lời nói đầu
Thương mại Quốc tế có vai trò rất quan trọng đối với mọi nền kinh tế quốc dân. Không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển một cách độc lập, riêng rẽ mà không có mối quan hệ kinh tế, chính trị với các quốc gia khác. Nếu như Thương mại Quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia thông qua mua bán để thu lợi nhuận thì nhập khẩu là một mắt xích của qúa trình đó.
Nhập khẩu cho phép bổ xung những sản phẩm hàng hoá trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1313 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hoạt động Nhập khẩu hàng hoá tai Tổng Công ty XNK Xây dựng Việt Nam (VINACONEX), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệu quả và đem lại lợi ích cho các bên tham gia. Đặc biệt đối với Việt Nam-là một quốc gia đang phát triển, đang tiến trên con đường công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước trong khi sản xuất công nghiệp chưa phát triển thì nhu cầu về hàng nhập khẩu ngày càng cao.
Là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ xây dựng, Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam - VINACONEX đã sớm khẳng định được vai trò của mình trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty không những mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mà còn mang lại lợi ích cho nền kinh tế quốc dân.
Để khai thác triệt để lợi thế của việc nhập khẩu hàng hoá trong lĩnh vực xây dựng nhằm từng bước nâng cao cơ sở hạ tầng trong nước, việc đánh giá hoạt động nhập khẩu trong lĩnh vực xây dựng và đề ra giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động này có tầm quan trọng đặc biệt và có ý nghĩa thiết thực. Do đó trong qúa trình thực tập ở Tổng công ty VINACONEX tôi đã chọn đề tài nghiên cứu là: "Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu hàng hoá tại Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam VINACONEX "
Đề tài được chia làm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về Thương mại Quốc tế nói chung và hoạt động nhập khầu nói riêng.
Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu hàng hoá tại Tổng công ty VINACONEX
Chương III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu hàng hoá tại Tổng công ty VINACONEX .
Trong quá trình tìm hiểu và hoàn thành đề tài, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của cô giáo Nguyễn Liên Hương và các cán bộ ở Trung Tâm kinh doanh VINACONEX - Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam. Tôi xin chân thành cảm ơn và rất mong nhận được ý kiến đóng góp giúp tôi hoàn thiện kiến thức chuyên môn của mình.
Chương I
những vấn đề lý luận cơ bản về thương mại quốc tế nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng
I.Thương mại quốc tế - Một sự cần thiết khách quan.
1.Khái niệm về Thương mại Quốc tế.
Hoạt động buôn bán Quốc tế xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 2 - 3 sau công nguyên bằng con đường tơ lụa. Những lái buôn chở hàng từ Châu á ( chủ yếu là tơ lụa nổi tiếng ) bằng lạc đà vượt qua sang các nước Châu âu và mua hàng hoá từ Châu âu trở về Châu á để bán. Họ đã đi những bước đầu tiên trên con đường Thương mại Quốc tế (TMQT). Qua năm tháng, hoạt động TMQT ngày càng phát triển.
Ngày nay, TMQT không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà là sự phụ thuộc tất yếu giữa các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. TMQT một mặt phải khai thác được mọi lợi thế tuyệt đối của đất nước phù hợp với xu thế phát triển và quan hệ kinh tế quốc tế. Mặt khác phải tính đến lợi thế tương đối có thể được theo quy luật chi phí cơ hội. Phải luôn tính toán cái có thể thu được so với cái phải bỏ ra khi tham gia vào TMQT.
Như vậy, TMQT là quá trình trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia dưới hình thức buôn bán nhằm mục đích kinh tế và lợi nhuận tối đa.
2.TMQT- Một sự cần thiết khách quan.
Từ lâu các nhà kinh tế học đã chỉ ra rằng quốc gia cũng như cá nhân không thể sống và lao động sản xuất riêng rẽ mà có đầy đủ mọi thứ được, mà phải có mối quan hệ và hợp tác với nhau thông qua những hoạt động kinh tế xã hội. Do đó một tất yếu khách quan là phải có TMQT mới đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của con người.
Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá ngày càng sâu sắc và quy mô sản xuất ngày càng lớn.
Sự cần thiết của TMQT thể hiện qua một số điểm sau:
- Lý do cơ bản nhất là TMQT mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của một nước. Nó cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không buôn bán.
- TMQT làm cho cả hai bên tham gia cùng có lợi cả về kinh tế lẫn chính trị.
Về mặt kinh tế, TMQT đem lại nguồn thu nhập lớn cho mỗi quốc gia. Các quốc gia khai thác được cả lợi thế tuyệt đối và tương đối của mình. Quốc gia lớn mạnh ngoài việc thu ngoại tệ còn củng cố ngày càng vững vị trí vốn đã chắc của mình trên thương trường. Quốc gia lạc hậu thì tiếp cận được khoa học kỹ thuật tiên tiến, học hỏi được phương thức quản lý mới, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động,...
Thông qua hoạt động TMQT , các quốc gia hiểu biết nhau hơn, tăng cường các mối quan hệ khác. Kinh tế càng mạnh, chính trị càng vững.
- TMQT làm tăng sức cạnh tranh
TMQT ngày càng gắn liền với cạnh tranh gay gắt mà trung tâm cạnh tranh hướng vào hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm và thị hiếu tiêu dùng. Các quốc gia là các hệ thống kinh tế phụ thuộc nhau và mâu thuẫn nhau gay gắt vì chúng vừa có khuynh hướng bảo hộ vừa có khuynh hướng mở cửa. Muốn tồn tại, các quốc gia phải tự nâng mình lên, sản phẩm sản xuất ra phải có chất lượng ngày càng cao mới đáp ứng được nhu cầu phong phú, đa dạng của con người.
Như vậy, TMQT là tất yếu khách quan, taọ ra hiệu quả kinh tế cao nhất trong nền sản xuất của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới.
II.Hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Thế giới ngày càng phát triển thì vai trò TMQT trở thành tất yếu cho sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Có TMQT nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng mới đáp ứng được nhu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.
Có thể nói, nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống. Nhập khẩu là để tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại cho sản xuất và các hàng hoá cho tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không hiệu quả.
Cụ thể, vai trò của hoạt động nhập khẩu thể hiện qua một vài điểm sau:
- Nhập khẩu cho phép bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo một sự phát triển cân đối và ổn định. Khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế. Sản xuất trong nước phải học tập, nghiên cứu và đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng để cạnh tranh với hàng nhập.
- Trang bị những thiết bị máy móc hiện đại, bổ sung nguyên vật liệu đảm bảo đầu vào cho sản xuất, từ đó tạo việc làm cho người lao động góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
- Nhập khẩu góp phần thúc đẩy xuất khẩu do có nguyên liệu và máy móc để sản xuất hàng xuất khẩu.
- Thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
- Tăng cường sự hiểu biết, thắt chặt mối quan hệ kinh tế xã hội với các nước khác.
III.Nội dung của hoạt động nhập khẩu.
Giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ ngoại thương bao giờ cũng phức tạp, chứa đầy sự rủi ro so với mua bán trong nước do có sự khác nhau về nhiều mặt. Do vậy để đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh nhập khẩu, doanh nghiệp cần thực hiện các nghiệp vụ sau:
1.Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là một hoạt động của các nhà marketing sử dụng một hệ thống các công cụ, kỹ thuật để thu thập và xử lý thông tin thị trường về nhu cầu và mong muốn của khách hàng trên cơ sở đó ra các quyết định marketing đúng đắn.
Trong TMQT , nghiên cứu thị trường bao gồm nghiên cứu thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.
1.1Nghiên cứu thị trường trong nước.
Trên thị trường luôn có những biến động mà bản thân doanh nghiệp rất khó lượng hoá được. Do vậy cần phải theo sát và am hiểu thị trường thông qua hoạt động nghiên cứu. Việc thu thập đầy đủ thông tin về thị trường có ý nghĩa cho việc ra quyết định trong kinh doanh vì đây là thị trường đầu ra của doanh nghiệp.
Khi nghiên cứu thị trường trong nước, doanh nghiệp cần trả lời được các câu hỏi sau:
+Thị trường trong nước đang cần mặt hàng gì ? Tìm hiểu về mặt hàng, quy cách, mẫu mã, chủng loại,...
+Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó ra sao?
+Đối thủ cạnh tranh trong nước như thế nào?
+Tỷ suất ngoại tệ là bao nhiêu?
2.Nghiên cứu thị trường nước ngoài.
Mục đích của giai đoạn này là lựa chọ được nguồn hàng nhập khẩu và đối tác giao dịch một cách tốt nhất. Vì đây là thị trường nước ngoài nên việc nghiên cứu gặp phải một số khó khăn và không được kỹ lưỡng như thị trường trong nước . Doanh nghiệp cần biết các thông tin về khả năng sản xuất, cung cấp, giá cả và sự biến động của thị trường. Bên cạnh đó cần am hiểu về chính trị, luật pháp, tập quán kinh doanh,... của nước bạn hàng.
3. Phương pháp nghiên cứu thị trường.
Công việc đầu tiên của công tác nghiên cứu thị trường là thu thập những thông tin có liên quan đến thị trường và mặt hàng doanh nghiệp cần quan tâm.
Có hai phương pháp nghiên cứu thị trường:
+ Phương pháp nghiên cứu văn phòng hay nghiên cứu tại bàn.
+ Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường.
a.Nghiên cứu tại bàn.
Về cơ bản nghiên cứu tại bàn bao gồm việc thu thập thông tin từ các nguồn tư liệu xuất bản hay không xuất bản và tìm những nguồn đó.
Có thể lấy tài liệu từ 3 nguồn cơ bản đó là:
+Những thông tin từ các tổ chức Quốc tế như: Trung tâm TMQT (ITC), Tổ chức thương mại và phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD ), Hội đồng kinh tế xã hội Châu á và Thái Bình Dương (ESCAP ),...
+ Những thông tin từ các sách báo thương mại do các tổ chức quốc gia hoặc cá nhân xuất bản như: Niên giám thống kê xuất khẩu của các nước, thời báo tài chính, thời báo kinh tế,...
+ Những thông tin từ quan hệ với thương nhân. Số liệu thống kê là một trong những loại thông tin quan trọng nhất, được sử dụng nhiều trong nghiên cứu thị trường, đặc biệt là nghiên cứu tại bàn. Đó là những số liệu thống kê về sản xuất, tiêu thụ, xuất khẩu, nhập khẩu, dự trữ, tồn kho, giá cả,...Nó giúp cho người nghiên cứu có một cái nhìn bao quát về dung lượng thị trường và xu hướng phát triển.
Nghiên cứu tại bàn là phương pháp phổ thông nhất về nghiên cứu thị trường vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của những doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế như chậm và mức độ tin cậy có hạn. Kết quả nghiên cứu tại bàn cũng cần phải được bổ sung bằng nghiên cứu tại hiện trường.
b.Nghiên cứu tại hiện trường.
Nghiên cứu tại hiện trường bao gồm việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc với mọi người trên thị trường. Đây là một phương pháp quan trọng.
Về mặt trình tự, nghiên cứu tại hiện trường có thể được thực hiện sau khi đã sơ bộ phân tích, đánh giá những kết quả nghiên cứu tại bàn, nghĩa là sau khi đã xử lý thông tin. Nghiên cứu tại bàn chủ yếu thu thập thông tin qua các nguồn đã được công khai xuất bản, còn nghiên cứu tại hiện trường chủ yếu thu thập thông tin từ trực quan qua các quan hệ giao tiếp với thương nhân và với người tiêu dùng. Xét về tính phức tạp và mức độ chi phí, nghiên cứu tại hiện trường là một hoạt động tốn kém, đòi hỏi kỹ năng và kinh nghiệm cao do đó không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng làm được.
Nghiên cứu tại hiện trường có thể được thực hiện bằng các bảng câu hỏi ( phiếu điều tra ), phỏng vấn qua điện thoại, điều tra qua bưu điện,...
2.Lập phương án kinh doanh.
Căn cứ vào những thông tin thu được trong việc nghiên cứu thị trường, lựa chọn đối tác và các quyết định, mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra để lập phương án kinh doanh.
Nội dung của nó bao gồm nhiều công việc, trong đó có các công việc sau:
+ Vấn đề cơ bản đầu tiên là phải xác định được mặt hàng nhập khẩu .
+ Xác định số lượng hàng nhập khẩu .
+ Lựa chọn thị trường, bạn hàng, phương thức giao dịch,...
+ Đề ra các biện pháp để đạt được mục tiêu trên như chiêu đãi, mời khách, quảng cáo,...
+ Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập khẩu .
Dùng một số chỉ tiêu đánh giá như:
- Lợi nhuận nhập khẩu = Tổng doanh thu NK - Tổngchi phí NK
- Tỉ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu : đó là số lượng bản tệ thu về khi phải chi ra một đồng ngoại tệ.
Nếu tỉ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu lớn hơn tỉ giá hối đoái thì phương án kinh doanh này hiệu quả, doanh nghiệp nên nhập. Ngược lại, không nên nhập. Trường hợp tỉ suất bằng tỉ giá thì doanh nghiệp có thể thực hiện hay không còn tuỳ vào từng trường hợp cụ thể.
3.Giao dịch và ký kết hợp đồng.
3.1Giao dịch, đàm phán trước khi ký kết.
Để có thể soạn thảo và đi đến ký kết hợp đồng, trước hết, hai bên phải đạt được những thoả thuận chung trong buôn bán. Trong quá trình đàm phán, hai bên sẽ đưa ra những yêu cầu, ý muốn của mình để cùng xem xét, thảo luận để cùng thống nhất làm căn cứ để soạn thảo một hợp đồng.
Thông thường có ba hình thức đàm phán là:
+ Đàm phán qua thư tín.
+ Đàm phán qua điện thoại.
+ Đàm phán bằng gặp gỡ trực tiếp.
Gặp gỡ trực tiếp để đàm phán thường áp dụng đối với hợp đồng lớn, cần trao đổi cặn kẽ. Hình thức này tốn nhiều chi phí nhưng hiệu quả công việc cao hơn.
Trong buôn bán Quốc tế, những bước giao dịch chủ yếu thường diễn ra như sau:
- Hỏi giá:
Đây là việc người mua đề nghị người bán báo cho mình biết giá cả và các điều kiện để mua hàng.
Nội dung của một hỏi giá có thể gồm: Tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng mong muốn. Giá cả mà người mua có thể trả cho mặt hàng đó thường được người mua giữ kín, nhưng để tránh mất thời gian hỏi đi hỏi lại, người mua nêu rõ điều kiện mà mình mong muốn để làm cơ sở cho việc định giá như: loại tiền thanh toán, phương thức thanh toán, điều kiện cơ sở giao hàng,...
Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm của người hỏi giá song không nên hỏi quá nhiều nơi vì như vậy sẽ tạo ra cơn sốt ảo về mặt hàng đó - điều này không có lợi cho người mua.
- Phát giá hay còn gọi là chào hàng.
Phát giá là chào hàng, là việc người bán thể hiện rõ ý định bán hàng của mình. Trong chào hàng người ta nêu rõ: Tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, giá cả, điều kiện cơ sở giao hàng, thời hạn giao hàng,thể thức giao nhận hàng, điều kiện thanh toán,...
Phân biệt hai loại chào hàng là chào hàng cố định và chào hàng tự do:
+ Chào hàng cố định là việc chào bán một lô hàng nhất định cho một người mua nhất định. Nếu người mua chấp nhận chào hàng đó thì hợp đồng coi như được giao kết. Người chào hàng bị ràng buộc trách nhiệm vào lời đề nghị của mình.
+ Chào hàng tự do là việc chào bán một lô hàng cho nhiều khách hàng. Việc khách hàng chấp nhận hoàn toàn các điều kiện của chào hàng tự do không có nghĩa là hợp đồng được ký kết. Người mua cũng không thể trách người bán nếu sau đó người bán không ký kết hợp đồng với mình vì chào hàng tự do không ràng buộc trách nhiệm của người phát ra nó.
- Đặt hàng.
Lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng. Trong đặt hàng người mua nêu cụ thể về hàng hoá định mua và tất cả những nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng.
Trên thực tế, người ta chỉ đằt hàng với các khách hàng có quan hệ thường xuyên.
- Hoàn giá.
Hoàn giá là mặc cả về giá cả hoặc các điều kiện giao hàng. Khi người nhận được chào hàng mà không chấp thuận hoàn toàn chào hàng đó sẽ đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị mới này gọi là trả giá.Trong buôn bán Quốc tế, mỗi lần giao dịch thường trải qua nhiều lần trả giá mới đi đến kết thúc. Như vậy, hoàn giá bao gồm nhiều sự trả giá.
- Chấp nhận.
Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng(hoặc đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra. Khi đó hợp đồng được thành lập.
- Xác nhận.
Sau khi hai bên đã thống nhất thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch, có khi ghi lại mọi điều đã thoả thuận rồi gửi cho bên kia. Đó là văn bản xác nhận. Xác nhận thường được lập thành hai bản, bên lập xác nhận ký trước rồi gửi cho bên kia. Bên kia ký xong giữ lại một bản và gửi trả lại một bản.
Sau khi giao dịch đàm phán, nếu hai bên có thiện chí và có được tiếng nói chung thì sẽ đi đến ký kết hợp đồng mua bán.
3.2 Ký kết hợp đồng.
Hợp đồng mua bán Quốc tế là sự thoả thuận của những đương sự có quốc tịch khác nhau, theo đó bên bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu một khối lượng hàng hoá nhất định cho bên mua và bên mua có nghĩa vụ trả tiền và nhận hàng.
Trong TMQT, hợp đồng được thành lập bằng văn bản, đó là chứng từ cụ thể và cần thiết về sự thoả thuận giữa hai bên mua và bán. Mọi quyền lợi và nghĩa vụ của các bên được thể hiện rõ ràng trong hợp đồng sau khi hai bên đã ký kết trên nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Vì vậy hợp đồng chính là bằng chứng để quy trách nhiệm cho các bên khi có tranh chấp, vi phạm hợp đồng . Đồng thời nó cũng là cơ sở để thống kê, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện hợp đồng của các bên.
Có thể ký kết hợp đồng theo các cách sau:
+ Hai bên ký vào một hợp đồng mua bán.
+ Bên mua xác nhận thư chào hàng của bên bán.
+ Bên bán xác nhận đơn đặt hàng của bên mua.
Một hợp đồng mua bán ngoại thương thường có nội dung sau:
- Số hiệu hợp đồng .
- Địa điểm và ngày tháng ký kết hợp đồng .
- Tên và địa chỉ của các bên đương sự.
- Cơ sở pháp lý để ký kết hợp đồng.
- Các điều khoản bắt buộc của hợp đồng (theo điều 50 Luật Thương mại ) gồm:
+ Tên hàng
+ Số lượng
+ Qui cách, chất lượng
+ Giá cả
+ Phương thức thanh toán
+ Địa điểm và thời hạn giao nhận hàng
Ngoài ra, các bên có thể thoả thuận thêm những điều khoản khác như điều khoản khiếu nại, điều khoản bất khả kháng và các điều khoản khác.
Cụ thể, một hợp đồng nhập khẩu có thể gồm các điều khoản như sau:
Điều 1: Các khái niệm chung (đặc biệt cần với hợp đồng nhập khẩu dây chuyền sản xuất).
Điều 2: Hàng hoá và số lượng.
Điều 3: Giá cả.
Điều 4: Thanh toán.
Điều 5: Giao hàng.
Điều 6: Kiểm tra hàng hoá.
Điều 7: Trọng tài.
Điều 8: Phạt.
Điều 9: Bất khả kháng.
Điều 10: Thời biểu thực hiện hợp đồng.
Điều 11: Các quy định khác.
Đi kèm với hợp đồng có thể có các bản phụ lục tài liệu kỹ thuật, các bản kê chi tiết...tuỳ thuộc vào từng mặt hàng và yêu cầu của các bên.
Hợp đồng phải được trình bầy rõ ràng, sáng sủa, dễ hiểu để tránh sự mặc nhiên suy luận của các bên theo các hướng khác nhau. Phải có chữ ký của người đại diện và con dấu của các bên.
4.Thực hiện hợp đồng
Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương đã được ký kết, đơn vị kinh doanh nhập khẩu - với tư cách là một bên ký kết - phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là một công việc phức tạp, nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và quốc tế đồng thời đảm bảo quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của doanh nghiệp.
Để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp phải tiến hành các công việc sau:
Đôn đốc phía bán giao hàng
Mở L/C
Xin giấy phép
(nếu cần)
Ký hợp đồng
Mua bảo hiểm (Nếu có quyền)
Thuê tàu
(Nếu có quyền)
Tiếp nhận hàng (Kiểm tra SL,CL)
Làm thủ tục Hải quan (nhập khẩu)
Giao hàng cho người đặt hàng(DNTM)
Xử lý tranh chấp (Nếu có)
Làm thủ tục thanh toán
Trình tự trên đây cũng chỉ mang tính chất tương đối. Có những công việc tất yếu phải làm, có những công việc có thể làm hay không tuỳ từng hợp đồng và có những cồn việc thay đổi vị trí cho nhau.
4.1. Xin giấy phép (nếu cần).
Trước đây các đơn vị kinh doanh nhập khẩu, mỗi lần muốn nhập hàng phải xin giấy phép chuyến của Bộ Thương mại. Hiện nay, hình thức này không sử dụng nữa.
Theo Nghị định 57 của Chính phủ ban hành ngày 31/7/2000 thì tất cả mọi thương nhân Việt nam được xuất nhập khẩu hàng hoá kể cả uỷ thác xuất khẩu ra nước ngoài theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà không cần phải xin giấy phép của Bộ thương mại trừ những hàng hoá cấm xuất nhập khẩu hoặc xuất nhập khẩu có điều kiện. Đối với những hàng hoá này do Chính phủ trực tiếp phê duyệt hoặc uỷ quyền cho các cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Cùng với đăng ký kinh doanh thì các doanh nghiệp phải đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu với Tổng cục Hải quan hoặc các chi cục Hải quan ở các tỉnh, thành phố.
Nhà nước thống nhất quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá thông qua việc cấp hạn ngạch. Các giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu Bộ Thương mại đã cấp, hết hiệu lực thi hành từ ngày 01/09/2000.
4.2. Mở L/C.
Có nhiều phương thức để thanh toán nhưng nếu doanh nghiệp lựa chọn thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ thì phải mở L/C (Letter of credit ).
L/C là một văn bản pháp lý do Ngân hàng phát hành ra theo yêu cầu của người nhập khẩu cam kết trả cho người xuất khẩu (người hưởng lợi ) một số tiền nhất định trong một khoảng thời gian nhất định với điều kiện người này thực hiện đúng và đủ những điều kiện quy định trong thư tín dụng.
Để mở một L/C, doanh nghiệp phải làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng được quyền thanh toán Quốc tế cùng với hai uỷ nhiệm chi: một để trả thủ tục phí mở L/C, một để ký quỹ mở L/C. Khoản tiền ký quỹ tính theo tỉ lệ % tổng gia trị hợp đồng. Tỉ lệ này có thể lên tới 100% hoặc chỉ 10-20% tổng giá trị hợp đồng tuỳ vào mối quan hệ, uy tín của doanh nghiệp đối với ngân hàng.
Đơn xin mở L/C theo mẫu in sẵn của ngân hàng Việt Nam và theo thủ tục hiện hành của ngân hàng quy định.
Cơ sở pháp lí và nội dung để làm đơn xin mở L/C là hợp đồng mua bán kí kết giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu.
Căn cứ vào yêu cầu và nội dung của đơn xin mở của L/C , ngân hàng mở L/C sẽ lập ra một bức thư tín dụng và qua ngân hàng đại lý của mình để thông báo và chuyển thư tín dụng dến cho người xuất khẩu.
4.3. Đôn đốc phía bán giao hàng.
Để quá trình nhập khẩu đúng tiến độ như đã quy định trong hợp đồng thì phải đôn đốc phía bán giao hàng đúng số lượng, chất lượng, quy cách, bao bì và đúng thời hạn. Việc giao hàng đúng như vậy mới đáp ứng được phương án kinh doanh đã đề ra, không bỏ lỡ cơ hội.
4.4. Thuê tàu vận chuyển.
Hiện nay do điều kiện nước ta còn hạn chế như đội tàu chưa phát triển, kinh nghiệm thuê tàu ít,... nên chúng ta thường nhập khẩu theo điều kiện CIF, tức là chuyển quyền thuê tàu cho bên xuất khẩu .
Nếu nhập khẩu theo điều kiện FOB thì chúng ta phải thuê tàu dựa vào các căn cứ sau:
+ Những điều khoản của hợp đồng .
+ Đặc điểm của hàng hoá mua bán.
+ Điều kiện vận tải.
Tuỳ thuộc vào khối lượng và đặc điểm của hàng hoá chuyên chở mà lựa chọn thuê tàu cho phù hợp đảm bảo an toàn, thuận lợi, nhanh chóng. Nếu hàng hoá có khối lượng nhỏ thường thuê tàu chợ hoặc lưu khoang tàu chợ. Nếu hàng hoá có khối lượng lớn, hành trình không trùng với hành trình của tàu chợ thì có thể thuê tàu chuyến.
4.5. Mua bảo hiểm.
Nếu nhập khẩu theo điều kiện CIF thì bên nhập cũng không phải mua bảo hiểm vì phí bảo hiểm đã có trong giá CIF ( Do bên xuất khẩu mua ).
Thông thường, trong buôn bán Quốc tế, hàng hoá chủ yếu được vận chuyển bằng đường biển. Hành trình dài lênh đênh trên biển rất đễ xảy ra rủi ro, hư hỏng, mất mát. Vì vậy việc mua bảo hiểm hàng hoá là rất cần thiết. Tuỳ thuộc vào đặc điểm, tính chất của hàng hoá, điều kiện vận chuyển mà mua bảo hiểm chuyến hay mua bảo hiểm bao.
Để ký kết hợp đồng bảo hiểm, cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm. Có ba điều kiện bảo hiểm chính: Bảo hiểm mọi rủi ro (điều kiện A), bảo hiểm có tổn thất riêng (điều kiện B) và bảo hiểm miễn tổn thất riêng (điều kiện C). Cũng có một số điều kiện bảo hiểm phụ như: vỡ, rò, gỉ, không giao hàng, hư hại do móc cẩu,... Ngoài ra còn một số điều kiện bảo hiểm đặc biệt như: bảo hiểm chiến tranh, bảo hiểm đình công, bạo động,...
Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa trên 4 căn cứ sau:
+ Điều khoản hợp đồng.
+ Tính chất hàng hoá.
+Tính chất bao bì và phương thức xếp hàng.
+ Loại tàu chuiyên chở.
4.6. Làm thủ tục hải quan.
Hàng nhập khẩu phải qua biên giới quốc gia nên phải làm thủ tục hải quan. Việc này gồm 3 bước:
- Khai báo hải quan.
Người khai báo hải quan có trách nhiệm tự khai các đối tượng làm thủ tục hải quan theo mẫu tờ khai do Tổng cục trưởng Tổng cục hải quan quy định. Yêu cầu của việc khai này là phải trung thực và chính xác.
Nộp và xuất trình bộ hồ sơ hải quan. Đối với hàng hoá nhập khẩu, bộ hồ sơ gồm:
+ Tờ khai hải quan.
+ Hợp đồng thương mại
+ Bản kê chi tiết (đối với hàng không đồng nhất).
+ Hoá đơn thương mại.
+ Vận đơn ( bản sao )
+ Các giấy tờ khác (đối với hàng nhập có điều kiện hoặc có quy định riêng ).
- Xuất trình hàng hoá:
Người làm thủ tục hải quan phải:
+ Xuất trình đầy đủ hàng hoá để cơ quan hải quan kiểm tra theo thời gian và tại địa điểm quy định.
+ Bố trí phương tiện và nhân công phục vụ việc kiểm tra hàng hoá của cơ quan hải quan.
+ Có mặt trong thời gian kiểm tra hàng hoá.
- Thực hiện các quy định của hải quan.
Sau khi kiểm tra giấy tờ và hàng hoá, hải quan sẽ ra những quyết định như: cho hàng được phép thông quan, không cho thông quan hoặc thông quan có điều kiện ( phải sửa chữa lại bao bì,...). Nghĩa vụ của chủ hàng là phải thực hiện nghiêm túc các quy định đó.
4.7. Giao nhận hàng hoá nhập khẩu.
Theo quy định của Chính phủ: Các cơ quan vận tải ( ga, cảng ) có trách nhiệm tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu trên các phương tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho lưu bãi và giao cho các đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng của doanh nghiệp đã nhập hàng đó.
Do vậy, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu phải trực tiếp hoặc thông qua một đơn vị nhận uỷ thác giao nhận như Vietrans.
Trong trường hợp hàng nhập khẩu được xếp trong container có thể là:
+ Hàng đủ một container: Cảng giao container cho chủ hàng nhậnvề cơ sở của mình và hải quan kiểm hoá tại cơ sở.
+ Hàng không đủ một container : cảng giao container cho chủ hàng có nhiều hàng nhất mang về cơ sở để dỡ hàng và phân chia với sự giám sát của hải quan. Nếu cảng là người mở container để phân chia thì chủ hàng làm thủ tục như nhận hàng lẻ.
4.8. Làm thủ tục thanh toán.
Thanh toán là khâu quan trọng và kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch kinh doanh nhập khẩu. Hiện nay, chúng ta chủ yếu sử dụng phương thức thanh toán thư tín dụng chứng từ trong hoạt động nhập khẩu.
Để tiến hành thanh toán, bên nhập khẩu phải mở một L/C. Thông thường L/C được mở khoảng 20- 25 ngày trước khi đến thời gian giao hàng (nếu người xuất khẩu ở Châu âu) hoặc từ 15- 20 ngày (nếu người xuất khẩu ở Châu á).
Trình tự thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ như sau:
(2)
Ngân hàng
mở L/C
Ngân hàng thông báo L/C
Người
nhập khẩu
(5)
(6)
(8) (7) (1) (6) (5) (3)
Người
xuất khẩu
(4)
(1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến Ngân hàng của mình yêu cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng.
(2) Căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng mở thư tín dụng sẽ lập một thư tín dụng và thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu thông báo việc mở thư tín dụng và chuyển thư tín dụng đến người xuất khẩu.
(3) Khi nhận được thông báo này, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng đó, và khi nhận được bản gốc thư tín dụng thì chuyển ngay cho người xuất khẩu.
(4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không thì đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung thư tín dụng cho phù hợp với hợp đồng.
(5) Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của thư tín dụng, xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở thư tín dụng xin thanh toán.
(6) Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Nếu không phù hợp, ngân hàng từ chối thanh toán và gửi trả lại bộ chứng từ cho người xuất khẩu.
(7) Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho người nhập khẩu sau khi nhận được tiền hoặc chấp nhận thanh toán.
(8) Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền, nếu không phù hợp có quyền từ chối trả tiền.
4.9. Xử lý tranh chấp.
Nếu người nhập khẩu có vấn đề cần khiếu nại thì phải kịp thời lập hồ sơ khiếu nại ngay để không bỏ lỡ thời hạn khiếu nại, Đơn khiếu nại phải đi kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất, hoá đơn, vận đơn, bảo hiểm đơn,...
Nếu việc khiếu nại không được giải quyết thoả đáng, hai bên có thể kiện nhau tại Trung tâm trọng tài hoặc Toà án tuỳ quy định trong hợp đồng.
5. Đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu
Sau khi kết thúc một hợp đồng nhập khẩu, để biết kết quả cụ thể của thương vụ, nhà nhập khẩu phải tiến hành đánh giá, nghiệm thu kết quả của hợp đồng. Có thể dùng một số chỉ tiêu hiệu quả để đánh giá (Cụ thể ở mục V - Chương I). Ngoài việc hạch toán lỗ lãi còn phải đánh giá về bạn hàng, về thị trường, về mối quan hệ tiếp theo giữa doanh nghiệp với bạn hàng.
Qua việc đánh giá này để rút ra kinh nghiệm, mặt mạnh phát huy, mặt yếu khắc phục nhằm đạt được hiệu quả cao hơn trong các thương vụ sắp tới.
IV. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu
1. Nhóm nhân tố bên trong
Nhân tố về vốn vật chất hay sức mạnh về tài chính
Trong kinh doanh nếu không có vốn doanh nghiệp sẽ không thể làm được gì ngay cả khi đã có cơ hội kinh doanh. Có vốn và trường vốn giúp doanh nghiệp thực hiện các công việc kinh doanh của mình một cách dễ dàng hơn, có điệu kiện để tận dụng các cơ hội để thu lợi lớn.
Sự trường vốn tạo ra khả năng nắm bắt thông tin nhanh, chính xác do có điều kiện sử dụng các phương tiện hiện đại. Ngoài ra còn cho phép doanh nghiệp có thể thực hiện tốt các công cụ marketing trên thị trường về giá cả cách thức nhập khẩu và bán hàng trên thị trường nội địa, tạo điều kiện tốt cho hoạt động kinh nhập khẩu.
1.2. Nhân tố con người
Trình độ chuyên môn và năng lực làm việc của mỗi thành viên trong Công ty là yếu tố cơ bản quyết định sự thành công trongkinh doanh. Xét về tiềm lực doanh nghiệp thì con người là vốn quý nhất. Nếu có những cán bộ nhanh nhạy, khéo léo, trình độ chuyên môn cao thì chắc chắn tất tả các khâu của hoạt động nhập khẩu sẽ được thực hiện nhanh chóng, suôn sẻ, tránh được những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra. Trong kinh doanh rủi ro là khó tránh khỏi chỉ có điều là xảy ra ít hay nhiều mà thôi.
Do đặc điểm riêng của kinh doanh TMQT là thường xuyên phải giao dịch với đối tác nước ngoài nên cán bộ ngoài giỏi nghiệp vụ kinh doanh còn phải giỏi ngoại ngữ. Ngoại ngữ kém sẽ gây khó khăn trong việc giao dịch, làm ảnh hưởng đến hiệu quả công việc.
1.3. Lợi thế bên trong doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp kinh doanh lâu năm, có uy tín trên thị trường là một điều kiện rất thuận lợi. Có uy tín với người xuất khẩu về việc thanh toán đủ, đúng hạn sẽ thuận lợi cho những lần mua hàng sau. Nếu có chức năng nhập khẩu uỷ thác thì khi doanh nghiệp có uy tín sẽ có nhiều ._.các đơn vị trong nước uỷ thác việc nhập khẩu cho doanh nghiệp. Hàng hoá của doanh nghiệp dễ tiêu thụ hơn những doanh nghiệp làm ăn không đứng đắn, mất uy tín với khách hàng.
Ngoài ra, một doanh nghiệp có kinh nghiệm trong nhập khẩu một sản phẩm nào đó sẽ lựa chọn được nguồn hàng tốt nhất phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng trong nước do am hiểu về thị trường, có những mối quan hệ rộng, lâu năm.
Chính những điều đó làm cho hoạt động nhập khẩu của một doanh nghiệp hiệu quả hơn.
2. Nhóm nhân tố bên ngoài.
2.1. Chính sách của Chính phủ.
Chính sách của Chính phủ có tác động không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động nhập khẩu . Các chính sách tài chính tín dụng ưu đãi cho các nhà nhập khẩu sẽ tạo điều kiện cho họ nắm được cơ hội kinh doanh và thu lợi nhuận.Chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước và khuyến khích thay thế hàng nhập khẩu đã làm giảm hiệu quả kinh doanh của các nhà nhập khẩu muốn thu lợi nhuận qua việc bán hàng nhập khẩu trong nước, nhưng mang lại hiệu quả kinh tế xã hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động, hơn nữa khuyến khích các nghành sản xuất trong nước phát huy được khả năng của mình.
2.2. Thuế nhập khẩu.
Thuế nhập khẩu là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá hoặc tính theo phần trăm đối với tổng trị giá hàng hoá hay là kết hợp cả hai cách nói trên đối với hàng nhập khẩu. Theo đó người mua trong nước phải trả cho những hàng hoá nhập khẩu một khoản lớn hơn mức mà người xuất khẩu nước ngoài nhận được.
Thuế nhập khẩu nhằm bảo vệ và phát triển sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng trong nước và góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên thuế nhập khẩu làm cho giá bán trong nước của hàng nhập khẩu cao hơn mức giá nhập và chính người tiêu dùng trong nước phải chịu thuế này. Nếu thuế này quá cao sẽ đưa đến tình trạng giảm mức cầu của người tiêu dùng đối với hàng nhập và làm hạn chế mức nhập khẩu của doanh nghiệp.
Từ cuối thập kỷ 80, nhiều quốc gia đã thay đổi chiến lược phát triển TMQT . Đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao trình độ sản xuất trong nước, cạnh tranh với thị trường thế giới. Để thực hiện chiến lựơc đó, nhiều nước đã cắt giảm thuế quan để khuyến khích trao đổi. Ví dụ như Đài Loan đã giảm thuế cho hàng nhập khẩu từ 40% xuống 20%. Thái Lan giảm thuế xuất nhập khẩu máy móc thiết bị từ 30% xuống 5%. Việt Nam với tiến trình tham gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA sẽ giảm mức thuế suất xuất nhập khẩu xuống còn 0-5% vào năm 2006. Còn hiện tại, việc quy định thuế suất nhập khẩu luôn là đề tài được quan tâm từ nhiều phía.
2.3. Hạn ngạch nhập khẩu.
Hạn ngạch nhập khẩu là quy định của Nhà nước nhằm hạn chế nhập khẩu về số lượng hoặc giá trị một số mặt hàng nhất định hoặc từ những thị trường nhất định trong một khoảng thời gian thường là một năm.
Mục tiêu việc áp dụng biện pháp quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch của Nhà nước nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, sử dụng có hiệu quả quỹ ngoại tệ, bảo đảm các cam kết của Chính phủ ta với nước ngoài.
Hạn ngạch nhập khẩu đưa đến tình trạng hạn chế số lượng nhập khẩu đồng thời gây ảnh hưởng đến giá nội địa của hàng hoá. Hạn ngạch nhập khẩu có tác động tương đối giống với thuế nhập khẩu tức là do có hạn ngạch làm giá hàng nhập khẩu trong nước sẽ tăng lên. Nhưng hạn ngạch không làm tăng thu ngân sách. Đối với cả Chính phủ và các doanh nghiệp trong nước, việc cấp hạn ngạch nhập khẩu có lợi là xác định được khối lượng nhập khẩu biết trước.
Hiện nay Nhà nước ta tiến hành đấu thầu hạn ngạch chứ không phân bổ trực tiếp cho các doanh nghiệp như trước đây nữa. Doanh nghiệp nào thắng thầu thì sẽ có quyền nhập khẩu mặt hàng đó với số lượng quy định. Tuy nhiên việc nhập khẩu nhiều hay ít khi doanh nghiệp đã thắng thầu phụ thuộc vào định ngạch ( tổng hạn ngạch) mà Chính phủ đưa ra.
2.4 Tỷ giá hối đoái.
Các phương tiện thanh toán Quốc tế được mua và bán trên thị trường hối đoái bằng tiền tệ quốc gia của một nước theo một giá cả nhất định. Vì vậy, giá cả của một đơn vị tiền tệ này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia được gọi là tỷ giá hối đoái (TGHĐ).
Việc áp dụng loại TGHĐ nào, TGHĐ cao hay thấp đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động nhập khẩu .
Việc phá giá đồng nội tệ hay chính là TGHĐ cao lên sẽ có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu . Ngược lại, TGHĐ thấp sẽ hạn chế xuất khẩu và đẩy mạnh nhập khẩu .
2.5.Nhân tố cạnh tranh.
Cạnh tranh được xem xét theo hai góc độ: cạnh tranh trong nội bộ ngành sản xuất trong nước và cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Trong một thời kỳ, nếu có nhiều doanh nghiệp cùng nhập khẩu một loại mặt hàng và tiêu thụ ở thị trường nội địa hay nhập khẩu để sản xuất cùng một loại mặt hàng thì việc cạnh tranh có ảnh hưởng rất lớn tới gía cả, doanh số bán hàng, ảnh hưởng tới mức tiêu thụ và do đó ảnh hưởng tới kết quả và hiệu quả kinh doanh. Khi có nhiều nhà nhập khẩu cùng quan tâm đến một loại hàng hoá, giá nhập khẩu cũng tăng lên làm tăng các khoản chi phí, giảm hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp cùng một lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Các nhà sản xuất nước ngoài khi thâm nhập thị trường nội địa cũng trở thành một đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Họ cạnh tranh bằng giá cả, chất lượng, mẫu mã, uy tín,...Khi thu hút được khách hàng về phía mình, các sản phẩm của nước ngoài làm giảm thị phần của sản phẩm được sản xuất trong nước từ nguyên liệu nhập khẩu, từ đó làm giảm doanh số bán hàng của các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu.
2.6. Nhân tố văn hoá, thị hiếu của mỗi quốc gia.
Trên thế giới có nhiều nền văn hoá khác nhau và mỗi quốc gia có một phong tục tập quán khác nhau. Một quốc gia sẽ nhập khẩu hàng hoá để bổ sung, thay thế cho việc tiêu dùng hoặc nhập khẩu để tiếp tục sản xuất các loại hàng hoá phù hợp với nhu cầu và thị hiếu trong một giai đoạn nhất định của dân cư. Việc nghiên cứu văn hoá, thị hiếu sẽ quyết định kết quả bán hàng của các nhà nhập khẩu và quyết đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu .
V. Một số vấn đề về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu .
Tất cả các hoạt động của doanh nghiệp đều vì mục đích cuối cùng là thu được hiệu quả cao nhất. Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả kinh tế được tính bằng giá trị và phải đảm bảo tiền thu về lớn hơn ứng ra tức là thu bù đủ chi và có lãi. Trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng, hiệu quả giữ vai trò đặc biệt quan trọng, nó quyết định mở rộng hay thu hẹp một lĩnh vực kinh doanh nào đó.
1. Bản chất của hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả kinh tế của một tổ chức kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ quản lý và năng lực kinh doanh của tổ chức đó nhằm đảm bảo thu được kết quả cao nhất theo những mục tiêu đã đặt ra với chi phí thấp nhất.
Hiệu quả kinh tế là thước đo tổng hợp, phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp . Hiệu quả kinh tế được xem xét một cách toàn diện cả về mặt định tính và mặt định lượng.
Về mặt định tính, hiệu quả kinh tế được phản ánh ở trình độ và năng lực quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , thể hiện sự đóng góp của doanh nghiệp đối với toàn xã hội.
Về mặt định lượng, hiệu quả kinh tế được đo lường bằng hiệu số giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Chênh lệch giữa kết quả và chi phí càng lớn thì hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại.
Như vậy, bản chất hiệu quả kinh tế là một phạm trù có tính chất so sánh, thể hiện mối tương quan giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu được.
Hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập khẩu về thực chất cũng như hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh khác nghĩa là nó cũng thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để tạo ra nó. Nhưng ngay trong bản thân sự tương quan so sánh này lại rát phức tạp, có khi do tác động của các yếu tố như TGHĐ, thuế quan,...lại làm thay đổi kết quả của hoạt động nhập khẩu . Với mục tiêu phát triển, doanh nghiệp phải phấn đấu nâng cao hiệu quả của hoạt động nhập khẩu .
2. Phân loại hiệu quả kinh tế .
Trong công tác quản lý kinh doanh TMQT , phạm trù hiệu quả được thể hiện ở nhiều hình thái khác nhau, mỗi loại thể hiện những đặc trưng và những ý nghĩa cụ thể của hiệu quả kinh doanh TMQT . Việc phân loại hiệu quả kinh tế theo các tiêu thức khác nhau có tác dụng thiết thực trong quản lý. Nó là cơ sở để xác định các chỉ tiêu và mức hiệu quả cũng như các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh .
Hiệu quả kinh tế có thể được phân theo các cách sau:
2.1 Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối.
- Hiệu quả tuyệt đối.
Hiệu quả tuyệt đối được tính toán cho từng phương án kinh doanh bằng cách xác định mối tương quan giữa kết quả thu được của phương án đó với chi phí bỏ ra khi thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cụ thể. Trong trường hợp này, hiệu quả kinh tế là hiệu số giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra.
Hiệu quả tuyệt đối được thể hiện qua một số chỉ tiêu sau:
+ Chỉ tiêu kim ngạch nhập khẩu
+ Chỉ tiêu so sánh giá nhập khẩu với giá quốc tế
Trong kinh doanh TMQT , giá quốc tế là mức ngang giá chung. Các doanh nghiệp phải lấy giá quốc tế làm tiêu chuẩn để so sánh. Qua đó thấy được doanh nghiệp nhập khẩu có hiệu quả hay không.
+ Chỉ tiêu so sánh doanh thu bán hàng nhập khẩu với giá hàng nhập khẩu từ nước ngoài tính ra tiền Việt nam theo tỷ giá hiện hành của Ngân hàng. Trên cơ sở đó tính ra được lợi nhuận của từng thương vụ kinh doanh nhập khẩu hàng hoá.
+ Chỉ tiêu lợi nhuận nhập khẩu.
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất của hoạt động kinh doanh nhập khẩu .
Lợi nhuận nhập khẩu = Tổng doanh thu NK - Tổng chi phí NK
- Hiệu quả tương đối .
Hiệu quả tương đối được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối, cụ thể là hiệu quả tương đối được tính bằng tỷ lệ giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Hiệu quả tương đối càng lớn càng tốt.
Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tương đối:
+ Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu = Nội tệ / ngoại tệ
Tỷ suất này càng lớn hơn TGHĐ tại thời điểm tính toán càng tốt, điều đó có nghĩa là hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp có hiệu quả cao.
+ Lợi nhuận nhập khẩu / Doanh thu nhập khẩu
Chỉ tiêu này cho thấy, cứ một đồng doanh thu mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
+ Lợi nhuận nhập khẩu / Chi phí nhập khẩu
Chỉ tiêu này cho thấy, khi bỏ ra một đồng chi phí mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
2.2 Hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội.
- Hiệu quả kinh doanh:
Hiệu quả kinh doanh hay hiệu quả tài chính là hiệu quả thu được từ hoạt động của từng doanh nghiệp . Biểu hiện trực tiếp của hiệu quả kinh doanh là lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp thu được hoặc lỗ phải chịu. Hiệu quả kinh doanh được tính bằng chênh lệch giữa doanh thu và chi phí.
- Hiệu quả kinh tế xã hội .
Hiệu quả kinh tế xã hội của một hoạt động kinh tế được xác định trong mối quan hệ giữa hoạt động đó với tư cách là tổng thể các hoạt động kinh tế hoặc là một hoạt động kinh tế cụ thể với nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội. Hiệu quả kinh tế xã hội là lợi ích kinh tế xã hội mà hoạt động kinh tế đã mang lại cho nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội, được thể hiện ở mức độ đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội như phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân,...
2.3 Hiệu quả bộ phận và hiệu quả tổng hợp.
- Hiệu quả bộ phận thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được với lượng hao phí từng yếu tố cần thiết để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh nhập khẩu.
- Hiệu quả tổng hợp thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và tổng chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ ấy.
Chương II
Thực trạng hoạt động nhập khẩu hàng hoá tại tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam VINACONEX
I.Vài nét giới thiệu về Tổng công ty VINACONEX .
1. Quá trình hình thành và phát triển của tổng công ty
Từ năm 1982, bộ xây dựng đã có chủ trương đưa các đơn vị thi công xây dựng đi làm việc ở nước ngoài. Tổ chức đầu tiên được thành lập ở Askhabat thuộc nước cộng hoà Tuốcmênia, Liên Xô cũ. Sau đó mở rộng ra ở Algeria, Liên Xô, Bulgar,Tiệp Khắc, Iraq và một số nước khác ở Đông Âu.
Cùng với sự hình thành và phát triển của các công ty xây dựng ở nước ngoài, tháng 3 năm 1987 Bộ xây dựng đã quyết định thành lập Ban quản lý hợp tác lao động và xây dựng ở nước ngoài,sau đó hơn một năm, để phù hợp với các chức năng nhiệm vụ được giao, chuyển đổi hẳn sang hoạt động kinh doanh, hạch toán kinh tế. Bộ xây dựng có quyết định số 1118/BXD - TCLĐ ngày 27/9/1988 chuyển ban quản lý hợp tác lao động và xây dựng nươc ngoài thành công ty dịch vụ và xây dựng nước ngoài tên giao dịch quốc tế là VIETNAM CONSTRUCTION IMPORT-EXPORT CORPORATION, viết tắt là VINACONEX .
Đến năm 1990 số lượng cán bộ công nhân viên ở nước ngoài đã lên tới trên 13.000 người, làm việc trong 15 công ty, xí nghiệp xây dựng. Để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mở rộng, phát triển hợp tác xây dựng ở nước ngoài, ngày 10/8/1991, Bộ xây dựng có quyết định 432/BXD - TCLĐ chuyển công ty dịch vụ và xây dựng nước ngoài thành tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam - VINACONEX.
Phát huy những thuận lợi của tổng công ty: có đội ngũ cán bộ quản lý , công nhân kỹ thuật có tay nghề cao, được tuyển chọn kỹ để đưa ra nước ngoài làm việc, tiếp thu được công nghệ tiên tiến cùng với sự năng động, nhạy bén tiếp xúc với các thị trường mới, từ năm 1990 tổng công ty đã ký được nhiều hợp đồng xây dựng công nghiệp và dân dụng lớn trong phạm vi cả nước, đưa một, lực lượng lớn kỹ sư và công nhân ra nước ngoài làm việc, đẩy mạnh xuất nhập khẩu vật tư - xe máy - thiết bị, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và tích luỹ của đơn vị.
Trên cơ sở những kết quả đạt được trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước quy mô cấp Tổng công ty, Bộ xây dựng được sự uỷ quyền của Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 922/BXD - TCLĐ ngày 20/11/1997 về việc thành lập Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam - VINACONEX. Trụ sở chính đặt tại 48 Láng Hạ - Đống Đa - Hà Nội.
Trong những năm gần đây, Tổng công ty đã mở rộng quan hệ liên doanh, hợp tác với các nhà thầu xây dựng lớn, với các hãng kinh doanh nước ngoài, với các cơ sở nghiên cứu và sản xuất phát triển ở trong nước. Qua đó, Tổng công ty dần dần hoà nhập vào các thị trường xây dựng và xuất nhập khẩu quốc tế, đào tạo được đội ngũ kỹ sư và cán bộ thông thạo nghiệp vụ và có trình độ ngọai ngữ, có kinh nhgiệm quản lý, điều hành sản xuất theo các quy trình công nghệ tiên tiến.
Đến nay, tổng công ty VINACONEX đã trở thành nhà thầu xây dựng mạnh, có đủ năng lực nhận thầu và hoàn thành mọi công trình xây dựng quy mô lớn và phức tạp, đồng thời là một tổng công ty mạnh nhất của Bộ xây dựng về xuất nhập khẩu và xuất khẩu lao động.
Hiện nay, tổng công ty là một đơn vị lớn mạnh, có nhiều các đơn vị thành viên, cụ thể là:
*Các đơn vị hạch toán độc lập:
Công ty xây dựng số 1. (tên giao dịch VINACONCO 1)
Công ty xây dựng số 2. (tên giao dịch VINACONCO 2)
Công ty xây dựng số 3. (tên giao dịch VINACONCO 3)
Công ty xây dựng số 4. (tên giao dịch VINACONCO 4)
Công ty xây dựng số 5. (tên giao dịch VINACONCO 5)
Công ty xây dựng số 6. (tên giao dịch VINACONCO 6)
Công ty xây dựng số 7. (tên giao dịch VINACONCO 7)
Công ty xây dựng số 9. (tên giao dịch VINACONCO 9)
Công ty đầu tư xây dựng và phát triển đô thị Huế - VINACONCO 10
Công ty xây lắp và sản xuất vật liệu xây dựng số 11 - VINACONCO 11
Công ty cơ khí và xây lắp số 12 - VINACONCO 12
Công ty xây dựng cấp thoát nước - WASEENCO
Công ty cơ giới và lắp máy - VIMECO
Công ty tư vấn xây dựng, cấp thoát nước và môi trường - VINACONSULT
15. Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng VINACONEX
*Các đơn vị phụ thuộc hạch toán nội bộ:
Các chi nhánh tổng công ty trong nước :
- Chi nhánh tổng công ty VINACONEX ở TP. Hồ Chí Minh
- Chi nhánh tổng công ty VINACONEX ở TP. Đà Nẵng
- Chi nhánh tổng công ty ở TP. Hải Phòng
Trung tâm xuất nhập khẩu lao động
Nhà máy Bê tông và xây dựng Xuân Mai
Trung tâm ứng dụng công nghệ tự động hoá
Trung tâm du lịch VINACONEX
Trung tâm sơn và chống thấm KBM
*Các đơn vị sự nghiệp
Trường nghiệp vụ và kỹ thuật Xuân Hoà
Trường kỹ thuật xây dựng Bỉm Sơn
*Các văn phòng đại diện VINACONEX tại nước ngoài
Tổng đội xây dựng VINACONEX tai Libia
Đại diện VINACONEX tại Hàn Quốc
Dại diện VINACONEX tại cộng hoà liên bang Nga
Ngoài ra, Tổng công ty còn có vốn góp ở các doanh nghiệp sau:
Công ty liên doanh VINATA - liên doanh giữa VINACONEX và tập đoàn TAISEI (Nhật Bản)
Công ty liên doanh VINALEIGHTON - liên doanh giữa VINACONEX và công ty LEIGHTON Asia Co.Ltd (úc- Hồng Kông)
Liên doanh VINACONEX - KOVA BY MORWEAR
Liên doanh khách sạn Suối Mơ
2.Mô hình bộ máy quản lý và hoạt động của Tổng công ty.
2.1 Chức năng và nhiệm vụ của Tổng công ty VINACONEX
Theo các quyết định của Bộ, Tổng công ty có các chức năng và nhiệm vụ sau:
- Nhận thầu xây dựng các công trình trong và ngoài nước .
- Cung cấp nhân lực đồng bộ, kỹ sư, công nhân... cho các hãng, nhà thầu xây dựng nước ngoài.
- Xuất nhập khẩu xe máy, thiết bị, vật liệu xây dựng, trang thiết bị nội thất và các hàng hoá khác.
- Sản xuất vật liệu xây dựng, bê tông thương phẩm và các sản phẩm công thương nghiệp khác cho xây dựng.
- Tư vấn, khảo sát, thiết kế, đầu tư xây dựng,quản lý dự án.
- Kinh doanh bất đông sản.
- Dịch vụ khách sạn và du lịch
2.2 Sơ đồ tổ chức tổng công ty VINACONEX (xem phụ lục)
2.2.1 Ban giám đốc
Ban giám đốc gồm:
- Tổng giám đốc
- Phó Tổng giám đốc phụ trách kỹ thuật
- Phó Tổng giám đốc phụ trách kinh doanh
- Phó Tổng giám đốc phụ trách thi công
- Kế toán trưởng
*Tổng giám đốc có các nhiệm vụ chức năng sau:
Xây dựng chiến lược phát triển cho Tổng công ty cũng như kế hoạch dài hạn, ngắn hạn và hàng năm tổ chức thực hiện kế hoạch, chiến lược, phương án và dự án đã được phê duyệt. Điều hành các hoạt động kinh doanh của Tổng công ty, chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của Tổng công ty.
Đề nghị hội đồng quản trị trình Bộ trưởng bộ xây dựng quyết định bổ nhiệm khen thưởng phó Tổng giám đốc, kế toán trưởng, giám đốc các đơn vị thành viên, trưởng và phó phòng thuộc tổng công ty.
*Các phó Tổng giám đốc: Có chức năng giúp Tổng giám đốc điều hành các lĩnh vực hoạt động theo phân công của Tổng giám đốc và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được Tổng giám đốc phân công thực hiện.
*Kế toán trưởng: Có nhiệm vụ giúp Tổng giám đốc chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác kế toán thống kê của Tổng công ty
2.2.2 Văn phòng và các phòng ban chức năng
* Phòng tổ chức: Giúp tổng giám đốc nghiên cứu và xây dựng bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh. Tổ chức sắp xếp và thực hiện các chế độ đối với cán bộ công nhân viên của toàn Tổng công ty.
* Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu: Giúp Tổng giám đốc cân đối kinh doanh xuất nhập khẩu và tổng hợp kế hoạch cho hoạt động xuất nhập khẩu của Tổng công ty, tham gia vào việc ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng thương mại với các thương nhân trong và ngoài nước.
* Phòng đấu thầu và quản lý dự án: Tham gia đấu thầu và quản lý các dự án trong và ngoài nước cho Tổng công ty.
* Phòng đầu tư: Lập dự án đầu tư cho văn phòng tổng và các chi nhánh của Tổng công ty.
* Phòng pháp chế: Trợ giúp ,tư vấn về pháp luật cho toàn Tổng công ty giúp lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên chỉ đạo và thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, tham gia vào việc soạn thảo và thực hiện các hợp đồng kinh tế.
*Phòng đào tạo: Thực hiện công tác khen thưởng, kỷ luật, lập kế hoạch đưa CBCNV đi học, nâng cao nghiệp vụ.
* Phòng kế toán: Có nhiệm vụ tập hợp các thông tin kinh tế tài chính, lập bảng cân đối kế toán và các báo cáo quý, năm. Lập dự toán thu chi cho toàn Tổng công ty.
* Phòng kế hoạch: Có nhiệm vụ giúp Tổng giám đốc xây dựng kế hoạch ,chiến lược tổng thể cho từng giai đoạn và kế hoạch ngắn hạn, trung hạn, dài hạn của Tổng công ty.
3.Tình hình chung của tổng công ty VINACONEX
3.1 Đặc điểm về lao động của Tổng công ty .
Hiện nay Tổng công ty có 18.720 cán bộ công nhân viên, trong đó làm việc ở nước ngoài là 8.423 người, làm việc trong nước là 13.297 người.
Cụ thể, số làm việc trong nước chia theo nghề nghiệp gồm có:
STT
Nghề nghiệp
Số người
1
Kỹ sư
1.013
2
Kỹ thuật viên
1.206
3
Công nhân kỹ thuật
11.078
4
Bậc Ê 4
6.938
5
4<BậcÊ7
4.14
Tổng
13.297
Tổng công ty rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, đội ngũ công nhân có tay nghề cao với kỹ thuật chuyên sâu. Bản thân mỗi CBCNV đều tự ý thức trau dồi và cập nhật kiến thức để đáp ứng yêu cầu của công việc. Nhiều cán bộ có hai bằng đại học: một bằng về kỹ thuật, một bằng về kinh tế nhằm quản lý, quản trị kinh doanh tốt hơn trong cơ chế thị trường.
Do đặc điểm kinh doanh của Tổng công ty, việc quan hệ với đối tác nước ngoài là thường xuyên nên ngoại ngữ rất quan trọng. Tổng công ty cũng đã mở các lớp bồi dưỡng tiếng Anh cho cán bộ chuyên môn, quản lý đang làm việc. Đào tạo tiếng Anh, tiếng Hàn, tiếng Nhật cơ bản cho lao động đi làm việc ở nước ngoài, bên cạnh đó Tổng công ty đã cử một số kỹ sư, cán bộ tham gia các liên doanh theo hình thức luân chuyển để đào tạo cán bộ.
Ngoài ra còn thường xuyên cử các cán bộ tham dự các lớp bồi dưỡng chính tri, nghiệp vụ chuyên môn, các cuộc hội thảo do các cơ quan chuyên ngành tổ chức nhằm không ngừng nâng cao trình độ, năng lực cán bộ nhất là trong các lĩnh vực quản lý tài chính, đấu thầu, quản lý an toàn tiến độ, chất lượng công trình, kinh doanh xuất nhập khẩu ... để đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ mới trong tình hình hiện tại cũng như những năm tiếp theo.
3.2.Đặc điểm về hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty
Các hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu của Tổng công ty bao gồm:
*Xây lắp
*sản xuất CN-VLXD
*Kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá
*Xuất khẩu lao động
* Các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác.
Với gần 40 năm hoạt động và phát triển, Tổng công ty VINACONEX ngày càng lớn mạnh. Đặc biệt từ khi được thành lập lại trên cơ sở tổ chức sắp xếp lại các đơn vị của Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam và một số dơn vị trực thuộc Bộ xây dựng , hoạt động dưới hình thức Tổng công ty 90. Tổng công ty đã là một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực xây dựng .
Kết quả hoạt động trong ba năm vừa qua thể hiện ở biểu 2.
Biểu số 2: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty ( năm 1999 -2001 )
Đơn vị : Tỉ đồng
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
1. Tổng giá trị sản lượng
GTSL
Tỉ trọng (%)
GTSL
Tỉ trọng (%)
GTSL
Tỉ trọng (%)
1.767
100
1.780
100
1.948
100
- GTSL xây lắp
887
50,19
905
50,84
1.102
56,57
- GT sản xuất CN- VLXD
44
2,49
68
3,82
68
3,49
- GT KD XNK hàng hoá
436
24,67
462
25,96
455
23,36
- GT XK lao động
352
19,92
277
15,56
234
12,01
- Các hoạt động sản xuất kd khác
48
2,72
68
3,82
89
4,57
2. Tổng doanh thu
779
925
743
3. Nộp ngân sách
65
70
70
4. Lợi nhuận
22
27
20
Nguồn: Trích Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch hàng năm
(1999- 2001).
Qua biểu 2 ta thấy, Tổng giá trị sản lượng của Tổng công ty luôn tăng lên qua các năm . Năm 1999 đạt 1.767 tỉ đồng. Năm 2000 đạt 1.780 tỉ đồng, tăng 0,74% so với năm 1999. Năm 2001 đạt 1.948 tỉ đồng, tăng 9,43% so với năm 2000. Trong đó giá trị sản lượng xây lắp trong 3 năm đều chiếm trên 50% tổng giá trị sản lượng. Giá trị sản lượng xây lắp năm 2001 là cao nhất từ trước đến nay. Bởi vì tc xác định xây lắp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Thực hiện phương châm: Đa dạng hoá sản phẩm xây lắp, do vậy ngoài các sản phẩm xây lắp truyền thống như xây lắp dân dựng, công nghiệp, cấp thoát nước, môi trường, các lĩnh vực xây lắp khác như đường, cầu, thuỷ lợi, điện đã phát huy và chiếm tỉ trọng đáng kể trong tổng giá trị sản lượng xây lắp.
Xếp thứ hai trong tổng giá trị sản lượng là giá trị hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Hoạt động này chiếm khoảng 1/4 tổng giá trị sản lượng hàng năm. Cụ thể, năm 1999 đạt 436 tỉ đồng, chiếm 24,67% tổng giá trị sản lượng, năm 2000 đạt 426 tỉ đồng chiếm 25,96% tổng giá trị sản lượng, năm 2001 đạt 455 tỉ đồng đạt 23,36% tổng giá trị sản lượng. Như vậy, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá đã có đóng góp rất lớn vào giá trị tổng sản lượng của Tổng công ty hàng năm , chỉ sau hoạt động xây lắp .
Năm 2001. tổng doanh thu của Tổng công ty giảm hơn so với năm 2000, chỉ đạt 743 tỉ đồng trong khi tổng giá trị sản lượng là 1948 tỉ đồng cao hơn nhiều so với năm 2000. Doanh thu năm 2001 giảm, một phần do hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu giảm, nhưng chủ yếu là do hoạt động xây lắp. Giá trị sản lượng xây lắp cao, nhiều công trình Quốc tế được thực hiện như: Xây dựng trường Đại học Đồng Độc, bệnh viện Sethairath tại Viên chăn- Lào,... Các công trình lớn trong nước như: Nhà máy xi măng Nghi Sơn, Trạm phân phối xi măng Hiệp Phước, công trình thuỷ lợi Tân Chi, công trình cầu Bến Hồ bắc qua sông Đuống,... Tất cả các công trình lớn này ít nhất đến cuối năm 2001 hoặc sang năm 2002 mới hoàn thành. Vì vậy chúng chưa mang lại lợi nhuận cho Tổng công ty .
Tổng công ty luôn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước, các khoản nộp ngân sách được hoàn thành hàng năm, tránh nợ đọng năm này qua năm khác
Để phục vụ nhu cầu trong nước, hoạt động xuất nhập khẩu của Tổng công ty đã tận dụng lợi thế của mình, hướng vào các mặt hàng chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng .
Các mặt hàng nhập khẩu của Tổng công ty gồm:
* Nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng.
* Nhập khẩu nguyên vật liệu xây dựng .
* Nhập khẩu hàng điện dân dụng.
* Nhập khẩu xe máy.
* Nhập nhẩu một số mặt hàng khác
Các mặt hàng xuất khẩu gồm:
* Xi măng, gạch Granit ( sang Lào)
* Chất tẩy rửa ( sang Nhật Bản)
* Đá xẻ, đá Marble (sang Singapore)
Kim ngạch xuất nhập khẩu các năm vừa qua như sau:
Biểu số 3: Kim ngạch XNK của Tổng công ty ( năm 1999-2001)
Đơn vị: USD.
Năm
1999
2000
2001
Kim ngạch
Tỉ trọng (%)
Kim ngạch
Tỉ trọng (%)
Kim ngạch
Tỉ trọng (%)
Kim ngạch NK
31.259.182
99,72
34.618.008
99,66
32.487.404
99,19
Kim ngạch xuất khẩu
88.840
0,28
118.000
0,34
265.102
0,81
Tổng KN XNK
31.348.002
100
34.736.008
100
32.752.506
100
Nguồn: Trích báo cáo hàng XNK hàng năm (1999-2001)
Qua biểu 3 ta thấy, kim ngạch xuất nhập khẩu chủ yếu do hoạt động nhập khẩu mang lại, kim ngạch xuất khẩu chiếm tỉ trọng rất nhỏ. Tuy nhiên Tổng công ty đang chú trọng vào hoạt động xuất khẩu, tăng cường xuất khẩu các loại nguyên vật liệu xây dựng sang Lào phục vụ các công trình Quốc tế đang thi công do vậy kim ngạch xuất khẩu đã nhích dần từng năm. Kim ngạch nhập khẩu năm nào cũng chiếm trên 90% tổng kin ngạch xuất nhập khẩu .
II. Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu hàng hoá tại Tổng công ty VINACONEX trong những năm gần đây.
1.Thực trạng hoạt động nhập khẩu hàng hoá tại Tổng công ty VINACONEX .
Nhập khẩu hàng hoá là một mảng khá lớn trong số các hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty VINACONEX . Vì vậy để xem xét và đánh giá nó một cách chi tiết , tỉ mỉ thật khó. Chúng ta chỉ đi phân tích trên một số mặt chính sau:
1.1.Đặc điểm về thị trường nhập khẩu .
Trong kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng, việc tìm kiếm thị trường là vấn đề rất quan trọng, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh được diễn ra liên tục, đạt hiệu quả cao. Kinh doanh vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia thì việc nghiên cứu thị trường càng trở lên phức tạp. Tuy vậy, trong những năm vừa qua,Tổng công ty VINACONEX đã luôn cố gắng trong việc tìm kiếm và lựa chọn thịtrường.
Trước đây dưới thời bao cấp, Tổng công ty chủ yếu có quan hệ với thị trường các nước Đông âu, Liên Xô cũ và một số nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt từ khi Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận và Việt Nam ra nhập ASIAN thì mối quan hệ của Tổng công ty với các thị trường ngày càng mở rộng và gắn bó, thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh .
Nhìn chung thị trường nhập khẩu của Tổng công ty có xu hướng tăng qua các năm( khoảng 10% một năm). Những thị trường thường xuyên như Nhật Bản, Hàn Quốc,... có giá trị kim ngạch lớn và chiếm tỉ trọng ngày càng cao. Cùng một loại hàng hoá như nhau nhưng Tổng công ty đã có xu hướng nhập ở nhiều nước khác nhau với chất lượng và giá cả khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước. Ví dụ như mặt hàng gạch ốp lát, Tổng công ty có thể nhập ở 4 nước là Thái Lan, Đài Loan, Hàn Quốc và Tây Ban Nha.
Qua biểu số 4 ta thấy, hiện nay Tổng công ty có quan hệ bạn hàng với hơn 13 nước trên thế giới, mỗi nước đều phát huy được thế mạnh riêng với từng mặt hàng nhập khẩu. Thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn là những thị trường nhập khẩu chính của Tổng công ty trong những năm vừa qua. Đặc biệt Nhật Bản có tỉ trọng kim ngạch nhập khẩu chiếm đa số trong các năm. Năm 1999, kim ngạch nhập khẩu từ thị trường Nhật Bản là 12.053.113 USD chiếm 38,5% trong tổng kim ngạch nhập khẩu năm 1999. Sang năm 2000, kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này là 13.651.431USD chiếm 39,43% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2000 và tăng 13,26% so với năm 1999. Với đà đó, năm 2001, thị trường Nhật Bản vẫn được khai thác nguồn hàng cho nên giá trị kim ngạch nhập khẩu vẫn đạt ở mức cao là 14.036.042 USD chiếm 43,20% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2001 và tăng 2,8% so với năm 2000, tăng 16,45% so với năm 1999. Thị trường Nhật Bản cung cấp các mặt hàng chủ yếu như máy móc thiết bị và nguyên vật liệu xây dựng. Trong tương lai thị trường Nhật Bản vẫn là thị trường truyền thống của Tổng công ty, khai thác các chủng loại mặt hàng như: thiết bị thi công, thang máy, thép xây dựng,...
Đối với thị trường Hàn Quốc kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này vẫn liên tục tăng qua mấy năm gần đây.Năm 1999, thị trường này chỉ chiếm tỉ trọng là 4,7% với giá trị kim ngạch nhập khẩu là 1.468.904 USD. Nhưng đến năm 2000, tỉ trọng tăng vọt lên chiếm 15,81% với giá trị kim ngạch nhập khẩu là 5.473.341 USD, giá trị kim ngạch tăng 272% so với năm 1999. Sở dĩ như vậy là vì năm 2000 Tổng công ty đã nhập dây chuyền sản xuất giấy dầu và nhiều sản phẩm thép xây dựng từ thị trường Hàn Quốc. Đến năm2001 kim ngạch nhập khẩu đạt 10.620.364 USD hay chiếm 32,69% tỉ trọng kim ngạch cả năm. Mặc dù tố độ tăng kim ngạch nhập khẩu năm 2001 so với 2000 thấp hơn 2000 so với 1999 nhưng con ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0514.doc