Lời nói đầu
Sau hơn 15 năm thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, hội nhập và phát triển. Kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn. Có được những thành tựu đó một phần la do công đóng góp của hoạt động xuất nhập khẩu. Trong thời gian qua, hoạt động xuất khẩu đã đem về cho đất nước lượng ngoại tệ đáng kể, góp phần tăng dự trữ ngoại tệ, trang trải một phần cho nhu cầu nhập khẩu, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta hội nhập với nền kinh tế khu vực
121 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1421 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hoạt động thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ (L/C) tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và trên thế giới.
Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam không thể đạt được những thành tựu như vậy nếu không có sự hậu thuẫn từ phía các ngân hàng thương mại, trong đó không thể kể đến Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán xuất khẩu nói riêng luôn là thế mạnh của NHNTVN. Hiện nay, trong các phương thức thanh toán quốc tế, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ được xem là phương thức thanh toán thông dụng và an toàn nhất. Với quy trình nghiệp vụ chặt chẽ, trang thiết bị hiện đại và quan trọng hơn cả là đội ngũ thanh toán viên được trang bị đầy đủ kiến thức, trình độ nghiệp vụ chuyên môn, NHNTVN luôn duy trì được vị trí của mình là ngân hàng có bề dày kinh nghiệm nhất và là ngân hàng chiếm tỷ trọng cao nhất trong cả nước về doanh số thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ.
Qua quá trình thực tập tại NHNTVN, được làm quen và tìm hiểu về hoạt động thanh toán xuất khẩu của ngân hàng, em đặc biệt chú ý đến phương thức tín dụng chứng từ. Nhằm đưa ra một vài giải pháp nhằm hoàn thiện hơn công tác thanh toán xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ tại NHNTVN và vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn, em chọn đề tài: " Giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam" làm chuyên đề thực tập cho mình.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 phần:
Chương I: Cơ sở lý luận khoa học về thanh toán quốc tế
Chương II: Thực trạng hoạt động thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh toán xuất khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Với thời gian thực tập 4 tháng và vốn kiến thức tĩch luỹ được còn hạn chế, bởi vậy chuyên đề thực tập của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý của các thầy giáo và các cán bộ phòng thanh toán xuất khẩu -VCB.
Để hoàn thành chuyên đề thực tập này, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ Phòng thanh toán xuất khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương trung ương và sự hướng dẫn, bảo ban tận tình của thầy giáo PGS.TS Nguyễn Duy Bột và thầy giáo Th.S Nguyễn Trọng Hà.
Chương I: Cơ sở lý luận về thanh toán quốc tế
I. Khái niệm và vai trò của thanh toán quốc tế
1. Khái niệm về thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả tiền tệ phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các nước khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại các ngân hàng.
Sự cần thiết của quan hệ thanh toán phát sinh từ quá trình quốc tế hoá ngày càng gia tăng về thương mại, công nghiệp, dịch vụ. Quan hệ thanh toán quốc tế dựa trên ngoại thương xuất nhập khẩu, kinh doanh tiền tệ để hưởng chênh lệch lãi suất và tỷ giá.
Cơ sở kỹ thuật để thực hiện quan hệ thanh toán quốc tế là mạng thanh toán quốc tế giữa các thành viên tham gia là các quốc gia riêng biệt.
Khác với thanh toán nội địa (trong phạm vi một nước) thanh toán quốc tế thường gắn với việc trao đổi đông tiền của nước này sang đồng tiền của nước khác. Nội tệ với chức năng là phương tiện thanh toán theo luật định trong phạm vi một nước, sẽ không thể vượt qua giới hạn sử dụng của nó nếu như hai bên liên quan trong hợp đồng mua bán không có một thoả thuận cụ thể nào về vấn đề đó. Do vậy khi ký kết hợp đồng thương mại, tín dụng, hay dịch vụ các bên thường đàm phán, thống nhất về ngoại tệ nào được dùng trong giao dịch là đồng tiền của nước người bán hay người mua hay có thể là đồng tiền của nước thứ ba.
Các đồng tiền được sử dụng trong thanh toán quốc tế chủ yếu là các laọi ngoại tệ mạnh có khả năng chuyển đổi tự do như đôla Mỹ (USD), bảng Anh (GBP), mác Đức (DEM), yên Nhật (JPY), frăng Pháp (FRF). Đặc biệt với sự ra đời của đồng tiền chung châu Âu (EURO) ngày 1/1/1999 của liên minh châu Âu sẽ tạo ra khả năng cạnh tranh gay gắt trên thị trường tiền tệ thanh toán quốc tế để quyết định đồng tiền nào USD hay EURO sẽ chiếm tỷ lệ cao hơn trong giao dịch thanh toán quốc tế.
Hiện nay, phần lớn việc chi trả trong thanh toán quốc tế được thực hiện thông qua hệ thống giao dịch SWIFT (Hiệp hội viễn thông tài chính quốc tế). Theo thống kê của tổ chức này thì các giao dịch tài chính tiền tệ quốc tế được thực hiện qua mạng SWIFT chiếm 72% các giao dịch tài chính tiền tệ quốc tế hàng ngày, còn lại được thực hiện thông qua con đường điện tín, bưu điện dưới các hình thức uỷ nhiệm thu, chi hộ lẫn nhau giữa các ngân hàng, tỷ lệ trả bằng tiền mặt trong thanh toán quốc tế chiếm một phần không đáng kể.
Ngoài ngoại tệ là yếu tố cơ bản không thể thiếu trong thanh toán quốc tế, một yếu tố không kém phần quan trọng trong hoạt động này là các chứng từ. Chứng từ là cơ sở để người thụ hưởng có quyền được đòi tiền và là căn cứ để chấp nhận nợ hoặc từ chối thực hiện nghĩa vụ chi trả của mình. Các chứng từ được tạo lập theo các luật lệ, tập quán của mỗi một quốc gia và phù hợp với thông lệ quốc tế cho mỗi loại chứng từ được đưa ra sử dụng. Chúng có thể trở thành đối tượng của một loại hình thương mại đặc biệt thông qua việc mua bán của các ngân hàng, các tổ chức tiền tệ. Số lượng và loại chứng từ cũng như hình thức cách tạo lập phụ thuộc vào phương thức thanh toán mà các bên lực chọn.
Như trên đã phân tích thì phần lớn các giao dịch chi trả trong thanh toán quốc tế đều thông qua hệ thống tài khoản tại các ngân hàng. Đồng tiền thanh toán có thể là ngoại tệ có thể là bản tệ, song một khi đồng tiền bản tệ được đưa vào sử dụng trong hợp đồng mua bán thì nhất thiết nó phải là ngoại tệ của phía bên kia, hoặc đồng tiền của nước thứ ba, chủ yếu là ngoại tệ mạnh. Khác với thanh toán nội địa, thanh toán quốc tế thường gặp nhiều rủi ro do biến động của tiền tệ, sự bất ổn chính trị của một quốc gia, do vị trí địa lý của các bên tham gia cách xa nhau làm hạn chế việc tìm hiểu khả năng thanh toán nợ của con nợ. Do vậy các nghiệp vụ đảm bảo, bảo lãnh của ngân hàng, hoạt động tín dụng của các tổ chức tiền tệ, tài chính quốc tế ra đời như là một yếu tố không thể thiếu để hỗ trợ cho hoạt động thanh toán quốc tế.
Hoạt động thanh toán quốc tế có thể mô hình hoá dưới dạng đơn giản như sau:
Người bán
Người mua
Giao hàng hoặc dịch vụ
Ngân hàng trung gian
Uỷ Báo
nhiệm có
chi
Ngân hàng bên bán
Ngân hàng bên mua
Thông báo trả tiền
Qua việc nêu lên một số vấn đề chung về thanh toán quốc tế, chúng ta có thể thấy nó là một mắt xích không thể thiếu trong dây chuyền hoạt động kinh tế quốc dân. Thanh toán quốc tế là khâu kết thúc của một giao dịch mua bán hàng hoá hay dịch vụ, là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng thông qua việc chi trả lẫn nhau trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Thanh toán quốc tế đã góp phần chủ yếu để giải quyết mối quan hệ hàng hoá tiền tệ quốc tế, tạo nên sự liên tục của quá trình tái sản xuất và đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hoá quốc tế. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề này, chúng ta chỉ xem xét thanh toán quốc tế như là việc chi trả những khoản ngoại tệ, tín dụng có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đã được thoả thuận trong hợp đồng ngoại thương.
2. Vai trò của thanh toán quốc tế
2.1. Vai trò của thanh toán quốc tế đối với hoạt động kinh tế quốc dân
Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế sản xuất và trao đổi hàng hoá trên thế giới gắn liền với sự ra đời, phát triển của tiền tệ và lưu thông tiền tệ. Trong quá trình trao đổi hàng hoá, tiền tệ ra đời với chức năng là trung gian trao đổi hàng hoá đặc biệt, làm vật ngang giá chung của các loại hàng hoá khác. Việc xuất hiện đồng tiền trong lưu thông và trao đổi hàng hoá đã tạo tiền đề và thúc đẩy mậu dịch quốc tế phát triển. Cùng với mối quan hệ giữa các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu ngày càng trở nên đa dạng và phong phú. Sự không nhất trí về thờì gian của các chu trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, hoạt động thanh toán quốc tế - khâu kết thúc một giao dịch ngoại thương cũng trở nên bức thiết và thường xuyên hơn, yêu cầu phảI được xem xét để hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế theo luật lệ quốc gia cũng như phảI phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng đòi hỏi của thị trường thương mại hoá toàn cầu là hết sức cần thiết.
Sự trỗi dậy một cách nhanh chóng và mạnh mẽ của nền kinh tế ở một số nước trên thế giới trong thập kỷ cuối của thế kỷ 20 đã chứng minh rằng kinh tế của một nước không thể phát triển với một chính sách đóng cửa, trông vào tích luỹ và trao đổi trong nước. Mà phảI biết phát huy mặt mạnh trong nước, tận dụng khả năng có lợi từ bên ngoàI, biết phát huy lợi thế so sánh, biết kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong hợp tác kinh tế quốc tế. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: "Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc" và "Tiếp tục đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa phương hoá và đa dạng hoá các mối quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới".
Thanh toán quốc tế phản ánh sự vận động có tính chất độc lập tương đối của giá trị trong qua trình chu chuyển hang hoá và tư bản giữa các quốc gia. Như vậy, nếu khâu thanh toán quốc tế được thực hiện nhanh chóng, an toàn, chính xác thì nó đã trực tiếp tác động vào việc rút ngắn thời gian chu chuyển vốn, giảm bớt và khắc phục những rủi ro liên quan tới sự biến động của tiền tệ, tới khả năng thanh toán của con nợ, tạo điều kiện cho việc phát triển và mở rộng hoạt động ngoại thương của mỗi nước.
Vị trí và tầm quan trọng của hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng được khẳng định trong hoạt động kinh tế quốc dân nói chung và hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mỗi quốc gia đều đặt hoạt động kinh tế đối ngoại lên hàng đầu, coi hoạt động kinh tế đối ngoại là con đường tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế nước mình.
Thanh toán quốc tế là khâu quan trọng trogn quá trình mua bán hàng hoá, dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Nếu không có hoạt động thanh toán quốc tế thì hoạt động kinh tế đối ngoại khó tồn tại và phát triển được.
Nếu tổ chức hoạt động thanh toán quốc tế được tiến hành nhanh chóng, an toàn, chính xác sẽ giảI quyết được mối quan hệ lưu thông hang hoá-tiền tệ giữa người mua và người bán một cách trôI chảy và hiệu quả. Về mặt kinh doanh, thanh toán tiền hàng thể hiện chất lượng của kinh doanh, nói lên hiệu quả kinh tế và tài chính trong hoạt động của các doang nghiệp.
Trong điều kiện tiền tệ thường xuyên biến động, khả năng thanh toán của con nợ bấp bênh, rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng mua bán ngày càng nhiều, vị trí và vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế cũng vì thế mà được khẳng định hơn. Trong đó các yếu tố về tiền tệ, về phương thức thanh toán, biện pháp đảm bảo hối đoáI và đảm bảo thu được tiền hàng đối với nhà xuất khẩu… cần được xem xét nghiên cứu kỹ lưỡng để lựa chọn áp dụng cho linh hoạt với mỗi trường hợp.
2.2.Vai trò của thanh toán quốc tế đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Đối với hoạt động ngân hàng, việc hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế có vị trí và vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là một dịch vụ thanh toán thuần tuý mà nó được coi là một mặt không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó bổ sung và hỗ trợ cho các mặt hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế của một ngân hàng phát triển đáp ứng được đòi hỏi của khách hàng sẽ là điều kiện tốt để thu hút thêm khách về giao dịch, trên cơ sở đó mà ngân hàng có thể tăng qui mô hoạt động của mình.
Nhờ đẩy mạnh hoạt động thanh toán quốc tế mà ngân hàng có thể mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cũng như tăng cường được nguồn vốn huy động đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ do tạm thời quản lý được vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ thanht oán quốc tế qua ngân hàng.
Hoạt động thanht oán quốc tế tốt giúp cho ngân hàng phát triển được các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ ngân hàng quốc tế khác. Nhờ có nguồn vốn ngoại tệ thu về lớn và đa dạng thông qua nghiệp vụ thanh toán quốc tế.
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế phát triển sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao được uy tín của mình trên thị trường quốc tế, trên cơ sở đó mà có thể khai thác được nguồn vốn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài và nguồn vốn trên thị trường tài chính thế giới nhằm đáp ứng cao hơn nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho ngân hàng tăng thu nhập và tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị trường, đồng thời nó giúp cho hoạt động ngân hàng vượt qua khỏi phạm vi quốc gia và hoà nhập với hệ thống ngân hàng thế giới.
Tóm lại, thanh toán quốc tế trong hoạt động ngân hàng nói riêng và trong hoạt động kinh tế quốc dân nói chung có một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó là một mắt xích không thể thiếu trogn dây chuyền hoạt động kinh tế kể từ khi chuẩn bị các bước cần thiết để sản xuất ra hàng hoá tới khi bán hàng thu tiền về cho nhà xuất khẩu hay chi tiền ra để nhập hàng về phục vụ sản xuất, đời sống con người sao cho đủ số lượng, đúng chất lượng. Nghiên cứu nội dung và quá trình phát triển của nghiệp vụ thanh toán quốc tế, lựa chọn và xử lý yếu tố trong nội dung của nó. Hoàn thiện các qui trình nghiệp vụ kỹ thuật sao cho phù hợp với những đặc điểm tính chất nền kinh tế mỗi quốc gia, đáp ứng được yêu cầu, mục đích tăng trưởng nền kinh tế lấy hoạt động kinh tế đối ngoại làm nòng cốt trước hết là nhiệm vụ của Nhà nước, sau đó là nhiệm vụ của các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, của hệ thống ngân hàng đặc biệt là hệ thống các ngân hàng thương mại - những người trực tiếp tham gia vận hành nghiệp vụ thanh toán quốc tế vào guồng máy sản xuất kinh doanh để tạo ra lợi nhuận.
II. Quá trình phát triển nghiệp vụ thanh toán quốc tế.
1. Giai đoạn thanh toán quốc tế tự do và nhiều bên trước khủng hoảng TBCN (1929).
Đây là thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, dựa trên cơ sở của chế độ bản vị vàng của các quốc gia. Trong thời kỳ này cán cân trả tiền của các nước TBCN tương đối ổn định, mặt khác chế độ tiền tệ tín dụng cũng ổn định tương đối. Do đó thanh toán quốc tế TBCN cũng ở vào giai đoạn ít có biến động. Tự do và nhiều bên là đặc điểm chủ yếu nhất của hoạt động thanh toán quốc tế lúc này và nó hoàn toàn nhất trí với đặc điểm của chế độ bản vị vàng, chế độ tín dụng quốc tế lúc đó.
Nội dung của hoạt động thanh toán quốc tế tự do và nhiều bên bao gồm 5 yếu tố sau:
1.1. Tự do mua bán ngoại hối.
Dưới chế độ thanh toán này các nguồn ngoại tệ thu, chi bất kể do nguyên nhân nào với mục đích gì đều có thể mua bán bất kỳ lúc nào trên thị trường trong và ngoài nước. Tự do mua bán ngoại hối làm cho tuyệt đại đa số bộ phận nghiệp vụ ngoại hối đều tập trung tại ngân hàng thương mại. Việc cho vay và vay nợ giữa các nước được bù trừ lẫn nhau ở mức cao nhất, giảm được đến mức thấp nhất việc vận chuyển tiền tệ thế giới.
1.2. Vốn ngắn hạn và dài hạn tự do lưu động trên thế giới.
Với nội dung này không những mọi nhu cầu về tư bản của các nước được thoả mãn mà còn điều hoà được cung cầu về ngoại hối và cân bằng được mức lãI suất trên thế giới. Tác dụng của điều hoà cung cầu về ngoại hối và cân bằng mức lãI suất là nguyên nhân làm cho việc lưu thông tư bản ngắn hạn và dàI hạn trên quốc tế trở thành biện pháp quan trọng nhất để cân bằng cán cân trả tiền quốc tế của các nước TBCN trong thời kỳ này.
1.3. Tự do xuất nhập khẩu vàng.
Trong điều kiện nếu cung và cầu ngoại hối không cân bằng nhau, các nước đều có thể tự do xuất nhập khẩu vàng với tư cách là tiền tệ thế giới. Tự do xuất nhập khẩu vàng đã làm thoả mãn hơn về nhu cầu ngoại hối và làm cho thanh toán quốc tế được tiến hành một cách thuận lợi.
1.4. Thị trường tự do về ngoại hối và vàng.
Tự do mua bán ngoại hối, tự do lưu thông tư bản ngắn hạn và dài hạn, tự do xuất nhập khẩu vàng không những được pháp luật bảo đảm mà còn có thị trường tự do về ngoại hối và vàng làm cơ sở nghiệp vụ. Trên những thị trường này bất cứ người nào, không kể nguyên nhân gì đều có thể mua bán ngoại hối và vàng một cách tự do, tự do vay mượn tư bản ngắn hạn và dài hạn một cách không hạn chế để thoả mãn nhu cầu về thanh toán quốc tế.
1.5. Thanh toán quốc tế nhiều bên.
Các mối quan hệ kinh tế trong đó có vay và trả nợ giữa các nước tư bản chủ nghĩa được thanh toán theo cơ chế tự do bù trừ với nhau. Đó chính là việc thanh toán quốc tế tự do và nhiều bên trong giai đoạn này.
2. Giai đoạn thanh toán quốc tế trong khuôn khổ hiệp định (sau 1933).
Điển hình của giai đoạn này là vào trước và sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, khởi đầu từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, cán cân thanh toán quốc tế của nhiều nước tư bản trong giai đoạn này thâm hụt lớn. Ngoại hối không đủ để cung cấp cho những nhu cầu đối ngoại, tỷ giá hối đoái lên cao, vàng chạy ra nước ngoài, hệ thống tiền tệ, tín dụng thế giới bị khủng hoảng. Kết quả là chế độ thanh toán quốc tế nhiều bên và tự do cũng bị lâm vào tình trạng khủng hoảng và sau đó là tan vỡ, chế độ quản chế ngoại hối, chế độ thanh toán "Clearing" tay đôi (bù trừ song phương) bắt đầu xuất hiện.
Trước hết là hiệp định thanh toán "Clearing" thuần tuý. Đây là loại hiệp định mà hai bên hoàn toàn không phải trả ngoại tệ cho nhau đối với bất cứ khoản chi nào hay trong bất cứ trường hợp nào.
Sau đó là hiệp định trả tiền "Clearing" tay đôi quy định hai bên phảI thanh toán cho nhau số tiền chênh lệch bằng ngoại hối. Hiệp định trả "Clearing" đầu tiên được ký kết giữa Thuỵ Sỹ và áo ngày 12/11/1931, đến năm 1939 đã có tới 38 nước ký 178 hiệp định trả tiền "Clearing". Thanh toán mậu dịch quốc tế tiến hành bằng những hiệp định trả tiền "Clearing" ngày càng tăng: năm 1937 chiếm 12% tổng kim ngạch mậu dịch quốc tế và đến những năm sau chiến tranh thế giới lần thứ hai con số này đã lên tới 60%.
Bên cạnh các hiệp định thanh toán "Clearing" được ký kết giữa các nước, các hệ thống tiền tệ quốc tế cũng lần lượt ra đời có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thanh toán quốc tế. Hiệp định tiền tệ quốc tế thống nhất Bretton Woods năm 1944 đưa ra một số nguyên tắc quan trọng như đồng đô la Mỹ (USD) là đồng tiền chuẩn quốc tế, được đổi ra vàng (1 ounce = 35 USD); tỷ giá hối đoái giữa các nước thành viên được hình thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng chính thức giữa tiền tệ của các nước thành viên và USD, nó không được phép biến động quá phạm vi +1% của tỷ giá chính thức đã đăng ký tại Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF).
Sự ra đời của hệ thống tỷ giá hối đoái mới này chỉ duy trì được sự ổn định của tỷ giá các đông tiền cho đến năm 1968. Với sự kiện câu lạc bộ vàng Paris giảI thể tháng 3/1968 và chế độ hai giá vàng hình thành, việc chuyển đổi USD ra vàng bị công phá mãnh liệt. Giá vàng tăng vọt, USD mất giá dẫn tới cuộc đào thảI USD, săn lùng JPY và DEM. Cho đến tháng 8/1971, nước Mỹ tuyên bố ngừng việc đổi đô la Mỹ ra vàng, từ đó hệ thống tiền tệ Bretton Woods sụp đổ.
Sau sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ Bretton Woods là sự ra đời của hiệp định Smithsonian, theo đó Mỹ đã chính thức phá giá đồng USD 7,95% (1 ounce = 38USD). Đồng thời biên độ giao động của tỷ giá hối đoáI giữa các đồng tiền được nới rộng lên +2,25%. Cho đến tháng 2/1973, sau khi Mỹ tuyên bố phá giá đồng USD lần thứ hai 10% thì hiệp định Smithsonian hoàn toàn sụp đổ. Từ thời điểm này quan hệ tiền tệ giữa các nước chuyển từ cơ chế tỷ giá cố định sang cơ chế thả nổi.
Tóm lại, đặc trưng về hoạt động thanh toán quốc tế giai đoạn trong khuôn khổ hiệp định là một khi hoạt động thanh toán được thực hiện trong khuôn khổ hiệp định Chính phủ thì nó trở thành chế độ thanh toán quốc tế mang tên của hiệp định đó.
3.Đặc trưng của hoạt động thanh toán quốc tế trong giai đoạn hiện nay
Hoạt động thanh toán quốc tế tồn tại trong mối quan hệ mật thiết với các hoạt động khác trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt nội dung chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại, chính sách tiền tệ tín dụng, chế độ quản lý ngoại hối của mỗi quốc gia. Đồng thời việc tổ chức quản lý và thực hiện các hoạt động này phảI dựa trên cơ sở luật quốc gia, tập quán quốc gia, các thông lệ thực hành quốc tế như UCP 500, URC 522 của phòng thương mại quốc tế và các hiệp định được ký kết giữa các nước. Do vậy ở mỗi giai đoạn khác nhau của sự phát triển kinh tế thế giới nói chung và mỗi quốc gia nói riêng thì hoạt động thanh toán quốc tế cũng mang sắc thái và đặc trưng riêng. Giai đoạn hiện nay thì hoạt động thanh toán quốc tế có những đặc trưng chủ yếu sau.
3.1. Đồng đô la Mỹ (USD) không còn là đồng tiền chuẩn duy nhất trong thanh toán quốc tế.
Từ sau sự kiện tan vỡ của hệ thống tiền tệ quốc tế thống nhất Bretton Woods (1971), đồng đô la Mỹ không còn được tự do đổi ra vàng, chế độ tỷ giá cố định giữa đồng tiền các quốc gia với đồng đô la Mỹ bị phá vỡ thì đồng đô la Mỹ không còn là đồng tiền chuẩn quốc tế. Trong thanh toán quốc tế hiện nay, ngoàI đồng đô la Mỹ còn sử dụng nhiều đồng tiền của các quốc gia khác. Việc sử dụng đồng tiền nào là tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của các bên trong hợp đồng kinh tế. Trong thực tế thấy rằng các đồng tiền mạnh, có khả năng chuyển đổi cao như USD, FRF, DEM, JPY, GBP… được nhiều nước sử dụng trong các hợp đồng ngoại thương, thanh toán tín dụng quốc tế và dự trữ ngoại hối của các nước. Đặc biệt từ 1/1/1999, đồng tiền chung châu Âu ra đời (EURO) đang là đồng tiền mới hấp dẫn trên thị trường thanh toán quốc tế. Trong tương lai một vàI năm nữa sẽ thay thế cho nhiều đồng tiền của các nước trong khối liên minh kinh tế tiền tệ châu Âu (15 nước châu Âu trong đó có 11 nước tham gia đầu tiên).
Đặc điểm nổi bật của các đồng tiền các quốc gia này là các đồng tiền này đều không còn được đổi ra vàng, hàm kim lượng công bố trước đây của nó đều không có giá trị về mặt kinh tế, chỉ mang giá trị danh nghĩa. Hầu hết các đồng tiền áp dụng cơ chế thả nổi nên giá trị của nó thường xuyên biến động và bị chi phối bởi nhiều yếu tố như lạm phát, quan hệ cung cầu, lãi suất, các chính sách tài chính tiền tệ của các quốc gia đó. Tỷ giá giữa các đồng tiền biến động từng ngày, từng giờ, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định và an toàn trong hoạt động kinh tế và thanh toán quốc tế.
Để thiết lập trật tự cho các quan hệ trao đổi mậu dịch, quan hệ thanh toán quốc tế và các quan hệ kinh tế quốc tế khác giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới đã xuất hiện các liên minh tiền tệ, tín dụng quốc tế khu vực cùng với sự thống nhất tiền tệ khu vực và thành lập các ngân hàng trung ương khu vực. Như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí khi chuyển đổi giao dịch giữa các nước, tránh được rủi ro đối với việc giao dịch tiền tệ giữa các nước, lãI suất sẽ giảm và hội tụ theo một mức chung, các doanh nghiệp sẽ không sợ bị rủi ro nhiều về giá cả, dễ dàng trong việc ra các quyết định đầu tư, kinh doanh.
3.2. Trên thế giới vẫn còn tồn tại hai chế độ quản chế ngoại hối đối đầu nhau.
Vấn đề quản lý ngoại hối là một nội dung rất quan trọng trong hoạt động ngoại thương và thanh toán quốc tế. Mặc dù hiện nay trong nền kinh tế hàng hoá, các chủ thể tham gia trong các hợp đồng mua bán đều tuân thủ theo các nguyên tắc "bình đẳng", " hai bên cùng có lợi", "tự do cạnh tranh" song các mối quan hệ về tiền tệ, cơ chế thanh toán ở mỗi nước lại có những đặc điểm riêng. Các đặc điểm này được thể hiện trong các chính sách quản chế ngoại hối đại diện cho hai nhóm nước khác nhau:
Nhóm các nước tư bản phát triển thực hiện chế độ ngoại hối tự do, các đồng tiền quốc gia được tự do tham gia vào thanh toán quốc tế, tự do chuyển đổi từ đông tiền nước mình sang đồng tiền nước ngoàI, tự do chuyển vốn ra nước ngoàI hoặc từ nước ngoàI vào trong nước. Một số nước như Mỹ, Pháp, Anh các chủ thể kinh tế tự do mở tàI khoản ở nước ngoàI, tại các nước này không còn chế độ cấp giấy phép ngoại hối.
Nhóm các nước còn lại, đại bộ phận là các nước đang phát triển và kém phát triển, thực hiện chế độ quản chế ngoại hối nghiêm ngặt, không được mua bán ngoại hối tự do, không được mở tàI khoản ở ngân hàng nước ngoàI nếu chưa có giấy phép của cơ quan quản lý có thẩm quyền của Nhà nước. Các đồng tiền của các nước này chưa có khả năng chuyển đổi nên chưa được tham gia vào quan hệ thanh toán quốc tế.
3.3. Các liên minh tiền tệ, tín dụng ra đời và ngày càng có vai trò quan trọng đối với các quốc gia.
Dưới tác động của nhiều yếu tố như lạm phát, tình hình cán cân thanh toán quốc tế, tình hình cung cầu ngoại tệ, mức lãi suất, các chính sách tài chính tiền tệ của mỗi quốc gia, tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền thường xuyên biến động, khả năng thanh toán bấp bênh dẫn đến rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế.
Trước tình hình đó, bên cạnh vai trò của ngân hàng nhà nước hoặc cơ quan quản lý ngoại hối của nhà nước trực tiếp tham gia mua bán ngoại hối để điều tiết quan hệ cung cầu trên thị trường, để điều chỉnh tỷ giá lên hoặc xuống hoặc ổn định theo mức độ mong muốn, tuy nhiên muốn thực hiện được chính sách này thì ngân hàng trung ương phảI có một lượng dự trữ ngoại hối lớn. Nếu ở một nước nào đó tình trạng cán cân thanh toán quốc tế liên tục bị thiếu hụt thì khó có thể thực hiện được chính sách này. Để giảI quyết vấn đề đó một số tổ chức tàI chính, tiền tệ, tín dụng quốc tế ra đời nhằm giúp các nước cảI thiện cán cân thanh toán, ổn định tỷ giá hối đoái. Trong các tổ chức tàI chính thì quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và ngân hàng thế giới (WB) đóng vai trò hết sức quan trọng, bằng việc cho vay của mình IMF và WB không những đã hỗ trợ cho sự phục hồi kinh tế ở các nước chịu cảnh tàn phá của chiến tranh mà còn giúp đỡ các nước thành viên trong việc cân bằng cán cân thanh toán bị thâm hụt của họ.
Bên cạnh đó còn có các ngân hàng quốc tế khu vực như Ngân hàng phát triển liên Mỹ-IADB, Ngân hàng phát triển châu Phi-AFBD, Ngân hàng phát triển châu á. Những tổ chức này ra đời nhằm mục đích cấp tín dụng, bảo trợ và cảI thiện cán cân thanh toán của các nước trong khu vực.
Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) là một tổ chức tài chính quốc tế ra đời trong bối cảnh khởi đầu chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Một trong những chức năng hoạt động của BIS là tham gia với tư cách là người bảo trợ hoặc đại lý thanh toán quốc tế mà các nước thanh toán đã thoả thuận uỷ nhiệm. Mặc dù có bề dày hơn 50 năm hoạt động và mong mỏi tự khẳng định là một tổ chức siêu quốc gia về điều chỉnh độc quyền nhà nước, kết quả mà BIS đạt được vẫn tỏ ra khiêm tốn, trong thập kỷ gần đây hoạt động chủ yếu trong phạm vi hợp tác tiền tệ EEC.
Bên cạnh các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế, một số nước ký hiệp định hỗ trợ tín dụng như hiệp định SWAP (Swing Agreement Of Payment) giữa Mỹ và 14 nước tư bản. Nội dung của hiệp định này là các nước sử dụng tín dụng SWAP dựa vào vốn dự trữ ngoại hối của nhau để cứu nguy cho đồng tiền của một nước nào đó bị nguy cơ mất giá.
Hiệp hội viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT) ra đời tháng 5/1973 với 239 ngân hàng đầu tiên tại châu Âu và Bắc Mỹ. HIện nay SWIFT đã có trên 6600 thành viên là các tổ chức tài chính mà chủ yếu là các ngân hàng thuộc 184 nước. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hiện nay là ngân hàng duy nhất của Việt Nam là thành viên của hiệp hội này. Trung bình mỗi ngày có trên 4 triệu bức điện gửi qua mạng SWIFT, trong đó điện thanh toán chiếm khoảng 72,5%.
Sự ra đời của mạng SWIFT là một bước ngoặt lớn trong hoạt động thanh toán quốc tế của hệ thống ngân hàng. Nhờ mạng SWIFT mà thông tin giữa các ngân hàng được chuyển nhanh hơn, chính xác hơn, an toàn hơn và chi phí rẻ hơn lại không giới hạn trên phạm vi toàn cầu. Việc sử dụng các mẫu điện SWIFT được tiêu chuẩn hoá bằng các trường bức điện với ngôn ngữ thống nhất, ngắn gọn rõ ràng đã tăng tính thống nhất, giảm tối thiểu các lỗi dễ mắc phảI, rút ngắn thời gian thao tác đánh điện và duyệt điện. Các nghiệp vụ ngân hàng được cụ thể hoá dễ sử dụng không chỉ trong phạm vi ngân hàng mà còn phục vụ cho việc truyền thông tin giữa ngân hàng và khách hàng.
III. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế.
1. Cán cân thanh toán quốc tế.
Sự hợp tác và tham gia phân công lao động quốc tế tăng lên không những làm cho trao đổi hàng hoá trong nước gia tăng mà còn làm cho trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước phát triển, các liên hệ kinh tế giữa các nước ngày càng mật thiết và dần dần hình thành một thị trường thế giới thống nhất.
Trên cơ sở phát triển của các mối quan hệ kinh tế giữa các nước, sự liên kết về chính trị và văn hoá giữa các nước ngày càng thắt chặt. Những mối quan hệ thường xuyên về các mặt kinh tế, chính trị và văn hoá giữa các nước này đã làm phát sinh những quyền lợi và nghĩa vụ tiền tệ của nước này đối với nước khác.
Hoạt động thanh toán quốc tế là nhịp cầu nối quan trọng cho quá trình giao lưu thương mại cũng như du lịch dịch vụ giữa nước này với nước kia. Những hoạt động chuyển đổi tiền tệ từ nước này sang tiền tệ nước khác để tìm ra sự ngang giá chung cho giao dịch thương mại là vô cùng cần thiết. Hoạt động thanh toán quốc tế có được thực hiện kịp thời hay không có ảnh hưởng lớn tới cán cân thanh toán của mỗi nước.
1.1. Khái niệm về cán cân thanh toán quốc tế.
Cán cân thanh toán quốc tế là bảng đối chiếu giữa những khoản tiền mà nước ngoài trả cho một nước và những khoản tiền mà nước đó trả cho nước ngoàI trong một thời gian nhât định.
Cán cân thanh toán quốc tế chia làm hai loại. Cán cân thanh toán trong một thời kỳ nhất định và cán cân thanh toán tại một thời điểm nhất định.
Cán cân thanh toán giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống cán cân của các nước. Tình trạng của nó sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, đến tình hình ngoại hối của các nước, đến ngoại thương và ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia.
1.2. Các hạng mục của cán cân thanh toán quốc tế.
-Hạng mục thường xuyên: ghi những khoản giao dịch về hàng hoá, dịch vụ và các khoản chuyển dịch thanh toán giữa hai nước. Hạng mục này còn được gọi là cán cân thanh toán vãng lai. Bao gồm:
Xuất nhập khẩu hàng hoá
Du lịch
Giao thông vận tải, viễn thông bưu điện
Lợi t._.ức, cổ tức, trái tức và các khoản thu nhập khác phát sinh từ hoạt động đầu tư
Các khoản chi tiêu của Chính phủ ở nước ngoài như chi quân sự, ngoại giao, xã hội
Các khoản tài trợ, viện trợ tài chính của Chính phủ
Các dịch vụ khác
-Hạng mục vốn: ghi những di động tiền tệ trong đầu tư và tín dụng giữa hai nước. Hạng mục này còn gọi là cán cân di chuyển vốn và tín dụng. Bao gồm:
Đầu tư trực tiếp
Hoạt động tín dụng ngắn hạn và dài hạn đầu tư vào thị trường chứng khoán (còn gọi là đầu tư gián tiếp)
1.3. Mối quan hệ và sự điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế.
Tổng cán cân thanh toán vãng lai và cán cân vốn và tín dụng là một số dương thì gọi là cán cân thanh toán dư thừa, ngược lại nếu là một số âm thì gọi là cán cân thanh toán thiếu hụt.
Tình trạng dư thừa hay thiếu hụt của cán cân thanh toán tại một thời điểm nhất định sẽ ảnh hưởng đến quan hệ cung và cầu ngoại hối trên thị trường, do đó ảnh hưởng đến tình hình biến động của tỷ giá hối đoáI của nước đó.Nếu dư thừa cán cân thanh toán sẽ ổn định của đồng bản tệ hoặc tăng giá trị đồng tiền quốc gia. Ngược lại, thiếu hụt cán cân thanh toán sẽ làm cho tỷ giá hối đoái mất tính ổn định, giá trị đồng bản tệ giảm đi.
Việc điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế thường được tiến hành khi cán cân thanh toán bị thiếu hụt hay dư thừa. Trên thực tế người ta thường quan tâm điều chỉnh nhất khi nó bị thiếu hụt.
Thay đổi tỷ giá hối đoáI để điều chỉnhcán cân thanh toán là biện pháp mà chính phủ các nước hay áp dụng. Thông qua chính sách phá giá tiền tệ để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, khuyến khíchđầu tư nước ngoàI nhằm tăng thu ngoại hối và hạn chế nhập khẩu hàng hoá, do đó góp phần điều chỉnh sự thiếu hụt của cán cân thanh toán.
áp dụngcác chính sách tài chính, chính sách tiền tệ. Khi cán cân thanh toán bị thiếu hụt làm cho khả năng cung ngoại hối của một nước giảm xuống. Để tăng lượng cung ngoại hối, chính phủ thường dùngbiện pháp như vay nợ, tăng lãi suất chiết khấu, thu hồi vốn đầu tư ở nước ngoài về. Mở rộng tín dụng thương mại nhằm thu hút nhiều vốn tư bản bên ngoài chảy vào thông qua thương mại hàng hoá. Nới lỏng chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm thu hút vốn ngoại tệ chảy vào để cải thiện tình trạng cán cân thanh toán.
2. Tỷ giá hối đoái.
2.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái.
Có hai khái niệm về tỷ giá hối đoái:
+Các phương tiện thanh toán quốc tế được mua và bán trên thị trường hối đoáI bằng tiền tệ quốc gia của một nước theo một giá cả nhất định. Vì vậy, giá cả của một đơn vị tiền tệ này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia được gọi là tỷ giá hối đoái.
+Tỷ giá hối đoái còn được định nghĩa ở khía cạnh khác, đó là quan hệ so sánh giữa hai tiền tệ của hai nước khác nhau. Trong chế độ lưu thông bằng tiền vàng và giấy bạc ngân hàng được tự do chuyển đổi ra vàng thì căn cứ vào hàm lượng vàng của nó. Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh hai đồng tiền vàng của hai nước với nhau. Nếu không có những yếu tố trên thị trường tác động thì tỷ giá hối đoái sẽ trùng với giá vàng. Ngày nay, giấy bạc ngân hàng của các nước không còn được chuyển đổi ra vàng nữa mà xu hướng thoát ly khỏi mối quan hệ với vàng thì căn cứ để xácđịnh tỷ giá là tương quan ngang giá sức mua. Nghĩa là phải dựa theo chỉ số giá cả những nhóm hàng hoá và dịch vụ nhất định được tiến hành trao đổi trên thị trường đã được lựa chọn.
ở các nước, Ngân hàng trung ương hoặc Vụ hối đoái sẽ trực tiếp xác định và công bố tỷ giá hối đoái. Còn các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức kinh doanh tiền tệ tuỳ theo diễn biến thực tế của quan hệ cung cầu về ngoại hối trên thị trường hối đoái sẽ công bố tỷ giá kinh doanh phù hợp trên cơ sở tỷ gá của Ngân hàng trung ương.
2.2. Các loại tỷ giá.
Tỷ giá chính thức: dưới chế độ quản chế ngoại hối, tỷ giá hối đoái do các cơ quan quản chế ngoại hối quy định gọi là tỷ giá chính thức. Tỷ giá chính thức được áp dụng trong cácnghiệp vụ ngoại hối. Tỷ giá chính thức không lên xuống tự do trên thị trường, không bị ảnh hưởng của quan hệ cung cầu hàng ngày.
Tỷ giá tự do: tỷ giá tự do hình thành đồng thời với tỷ giá chính thức. Mức độ chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá tự do phụ thuộc vào mức độ sụt giá của đồng tiền nội tệ và do tình hình cung cầu ngoại hối của nước đó quyết định.Tuy nhiên tỷ giá tự do không thể phản ánh một cách chính xác mức độ sụt giá của đồng tiền, hơn nữa nó thường bị nhiều nhân tố thuần tuý, ngẫu nhiên ảnh hưởng. Vì vậy tỷ giá tự do chỉ là chỉ tiêu tham khảo để đánh giá tình trạng tiền tệ của một nước nào đó mà thôi.
Chế độ nhiều tỷ giá: Các nước sử dụng chế độ nhiều tỷ giá như một công cụ để thực hiện chính sách ngoại hối và chính sách ngoại thương. Mục đích của việc thực hành chế độ nhiều tỷ giá là thay đổi cơ chế hàng hoá xuất nhập khẩu, trên cơ sở đó tác động đến cán cân thương mại từ đó tác động đến cán cân thanh toán quốc tế của một nước. NgoàI ra chế độ nhiều tỷ giá còn được áp dụng như là một loại thuế nhập khẩu đặc biệt nhằm hạn chế nhập khẩu mặt hàng nào đó, hoặc là tiền thưởng xuất khẩu để khuyến khích xuất khẩu mặt hàng nào đó. Làm công cụ cho chính sách bảo vệ mậu dịch và trong trường hợp nào đó làm tăng thu nhập của ngân khố qua thu thuế bán ngoại hối.
Cơ chế tỷ giá thả nổi: là các đồng tiền không còn được đánh giá theo một ngang giá chung nào. Tỷ giá giữa hai đồng tiền trong chế độ tỷ giá hối đoáI thả nổi chỉ mang tính chất tạm thời. Nó do cung cầu ngoại tệ, do tương quan lạm phát cũng như tương quan lãI suất giữa các nước quyết định. Các quốc gia có thể thả nổi đồng tiền của nước mình theo hai cách: thả nổi hoàn toàn (Chính phủ không can thiệp), thả nổi có điều tiết (có sự can thiệp của Chính phủ).
2.3. Vai trò của tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá có vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh tế quốc dân, nó luôn là công cụ sắc bén để điều tiết kinh tế vĩ mô của bất kỳ nước nào. Đặc biệt đối với hoạt động kinh tế quốc tế, xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế. Do tỷ giá hối đoáI phản ánh mối tương quan ngang giá sức mua của các đồng tiền, nên dễ dàng so sánh được mức giá cả của thị trường nội địa với thị trường thế giới, từ đó thấy được tình trạng năng suất lao động, các điều kiện của mỗi quốc gia. Tỷ giá hối đoái cao hay thấp sẽ có tác động trực tiếp đến các hoạt động xuất nhập khẩu, khuyến khích hoặc hạn chế xuất nhập khẩu hàng hoá một nước, tác động đến các hoạt động kinh tế khác như dịch vụ du lịch, kiều hối... từ đó ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia.
Vấn đề điều hành tỷ giá có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh tế quốc tế, một lĩnh vực kinh tế đặc biệt quan trọng đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó tỷ giá cũng có mối liên quan chặt chẽ tới công tác thanh toán quốc tế, nó liên quan đến rủi ro của các bên tham gia. Tỷ giá mà linh hoạt phù hợp và ổn định sẽ hạn chế được rủi ro cho người bán, người mua cũng như ngân hàng tham gia vào hoạt đông thanh toán quốc tế.
IV. Giới thiệu về phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
Phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng bậc nhất trong các điều kiện thanh toán quốc tế. Phương thức thanh toán tức là chỉ cách người bán dùng cách nào để thu tiền về, người mua dùng cách nào để trả tiền. Trong buôn bán, người ta có thể lựa chọn nhiều phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền hoặc trả tiền nhưng xét cho cùng việc lựa chọn nào cũng phải xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu tiền nhanh, đúng, đầy đủ và từ yêu cầu của người mua là nhập hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng hạn. Trong buôn bán quốc tế, việc lựa chọn phương thức thanh toán nào là rất quan trọng, nó quyết định tới hiệu quả lợi nhuận cũng như tránh được những rủi ro trong kinh doanh của các bên.
Do tính chất đa dạng, phong phú trong giao dịch thương mại quốc tế, để phục vụ cho quá trình thanh toán quốc tế được thuận lợi thì ngày nay có rất nhiều phương thức thanh toán. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu được sử dụng hiện nay là:
+Phương thức nhờ thu: là phương thức thanh toán quốc tế trong đó người xuất khẩu sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho người nhập khẩu, uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu nước ngoài trên cơ sở hối phiếu do người xuất khẩu ký phát.
+Phương thức chuyển tiền: là phương thức thanh toán quốc tế trong đó khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.
+Phương thức ghi sổ: là phương thức thanh toán quốc tế trong đó người bán mở một tài khoản để ghi nợ người mua sau khi người bán đã hoàn thành giao hàng, đến từng định kỳ (tháng, quý) người mua trả tiền cho người bán.
+Phương thức tín dụng chứng từ.
Trong các phương thức thanh toán quốc tế nêu trên thì phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức được sử dụng nhiều nhất trong thanh toán quốc tế nhất là đối với thị trường các nước đang phát triển, nền kinh tế thị trường chưa đạt trình độ cao.
1. Khái niệm về phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng.
2.Các bên tham gia.
2.1.Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có:
Người xin mở thư tín dụng là người mua, người nhập khẩu hoặc là người mua uỷ thác cho một người khác.
Ngân hàng mở thư tín dụng là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu, là ngân hàng cấp tín dụng cho người nhập khẩu.
Người hưởng lợi thư tín dụng là người bán, người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định.
Ngân hàng thông báo thư tín dụng là ngân hàng ở nước người hưởng lợi.
Ngoài ra còn có ngân hàng xác nhận, ngân hàng hoàn trả, ngân hàng chiết khấu chứng từ, ngân hàng chuyển nhượng.
2.2.Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia.
-Ngân hàng:
+Ngân hàng mở thư tín dụng: có nghĩa vụ căn cứ vào đơn yêu cầu mở thư tín dụng của người mua để mở thư tín dụng cho người bán và tìm cách thông báo việc mở thư tín dụng này cho người bán biết. Ngân hàng mở thư tín dụng có trách nhiệm thẩm tra các chứng từ do người bán xuất trình xem có phù hợp với thư tín dụng hay ko. Nếu phù hợp thì ngân hàng phải thanh toán tiền cho người bán và nhận chứng từ, nếu ngân hàng lam sai thì ngân hàng phải hoàn toàn tự chịu trách nhiệm. Sau khi trả tiền cho người bán, ngân hàng trao chứng từ cho người mua và thu tiền lạicủa người mua. Ngân hàng mở thư tín dụng được người mua trả cho một khoản tiền thủ tục phí từ 0,125% đến 0,5% trị giá số tiền của thư tín dụng.
+Ngân hàng thông báo: thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng mở thư tín dụng tại nước người bán, có trách nhiệm thông báo thư tín dụng cho người bán.
+Ngân hàng xác nhận: là ngân hàng theo yêu cầu của ngân hàng mở thư tín dụng đứng ra xác nhận trả tiền cho ngân hàng mơt thư tín dụng. Sở dĩ có sự xác nhận này là do người bán chưa hoàn toàn tin tưởng và khả năng trả tiền của ngân hàng mở thư tín dụng.
+Ngân hàng chiết khấu: là ngân hàng đứng ra mua hối phiếu có kỳ hạn chưa đến hạn trả tiền do người bán ký phát cho ngân hàng trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở thư tín dụng.
Trong thực tế nghiệp vụ về chứng từ, không nhất thiết phải có đủ các ngân hàng nói trên cùng tham gia. Thông thường chỉ có hai ngân hàng tham gia là ngân hàng mở thư tín dụng và ngân hàng thông báo.
-Người mua (người nhập khẩu).
Khi hợp đồng mua bán áp dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ thì việc mở thư tín dụng là điều kiện tiên quyết cho người bán thực hiện hợp đồng. Người mua phải mở thư tín dụng đúng thời hạn quy định trong hợp đồng. Người mua phải căncứ vào nội dung của hợp đồng mua bán để làm đơn yêu cầu mở thư tín dụng gửi tới ngân hàng. Người mua phải trả một khoản thủ tục phí cho ngân hàng mở thư tín dụng và thường phải ký quỹ từ 20% đến 100% trị giá số tiền trong thư tín dụng tại ngân hàng mở thư tín dụng.
Người mua có quyền từ chối hoàn trả toàn bộ hay một phần số tiền của thư tín dụng cho ngân hàng nếu xét thấy bộ chứng từ không phù hợp với những điều kiện mà nười mua đã nêu ra trong thư tín dụng. Trong trường hợp này, ngân hàng mở thư tín dụng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những thiếu sót của mình khi kiểm tra chứng từ.
-Người bán (người xuất khẩu).
Người bán chỉ giao hàng sau khi biết người mua đã mở thư tín dụng cam kết trả tiền cho mình. Người bán phải kiểm tra thư tín dụng xem có đúng với nội dung của hợp đồng mua bán hay không, nếu có sai sót gì so với hợp đồng hoặc có những điều kiện gì khôngười bán có lợi cho mình thì có quyền yêu cầu người mua sửa đổi hoặc bổ sung thư tín dụng. Nội dung sửa đổi hoặc bổ sung phải được ngân hàng mở thư tín dụng xác nhận thì mới có hiệu lực thanh toán.
Sau khi giao hàng, người bán phải lập đầy đủ bộ chứng từ theo yêu cầu của thư tín dụngvà xuất trình cho ngân hàng trong thời hạn hiệu lực của thư tín dụng. Người bán chỉ thu được tiền về nếu như ngân hàng kiểm tra thấy các chứng từ đó phù hợp về hình thức với các điều kiện của thư tín dụng.
3. Quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
hợp đồng ngoại thương
Người nhập khẩu
Người xuất khẩu
(4)
(1) (7) (8) (5) (3)
Ngân hàng mở L/C
Ngân hàng thông báo L/C
(6)
(2)
(1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng của mình yêu cầu mở một thư tín dụng theo thoả thuận trong hợp đồng ngoại thương.
(2) Căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng mở thư tín dụng sẽ lập một thư tín dụng và thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu thông báo việc mở thư tín dụng và chuyển thư tín dụng đến người xuất khẩu.
(3) Khi nhận được thông báo này, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng đó, và khi nhận được bản gốc thư tín dụng thì chuyển ngay cho người nhập khẩu.
(4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không thì tiến hành đề nghị ngân hàng mở thư tín dụng sửa đổi, bổ sung thư tín dụng cho phù hợp với hợp đồng.
(5) Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của thư tín dụng xuất trình thôn gqua ngân hàng thông báocho ngân hàng mở thư tín dụng xin thanh toán.
(6) Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Nếu thấy không phù hợp, ngân hàng từ chối thanh toán và gửi trả lại toàn bộ chứng từ cho người xuất khẩu.
(7) Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho người nhập khẩu sau khi nhận được tiền hoặc chấp nhận thanh toán.
(8) Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền, nếu thấy không phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền.
4. Thư tín dụng. (L/C)
4.1. Khái niệm thư tín dụng.
Thư tín dụng là một công cụ quan trọng của phương thức tín dụng chứng từ. Thư tín dụng là một chứng thư (điện hoặc ấn chỉ) trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình được một bộ chứng từ phù hợp với nội dung của L/C.
Thư tín dụng là văn bản thể hiện sự cam kết của ngân hàng nước người mua đối với người bán để thực hiện nghĩa vụ trả tiền quy định trong điều khoản thanh toán của hợp đồng mua bán, do đó thư tín dụng phải được mở trên cơ sở hợp đồng mua bán. Cụ thể là những nội dung cơ bản của hợp đồng mua bán là căn cứ duy nhất để người mua dựa vào đó để mở thư tín dụng cam kết và trả tiền cho người bán.
Nhưng vì thư tín dụng lại do ngân hàng mở để cam kết trả tiền theo yêu cầu của người mua nên sau khi thư tín dụng đã được mở tại một ngân hàng nhất định nào đó thì nó lại độc lập hoàn toàn với hợp đồng mua bán. Tính độc lập của thư tín dụng thể hiện ở chỗ là nghĩa vụ của ngân hàng đối với người hưởng lợi thư tín dụng(người xuất khẩu) không phụ thuộc vào các quan hệ giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu. Mặt khác mối quan hệ giữa ngân hàng và người nhập khẩu cũng không liên quan đến người khác. Cụ thể là ngân hàng mở thư tín dụng không cần biết đến hợp đồng mua bán, mà chỉ căn cứ vào nội dung thư tín dụng để trả tiền cho người bán, ngân hàng không cần biết đến việc giao hàng thực tế có đúng với nội dung các chứng từ xuất trình cho ngân hàng hay không mà ngân hàng chỉ căn cứ vào các chứng từ do người bán xuất trình, nếu thấy các chứng từ đó bề ngoài phù hợp với các điều kiện của thư tín dụng thì trả tiền cho người bán. Trong trường hợp vì những nguyên nhân nào đó giữa người nhập khẩu và ngân hàng mà người nhập khẩu không thanh toán tiền với ngân hàng thì ngân hàng vẫn phải hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với người xuất khẩu khi người xuất khẩu làm đầy đủ các thủ tục và các điều khoản của thư tín dụng.
4.2. Nội dung chủ yếu của một thư tín dụng.
a. Số hiệu, địa điểm và ngày mở thư tín dụng.
-Số hiệu. Tất cả các thư tín dụng đều phảI có số hiệu riêng. Tác dụng để trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến việc thực hiện thư tín dụng, dùng để ghi vào các chứng từ có liên quan.
-Địa điểm mở L/C: là nơI mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu. Tác dụng trong việc chọn luật áp dụng khi xảy ra tranh chấp.
-Ngày mở L/C: là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mở L/C với người xuất khẩu, là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C, và là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực hiện việc mở L/C có đúng hạn như đã quy định trong hợp đồng hay không.
b. Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ.
-Thương nhân: là người nhập khẩu (người yêu cầu mở L/C), là người xuất khẩu (người hưởng lợi L/C).
-Ngân hàng tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ : ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo, ngân hàng trả tiền, ngân hàng xác nhận, ngân hàng chiết khấu…
c. Số tiền của thư tín dụng.
Số tiền của L/C vừa được ghi bằng số, vừa được ghi bằng chữ và thống nhất với nhau. Tên của đơn vị tiền tệ phải rõ ràng.
d. Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng ghi trong thư tín dụng.
-Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng: là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ trong thời hạn đó và phù hợp với những điều quy định trong L/C.
Cần phải xác định một thời hạn hiệu lực hợp lý, có nghĩa là nó vừa tránh đọng vốn cho người nhập khẩu vừa không gây khó khăn trong việc xuất trình chứng từ của người xuất khẩu.
-Thời hạn trả tiền của thư tín dụng: là thời hạn trả tiền ngay hay trả tiền về sau, điều này phụ thựôc vào quy định của hợp đồng.
-Thời hạn giao hàng cũng được ghi trong L/C và do hợp đồng quy định.
e. Những nội dung về hàng hoá như tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá cả, quy cách phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu…
f.Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hoá như điều kiện cơ sở giao hàng, cách vận chuyển, cách giao hàng…
g. Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình.
Đây là nội dung then chốt của thư tín dụng, bởi vì bộ chứng từ quy định trong thư tín dụng là một bằng chứng của người xuất khẩu chứng minh rằng mình đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và làm đúng những quy định của thư tín dụng, do vậy ngân hàng mở L/C phải dựa vào đó để tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu nếu bộ chứng từ phù hợp với thư tín dụng. Để sử dụng phương thức tín dụng chứng từ như là công cụ hiệu quả nhất trong giao dịch thanh toán quốc tế thì phải biết cách lập bộ chứng từ hoàn hảo, đáp ứng được các điều khoản và điều kiện của thư tín dụng tuân theo chuẩn mực luật pháp quốc tế và thực tiễn thực hành được các nước tham gia công nhận.
h.Sự cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C: là nội dung cuối cùng của thư tín dụng và nó ràng buộc trách nhiệm của ngân hàng mở L/C.
i. Những điều khoản đặc biệt.
k.Chữ ký của ngân hàng mở thư tín dụng.
4.3. Các loại thư tín dụng.
Các thư tín dụng thường gặp trong thanh toán quốc tế:
4.3.1.Thư tín dụng có thể huỷ bỏ (Revocable L/C)
Thư tín dụng có thể huỷ bỏ là thư tín dụng được phát hành cho người hưởng lợi (người xuất khẩu) theo chỉ thị của người cung cấp thư tín dụng (người nhập khẩu), nó có thể được sửa đổi hoặc huỷ bỏ mà không cần sự đồng ý của người hưởng lợi.
Thư tín dụng có thể huỷ bỏ chứa đựng rủi ro cho người hưởng lợi vì L/C có thể bị sửa đổi , huỷ bỏ trong khi hàng hoá đã được giao và chứng từ chưa kịp xuất trình. Loại này ít được sử dụng, thưởng chỉ áp dụng trong các mối quan hệ tin tưởng hoặc các công ty phụ thuộc.
4.3.2. Thư tín dụng không thể huỷ bỏ (Irrevocable L/C).
Thư tín dụng không thể huỷ bỏ là loại thư tín dụng mà ngân hàng khi đã mở thư tín dụng phảI chịu trách nhiệm trả tiền cho người xuất khẩu trong thời hạn hiệu lực của thư tín dụng, không được quyền sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ thư tín dụng đó nếu chưa có sự đồng ý của các bên liên quan như người cung cấp thư tín dụng, người hưởng lợi, ngân hàng mở, ngân hàng xác nhận.
Loại này đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu nên trong thanh toán quốc tế nó được sử dụng rộng rãi.
4.3.3.Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận (Confirmed irrevocable L/C).
Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận là loại thư tín dụng không huỷ bỏ, được xác nhận bởi một ngân hàng thứ ba thông thường là ngân hàng quốc tế có uy tín.
Trong trường hợp ngân hàng mở thư tín dụng vì lý do nào đó không thanh toán được thì ngân hàng xác nhận có trách nhiệm thanh toán thay. Như vậy, loại L/C này được đảm bảo thanh toán kép vì cả ngân hàng mở L/C và ngân hàng xác nhận L/C đều cam kết trả tiền cho người hưởng lợi (người xuất khẩu).
Đối với loại thư tín dụng này, quyền lợi của người xuất khẩu là được đảm bảo nhất vì thế nó được sử dụng rất rộng rãi trong thanh toán quốc tế.
4.3.4.Thư tín dụng không thể huỷ bỏ miễn truy đòi (Irrevocable without recourse L/C).
Thư tín dụng không thể huỷ bỏ miến truy đòi là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ mà sau khi người xuất khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng mở L/C không còn quyền đòi lai tiền người xuất khẩu trong bất kỳ trường hợp nào.
L/C miễn truy đòi được sử dụng rộng rãI trong thanh toán quốc tế.
4.3.5. Thư tín dụng chuyển nhượng (Transferable L/C).
Thư tín dụng chuyển nhượng là thư tín dụng không thể huỷ bỏ, trong đó quy định quyền của người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu ngân hàng mở thư tín dụng chuyển nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện L/C cho một hay nhiều người khác.
Thư tín dụng chuyển nhượng chỉ được chuyển nhượng một lần.
Chi phí chuyển nhượng thường do người hưởng lợi đầu tiên chịu.
4.3.6.Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C).
Thư tín dụng tuần hoàn là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ sau khi đã sử dụng xong hoặc đã hết thời hạn hiệu lực thì nó lại có giá trị như cũ và cứ như vậy nó tuần hoàn cho đến khi nào tổng giá trị hợp đồng được thực hiện.
Có 3 cách tuần hoàn: tuần hoàn tự động, tuần hoàn bán tự động, tuần hoàn hạn chế.
Loại thư tín dụng này được sử dụng trong việc mua bán những mặt hàng số lượng lớn nhưng giao thường xuyên, nhiều kỳ trong một năm với số lượng ít thay đổi nhằm tránh đọng vốn bên mua và đơn giản hoá thủ tục mở thư tín dụng.
4.3.7. Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C).
Thư tín dụng giáp lưng là loại thư tín dụng được mở ra căn cứ vào thư tín dụng khác làm bảo đảm. Sa ukhi nhận được L/C do người nhập khẩu mở cho mình hưởng, người xuất khẩu dùng L/C này để thế chấp mở một L/C khác cho hưởng lợi khác với nội dung f\gần giông như L/C ban đầu, L/C mở sau gọi là L/C giáp lưng.
Nghiệp vụ thư tín dụng giáp lưng rất phức tạp, nó đòi hỏi phải có sự kết hợp khéo léo và chính xác các điều kiện của L/C gốc với L/C giáp lưng, nhất là cá vấn đề có liên quan đến vận đơn và các chứng từ hàng hoá khác.
Loại thư tín dụng nay có thể áp dụng trong buôn bán giữa các nước có sử dụng trung gian.
4.3.8. Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C).
Thư tín dụng đối ứng là loại thư tín dụng chỉ có giá trị hiệu lực khi thư tín dụng đối ứng với nó được mở ra.
Thư tín dụng đối ứng thường được sử dụng trong phương thức mua bán hàng đổi hàng, ngoàI ra không loại trừ khả năng dùng trong phương thư tín dụnức gia công tuy nhiên việc sử dụng trong gia công có nhiều phức tạp.
4.3.9. Thư tín dụng dự phòng (Stand-by L/C).
Thư tín dụng dự phòng là loại thư tín dụng trong đó ngân hàng mở thư tín dụng cam kết với người nhập khẩu sẽ thanh toán lại cho họ trong trường hợp người xuất khẩu xuất trình chứng từ gửi hàng không phù hợp với thư tín dụng hoặc không hoàn thành trách nhiệm của mình theo thư tín dụng đề ra, đồng thời sẽ bồi thường các khoản thiệt hại do minh gây ra cho người nhập khẩu.
4.3.10. Thư tín dụng thanh toán dần dần về sau (Deferred payment L/C).
Thư tín dụng thanh toán dần dần về sau là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ, trong đó ngân hàng mở L/C hay là ngân hàng xác nhận L/C cam kết với người hưởng lợi sẽ thanh toán dần dần toàn bộ số tiền của L/C trong những thời hạn quy định rõ ràng trong L/C đó. Đây là một loại L/C trả chậm từng phần.
4.3.11. Thư tín dụng có điều khoản đỏ (Red clause L/C).
Thư tín dụng có điều khoản đỏ là loại thư tín dụng quy định một ngân hàng được gọi là ngân hàng chiết khấu thư tín dụng được sự uỷ quyền của ngân hàng mở thư tín dụng sẽ ứng trước một khoản tiền cho người hưởng lợi thư tín dụng để giúp người này có thêm nguồn vốn để giao hàng theo thư tín dụng đã mở.Số tiền chiết khấu này được tính lãi.
Thư tín dụng có điều khoản đỏ được sử dụng như là một phương pháp tài trợ vốn cho người bán trước khi giao hàng.
4.4. Lợi ích của thư tín dụng.
a.Khả năng tài trợ vốn.
-Thư tín dụng cung cấp giao dịch đặc biệt với mức tín dụng ngân hàng độclập và lời hứa trả tiền rõ ràng.
-Thoả mãn nhu cầu tài chính của người bán và người mua qua việc xác định hạn mức tín dụng ngân hàng trên cơ sở đề nghị của cả hai bên.
-Có thể cho phép người mua mua hàng với giá thấp hơn cũng như việc trả tiền được kéo dài hơn so với phương thức ghi sổ hoặc nhờ thu.
-Giảm thậm chí loại bỏ yếu tố rủi ro tín dụng thương mại, khi mà thanh toán đã được đảm bảo bởi ngân hàng thông qua việc mở thư tín dụng không thể huỷ bỏ. Người bán không còn phải lo về sự trung thực và khả năng của người mua trong việc thanh toán.
-Giảm được tỷ lệ nhất định rủi ro hối đoáI và rủi ro chính trị.
-Mở rộng khả năng cung cấp hàng cho người mua một khi người bán chỉ đồng ý bán hàng trên cơ sở thanh toán ứng trước hoặc thư tín dụng.
b. Thư tín dụng cung cấp hành lang pháp luật cho thương mại quốc tế.
c. Đảm bảo kiểm tra chứng từ cẩn thận trước khi được gửi tới người mua.
Người mua được đảm bảo rằng chứng từ mà họ yêu cầu theo thư tín dụng phải được xuất trình phù hợp với những điều khoản và điều kiện của thư tín dụng.
Người mua được đảm bảo rằng chứng từ sẽ được kiểm tra bởi kỹ năng chuyên môn ngân hàng trong hoạt động thư tín dụng.
Người mua chỉ chịu trách nhiệm thanh toán cho người bán sau khi các điều khoản và điều kiện của L/C đã phù hợp.
5. Ưu nhược điểm của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
5.1. Ưu điểm
*Đối với ngân hàng
Ngân hàng không bị ràng buộc bởi những điều khoản trong hợp đồng mua bán ngoại thương và tình trạng thực tế của hàng hoá mà chỉ bị ràng buộc bởi những điều khoản trong thư tín dụng. Việc trả tiền chỉ dựa vào thư tín dụng khi nó đã được mở.
Ngân hàng thu được một khoản thủ tục phí khá lớn, ngoài ra ngân hàng còn nhận được một khoản tiền gửi đáng kể khi nhà nhập khẩu ký quỹ. Xoay quanh hoạt động này, ngân hàng còn thực hiện một số hoạt động khác như: tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh, xác nhận… và ngân hàng còn thu được một ích vô cùng to lớn đó là uy tín, địa vị của ngân hàng trên thị trường tài chính, tín dụng quốc tế.
*Đối với người mua ( người nhập khẩu)
Nhà nhập khẩu có thể mở rộng nguồn cung cấp hàng hoá cho mình mà không phải tốn kém thời gian, công sức trong việc tìm kiếm đối tác uy tín và tin cậy. Bởi vì, họ đựoc đảm bảo chỉ phảI trả tiền nếu có được bộ chứng từ phù hợp với L/C.Mà để có được bộ chứng từ hoàn thiện như vậy, người bán phải đưa hàng hoá qua một số tổ chức kiểm nghiệm và các tổ chức này bằng uy tín, nghiệp vụ của mình sẽ kết luận về tình trạng của hàng hoá trên các giấy tờ như: chứng thư xuất xứ, chứng từ phẩm chất…Như vậy,trong bối cảnh nước ta tiến vào hội nhập thế giới, đặc biệt trong lĩnh vưc thương mại quốc tế, các doanh nghiệp còn non yếu về kinh nghiệm và nghiệp vụ xuất nhập khẩu thì phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đã mang lại cho họ niềm tin, giúp họ vững bước trên con đường hướng ra thị trường thế giới.
*Đối với người bán (người xuất khẩu)
Người xuất khẩu chỉ tiến hành giao hàng chừng nào họ biết mình được ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán và thực tế là nếu họ xuất trình bộ chứng từ, điều khoản, điều kiện trong L/C thì hầu như chắc chắn sẽ được thanh toán. Việc thanh toán của ngân hàng không phụ thuộc vào người nhập khẩu, kể cả trường hợp người nhập khẩu mất khả năng thanh toán. Do vậy, người xuất khẩu sẽ thu hồi vốn nhanh, không bị ứ đọng vốn. Người xuất khẩu còn tránh được những rủi ro về ngoại hối vì khi lam đơn xin mở L/C người nhập khẩu đã có giấy phép chuyển ngoại tệ của các cơ quan quản lý ngoại hối.
5.2. Nhược điểm
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán đảm bảo nhất cho các bên tham gia tuy nhiên nó vẫn có hạn chế, đó là rủi ro. Vì vậy, đòi hỏi các bên tham gia tìm hiểu nguyên nhân và vận dụng các biện pháp linh hoạt nhằm hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra.
5.2.1. Nguyên nhân gây ra rủi ro.
a. Nguyên nhân khách quan từ nền kinh tế hay chế độ chính trị của các nước có liên quan.
Do những thay đổi về chính sách kinh tế vĩ mô của đất nước có thể làm ảnh hưởng tới thanh toán quốc tế.
Thay đổi về tỷ giá hối đoái. Ví dụ như khi tỷ giá VND biến động giảm so với ngoại tệ, nghĩa là VND mất giá, lập tức hàng nhập khẩu về khó bán và các nhà nhập khẩu mất một lượng tiền VND nhiều hơn để cân đối nguồn ngoại tệ thanh toán cho nước ngoài, rủi ro sẽ xảy ra với ngân hàng khi nhà nhập khẩu không cân đối được nguồn tiền thanh toán.
Thay đổi về chính sách thuế quan nhập khẩu, thay đổi quy chế quản lý ngoại hối… đều làm ảnh hưởng đ._.ủi ro trong thanh toán đối với lô chứng từ đó.
Do đó, Vietcombank cần triển khai nghiệp vụ chiết khấu chứng từ miễn truy đòi. Bên cạnh đó, Vietcombank cần có chính sách khuyếch trương giao tiếp, giới thiệu và khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ chiết khấu chứng từ như là một biện pháp tài trợ xuất khẩu thuận tiện và hiệu quả.
2.2. Thực hiện thanh toán trả tiền ngay đối với thanh toán xuất khẩu
Trong phần thanh toán xuất khẩu bằng L/C đã trình bày về hai cách thanh toán của L/C ( do ngân hàng mở L/C qui định), đó là:
- L/C thương lượng/chiết khấu ( L/C available by negotiation.)
- L/C thanh toán trả tiền ngay ( L/C available by payment)
Hiện nay, Vietcombank đang thực hiện hai cách thanh toán:
- Thực hiện chiết khấu truy đòi đối với L/C at sight
- Thanh toán khi nhận được báo có của ngân hàng nước ngoài.
Cách thanh toán trên của Vietcombank chỉ có thể đảm bảo sự an toàn cho Vietcombank mà không thể là công cụ để Vietcombank cạnh tranh với các ngân hàng khác. Trong tương lai, trình độ kĩ thuật thanh toán quốc tế của khách hàng được nâng lên, cùng với sự canh tranh của các ngân hàng khác, thì cách thanh toán nói trên không thu hút được khách hàng.
Do đó, Vietcombank có thể dựa trên sự phân tích khách hàng và phân tích thị trường một cách toàn diện , có thể thực hiện thanh toán theo thông lệ quốc tế, dần dần tạo ra môi trường thanh toán quốc tế thuận lợi cho khách hàng. Đó là việc thanh toán trả ngay và thanh toán chiết khấu miễn truy đòi.
Thứ nhất, về thanh toán trả ngay, hình thức thanh toán này sẽ chỉ áp dụng với những L/C at sight qui định 'available with Vietcombank by payment', hoặc 'available with advising bank by payment' khi Vietcombank đồng thời là ngân hàng thông báo L/C.
Theo thông lệ quốc tế, hình thức thanh toán trả ngay được thực hiện bằng cách thanh toán ngay tiền hàng cho khách khi chứng từ xuất trình phù hợp với qui định của L/C. Vietcombank có thể thanh toán bảo lưu (under reserve) tiền hàng đối với những khách hàng quen thuộc, uy tín trong thanh toán, tình hình tài chính lành mạnh, chứng từ hoàn hảo và ngân hàng trả tiền là ngân hàng có uy tín.
Hiện nay, ở Vietcombank, một số L/C thuộc thị trường Nhật Bản, Đài loan hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu của Vietcombank để được thanh toán trả tiền ngay.
Số tiền trả cho khách được ghi có vào tài khoản tiền gửi, với ghi chú là thanh toán bảo lưu, trong trường hợp ngân hàng nước ngoài từ chối thanh toán thì Vietcombank có thể tự động thu hồi lại số tiền đã trả.
Ưu điểm của hình thức thanh toán này là khách hàng được sử dụng tiền ngay, không bị đọng vốn.
Thứ hai là hình thức chiết khấu miễn truy đòi. ở đây chỉ xin đề cập đến kĩ thuật nghiệp vụ của việc chiết khấu này.
Khi chấp nhận chiết khấu miễn truy đòi chứng từ của khách hàng, số tiền trả cho khách được tính dựa trên trị giá hối phiếu, số liệu được tính như sau:
Số tiền = 100% giá trị - chi phí - Lãi chiết khấu
Chiết khấu hối phiếu nghiệp vụ
Chi phí nghiệp vụ có thể được tính theo biểu phí thanh toán quốc tế thông thường, riêng lãi suất chiết khấu miễn truy đòi nên qui định cao hơn lãi suất chiết khấu truy đòi vì trong trường hợp này, Vietcombank mua lại rủi ro của khách hàng.
2.3. Thực hiện thanh toán theo đúng ngày giá trị
Hiện nay,Vietcombank chỉ thanh toán tiền hàng cho khách sau khi nhận được báo có của ngân hàng nước ngoài. Tình trạng này sẽ làm phát sinh số ngày chênh lệch từ ngày tài khoản nostro của Vietcombank được ghi có đến ngày Vietcombank thanh toán cho khách hàng. Việc thực hiện thanh toán theo đúng ngày giá trị ở đây được hiểu là việc trả lãi theo lãi suất tiền gửi cho khách hàng trên cơ sở số ngày chênh lệch nói trên.
Tiền lãi khách Số tiền báo có x Số ngày x Lãi suất tiền gửi
được nhận 360
Số ngày = ngày nhận được báo có - ngày ghi có cho đơn vị
3.Phát triển đòng bộ các dịch vụ ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Khi thanh toán qua ngân hàng ,các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuờng mong muốn ngân hàng tài trợ cho mình về vốn,chuyển đổi các đồng tiền nhằm phục vụ cho các thương vụ hoặc nhận được lời khuyên từ phía ngân hàng trong việc đánh giá uy tín của đối tác. Như vậy, để có thể tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong giao dịch thanh toán, cần thiết phải phát triển hoạt động thanh toán xuất khẩu trong mối quan hẹ chặt chẽ với các dịch vụ hỗ trợ như: tín dụng tài trợ xuất khẩu, mua bán ngoại tệ, tư vấn thương mại cho khách hàng, hỗ trợ khách hàng sử dụng các dịch vụ mới.
3.1.Tài trợ xuất khẩu
Hiện nay, Vietcombank chỉ thực hiện hai hình thức tài trợ xuất khẩu ngắn hạn, đó là: triết khấu có truy đòi bộ chứng từ hàng xuất, cho vay theo món để sản xuất hàng xuất. Do vậy, Vietcombank cần mở rộng đói tượng tài trợ xuất khẩu, hình thành danh mục tài trợ xuất khẩu bao gồm tàig trợ trước và sau quá trình nhập khẩu.
3.2.Mua bán ngoại tệ
Vietcombank có thể áp dụng hình thức mua bán ngoại tệ có kì hạn cho doanh nghiệp xuất khẩu. Hình thức này đặc biệt thích hợp với các doanh nghiệp vừa kinh doanh xuất khẩu vừa kinh doanh nhập khẩu, giúp doanh nghiêpk chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh.
3.3.Tư vấn thương mại
-Cung cấp thông tin về uy tín, khả năng thanh toán của các ngân hàng nước ngoài.
-Đưa ra lời khuyên cho doanh nghiệp về lựa chọn phương thức thanh toán, ngân hàng thanh toán, cách phòng tránh rủi ro.
-Trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, Vietcombank cần có sự tham khảo về hợp đồng thông qua người xuất khẩu để tù đó lập bộ chứng đòi tiền phù hợp.
4.Thực hiện một chính sách khách hàng hấp dẫn, phân tích đối thủ cạnh tranh và áp dụng marketing ngân hàng và hoạt động thanh toán xuất khẩu
Chính sách khách hàng phải kết hợp nhiều loại hình dịch vụ tổng hợp để đáp ứng các nhu cầu tổng thể như chính sách về.tín dụng, dịch vụ thanh toán cao, lãi suất hấp dẫn, thoả mãn nhu cầu múa bán ngoại tệ, kết hợp với sự tư vấn và xây dựng các quan hệ xã hội rmật thiết ở các cấp giữa khách hàng và ngân hàng. Cử các cán bộ có trình đọ chuyên môn cao, có quan hệ tốt với khách hàng, nhiệt tình với công việc để phục vụ cho các khách hàng tuyền thống theo yêu cầu của họ.Gắn liền chỉnh sách ưu đãi với sự đánh giá phân loại khách hàng thường xuyên tại tải cả các khâu giao dịch.
Vietcombank cần xác định khách hàng mục tiêu của mình trong lĩnh vực thanh toán xuất khẩu, đó là các doanh nghiệp xuất khẩu thuộc mọi thành phần kinh tế ởmọi địa bàn trong cả nước, đặc biệt là ở những thành phố lớn, nhưng khu công nghiệp, những khu chế xuất.
*Đối với khách hàng thường xuyên.
-Thường xuyên tiếp xúc với khách hàng để tìm hiểu các yêu cầu của họ đối với ngân hàng khi thực hiện giao dịch.
-Tổ chức đánh giá hoạt động giao dịch của khách hàng với ngân hàng. Trên cơ sở đó phân đối tượng thành các nhóm khách hàng: nhóm khách hàng lớn, nhóm khách hàng thường xuyên, nhóm khách hàng không thường xuyên. Có những chính sách ưu đãi phù hợp đối với từng nhóm khách hàng .
-Ban hành các tài liệu hướng dẫn về nghiệp vụ cũng như các thủ tục cần thiết khi thực hiện thanh toán xuất khẩu, giúp doanh nghiệp nắm bắt, cập nhật thông tin.
-Tăng cường công tác tư vấn cho khách hàng.
*Đối với doanh nghiệp chưa giao dịch hoặc thôi không giao dịch với Vietcombank.
-áp dụng các hình thức quảng cáo marketing thu hút các doanh nghiệp xuất khẩu thực hiện giao dịch thanh toán qua Vietcombank. Vietcombank thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc gặp mặt trực tiếp để giới thiệu các dịch vụ thanh toán của ngân hàng.
-Tìm hiểu thông tin về khách hàng cũ và ngân hàng mà họ đang thực hiện giao dịch thanh toán: các loại hình dịch vụ thanh toán mà họ cung cấp, cách thức cung cấp, mức phí, hoạt động hỗ trợ thanh toán xuất khẩu, tìm lực tài chính, uy tín… Từ đó tìm ra nguyên nhân dẫn đến việc doanh nghiệp ngừng giao dịch với Vietcombank, tìm ra cách khắc phục để thu hút khách hàng.
5.Mở rộng và nâng cao quan hệ đối ngoại.
Quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hoạt động Thanh toán xuất khẩu, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng ở trong nước cũng như trên trường quốc tế.
*Đối với các ngân hàng có quan hệ truyền thống vơi Vietcombank .
-Củng cố mốu quan hệ chặt chẽ, phát triênr hai bên cùng có lợi thông qua việc tăng cường tiếp xúc, trao đổi kinh nghiệm, học hỏi kĩ năng quản lý.
-Rà soát lại hệ thống ngân hàng đại lý thông qua việc xây dựng tiêu thức phân loại, đánh gia tín nhiệm ngân hàng đại lý để lựa chọn cá ngân hàng uy tín, phục vụ thanh toán an toàn nhanh chóng, từ đó có chính sách đối ngoại phù hợp, tạo cơ sở để tư vấn cho khách hàng.
*Thiết lập mối quan hệ đại lý mới với các ngân hàng nước ngoài, mở rộng kinh doanh ra thị trương thế giới.
Bên cạnh đó, Vietcombank cần nâng cao vai trò hoạt động của các công ty tài chính và văn phòng đại diện ở nước ngoài. Phấn đấu đưa Vietcombank lên ngang tầm khu vực tiến tới hội nhập vào cộng đồng tài chính và ngân hàng thế giới.
6.Tăng cường công tác tổ chức và đào tạo cán bộ.
- Củng cố lại hệ thống phòng ban liên quan đến giao dịch thanh toán quốc tế. Mặc dù hiện nay, các phòng ban được chia theo loại hình nghiệp vụ, như phòng thanh toán nhập khẩu, phòng thanh toán xuất khẩu, phòng vay nợ viện trợ. Trong đó, phòng vay nợ viện trợ thực hiện các L/C cả xuất và nhập khẩu liên quan đến nghị định thư của Chính phủ và các nghiệp vụ bảo lãnh, L/C dự phòng. Mỗi phòng có cách phân công công việc khác nhau, dẫn đến việc không thuận lợi cho khách hàng trong giao dịch. Có thể gộp lại chung một bộ phận gọi là bộ phận thanh toán quốc tế, trong đó chia làm các khối theo mảng thị trường, ví dụ khối Asean, khối Bắc Mỹ, khối Đông Âu, khối Tây Âu... Mỗi một khối phụ trách tất cả các nghiệp vụ L/C xuất, L/C nhập, L/C dự phòng, bảo lãnh, vay nợ viện trợ liên quan đến khối thị trường đó. Trong mỗi khối, có thể phân công các thanh toán viên phụ trách từng mảng nghiệp vụ chuyên sâu như hiện nay.
-Đối với đội ngũ thanh toán hiện có:
+Thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo nghiệp vụ để bổ xung kiến thức, phổ biến các kĩ thuật thanh toán mới.
+Khuyến khích cán bộ thanh toán tự nâng cao trình độ.
+Đổi mới nhân thức cho đội ngũ cán bộ thanh toán viên về chính sách khách hàng.
+Bên cạnh đó Vietcombank cần đẩy mạnh công tác tuyển dụng mới những người có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, vi tính, những người có khả năng, năng động, nhiệt tình.
-Tổ chức lại bộ phận thanh toán xuất khẩu bằng cách hình thành các bộ phận nghiệp vụ chuyên môn hoá. Giải pháp chia bộ phận thanh toán xuất khẩu thành các tổ .
+Tổ tiếp nhận điện /thư đến .
+Tổ thanh toán viên chịu trách nhiệm.
+Tổ kiểm tra chứng từ chịu trách nhiệm.
Như vậy quá trình thanh toán sẽ được chuyên môn hoá thành từng mảng nghiệp vụ, do đó tạo điều kiện cho thanh toán viên có thể nâng cao tay nghề, đưa ra những lời khuyên bổ ích cho các doanh nghiệp xuất khẩu vốn còn nhiều hạn chế về nghiệp vụ ngoại thương và thanh toán xuất khẩu.
7.Đổi mới công nghệ ngân hàng, ứng dụng các công nghệ hiện đại nhàm nâng cao chất lương, hiệu quả thanh toán.
Tuy được đánh gía là ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực công nghệ, nhưng cũng như các ngân hàng thương mại Việt nam, quá trình hiện đại hoá công nghệ ở Vietcombank được tiến hành từng bước và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn cụ thể chứ chưa lập thành một kế hoạch chiến lược tổng thể. Vì vậy, trong thời gian tới để xâu duẹng một ngân hàng có khách hàng năng tham gia cạnh tranh trên thị trường tài chinh, tiền tệ, đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng trên nền tảng phát triển của công nghệ, thông tin,Vietcombank cần thực hiện một số giải pháp công nghệ:
-Tận dụng tối đa công suất của hệ thống máy móc hiện có, giảm thiểu các công việc giấy tờ bằng cách chuyển sang sử dụng quản lý trên hệ thống máy vi tính và thông qua mạng máy tính.
-Hoàn thiện các chương trình phần mềm phục vụ công tác thanh toán xuất khẩu.
-Bổ xung các dịch vu thanh toán xuất khẩu trên trang Web tiến tới giao dịch với khách hàng thông qua mạng internet .
-Tăng cường sử dụng mạng máy tính nội bộ giữa cac hci nhánh trong toàn hệ thống.
-Nâng cao khả năng quản lý rủi ro thanh toán xuất khẩu thông qua xây dựng các modul quản lý rủi ro trên cơ sở phân loại các rủi ro theo thứ tự ưu tiên.
-Tiêu chuẩn hoá hệ thống thông tin phục vụ cho công tác quản trị có liên quan đên công tác thanh toán xuất khẩu .
-Xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin làm nền tảng cho các ứng dụng và dịch ngân hàng .
-Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đưa ra các sản phẩm dịch vụ Internet-banking, nghiên cứu và triển khai các dịch vụ ngân hàng điện tử.Nám bắt các su hướng của thương mại điện tử để chuẩn bị cho các dịch vụ ngân hàng tương ứng.
Trên đây là một số giải pháp đối với ngân hàng Vietcombank nhằm hoạt thiện hoạt động thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những giải pháp mang tính chủ quan từ phía ngân hàng. Để có thể thu được kết quả tốt nhất từ nhưng giải pháp trên cần phải có sự phối kết hợp của ngân hàng với các cơ quan quản lý Nhà nước và các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu.
III. Một số kiến nghị
1.Một số kiến nghị đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước
Để giải quyết những tồn tại và phát huy được vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các Bộ ngành liên quan cần phải thực hiện các công việc cụ thể sau:
*Có chính sách kinh tế thương mại rõ ràng, ổn định và đồng bộ.
-Cần có sự thống nhất giữa các Bộ ngành có liên quan để tránh xung đột pháp lý giữa thông lệ quốc tế với luật quốc gia và quy định trong nước về nghĩa vụ cam kết tài chính giữa ngân hàng với nước ngoài.
-Bên cạnh các văn bản luật cần có những văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn thực hiện cụ thể. Tránh tình trạng sử dụng các bộ luật trong thời gian dài mà không có sửa đổi bổ sung, nhưng cũng tránh những thay đổi quá đột ngột gây khó khăn cho những người thi hành. Khi ban hành, sửa đổi hay bổ xung một văn bản pháp lý nào đó cần phải rõ ràng, đồng bộ và phù hợp với thực tiễn.
* Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng .
Luật ngân hàng có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/1998 song đến nay vẫn còn thiếu nhiều nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành luật và còn nhiều điểm chưa được thống nhất.Vậy Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn luật ngân hàng .
Ngân hàng Nhà nước cần sớm ban hành các quy chế thống nhất cho các nghiệp vụ ngân hàng .
Hiện nay, nghiệp vụ thanh toán quốc tế chưa có luật trong nước điều chỉnh. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế cũng cần được luật hoá đặc biệt là đối tác của nghiệp vụ thanh toán này là nước ngoài. Trong khi đó, UCP 500 chỉ là qui định mang tính quốc tế, không phải là luật, mà chỉ là căn cứ để toà án tham khảo khi xảy ra tranh chấp. Do đó, sẽ là thiệt thòi cho các doanh nghiệp Việt Nam, cho các ngân hàng Việt Nam khi chưa được luật pháp bảo vệ trong quá trình thực hiện nghiệp vụ này.
Ngân hàng Nhà nước cần bổ sung quy định về biểu phí thanh toán qua ngân hàng cho phù hợp với việc phát triển các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại.
*Xây dựng khung pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc tế.Hoạt động thanh toán quốc tế là một hoạt động không chỉ đơn thuần là mối quan hệ mang tính nội bộ trong nước mà còn là mối quan hệ mạng tính chất quốc tế. Yêu cầu đặt ra đối với chính phủ và ngân hàng Nhà nước cần phải xây dựng một hệ thống khung pháp lý làm cơ sở cho hoạt động thanh toán quốc tế. Dựa trên cơ sở đó các ngân hàng thương mại trong đó có Vietcombank mới có thể hoạt động một cách chặt chẽ có quy tắc và hiệu quả.
*Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (thị trường hối đoái)
Ngân hàng Nhà nước cần phải phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm mở rộng các công cụ kinh doanh ngoại tệ và các đồng tiền đưa vào giao dịch, tạo điều kiện cho ngân hàng hạn chế rủi ro về tỷ giá phục vụ tốt hơn yêu cầu của khách hàng.
2. Một số kiến nghị đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Vietcombank cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau để nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán quốc tế:
-Tập trung giải quyết dứt điểm các vướng mắc trong thanh toán quốc tế.
-Để đảm bảo uy tín trong thanh toán cấn nghiên cứu đưa ra hạn mức thanh toán đối với các khách hàng trong cũng như đối với ngân hàng nước ngoài trên cơ sở tín nhiệm và số lượng thanh toán.
-Nghiên cứu chế độ thưởng phạt rõ ràng trong công tác thanh toán.
-Nghiên cứu khép kín nghiệp vụ cấp vốn vay với việc xuất trình chứng từ hàng xuất qua Vietcombank.
-Phát huy ưu thế của mình trong quan hệ quốc tế để có những thông tin, đanh giá về ngân hàng đại lý kịp thời.
-Cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các phòng ban để có sự thống nhất trong công việc, tránh gây khó khăn, ách tắc.
-Đinh kỳ tổ chức trao đổi kinh nghiệm thanh toán trong toàn hệ thống, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và góp phần giữ vững thị phần của Vietcombank trước những cạnh tranh gay gắt trong toàn ngành ngân hàng.
3. Một số kiến nghị đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu
Như phần trên đã nói, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay có trình độ nghiệp vụ còn rất yếu kém, đội ngũ cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực ngoại thương còn quá ít so với yêu cầu và trình độ còn chưa theo kịp với tốc độ phát triển trên thế giới cho nên đã ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động thanh toán xuất khẩu của các ngân hàng. Do vậy, để phát triển và hoàn thiện phương thức thanh toán tín dụng chứng từ thì ngoài nỗ lực phấn đấu của các ngân hàng còn cần đến sự phối kết hợp từ phía các doanh nghiệp này. Do đó, vấn đề đặt ra hiện nay là các doanh nghiệp cần phải tự nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình cho phù hợp với yêu cầu phát triển chung của nền kinh tế. Cụ thể là:
- Cần có một đội ngũ chuyên trách, có trình độ nghiệp vụ vững vàng trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu.
Các cán bộ này phải được đào tạo về nghiệp vụ ngoại thương, am hiểu các luật về thương mại và thanh toán quốc tế, có năng lực trong công tác. Đối với những doanh nghiệp có nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu thường xuyên với doanh số lớn thì nên thành lập cho mình một phòng kinh doanh xuất nhập khẩu, chuyên về nghiên cứu thị trường, tình hình tài chính của bạn hàng, nghiên cứu các hệ thống luật có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu trong và ngoài nước... phục vụ cho công tác nghiên cứu dự báo để định hướng vĩ mô cũng như lập kế hoạch dài hạn về xuất nhập khẩu của đơn vị mình. Đối với các doanh nghiệp không chuyên về xuất nhập khẩu, chưa có đội ngũ cán bộ chuyên trách về ngoại thương thì có thể nhờ hoặc thuê chuyên gia về lĩnh vực xuất nhập khẩu để giúp đỡ, tư vấn cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp mình.
Các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu cần phải thường xuyên đào tạo đội ngũ cán bộ, cử các cán bộ của mình đi học các lớp nâng cao trình độ nghiệp vụ do các trường đại học, các tổ chức trong và ngoài nước tổ chức, thuê chuyên gia về hướng dẫn... nhằm giúp csn bộ nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, tiếp cận và học hỏi các kỹ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu mới cũng như các phương thức thanh toán hiện đại.
- Thận trọng trong việc lựa chọn đối tác.
Như ta đã biết, dù với bất cứ phương thức thanh toán nào thì việc trả tiền vẫn phụ thuộc rất nhiều vào thiện chí của người mua, vào uy tín và mối quan hệ giữa hai bên. Đặc biệt, trong kinh doanh xuất nhập khẩu thì bên mua là các đối tác nước ngoài, các doanh nghiệp không thể nào biết hết được các thông tin về bạn hàng cho nên rủi ro xảy ra là khá lớn. Do đó, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cần lựa chọn các đối tác có uy tín trên thị trường, buôn bán sòng phẳng và có quan hệ lâu dài thì càng tốt. Đồng thời, cố gắng giảm thiểu việc giao dịch qua nhiều trung gian thì càng giảm được các chi phí trong giao dịch cũng như các rủi ro do các trung gian đó lừa đảo. Thông tin về các đối tác cần thu thập càng nhiều càng tốt, từ nhiều nguồn khác nhau như thông qua ngân hàng, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, qua báo chí, qua hệ thống mạng toàn cầu, qua phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam...rồi từ đó tổng hợp lại để có được thông tin mà mình cần.
Mục Lục
Lời mở đầu 1
Chương I. Cơ sở lý luận về thanh toán quốc tế 3
I. Khái niệm và vai trò của thanh toán quốc tế 3
1. Khái niệm về thanh toán quốc tế 3
2. Vai trò của thanh toán quốc tế 5
2.1. Vai trò của thanh toán quốc tế đối với hoạt động kinh tế quốc dân 5
2.2.Vai trò của thanh toán quốc tế đối với hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. 6
II. Quá trình phát triển nghiệp vụ thanh toán quốc tế. 8
1. Giai đoạn thanh toán quốc tế tự do và nhiều bên trước
khủng hoảng TBCN (1929). 8
1.1. Tự do mua bán ngoại hối. 8
1.2. Vốn ngắn hạn và dài hạn tự do lưu động trên thế giới. 8
1.3. Tự do xuất nhập khẩu vàng. 8
1.4. Thị trường tự do về ngoại hối và vàng. 8
1.5. Thanh toán quốc tế nhiều bên. 9
2. Giai đoạn thanh toán quốc tế trong khuôn khổ hiệp
định (sau 1933). 9
3.Đặc trưng của hoạt động thanh toán quốc tế trong giai đoạn
hiện nay 10
3.1. Đồng đô la Mỹ (USD) không còn là đồng tiền chuẩn
duy nhất trong thanh toán quốc tế. 10
3.2. Trên thế giới vẫn còn tồn tại hai chế độ quản chế ngoại
hối đối đầu nhau. 11
3.3. Các liên minh tiền tệ, tín dụng ra đời và ngày càng có
vai trò quan trọng đối với các quốc gia. 11
III. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế. 13
1. Cán cân thanh toán quốc tế. 13
1.1. Khái niệm về cán cân thanh toán quốc tế. 13
1.2. Các hang mục của cán cân thanh toán quốc tế. 13
1.3. Mối quan hệ và sự điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế. 14
2. Tỷ giá hối đoái. 14
2.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái. 14
2.2. Các loại tỷ giá. 15
2.3. Vai trò của tỷ giá hối đoái. 16
IV. Giới thiệu về phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. 17
1. Khái niệm về phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. 17
2.Các bên tham gia. 18
2.1.Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có: 18
2.2.Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia. 18
3. Quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ 19
4. Thư tín dụng. (L/C) 20
4.1. Khái niệm thư tín dụng. 20
4.2. Nội dung chủ yếu của một thư tín dụng. 21
4.3. Các loại thư tín dụng. 22
4.3.1.Thư tín dụng có thể huỷ bỏ (Revocable L/C) 22
4.3.2. Thư tín dụng không thể huỷ bỏ (Irrevocable L/C). 23
4.3.3.Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận
(Confirmed irrevocable L/C). 23
4.3.4.Thư tín dụng không thể huỷ bỏ miễn truy đòi
(Irrevocable without recourse L/C) 23
4.3.5. Thư tín dụng chuyển nhượng (Transferable L/C). 23
4.3.6.Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C). 23
4.3.7. Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C). 24
4.3.8. Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C). 24
4.3.9. Thư tín dụng dự phòng (Stand-by L/C). 24
4.3.10. Thư tín dụng thanh toán dần dần về sau
(Deferred payment L/C). 24
4.3.11. Thư tín dụng có điều khoản đỏ (Red clause L/C). 24
4.4. Lợi ích của thư tín dụng. 25
5. Ưu nhược điểm của phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ 25
5.1. Ưu điểm 25
5.2. Nhược điểm 26
5.2.1. Nguyên nhân gây ra rủi ro. 26
5.2.2. Những rủi ro thường xảy ra. 27
Chương II. Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế
theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) 30
I. Tổng quan về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNTVN) 30
1. Lịch sử hình thành NHNTVN 30
2. Cơ cấu tổ chức của NHNTVN. 31
2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và điều hành: 33
2.2.Cơ cấu tổ chức bộ máy giúp việc: 33
2.3. Nội dung và phạm vi hoạt động của NHNT: 34
II. Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNTVN 34
1. Công tác huy động vốn và sử dụng vốn 34
1.1.Tổng nguồn vốn 36
1.2. Công tác huy động vốn 36
1.2.1. Nguồn vốn huy động từ thị trường I 36
1.2.2. Nguồn vốn huy động từ trị trường II 37
1.3. Tình hình sử dụng vốn 37
2.Tình hình hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại
Vietcombank những năm gần đây 38
3. Các hoạt động khác 40
3.1. Tình hình kinh doanh ngoại tệ tại Vietcombank 40
3.2. Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng 41
3.3. Công tác đối ngoại 42
3.4. Công nghệ ngân hàng 42
4.Kết quả hoạt động kinh doanh của Vietcombank 42
III. Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức
tín dụng chứng từ tại VCB. 44
1.Văn bản pháp lý quy định về hoạt động thanh toán quốc tế. 44
2. Quy trình nghiệp vụ thanh toán theo phương thức
tín dụng chứng từ tại Vietcombank 45
2.1.Vietcombank với trách nhiệm là ngân hàng thông báo
L/C - (Advising bank) 45
2.1.1. Nhận L/C và tư vấn cho khách hàng 45
2.1.1.1. Nhận L/C từ ngân hàng tại nước ngoài gửi đến và
thông báo cho người hưởng lợi Việt Nam. 45
2.1.1.2. Nghiên cứu L/C để tư vấn cho khách hàng tại Việt nam 46
2.1.2. Sửa đổi L/C 47
2.2. Vietcombank với trách nhiệm là ngân hàng thương
lượng trong thanh toán xuất khẩu ( the negotiating bank) 48
2.2.1. Nhận chứng từ do khách hàng gửi đến và kiểm tra chứng từ 48
2.2.1.1. Kiểm tra hối phiếu ( drafts, bill of exchange ) 49
2.2.1.2. Kiểm tra hoá đơn thương mại ( commercial invoice) 50
2.2.1.3. Kiểm tra vận đơn (transport document) 50
2.2.1.4. Kiểm tra bảo hiểm đơn( insurance policy) 51
2.2.1.5. Kiểm tra các loại chứng từ khác 51
2.2.2. Gửi bộ chứng từ đòi tiền 52
2.2.3. Thanh toán L/C 53
2.2.3.1. Chiết khấu truy đòi (negotiate) 54
2.2.3.2. Chiết khấu miễn truy đòi 55
3. Tình hình hoạt động thanh toán xuất khẩu tại Vietcombank
theo phương thức tín dụng chứng từ (TDCT) 56
3.1. Doanh số, tỷ trọng của phương thức TDCT so với
phương thức khác trong thanh toán xuất khẩu tại Vietcombank 57
3.2. Tình hình thị trường Vietcombank tham gia thanh
toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ 59
3.3.Tình hình khách hàng. 61
3.4.Tình hình các mặt hàng xuất khẩu được thanh toán
bằng phương thức tín dụng chứng từ qua Vietcombank 63
IV. Đánh giá hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức
tín dụng chứng từ tại Vietcombank 64
1. Các thành công mà Vietcombank đã đạt được 64
2. Những vướng mắc khó khăn 66
2.1.Khó khăn trong quy trình nghiệp vụ thanh toán xuất khẩu bằng L/C 66
2.2. Các khó khăn từ phía ngân hàng 67
3. Những vấn đề đặt ra cần hoàn thiện 69
3.1.Quan điểm về xu thế hội nhập quốc tế của hoạt động
thanh toán quốc tế 69
3.2. Nhìn nhận thanh toán quốc tế là một dịchvụ trong
hoạt động kinh doanh của ngân hàng 69
3.3.Dựa vào yếu tố ngân hàng để đưa ra giải pháp 70
Chương III. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện
hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng
chứng từ tại Vietcombank 71
I. Phương hướng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức
tín dụng chứng từ tại Vietcombank trong thời gian tới 71
II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động thanh toán
quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Vietcombank 73
1.Hoàn thiện quy trình thanh toán tín dụng chứng từ hàng xuất 73
1.1.Quy định về kiểm tra L/C 73
1.2.Bổ sung một số quy định về việc thực hiện các loại L/C 73
1.3 Thời gian làm thủ tục thanh toán 73
2. Phát triển thêm một số nghiệp vụ thanh toán 74
2.1. Triển khai nghiệp vụ chiết khấu chứng từ 74
2.2. Thực hiện thanh toán trả tiền ngay đối với thanh toán xuất khẩu 75
2.3. Thực hiện thanh toán theo đúng ngày giá trị 76
3.Phát triển đòng bộ các dịch vụ ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh. 73
3.1.Tài trợ xuất khẩu 77
3.2.Mua bán ngoại tệ 77
3.3.Tư vấn thương mại 77
4.Thực hiện một chính sách khách hàng hấp dẫn, phân tích đối thủ
cạnh tranh và áp dụng marketing ngân hàng và hoạt động
thanh toán xuất khẩu 77
5.Mở rộng và nâng cao quan hệ đối ngoại. 78
6.Tăng cường công tác tổ chức và đào tạo cán bộ. 78
7.Đổi mới công nghệ ngân hàng, ứng dụng các công nghệ
hiện đại nhàm nâng cao chất lương, hiệu quả thanh toán. 79
III. Một số kiến nghị 81
1.Một số kiến nghị đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước 81
2. Một số kiến nghị đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 82
3. Một số kiến nghị đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu 82
Kết Luận 84
Tài liệu tham khảo 85
Kết luận
Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang đặt ra những thách thức và cả những vận hội mới cho các quốc gia trong đó có Việt Nam. Do vậy con đương duy nhất để phát triển kinh tế là phải tăng cường các quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập vào nền kinh tế khuvực và thế giới. Thương mại quốc tế là nền tảng của mọi quan hệ quốc tế nên để tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế, nước ta cần pphải đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế với hoạt động chủ đạo là xuất khẩu. Điều nay đòi hỏi công tác xuất khẩu nói chung và công tác thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ của các ngân hàng thương mại nói riêng phải không ngừng được hoàn thiện, phát triển để phục vụ tôt nhất cho hoạt động xuất khẩu , góp phần đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế.
Thanh toán quốc tế là hoạt động truyền thống của Vietcombank. Trong những năm vừa qua, hoạt động thanh toán xuất khẩu đăc biệt là thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ đã đạt được những kết quả khả quan, đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động thanh toán xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ vẫn còn những mặt khó khăn, hạn chế, mặt khác lại gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng trong và ngoài nước.
Thông qua bài viết này, từ những nghiên cứu về thực trạng, tìm hiểu thuận lợi, khó khăn trong hoạt động thanh toán xuất khẩu bằng phươn gthức tín dụng chứng từ tại Vietcombank, em đã mạnh dạn đề xuất một số ý kiến với mong muốn đong góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện hoạt động này tại Vietcombank, để Vietcombank giữ vững vai trò là ngân hàng thương mại hoạt động đối ngoại hàng đầu ở Việt Nam.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn các cán bộ phòng thanh toán xuất khẩu - VCB cùng thầy giáo PGS-TS Nguyễn Duy Bột và thầy giáo Th.s Nguyễn Trọng Hà đã giúp đỡ, chỉ bảo tận tình cho em hoàn thành chuyên đề này./.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Thương mại quốc tế -ĐH KTQD- PGS.TS Nguyễn Duy Bột
Giáo trình Thanh toán quốc tế -ĐH KTQD- PGS.TS Nguyễn Duy Bột
Giáo trình Thanh toán quốc tế - NXBGD-PGS Đinh Xuân Trình
Tạp chí con số và sự kiện các năm 1999, 2000, 2001
Tạp chí Ngân hàng các năm 2000, 2001, 2002
Tạp chí Vietcombank các năm 2001, 2002
Báo cáo thường niên của Vietcombank năm 2000, 2001
Báo cáo thanh toán quốc tế của Vietcombank năm 2000, 2001
UCP 500
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29663.doc