LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hội nhập, quan hệ kinh doanh hết sức phong phú đa dạng, phức tạp. Các doanh nghiệp luôn đứng trước những cơ hội và nguy cơ. Làm thế nào để có thể vừa giành được thành công trong môi trường cạnh tranh đầy biến động, vừa phải đảm bảo yếu tố pháp luật? Đó là vấn đề mà các doanh nghiệp đang rất quan tâm hịên nay. Để làm được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những hiểu biết nhất định về pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh của Việt Nam cũng như của thế gi
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1494 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hoạt động ký kết hợp đồng thương mại của doanh nghiệp nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới như: luật Doanh nghiệp, luật Thương mại, luật Đầu tư... Một trong những vấn đề pháp luật mà doanh nghiệp cần quan tâm hiện nay là những quy định có liên quan đến hợp đồng Thương mại. Trong môi trường kinh doanh đầy những trắc trở, biến động và rủi ro như hiện nay thì vai trò của hợp đồng ngày càng trở nên quan trọng hơn. Hợp đồng có thể được coi là ''hòn đá tảng'' cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Với đề tài ''Hoàn thiện hoạt động ký kết hợp đồng thương mại của doanh nghiệp nước ta hiện nay'' sẽ đưa ra một số lý luận, thực trạng và giải pháp góp phần hoàn thiện quá trình ký kết hợp đồng thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Đề tài này bao gồm 3 chương.
Chương 1: Khái quát chung về hợp đồng thương mại của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng ký kết hợp đồng thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
Chương 3: Phương hướng và biện pháp hoàn thiện hoạt động ký kết hợp đồng thương mại của các doanh nghiệp
Đề tài của em tập chung vào vấn đề phân tích, đánh giá, định hướng biện pháp nhằm hoàn thiện các khâu của quá trình ký kết hợp đồng trong các doanh nghiệp hiện nay. Đó là hoạt động: Chuẩn bị ký kết hợp đồng, quá trình đàm phán đi đến ký kết hợp đồng, vấn đề về soạn thảo văn bản hợp đồng thương mại. Đề án này, được nghiên cứu chủ yếu dựa vào phương pháp thống kế, thu thấp nghiến cứu tại bàn kết hợp với lý luận thực tiễn. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng đề án này của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý kiến của các thày cô và tất cả các bạn. Em xin chân thành cám ơn sự hướng dẫn, đóng góp ý kiến tận tình quý báu của GS. TS. Hoàng Đức Thân, chủ nhiệm khoa Thương mại, phụ trách hướng dẫn đề này của em cùng sự tạo điều kiện giúp đỡ quý báu của trung tâm thư viện trường đại học Kinh tế quốc dân.
Khoa Thương mại, lớp QTKD thương mại 47B
Sinh viên
Đỗ Thu Trang
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KÝ KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Những vấn đề chung về hợp đồng thương mại
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm về hợp đồng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường mỗi cá nhân, tổ chức đều tham gia nhiều mối quan hệ xã hội phong phú và đa dạng.Cùng với sự phát triển kinh tế con người tham gia vào các quan hệ thương mại.Các quan hệ thương mại thì ngày càng trở lên phức tạp hơn tỷ lệ với bình phương tốc độ phát triển sản xuất.Trong các quan hệ, giao dịch đó thì căn cứ chủ yếu đảm bảo nghĩa vụ, quyền lợi của các bên đó là hợp đồng.
Hợp đồng được hiểu theo nghĩa rộng là: Sự thoả thuận giữa hai hay nhiều bên về một vấn đề nhất định trong xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên. Tức là hợp đồng phải thể hiện được sự tự do bày tỏ ý kiến của các bên tham gia quan hệ hợp đồng,các cá nhân, tổ chức được tự do quyết định việc giao kết hợp đồng với ai,như thế nào, vào thời điểm nào và thông qua hợp đồng các bên xác lập được đối tượng, nghĩa vụ của chủ thể.
Luật Thương mại được Quốc hội thông qua ngay 14 tháng 6năm 2005 không có định nghĩa riêng về “hợp đồng thương mại” nhưng đề cập đến các loại hợp đồng cụ thể trong hoạt động thương mại. Trong Chương 2 có quy định về hợp đồng mua bán hàng hoá, Chương 3 quy định về hợp đồng dịch vụ.Hợp đồng thương mại được hiểu là thoả thuận giữa các thương nhân (hoặc một bên là thương nhân) về việc thực hiện một hay nhiều hành vi của hoạt động thương mại nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Hợp đồng Thương mại có những đặc điểm của các hợp đồng trong hoạt động kinh doanh nói chung và mang những đặc điểm riêng của các hoạt động thương mại.
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng thương mại là thương nhân hoặc một bên là thương nhân. Trong đó thương nhân là toỏ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh và tiến hành hoạt động thương mại một cách thường xuyên, độc lập. Thương nhân nước ngoài được đặt đại diện, chi nhánh tại
Việt Nam, thành lập tại Việt Nam doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo các hình thức do pháp luật Việt Nam quy định.
Thứ hai, hình thức của hợp động thương mại có thể bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Thông điệp dữ liệu cũng được coi như là hình thức văn bản. Trong quan hệ hợp đồng cụ thể thì các bên phải tuân thủ theo những quy định này và đây là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Thứ ba, mục đích ủa hợp đồng thương mại là lợi nhuận.
Thứ tư, nội dung của hợp đồng thương mại là xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ cụ thể khi tiến hành hoạt động thương mại. Theo Luật Thương mại 2005, hoat động thuơng mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lời , bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động khác.
1.1.2. Phân loại hợp đồng thương mại
Theo Luật Thương mại hiện hành, hợp đồng thương mại bao gồm hai nhóm là hợp đồng mua bán hàng hoá và hợp đồng cung ứng dịch vụ.
Trong mỗi nhóm của hoạt động thương mại, chế độ pháp lý về hợp đồng có những quy định cụ thể cho từng loại hợp đồng như mua bán hàng hoá không có yếu tố quốc tế, mua bán hàng hoá quốc tế, mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá, các hợp đồng xúc tiến thương mại (khuyến mại, quản cáo thương mại, trưng bày giới thiệu sản phẩm, dịch vụ hàng hoá ,hội chợ triển lãm thương mại) và các hợp đồng trong hoạt động cụ thể khác (gia công, đấu giá hàng hoá, dấu thầu hàng hoá, dịch vụ, dịch vụ logistics,giám định ,cho thuê hàng hoá, cuyển nhượng quyền thương mại).
1.1.2.1. Hợp đồng mua bán hàng hoá
Khái niệm: Hợp đồng mua bán hàng hoá là sự thoả thuận giữa bên mua và bên bán, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng hoá và chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá thuộc quyền sở hữu hàng hoá của mình cho bên mua và nhận tiền từ bên mua, còn bên mua có nghĩ vụ trả tiền cho bên bán,tiếp nhận hàng hoá và chuyển quyền sở hữu hàng hoá từ bên bán.
Đặc điểm
- Về chủ thể của hợp đồng: theo Luật Thương mại 2005, Hợp đồng thương mại có thể giao kết giữa các chủ thể bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân họat động thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Các thương nhân này có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm. Ngoài ra, hợp đồng thương mại còn được ký kết giữa các tổ chức, cá nhân khác hoạt đoọng có liên quan đến thương mại. Đối tượng của hợp đồng thương mại là hàng hoá. Hàng hoá theo hợp đồng là hàng hoá được phép mua bán theo quy định của pháp luật của nước bên mua và bên bán. Theo quy định hiện hành, thương nhân có thể mua bán, xuất nhập khẩu tất cả các loại hàng hoá không phụ thuộc vào ngành nghề được ghi trong giấy phép kinh doanh, trừ những hàng hoá thuộc danh mục hàng cấm kinh doanh. Thương nhân chỉ đươc nhập khẩu những hàng hoá theo ngành nghề, ngành hàng ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đối với những hàng hoá thuộc Danh mục hàng hoá, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh; Danh mục hàng hoá, dịch vụ thương mại kinh doanh có điều kiện thì thương nhân phải thực hiện đầy đủ quy định hiện hành của pháp luật về kinh doanh các hàng hoá đó trước khi tiến hành xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của Điều 25 Luật Thương mại.
- Về nội dung của hợp đồng cần chứa đựng đầy đủ các nội dung cơ bản của một hợp đồng mua bán hàng hoá là: tên hàng; số lượng; quy cách chất lượng; giá cả; phương thức thanh toán; địa điểm và thời hạn giao hàng. Ngoài ra hợp đồng phải có thêm những điều khoản để đảm bảo quyền lợi cho các bên không có chung một hệ thống pháp luật như điều khoản về chọn Luật áp dụng hay cơ quan và nơi giải quyết tranh chấp.
- Về hình thức của hợp đồng, theo quy định tại Luật Thương mại hợp đồng thương mại được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
- Giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá: Hợp đồng có thể được ký kết bằng các phương thức trực tiếp hoặc gián tiếp.
Ký kết bằng phương thức trực tiếp: Người đại diện có thẩm quyền của các bên trực tiếp gặp nhau, cùng bàn bạc, thương lượng và thoả thuận thống nhất về các nội dung của hợp đồng và cùng ký tên vào văn bản hợp đồng. Hợp đồng được xác lập và phát sinh hiệu lực pháp lý từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng.
Ký kết bằng phương thức gián tiếp: Các bên không trực tiếp gặp nhau để bàn bạc thảo luận mà trao đổi qua các tài liệu giao dịch như công văn, điện báo, đơn đặt hàng, đơn chào hàng, thông điệp, dữ liệu điện tử... trong đó ghi rõ nội dung công việc cần giao dịch.
- Thời điểm xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hoá được coi là đã ký kết kể từ khi các bên có mặt ký kết vào hợp đồng. Trong trường hợp các bên không cùng có mặt để ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá được coi là đã ký kết kể từ khi bên chào hàng nhận đựơc thông báo chấp nhận toàn bộ các điều kiện được ghi trong đơn chào hàng trong thời hạn trách nhiệm của người chào hàng. Từ thời điểm hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết, mọi thư từ giao dịch và đàm phán trước đó về hợp đồng dều hết hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa
Người bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, và các quy định khác trong hợp đồng, phải giao hàng đúng thời điểm giao hàng. Phải bảo đảm hàng hóa được giao và việc chuyển giao hàng hóa là hợp pháp cũng như phải đảm bảo quyền sở hữu chí tuệ đối với hàng hóa đã bán.Sau thời điểm chuyển quyền sở hữu, người bán không được có bất kỳ hành vi nào ngoài phương hại tới quyền sở hữu hàng hóa của người mua.Bên mua có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hóa không phù hợp với hợp đồng , thuộc một trong các trường hợp sau:
- Không phù hợp ới mục đích sử dụng thông thường của các hàng hóa cùng chủng loại;
- Không phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên mua đã cho bên bán biết vào thời điểm giao kết hợp đồng;
- Không bảo đảm chất lượng như của mẫu hàng hóa mà bên bán đã gaio cho bên mua;
- Không được bảo quản, đóng gói theo cách thức thông thường đối với loại hàng hóa đó hoặc không theo cách thức thích hợp để bảo quản hàng hóa trong trường hợp không có cách thức bảo quản thông thường.
Bên bán khôn chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết nào của hàng hóa không phù hợp với hợp đồng nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng bên mua đã biết hoặc phải biết về những khuyết điểm đó. Trong thời hạn khiếu nại, bên bán phải chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết nào của hàng hóa có trước thời điểm chuyển rủi ro cho bên mua, kể cả trường hợp khiếm khuyết đó được phát hiện sau thời điểm chuyển rủi ro. Bên bán phải chịu trách nhiệm về khiếm khuyết của hàng hóa phát sinh sau thời điểm rủi ro nếu khiếm khuyết đó do bên vi phạm hợp đồng.
Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận, phải tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh toán theo trình tự, thủ tục thỏa thuận và theo quy định của pháp luật. Bên mua vẫn phải thanh toán tiền mua hàng trong trường hợp hàng hóa mất mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua trừ trương hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của người bán gây ra.
Bên mua cũng có quyền ngừng thanh toán tiền mua hàng trong các trường hợp: (1) Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối thì có quyền tạm ngừng việc thanh toán; (2) Bên mua có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp thì có quyền tam ngừng thanh toán cho đến khi bên bán khắc phục được sự không phù hợp đó.
Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa
Quy định về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là một hoạt động thương mại mới được bổ sung tại Luật Thương mại 2005. mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là một hoạt động phổ biến trong thực tiễn thương mại quốc tế nhằm bảo hiểm các rủi ro do việc biến động giá cả trên thị trường. vì vậy, hoạt động này có tác động tích cực đến hoạt động mua bán hàng hóa mà giá cả thường có những biến động lớn, nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường hàng hóa và nông sản một cách ổn định.
1.1.2.2 Hợp đồng cung ứng dịch vụ
Luật thương mại đã có những quy định cơ bản về quyền cung ứng và quyền sử dụng dịch vụ của thương nhân được xây dựng trên cơ sở những phương thức cung ứng dịch vụ với quy định về thương mại dịch vụ của các hiệp định thương mại song phương (BTA) và tổ chức thương mại quốc tế (WTO).Theo đó cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại một bên (bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác để nhận được thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.Hợp đồng dịch vụ được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng dịch vụ mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân thêo các quy định đó.
Quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ
- Cung ứng các dịc vụ và thực hiện các công việc có liên quan một cách đầy đủ một cách phù hợp với thỏa thuận mà theo quy định của luật
- Bảo quản và giao cho khách hàng tài liệu và phương tiện được giao để thực hiện dịch vụ sau khi đã hoàn thành công việc
- Thông báo ngay cho khách hàng trong trường hợp thông tin, tài liệu không đầy đủ, phương tiện không bảo đảm việc cung ứng dịch vụ
- Giữ bí mật về thông tin mà mình biết được trong quá trình cung ứng dịch vụ nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định
Liên quan đến thời hạn hoàn thành dịch vụ, bên cung ứng dịch vụ, bên cung ứng dịch vụ phải hoàn thành đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng (Điều 82, Luật Thương mại). Trường hợp không có thoả thuận về thời hạn hoàn thành dịch vụ thì bên cung ứng dịch vụ phải hoàn thành dịch vụ trong một thời hạn hợp lý trên cơ sở tính đến tất cả các điều kiện và hoàn cảnh mà bên cung ứng dịch vụ biết được ở thời điểm giao kết hợp đồng, bao gồm bất kỳ nhu cầu cụ thể nào của khách hàng có liên quan đến thời gian hoàn thành dịch vụ.
Trường hợp một dịch vụ có thể được hoàn thành khi khách hàng hoặc bên cung ứng dịch vụ khácđáp ứng các điều kiện nhất định thì bên cung ứng đó không có nghĩa vụ hoàn thành dịch vụ của mình cho đến khi các điều kiện đó được đáp ứng.
Quyền và nghĩa vụ cụ thể của bên tiếp nhận dịch vụ
Khách hàng có quyền yêu cầu bên cung ứng dịch vụ trao đổi thông tin về tiến độ công việc và các công việc có liên quan đến việc cung ứng dịch vụ, cung ứng dịch vụ vào thời gian và các phương thức phù hợp; trong quá trình cung ứng dịch vụ, khách hàng có quyền yêu cầu bên cung ứng dịch vụ phải tuân thủ những yêu cầu hợp lý của mình liên quan đến những thay đổi trong quá trình cung ứng dịch vụ.
Các nghĩa vụ cơ bản của bên tiếp nhận dịch vụ theo Điều 85 của Luật TM là:
- Thanh toán tiền cung ứng dịch vụ như đã thoả thuận trong hợp đồng;
- Cung ứng kịp thời các kế hoạch, chỉ dẫn và những chi tiết khác để việc cung ứng dịch vụ được thực hiện không bị trì hoãn hay gián đoạn;
- Hợp tác trong tất cả các vấn đề cần thiết khác để bên cung ứng dịch vụ một cách thích hợp;
- Điều phối hoạt động của các bên cung ứng dịch vụ để không gây cản trở đến công việc của bất kỳ bên cung ứng dịch vụ nào trong trường hợp một dịch vụ do nhiều bên cung ứng dịch vụ cùng tiến hành với bên cung ứng dịch vụ khác.
1.1.3. Điều kiện, cơ cấu, thưỏng phạt trong một hợp đồng thương mại.
1.1.3.1. Nội dung các điều kiện của một hợp đồng thương mại
Điều kiện về tên hàng
Điều kiện nay bao gồm ghi tên thông thường, tên thương mại, tên khoa học(áp dụng cho các loại hoá chất giống cây);ghi tên hàng kèm tên địa phương sản xuất ra, nếu nơi đó ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm; ghi tên hàng hoá kèm với quy cách chính của hàng hoá đó; ghi tên hàng kèm với tên nhà sản xuất ra nó; ghi tên hàng kèm với công dụng của hàng, theo cách này nguời ta ghi thêm công dụng chủ yếu của sản phẩm, theo tập quán nếu hợp đồng ghi kèm theo công dụng thì người bán phải giao hàng đáp ứng được công dụng đó mặc dù giá cả nó cao.
Điều kiện về phẩm chất
Thống nhất những quy định, những phương pháp để xác định về chất lượng. Có các phương pháp chủ yếu sau đây:
+ Xác định phẩm chất dựa vào mẫu hàng
+ Xác định phẩm chất dựa vào tiêu chuẩn: Đối với những sản phẩm đã có tiêu chuẩn thì dựa vào tiêu chuẩn để xác định phẩm chất.
+ Xác định phẩm chất dựa vào nhãn hiệu hàng hoá:
Nhãn hiệu là những ký hiệu, hình chữ…để phân biệt hang hoá của nơi sản xuất này với nơi sản xuất khác.
Lưu ý: Nhãn hiệu đã đăng ký chưa? Được đăng ký ở thị trường nào? Hãng sản xuất đó có đăng ký tại thị trường mua sản phẩm chưa? Cần ghi năm sản xuất, đợt sản xuất của sản phẩm vì nhưũng sản phẩm được sản xuất ở những thời điểm khác nhau có thể có chất lượng khác nhau nên giá cả cũng khác nhau. Cần chú ý đến những nhãn hiệu tương tự.
+ Xác định phẩm chất dựa vào tài liệu kỹ thuật gồm: Bảng thuyết minh, hướng dẫn vận hành, lắp ráp, catalog…Phải tiến hành ácc tài liệu kỹ thuật thành một phụ kiện của hợp đồng tức gắn nó với hợp đồng.
+ Xác định phẩm chất dựa vào hàm lượng của một chất nào đó trong sản phẩm: Chia làm hai loại hàm lượng của chất trong hàng hoá là: Hàm lượng chất có ích (Quy định hàm lượng % min); Hàm lượng chất không có ích ( Quy định hàm lượng % max).
+ Xác định mẫu hàng dựa vào việc xem hàng trước: Tuỳ hợp đồng đã ký nhưng phải có người mua xem hàng hoá và đồng ý, lúc đó hợp đồng mới có hiệu lực. Nếu người mua không đến xem trong thời gian quy định thì quá thời gian đó coi như đồng ý.
Điều kiện về số lượng
+ Cần lưu ý hệ thống đơn vị đo lường như thế nào?
+ Phương pháp đo như thế nào? Phương pháp quy định trọng lượng (Trọng lượng cả bì? trọng lượng tịnh? trọng lượng thương mại?).
+ Phải thốn nhất về phương tiện đo.
Điều kiện về giao hàng
- Quy định thời hạn mà người bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng.
- Quy định về địa điểm giao nhận hàng: chính xác về toạ độ; mốc địa điểm phải cố định; địa điểm ấy có khả năng thực hiện được.
- Quy định về phương thức giao hàng: Là những quy định về việc giao nhận được tiến hành ở một nơi nào đó là giao nhận sơ bộ hoặc là giao nhận cuối cùng
-Thông báo giao hàng: Thông thường trước khi giao hàng người bán thông rằng hàng sẵn sàng để giao hàng hoặc ngày đem ra cảng để giao;người mua báo cho người bán những nội dung những nội dung cần thiết để gửi hàng hoặc về chi tiết về tàu đến nhận hàng. Sau khi giao hàng người bán phải thông báo tình hình hàng đã giao, kết quả giao hàng.
Điều kiện giá cả
- Xác định đơn vị tiền tệ của giá cả
- Xác định mức giá của hàng hoá:Xác định giá trần (mức giá cao nhất mà các bên có thể quyết định được); Xác định mức giá sàn (mức giá thấp nhất mà các bên quyết định được); Xác định mức giá tạm tính
- Các điều kiện về giảm giá do việc mua nhiều hoặc do thời vụ. Từ đó tính toán xem giảm giá bằng việc giảm giá đơn hay giảm giá luỹ tiến hay giảm giá tặng thưởng.
Điều kiện về thanh toán
-Tiền thanh toán phải được tiến hành cụ thể bằng đồng tiện được ghi trong hợp đồng. Đồng tiền thanh toán có thể trùng hoặc không trùng với đồng tiền ghi giá. Nếu không trùng hợp thì phải quy định tỷ giá quy đổi.
- Thời hạn thanh toán có thể trả ngay, trả trước hay trả sau.
- Hình thức thanh toán: Tiền mặt, L\C, D\A, D\P, T\T,M\T, cheque...
- Bộ chứng từ thanh toán gồm:
+ Hối phiếu thương mại.
+ Đơn hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm (nếu có).
+ Hoá đơn thương mại.
+ Giấy chứng nhận phẩm chất hàng hoá.
+ Giấy chứng nhận trọng\ khối lượng.
+ Giấy chứng nhận xuất xứ bao bì.
+ Giấy kiểm dịch động vật(nếu hàng bán phải kiểm dịch).
...
Điều kiện bao bì và mã ký hiệu
- Về bao bì: Trong điều khoản này các bên giao dịch thường thoả thuận với nhau về: Quy cách bao bì, chất lượng bao bì, số lớp bao bì, giá cả bao bì, phương thức cung cấp, đảm bảo bao bì.
-Yêu cầu của ký mã hiệu:
+ Được viết bằng sơn hoặc mực không phai, không nhoè.
+ Phải dễ đọc, dễ thấy.
+ Có kích thước lớn hoặc bằng 2 cm
+ Không làm ảnh hưởng đến phẩm chất hàng hoá
+ Phải dùng màu đen hoặc màu tím với hàng hoá thông thường, màu đỏ với hàng hoá nguy hiểm, màu cam với hàng hoá độc hại. Bề mặt viết ký mã hiệu phải bào nhẵn.
+ Phải được viết theo thứ tự nhất định.
+ Ký hiệu mã hiệu phải được kẻ ít nhất trên hai mặt giáp nhau.
Điều kiện bảo hành
- Thời gian bảo hành: cần phải quy định hết sức rõ ràng.
- Nội dung của bảo hành: người bán hàng cam kết trong thời hạn bảo hành hàng hoá sẽ bảo đảm các tiêu chuẩn chất lượng, đặc điểm kỹ thuật, phù hợp với quy định của hợp đồng, với điều kiện người mua phải nghiêm chỉnh thi hành sự hướng dẫn của người bán về sử dụng và bảo dưỡng. Nếu trong giai đoạn đó, người mua phát hiện thấy khuyết tật của hàng hoá, thì người bán phải sửa chữa miễn phí hoặc giao hàng thay thế.
Điều kiện phạt bồi thường thiệt hại
Các trường hợp phạt: Phạt chậm giao hàng; Phạt hàng không phù hợp về số lượng và chất lượng.
Các biện pháp giải quyết như: Huỷ ngay đơn hàng, không thanh toán tiền bồi thường. Hoặc yêu cầu thay thế ngay lô hàng bị từ chối; Hoặc yêu cầu nhà cung cấp khác thay thế lô hàng, chi phí do nhà cung cấp vi phạm chịu.
Các biện pháp trên áp dụng kèm tỷ lệ tiền phạt: Phạt 1 tỷ lệ phần trăm của số tiền đến thời hạn thanh toán, tính theo thời hạn chậm thanh toán. Phân bố lãi suất chậm thanh toán, thường vận dụng tỷ lệ triết khấu chính thức hay lãi suất hợp pháp được công bố hay lãi suất nợ quá hạn của các ngân hàng, có lúc còn cộng thêm vài phần trăm.
Điều kiện bảo hiểm
Trong điều khoản này cần thoả thuận ai là người mua bảo hiểm và điều kiện bảo hiểm cần mua.
Điều kiện khiếu nại
Là các đề nghị do một bên đưa ra đối với bên kia do số lượng, chất lượng giao hàng, hoặc một số vấn đề khác không phù hợp với các điều khoản đã được quy định trong hợp đồng. Đơn khiếu nại phải được gởi đi kèm theo chứng từ cần thiết như: biên bản giám định, biên bản chứng nhận tổn thất, mất mát, vận đơn đường biển, giấy chứng nhận chất lượng, bản kê chi tiết...
Điều kiện trọng tài
Quy định các nội dung sau: Ai là người đứng ra phân xử? Toà án Quốc gia hay Toà án trọng tài, trọng tài nào, thành lập ra sao? Để giải quyết tranh chấp giữa các bên giao dịch, khi những tranh chấp này không thể giải quyết bằng con đường thương lượng. Áp dụng luật nào vào việc xét xử? Địa điểm tiến hành xét xử? Phân định chi phí trọng tài như thế nào?
1.1.3.2. Cơ cấu của một hợp đồng thương mại
Một hợp đồng thương mại nói chung có những nội sau:
Phần mở đầu
Quốc hiệu: Phần này mở đầu một hợp đồng mua bán hàng hoá dịch vụ trong nước. Còn đối với hợp đồng mua bán quốc tế thì không ghi quốc hiệu vì chủ thể thuộc các quốc tịch khác nhau.
Số và ký hiệu hợp đồng: Ghi ở góc trái của hợp đồng hoặc dưới tên văn bản. Nội dung này cần thiết cho việc lưu trữ, tra cứu khi cần thiết, phần ký hiệu hợp đồng thường là những chữ viết tắt của tên chủng loại hợp đồng.
Những căn cứ để xây dựng hợp đồng: Thông thường là căn cứ vào những văn bản pháp quy, văn bản hướng dẫn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thoả thuận của chủ thể.
Thời gian và địa điểm ký kết hợp đồng: Nội dung này phải được xác lập rõ ràng vì nó là mốc quan trọng đánh dấu sự thiết lập hợp đồng xảy ra trong một không gian, thời gian cụ thể, để chứng minh sự giao dịch của các bên, khi cần thiết nhà nước sẽ thực hiện xác nhận, hoặc kiểm soát, đồng thời nó cũng là căn cứ quan trọng để các chủ thể hợp đồng ấn định thời hạn của hợp đồng được bắt đầu và kết thúc khi nào.
Những thông tin về những chủ thể hợp đồng bao gồm những nội dung:
- Tên doanh nghiệp: Hai bên phải kiểm tra lẫn nhau về tư cách pháp nhân hoặc giấy phép đăng ký kinh doanh, để chống mạo danh lừa đảo hoặc bị thông báo vỡ nợ, đình chỉ hoạt động, giải thể.
- Địa chỉ của doanh nghiệp: Ghi rõ nơi có trụ sở pháp nhân đóng, khi cần các bên có thể tìm đến nhau để liên hệ, giao dịch. Yêu cầu phải ghi rõ cụ thể số nhà, đường phố, xã phường, quận, huyện, tỉnh, thành phố...
- Số điện thoại, telex, fax: Đây là những phương tiện thông tin quan trọng để giao dịch, liên hệ với nhau, giảm bớt chi phí đi lại.
- Số tài khoản mở tại ngân hàng: Khi ký hợp đồng các bên phải thẩm định về ngân hàng mở tài khoản, số hiệu tài khoản, kiểm tra nắm vững số tiền đối tác có trên tài khoản để đảm bảo khả năng thanh toán.
- Người đaị diện ký kết hợp đồng: Về nguyên tắc phải là người đứng đầu pháp nhân hoặc đứng tên trong giấy phép kinh doanh. Song có thể uỷ quyền cho người khác theo đúng quy định của pháp luật.
Phần những điều khoản căn bản hai bên thoả thuận bao gồm những nội dung sau:
Điều khoản về đối tượng hợp đồng: Trong đó nêu rõ tên của hàng hoá giao dịch trong hợp đồng.Tên hàng hoá phải được ghi chính xác, rõ ràng theo sự thoả thuận của các chủ thể và tính theo đơn vị đo lường hợp pháp của nhà nước với từng loại hàng. Nếu tính trọng lượng thì phải ghi cả trọng lượng tịnh và trọng lường cả bì. Nếu trong hợp đồng có mua bán nhiều loại hàng hoá khác nhau thì phải ghi riêng số lượng, trọng lượng của từng loại, sau đó ghi tổng giá trị hàng hoá mua bán.
Điều khoản về chất lượng, quy cách hàng hoá: Điều khoản này chỉ rõ phẩm chất, qui cách, tiêu chuẩn kỹ thuật, kích thước, màu sắc, mùi vị, độ ẩm, tạp chất...
Điều khoản về thanh toàn: Điều khoản này chỉ rõ đồng tiền và thể thức thanh toán mà hai bên lựa chọn. Tuỳ theo tính chất của các loại giao dịch thương mại và các quan hệ chi trả hai bên có thể chọn một trong hai thể thức thanh toán chấp nhận được, chẳng hạn như thanh toán bằng tiền mặt, séc, uỷ nhiệm, thư tín dụng (L\C), đổi hàng...
Điều khoản về giao nhận hàng: Trong điều khoản này phải xác định trách nhiệm của người bán thông báo cho người mua về việc hàng đã chuẩn bị xong để giao, liệt kê những chứng từ giao hàng mà người bán phải giao khi người mua nhận hàng. Trong hợp đồng này cần quy định rõ lịch giao, thời gian, địa điểm, phương thức giao nhận và điều kiện của người đến nhận hàng.
Điều khoản về bao bì và ký mã hiệu hàng hoá: Điều khoản này cho thấy quy cách, chủng loại, chất lượng bao bì, độ bền và cách đóng gói hàng. Cần đảm bảo ghi nhận đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng của từng loại hàng như: Tên cơ sở sản xuất, trọng lượng hàng, số hiệu đơn hàng, phải có đủ những chỉ dẫn đặc biệt về vận chuyển, bảo quản, bốc xếp hàng hoá.Nội dung ký mã hiệu đôi khi còn quy định cả phương thức thanh toán bao bì trong hợp đồng.
Những điều khoản khác
Ngoài những điều khoản căn bản trên đây trong hợp đồng còn có những điều khoản khác, bao gộm những điều khoản sau đây:
Đỉều khoản về bảo hành hàng hoá và giấy hướng dẫn sử dụng.
Điều khoản về những biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng.
Điều khoản về trách nhiệm vật chất.
Điều khoản về hiệu lực hợp đồng.
Điều khoản về giải quyết tranh chấp phát sinh...
Phần cuối của hợp đồng:
Phần này chỉ rõ:
Số lượng bản hợp đồng ký có giá trị như nhau.
Đại diện của các bên đã xác nhận vào hợp đồng (ký tên, đóng dâú).
1.1.3.3. Thưởng phạt trong hợp đồng thương mại
Để khuyến khích thực hiện tốt hợp đồng thương mại, các bên có quyền thoả thuận mức tiền thưởng theo tỷ lệ phần trăm giá trị hợp đồng hoặc bằng số tiền tuyệt đối. Trường hợp có sự vi phạm hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại. Mức tiền phạt được nhà nước quy định như sau:
Vi phạm chất lượng: Phạt từ 3% đến 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm chất lượng.
Vi phạm thời hạn thực hiện hợp đồng: Phạt 2% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm thời hạn thực hiện 10 ngày lịch đầu tiên; phạt từ 0,5% đến 1% cho mỗi đợt 10 ngày kế tiếp theo cho đến mức tổng số các lần phạt không quá 8% giá trị hợp đồng bị vi phạm ở thời điểm 10 ngày lịch đầu tiên; nếu hoàn toàn không thực hiện hợp đồng đã ký kết thì sẽ bị phạt đến mức 12% giá trị hợp đồng vi phạm.
Vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận sản phẩm hàng hoá, công việc đã hoàn thành theo đúng hợp đồng: Phạt từ 4% giá trị phần hợp đồng đã hoàn thành không được tiếp nhận cho 10 ngày lịch đầu tiên và phạt thêm 1% cho mỗi đợt 10 ngày kế tiếp theo cho đến mức tổng số các lần phạt không quá 12% giá trị phần hợp đồng đã hoàn thành không được tiếp nhận ở thời điểm 10 ngày lịch đầu tiên.
Vi phạm nghĩa vụ thanh toán áp dụng mức lãi suất tín dụng quá hạn của ngân hàng nhà nước Việt Nam, tính từ ngày hết hạn thanh toán. Trường hợp này không giới hạn mức phạt tối đa.
1.1.4. Ý nghĩa của hoạt động ký kết hợp đồng trong việc thực hiện hợp đồng thương mại
Về cơ bản, hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên có liên quan về việc sẽ thực hiện hay không thực hiện một điều gì đó. Việc ký kết hợp đồng là hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện hợp đồng. Sự cần thiết trước hết do trong quá trình thực hiện xuất hiện phát sinh, những thay đổi hay vi phạm như về chất lượng, thời hạn thực hiện hợp đồng, không hoàn thành sản phẩm hàng hoá, dịch vụ một cách đồng bộ, tiếp nhận sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã hoàn thành không đúng hợp đồng, không thanh toán đúng thời gian ...gây ra những tranh chấp, mâu thuẫn đòi hỏi cần được giải quyết. Do việc ký kết hợp đồng là đảm bảo sự tin tưởng giữa các bên, là đòi hỏi, yêu cầu quản lý của nhà nước.Việc ký kết hợp đồng có ý nghĩa:
Đảm bảo việc thực hiện giao dịch hợp pháp đúng quy định của pháp luật.
Bảo vệ quyền và nghĩa vụ hợp pháp của các bên có liên quan.
Bảo đảm việc thực hiện tốt qúa trình giao dịch, tạo dựng niềm tin lẫn nhau giữa các bên, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh.
Là cơ sở để giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực hiện.
Vì vậy một hợp đồng được ký kết cần phải có tính hợp pháp,tính chặt chẽ logic. Mỗi điểm thoả thuận trong hợp đồng phải rõ ràng có chủ thể đi kèm để tránh những tranh chấp kiện tụng có thể xảy ra.
1.2. Nội dung hoạt động ký kết hợp đồng thương mại của doanh nghiệp
1.2.1. Hoạt động chuẩn bị giao dịch tiến tới ký kết hợp đồng thương mại
1.2.1.1. Những yêu cầu của việc chuẩn bị giao dịch đàm phán
Hoạt động kinh doanh ngày càng phức tạp, bạn hàng ở cách xa nhau, hoạt động kinh doanh chịu sự điều tiết của hệ thống luật pháp, hệ thống tiền tệ tài chính khác nhau...Vì vậy trước khi bước vào giao dịch doanh nghiệp cần chuẩn bị chu đáo, xây dựng kế hoạch trước khi giao dịch.Việc chuẩn bị giao dịch đàm phán phải bảo đảm các yêu cầu về các mặt sau:
- Thu thập thông tin. Trước khi đàm phán cần phải nắm được những thông tin như: Đối phương có lợi gì trong thựơng vụ này? Ta có lợi gì trong thương vụ này? Đối phương là ai? Đại diện cho tổ chức, doanh nghiệp đó là ngườ._.i như thế nào? Những thông tin gì có thể cung cấp cho đối phương? Khuynh hướng thị trường ra sao?...
- Chuẩn bị chiến lược: Trước khi đàm phán cần xác định tư tưởng chung chủ đạo của mình là tư duy chiến lược hay tư duy đối phó.Công cụ và phương tiện ta sẽ dùng là gì (hăng hái, nhiệt tình hay lãnh đạm thờ ơ, đơn giản và thúc ép hay lạnh nhạt xa lánh.)
- Chuẩn bị kế hoạch: Trước khi đàm phán, cần xác định mục tiêu của cuộc đàm (yêu cầu tối đa, tối thiểu, giá cả cao nhất, giá cả thấp nhất, những nhượng bộ có thể thực hiện, những đòi hỏi đổi lại cho đối tượng nhượng bộ...).
Việc chuẩn bị sắp xếp về nhân sự gồm có ai trong đoàn đàm phán, công tác chuẩn bị điều kiện cơ sở vật chất cho cuộc đàm phán phải đảm bảo.
1.2.1.2. Hoạt động chuẩn bị trước khi giao dịch đàm phán
Hoạt động thu thập và xử lý các thông tin tiếp cận thị trường
Trong thời đại ngày nay - thời đại của thông tin và bùng nổ thông tin, dù hoạt động trong lĩnh vực mua bán hàng hóa hay bất kỳ lĩnh vực nào, người nắm thông tin nhanh chóng nhất và chính xác nhất sẽ luôn luôn là người chiến thắng. Vì vậy các doanh nghiệp trước khi bắt tay vào giao dịch kinh doanh trước tiên là phải chuẩn bị kỹ các thông tin về hàng hóa, thị trường, các thông tin cụ thể về bạn hàng. Thứ nhất, các thông tin về hàng hóa: Trước hết phải nghiên cứu, tìm hiểu kỹ về khía cạnh thương phẩm học để hiểu rõ giá trị, công dụng, các tính chất cơ lý hóa...của nó, cùng những yêu cầu của thị trường đối với mặt hàng đó, như: quy cách, phẩm chất, bao bì, các trang trí bên ngoài, cách lựa chọn, phân loại. Doanh nghiệp phải nắm rõ tình hình sản xuất của mặt hàng đó như: Thời vụ, khả năng về nguyên vật liệu, công nhân, tay nghề, nguyên lý chế tạo...Về mặt tiêu thụ, phải biết mặt hàng định lựa chọn đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống của nó trên thị trường. Chu kỳ này là tiến trình phát triển việc tiêu thụ một mặt hàng trên thị trường gồm 4 giai đoạn: Thâm nhập, phát triển, bão hoà, thoái trào.Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, để lựa chọn mặt hàng kinh doanh căn cứ vào tỷ suất ngoại tệ các mặt hàng.Trong trường hợp xuất khẩu: Tỷ xuất này là tổng chi phí (có lãi định mức) bằng tiền Việt Nam để thu được một đơn vị ngoại tệ. Còn với trường hợp nhập khẩu, đó là tổng số tiền Việt Nam thu được khi phải chi một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu
Thứ hai là các thông tin về thị trường. Việc nghiên cứu các thông tin về thị trường giúp cho các doanh nghiệp với vai trò là người mua hay người bán có những ứng xử tốt khi tiếp cận với thị trường, lựa chọn được phương thức mua bán và điều kiện giao dịch thích hợp.Các thông tin về thị trường bao gồm các thông tin như:
- Các thông tin chung về con người, tình hình về chính trị xã hội: diện tích, dân số, ngôn ngữ, địa lý khí hậu, các trung tâm thương mại chủ yếu, chế độ chính trị, chính sách kinh tế...
- Những thông tin kinh tế cơ bản: thu nhập của người dân (thu nhập bình quân đầu người) ,chỉ số bán buôn, bán lẻ, tập quán tiêu dùng, dung lượng thị trường...; với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thì cần nghiên cứu thêm một số thông tin như: đồng tiền trong nước, tỷ giá giá hối đoái, cán cân thanh toán, dự trữ ngoại tệ, tổng sản phẩm quốc gia...
- Cơ sở hạ tầng: đường xá, cầu cống, bến cảng, sân bay, các phương tiện giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, bưu chính.
- Chính sách ngoại thương: xem xét xem các nước đó có là thành viên của các tổ chức mậu dịch quốc tế không?, các mối quan hệ buôn bán đặc biệt, chính sách kinh tế nói chung, chính sách ngoại giao nói riêng, chế độ hạch toán xuất nhập khẩu, hàng rào thuế quan, các chế độ ưu đãi đặc biệt...
- Tìm hiểu kỹ về các ngân hàng, hệ thống tín dụng.
- Các điều kiện về vận tải và tình hình giá cước kèm theo.
Đối với các doanh nghiệp đóng vai trò là người bán trên thị trường thì cần nghiên cứu kỹ các thông tin về các đối thủ cạnh tranh kinh doanh trên thị trường. Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh để tìm ra điểm mạnh yếu của đối thủ cạnh tranh từ đó tìm ra điểm nổi trội của doanh nghiệp mình và để chỉ ra lợi thế của doanh nghiệp khi bước vào hoạt động đàm phán thuyết phục khách hàng.Đối với các doanh nghiệp đóng vai trò là người mua thì cần nghiên cứu hơn nữa về các nhà cung cấp các loại hàng hóa mà doanh nghiệp muốn mua cũng như những sản phẩm hàng hóa tương tự. Số lượng nhà cung cấp thì cũng tùy thuộc vào bản thân tính chất nhu cầu về các loại hàng hóa mà doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường. Các doanh nghiệp có thể lựa chọn một hoặc một số nhà cung cấp của một hoặc nhiều hàng hóa. Việc nghiên cứu này giúp cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc lựa chọn nhà cung cấp cũng như trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng mua bán sản phẩm, hàng hóa, trong việc thỏa thuận về giá cả, các điều kiện giao nhận, thanh toán, bảo hiểm...
Thứ ba là việc thu thập các thông tin cụ thể về bạn hàng. Đó là các thông tin như: về lịch sử hình thành, quá khứ của công ty; hình thức tổ chức, địa vị pháp lý của các công ty làm đối tác; phạm vi mức độ và các mặt hàng kinh doanh; thái độ cư xử và thiện chí làm ăn; kinh nghiệm và uy tín; phong tục tập quán trong kinh doanh cũng như trong lĩnh vực khác của đời sống xã hội đặc biệt là các phương hướng, chiến lược phát triển của họ. Việc nghiên cứu này giúp cho doanh nghiệp tạo được tâm lý cởi mở, hợp tác trong cuộc đàm phán với bạn hàng.Vì trong thực tế, ở cùng những điều kiện như nhau, việc giao dịch với khách hàng cụ thể này thì thành công, với khách hàng khác thì thất bại. Điều này càng cho thấy nhiệm vụ quan trọng nhất trong giai đoạn chuẩn bị là phải lựa chọn bạn hàng phù hợp hay chính là việc phải nghiên cứu kỹ cụ thể các đặc điểm của đối tượng tham giao dịch.
Hoạt động thu thập thông tin có thể được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau. Doanh nghiệp có thể dựa vào các tài liệu từ các hoạt động nghiên cứu tại bàn như từ các loại tạp chí kinh tế xuất bản định kỳ, các loại sách chuyên khảo, các thông báo của công ty mô giới, các tham tán thương mại, các thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng đài báo, tivi, internet...Để thu thập tốt nguồn thông tin này doanh nghiệp cần có mạng lưới thu thập thông tin tài liệu ổn định, có kế hoạch nhằm mở rộng kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn, củng cố kiến thức văn hóa cơ bản.Thu thập thông tin đã là một việc rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn là phải đánh giá được sự chính xác của thông tin. Vì thế doanh nghiệp cần tiến hành kiểm tra chéo các thông tin độc lập khác nhau để đảm bảo tính chính xác. Bên cạnh đó doanh nghiệp có thể tiến hành thu thập thông tin từ việc nghiên cứu tại chỗ. Để thực hiện việc nghiên cứu tại chỗ các doanh nghiệp có thể tổ chức các cuộc hội thảo khách hàng, tổ chức, tham gia các hội chợ triển lãm trưng bày, giới thiệu sản phẩm. Doanh nghiệp có thể sử dụng các phương pháp phỏng vấn, tham dò ý kiến khách hàng, thăm quan các cửa hàng...Tuy phương pháp này phức tạp, tốn kém nhưng có kết quả nhanh chóng chính xác. Ngoài các phương pháp trên còn có thể dùng phương pháp dùng thử, bán thử, mua dịch vụ thông tin điều tra tín dụng, thị trường của người thứ 3 tìm hiểu về đối tác, sử dụng gián điệp kinh tế...Trong thực tế, các doanh nghiệp thường sử dụng kết hợp các phương pháp để đạt được tính hiệu quả cao .
Hoạt động chuẩn bị tổ chức nhân sự của đoàn đàm phán
Để cuộc đàm phán thành công thì yếu tố quyết định là con người. Nhân sự cho cuộc đàm phán phải được lựa chọn kỹ lưỡng phù hợp với mục tiêu, nội dung và đối tác đàm phán. Thành phần nhân sự trong đoàn đàm phán cần hội đủ 3 lĩnh vực: pháp lý, kỹ thuật và thương mại. Sự phối hợp ăn ý, nhịp nhàng của 3 loại chuyên gia này là cơ sở rất quan trọng trong quá trình đàm phán để ký kết một bản hợp đồng chặt chẽ khả thi, và hiệu quả cao. Những người tham gia đoàn đàm phán chia thành 3 nhóm chính:
Thứ nhất, người lãnh đạo nhóm đàm phán. Đây là người rất quan trọng, là người mở đầu, trình bày và quyết định kết thúc đàm phán. Người lãnh đạo là chỉ huy tổ chức đàm phán, nắm chắc mục tiêu, nội dung và toàn bộ kế hoạch chuẩn bị đàm phán. Đó là người phải xây dựng được chiến lược, chiến thuật ứng phó các tình huống trong đàm phán. Có trách nhiệm phân công các thành viên của đoàn vào các công việc trực tiếp hay gián tiếp trong cuộc đàm phán. Đồng thời lãnh đạo nhóm đàm phán vừa giỏi diễn thuyết, trình bày để ứng tác các tình huống, tranh luận, nêu ra các hướng kết luận và quyết định kết luận kết thúc đàm phán.
Thứ hai, các chuyên gia tham gia đoàn đàm phán. Đây là những trợ thủ đắc lực nhất của chủ thể đàm phán.Trong những cuộc đàm phán quan trọng, đội ngũ chuyên gia gồm nhiều chuyên gia kinh tế, chuyên gia luật pháp, chuyên gia công nghệ. Các chuyên gia này cần làm tốt những điều sau:
+ Tham gia từng phần việc có liên quan, theo dõi, đánh giá và đưa ra các ý kiến tán thành hoặc bác bỏ ý kiến của đối tác.
+ Phải phân tích được tình hình trong quá trình đàm phán, theo dõi chiến lược sách lược của các bên đàm phán.
+ Cung cấp thông tin cụ thể, chi tiết, luận giải làm rõ vấn đề khi cần thiết.
+ Theo dõi và đánh giá các đề nghị được đưa ra trong quá trình đàm phán, giúp lãnh đạo đoàn đàm phán đưa ra các kết luận cuối cùng.
Thứ ba, thư ký đoàn đàm phán gồm từ 1 đến 3 người, là những người giúp việc cho đoàn đàm phán
Chuẩn bị kế hoạch cụ thể tiến hành đàm phán
Chuẩn bị tốt kế hoạch đàm phán sẽ đề ra được một chương trình làm việc cụ thể có sự điều chỉnh cần thiết, có các chi tiết trong kế hoạch nhằm thực hiện đàm phán đạt kết quả cao. Việc xây dựng kế hoạch cần thực hiện các thao tác sau:
+ Đề ra và kiểm tra các dự đoán về cuộc đàm phán
+ Xác định những nhiêm vụ cơ bản, trước mắt của việc đàm phán.
+ Tìm kiếm phương pháp, bước đi thích hợp nhằm giải quyết nhiệm vụ đó.
+ Phân tích yếu tố, khả năng bên ngoài, bên trong (chủ quan, khách quan) của việc thực hiện kế hoạch đàm phán.
+ Xác định nhiệm vụ ngắn hạn, trung hạn cho cuộc đàm phán và mối liên quan trong việc thực hiện các nhiệm vụ.
+ Đề xuất biện pháp thực hiện các nhiệm vụ bao gồm lập chương trình và kế hoạch cho từng giai đoạn, phát hiện và xử lý kịp thời những bế tắc xuất hiện trong quá trình đàm phán.
1.2.2. Đàm phán ký kết hợp đồng gián tiếp
Đàm phán gián tiếp có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau như điện hợp đồng có thức khác nhau như: qua thư, điện tín, điện thoại... Một trong những cách đàm phán đơn giản và dễ thực hiện nhất là việc đàm phán qua thư từ, công việc được tiến hành thông qua việc viết các loại thư: chào hàng, hỏi hàng, báo giá, đặt hàng, hoàn giá, chấp nhận...
Thư hỏi hàng
Phần mở
Trong trường hợp hai bên chưa có quan hệ với nhau trước đó, thì trong phần mở đầu cần trình bày nguyên nhân chọn đối tượng của mình.
Trong trường hợp hai bên đã có sắn quan hệ từ trước thì có thể bớt đi phần nghi thức và trực tiếp đề cập đến chủ thể chính.
Nội dung chính
Thông báo cho chủ thể hàng biết mình đang cần loại hàng gì, yêu cầu chủ hàng gửi cho catalog, mẫu hàng...đồng thời cho biết giá cả, chất lượng hàng hóa, số lượng có khả năng cung cấp, thời hạn giao hàng, điều kiện thanh toán và mọi điều kiện cần thiết khác.
Có thể chủ hàng biết, sau lần yêu cầu này sẽ mở khả năng phát triển quan hệ giữa hai bên.
Phần kết
Mong muốn chủ hàng đáp ứng yêu cầu của mình, mong thư phúc đáp.
Chào hàng, báo giá:
Chào hàng - báo giá là việc người bán thể hiện rõ ý định bán hàng của mình. Chào hàng có thể là bất kỳ một lời đề nghị nào đủ rõ ràng và chỉ rõ tên hàng hoám xác định một cách trực triếp hoặc ngầm định về số lượng và giá cả. Chào hàng chỉ phát hiệu lực khi nó tới nơi người chào hàng. Chào hàng có thể bị hủy nếu thông báo của người chào hàng về việc hủy chào hàng gửi tới người được chào hàng trước hoặc cùng lúc với chào hàng, và mất hiệu lực khi người chào hàng nhận được thông báo về từ chối chào hàng.
Hoàn giá
Lúc người nhận được chào hàng (hoặc đơn đặt hàng) không chấp nhận hoàn toàn chào hàng hoặc đặt hàng đó, mà đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị này được gọi là hoàn giá. Khi hoàn giá, chào giá trước đó coi như hủy bỏ. Trong buôn bán quốc tế, mỗi lần giao dịch thường phải qua nhiều lần hoàn giá mới đi đến kết thúc. Cách trình bày một lá thư trả lời giá của bên mua:
Phần mở đầu: Cám ơn bên bán đã báo giá cho công ty.
Phần nội dung chính:
+ Trình bày các điều kiện không thích hợp với công ty.
+ Đề xuất điều kiện của mình.
Phần kết: Mong muốn được thư hồi âm.
Chấp nhận chào hàng:
Là giai đoạn tiếp theo, khi người nhận được chào hàng có một lời tuyên bố hay một hành vi khác biểu lộ sự đồng ý với chào hàng. Những điểm cơ bản trong nội dung của chào hàng là những điểm liên quan đến các điều kiện về giá cả, thanh toán, phẩm chất và số lượng hàng hóa, địa điểm và thời gian giao hàng, phạm vi trách nhiệm của các bên hay đến giải quyết tranh chấp. Nếu người nhận được chào hàng nhưng im lặng hoặc không hành động thì không được coi là đã chấp nhận chào hàng. Người nhận được chào hàng sau khi đã chấp nhận cũng có thể hủy chấp nhận nếu thông báo về việc hủy chấp nhận chào hàng tới nơi người chào hàng trước hoặc được cùng thời điểm chấp nhận có hiệu lực. Nếu người chào trả lời có khuynh hướng chấp nhận nhưng trong thư trả lời có chứa đựng những điểm bổ sung, bớt đi hay thêm vào hay sửa đổi thì đó được coi như là từ chối chào hàng và tạo thành một chào hàng mới. Giao kết hợp đồng: Hợp đồng được coi là đã được giao kết kể từ thời điểm sự chấp nhận chào hàng có hiệu lực. Bắt đầu từ thời điểm này các bên có những quyền và nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng.
1.2.3. Đàm phán ký kết hợp đồng thương mại theo hình thức trực tiếp trong kinh doanh
1.2.3.1. Đàm phán thương mại, nguyên tắc đảm bảo trong quá trình đàm phán
Đàm phán thương mại là một quá trình trong đó hai hay nhiều bên tiến hành thương lượng, thảo luận về các mối quan tâm chung và những điểm còn bất đồng để đi đến một thỏa thuận mà các bên cùng có lợi về hoạt động thương mại. Đàm phán kinh doanh nói chung đàm phán thương mại nói riêng lấy lợi ích kinh tế đạt được là mục đích cơ bản. Giá cả là hạt nhân của đàm phán. Đàm phán thương mại chứa đựng những xung đột của lợi ích kinh tế. Đàm phán không phải là sự lựa chọn đơn nhất ''hợp tác'' và ''xung đột'', mà là mâu thuẫn thống nhất giữa ''hợp tác'' và ''xung đột''. Đàm phán cũng không phải là thỏa thuận nhằm thỏa mãn lợi ích của mình một cách không hạn chế, mà là có giới hạn lợi ích nhất định. Trong quá trình đàm phán, các bên cần luôn thực hiện những nguyên tắc sau:
+ Lễ phép, lịch sự.
+ Hòa khí và thiện cảm.
+ Không xa rời mục tiêu đã định.
+ Chủ động
Để mở đầu cuộc đàm phán, ta có thể sử dụng một trong những cách sau:
+ Mở đầu làm dịu căng thẳng
+ Mở đầu kiếm cớ
+ Mở đầu kích thích trí tưởng tượng của đối phương
+ Mở đầu trực tiếp ( nhanh chóng vào nội dung)
Đi vào đàm phán cần tranh thủ sự đồng tình của đối phương về từng vấn đề một. Muốn vậy, những phương pháp thường dùng là:
+ Trình bày với vẻ bề ngoài thật thà.
+ Khéo léo sử dụng chữ ''nhưng''.
+ Nêu ra những câu hỏi để đối phương trả lời và tự thuyết phục chính mình.
+ Đưa ra yêu cầu ban đầu cao rồi chủ động giảm dần yêu cầu của mình.
+ Đưa ra nhiều phương án để đối phương tự lựa chọn...
Cuối cùng cần thúc đẩy ra quyết định bằng văn bản. Nhằm góp phần tạo nên thành công cho cuộc đàm phán, thái độ của các cán bộ trong đàm phán cũng là yếu tố quan trọng. Sau đàm phán, cần phải tỏ rõ thiện chí thực hiện những gì đã đạt được trong cuộc đàm phán. Tuy nhiên, cũng lại cần phải tỏ rõ rất sẵn sàng xem xét lại những điều thỏa thuận nào đó. Việc theo dõi thực hiện cần phải có sổ sách và được tuần kỳ đối chiếu, kiểm tra cùng đối tác.Mỗi cuộc đàm phán là một khóa học mà đối với những người có ý chí cần tiến, mỗi bên đều có thể rút ra bài học kinh nghiệm để tự mình hoàn thiện.
1.2.3.2. Nội dung đàm phán thương mại
Các nội dung chính trong đàm phán thương mại
- Tên và chủng loại hàng hóa giao dịch mua bán: Tên hàng phải đươc diễn tả như thế nào để không có sự hiểu lầm.
- Giao dịch về chất lượng hàng hóa mua bán: Trong quá trình đàm phán thương mại điều quan trọng nhất là thỏa thuận sử dụng phương pháp xác định chất lượng
- Giao dịch về số lượng hàng hóa mua bán: Nhằm nói lên mặt lượng của hàng hóa được giao dịch, điều này bao gồm các vấn đề về đơn vị tính số lượng hoặc trọng lượng của hàng hóa, phương pháp quy định số lượng và phương pháp xác định trọng lượng.
- Bao bì: Trong điều khoản về bao bì, các bên thường phải thỏa thuận với nhau những vấn đề về yêu cầu chất lượng của bao bì, phương thức cung cấp bao bì và giá cả của bao bì.
- Giao dịch về giá cả hàng hóa: Trong giao dịch giá cả là một nội dung quan trọng. Giá cả mua bán phải là giá cả thị trường. Hai bên giao dịch với nhau phải thống nhất về mức giá, phương pháp xác định mức giá, cơ sở của giá cả và giảm giá. Trong quá trình giao dịch thương mại, bên bán thách giá và bên mua trả giá. Nguyên tắc trả giá và đặt giá trong giao dịch tuân thủ phương châm: ''Ai đặt giá cao và giữ giá thường bán với giá cao'', ''Ai trả giá thấp thường mua được rẻ'', ''Ai nhượng bộ quá lớn sẽ bị thua thiệt''. Chính vì vậy khi đàm phán về giá các doanh nghiệp nên thách giá cao và nhượng bộ phải từ từ.
- Giao dịch về thời hạn và địa điểm giao hàng: Là các thỏa thuận xác định thời hạn và địa điểm giao hàng, phương thức giao hàng và thông báo giao hàng.
Thanh toán và kết thúc giao dịch
Hai bên thống nhất với nhau về phương thức thanh toán, loại tiền thanh toán, về điều kiện và thời gian thanh toán, trách nhiệm và quyền lợi hai bên trong thanh toán. Quy định với nhau về thời hạn kết thúc giao dịch, chuẩn bị cho lần giao dịch mới.
1.3 Kết thúc hoạt động ký kết hợp đồng thương mại
Sau khi ký kết hợp đồng thương mại, các bên vẫn phải thể hiện thiện chí hợp tác kinh doanh của mình nhằm gây dựng mối quan hệ làm ăn lâu dài với đối tác. Các bên phải đảm bảo việc thực hiện đúng hợp đồng đã ký kết. Song trong nhiều trường hợp, đặc biệt gặp ở các hợp đồng thương mại quốc tế có sự biến động. Hợp đồng được ký kết có thể thay đổi sau một thời hạn tương đáng kể. Từ thời điểm hợp đồng hợp đồng được ký kết nếu hoàn cảnh không có sự thay đổi hay sự thay đổi không đáng kể thì lợi ích của các bên vẫn ở thế cân bằng không có sự điều chỉnh hợp đồng. Song khi nghiên cứu điều kiện có sự thay đổi còn có thể phá vỡ thế cân bằng về lợi ích mà hai bên mong muốn đạt được ban đầu. Ví dụ,ở thời điểm ký kết hợp đồng giá dầu thô trên thị trường là 80 USD\1 thùng nhưng sau đó giá dầu trên thị trường quốc tế có sự biến động mạnh lên 120 USD\1 thùng, mà đối tượng của hợp đồng lại có liên quan đến giá dầu chẳng hạn. Điều đó có nghĩa là một trong hai bên sẽ được lợi nhiều hơn và tất nhiên bên kia sẽ phải chịu thiệt hại nhiều hơn. Khi đó vấn đề điều chỉnh hợp đồng có thể đặt ra vì trong hoàn cảnh đó các bên buộc phải chọn một trong 2 khả năng: hoặc là hủy bỏ hợp đồng hoặc là điều chỉnh hợp đồng. Thông thường khả năng hủy bỏ hợp đồng là rất ít vì như vậy phải tìm đối tác mới, thiết lập lại từ đầu mối quan hệ thương mại. Các doanh nghiệp lựa chọn điều chỉnh hợp cho phù hợp với hoàn cảnh nhằm tái tạo sự cân bằng về lợi ích 2 bên tại thời điểm ký kết hợp đồng. Tuy nhiên nội dung hợp đồng chỉ có thể được khi có sự đồng ý thương lượng của 2 bên. Vì vậy, người thương thảo hợp đồng cần phải thể hiện cụ thể rõ ràng các trường hợp có thể điều chỉnh nội dung của hợp đồng ngay tại thời điểm ký kết hợp đồng.
Chương 2
THỰC TRẠNG KÝ KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái quát tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam
2.1.1. Thực trạng các doanh nghiệp ở các doanh nghiệp Việt Nam
Những năm gần đây cùng với xu hướng hội nhập nền kinh tế nước ta đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Cụ thể năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP là 8,44%, trong quý 1 năm 2008 đạt 7,4%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2007 tăng 23,9% so với năm 2006. Trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng 20,5% và kim ngạch nhập khẩu tăng 27% (so với kế hoạch 15%) do việc thực hiện cam kết mở cửa thị trường và cắt giảm thuế thu nhập khẩu...Giá trị xuất khẩu hàng hoá Việt Nam năm 2007 ước đạt 48 tỷ. Tuy nhiên trong hiện nay, tình hình kinh tế gặp nhiều bất lợi do tác động của kinh tế thế giới, những bất cập yếu kém trong quản lý điều hành kết hợp các nguyên nhân nội sinh từ nền kinh tế. Như giá dầu thô quý 1 năm 2008 tăng gần 40% so với giá bình quân năm 2007 và dự báo tiếp tục ở mức cao như hiện nay.Thậm chí có dự báo cao hơn, lên đến 150 USD\thùng.Giá phôi thép đầu năm 2008 đã tăng 45,1% so với cuối năm 2007, hiện giá chào hàng đã lên tới 900USD\tấn.Giá phân Urê, giá bột mỳ, giá gạo tháng 3 năm 2008 đã tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm 2007. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2007 tăng cao ước tính tăng 12,06% so với tháng 12 năm 2006. Quý 1 năm 2008 lạm phát cao vẫn ở mức 2 con số, giá tiêu dùng tháng 3 tăng 9,19% so với tháng 12 năm 2007; nhập khẩu tăng tới hơn 7 tỷ USD và bằng 56,5% kim ngạch xuất khẩu. Vì vậy đất nước ta vừa đứng trước những cơ hội mới, vừa có những thách thức mới tác động đến các hoạt động kinh doanh và hoạt động tổ chức quản lý của các doanh nghiệp. Đồng thời sự ra đời của Luật doanh nghiệp 2005, đã có những tác động tích cực đến quá trình phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam, góp phần tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng hơn cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Về môi trường chính sách, tiếp theo sự ra đời của các Nghị định, hướng dẫn Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, mô hình một cửa liên thông nhằm đơn giản hoá các quy định về thủ tục hành chính trong ba khâu đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế và cấp giấy phép khắc dấu cho doanh nghiệp. Trong 5 tháng đầu năm 2007, đã có 20.300 doanh nghiệp thành lập - đăng ký kinh doanh với số vốn đăng ký 135.000 tỷ đồng. Cả năm 2007 có 54.000 doanh nghiệp mới thành lập với tổng số vốn gần 22 tỷ USD. Xét tình hình chung của từng loại hình doanh nghiệp:
Thứ nhất doanh nghiêp nhà nước không chỉ lớn hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác về quy mô, doanh nghiệp nhà nước còn rất mạnh nhờ có vị trí đắc địa,diện tích rộng, thương hiệu được tồn tại nhiều năm...và quan trọng còn có các bộ, ngành, tỉnh, thành phố chủ quản đứng đằng sau. Nhờ vậy một số doanh nghiệp nhà nước có lợi thế được hưởng nhiều chính sách đặc biệt nên có kết quả kinh doanh và hiệu quả kinh doanh khá cao. Về số lượng, các doanh nghiệp nhà nước hiện nay đã giảm nhanh chóng hiện còn khoảng hơn 3% trong tổng số các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế quốc dân.Nguyên nhân là do kết quả của đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần,đặc biệt là khi Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời và thực hiện chủ trương của nhà nước về sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, giải thể những doanh nghiệp nhỏ, làm ăn thua lỗ, chuyển sang cổ phần hóa. Năm 2007, theo kế hoạch sẽ sắp xếp khoảng 650 doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, cổ phần hoá khoảng 550 doanh nghiệp, gồm các Tổng Công ty, ngân hàng thương mại lớn, doanh nghiệp hoạt động công ích... Trong 5 tháng đầu năm 2007, ước tính đã sắp xếp, chuyển đổi được 80 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hoá 45 doanh nghiệp; giải thể, phá sản: 4; giao bán: 4; chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: 5; hợp nhất, sáp nhập: 20; chuyển sang mô hình mẹ con. Trong năm 2007 đã thực hiện cổ phần hoá 20 Tổng Công ty và ngân hàng thương mại. Cơ chế chính sách phát triển doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng chưa kịp thời, đồng bộ và thiếu tập trung, nhất quán. Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa chủ động xây dựng chiến lược phát triển lâu dài và còn thiếu kế hoạch kinh doanh, đào tạo, quản lý cụ thể; các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang lúng túng trong việc liên kết, nhất là liên kết trong cùng một hiệp hội ngành nghề để giúp đỡ nhau phát triển. Chính quyền địa phương nhận thức về hoạt động của hiệp hội cũng chưa được đầy đủ.
Thứ hai là các doanh nghiệp tư nhân ở nước ta ngày càng tăng về số lượng. Các doanh nghiệp tư nhân bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hộ gia đình (không kể hộ gia đình trong lĩnh vực nông, lâm, thủy hải sản) đã tăng nhanh về số lượng trong thời gian ngắn.Năm 2003 là 92.602 doanh nghiệp. Tính riêng năm 2007 sẽ có khoảng gần 40.000 doanh nghiệp tư nhân đã thành lập và đăng ký kinh doanh. Trong đó hai loại hình doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn có số lượng tăng nhanh nhất.Tuy nhiên, loại hình doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn có tỷ lệ tăng cao hơn. Mặc dù số lượng các công ty cổ phần thấp nhất nhưng lại có tổng số vốn đăng ký là cao nhất trong các loại hình doanh nghiệp Về quy mô của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam phần lớn được xếp vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ (Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người). Tính đến thời điểm hiện nay thì số các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới khoảng 98% trên tổng số doanh nghiệp tư nhân trên toàn quốc.Doanh nghiệp tư nhân vẫn tập trung chủ yếu vào ngành thương nghiệp, dịch vụ, khách sạn; tiếp đến là ngành công nghiệp; ngành xây dựng vận tải;...Các doanh nghiệp tư nhân tập trung nhiều nhất ở các vùng trọng điểm, chủ yếu ở các tỉnh thành phố có nền kinh tế phát triển như: Bà Rịa – Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Đà Nẵng, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên ...
Thứ ba, về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với chính sách mở cửa, và sự ra đời của luật đầu tư các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh về số lượng và quy mô hoạt động. Số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 17% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động hiện nay. Năm 2007, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) đổ vào Việt Nam đã vượt con số 15 tỷ USD, vượt 15% kế hoạch dự kiến. Tổng số dự án cấp trong năm 2007 đạt khoảng 1300 dự án, với tổng vốn 14 tỷ USD. Công nghiệp vẫn đang là ngành thu hút vốn đầu tư lớn nhất, với 7,55tỷ USD, chiếm 56,4% tổng vốn đầu tư đằng ký. Sau công nghiệp là ngành dịch vụ với 5,65 tỷ USD. Doanh thu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 2007 ước đạt gần 40 tỷ USD, tăng 25% so với năm 2006. Các doanh nghiệp này thu hút hơn 13.000 lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lên 1.25 triệu người. Lượng vốn đầu tư chủ yếu tập trung ở các khu công nghiệp, khu chế xuất.
2.1.2 Khái quát hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay
Nền kinh tế nước ta trong năm qua tăng trưởng nhanh thứ hai Châu Á, bước lên vũ đài toàn cầu. Các nhà đầu tư hoan nghênh Việt Nam như một con hổ năng động nhất Đông Nam Á . Tính chung đến cuối năm 2007, giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 1994) ước tăng 17% so với năm 2006. Trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10,4%; khu vực ngoài nhà nước tăng 20,9%; đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18%. Nếu xét cả quy mô và tốc độ kim ngạch xuất khẩu thì khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt kết quả cao. Trong đó khu vực doanh nghiệp FDI, năm 2007 đạt kim ngạch xuất khẩu 27,75 tỷ USD (kể cả dầu thô) chiếm tỷ trọng 57,5% tổng kim ngạch cả nước và tăng 20,5% so với năm 2006.Trong khi đó doanh nghiệp nhà nước chỉ đạt 20,25 tỷ USD chiếm 42,2% tổng kim ngạch cả nước và tăng 20,6% năm 2006.
Hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ 70% tài sản quốc gia và hàng năm đóng góp 40% tổng thu ngân sách nhà nước. Vốn đầu tư của khu kinh tế nhà nước luôn luôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng đầu tư xã hội, chiếm khoảng 46%, quy mô lao động bình quân một doanh nghiệp nhà nước cao 499,5 người. Nhưng tỷ lệ đóng góp vào GDP không cân xứng chỉ ở mức 37% - 39%, theo báo cáo của Kiểm toán nhà nước: lợi nhuận trước thuế của các doanh nghiệp nhà nước là rất thấp từ 0,18% đến 0,8% trong đó các tập đoàn có vẻ rất mạnh như công nghiệp đóng tàu là 0,42%, dệt may là 0,8%. Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước được vay tới 80% lượng vốn từ ngân hàng Thương mại, các tổ chức tín dụng và cũng là khu vực có nợ nước ngoài lớn nhất chiếm tới 70% lượng vay. Một số doanh nghiệp được chính phủ vay hộ tiền để kinh doanh đầu tư hay đầu tư hay được nhà nước bảo lãnh cho các khoản vay của mình. Các doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực độc quyền, hay có nhiều lợi thế về mặt bằng, về nền tảng từ trước như: cảng biển, điện lực, nước sạch, bưu chính viễn thông, dịch vụ đóng tàu, khai thác và chế biến than, xi măng, sắt thép, rượu bia và nước giải khát, đầu tư xây dựng nhà ở, dầu khí, dịch vụ vận tải, đường sắt và hàng không...thì làm ăn có hiệu quả. Hiện nay tổng số nợ vốn vay ngân hàng của các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh khoảng 80.000 - 95.000 tỷ đồng. Một số các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thương mại, dịch vụ, công trình giao thông, xây dựng, chế biến nông sản, may mặc, cung ứng vật tư hàng hóa ,in ấn và bao bì, mía đường...thuộc địa phương là những công ty thuộc sự quản lý của tỉnh thành phố. Số nợ xấu của khối doanh nghiệp này ước tính cũng lên tới 2.500 - 3.000 tỷ đồng. Các tổng công ty xây dựng, công ty vận tải là nhóm doanh nghiệp có số nợ quá hạn cao nhất, kéo dài nhất. Số nợ ước tính hiện nay lên tới 12.300 tỷ chủ yếu là nợ xấu. Theo đánh giá của Bộ Tài chính hiện nay chỉ có 44,4% doanh nghiệp nhà nước được phân loại theo nhóm A (tức là có lãi), 39,5% thuộc nhóm B và số còn lại thuộc nhóm. Các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ chiếm khoảng 19,5% tổng số các doanh nghiệp nhà nước. Có nhiều nguyên nhân tạo ra lỗ và nợ lớn như: nguyên nhân do máy móc thiết bị hiện có còn hạn chế; hoặc là cũ kỹ về thời gian sử dụng, chờ thanh lý nhưng không tận; hoặc là lạc hậu về trình độ thiết bị kỹ thuật công nghệ lên đến 10 năm - 30 năm; hoặc được đầu tư hiện đại nhưng không huy động được hết công suất (nhiều doanh nghiệp chỉ đạt 50% - 60%); hoặc do ham đầu tư lớn dẫn đến chi phí khấu hao quá cao, chi phí lãi vay lớn; nguyên nhân do sử dụng nguyên vật liệu vượt định mức, lãng phí trong đầu tư sản xuất, sản phẩm hư hỏng; hoặc do vốn chủ sở hữu ít, tỷ lệ vốn vay lớn trong khi mặt bằng lãi suất ở Việt Nam là khá cao thường có mức là 2 chữ số, cao hơn tỷ lệ lợi nhuận sản xuất kinh doanh bình quân chung. Hiện nay tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước đã bước sang giai đoạn quan trọng, đó là cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước lớn. Theo báo cáo vẫn còn khoảng 2.200 doanh nghiệp nhà nước ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6155.doc