ty là Liên Xô và Đông Âu, thì tới ngày nay, nó đã mở rộng ra khắp năm châu, với trên 40 thị trường xuất khẩu khác nhau. Với các thị trường xuất khẩu chủ lực như Nhật Bản, Đức, Pháp… công ty đều đặn tham gia các hội chợ hàng năm về hàng thủ công mỹ nghệ để góp phần quảng bá hình ảnh công ty, đồng thời tìm kiếm những khách hàng tiềm năng, thậm chí là rất nhiều hợp đồng giá trị đã được ký kết trong thời gian hội chợ. Thị trường của hàng thủ công mỹ nghệ có nhiều điểm khác biệt so với hàng hóa thông thường. Trước hết, do tính độc đáo riêng có của sản phẩm thủ công mỹ nghệ nên khách hàng không phải là khách hàng đại trà như các sản phẩm tiêu dùng, những người tìm đến các mặt hàng thủ công mỹ nghệ là những người yêu mến và hiểu được giá trị của các sản phẩm đó. Tất nhiên, việc mở rộng thị trường theo hướng đại trà là một hướng đi đúng đắn nhưng điều đó không thể thực hiện trong ngày một ngày hai. Nó là cả một quá trình với nhiều công việc khác nhau như marketing, xúc tiến thương mại, … Khách hàng của công ty không phân biệt về lứa tuổi, giới tính hay trình độ, mà chỉ có một điểm chung đó là họ tìm thấy giá trị trong những sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Để có một bản mô tả chi tiết về đối tượng khách hàng của công ty, giống như các công ty sản xuất hàng tiêu dùng thì đó là một điều rất khó khăn. Mục tiêu của công ty là mở rộng thị trường, mở rộng đối tượng khách hàng. Đó mới là điều quan trọng nhất trong thời gian trước mắt. Về phía nhà cung cấp, nguồn cung chủ yếu của công ty là các làng nghề thủ công truyền thống, bên cạnh đó thì các cơ sở sản xuất tư nhân cũng là một nguồn cung đáng kể. Trước hết là các làng nghề truyền thống, các sản phẩm như mây tre đan, sản phẩm thêu thì các làng nghề tại các tỉnh đồng bằng Bắc bộ là những địa phương có nhiều sản phẩm cung cấp cho công ty nhất. Như mây tre đan tại Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình; thêu tại Hà Nam, Hà Tây (cũ),… Quy mô các làng nghề không lớn, do đó một mặt hàng công ty không chỉ lấy từ một làng nghề cụ thể nào mà có thể phải đặt hàng cho nhiều làng nghề tại các địa phương khác nhau. Mặt khác thì tại các làng nghề này, người dân vẫn còn làm hàng thủ công theo tính thời vụ nên để đảm bảo tiến độ của đơn hàng, cán bộ Artexport phải liên hệ chặt chẽ với từng làng nghề, theo sát tiến độ của từng nơi một. Thứ hai, các cơ sở sản xuất tư nhân: các cơ sở này có thể trực tiếp làm hàng xuất khẩu ra nước ngoài hoặc là chỉ sản xuất trong nước, Artexport liên hệ với các cơ sở này mỗi khi có đơn hàng tạo mối quan hệ làm ăn lâu dài với các cơ sở. Thông thường thì khi nào có đơn hàng thì công ty mới đặt hàng tới cơ sở sản xuất, tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp, cơ sở sản xuất đã sản xuất đón đầu và khi có đơn hàng thì công ty chỉ việc thu mua tại các cơ sở này. Như vậy, thị trường của Artexport có nhiều tiềm năng mở rộng hơn nữa, khi mà cầu hàng thủ công mỹ nghệ tăng cao, công ty sẽ có nhiều cơ hội thâm nhập vào những thị trường mới và các phân đoạn khách hàng mới. Để phát triển bền vững trong một ngành hàng có tính độc đáo, riêng biệt cao như thủ công mỹ nghệ, công ty đã, đang và sẽ xây dựng mối liên hệ mật thiết với các làng nghề, các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ để đảm bảo nguồn cung luôn ổn định. 1.2.2. Cơ cấu tổ chức Hình 1.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty: Đại hội đồng cổ đông Chủ tịch hội đồng quản trị Hội đồng quản trị Ban kiểm soát Tổng giám đốc Phó tổng giám đốc (1) Phó tổng giám đốc (2) Khối quản lý Khối kinh doanh Chi nhánh Xưởng sản xuất Nguồn: Phòng Tổ chức – Hành chính _ công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ - Artexport + Đại hội đồng cổ đông: Mỗi năm họp một lần do Chủ tịch hội đồng cổ đông triệu tập Phân phối, sử dụng lợi nhuận, chia cổ tức và trích lập sử dụng các quỹ Quyết định phương hướng, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và kế hoạch đầu tư của năm tài chính tới Quyết định tăng giảm vốn điều lệ, góp vốn cổ phần và phát hành cổ phiếu - Bầu thành viên Hội đồng quản trị và kiểm soát viên nếu hết nhiệm kỳ hoặc bầu bổ sung, thay thế thành viên Hội đồng quản trị và kiểm soát viên theo quy định của điều lệ + Chủ tịch Hội đồng quản trị: - Phê duyệt những nội dung và phạm vi kiểm tra trong từng thời kỳ - Ra các quyết định và kiểm tra việc thực hiện các quyết định, bổ nhiệm Giám đốc, xây dựng các bản quyết toán + Hội đồng quản trị: Kiểm tra kết quả cuối cùng của công ty đạt được có phù hợp với mục tiêu tổng thể hay không Quy định rõ thẩm quyền của Chủ tịch hội đồng quản trị, Giám đốc + Ban kiểm soát: Kiểm tra sổ sách kế toán, tài sản, các bảng tổng kết tài chính của công ty Trình Đại hội đồng cổ đông báo cáo thẩm tra các bảng tổng kết tài chính của công ty Báo cáo về những sự kiện tài chính bất thường, về ưu, khuyết điểm trong quản trị tài chính của Hội đồng quản trị + Tổng giám đốc: Lãnh đạo, điều hành và quản lý mọi hoạt động của công ty và chỉ đạo trực tiếp công tác chiến lược phát triển công ty Trực tiếp phụ trách các phòng: phòng tài chính – kế hoạch, phòng kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp 3 và phòng mỹ nghệ Trực tiếp giải quyết công việc của các phó Tổng giám đốc khi phó Tổng giám đốc đi vắng + Phó Tổng giám đốc (1): Thay mặt Tổng giám đốc điều hành mọi hoạt động của công ty khi Tổng giám đốc đi vắng Phụ trách công tác nội vụ của công ty, công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác tổ chức hành chính, tham gia với Tổng giám đốc về công tác cán bộ, công tác phát triển nguồn nhân lực Trực tiếp quản lý điều hành và khai thác có hiệu quả cao nhất đối với tất cả các cơ sở vật chất của công ty như nhà kho, xưởng, văn phòng tại Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh Phụ trách phòng tổ chức hành chính, phòng kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp 2 và phòng kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp 5 Giải quyết một số công việc thay cho phó Tổng giám đốc (2) khi phó Tổng giám đốc (2) khi đi công tác vắng + Phó Tổng giám đốc (2): Thay mặt cho Tổng giám đốc chỉ đạo công tác xúc tiến thương mại, xây dựng chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ và sản phẩm mới Phụ trách các phòng kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp 1, phòng kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp 9, phòng kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp 10, phòng thêu (bao gồm cả xưởng thêu), phòng cói Tham gia với Tổng giám đốc về chiến lược phát triển nguồn nhân lực của công ty và công tác cán bộ Giải quyết một số công việc thay cho phó Tổng giám đốc (1) khi phó Tổng giám đốc (1) đi vắng + Khối đơn vị quản lý: Phòng tổ chức hành chính: giúp đỡ các đơn vị tổ chức và quản lý lao động của Công ty sao cho có hiệu quả nhất, nghiên cứu các phương án nhằm hoàn thiện việc trả lương cho công nhân viên và phân phối tiền thưởng một cách hợp lý. Phòng tài chính – kế hoạch: khai thác mọi nguồn vốn đảm bảo cho các đơn vị hoạt động, tham mưu cho ban Giám đốc xét duyệt các phương án kinh doanh phân phối thu nhập, tổ chức và thực hiện việc tiến hành trả hàng cho các nước. Làm rõ khả năng của công ty, phân phối hợp lý kim ngạch được giao, xây dựng và trình giá, thu tiền và thanh toán cho khách hàng Ban xúc tiến thương mại: tìm kiếm khách hàng, theo dõi chặt chẽ việc chi, các khoản chi phí phục vụ cho việc liên hệ, ký kết riêng của từng đơn vị để tính thu nhập và chi phí của đơn vị, những chi phí có liên quan đến nhiều đơn vị thì ban xúc tiến thương mại phải có trách nhiệm phân bổ hợp lý cho các đơn vị kinh doanh liên quan. + Khối đơn vị kinh doanh: Bao gồm: phòng xuất nhập khẩu tổng hợp 1, 2, 3, 5, 9, 10, phòng cói ngô, phòng thêu ren, phòng gốm sứ và phòng mỹ nghệ Trên cơ sở các mặt hàng kinh doanh được giao, các chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu được đặt ra, các đơn vị kinh doanh phải trực tiếp tiếp cận thị trường, tìm kiếm khách hàng, tổ chức từ khâu sản xuất hoặc thu gom hàng đến tận khâu giao nhận hàng cho khách, thanh toán, các đơn vị kinh doanh trực tiếp phụ trách tất cả công việc trong ngành hàng mình phụ trách Xây dựng các phương án kinh doanh và trình cho Tổng giám đốc duyệt + Các đơn vị trực thuộc: Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh: địa chỉ số 31 Trần Quốc Toản, được Công ty giao cho nhiệm vụ phụ trách các công việc ở các tỉnh phía Nam, từ việc giao nhận, thu gom đến việc xuất khẩu hàng Chi nhánh Artexport Hải Phòng: địa chỉ số 25 phố Đà Nẵng, quận Ngô Quyền, Thành phố Hải Phòng: giao nhận, tái chế, đóng gói xuất khẩu và trực tiếp sản xuất hàng hóa xuất khẩu Chi nhánh Artexport Đà Nẵng: địa chỉ số 74 Trưng Nữ Vương, nhiệm vụ: giao nhận, thu gom hàng xuất khẩu. Xí nghiệp Sản xuất và Xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ: 23 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội + Xưởng sản xuất: Bao gồm: xưởng thêu Thanh Lân (huyện Thanh Trì – Hà Nội), xưởng gốm Bát Tràng (Hà Nội) và xưởng gỗ Đông Mỹ Các xưởng có nhiệm vụ trực tiếp sản xuất hàng phục vụ xuất khẩu. 1.2.3. Nguồn nhân lực Công ty có số cán bộ công nhân viên chính thức là 173 người, các cán bộ công nhân viên có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm, nhiệt huyết trong công việc. Trong số cán bộ công nhân viên có 12 người có trình độ thạc sĩ trở lên, 126 người có trình độ đại học, tốt nghiệp cao đẳng, trung cấp có 22 người (Nguồn: Phòng Tổ chức – Hành chính _ Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ - Artexport). Các cán bộ, công nhân viên trong công ty cũng thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn qua các khóa đào tạo ngắn hạn do các chuyên gia trong, ngoài nước giảng dạy. Đây là nguồn lực rất có giá trị của công ty. Xét về mặt giới tính thì lực lượng lao động tại Artexport khá cân bằng về số nam nhân viên và nữ nhân viên; cụ thể có 83 nam và 90 nữ với tỷ lệ lần lượt là 48% và 52%. Trong đội ngũ nhân viên của công ty, phần lớn mọi người đều nói thông thạo ít nhất là một ngoại ngữ, thậm chí có nhiều cán bộ có thể nói tới 4, 5 thứ tiếng. Đây là một thuận lợi rất lớn trong quá trình giao dịch với đối tác, các cán bộ công nhân viên có thể trực tiếp đối thoại, không phải thông qua phiên dịch từ đó làm nâng cao quá trình hiểu biết nhau, tạo tiền đề cho việc ký kết hợp đồng được thúc đẩy nhanh chóng. Hơn thế, phần lớn cán bộ công nhân viên tốt nghiệp trường Đại học Ngoại thương nên kiến thức nghiệp vụ về giao dịch đối ngoại rất tốt, các khâu công việc có thể do một người đảm đương từ đầu đến cuối từ đó tiết kiệm công sức, thời gian và nhất là có thể đáp ứng yêu cầu cao về thời gian của đối tác. Với 45 năm thành lập và trưởng thành, Artexport có một đội ngũ cán bộ công nhân viên dày dặn kinh nghiệm, có nhiều người đã gắn bó cả cuộc đời với công ty, từ thưở cán bộ công nhân viên còn phải lo lắng kiếm từng hợp đồng đơn lẻ cho đến ngày công ty phát triển và lớn mạnh như ngày nay. Có được điều đó là do chính sách nhân sự của công ty khá mềm dẻo và linh hoạt, công ty thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo nghiệp vụ, nâng cao trình độ và tay nghề cho cán bộ công nhân viên. Các cán bộ gắn bó lâu năm với công ty đều nhận được chế độ đãi ngộ xứng đáng. Do đó, cán bộ công nhân viên trong công ty đều có thời gian làm việc lâu dài trong công ty, độ tuổi trung bình trong công ty là khoảng 42 tuổi, đây là độ tuổi trung bình thuộc loại cao trong các công ty cổ phần. Chính do độ tuổi trung bình khá cao đó, công việc tuyển dụng và bồi dưỡng thế hệ kế cận đang được công ty tích cực triển khai. 1.2.4. Cơ sở vật chất trang thiết bị Hiện nay công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport có vốn điều lệ là 104 tỷ Việt Nam đồng (năm 2004 vốn điều lệ là 32 tỷ Việt Nam đồng), có 5 ô tô, 4 tòa nhà, có 3 chi nhánh (ở thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng), có 3 xưởng sản xuất (xưởng sản xuất thêu tại Thanh Lân – Hà Nội với diện tích 600m², xưởng sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ tại Đông Mỹ - Hà Nội với diện tích 1750m², xưởng sản xuất gốm tại Bát Tràng với diện tích trên 9000m²), có 2 nhà kho (tại Thanh Lân – Hà Nội và tại Hải Phòng), các công ty thành viên: công ty cổ phần bất động sản Artexportland và công ty cổ phần chứng khoán Artex. Ngoài ra, các văn phòng làm việc của Công ty cũng được trang bị đầy đủ máy móc hiện đại phục vụ cho công việc như máy in, máy fax, máy tính… Trang thiết bị tại các cơ sở sản xuất đang dần được hoàn thiện. Tại xưởng thêu của công ty, bên cạnh các công nhân lành nghề, còn có máy thêu tự động dùng để sản xuất các sản phẩm hàng hóa được đặt theo lô, không yêu cầu phải làm hoàn toàn bằng tay. Tại xưởng gốm tại Bát Tràng, công ty đã đầu tư xây dựng lò nung sử dụng khí ga với quy trình hoạt động tuân thủ theo thiết kế của phía Nhật Bản tạo ra sản phẩm chất lượng cao với hiệu suất sử dụng ở mức cao nhất từ trước tới nay. Công ty chính là đơn vị đầu tiên nhập khẩu trang thiết bị này vào Việt Nam, tới nay sản xuất dùng khí ga nung đã được phổ biến rộng rãi tại Bát Tràng, góp phần đáng kể nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu, tiết kiệm năng lượng, đồng thời tạo ra sản phẩm mang tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. 1.2.5. Đặc điểm nguyên vật liệu Nguyên vật liệu của công ty bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào đặc điểm của từng ngành hàng. Mặt khác, trong cùng một ngành hàng thì cũng có nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau phục vụ cho quá trình sản xuất. Do vậy, công ty đã chủ động liên kết với các địa phương hình thành nguồn nguyên liệu, chủ động trong quá trình sản xuất, như nguồn cói từ các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình; mây tre đan ở tỉnh Hà Nam… Với đặc điểm nguyên vật liệu là các sản phẩm từ tự nhiên, gắn chặt với những vùng miền nhất định, nên vấn đề đảm bảo đủ nguồn cung về nguyên vật liệu luôn được lãnh đạo công ty quan tâm. Mặt khác, công ty còn lấy nguồn hàng ngay tại các làng nghề, cho nên, vấn đề chất lượng nguyên vật liệu đòi hỏi sự kiểm tra ngay từ khâu bắt đầu sản xuất. Ví dụ như mặt hàng đá mỹ nghệ, ngay khi có đơn hàng, các cán bộ của công ty phải xuống tận mỏ khai thác đá tại các địa phương (như Bình Định, Thanh Hóa) tìm loại đá thích hợp cho từng đơn hàng, đồng thời hướng dẫn các xưởng sản xuất sản xuất theo đúng mẫu mã đã thiết kế. Một vấn đề rất quan trọng trong vấn đề cung ứng nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đó là tính chất mùa vụ của các loại nguyên vật liệu. Danh mục nguyên vật liệu chi tiết của công ty cho ta thấy nhiều loại nguyên vật liệu chỉ có ở từng mùa trong năm, điều đó đòi hỏi khâu thu mua, chế biến và bảo quản phải được tiến hành rất khoa học, nếu không tính toán cụ thể nhu cầu thì có thể dẫn tới tình trạng dự trữ thiếu nguyên vật liệu hoặc ngược lại là mức dự trữ vượt quá nhu cầu sản xuất sản phẩm, từ đó gây ra thất thoát lãng phí lớn trong công ty. Mặt khác, tính chất của nguyên vật liệu dùng trong sản xuất sản phẩm thủ công mỹ nghệ có tính vùng miền cao, ví dụ như đá ở Thanh Hóa thì phù hợp cho sản xuất hàng đá xây dựng, đá tại Đà Nẵng thì thích hợp cho hàng sơn mài. Vậy nên, khi đặt hàng cán bộ công ty phải nắm rõ đặc điểm này để có thể có được những sản phẩm tốt nhất tới tay người tiêu dùng. Bảng 1.1: Danh mục nguyên vật liệu STT Tên NVL Nguồn cung Đặc điểm 1 Cói Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình Theo thời vụ 2 Mây Hà Giang, Tuyên Quang Theo thời vụ 3 Tre Hòa Bình, Phú Thọ Chế biến nhiều khâu 4 Đất sét Bát Tràng, Hưng Yên Khó vận chuyển xa 5 Vải Nam Định, Hà Đông Yêu cầu bảo quản cao 6 Đá Thanh Hóa, Bình Định Cồng kềnh, nặng 7 Chỉ thêu Các công ty sản xuất chỉ Đa dạng, nhiều mẫu mã 8 Xơ dừa Bến Tre, Long An Chóng hư hỏng 9 Rơm rạ Nam Định, Thái Bình Theo thời vụ Nguồn: Phòng Tổ chức – Hành chính _ Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ - Artexport Trên đây là một số nguyên vật liệu chính của công ty, do đặc điểm nguyên vật liệu có tính thời vụ cao, nhiệm vụ đáp ứng đầy đủ nguyên vật liệu trong quá tr._.ình sản xuất là một nhiệm vụ không dễ dàng thực hiện. Để sản xuất diễn ra liên tục, đảm bảo nguồn cung hàng, cán bộ công ty đã phải xuống từng địa phương, thu mua, sơ chế và cho vào kho bảo quản. Đối với các sản phẩm thu mua từ các làng nghề, việc kiểm tra chất lượng của nguyên vật liệu được thực hiện thông qua các cán bộ có chuyên môn để đảm bảo nguồn nguyên liệu luôn đạt chỉ tiêu chất lượng. 1.2.6. Đặc điểm về vốn Khi mới thành lập, Artexport là một Tổng công ty nhà nước. Sau 40 năm xây dựng và trưởng thành, theo chủ trương chính sách của nhà nước, năm 2004, Artexport được cổ phần hóa với tên gọi: Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ, với cơ cấu và bộ máy tổ chức của một công ty cổ phần, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2005. Hiện nay, Nhà nước nắm giữ 8,67% vốn điều lệ của công ty, số còn lại thuộc quyền sở hữu của cổ đông (với chính sách người lao động làm chủ, năm 2005, khi Artexport cổ phần hóa, cán bộ công nhân viên trong công ty, theo cấp bậc và số năm kinh nghiệm cũng được mua số cổ phần tương ứng). Do đặc điểm là một công ty cổ phần, Artexport hoạt động với quyền lực lớn nhất trong tay Đại hội đồng cổ đông, Chủ tịch hội đồng quản trị là người được Hội đồng quản trị bầu chọn theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, Tổng giám đốc là người trực tiếp điều hành mọi hoạt động của công ty. Bảng 1.2: Bảng cân đối kế toán năm 2008 Đơn vị: Việt Nam Đồng TÀI SẢN Số cuối kỳ Số đầu năm A. TÀI SẢN NGẮN HẠN 136.770.303.837 268.729.831.005 I. Tiền và các khoản tương đương tiền 8.242.021.889 39.334.436.664 II. Các khoản đầu tư TC ngắn hạn 8.481.890.000 9.971.250.000 III. Các khoản phải thu ngắn hạn 102.831.073.704 177.415.961.214 IV. Hàng tồn kho 8.056.825.274 30.060.090.910 B. TÀI SẢN DÀI HẠN 124.387.409.818 85.290.794.806 I. Tài sản cố định 59.846.884.017 67.712.322.814 II. Bất động sản đầu tư 31.168.519.173 III. Các khoản đầu tư TC dài hạn 25.400.000.000 5.800.405.808 IV. Tài sản dài hạn khác 7.972.006.628 11.778.066.184 TỔNG CỘNG TÀI SẢN 261.157.713.655 354.020.625.811 NGUỒN VỐN A. NỢ PHẢI TRẢ 177.242.424.057 275.521.492.761 I. Nợ ngắn hạn 151.232.423.271 247.879.723.871 II. Nợ dài hạn 26.010.000.786 27.641.768.890 B. VỐN CHỦ SỞ HỮU 83.915.289.598 78.499.133.050 I. Vốn chủ sở hữu 84.368.228.691 78.646.297.143 II. Nguồn kinh phí và quỹ khác (470.939.093) (147.164.093) TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN 261.157.713.655 354.020.625.811 Nguồn: Báo cáo tài chính 2008 – Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ - Artexport Từ Bảng cân đối kế toán năm 2008, ta có thể thấy những nét cơ bản trong đặc điểm về nguồn vốn của Artexport: năm 2008, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm 32,1% trong tổng nguồn vốn; năm 2007, tỷ lệ này thậm chí còn thấp hơn chỉ đạt 22,1%. Trong khi đó, các khoản nợ ngắn hạn lại chiếm tỷ trọng cao trong nợ phải trả, lần lượt là 90% năm 2007 và 85,3% năm 2008, điều này là một nguyên nhân quan trọng khiến cổ phiếu Artexport chưa được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán chính thức, thậm chí ngay tại sàn giao dịch OTC thì tính thanh khoản của cổ phiếu công ty cũng không thuộc loại cao. Về tài sản: tài sản dài hạn tăng từ 24,1% năm 2007 lên 47,6% năm 2008 do công ty đã đưa vào sử dụng tòa nhà tại 2A Phạm Sư Mạnh, điều này là một dấu hiệu tích cực khi mà vốn vay trong ngắn hạn của công ty ở mức cao như trên. 1.2.7. Các hoạt động quản trị 1.2.7.1. Công tác nghiên cứu phát triển Hiện nay, Artexport chưa có phòng nghiên cứu và phát triển độc lập. Quá trình nghiên cứu và phát triển sản phẩm do chính các phòng ban xây dựng và phát triển. Đồng thời, việc nghiên cứu mẫu mã sản phẩm mới cũng phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố sở thích của khách hàng, do vậy, công tác này không giống như ở các công ty sản xuất sản phẩm tiêu dùng khác (ở các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa thông thường, thường có một phòng nghiên cứu và phát triển riêng, phòng nghiên cứu và phát triển sẽ nghiên cứu tạo ra các sản phẩm mới để đưa vào sản xuất). Tại Artexport, khi có đơn hàng thì cán bộ công ty sẽ thiết kế mẫu sản phẩm phù hợp với nhu cầu của từng khách hàng, sau đó đưa xuống các xưởng sản xuất hoặc đặt hàng tại các làng nghề truyền thống. Mặt khác, nhiều khách hàng cũng sẽ đưa luôn mẫu mã sản phẩm họ đặt hàng đến cho công ty và công ty chỉ phải làm theo chính xác đơn đặt hàng của khách. Song song với việc nghiên cứu và thiết kế mẫu mã theo đơn đặt hàng của khách hàng của cán bộ công ty, Artexport còn phối hợp chặt chẽ với các nghệ nhân tại các làng nghề để có được những mẫu mã thiết kế mới nhất của các nghệ nhân làng nghề truyền thống. Tuy nhiên nói như vậy không đồng nghĩa với việc hoạt động nghiên cứu và phát triển không phát triển tại công ty. Thông qua các hội chợ triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ, đồng thời nghiên cứu nhu cầu của khách hàng thông qua các nguồn thông tin sơ cấp và thứ cấp, công ty đã nhiều lần mạnh dạn sản xuất sản phẩm trước khi có đơn đặt hàng, đi trước đón đầu thị trường, từ đó tạo được thế chủ động của công ty trong cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Nghiên cứu và phát triển của công ty chủ yếu tập trung vào các điểm sau đây: + Thứ nhất, đó là mẫu mã hàng hóa mà khách hàng ưa chuộng trên thế giới, ví dụ, mặt hàng thêu ren, phong cách thêu ren của nghệ nhân Việt Nam có nhiều điểm khác biệt cơ bản với thêu ren Trung Quốc, khách hàng ưa chuộng hàng Trung Quốc hơn do nó có nhiều mẫu mã để lựa chọn, do đó, vấn đề thiết kế mẫu thêu theo nhu cầu khách hàng được công ty triển khai, với đội ngũ thiết kế nội tại trong công ty và đặt hàng các nhà thiết kế bên ngoài. Mặt khác để cạnh tranh với hàng Trung Quốc, công ty đã đưa những nét độc đáo riêng biệt được tạo nên bởi bàn tay của những nghệ nhân lâu năm vào trong các sản phẩm. Chính sự chặt chẽ ngay từ khâu thiết kế và sự tỉ mỉ trong từng tác phẩm đã làm cho hàng thêu ren Việt Nam có chỗ đứng trên thị trường thế giới. + Thứ hai: nghiên cứu về nguyên vật liệu tạo ra các sản phẩm thủ công mỹ nghệ với mục tiêu ngày càng đa dạng hóa nguồn nguyên vật liệu từ đó đa dạng hóa mặt hàng. Do đặc điểm của nguyên vật liệu sử dụng trong sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ là gắn liền với tự nhiên, với vùng miền nhất định, nên các sản phẩm, thậm chí là phụ phẩm của sản xuất nông nghiệp tại nước ta được tận dụng ở mức cao nhất có thể. Ví dụ, rơm rạ là một sản phẩm phụ của sản xuất lúa nước, trước đây, nông dân sử dụng chủ yếu để làm chất đốt, thậm chí ngày nay, phần lớn rơm rạ được bà con nông dân đốt ngay tại đồng, đó là một lãng phí lớn, do đó, cán bộ Công ty đã nghiên cứu và nhận thấy rơm rạ có thể là một nguyên vật liệu dùng trong sản xuất các mặt hàng mây tre đan, nguồn nguyên liệu này vừa rẻ tiền lại có số lượng lớn nên việc đưa vào sử dụng sẽ tạo ra giá trị gia tăng cao. Như vậy, tại Artexport, chuyên môn hóa trong hoạt động nghiên cứu và phát triển không thể hiện rõ nét mà đặc điểm nổi bật tại đây là các công việc được giải quyết theo từng quá trình, đây chính là xu hướng mới của quản trị kinh doanh hiện đại mà các lãnh đạo Công ty đang cố gắng áp dụng để nâng cao tính cạnh tranh trong môi trường kinh doanh ngày nay. 1.2.7.2. Quản trị chất lượng Sản phẩm của Artexport đa dạng và phong phú nên công tác quản trị chất lượng là một khó khăn và thách thức không nhỏ của Công ty. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ chưa có một bộ quy chuẩn đầy đủ về các thông số kỹ thuật, điều đó khiến cho công tác đảm bảo chất lượng của công ty gặp rất nhiều trở ngại. Bên cạnh đó thì tính chất độc đáo trong các sản phẩm thủ công mỹ nghệ cũng khiến cho việc quản lý hàng hóa theo các tiêu chuẩn cứng nhắc khó thực hiện. Vì những lý do kể trên, hiện tại Công ty vẫn chưa thể áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO vào trong quá trình sản xuất, công tác chất lượng vẫn còn nhiều điểm cần phải khắc phục cho thích hợp với các tiêu chuẩn ngày càng cao do khách hàng đặt ra. Chất lượng của các sản phẩm thủ công mỹ nghệ được kiểm nghiệm chủ yếu dựa vào giác quan và kinh nghiệm của cán bộ kiểm tra, do đó không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Vậy nên, Công ty cũng đã chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ kiểm tra hàng hóa để đội ngũ cán bộ này ngày một nâng cao nghiệp vụ để từ đó nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu. Quy trình kiểm tra chất lượng sản phẩm của Artexport được thực hiện qua các bước sau đây: đầu tiên, khi có đơn hàng, Công ty sẽ bắt đầu đưa vào sản xuất hoặc đặt hàng, kiểm tra chất lượng ở giai đoạn này chủ yếu tập trung vào kiểm tra chất lượng của nguyên vật liệu đầu vào; tiếp theo, trong quá trình sản xuất, Công ty giám sát chất lượng thông qua việc đảm bảo quá trình sản xuất diễn ra theo đúng quy trình thiết kế, ví dụ như là sản phẩm gốm thì nhiệt độ nung và thời gian nung quyết định lớn tới chất lượng thành phẩm do đó, phải tuyệt đối tuân thủ điều kiện về nhiệt độ và thời gian nung; sau khi thành phẩm đã hoàn thành, bước kiểm tra chất lượng thành phẩm là một khâu được thực hiện hết sức cẩn thận, lý do là bởi hàng hóa của Công ty chủ yếu là hàng xuất khẩu, xuất ra các nước theo đường vận tải biển, do đó, nếu không đảm bảo chất lượng sản phẩm thì sẽ gây ra thiệt hại lớn, chẳng hạn nếu có một sản phẩm về đá xây dựng không đạt quy chuẩn, trong quá trình vận chuyển có thể bị vỡ từ đó sẽ gây ra phản ứng dây chuyền, làm cho cả container hàng bị hỏng, thiệt hại sẽ là không nhỏ. Do những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng sản phẩm, Công ty có kế hoạch đầu tư những sản phẩm kiểm tra chất lượng sản phẩm công nghệ cao để đáp ứng đòi hỏi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. 1.2.7.3. Hoạt động marketing Hoạt động Marketing của Công ty được diễn ra chủ yếu là thông qua các hội chợ triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ. Tại đây, các gian hàng của Công ty được đầu tư một cách công phu. Các sản phẩm được mang từ Việt Nam sang để giới thiệu tại hội chợ là những sản phẩm kết tinh bàn tay sáng tạo của người nghệ nhân và cả tâm hồn tình cảm của người dân Việt Nam trong đó. Do đó, nó mang cả hình ảnh của Việt Nam hôm nay ra giới thiệu với bạn bè khắp nơi trên thế giới. Tại các cuộc hội chợ, công tác quảng bá và xúc tiến thương mại được diễn ra phong phú và có chiều sâu. Thông qua Tham tán thương mại Việt Nam tại các nước sở tại, cán bộ Công ty đã trực tiếp tiếp xúc với các khách hàng mục tiêu, bàn thảo hợp đồng và ký kết hợp đồng. Không chỉ thông qua các hội chợ, với các khách hàng truyền thống thì công cụ Marketing chủ yếu là thông qua thư điện tử để gửi báo giá sản phẩm cũng như là mẫu mã sản phẩm mới. Bên cạnh đó, trang web chính thức của Công ty www.artexport.com.vn là một công cụ đắc lực cho việc quảng bá hình ảnh của Công ty đến khách hàng. Với phần giới thiệu sản phẩm bằng tiếng Anh, giá tính bằng USD và bảng giá giao dịch ngoại tệ trong ngày ngay tại trang chủ giúp cho khách hàng có thể chủ động trong việc tính toán giá của sản phẩm. Mặt khác thì chính ngay mỗi phòng ban, các cán bộ của phòng ban đó đều tạo lập website riêng của mình khiến cho việc liên hệ, quảng bá tới khách hàng không bị bó hẹp về thời gian cũng như là không gian. Trên đây là các công cụ chính trong hoạt động Marketing của Công ty, việc triển khai hoạt động quảng cáo ở nước ngoài vốn rất khó khăn với các doanh nghiệp Việt Nam do chi phí cho hoạt động này tại nước ngoài là rất lớn, mặt khác thì việc xây dựng kế hoạch quảng cáo phải nghiên cứu kỹ lưỡng đặc điểm khách hàng tại quốc gia đó cũng là một trở ngại không nhỏ khi triển khai hoạt động quảng cáo bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Do sự phát triển của Internet, hoạt động này được thực hiện một cách dễ dàng hơn và có hiệu quả cao hơn, bởi quảng cáo trên Internet không tốn nhiều chi phí, mức độ phổ biến của nó lại rất rộng rãi không giới hạn về không gian và thời gian. Artexport đã tận dụng được thành tựu mà công nghệ thông tin mang lại, vận dụng linh hoạt trong hoạt động marketing của Công ty. Chỉ riêng việc chào hàng qua thư điện tử đã giúp Công ty tiết kiệm được khoản tài chính lớn, đồng thời lại giữ chân các khách hàng truyền thống khi mà cán bộ Công ty có thể trao đổi các thông tin chủ yếu qua mail, đồng thời các dịch vụ hậu mãi cũng được thực hiện phần lớn thông quan Internet. Do đặc điểm của mặt hàng thủ công mỹ nghệ, công tác marketing của công ty cũng có những nét khác biệt cơ bản. Bốn chữ P trong marketing truyền thống (Product, Price, Place, Promotion) được cán bộ Công ty vận dụng một cách linh hoạt, đặc biệt là vấn đề giá cả. Giá cả của sản phẩm thủ công mỹ nghệ không thể tính toán trên giá thành bởi đó không là một sản phẩm thông thường mà là một sản phẩm mang tính nghệ thuật, vậy nên việc định giá phải có một am hiểu sâu sắc về thị trường. Nhìn chung, hoạt động marketing của Công ty được thực hiện tương đối tốt dù không có phòng marketing riêng. Có được kết quả đó, phần lớn phụ thuộc vào nỗ lực của các phòng ban, nhưng cũng không thể phủ nhận, truyền thống và thương hiệu của công ty với bề dày 45 năm phát triển đã tạo nên những thành công như ngày hôm nay. 1.2.7.4. Quản trị sản xuất Artexport là một công ty chuyên về xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ, nguồn hàng chính là từ các làng nghề truyền thống, do đó, đặc điểm về quản trị sản xuất tại đây có nhiều nét khác biệt so với các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa khác. Trước hết, sản phẩm tồn kho ở Công ty là rất thấp, nguyên nhân là do quá trình kinh doanh của Arteport vẫn diễn ra theo một chu trình tương đối cổ điển: khi nhận được đơn hàng của khách hàng, Công ty mới liên hệ tới các làng nghề, các cơ sở sản xuất để bắt tay vào sản xuất theo yêu cầu của đơn hàng, từ đó dẫn tới lượng hàng tồn của Công ty là không đáng kể. Thứ hai, các xưởng sản xuất của Công ty (xưởng gốm, xưởng thêu, xưởng gỗ) cũng mới sản xuất ở quy mô nhỏ nên lượng thành phẩm tồn kho chỉ ở con số khiêm tốn. Từ hai đặc điểm trên dẫn đến hoạt động quản trị sản xuất của Công ty gặp nhiều khó khăn khi có đơn hàng lớn. Mặt khác, do không chủ động trong quá trình sản xuất nên các nhà quản trị khó có thể kiểm soát được chất lượng sản phẩm. Khâu kiểm tra cuối cùng không thể phản ánh hết được chất lượng sản phẩm, và điều tất yếu là làm giảm sự cạnh tranh của sản phẩm khi mà Công ty phải đối mặt với nhiều đối thủ mới. Cũng xuất phát từ tính độc đáo riêng biệt của sản phẩm thủ công mỹ nghệ nên hoạt động sản xuất tại Công ty là sản xuất theo kiểu đơn chiếc chứ không là sản xuất đại trà, điều này đòi hỏi cán bộ quản trị phải có kiến thức tổng quát về nhiều loại sản phẩm, đồng thời phải có thông tin cơ bản về thị trường thì hoạt động sản xuất mới có thể diễn ra liên tục nhưng vẫn đảm bảo sản xuất theo đúng nhu cầu của thị trường, hạn chế lượng sản phẩm tồn kho và sản phẩm lỗi mốt. Mặt khác, vấn đề nguyên vật liệu đầu vào cũng là một vấn đề đòi hỏi phải có sự cải tiến thích hợp trong quản trị sản xuất. Nguyên liệu đa dạng, nhiều loại có tính thời vụ và địa phương nên đảm bảo đúng và đủ về nguyên vật liệu là rất quan trọng, do sản xuất đơn chiếc, mỗi công nhân chỉ chuyên về một loại sản phẩm cho nên nếu không đủ nguyên vật liệu, hoạt động sản xuất sẽ không được diễn ra một cách liên tục, ảnh hưởng tới tiến độ giao hàng. Cải thiện tình hình này, Công ty đã xây dựng hai kho hàng tại Thanh Lân – Hà Nội và Hải Phòng, kho hàng này là nơi chứa hàng chuẩn bị xuất đi và cũng là nơi chứa nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất, cán bộ quản trị phải đảm bảo hàng được thực hiện theo đúng mẫu thiết kế, công việc này tưởng như rất đơn giản nhưng thực chất là rất phức tạp. Như sản phẩm sơn mài chẳng hạn, tranh sơn mài đòi hỏi phải có sự tỉ mỉ và chính xác từng cen – ti – met, tuy nhiên, khi quan sát bằng mắt thường, trong tổng thể một bức tranh với kích cỡ 1m*1m thì phát hiện ra điều đó là không hề đơn giản. Khi sản phẩm được đóng hàng vào container thì hoạt động sản xuất là hoàn thành. Giai đoạn kiểm tra thành phẩm trước khi xuất đi có sự tham gia của cán bộ quản trị sản xuất, cán bộ quản trị chất lượng, khi đó, nếu xảy ra bất kì vấn đề nào về chất lượng thì cán bộ quản trị sản xuất sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. 1.2.7.5. Quản trị tài chính Hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nên nhu cầu về nguồn ngoại tệ rất lớn, đồng thời vấn đề dự báo giá cả ngoại tệ trên thị trường cũng là một vấn đề không nhỏ đối với công tác tài chính của Artexport. Từ khi vận hành theo hình thức công ty cổ phần, mỗi phòng ban trong công ty thực hiện chế độ hạch toán riêng để đảm bảo khả năng cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập, từ đó nảy sinh vấn đề đảm bảo đủ nguồn tài chính cho các hợp đồng ở tất cả các phòng ban. Hiện tại, Artexport thực hiện theo cơ chế, khi có đơn hàng, mỗi đơn vị sẽ tự tổ chức sản xuất, liên hệ nhà cung cấp và được tạm ứng tùy theo đơn hàng, sau đó khi kết thúc hợp đồng, đơn vị đó hạch toán với phòng Tài chính – Kế toán theo nguyên tắc: trả đủ khoản tạm ứng có bao gồm cả lãi, trả phần lãi tỉ lệ theo quy định của công ty để có duy trì hoạt động của công ty, sau đó lợi nhuận còn lại chính là nguồn tài chính để duy trì hoạt động của chính đơn vị đó. Do yêu cầu khách quan như vậy, nên Artexport đang trong quá trình thành lập một tổ chức tài chính tín dụng riêng để đảm bảo nguồn cung vốn cho hoạt động của toàn bộ Công ty. Như vậy, hoạt động tài chính không chỉ diễn ra ở phòng Tài chính – Kế toán mà tất cả các phòng ban đều phải quản trị nguồn tài chính của riêng mình. Theo như quy trình luân chuyển dòng tài chính như miêu tả ở trên, lương và thưởng của từng cán bộ công nhân viên trong các phòng nghiệp vụ (các phòng xuất nhập khẩu) phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả hoạt động kinh doanh của phòng ban mình. Đây là xu thế mới trong quản trị tài chính hiện đại (có thể hiểu một cách đơn giản là làm bao nhiêu thì hưởng bấy nhiêu), đó là một động lực thúc đẩy rất quan trọng để cán bộ công nhân viên cố gắng nỗ lực làm việc. Hoạt động quản trị tài chính tại Artexport là nhiệm vụ của ban lãnh đạo công ty, phòng Tài chính – Kế Toán và các trưởng phòng xuất nhập khẩu. Ban lãnh đạo công ty và phòng Tài chính – Kế toán chịu trách nhiệm quản lý tài chính toàn công ty, các trưởng phòng xuất nhập khẩu quản lý tài chính của phòng ban mình. Do đó, không có sự trùng lắp trong công tác quản trị tài chính tại Công ty. 1.3. Kết quả hoạt động của Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Arteport 1.3.1. Kết quả hoạt động kinh doanh Bảng1.3: Kết quả hoạt động kinh doanh của Artexport giai đoạn 2006 – 2008 Đơn vị: Việt Nam Đồng TT Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 1 Doanh thu từ bán hàng và CCDV 583.571.043.808 646.061.649.821 530.110.254.179 2 Doanh thu thuần 583.571.043.808 646.061.649.821 530.110.254.179 3 Giá vốn hàng bán 540.579.476.882 588.531.633.461 468.697.294.942 4 Lợi nhuận gộp 42.991.569.926 57.530.016.360 61.403.959.237 5 Doanh thu hoạt động tài chính 7.619.954.304 8.195.098.446 14.145.606.286 6 Chi phí hoạt động tài chính 13.091.464.724 15.783.633.015 19.593.225.841 7 Chi phí bán hàng 24.288.182.376 38.563.739.046 34.510.888.466 8 Chi phí quản lí doanh nghiệp 6.359.532.4836 9.512.901.818 8.358.302.911 9 Lợi nhuận thuần từ HĐKD 6.872.344.647 1.864.840.927 13.087.148.305 10 Thu nhập khác 407.146.850 1.412.217.655 1.759.348.672 11 Chi phí khác 116.766.494 28.899.802.868 2.553.506.947 12 Lợi nhuận khác 290.380.356 (27.487.585.213) (794.118.257) 13 Tổng lợi nhuận trước thuế 7.162.725.003 (25.622.744.268) 12.293.030.030 14 Thuế TNDN hiện hành 17.657.084 1.847.904.986 15 CP thuế TNDN hoãn lại 435.506.504 16 Lợi nhuận sau thuế 7.612.725.003 (25.640.401.370) 10.880.631.548 Nguồn: Báo cáo tài chính 2007, 2008 – Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ - Artexport Từ số liệu trong bảng tổng hợp kết quả hoạt động kinh doanh của Artexport giai đoạn 2006 – 2008, có thể nhận thấy hoạt động của Công ty đang trong giai đoạn gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, năm 2007, lợi nhuận của Công ty đạt con số âm 25.640.401.370 đồng. Tuy nhiên, nếu so sánh giữa tổng doanh thu và lợi nhuận, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy không có tính tương quan thuận chiều: năm 2007 là năm có tổng doanh thu cao nhất trong 3 năm, nhưng lại có lợi nhuận âm (tổng doanh thu là 646.061.649.821, lợi nhuận đạt (25.640.401.370); năm 2008 là năm có tổng doanh thu thấp nhất trong 3 năm lại là năm có lợi nhuận cao nhất trong 3 năm (tổng doanh thu là 530.110.254.179, lợi nhuận đạt 10.880.631.548). Nguyên nhân của số lợi nhuận âm năm 2007 là do giá vốn hàng bán tăng cao một cách bất thường, chiếm 91,1% tổng doanh thu (588.531.633.461 đồng), từ đó đẩy kết quả kinh doanh của công ty đi xuống. Khi đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây, có một thực tế là năm 2007, khi nền kinh tế nước ta có được những thành tựu tăng trưởng đáng kể thì Artexport lại đạt mức tăng trưởng âm, đây là một vấn đề đáng lưu tâm trong quá trình xây dựng và phát triển công ty, bởi nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có thể có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng nó cũng thể hiện trình độ quản lý của đội ngũ lãnh đạo Công ty còn yếu, chưa phù hợp theo nền kinh tế thị trường, hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới. Đây cũng là một bài học để các nhà quản trị Công ty đúc kết kinh nghiệm, tránh những sai sót về sau. Qua năm 2007 nền kinh tế thế giới bước vào một cuộc khủng hoảng kéo theo đó là sự sụp đổ của một loạt ngân hàng lớn và vô số các doanh nghiệp trên thế giới, hoạt động kinh doanh của Artexport cũng gặp nhiều khó khăn khi tổng doanh thu giảm xuống mức thấp nhất trong 3 năm, nhưng do đúc kết được kinh nghiệm từ năm 2007, năm 2008, Công ty đã có mức lợi nhuận là 10.880.631.548 đồng, vượt qua cả năm 2006 (7.612.725.003 đồng). Hình 1.2: Biểu đồ tăng trưởng Artexport giai đoạn 2004 – 2008: Đơn vị: tỷ đồng Nguồn: Phòng Tổ chức – Hành chính _ Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ - Artexport 1.3.2. Những kết quả khác 1.3.2.1. Thu nhập của người lao động Là một công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ, Artexport quy tụ được nhiều nhân lực có trình độ trong lĩnh vực ngoại thương. Nguồn lao động này là một tài sản rất có giá trị của Công ty trong xu thế cạnh tranh gay gắt để thu hút nguồn lao động có tay nghề như hiện nay. Do đó, để giữ chân và phát triển lực lượng lao động này, Artexport đã có nhiều chính sách bồi dưỡng và phát triển trình độ người lao động, đồng thời chính sách lương thưởng cũng luôn được chú trọng để tạo ra sự khuyến khích đối với người lao động. Thu nhập của người lao động được cải thiện, từ đó người lao động mới chuyên tâm cống hiến cho công ty. Nếu so sánh với mức lương trên thị trường hiện nay, mức thu nhập bình quân người/tháng của Artexport chưa phải là cao, tuy nhiên đây cũng là một mức lương tương đối với người lao động ở một doanh nghiệp nhà nước mới chuyển sang mô hình công ty cổ phần. Bảng số liệu và biểu đồ cho ta thấy rõ sự tăng trưởng trong vấn đề tiền lương cho người lao động. Bảng1.4: Thu nhập bình quân của người lao động giai đoạn 2004 – 2008 Đơn vị: Triệu đồng/tháng Năm 2004 2005 2006 2007 2008 Thu nhập 2.2 2.4 2.7 2.7 3.1 Nguồn: Phòng Tổ chức – hành chính _ Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ - Artexport Hình 1.3:Biểu đồ tăng trưởng thu nhập bình quân người/tháng Đơn vị: Triệu đồng/tháng Nguồn: Phòng Tổ chức – hành chính _ Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ - Artexport 1.3.2.2. Kết quả hoạt động tài chính Bảng1.5: Một số chỉ tiêu tài chính cơ bản giai đoạn 2006 – 2008 Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 1. Cơ cấu tài sản - Tài sản NH/ Tổng TS % 80.14 75.95 52.37 - Tài sản DH/ Tổng TS % 19.86 24.05 47.63 2. Cơ cấu nguồn vốn - Nợ phải trả/ Tổng NV % 77.71 77.83 67.86 - NV CSH/ Tổng TS % 22.29 22.17 32.14 3. Khả năng thanh toán - Khả năng TT nhanh Lần 1.10 0.16 0.054 - Khả năng TT hiện hành Lần 1.29 1.28 1.47 4. Tỷ suất lợi nhuận - TSLN sau thuế/ Tổng TS % 2.72 N/A 4.166 - TSLN sau thuế/ Tổng DT % 1.22 N/A 2.05 - TSLN sau thuế/ NV CSH % 12.22 N/A 12.96 Nguồn: Báo cáo tài chính 2007, 2008 _ Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ - Artexport Cơ cấu tài sản của Artexport từ năm 2006 đến năm 2008 có sự dịch chuyển từ tài sản ngắn hạn sang tài sản dài hạn. Cụ thể, tỷ trọng tài sản dài hạn năm 2006 là 19,86, đến năm 2007 là 47,53%. Điều này được lý giải do Artexport đã đưa vào khai thác và sử dụng một số tòa nhà cao tầng thuộc sở hữu của công ty để cho thuê làm văn phòng. Hệ số nợ của Công ty năm 2006 là 77,71%, năm 2007 là 77,83%, sang năm 2008 là 67,86%, có sự giảm dần từ năm 2006 đến năm 2008. Tuy nhiên, hệ số nợ của Công ty là khá cao so với trung bình của ngành thương mại dịch vụ (khoảng 50% – 60%). Điều này, chứng tỏ Công ty phụ thuộc vào các khoản nợ vay. Hiện tại, Công ty có khoản nợ vay trung dài hạn rất lớn và Công ty có kế hoạch trả nợ đến tận năm 2012. Khả năng thanh toán nhanh của Công ty 3 năm đều nhỏ hơn 1%, khả năng thanh toán hiện hành 3 năm đều nhỏ hơn 1,5%, nếu đem so sánh trung bình ngành thương mại dịch vụ tương ứng là 1,2% - 1,5% và 2,3% - 2,5% thì ta có thể thấy khả năng thanh toán của Công ty rất thấp. Năm 2007, Arexport đã bị lỗ nên không thể tính được các tỷ suất sinh lời. So với trung bình ngành thì tỷ suất sinh lời của Công ty trong năm 2006 và 2008 ở mức trung bình. PHẦN 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU ĐÁ XÂY DỰNG TẠI CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU THỦ CÔNG MỸ NGHỆ ARTEXPORT 2.1. Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu đá xây dựng tại công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport 2.1.1. Sơ lược về thực trạng xuất khẩu đá xây dựng tại Việt Nam Tiềm năng khoáng sản để sản xuất đá xây dựng của Việt Nam rất đa dạng, phong phú về chủng loại: đá Granite, đá cẩm thạch, đá Gabro, đá Bazan, đá Mabro, thạch anh màu sắc các loại: đỏ, vàng, trắng, hồng, xanh, lục, đen…với trữ lượng rất lớn. Theo tài liệu tìm kiếm thăm dò của 6 vùng: Tây Nguyên, Đông Bắc Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, có 325 mỏ với trữ lượng tìm kiếm là 37 tỉ m³. Đây là một trữ lượng đá rất lớn có thể khai thác, chế biến hàng trăm tỉ m² đá ốp lát phục vụ xây dựng đất nước và xuất khẩu lâu dài. Nhiều trung tâm khai thác và chế biến đá xây dựng đã hình thành ở các địa phương, nổi bật nhất là tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Khánh Hòa, Phú Yên, miền Đông Nam Bộ… Ngày nay, thực trạng đá xây dựng ở nước ta rất đa dạng và phong phú về màu sắc, kiểu dáng và chất liệu đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Thị trường đá xây dựng ngày càng mở rộng theo xu hướng “kiến trúc thân thiện với môi trường”: dùng đá xây dựng, đá ốp lát trong nhà, sân vườn, làm hàng nội thất tạo ra môi trường mát mẻ đưa cuộc sống gắn với thiên nhiên. Do vậy, thị trường tiêu thụ đá xây dựng toàn cầu cũng tăng trưởng nhanh chóng. Kim ngạch xuất khẩu đá xây dựng toàn cầu tăng nhanh, năm 2007 kim ngạch xuất nhập khẩu toàn cầu đạt 26 tỉ USD tăng 2 lần so với năm 2001. Kim ngạch xuất khẩu đá xây dựng của Việt Nam cũng tăng nhanh chóng, đạt 99.317.547 USD năm 2007, tăng 7,2 lần so với năm 2001, với tốc độ tăng bình quân 38,5%/năm. Xuất khẩu lớn nhất là công ty Vicostone. Đá xây dựng Việt Nam đã có mặt trên 85 quốc gia, trong đó có 15 quốc gia đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu đá xây dựng của nước ta trong những năm qua tuy có tăng trưởng nhanh, nhưng chỉ chiếm tỉ trọng rất nhỏ bé so với kim ngạch xuất khẩu toàn cầu từ 0,105% lên 0,380%. Tuy nhiên, đá xây dựng của Việt Nam đã có mặt ở một số thị trường quan trọng như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản để làm bàn đạp xuất khẩu sang các thị trường khác. Hình 2.1: Mô hình hoạt động trong ngành xuất khẩu đá xây dựng tại Việt Nam Khai thác mỏ Sản xuất đá thành phẩm Chế biến đá Xuất khẩu thô Thu mua xuất khẩu Nhập khẩu Khách hàng Nguồn: Phòng Tổ chức – Hành chính _ Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport 2.1.2. Sơ lược về hoạt động xuất khẩu đá xây dựng tại Artexport Kinh doanh xuất khẩu đá xây dựng hiện nay tại Artexport do hai phòng đảm nhiệm: phòng xuất nhập khẩu tổng hợp 2 và phòng xuất nhập khẩu tổng hợp 10. Mặt hàng đá xây dựng xuất khẩu của Công ty là đá và các chế phẩm cao cấp từ đá thiên nhiên, chủ yếu khai thác từ vùng núi của tỉnh Thanh Hóa và Bình Định. Công ty thu mua sản phẩm từ các doanh nghiệp khai thác, sản xuất như: công ty Viễn Đông (Thanh Hóa), cơ sở Tiến Thịnh (Thanh Hóa), công ty Hưng Thành (Bình Định)… Các mặt hàng xuất khẩu chính là: đá Mable, đá Mẻ, đá Băm, đá Xén…Các mặt hàng này dùng để xây dựng các công trình kiến trúc, đặc biệt ở châu Âu người nhập khẩu thường dùng để tu sửa các công trình cổ (đá Granit, đá Cẩm thạch…). Đối thủ cạnh tranh của Công ty là các công ty xuất khẩu đá xây dựng trong và ngoài nước. Trong nước, các đối thủ chính gồm có công ty Vicostone, Tổng công ty Vinaconex, công ty Cổ phần đá xây dựng Hòa Phát,… Trên thị trường quốc tế, sự cạnh tranh chủ yếu đến từ các công ty Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ… Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Công ty là Bỉ, Hà Lan, Đức, Hungary, Italia… Hiện nay, Công ty cũng đang chú trọng đến các thị trường châu Á như Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore… 2.1.3. Kết quả kinh doanh xuất khẩu đá xây dựng của Arteport những năm gần đây 2.1.3.1. Kim ngạch xuất khẩu Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu đá xây dựng của Artexport giai đoạn 2006 – 2008 Đơn vị: USD Năm 2006 2007 2008 Kim ngạch 854.110 1.609.248 997.884 Nguồn: Phòng Tổ chức – Hành chính _ Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport Hình 2.2: Kim ngạch xuất khẩu đá xây dựng của Artexport giai đoạn 2006 – 2008 Nguồn: Phòng Tổ chức – Hành chính _ Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport Giai đoạn 2006 – 2008, doanh thu xuất khẩu đá xây dựng của Công ty thay đổi rất mạnh. Năm 2007, doanh thu tăng gần gấp đôi so với năm 2006, đạt 1.609.248 USD so với 854.110 USD năm 2006, tăng 88,41%. Kết quả này phản ánh sự nỗ lực của Công ty sau 05 năm gia nhập thị trường xuất khẩu đá xây dựng. Năm 2002, Artexport bắt đầu xuất khẩu những lô hàng đá xây dựng đầu tiên khi mà các đối thủ cạnh tranh đã có thị trường ổn định và tiềm năng. Tuy nhiên, chỉ sau năm năm, thành tích mà Công ty đạt được là mức doanh thu liên tục tăng. Đặc biệt, năm 2006, khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới WT._.n, tôn giáo, tín ngưỡng và trào lưu kiến trúc đương thời. Hơn thế, ngày nay, khi mà các chủ thầu xây dựng là người quyết định lớn tới công trình, việc nghiên cứu nhu cầu của đối tượng này đặc biệt quan trọng. Tại Artexport, khách hàng trực tiếp của Công ty là các chủ thầu xây dựng và các đại lý kinh doanh vật liệu xây dựng, do đó, Công ty cần có mối liên hệ mật thiết với các đối tượng này để nắm bắt được nhu cầu của từng khách hàng đơn lẻ, từ đó có được những chiến lược kinh doanh hợp lý. Nhu cầu về đá xây dựng thay đổi theo thời gian, nhưng tính chất biến động của nó chậm hơn so với các hàng hóa tiêu dùng hàng ngày, việc nghiên cứu khách hàng không nên quá tập trung vào phân khúc quá nhỏ vì như vậy sẽ không thể nắm bắt được xu hướng diễn biến chính của toàn bộ thị trường. Ví dụ như tại châu Âu, kiến trúc của nơi đây mang tính tổng thể rất cao, mỗi thành phố lại có một lối kiến trúc riêng và sử dụng một kiểu thiết kế tương đối thống nhất, do đó, nhu cầu về đá xây dựng tại châu lục này mang tính đồng nhất cao. Khác hoàn toàn với châu Âu, châu Mỹ lại có một nền kiến trúc mang tính hiện đại với sự khác biệt trong mỗi thiết kế, do đó nhu cầu về các chủng loại đá xây dựng cũng phong phú hơn… Như vậy, có thể thấy rõ, việc nghiên cứu khách hàng của mặt hàng đá xây dựng không mang tính cá nhân từng khách hàng, mà phải tập trung vào nét tổng thể của thị trường đó. Thứ hai: nghiên cứu cung. Nguồn cung đá xây dựng tại Việt Nam tương đối phong phú. Vấn đề đặt ra là nghiên cứu xem đối tác nào có thể cung cấp nguồn hàng hóa với chất lượng cao và giá cả phải chăng. Hơn thế, nguồn cung trong thời gian tới có thể sẽ thu hẹp đôi chút do tác động của những chính sách mới của Nhà nước, cho nên tìm kiếm đối tác có khả năng làm ăn lâu dài là một vấn đề hết sức quan trọng. Một vấn đề khác cần phải quan tâm khi nghiên cứu cung đó là khả năng cạnh tranh của nhà cung cấp. Khả năng cạnh tranh ở đây muốn đề cập đến chính là khả năng mà nhà cung cấp có thể thay đổi máy móc, thiết bị và công nghệ khai thác, chế biến cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Muốn tìm được một đối tác có khả năng cạnh tranh cao thì Công ty phải có những thông tin quan trọng về chiến lược phát triển của đối tác đó trong tương lai. Thứ ba: nghiên cứu sản phẩm dịch vụ thay thế. Sản phẩm thay thế cho đá xây dựng là các vật liệu xây dựng nhân tạo. Đây đã từng là những vật liệu thống lĩnh thị trường vật liệu xây dựng, nhưng những năm gần đây, do tác động của những thành phần hóa học có trong các loại vật liệu xây dựng tổng hợp nên người tiêu dùng chuyển sang dùng các vật liệu có nguồn gốc tự nhiên. Đây chính là một cơ hội tốt cho đá xây dựng phát triển. Tuy nhiên, do các vật liệu tổng hợp đa dạng về chủng loại, màu sắc và nhẹ hơn rất nhiều so với đá xây dựng, nên đây vẫn là một đối thủ nặng ký của mặt hàng đá xây dựng. Nắm bắt được xu hướng phát triển của mặt hàng thay thế này chính là một biện pháp cơ bản để nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng đá xây dựng. Thứ tư: nghiên cứu đối thủ cạnh tranh tiềm tàng. Việt Nam gia nhập WTO đã mở ra nhiều cơ hội cho các công ty mới thành lập có thể tham gia vào thị trường xuất khẩu hàng hóa đầy tiềm năng. Mặt hàng đá xây dựng lại có lợi thế lớn về nguồn nguyên liệu nên đây vẫn là một lĩnh vực hấp dẫn đối với nhiều doanh nghiệp. Công ty cần có những biện pháp để ngăn chặn sự cạnh tranh từ những đối thủ trong tương lai này ngay từ bây giờ. Thứ năm: nghiên cứu đối thủ cạnh tranh hiện tại. Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập vào WTO, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp tư duy rằng nghiên cứu đối thủ cạnh tranh chỉ bó hẹp ở trong nước mà không biết rằng sự cạnh tranh thực sự khốc liệt là với các công ty nước ngoài, đặc biệt là với “công xưởng của thế giới” - Trung Quốc. Do tư duy hạn chế đó, nên các công ty chưa có những tầm nhìn dài hạn về công tác nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh. Với mặt hàng đá xây dựng, Trung Quốc đứng đầu thế giới về kim ngạch xuất khẩu, do đó, để có thể tồn tại và phát triển lâu bền trong ngành hàng này thì Artexport cần có những kiến thức cần thiết về đối thủ cạnh tranh khổng lồ này, để có thể có được những kinh nghiệm từ họ và rút ra những hạn chế còn tồn tại trong các doanh nghiệp xuất khẩu đá xây dựng Trung Quốc. 3.3.2. Đảm bảo chất lượng sản phẩm, chất lượng quá trình cung ứng sản phẩm Chất lượng sản phẩm là yếu tố tiên quyết để có thể thu hút được khách hàng mới và giữ chân khách hàng cũ. Chất lượng sản phẩm của hàng hóa Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề cần phải có sự đầu tư, nghiên cứu và cải tiến. Trong lĩnh vực đá xây dựng, chất lượng sản phẩm của đá ảnh hưởng tới chất lượng công trình xây dựng, mà công trình xây dựng lại là một vật thể tồn tại lâu dài, do đó, vấn đề nâng cao và đảm bảo chất lượng phải luôn được đặt trọng tâm trong công tác xuất khẩu đá xây dựng. Thực trạng tại Artexport cho thấy Công ty đang gặp khó khăn lớn trong công tác đảm bảo chất lượng sản phẩm do Công ty chưa có xưởng sản xuất riêng. Phụ thuộc vào các nhà cung cấp địa phương là một cản trở trong quá trình đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Công ty đã sử dụng nhiều biện pháp để có thể kiểm soát được chất lượng đá xuất đi, nhưng do không có sự kiểm soát chất lượng trên toàn bộ quá trình nên căn cứ để kiểm định chất lượng thiếu thống nhất ở mỗi giai đoạn. Do đó, Công ty cần ban hành một tiêu chuẩn thống nhất về chất lượng sản phẩm đá xây dựng, bao gồm các tiêu chuẩn chất lượng cho từng mặt hàng đá cụ thể. Có thể, nếu chi tiết cho từng mặt hàng, thì bộ tiêu chuẩn sẽ quá cồng kềnh và thiếu tính linh hoạt, vậy nên, Công ty nên đưa ra các tiêu chí chung, nền tảng, còn chi tiết thì tuân theo các mẫu thiết kế. Ví dụ, Công ty quy định độ lệch tiêu chuẩn về kích thước đá xây dựng là ± 2mm với đá xây dựng cỡ lớn, ± 1mm với đá xây dựng cỡ nhỏ… Các tiêu chí chung này là cơ sở để cán bộ kiểm tra chất lượng căn cứ vào để thực thi nhiệm vụ của mình. Việc kiểm soát chất lượng hiện nay, Công ty thuê các KCS địa phương, đây là một quyết định đúng đắn nhằm tiết kiệm sức người và sức của cho Công ty, tuy nhiên lại nảy sinh vấn đề về chất lượng các KCS địa phương. Quản lý chất lượng sản phẩm không thể đạt kết quả cao nếu người thực hiện nó không có “chất lượng” cao. Giải pháp đặt ra là Công ty sẽ tiến hành đào tạo nghiệp vụ bài bản cho lực lượng KCS này. Các khóa đào tạo nên được tiến hành thường xuyên và bài bản, nhằm giúp cho các KCS có được những kiến thức chung nhất về công tác kiểm tra chất lượng cũng như là kiến thức chuyên sâu về từng mặt hàng đá xây dựng cụ thể. Chất lượng quá trình cung ứng sản phẩm cũng là một vấn đề với lãnh đạo Công ty. Nếu như các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác thường có trọng lượng nhỏ và thể tích gọn thì mặt hàng đá xây dựng lại ngược lại hoàn toàn, trọng lượng lớn và thể tích cồng kềnh. Đặc điểm này khiến cho việc đảm bảo chất lượng đá xây dựng tới tận tay người tiêu dùng là không hề đơn giản. Công ty đã thực hiện nhiều giải pháp như đóng gói bằng nan gỗ để hạn chế sự va đạp của đá, tuy nhiên vẫn chưa giải quyết được triệt để vấn đề thiệt hại hàng hóa trong quá trình vận chuyển. Có nhiều giải pháp được đưa ra nhưng có giải pháp khả thi. Có thể trong tương lai gần, Công ty nên học hỏi kinh nghiệm từ các đối thủ cạnh tranh, nhất là các doanh nghiệp Trung Quốc về vấn đề đảm bảo chất lượng hàng hóa trong quá trình vận chuyển, bởi họ là những nhà xuất khẩu lớn, có kinh nghiệm và công nghệ cao hơn chúng ta. Chất lượng quá trình cung ứng còn phụ thuộc vào hãng tàu vận tải mà Công ty thuê. Internet phát triển khiến cho khả năng tiếp cận các hãng vận tải tốt, giá thành phải chăng tăng lên rất nhiều. Hơn thế, ngày nay, các hãng vận tải thường đảm nhiệm hầu hết các công đoạn trong công việc Logictis nên tìm kiếm một hãng vận tải uy tín là một giải pháp rất tốt để đảm bảo chất lượng sản phẩm và chất lượng quá trình cung ứng sản phẩm. 3.3.3. Công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm Đây là một khâu còn chưa được chú trọng đúng mức tại Công ty. Do quá trình kinh doanh mặt hàng đá xây dựng phụ thuộc chủ yếu vào các đơn đặt hàng của khách hàng, do đó, kế hoạch tiêu thụ dài hạn không khả thi khi thị trường có biến động mạnh như hai năm vừa qua. Vấn đề đặt ra là Công ty cần có những kế hoạch tiêu thụ với từng thời kỳ ngắn hạn. Thực trạng trong ngành xuất khẩu đá xây dựng là tính chất mùa vụ phụ thuộc vào mùa vụ xây dựng của nước nhập khẩu. Thị trường chính của Artexport hiện nay là châu Âu, nơi có mùa đông băng giá nên hoạt động xây dựng chủ yếu diễn ra trong các tháng đầu năm. Nếu như vào thời kỳ cao điểm, mỗi tháng Công ty xuất đi hàng trăm container thì đến mùa thấp điểm, mỗi tháng chỉ có vài container được xuất đi. Vậy nên, lập kế hoạch tiêu thụ cho từng thời kỳ trong năm là hết sức cần thiết để có thể đảm bảo nguồn cung ứng hàng hóa kịp thời. Công tác lập kế hoạch tiêu thụ đá xây dựng nên do phòng xuất nhập khẩu 2 và 10 phụ trách bởi cán bộ nhân viên trong phòng là những người am hiểu khách hàng và tính chất mùa vụ tại thị trường xuất khẩu nhất. Kế hoạch tiêu thụ phải giải quyết được các vấn đề chủ yếu về thị trường tiêu thụ và khối lượng tiêu thụ tại mỗi thời điểm. Trước hết là về vấn đề thị trường tiêu thụ, khí hậu mỗi đất nước khác nhau nên ảnh hưởng đến mùa vụ xây dựng khác nhau. Làm tốt công tác nghiên cứu thị trường ngay từ giai đoạn ban đầu sẽ giúp cho Công ty có được sự am hiểu về từng thị trường tiêu thụ, từ đó có kế hoạch tiêu thụ sát với thực tế nhất. Trong kế hoạch tiêu thụ, thì thị trường tiêu thụ nên phân chia theo khu vực địa lý, nơi có đặc điểm khí hậu, mùa vụ giống nhau. Thứ hai, vấn đề khối lượng tiêu thụ trong mỗi mùa vụ. Đây là một nhân tố quan trọng nhất trong bản kế hoạch tiêu thụ. Xác định chính xác khối lượng tiêu thụ là một điều không thể, vậy nên, mục tiêu đặt ra cho bản kế hoạch là xác định gần nhất với khối lượng tiêu thụ, trong khoảng chênh lệch cho phép. Lập được kế hoạch tiêu thụ tốt giúp ích rất nhiều cho Công ty trong việc chủ động nguồn hàng xuất đi. Do đặc điểm không tự sản xuất mặt hàng đá xây dựng nên Công ty cần chú trọng công tác này để có thể tìm nhà cung ứng và đặt hàng đúng thời điểm theo như hợp đồng đã ký với khách hàng. Kế hoạch tiêu thụ nên gắn bó chặt chẽ với kết quả nghiên cứu và phân tích thị trường. Bản kế hoạch có thể trở nên vô nghĩa nếu những chỉ tiêu nó đưa ra không phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội, phù hợp với cung và cầu trên thị trường. Mặt khác, kế hoạch tiêu thụ cần được triển khai tới toàn thể cán bộ nhân viên trong phòng, cũng như là thông tin cho nhà cung ứng thường xuyên để họ có biện pháp chủ động trong sản xuất. Đồng thời kế hoạch tiêu thụ mặt hàng đá xây dựng cần phải phù hợp với định hướng phát triển của Công ty về ngành hàng đá xây dựng cũng như là định hướng phát triển toàn Công ty. 3.3.4. Tăng cường hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương mại Hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương mại là một hoạt động quan trọng của một công ty thương mại dịch vụ. Artexport đã có nhiều cố gắng tăng cường các hoạt động quảng cáo trong thời gian qua và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi các chiến dịch marketing chuyên nghiệp hơn để tiếp cận và thu hút sự quan tâm của đông đảo khách hàng. Mặt hàng đá xây dựng là mặt hàng mang tính chuyên dụng cao nên không thể áp dụng các phương thức quảng cáo truyền thông đại chúng giống như các sản phẩm tiêu dùng, bởi áp dụng công cụ đó, chi phí sẽ rất cao mà số lượng khán giả thực sự quan tâm đến đá xây dựng rất ít. Tuy nhiên, sự phát triển của internet đã mở ra những phương thức quảng cáo mới, chi phí thấp mà hiệu quả lại cao. Giải pháp cho các vấn đề này là tận dụng triệt để lợi thế do sự phát triển mạng internet mang lại, nâng cao chất lượng các hoạt động quảng cáo và xúc tiến thương mại. Kênh quảng cáo truyền thống của mặt hàng đá xây dựng tại Công ty hiện nay là thông qua các hội chợ, triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ. Thông qua các hội chợ này, Công ty sẽ có một số khách hàng thân thiết, và cán bộ Công ty sẽ thường xuyên giữ liên lạc với các đối tượng khách hàng này để cập nhật những thông tin về sản phẩm và giá cả cho họ. Trước đây, việc trao đổi, liên lạc với đối tượng khách hàng này diễn ra không liên tục và thường thì khách hàng thường chủ động liên lạc trước. Đây là một điều cần cải thiện trong thời gian tới. Nhất là khi mà việc liên lạc qua email trở nên phổ biến thì Công ty nên thường xuyên giữ liên lạc với khách hàng truyền thống, đồng thời có chính sách cụ thể cho đối tượng khách hàng này. Lợi ích của việc trao đổi liên lạc qua email cũng mở ra một hướng quảng cáo mới, đó là gửi thư cho đối tượng khách hàng tiềm năng. Đây là một hình thức nhanh nhất và ít tốn kém nhất để tiếp cận khách hàng mục tiêu. Tuy nhiên, nếu không có sự chuyên nghiệp thì các thư chào hàng điện tử sẽ trở thành thư rác, tạo phản cảm cho người nhận thư. Đồng thời, muốn có được kết quả cao thì cán bộ Công ty phải thường xuyên cập nhật hòm thư của các đối tượng khách hàng mục tiêu thông qua các diễn đàn xây dựng, các cổng thông tin về thị trường xây dựng. Hiện nay, Artexport có trang web chính thức là www.artexport.com.vn. Đây là nơi giới thiệu và cập nhật các thông tin cũng như các mặt hàng của Công ty. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng trang web này chưa thực sự chuyên nghiệp, nhất là nó chưa có chức năng cho khách hàng có thể đặt hàng trực tuyến. Như vậy, lợi ích của thương mại điện tử mang lại chưa được Công ty chú trọng đúng mức. Trong thời gian tới, lãnh đạo Công ty nên có những chiến lược mới cho việc phát triển hoạt động marketing thông qua internet. Đồng thời nên xúc tiến việc thành lập trang web riêng cho mỗi phòng ban, bởi có như thế, hoạt động quảng bá sản phẩm mới được thực hiện một cách bài bản và cập nhật nhất có thể. Nhiều công ty đã thành công khi tận dụng triệt để lợi ích do internet mang lại, Artexport cũng đang cố gắng thâm nhập thị trường mới thông qua việc quảng bá hình ảnh trên mạng internet. Nhưng như thế không có nghĩa là công cụ marketing truyền thống của Công ty bị bỏ qua. Việc tham gia các hội chợ, triển lãm về hàng thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây dựng vẫn hết sức quan trọng, bởi tại đây, Công ty có thể tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, khách hàng có thể tiếp xúc trực tiếp với các sản phẩm. Do đó, Công ty vẫn phải chú trọng vào công tác này, tuy nhiên cần có những điều chỉnh nhất định. Khi mà thị trường châu Á là một thị trường với sức tăng trưởng nhanh và tiềm năng còn rất lớn thì việc Công ty tham gia các hội chợ triển lãm về hàng xây dựng tại khu vực sẽ là một cơ hội lớn để quảng bá hình ảnh đá xây dựng Việt Nam đến với khách hàng trong khu vực. Hoạt động marketing chỉ thực sự tốt khi nó được quán triệt trong toàn thể Công ty. Đối với mặt hàng đá xây dựng, Công ty đã giao cho hai phòng xuất nhập khẩu tổng hợp 2 và 10 đảm nhiệm, do đó cần có sự thống nhất trong hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương mại tại hai phòng này, tránh tình trạng chồng chéo không cần thiết. Đặc biệt, khi mỗi phòng xuất khẩu tổng hợp dự định xây dựng website riêng thì sự thống nhất lại càng phải được coi trọng. Cạnh tranh trong nội bộ Công ty có thể xảy ra và làm giảm sức cạnh tranh chung của mặt hàng đá xây dựng của Artexport trên thị trường. Lãnh đạo Công ty cần có sự điều chỉnh cần thiết khi nhận thấy bất cứ sự cạnh tranh không lành mạnh nào xảy ra tại hai phòng kinh doanh xuất khẩu đá xây dựng này. Hiện nay, việc thúc đẩy quan hệ hợp tác với đối tác nước ngoài thông qua tham tán thương mại tại nước sở tại không còn là quan trọng số một như trước đây. Nhưng đây vẫn là một kênh quan trọng để xúc tiến hợp tác. Thông qua các tham tán thương mại, Công ty có cơ hội tiếp xúc với các khách hàng lớn và đặc biệt là các khách hàng có tính chất nhà nước tại nước sở tại. Vì thế, cần phải có sự trao đổi thông tin thường xuyên với các tham tán thương mại tại các thị trường mục tiêu, tranh thủ sự giúp đỡ của tham tán thương mại để thâm nhập sâu vào thị trường đó. 3.3.5. Liên kết với các cơ sở sản xuất đá xây dựng Do chưa có cơ sở sản xuất riêng của Công ty nên việc liên kết với các cơ sở sản xuất đá xây dựng tại các địa phương là một việc làm cần thiết và mang tính chiến lược đối với sự phát triển ngành hàng đá xây dựng xuất khẩu. Hiện tại, Công ty thường xuyên lấy nguồn hàng từ các địa phương như Thanh Hóa, Bình Định. Đây là khu vực khá xa Hà Nội, nên thông thường hàng được chuyển thẳng từ cơ sở sản xuất ra cảng xuất đi. Vì vậy, vấn đề liên kết với cơ sở sản xuất càng nên thúc đẩy sớm vì mối liên kết tốt sẽ là một trong những lợi thế cạnh tranh lớn của Công ty trong tương lai. Liên kết giữa Công ty với các cơ sở sản xuất đá xây dựng là liên kết dọc. Công ty có thể ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm trọn gói với cơ sở sản xuất hoặc bao tiêu một phần, tùy thuộc vào nhu cầu thực tế của thị trường. Trên thực tế, cả hai loại hợp đồng này đều có những ưu, nhược điểm riêng. Nếu ký hợp đồng bao tiêu trọn gói, giá cả ở mức thấp hơn rất nhiều so với giá mua riêng lẻ từng đơn hàng, nhưng sẽ có rủi ro là hàng hóa sẽ không tiêu thụ hết trong năm kế hoạch. Nếu hợp đồng là hợp đồng bao tiêu một phần, tất nhiên sẽ không có lợi thế về giá lớn như hợp đồng bao tiêu trọn gói, nhưng sẽ đảm bảo hàng luôn tiêu thụ hết. Do đặc điểm thị trường đá xây dựng trọng yếu của Công ty là thị trường châu Âu nơi mà mùa xây dựng diễn ra từ tháng 1 đến tháng 6, vì thế, Công ty có thể ký hợp đồng bao tiêu trọn gói trong 6 tháng đầu năm để đảm bảo nguồn hàng đủ cung cấp cho các đơn hàng mùa cao điểm. Đến 6 tháng cuối năm, hợp đồng ký kết là hợp đồng tùy theo mỗi thương vụ như thế sẽ có tận dụng được lợi thế về giá thành trong hợp đồng bao tiêu trọn gói 6 tháng đầu năm, đồng thời, nếu hàng không tiêu thụ hết trong nửa đầu năm có thể để dành cho 6 tháng cuối năm. Vấn đề gặp phải khi Công ty liên kết theo hình thức ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm là vấn đề mẫu mã hàng hóa. Khách hàng có thể có những yêu cầu riêng và thậm chí là những bản thiết kế riêng cho mỗi đơn hàng, vì thế sự liên kết giữa Công ty và cơ sở sản xuất đá phải có sự trao đổi thông tin thường xuyên, các mẫu mã mới nhất cần được cập nhật liên tục tới các xưởng sản xuất đảm bảo hàng hóa sản xuất ra không bị lỗi mốt trên thị trường. Một khía cạnh nữa mà Công ty cần chú ý trong sự liên kết với cơ sở sản xuất đó là sự hỗ trợ về nhân lực cho các xưởng sản xuất. Công ty có thể cử cán bộ có chuyên môn tới tận cơ sở, hướng dẫn về các tiêu chuẩn cần đạt tới đối với hàng xuất khẩu, đồng thời đào tạo đội ngũ KCS ngay tại xưởng, cung cấp cho họ những kiến thức cần thiết và phương pháp xử lý đối với hàng hóa lỗi hỏng. Đó là biện pháp thiết thực nhất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ngay từ khâu sản xuất tới khâu kiểm tra thành phẩm. Lượng cung ứng sản phẩm của mỗi xưởng sản xuất là khác nhau, sự liên kết của Công ty và các đối tác này cũng phải có sự khác biệt đôi chút. Với các đối tác lâu năm, vấn đề cần lưu ý nhất đó là chính là giá cả hàng hóa, còn với các đối tác mới, chất lượng thành phẩm và thời hạn giao hàng phải đặc biệt quan tâm, bởi có thể những cơ sở mới, giá thành có thể thấp hơn, nhưng chất lượng lại không đảm bảo… Tất nhiên, Công ty phải giải quyết các khác biệt này một cách khéo léo để giữ được uy tín trong làm ăn. 3.3.6. Các biện pháp khác Con người luôn là trọng tâm của công ty, vì thế, muốn phát triển công ty phải phát triển con người đi trước một bước. Tại một công ty chuyên về xuất nhập khẩu như Artexport thì ngoài trình độ nghiệp vụ, vấn đề hàng đầu với đội ngũ nhân viên đó là vấn đề ngoại ngữ. Nếu như tiếng Anh là ngôn ngữ được hầu hết cán bộ Công ty sử dụng thành thạo, thì một số ngoại ngữ lại không có nhân viên nào thông thạo. Nguyên nhân của vấn đề này một phần là do hệ thống giáo dục của Việt Nam hiện nay chưa thích ứng với sự thay đổi, chuyển dịch của nền kinh tế thế giới, mặt khác, nguyên nhân quan trọng là thị trường xuất khẩu trọng yếu của Công ty trước đến nay vẫn là các nước Âu – Mỹ, nơi mà tiếng Anh được sử dụng phổ biến. Khi mà nhu cầu nhập khẩu đá xây dựng tại thị trường châu Á tăng trưởng nóng như thời gian vừa qua, một yêu cầu cấp thiết là vấn đề bồi dưỡng ngôn ngữ cho cán bộ công nhân viên tại hai phòng xuất nhập khẩu tổng hợp 2 và 10. Công ty nên cử cán bộ đi học thêm các thứ tiếng phổ biến tại khu vực châu Á như tiếng Trung, tiếng Nhật… vì đây sẽ là những thị trường có tương lai phát triển hơn nữa. Tham gia vào Tổng hội xây dựng Việt Nam cũng là một biện pháp giúp Công ty có thể có được những hợp tác bền chặt với các nhà xuất khẩu đá xây dựng trên toàn quốc. Hơn thế, tham gia vào các tổ chức như thế, quyền lợi của Công ty trên thương trường sẽ được bảo đảm hơn, đồng thời uy tín và thương hiệu cũng được nâng lên một tầm cao mới. Bên cạnh việc liên kết với các cơ sở sản xuất đá xây dựng thì việc tìm kiếm và trở thành đối tác thân thiết của các hãng vận tải cũng là một điều đáng lưu tâm. Khi mối quan hệ giữa Công ty và hãng vận tải tốt, quá trình vận chuyển, đóng gói, bốc xếp lên tàu và hành trình chuyên chở trên biển sẽ có được sự đảm bảo cao nhất có thể. Bên cạnh đó thì lợi thế giá cả do trở thành khách hàng thân thiết cũng góp phần làm giảm chi phí, tăng cao khả năng cạnh tranh của hàng đá xây dựng của Công ty. Giải pháp để nâng cao hoạt động kinh doanh xuất khẩu đá xây dựng của Công ty có thể còn bao gồm nhiều hơn nữa, nhưng để các giải pháp này đi vào thực tế hoạt động của Công ty thì cần sự nỗ lực phấn đấu từ nhiều phía. Tự bản thân hai phòng xuất nhập khẩu tổng hợp 2 và 10 phải có sự điều chỉnh thích hợp, thích ứng với sự thay đổi của thị trường đá xây dựng trên thế giới. Song song đó, lãnh đạo Công ty cũng cần có những hỗ trợ thiết thực cho hai phòng để mặt hàng đá xây dựng của Công ty có thể thâm nhập vào nhiều thị trường mới, tăng nhanh doanh thu và đóng góp nhiều hơn vào sự tăng trưởng chung của toàn Công ty. 3.4. Một số kiến nghị với Nhà nước 3.4.1. Kiến nghị về nguồn cung mặt hàng đá xây dựng Như đã phân tích ở trên, Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản đá ốp lát rất phong phú, đa dạng, thị trường tiêu thụ nội địa và nước ngoài rất rộng lớn, lại có nguồn lao động dồi dào có năng khiếu tiếp thu nhanh chóng kỹ thuật. Đây là những tiềm năng to lớn để phát triển. Hơn nữa, trong bối cảnh Việt Nam đã tham gia WTO, thị trường đá xây dựng không chỉ có lợi thế về xuất khẩu mà còn có lợi thế trong việc nhập khẩu các nguyên liệu đá khối có chất lượng tốt, màu sắc đẹp mà nước ta không có về gia công chế biến, cung cấp cho thị trường trong nước, đồng thời xuất khẩu ra nước ngoài, tăng năng lực cạnh tranh của đá ốp lát Việt Nam trên thị trường quốc tế. Nhà nước cần xây dựng chiến lược đầu tư phát triển bền vững ngành công nghiệp đá ốp lát nước ta đạt mục tiêu 20 triệu m² với kim ngạch xuất khẩu 400 triệu – 500 triệu USD vào năm 2020 và 35 – 40 triệu m² với kim ngạch xuất khẩu 800 triệu – 1 tỉ USD vào năm 2030. Muốn đạt được mục tiêu đó, Nhà nước cần phải chú ý tới những vấn đề sau đây: + Sắp xếp, cơ cấu lại tổ chức xí nghiệp khai thác chế biến đá ốp lát có quy mô hợp lý, thật sự có năng lực, có điều kiện đầu tư công nghệ thiết bị hiện đại. Hình thành một số doanh nghiệp có quy mô lớn, một số trung tâm sản xuất đá ốp lát ở một số địa phương thành các trọng điểm phát triển ngành đá ốp lát như Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Khánh Hòa, Phú Yên, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Yên Bái… + Cơ cấu lại tổ chức kinh doanh xuất khẩu đá hình thành các trung tâm thương mại lớn trong nước và nước ngoài. Năm 2006 có 340 doanh nghiệp xuất khẩu đá với tổng kim ngạch xuất khẩu 60 triệu USD, trong đó chỉ có 8 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 triệu USD, 76 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu trên 100.000 USD còn lại 256 doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu dưới 100.000 USD. Hình thành một cách đa dạng thị trường xuất khẩu đá ốp lát Việt Nam ở một số nước châu Âu, châu Á, châu Mỹ, châu Úc để hỗ trợ nhau bảo đảm tổng kim ngạch xuất khẩu ổn định. Đồng thời, Nhà nước cũng cần quan tâm giải quyết để phát triển bền vững ngành công nghiệp đá xây dựng hiện đại, hài hòa ba lợi ích: kinh tế, xã hội, môi trường, với một số giải pháp chủ yếu như: + Tổ chức khảo sát tỉ mỉ các mỏ đá để xác định chính xác chất lượng, trữ lượng theo đúng quy phạm để làm cơ sở cho việc cấp phép khai thác mỏ. + Cần thống nhất cơ quan quản lý khai thác, sản xuất, chế biến đá với các cơ quan cấp phép khai thác mỏ vào một đầu mối, phân định mối quan hệ giữa trung ương, địa phương, tránh phiền hà. + Chỉ cấp phép khai thác mỏ cho doanh nghiệp thực sự có năng lực, có thiết kế khai thác với công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, có đầy đủ phương pháp an toàn, bảo vệ môi trường sinh thái (cấm tuyệt đối nổ mìn khai thác). + Mỗi mỏ khai thác chỉ cấp phép cho một doanh nghiệp, không chia năm xẻ bảy mỏ đá cho nhiều chủ. + Nhà nước cần có chính sách khuyến khích ngành sản xuất đá ốp lát phát triển: bỏ thuế nhập khẩu đá khối về gia công chế biến phục vụ xây dựng trong nước và xuất khẩu; cho phép khai thác ở các mỏ đá có trữ lượng lớn. + Cần xem xét lại bảng thuế tài nguyên, không tính đồng loạt cho các loại đá mà cần phân ra những loại có thuế suất khác nhau tùy theo chất lượng đá. + Cần rà soát, xây dựng đồng bộ tiêu chuẩn chất lượng đá xây dựng khối, sản phẩm sau chế biến, quy trình, quy phạm khai thác chế biến đá, bảo vệ môi trường của ngành công nghiệp đá ốp lát hiện nay. + Quan tâm, thúc đẩy hình thành Tổng hội đá xây dựng Việt Nam để tập hợp lực lượng hỗ trợ cho nhau tổ chức khai thác chế biến với quy mô lớn, công nghệ hiện đại, nâng cao trình độ kỹ thuật để sản xuất đá chất lượng tốt… 3.4.2. Kiến nghị về công tác xúc tiến xuất khẩu Theo định hướng phát triển kinh tế tới năm 2020, Chính phủ đặt ưu tiên cho việc thúc đẩy xuất khẩu lên hàng đầu. Đây là một nền tảng quan trọng thúc đẩy hoạt động xuất khẩu đá xây dựng phát triển trong những năm gần đây. Tuy nhiên, ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới khiến cho hoạt động xuất khẩu đá xây dựng tụt giảm nghiêm trọng, để thúc đẩy xuất khẩu đá xây dựng trong thời gian tới, Nhà nước cần có những biện pháp xúc tiến xuất khẩu như: + Xem xét lùi thời hạn thu thuế xuất khẩu đá xây dựng vào một thời điểm thích hợp. + Quan tâm phát triển các ngành phụ trợ như: xây dựng giao thông đường xá, cầu cảng để thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa xuất khẩu, tiết kiệm chi phí và thời gian. + Các thủ tục hải quan cần được tinh giản hơn nữa tạo điều kiện cho hàng hóa sớm được thông quan. + Nhà nước cần có những kênh thông tin chính thống về thị trường nước ngoài, có biện pháp hỗ trợ kịp thời cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp tham gia xuất khẩu tại nước ngoài. + Tăng cường hoạt động của các tham tán thương mại trong việc tìm kiếm đối tác nhập khẩu, nhất là tại các thị trường mà nhu cầu đá xây dựng tăng trưởng nhanh chóng trong thời gian qua. Với những biện pháp hỗ trợ kịp thời và thiết thực, cùng với những tín hiệu lạc quan của nền kinh tế thế giới, ngành xuất khẩu đá xây dựng của chúng ta sẽ sớm đạt được mục tiêu đặt ra, góp phần vào sự phát triển kinh tế đất nước. KẾT LUẬN Mặt hàng đá xây dựng là một mặt hàng còn nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai. Tận dụng tốt lợi thế về nguồn nguyên liệu phong phú và kinh nghiệm trong công tác xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, Artexport có thể phát triển mặt hàng này theo cả chiều sâu và chiều rộng. Mặc dù, kim ngạch xuất khẩu đá xây dựng năm 2008 không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, nhưng giữ vững và phát huy thị trường ngay cả trong thời kỳ suy thoái là một thành tích mà không phải công ty nào cũng làm được. Trong tương lai gần, nếu giải quyết tốt những bất cập còn tồn tại trong quá trình sản xuất chế biến và kinh doanh đá xây dựng, mặt hàng này sẽ trở thành một mặt hàng chủ lực của Công ty, đem lại doanh thu lớn và lợi nhuận cao. Báo cáo này là kết quả sau một thời gian thực tập của tôi tại Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Arteport. Vì lí do thời gian có hạn, đồng thời do chưa có kinh nghiệm thực tế nên báo cáo này không thể tránh khỏi thiếu xót. Tôi mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và những cá nhân, tổ chức quan tâm tới đề tài này. Hy vọng bản báo cáo này góp một phần vào việc hoàn thiện hoạt động kinh doanh xuất khẩu đá xây dựng tại Artexport. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Artexport – 40 năm xây dựng và trưởng thành GS. TS. Nguyễn Thành Độ và PGS. TS. Nguyễn Ngọc Huyền (chủ biên), Quản trị kinh doanh (nguyên lý chung cho các loại hình doanh nghiệp), Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, 2007 GS. TS. Nguyễn Thành Độ và PGS. TS. Nguyễn Ngọc Huyền, Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp, Nxb Lao động – Xã hội, 2002 PGS.TS. Trương Đoàn Thể, Quản trị sản xuất và tác nghiệp, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, 2007 PGS.TS. Lê Văn Tâm, Quản trị chiến lược, Nxb Thống kê, 2000 GS.TS. Nguyễn Đình Phan, Quản trị chất lượng, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, 2005 GS. TS. Trần Minh Đạo, Marketing căn bản, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, 2006 Website: www.artexport.com.vn MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Danh mục nguyên vật liệu 14 Bảng 1.2: Bảng cân đối kế toán năm 2008 15 Bảng1.3: Kết quả hoạt động kinh doanh của Artexport giai đoạn 2006 – 2008 22 Bảng1.4: Thu nhập bình quân của người lao động giai đoạn 2004 – 2008 24 Bảng1.5: Một số chỉ tiêu tài chính cơ bản giai đoạn 2006 – 2008 25 Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu đá xây dựng của Artexport giai đoạn 2006 – 2008 28 Bảng 2.2: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đá xây dựng của Artexport giai đoạn 2006 – 2008 29 Bảng 2.3: Doanh thu từ các thị trường xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2008 30 Bảng3.1: Chỉ tiêu kế hoạch về doanh số của mặt hàng đá xây dựng giai đoạn 2009 – 2012 47 DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 1.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty: 9 Hình 1.2: Biểu đồ tăng trưởng Artexport giai đoạn 2004 – 2008: 23 Hình 1.3:Biểu đồ tăng trưởng thu nhập bình quân người/tháng 24 Hình 2.1: Mô hình hoạt động trong ngành xuất khẩu đá xây dựng tại Việt Nam 27 Hình 2.2: Kim ngạch xuất khẩu đá xây dựng của Artexport giai đoạn 2006 – 2008 28 Hình 2.3: Biểu đồ cơ cấu thị trường xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2008 31 Hình 3.1: Biểu đồ mức tăng trưởng dự kiến của mặt hàng đá xây dựng giai đoạn 2009 – 2012 47 Hình 3.2: Mô hình năm lực lượng của M.Porter 49 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26289.doc