CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
I/ MỤC ĐÍCH VÀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Sau một thời gian đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã bộc lộ khá nhiều mặt mạnh cũng như mặt yếu của mình. Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời trong công cuộc đổi mới. Họ ngày càng có vai trò quan trọng đóng góp vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước, hội nhập quốc tế, giữ vững an sinh xã hội, thu hút và sử dụng được nhiề
101 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1802 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa tại công ty TNHH sản xuất công nghiệp Viet D.E.L.T.A, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u lao động, đóng góp cho ngân sách, xoá đói giảm nghèo, bảo đảm các yếu tố bền vững cho phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Song nhìn lại quá trình phát triển và hiện tại, hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đang đứng trước những khó khăn và thách thức.
Công ty Việt D.E.L.T.A là một doanh nghiệp mới và ra đời trong cơ chế thị trường. Cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác, công ty đang phải đối đầu với những khó khăn trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Công ty hoạt động kinh doanh với quy mô nhỏ nên trong bối cảnh kinh tế hiện nay những thách thức và khó khăn về vốn, về xây dựng thương hiệu, về công nghệ, về nguồn nhân lực, về pháp lý....là không thể tránh khỏi. Song những vấn đề này lại hết sức quan trọng vì: Danh tiếng và thương hiệu được coi là tài sản quý giá và là vũ khí cạnh tranh hữu hiệu; Khả năng về tài chính, khả năng giữ được nhân viên giỏi là một trong những điểm mạnh giúp doanh nghiệp có đủ sức cạnh tranh với các đối thủ của mình; Chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh đầy lợi hại trên thị trường; Nhân viên giỏi là một trong những nhân tố quyết định chất lượng của công việc, quyết định hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh….Do đó, để xâm nhập vào được các thị trường trên Thế giới như thị trường châu Mỹ, châu Âu và các châu lục khác công ty Việt D.E.L.T.A cần phải xây dựng được cho mình một danh tiếng về thương hiệu, về chất lượng hàng hóa…
Hiện nay, các nền kinh tế nằm trong top 10 lớn nhất Thế giới như Đức, Pháp, Trung Quốc, Nhật, Ấn Độ, Brazil vừa công bố tăng trưởng kinh tế quý 2/2009 ở mức dương và các nền kinh tế trong khu vực như Đài Loan, Singapore, Indonesia, Hàn Quốc và Hồng Kông cũng đều đã thông báo về sự khởi sắc mạnh mẽ của tăng trưởng GDP. Trong đó tăng trưởng xuất khẩu là động lực chính đưa kinh tế các nước như Đức, Nhật, Trung Quốc thoát suy thoái. Điều này chứng tỏ kinh doanh xuất khẩu đã chiếm một vị trí quan trọng như thế nào trong nền kinh tế. Ngoài ra, tình hình trên còn đánh dấu sự trở lại với sức tăng trưởng nhanh chóng và việc cạnh tranh trên thị trường Quốc tế sẽ ngày càng gay gắt, khốc liệt hơn trước. Nhưng khả năng cạnh tranh của công ty Việt D.E.L.T.A còn yếu vì chưa chuẩn bị cho mình một hành trang đầy đủ; do có sự hạn chế về vốn, công nghệ, năng lực và bộ máy quản lý điều hành chưa tốt; chưa có đủ thông tin về thị trường, chưa có được vũ khí cạnh tranh đem lại sức mạnh để đương đầu với các đối thủ, mang lại lợi thế cạnh tranh bền vững. Do vậy, yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty trong giai đoạn hiện nay là vấn đề cấp thiết.
Với tình hình đó, việc ứng dụng Thương mại điện tử là một giải pháp, một công cụ hữu dụng hỗ trợ đắc lực cho công ty trong việc mở rộng thị trường kinh doanh xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường Quốc tế. Tuy hiện nay công ty đã và đang ứng dụng Thương mại điện tử nhưng chỉ ở mức độ sơ cấp và chưa chuyên nghiệp. Do đó, công ty cần coi việc triển khai các quy trình Thương mại điện tử là một nhân tố thiết yếu trong việc nâng cao sức cạnh tranh, tác động trực tiếp lên triển vọng gia tăng doanh số bán hàng; ứng dụng Thương mại điện tử là một phần của chiến lược kinh doanh tổng thể của công ty, là nhân tố nền tảng cho chiến lược phát triển kinh doanh dài hạn.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã và đang đem lại những chuyển biến mạnh mẽ trên toàn Thế giới. Việc áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kinh tế đem lại những lợi ích to lớn cho toàn xã hội. Thương mại điện tử là lĩnh vực hoạt động kinh tế không còn xa lạ với nhiều quốc gia . Người ta không còn phải mất nhiều thời gian ,công sức, tiền bạc .... cho những giao dịch kinh tế. Việc áp dụng Thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh là một xu thế tất yếu của mọi thời đại, và Việt nam – trong quá trình hội nhập không nằm ngoài xu hướng phát triển đó. Tuy Thương mại điện tử không còn là vấn đề mới mẻ ở Việt Nam, nhưng rất nhiều doanh nhân Việt Nam thậm chí còn chưa hiểu rõ bản chất , lợi ích của Thương mại điện tử chứ chưa nói đến việc áp dụng nó. Do đó, quá trình phát triển Thương mại điện tử ở Việt nam còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc đòi hỏi phải có những công trình nghiên cứu khách quan về quy luật vận động và phát triển Thương mại điện tử để từ đó xây dựng và triển khai chiến lược phát triển lĩnh vực hoạt động thương mại này vào trong hoạt động phát triển nền kinh tế quốc gia, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập.
II/MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ:
1. Khái niệm , bản chất của thương mại điện tử:
Khái niệm về thương mại điện tử:
Thương mại điện tử là hình thức mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua mạng máy tính toàn cầu. Thương mại điện tử theo nghĩa rộng được định nghĩa trong Luật mẫu về Thương mại điện tử của Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL):
“Thuật ngữ Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng . Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm các giao dịch sau đây : bất cứ giao dịch nào về thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ ; thỏa thuận phân phối ; đại diện hoặc đại lý thương mại ,ủy thác hoa hồng ; cho thuê dài hạn ; xây dựng các công trình ; tư vấn ; kỹ thuật công trình ; đầu tư ;cấp vốn ; ngân hàng ; bảo hiểm ; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng ; liên doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh ; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển , đường không , đường sắt hoặc đường bộ.”
Như vậy , có thể thấy rằng phạm vi của Thương mại điện tử rất rộng , bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của Thương mại điện tử . Theo nghĩa hẹp Thương mại điện tử chỉ gồm các hoạt động thương mại được tiến hành trên mạng máy tính mở như Internet . Trên thực tế , chính các hoạt động thương mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ Thương mại điên tử.
Thương mại điện tử gồm các hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử , giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng , chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử , vận đơn điện tử , đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế , tài nguyên mạng, mua sắm công cộng , tiếp thị trực tuyến với người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng . Thương mại điện tử được thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa ( ví dụ như hàng tiêu dùng , các thiết bị y tế chuyên dụng ) và thương mại dịch vụ ( ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin , dịch vụ pháp lý , tài chính ); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khỏe , giáo dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo ). Thương mại điện tử đang trở thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách thức mua sắm cuả con người.
Các đặc trưng của Thương mại điện tử:
So với các hoạt động thương mại truyền thống ,Thương mại điện tử có một số điểm khác biệt cơ bản sau:
a/ Các bên tiến hành giao dịch trong Thương mại điện tử không tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước.
Trong thương mại truyền thống ,các bên gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành giao dịch . Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vật lý như chuyển tiền, séc hóa đơn, vận đơn, gửi báo cáo . Các phương tiện viễn thông như: fax, telex,…chỉ được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh . Tuy nhiên, việc sử dụng các phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống chỉ để chuyển tải thông tin một cách trực tiếp giữa hai đối tác của cùng một giao dịch.
Thương mại điện tử cho phép mọi người cùng tham gia từ các vùng xa xôi hẻo lánh đến các khu vực đô thị lớn , tạo điều kiện cho tất cả mọi người ở khắp mọi nơi đều có cơ hội ngang nhau tham gia vào thị trường giao dịch toàn cầu và không đòi hỏi nhất thiết phải có mối quen biết với nhau.
b/ Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của khái niệm biên giới quốc gia, còn Thương mại điện tử được thực hiện trong một thị trường không có biên giới ( thị trường thống nhất toàn cầu). Thương mại điện tử trực tiếp tác động đến môi trường cạnh tranh toàn cầu.
Thương mại điện tử càng phát triển thì máy tính cá nhân trở thành cửa sổ cho doanh nghiệp hướng ra thị trường trên khắp Thế giới . Với Thương mại điện tử ,một doanh nhân dù mới thành lập đã có thể kinh doanh ở Nhật Bản , Đức và Chilê…, mà không hề phải bước ra khỏi nhà , một công việc trước kia phải mất nhiều năm.
c/ Trong hoạt động giao dịch Thương mại điện tử đều có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể , trong đó có một bên không thể thiếu được là người cung cấp dịch vụ mạng , các cơ quan chứng thực.
Trong Thương mại điện tử, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch giống như giao dịch thương mại truyền thống đã xuất hiện một bên thứ ba đó là nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực ….là những người tạo môi trường cho các giao dịch Thương mại điện tử . Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực có nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch thương mại điện tử , đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch Thương mại điện tử.
d/ Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để trao đổi dữ liệu ,còn đối với Thương mại điện tử thì mạng lưới thông tin chính là thị trường.
Thông qua Thương mại điện tử ,nhiều loại hình kinh doanh mới được hình thành. Ví dụ : các dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy tính hình thành nên các nhà trung gian ảo làm các dịch vụ môi giới cho giới kinh doanh và tiêu dùng ; các siêu thị ảo được hình thành để cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên mạng máy tính.
Các trang web khá nổi tiếng như Yahoo!, America Online hay Google đóng vai trò quan trọng cung cấp thông tin trên mạng . Các trang Web này đã trở thanh các “khu chợ” khổng lồ trên Internet. Với mỗi lần nhấn chuột , khách hàng có khả năng truy cập vào hàng ngàn cửa hàng ảo khác nhau và tỷ lệ khách hàng vào hàng ngàn cửa hàng ảo khác nhau hay tỷ lệ khách hàng vào thăm rồi mua hàng là rất cao. Người tiêu dùng đã bắt đầu mua trên mạng một số các loại hàng trước đây được coi là khó bán trên mạng . Nhiều người sẵn sàng trả thêm một chút tiền còn hơn là phải đi tới tận cửa hàng . Một số công ty đã mời khách may đo quần áo tên mạng, tức là khách hàng chọn kiểu, gửi số đo theo hướng dẫn tới cửa hàng (qua Internet) rồi sau một thời gian nhất định nhận được bộ quần áo theo đúng yêu cầu của mình . Điều tưởng như không thể thực hiện được này cũng có rất nhiều người hưởng ứng.
Các chủ cửa hàng thông thường ngày nay cũng đang đua nhau đưa thông tin lên Web để tiến tới khai thác mảng thị trường rộng lớn trên Web bằng cách mở cửa hàng ảo.
2. Lợi ích của Thương mại điện tử:
Những lợi ích mà Thương mại điện tử mang lại cho doanh nghiệp cụ thể như sau :
_Thu thập được nhiều thông tin: với việc tham gia vào môi trường Thương mại điện tử toàn cầu , doanh nghiệp có cơ hội được tiếp cận với nguồn thông tin đa dạng và khổng lồ qua đó có cơ hội lựa chọn các thông tin phù hợp nhất cho hoạt động kinh doanh của mình.
_Giảm chi phí bán hàng , tiếp thị và giao dịch :
+ Thương mại điện tử giúp giảm chi phí văn phòng . Điều quan trọng hơn , với góc độ chiến lược, là các nhân viên có năng lực giải phóng khỏi nhiều công đoạn , có thể tập trung phát triển vào công việc chính , đưa đến nhiều lợi ích to lớn lâu dài.
+ Thương mại điện tử giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị bằng phương tiện Internet web , một nhân viên bán hàng có thể giao dịch với rất nhiều khách hàng , catalogue điện tử trên web phong phú hơn nhiều và thường xuyên cập nhật so với catalogue in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi thời.
+ Thương mại điện tử qua Internet web giúp các nhà xuất nhập khẩu và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch . Trong những yếu tố cắt giảm , yếu tố thời gian là đáng kể nhất , vì việc nhanh chóng làm cho thông tin hàng hóa tiếp cận với khách hàng (mà không phải qua trung gian) có ý nghĩa sống còn đối với buôn bán và cạnh tranh buôn bán . Ngoài ra ,việc giao dịch nhanh chóng sớm nắm bắt được nhu cầu của thị trường.
_Tăng chất lượng phục vụ khách hàng : Sử dụng các tiện ích của Thương mại điện tử , doanh nghiệp có thể nhanh chóng cung cấp cho khách hàng các catalogue , brochure , bảng giá , Hợp đồng một cách gần như tức thời . Bên cạnh đó với website bán hàng của mình , doanh nghiệp tạo điều kiện cho khách hàng có cơ hội lựa chọn sản phẩm phù hợp với đầy đủ các thông tin mà không cần thiết phải tới tận trụ sở hay xưởng sản xuất của doanh nghiệp.
_Tăng doanh thu: Do một trong những đặc trưng của Thương mại điện tử là thị trường không biên giới nên chính vì thế giúp cho doanh nghiệp có cơ hội quảng bá thông tin sản phẩm , dịch vụ của mình ra thị trường toàn cầu qua đó giúp tăng số lượng khách hàng và tăng doanh thu. Bên cạnh đó , với các tiện ích và công cụ hiệu quả của Thương mại điện tử sẽ giúp cho doanh nghiệp không còn thụ động ngồi chờ khách hàng đến mà sẽ chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng qua đó góp phần đẩy nhanh doanh thu của doanh nghiệp.
_Tạo lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp : Khi ứng dụng Thương mại điện tử khoảng cách về vốn , thị trường , nhân lực và khách hàng sẽ bị thu hẹp lại do bản thân doanh nghiệp đó có thể cắt giảm nhiều chi phí . Hơn thế nữa , với lợi thế của kinh doanh trên mạng sẽ giúp cho doanh nghiệp tạo ra bản sắc riêng về một phương thức mới khác với hình thức kinh doanh truyền thống.
_ Xây dựng quan hệ với đối tác: Thương mại điện tử tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành viên tham gia vào quá trình thương mại: thông qua mạng (Internet /Web) các thành viên tham gia ( người tiêu thụ, doanh nghiệp, cơ quan chính phủ…) có thể giao tiếp trực tiếp ( liên lạc “trực tuyến” ) và liên tục với nhau, có cảm giác như không có khoảng cách về địa lý và thời gian nữa; nhờ đó sự hợp tác và sự quản lý đều được tiến hành nhanh chóng một cách liên tục: các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới được phát hiện nhanh chóng trên phạm vi toàn quốc, toàn khu vực, toàn Thế giới và có nhiều cơ hội để lựa chọn hơn.
_ Tạo điều kiện sớm tiếp cận kinh tế tri thức: Trước hết, Thương mại điện tử sẽ kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin tạo cơ sở cho phát triển kinh tế tri thức. Lợi ích này có một ý nghĩa lớn đối với các nước đang phát triển: nếu không nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế tri thức thì sau khoảng một thập kỷ nữa, nước đang phát triển có thể bị bỏ rơi hoàn toàn. Khía cạnh lợi ích này mang tính chiến lược công nghệ và tính chính sách phát triển cần cho các nước công nghiệp hóa.
3. Các hình thức hoạt động và giao dịch Thương mại điện tử:
3.1 Các hình thức hoạt động Thương mại điện tử:
a/ Thư tín điện tử (E-mail):
Giống như trao đổi thư từ bình thường , các đối tác ( Người tiêu thụ , Doanh nghiệp, các Cơ quan Chính phủ) sử dụng thư điện tử để gửi thông tin cho nhau một cách “trực tuyến” thông qua mạng , gọi là thư tín điện tử (electronic mail , gọi tắc là e-mail) . Thư tín điện tử có tốc độ truyền nhanh , có thể gửi cùng một lúc một nội dung cho nhiều đối tượng vào mọi lúc , ở mọi nơi trên Thế giới , ngoài ra cước phí của thư điện tử lại thấp hơn nhiều so với gửi thư qua bưu điện và điện thoại.
b/ Thanh toán điện tử (Electronic payment):
Thanh toán điện tử là việc thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử ( Electronic message) thay cho việc trao tay tiền mặt . Việc trả lương bằng cách chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản ,trả tiền mua hàng bằng thẻ mua hàng , thẻ tín dụng v..v.. đã quen thuộc lâu nay thực chất đều là các dạng thanh toán điện tử . Với sự phát triển của Thương mại điện tử , thanh toán điện tử đã mở rộng sang lĩnh vực mới đáng đề cập là:
+Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial Electronic Data Interchange, gọi tắc là FEDI) chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện tử giữa các công ty giao dịch với nhau bằng điện tử.
+Tiền mặt Internet (Internet Cash)
Là tiền mặt được mua từ một nơi phát hành ( Ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng ) , sau đó được chuyển đổi tự do sang các đồng tiền khác thông qua Internet , áp dụng trong phạm vi cả một nước cũng như giữa các quốc gia . Tất cả đều được thực hiện bằng kỹ thuật số hóa , vì thế tiền mặt này còn có tên gọi là “tiền mặt số hóa” (Digital cash) . Công nghệ đặc thù chuyên phục vụ mục đích này có tên gọi là “mã hóa khóa công khai / bí mật” (Public / Private key Crytography) . Tiền mặt Internet được người mua hàng mua bằng đồng nội tệ , rồi dùng Internet để chuyển cho người bán hàng.
+Túi tiền điện tử ( Electronic purse: còn gọi tắt là “ví điện tử”)
Nói đơn giản là nơi để tiền mặt Internet mà chủ yếu là thẻ thông minh (Smart card , còn có tên gọi là thẻ giữ tiền :stored value card) . Tiền được trả cho bất cứ ai đọc được thẻ đó . Kỹ thuật của túi tiền điện tử về cơ bản là kỹ thuật “mã hóa khóa công khai / bí mật ” tương tự như kỹ thuật áp dụng cho “tiền mặt Internet”.
+Thẻ thông minh (Smart card)
Nhìn bề ngoài như thẻ tín dụng ,nhưng ở mặt sau của thẻ , thay vì cho dải từ , lại là một chip máy tính điện tử có một bộ nhớ nhỏ để lưu trữ tiền số hóa .Tiền ấy chỉ được “chi trả” khi người sử dụng và thông điệp (ví dụ xác nhận thanh toán hóa đơn) được xác thực là “đúng”.
+ Giao dịch ngân hàng số hóa (Digital banking) và Giao dịch chứng khoán số hóa (Digital securities trading) :
Hệ thống thanh toán điện tử của Ngân hàng là một đại hệ thống : (1) Thanh toán giữa Ngân hàng với khách hàng (qua điện thoại , các điểm bán lẻ , các ki-ốt , giao dịch cá nhân tại nhà , giao dịch tại trụ sở khách hàng , giao dịch qua Internet , chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng, vấn tin...) ,(2) Thanh toán giữa Ngân hàng với các đại lý thanh toán (nhà hàng, siêu thị...) ,(3) Thanh toán trong nội bộ một hệ thống Ngân hàng ,(4) Thanh toán giữa hệ thống Ngân hàng này với hệ thống Ngân hàng khác.
c/ Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic data interchange):
Trao đổi dữ liệu điện tử (gọi tắt là EDI ) là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu trúc” (structured form) từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác , giữa các công ty hay tổ chức đã thỏa thuận buôn bán với nhau theo cách này một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người (gọi là dữ liệu có cấu trúc , vì các bên đối tác phải thỏa thuận từ trước khuôn dạng cấu trúc của các thông tin).
EDI này càng được sử dụng rộng rãi trên bình diện toàn cầu , chủ yếu phục vụ cho mua và phân phối hàng ( gửi đơn hàng , các xác nhận , các tài liệu , hóa đơn v..v..) , nhưng cũng dùng cho các mục đích khác nữa như thanh toán tiền khám bệnh , trao đổi các kết quả xét nghiệm v.v…EDI chủ yếu được thực hiện thông qua các mạng ngoại bộ (extranet) và thường được gọi là “thương mại võng mạng” (net-commerce) . Cũng có cả hình thức “EDI hỗn hợp” (Hybid EDI) dùng cho trường hợp chỉ có một bên đối tác dùng EDI, còn bên kia vẫn dùng các phương thức thông thường (như Fax , thư tín qua bưu điện) .
EDI được áp dụng từ trước khi có Internet . Khi ấy người ta dùng “mạng giá trị gia tăng” (Value Added Network : VAN) để liên kết các đối tác EDI với nhau ; cốt lõi của VAN là một hệ thống thư tín điện tử cho phép các máy tính điện tử liên lạc được với nhau và hoạt động như một phương tiện điện tử và tìm gọi . Khi nối vào VAN , một doanh nghiệp có thể liên lạc được với hàng ngàn máy tính điện tử nằm ở hàng trăm thành phố trên khắp thế giới . Nay EDI chủ yếu được thực hiện thông qua Internet.
Thương mại điện tử qua biên giới (Crosss-border electronic commerce) về bản chất chính là trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) giữa các doanh nghiệp mà được thực hiện giữa các đối tác ở các quốc gia khác nhau, với các nội dung:
Giao dịch kết nối.
Đặt hàng.
Giao dịch gửi hàng (shipping)
Thanh toán.
Trên bình diện này, nhiều khía cạnh còn phải tiếp tục xử lý ,đặc biệt là buôn bán giữa các nước có chính sách ,và luật pháp thương mại khác nhau về căn bản, đòi hỏi phải có từ trước một dàn xếp pháp lý trên nền tảng thống nhất quan điểm về tự do hóa thương mại và tự do hóa việc sử dụng Internet . Chỉ như vậy mới đảm bảo được tính khả thi , tính an toàn , và tính có hiệu quả cao của trao đổi dữ liệu điện tử (EDI).
d/ Giao dịch số hóa của các dung liệu (Digital Delivery of Content) :
Dung liệu (content) là các hàng hóa mà người ta cần đến nội dung của nó ( hay nói cách khác chính nội dung là hàng hóa ) mà không phải bản thân vật mang nội dung ,ví dụ như: tin tức , sách báo , nhạc , phim , các chương trình phát thanh , truyền hình , chương trình phần mềm . Các ý kiến tư vấn , vé bán máy bay , vé xem phim , xem hát , hợp đồng bảo hiểm v..v.. nay cũng được đưa vào danh mục các dung liệu.
Trước đây dung liệu cũng được trao đổi dưới dạng hiện vật (Physical form) bằng cách đưa vào đĩa ,vào băng , in thành sách báo , thành văn bản , đóng gói bao bì chuyển đến tay người sử dụng, hoặc đến điểm phân phối (như cửa hàng , quầy báo v..v..) để người sử dụng đến mua và nhận trực tiếp . Ngày nay, dung liệu được số hóa và truyền gửi theo mạng , gọi là “giao gửi số hóa” (Digital delivery) .Vì vậy , hiện nay các loại thông tin kinh tế và kinh doanh trên Internet đều rất phong phú ,và một nhiệm vụ quan trọng của công tác thông tin ngày nay là khai thác Web và phân tích tổng hợp các thông tin nhận được.
e/ Mua bán hàng hóa hữu hình (Retail of Tangible Goods):
Tận dụng tính đa năng phương tiện (Multimedia) của môi trường Web và Java, người bán hàng xây dựng trên mạng các “cửa hàng ảo” (Virtual shop) để thực hiện việc mua - bán hàng. Khách hàng tìm trang Web của cửa hàng , xem hàng hóa hiển thị trên màn hình, xác nhận mua hàng ,và trả tiền bằng thanh toán điện tử .Vì là hàng hóa hữu hình , nên tất yếu sau đó các cửa hàng phải dùng tới các phương tiện gửi hàng truyền thống để đưa hàng tới tay Người tiêu dùng. Do đó, khách hàng có thể mua hàng tại nhà (Home shopping) , mà không phải đích thân đi tới cửa hàng.
3.2 Các hình thức giao dịch của Thương mại điện tử:
Người tiêu dùng
B2G
INTERNET
B2C G2C
Chính phủ
Doanh nghiệp
B2B G2G
Doanh nghiệp
Chính phủ
Hình 1: Mô hình các giao dịch Thương mại điện tử
Trong Thương mại điện tử có ba chủ thể tham gia : Doanh nghiệp (Business - B) giữ vai trò động lực phát triển Thương mại điện tử , Người tiêu dùng (Customer - C) giữ vai trò quyết định thành công của Thương mại điện tử và Chính phủ (Government - G) giữ vai trò định hướng , điều tiết và quản lý . Từ các mối quan hệ giữa các chủ thể trên ta có các loại giao dịch Thương mại điện tử chủ yếu sau:
+ Doanh nghiệp với Doanh nghiệp ( Business to Business - B2B)
+ Doanh nghiệp với Người tiêu dùng ( Business to Customer - B2C)
+ Doanh nghiệp với Cơ quan Chính phủ ( Business to Government - B2G)
+ Người tiêu dùng với Người tiêu dùng ( Customer to Customer – C2C)
+ Cơ quan Chính Phủ với Người tiêu dùng ( Government to Customer - G2C)
+ Các Cơ quan Chính phủ với nhau (Government to Government - G2G)
Trong các loại giao dịch nói trên thì giao dịch thương mại B2B và B2C là hai loại hình giao dịch Thương mại điện tử quan trọng nhất.
a/ Giao dịch Business to Business (B2B):
Hình 2: Các loại hình giao dịch B2B
Thương mại điện tử B2B là việc thực hiện các giao dịch giữa các Doanh nghiệp với nhau trên mạng . Ta thường gọi là giao dịch B2B . Các bên tham gia giao dịch B2B gồm : người trung gian trực tuyến (ảo hoặc click – and – mortar), người mua và người bán. Các loại giao dịch B2B gồm : mua ngay theo yêu cầu khi giá cả thích hợp và mua theo hợp đồng dài hạn , dựa trên đàm phán cá nhân giữa người mua và người bán.
Các loại giao dịch B2B cơ bản :
+ Bên bán – (một bên bán-nhiều bên mua) là mô hình dựa trên công nghệ Web trong đó một công ty bán cho nhiều công ty mua . Có 3 phương pháp bán trực tiếp trong mô hình này : Bán từ catalog điện tử , Bán qua quá trình đấu giá , Bán theo hợp đồng cung
ứng dài hạn đã thỏa thuận trước .Công ty bán có thể là nhà sản xuất hoặc click – and – mortar hoặc nhà trung gian thông thường là nhà phân phối hay đại lý.
+ Bên mua – một bên mua-nhiều bên bán
+ Sàn giao dịch – nhiều bên bán-nhiều bên mua
+ Thương mại điện tử phối hợp – các đối tác phối hợp nhau ngay trong quá trình thiết kế chế tạo sản phẩm.
Hiện nay Thương mại điện tử B2B phát triển với tốc độ rất nhanh ( chiếm tới trên 80% doanh số Thương mại điện tử trên toàn cầu ) và ngày càng trở nên phổ biến ở Việt Nam, bởi nó hỗ trợ rất nhiều cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài, đem lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp, ví dụ như doanh nghiệp có thể rút ngắn chu trình sản xuất nhờ kết hợp với các doanh nghiệp khác , mỗi bên chuyên môn hóa về một lĩnh vực , hay doanh nghiệp có thể tiết kiệm được thời gian và chi phí cho việc tìm và mua nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất của mình do doanh nghiệp mua nguyên vật liệu của nhà cung cấp là người bán hàng trực tuyến qua mạng. Một trong những điển hình trên Thế giới thành công trong hoạt động theo mô hình B2B là Alibaba.com của Trung Quốc.
b/ Giao dịch Business to Customer (B2C):
Là thương mại giữa các Doanh nghiệp và Người tiêu dùng liên quan đến việc khách hàng thu thập thông tin, mua các hàng hoá hữu hình (như sách, các sản phẩm tiêu dùng...) sản phẩm thông tin hàng hoá về nguyên liệu điện tử hoặc nội dung số hoá như phần mềm, sách điện tử và các thông tin, nhận sản phẩm qua mạng điện tử. Một trong những công ty kinh doanh thành công trên Thế giới theo mô hình này là Amazon.com với việc kinh doanh bán lẻ qua mạng các sản phẩm như sách, đồ chơi, đĩa nhạc, sản phẩm điện tử, phần mềm và các sản phẩm gia đình.
c/ Giao dịch Business to Government ( B2G)
Thương mại điện tử giữa Doanh nghiệp và Chính phủ được hiểu chung là thương mại giữa các doanh nghiệp và khối hành chính công . Nó bao hàm việc sử dụng Internet cho mua bán công, thủ tục cấp phép và các hoạt động có liên quan tới Chính phủ . Hình thức này có thể phát triển nhanh chóng nếu như có một hệ thống quản lý thống nhất về thuế , thanh toán bằng tài khoản trực tiếp trên mạng Internet giữa Doanh nghiệp và Nhà nước . Giao dịch B2G sẽ giúp tiết kiệm thời gian và tránh gây phiền hà cho doanh nghiệp.
d/ Giao dịch Customer to Customer (C2C)
Là thương mại điện tử giữa các Cá nhân và Người tiêu dùng với nhau. Đây cũng được coi là mô hình kinh doanh có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và ngày càng phổ biến. Hình thái dễ nhận ra nhất của mô hình này là các Website bán đấu giá trực tuyến, rao vặt trên mạng. Một trong những thành công vang dội của mô hình này là trang Web đấu giá eBay. Được thành lập tháng 9/1995, hiện nay eBay là chợ đấu giá điện tử lớn nhất Thế
giới dành cho việc mua bán các sản phẩm cho các khách hàng riêng lẻ và các doanh nghiệp nhỏ. Trên eBay có tới 55 triệu sản phẩm nằm trong 50.000 danh mục ngành hàng với 157 triệu thành viên trên toàn Thế giới.
e/ Giao dịch Government to Customer (G2C)
Thương mại điện tử giữa Người tiêu dùng với các Cơ quan Chính phủ nhằm vào mục đích: các công nhân trả tiền cho các dịch vụ công cộng của Nhà nước như dịch vụ mua vé máy bay , mua vé tàu hoặc nộp thuế thu nhập cho Nhà nước hay các phí , lệ phí trả cho các dịch vụ khác ; còn Chính phủ thực hiện chi trả các khoản trợ cấp xã hội cho các cá nhân thông qua mạng Internet.
f/ Giao dịch Government to Government (G2G) :
Giao dịch này có diễn ra nhưng chiếm tỷ trọng rất ít ,không đáng kể.
4. Hình thái hợp đồng Thương mại điện tử:
Thương mại điện tử bao quát cả giao dịch có hợp đồng và giao dịch không có hợp đồng . Xét riêng về giao dịch có hợp đồng , thì do đặc thù của giao dịch điện tử , hợp đồng thương mại điện tử có một số điểm khác biệt so với hợp đồng thông thường (hợp đồng ở dạng văn bản):
Địa chỉ pháp lý của các bên : ngoài địa chỉ địa lý , còn có địa chỉ e-mail , Mã doanh nghiệp.
Có các quy định về phạm vi thời gian , và phạm vi địa lý của giao dịch.
Có kèm theo các văn bản và ảnh miêu tả sản phẩm hoặc dung liệu trao đổi , và quy định trách nhiệm về các sai sót trong văn bản hoặc ảnh chụp.
Có các xác nhận điện tử (chứng nhận / xác thực : các giao dịch ( kể cả cơ quan chứng thực) về quyền truy cập và cải chính thông tin điện tử, và cách thực thi quyền này.
Có các quy định đảm bảo rằng giao dịch điện tử được coi là chứng cớ pháp lý về bản chất và ngày tháng giao dịch.
Có các quy định chi tiết về phương thức thanh toán điện tử.
Có quy định về trung gian đảm bảo chất lượng (nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng).
5. Thực trạng Thương mại điện tử ở Việt nam hiện nay:
5.1 Tình hình về hạ tầng cơ sở cho Thương mại điện tử ở Việt nam hiện nay:
a/ Hạ tầng cơ sở Công nghệ thông tin – Truyền thông:
Công nghệ thông tin (Information technology) gồm hai nhánh: nhánh tính toán (computing) - cũng gọi là nhánh máy tính , và nhánh truyền thông (communication) , trên cơ sở của một nền công nghiệp điện lực vững mạnh, là nền tảng của kinh tế số hóa nói chung và Thương mại điện tử nói riêng.
Về công nghệ máy tính , người Việt Nam đã biết đến máy tính điện tử từ năm 1968 khi chiếc máy tính đầu tiên do Liên Xô viện trợ được lắp đặt tại Hà Nội. Trong những năm 1970 ở miền Nam cũng có sử dụng một số máy tính lớn của Mỹ . Tới cuối những năm 1970, cả nước có khoảng 40 dàn máy tính vạn năng thuộc các dòng Minsk và ES ở Hà Nội và IBM 360 ở Thành Phố Hồ Chí Minh.
Đầu những năm 1980 , máy tính bắt đầu được nhập khẩu vào Việt Nam , mở đầu một thời kỳ phát triển nhanh việc Tin học hóa trong nước. Từ năm 1995 là năm bắt đầu triển khai Chương trình Quốc gia về Công nghệ thông tin , cũng là lúc các công ty hàng đầu thế giới như IBM , Compaq , HP v..v.. bắt đầu tham gia thị trường Việt Nam , số lượng máy tính nhập khẩu tăng vọt với tốc độ +50%/năm.
Theo báo cáo toàn cảnh Công nghệ thông tin Việt Nam 2005 của TS Lê Trường Tùng - Chủ tịch Hội Tin học Thành phố Hồ Chí Minh, thì Việt Nam có hai thương hiệu máy tính là Elead và CMS vượt qua mức doanh số 5 triệu USD; còn phần lớn các thương hiệu khác hầu như không tăng trưởng trong năm 2004. Cũng theo báo cáo này thì FPT Elead đã vượt qua CMS và trở thành thương hiệu máy tính Việt Nam đầu tiên vượt qua mức doanh số 10 triệu USD. Thành quả của hai thương hiệu trên phần nào đạt được nhờ chương trình máy tính Thánh Gióng d._.o các đối tác chính là FPT Elead, Intel và CMS đưa ra với mục đích ủng hộ dự án máy tính giá rẻ và phổ cập tin học của Chính phủ Việt Nam. Với hai dòng máy có giá bán từ 5 triệu đến 6 triệu đồng, các đối tác trong Liên minh Thánh Gióng tuyên bố đã bán được khoảng 25.000 máy tính.
Năm 2008, ngành Công nghiệp Công nghệ thông tin vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng tốt (đạt 20%), trong đó, Công nghiệp phần cứng – điện tử – viễn thông đạt 16%; Công nghiệp phần mềm đạt 35% và Công nghiệp nội dung số đạt 49%. Tổng doanh thu toàn ngành ước đạt 4,5 tỷ USD.
Tuy nhiên ,gia công phần mềm vẫn còn thua xa các nước láng giềng. Trong tháng 2/2009, hãng nghiên cứu Gartner công bố báo cáo 10 quốc gia có dịch vụ gia công phần mềm đứng đầu khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam. Báo cáo này của Gartner đánh giá theo 10 tiêu chí liên quan đến Gia công phần mềm, gồm kỹ năng ngoại ngữ, hỗ trợ của Chính phủ, nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, hệ thống giáo dục, chi phí, sự ổn định kinh tế và chính trị, tương đồng văn hóa, khả năng toàn cầu hóa, an ninh và bảo vệ quyền riêng tư. Nhưng xét tổng thể trên các tiêu chí của Gartner, Việt Nam là quốc gia được đánh giá thấp nhất , sau cả những quốc gia xếp cuối trong bảng xếp hạng này như Philippines , Thái Lan và Pakistan.
Song, bên cạnh đó, điểm đáng khích lệ cho ngành Công nghiệp Công nghệ thông tin Việt Nam là việc duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong suốt 5 – 7 năm vừa qua , khoảng 20 – 30 %/ năm . Đặc biệt , một số đánh giá quốc tế được công bố trong thời gian gần đây rất khả quan : Chỉ số Chính phủ điện tử Việt Nam tăng 15 bậc sau 3 năm (tức sau năm 2006) ; Chỉ số sẵn sàng kết nối mạng của Việt Nam ( Networked readiness Index – NRI ) tăng hơn 10 bậc so với xếp hạng 2006 - 2007, đứng vị trí 73 / 127 ; Chỉ số phát triển hạ tầng viễn thông tăng 20 bậc so với năm 2005 , đứng thứ 101. Hiện tại Việt Nam đứng thứ hạng 92 trong bảng xếp hạng của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU).
Nói đến Internet thì Việt Nam gia nhập mạng toàn cầu tương đối chậm : tháng 11 năm 1997 mới chính thức bắt đầu nối mạng Internet , tới đầu năm 1999 mới có khoảng 17000 thuê bao, chủ yếu thông qua ba nhà cung cấp dịch vụ Internet lớn nhất là VDC (Công ty dịch vụ gia tăng và truyền số liệu) , FPT (Công ty phát triển đầu tư công nghệ) và Netnam (Viện công nghệ thông tin, thuộc Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ Quốc gia).
Theo số liệu thống kê , tính đến cuối năm 2006, đã có 14,7 triệu người sử dụng Internet tăng 37%, 517.000 thuê bao băng rộng tăng 146% so với năm 2005. Đến tháng 5/2007, đã có thêm 1,5 triệu người sử dụng internet và khoảng 236.000 thuê bao băng rộng.
Tỷ lệ tiếp cận Internet của Việt Nam trong tháng 7/2009 tăng đáng kể:
Tình hình phát triển Internet tháng 7/ 2009. Statistics on Internet development upto 7/2009
- Số người sử dụng : Users
21571409
- Tỉ lệ số dân sử dụng Internet : Users per capita
25.14
%
- Tổng băng thông kênh kết nối quốc tế của Việt Nam : Total International connection bandwidth of Vietnam
64603
Mbps
- Tổng băng thông kênh kết nối trong nước: Total domestic connection bandwidth
94142
Mbps
Trong đó băng thông kết nối qua trạm trung chuyển VNIX: Connection bandwidth through VNIX
37000
Mbps
- Tổng lưu lượng trao đổi qua trạm trung chuyển VNIX : Total VNIX Network Traffic
41609229
Gbytes
- Tổng số tên miền .vn đã đăng ký: Dot VN domain names
112888
- Tổng số tên miền Tiếng Việt đã đăng ký: Vietnamese domain names
4592
- Tổng số địa chỉ IPv4 đã cấp : Allocated Ipv4 address
6762496
địa chỉ
- Số lượng địa chỉ IPv6 qui đổi theo đơn vị /64 đã cấp : Allocated Ipv6 address
42065885184
/64 địa chỉ
- Tổng thuê bao băng rộng (xDSL) : Total broad bandwidth Subscribers
2587716
Nguồn: Bộ thông tin và truyền thông
Các doanh nghiệp đến nay hầu như 100% doanh nghiệp đều có máy tính . Tỷ lệ doanh nghiệp có từ 11 - 20 máy tính tăng dần qua các năm và đến năm 2008 đạt trên 20%. Tỷ lệ doanh nghiệp đã xây dựng mạng nội bộ năm 2008 đạt trên 88% so với 84% của năm 2007. Đến nay, có tới 99% số doanh nghiệp đã kết nối Internet , trong đó kết nối băng thông rộng chiếm 98% .
Số lượng máy tính
2006
2007
2008
0 máy
0.1%
0.3%
0.1%
Từ 1-10 máy
67.0%
54.8%
56.0%
Từ 11-20 máy
14%
17.9%
20.1%
Từ 21-50 máy
12.2%
16.1%
16.0%
Từ 51-100 máy
3.0%
7.6%
5.1%
Từ 101-200 máy
1.6%
2.7%
2.0%
Trên 200 máy
0.7%
0.7%
0.7%
Nguồn: Bộ Thông tin và Truyền thông
Bảng 1: So sánh sự phân bổ máy tính trong Doanh nghiệp qua các năm 2006 - 2008
Thị trường viễn thông Việt Nam tiếp tục đạt được các bước tiến vượt bậc, hỗ trợ đắc lực cho các ngành kinh tế khác cùng phát triển đồng thời cải thiện được vị trí trong bảng xếp hạng viễn thông Châu Á. (Trên bảng xếp hạng phát triển viễn thông Châu Á, BMI xếp thị trường viễn thông Việt Nam đứng thứ 13 (sau Thái Lan) về cả quy mô và tốc độ phát triển của cả lĩnh vực cố định, di động và Internet). Tốc độ tăng trưởng vượt bậc trên là hệ quả của việc gia nhập WTO.
Về ngành điện lực ( là nền của hai nhánh tính toán và truyền thông ) trong năm 2009, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tập trung đầu tư 49,989 tỷ đồng cho các dự án điện, trong đó đầu tư thuần là 42,454 tỷ đồng , trả nợ gốc và lãi 6,497 tỷ đồng , góp vốn vào các công ty cổ phần đầu tư phát triển nguồn điện 1,038 tỷ đồng.
Với số vốn trên, EVN phấn đấu đưa vào vận hành 9 công trình nguồn điện với tổng công suất 2.696 MW. Đó là các công trình thuỷ điện: Plêikrông, Sê San 4, Buôn Kuốp, Buôn Tua Srah, Sông Ba Hạ, Bản Vẽ; các dự án nhiệt điện: Quảng Ninh 1, Hải Phòng 1, Ô Môn 1; đồng thời đôn đốc Nhà thầu Lilama đưa Nhà máy điện Uông Bí mở rộng 1 vào vận hành trở lại trong tháng 3/2009.
Bên cạnh việc thu xếp vốn cho 3 dự án là Uông Bí mở rộng 2, Huội Quảng và Bản Chát, EVN phấn đấu khởi công trong năm 2009 bốn dự án nhiệt điện than với tổng công suất 3.800 MW là Nghi Sơn 1, Mông Dương 1, Duyên Hải 1 và Vĩnh Tân 2. Cùng đó, EVN chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị đầu tư các dự án nhiệt điện Thái Bình 1, Sông Bung 4, thuỷ điện Lai Châu, thuỷ điện Trung Sơn và các dự án nhiệt điện Ô Môn 3, Ô Môn 4 ; hoàn thiện báo cáo đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 . Đồng thời, EVN khởi công 185 công trình lưới điện từ 110-220-500kV; hoàn thành đóng điện 189 công trình, trong đó có 5 công trình lưới điện 500kV và 49 công trình lưới điện 220kV.
b/ Hạ tầng cơ sở nhân lực:
Lực lượng chuyên gia công nghệ thông tin ở Việt Nam hiện nay có thể chia thành một số nhóm:
Các chuyên gia kiến thức cao , được đào tạo ở nước ngoài hoặc các nhà toán học nhiều năm qua đã chuyển hướng sang tin học.
Các cử nhân được đào tạo từ khoa tin học của các trường đại học (chủ yếu là Đại học tổng hợp , Đại học bách khoa) mỗi năm ra trường trên 1000 người . Theo đánh giá của hội Tin học Việt nam , trong vài năm gần đây , các sinh viên chuyên ngành Tin học khi tốt nghiệp ra trường đã có trình độ khá cao và trình độ được nâng lên khá nhanh sau khi họ được sử dụng vào thực tế.
Một lực lượng đông đảo thanh niên đã qua đào tạo tin học trong khi học phổ thông và đại học , hoặc đào tạo tại các trường , các trung tâm tin học trên toàn quốc . Số này ước tính vài vạn người.
Ngoài ra cần tính tới đội ngũ Việt kiều am hiểu về Tin học . Lực lượng này được các nước đánh giá là giỏi, nhiều người có trình độ rất cao (nhất là những người ở Mỹ , Pháp và Canada), một số người là chuyên gia đầu đàn của các tổ chức Tin học Thế giới , có người làm cố vấn về phát triển Tin học cho Tổng thống nước ngoài.
Hạ tầng cơ sở nhân lực nước ta được đánh giá là thông minh , cần cù , sáng tạo và thích ứng nhanh với các xu hướng phát triển mới của Công nghệ thông tin . Đặc biệt có khả năng làm việc tốt ngay cả trong những điều kiện khó khăn , thiếu thốn.
Hiện Việt Nam có 13 trường Đại học, Viện Nghiên cứu đào tạo sau Đại học về Công nghệ thông tin ; 230 trường Đại học và Cao đẳng có đào tạo về Công nghệ thông tin, bình quân mỗi năm đào tạo 10.000 chỉ tiêu; 88 trường có đào tạo về Công nghệ thông tin bậc trung cấp chuyên nghiệp; cùng nhiều chương trình đào tạo quốc tế... Thế nhưng, hiện chưa hình thành hệ thống chứng chỉ quốc gia về đào tạo Công nghệ thông tin để việc đào tạo được chuẩn hóa và liên thông, cũng như việc công nhận chất lượng. Chương trình đào tạo chưa theo kịp nhu cầu phát triển, đội ngũ giảng viên, giáo viên vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về năng lực nghề nghiệp, kỹ năng thực hành, thiếu kiến thức cơ bản về phương pháp giảng dạy... Cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, trang thiết bị phục vụ công tác đào tạo nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực Công nghệ thông tin còn thiếu và nhanh lạc hậu nhưng không kịp bổ sung... Từ những nguyên nhân đó, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực Công nghệ thông tin ở Việt Nam là vấn đề nan giải, khi vẫn chưa theo kịp trình độ của một số nước tiên tiến trong khu vực, nhiều doanh nghiệp sau khi tuyển kỹ sư là cử nhân Đại học, Cao đẳng hoặc học viên trường nghề đã phải đào tạo lại. Sự trì trệ về Công nghệ thông tin do việc thiếu trầm trọng nguồn nhân lực khiến nhiều chuyên gia ngoại quốc đánh giá tiềm năng Công nghệ thông tin của Việt Nam thua xa nhiều nước trong khu vực và do đó khó có cơ hội tiếp cận với tốc độ bùng nổ Công nghệ thông tin trên khắp Thế giới hiện nay.
Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực một cách chính qui cho Thương mại điện tử ở nước ta bắt đầu chưa lâu. Ngày 15/9/2005 chúng ta mới có Quyết định 222/QĐ - phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển Thương mại điện tử, trong đó có dự án đầu tư nguồn nhân lực Thương mại điện tử tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Trước đó, một số học viện, trường cũng có đào tạo nhưng các tiêu chí từ giáo viên, giáo trình cho đến hình thức thi tuyển, đào tạo, công nhận (bằng, chứng chỉ, chứng nhận...) chưa được qui chuẩn thống nhất.
Theo kết quả điều tra, khảo sát của Bộ Công Thương về tình hình đào tạo Thương mại điện tử tại các trường Đại học và Cao đẳng trên cả nước năm 2008 cho thấy, trong số 108 trường tham gia khảo sát có 49 trường đã triển khai hoạt động đào tạo về Thương mại điện tử, bao gồm 30 trường Đại học và 19 trường Cao đẳng. Trong số 49 trường Đại học và Cao đẳng đã giảng dạy Thương mại điện tử, có 30 trường có phương pháp tiếp cận đào tạo theo hướng kinh doanh và 19 trường tiếp cận theo hướng Công nghệ thông tin.
Hình 3: Tình hình triển khai đào tạo về Thương mại điện tử qua các năm
Về giảng viên chỉ có 15% trường có giảng viên được đào tạo chuyên ngành Thương mại điện tử, 35% trường có giảng viên ngành khác được bổ sung thêm về Thương mại điện tử , gần 50% trường có giảng viên tự nghiên cứu để giảng dạy Thương mại điện tử.
Nguồn giáo trình Thương mại điện tử cũng chưa được quy chuẩn, chủ yếu từ nước ngoài và thông qua mạng Internet, cụ thể gồm: Các chương trình đào tạo Thương mại điện tử ở bậc Đại học, sau Đại học do các giảng viên sau khi tốt nghiệp ở nước ngoài mang về, chương trình đào tạo của các trường Đại học nước ngoài cung cấp công khai trên mạng Internet, sách, tài liệu của các tác giả nước ngoài và Việt Nam. Tất cả các giáo trình này mới chỉ dừng ở mức cung cấp kiến thức cơ bản, còn chuyên sâu đến kỹ năng ứng dụng, an toàn, bảo mật, thanh toán điện tử hay chiến lược Thương mại điện tử chưa có nhiều.
Có thể nhận thấy đào tạo Thương mại điện tử tại các trường Đại học và Cao đẳng đã phát triển khá nhanh . Tuy nhiên còn khá nhiều vấn đề cần phải quan tâm giải quyết để đào tạo chính quy thực sự phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.
c/ Hạ tầng cơ sở kinh tế - tài chính:
Trong quý II / 2009 GDP tăng 4,5%, mặc dù mới bằng 79% tốc độ tăng của cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn tăng 1,4 điểm phần trăm so với quý I trước đó, cho thấy Việt nam đã vượt qua được giai đoạn khó khăn, thách thức từ sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính. Tính chung 6 tháng đầu năm 2009, việc GDP của Việt Nam tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước tuy thấp so với những năm gần đây, nhưng nếu xét trong bối cảnh Thế giới suy thoái, thì mức tăng này là khả quan.
Nền kinh tế Việt nam vẫn còn nằm trong tầm ngắm của các nhà đầu tư quốc tế, khi mà ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn cầu đã làm họ phải thận trọng nhiều hơn trong các quyết định đầu tư với một nguồn vốn khả dụng thấp hơn trước khủng hoảng rất nhiều do sự sụp đổ của khá nhiều các tập đoàn tài chính lớn và các quỹ đầu tư rủi ro.
Tháng 5 vừa qua, General Electric đã động thổ dự án đầu tiên ở Việt Nam, tại Hải Phòng, một nhà máy trị giá 61 triệu USD sản xuất xuất khẩu máy phát điện chạy bằng turbin gió. Samsung Electronics cũng đã khởi động nhà máy sản xuất điện thoại di động trị giá 50 triệu USD tại Hà Nội vào tháng 4/2009, và Canon sẽ xây dựng tại ngoại ô Hà Nội một nhà máy sản xuất xuất khẩu máy in laser trị giá 100 triệu USD, lớn hơn bất kỳ nhà máy nào tương tự của Canon trên toàn cầu.
Trong khi đó Jabil Circuit cũng đã khởi công nhà máy trị giá 100 triệu USD tại Khu công nghiệp Công nghệ cao của Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng tại đây, nhà máy trị giá 1 tỉ USD của Intel sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động trong năm 2010, với mục tiêu sản xuất và xuất khẩu hàng trăm triệu con chip mỗi năm. Việt Nam có vẻ là một thị trường mới đầy tiềm năng cho các nhà đầu tư.
Trong khi ngành ngoại thương toàn cầu sụt giảm nghiêm trọng (WTO dự báo một sự sụt giảm từ 9% đến 10%), xuất nhập khẩu của Việt Nam tuy bị ảnh hưởng nhưng không quá lớn. Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những tháng đầu năm 2009 đã tăng đến 10%, nông phẩm và thủy hải sản của Việt Nam vẫn được chào đón trên các thị trường và cho thấy có tiềm năng cạnh tranh mạnh mẽ, tuy có lúc có nơi phải vượt qua hàng rào thuế chống bán phá giá được dựng lên một cách bất công, như trường hợp Mỹ đối với cá basa của Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2009 ước đạt khoảng 32,35 tỷ USD, giảm 13,4% so với cùng kỳ năm ngoái .Thị trường xuất khẩu của Việt Nam hầu hết đều bị thu hẹp mạnh, đặc biệt là thị trường Châu Úc và Châu Á. Kim ngạch xuất khẩu sang Châu Mỹ giảm nhẹ hơn. Riêng thị trường Châu Âu và Châu Phi có mức tăng trưởng dương .Trong vài tháng trở lại đây, đã có những tín hiệu hồi phục lạc quan từ các thị trường như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU, riêng xuất khẩu sang thị trường ASEAN lại giảm khá mạnh.
Dầu thô và các loại khoáng sản khác vẫn duy trì được mức kim ngạch và hy vọng ngành dệt may, da giày của Việt Nam sẽ lấy lại nhịp độ tăng trưởng kỳ vọng của chúng khi sức mua tại các thị trường Bắc Mỹ và Tây Âu hồi phục trong vòng vài tháng cuối năm 2009. Bộ Công Thương hy vọng xuất khẩu có khả năng tăng 3% trong năm 2009 để có thể đạt mục tiêu kềm giữ mức khiếm hụt ngoại thương trong khoảng 10 -12 tỉ USD, giảm 30% so với năm 2008.
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đã dự đoán mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 4,5% trong năm 2009, tuy giảm gần một nửa so với năm 2007 (8,5%) nhưng là mức tăng trưởng cao nhất trong các nước ASEAN. Chính phủ cũng đang triển khai các chương trình kích cầu mà tổng cộng lên đến gần 8 tỉ USD, chiếm tỷ lệ 12% GDP.
Các chương trình này, bao gồm việc hỗ trợ chi phí lãi suất cho các doanh nghiệp, miễn giảm, giãn một số loại thuế và kéo dài thời gian nộp thuế, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, trợ cấp thất nghiệp, hạ lãi suất cơ bản nhằm mở rộng tín dụng… cho thấy các hiệu ứng nhất định của chúng trong việc duy trì hoạt động sản xuất và trao đổi thương mại của các khu vực kinh tế, làm giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp bằng cách tạo thêm công ăn việc làm, duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính ngân hàng và giữ vững sức mua trong nền kinh tế.
d/ Hạ tầng pháp lý:
Nhà nước ta rất quan tâm đến việc phát triển Internet và các ứng dụng nhằm tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp chấp nhận và tham gia Thương mại điện tử. Một số chính sách của Nhà nước tập trung vào các vấn đề sau:
Phát triển cơ sở hạ tầng Công nghệ thông tin và Viễn thông , đẩy mạnh học tập và ứng dụng Internet trong nhà trường , các vùng nông thôn , trong thanh niên.
Phát triển nguồn nhân lực về Công nghệ thông tin ,ứng dụng Công nghệ thông tin ở các mức độ khác nhau.
Xây dựng Chính phủ điện tử, cải cách hành chính để từng bước ứng dụng Công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành và giao tiếp với người dân.
Xây dựng hành lang pháp lý cho các giao dịch Thương mại điện tử.
Phát triển hệ thống thanh toán dùng thẻ.
Xây dựng các dự án điểm, các cổng thông tin để các doanh nghiệp từng bước tiếp cận đến Thương mại điện tử.
Tăng cường hợp tác Quốc tế và khu vực để tạo sự thông thoáng cho hàng hóa và dịch vụ.
Cuối năm 2008 , khung pháp lý cho Thương mại điện tử tại Việt Nam có thể nói đã tương đối hoàn thiện , với nền tảng chính là những văn bản quy phạm pháp luật thuộc hệ thống Luật Giao dịch điện tử . Bên cạnh đó, Luật Công nghệ thông tin và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng tạo nên một hành lang pháp lý khá thuận lợi cho việc triển khai các khía cạnh liên quan đến hạ tầng Công nghệ thông tin của hoạt động ứng dụng Thương mại điện tử. Ngoài Luật và những Nghị định khung , xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn phát triển, các Cơ quan quản lý Nhà nước cũng đang tiếp tục nghiên cứu để ban hành các văn bản dưới Luật nhằm đều chỉnh từng lĩnh vực ứng dụng Thương mại điện tử đặc thù cuả đời sống kinh tế - xã hội.
Tóm lại: Những khó khăn mà một nước đang phát triển như Việt Nam phải đương đầu khi triển khai Thương mại điện tử - sự yếu kém về nguồn nhân lực, hạ tầng cơ sở Công nghệ thông tin – Truyền thông và Tài chính đã và đang được Chính phủ cùng các Cơ quan Ban ngành nỗ lực, phấn đấu đẩy mạnh và từng bước cải thiện. Nhằm mục tiêu thúc đẩy đất nước nhanh chóng hội nhập chung vào nền kinh tế phát triển của khu vực và Thế giới, ngoài sự quan tâm của Nhà nước, rất cần sự chung tay góp sức của các Doanh nghiệp lớn nhỏ trong toàn quốc bằng việc tích cực tìm hiểu, tiếp cận và tham gia ứng dụng Thương mại điện tử ở các mức độ khác nhau phù hợp với từng mô hình hoạt động kinh doanh mỗi doanh nghiệp, mang lại hiệu quả cao .
5.2 Các hoạt động liên quan đến Thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay:
a/ Tuyên truyền và đào tạo về Thương mại điện tử cho cộng đồng Doanh nghiệp:
Từ năm 2006 đến nay, hoạt động tuyên truyền , phổ biến về Thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ đem đến những lợi ích trực tiếp đối với Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó, các Cơ quan quản lý chuyên ngành và doanh nghiệp cũng rất năng động trong việc đào tạo kiến thức chuyên sâu cũng như kỹ năng triển khai ứng dụng Thương mại điện tử cho Cộng đồng doanh nghiệp.
Từ năm 2005 đến nay, Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin đã trực tiếp tổ chức trên 100 khoá huấn luyện về kỹ năng kinh doanh Thương mại điện tử cho các doanh nghiệp thuộc nhiều ngành nghề kinh doanh khác nhau. Việc huấn luyện và đào tạo được phối hợp chặt với các Sở Công Thương, Hiệp hội ngành hàng nên đã mang lại hiệu quả thiết thực cho các doanh nghiệp trong việc tiếp thu các kiến thức Thương mại điện tử, phù hợp với đặc điểm, hình thức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các sàn Thương mại điện tử, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Thương mại điện tử cũng tích cực hỗ trợ các thành viên và khách hàng những kỹ năng, cách thức triển khai ứng dụng Thương mại điện tử trong doanh nghiệp. Các đơn vị đi đầu trong lĩnh vực này là: Cổng Thương mại điện tử quốc gia – ECVN (ecvn.com), Chợ điện tử (chodientu.com), vnemart.vn, gophatdat.com, v..v..
b/ Tình hình ứng dụng Thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay:
Một trong những điểm sáng nhất về ứng dụng Thương mại điện tử của doanh nghiệp là tỷ lệ đầu tư cho phần mềm tăng trưởng nhanh , chiếm 46% trong tổng đầu tư cho Công nghệ thông tin của doanh nghiệp năm 2008 , tăng gấp 2 lần so với năm 2007 . Trong khi đó đầu tư cho phần cứng giảm từ 55.5% năm 2007 xuống còn 39% vào năm 2008 . Sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư này cho thấy doanh nghiệp đã bắt đầu chú trọng đầu tư cho các phần mềm ứng dụng để triển khai Thương mại điện tử sau khi ổn định hạ tầng Công nghệ thông tin .
Nhiều doanh nghiệp đã sử dụng Internet đồng thời cho nhiều mục đích khác nhau. 54% doanh nghiệp đã kết hợp sử dụng Internet cho ít nhất 4 mục đích trở lên. Gần 20% doanh nghiệp đã tận dụng đồng thời 6 tới 7 mục đích sử dụng Internet. Tuy vậy, 23% doanh nghiệp vẫn chỉ sử dụng Internet với 1 hoặc 2 mục đích. Tỷ lệ này cho thấy nhiều doanh nghiệp vẫn chưa tận dụng được hết tiềm năng của Internet.
Mục đích sử dụng Internet
2006
2007
2008
Tìm kiếm thông tin
82.9%
89.5%
89.8%
Giao dịch bằng thư điện tử
64.3%
80.3%
81.6%
Tuyển và nhận file dữ liệu
62.8%
68.3%
71.0%
Duy trì cập nhật Website
40.9%
46.7%
40.0%
Mua bán hàng hóa và dịch vụ
31.3%
38.1%
35.9%
Tuyển dụng đào tạo
-
-
28.7%
Liên lạc với cơ quan nhà nước
22.1%
30.6%
24.8%
Nguồn: Bộ Công Thương
Bảng 2: Mục đích sử dụng Internet của Doanh nghiệp
Website là một kênh thông tin quan trọng giúp doanh nghiệp tiếp cận với các doanh nghiệp khác. Việc thành lập website trở thành một yêu cầu thiết yếu đối với doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh , khẳng định tên tuổi và mở ra các cơ hội kinh doanh mới. Theo thống kê của Bộ Công Thương cho thấy, năm 2008, 45.3% doanh nghiệp có website, 4.1% doanh nghiệp sẽ xây dựng website trong tương lai; còn lại 50.6% doanh nghiệp không có và cũng không dự định xây dựng website.
Hình 4: Tỷ lệ Doanh nghiệp có website năm 2008
Có thể thấy việc xây dựng website hiện nay là tương đối đơn giản nên trong các năm gần đây số lượng doanh nghiệp có nhu cầu đã tiến hành xây dựng website, còn lại là các doanh nghiệp chưa có nhu cầu. Tuy nhiên có thể dự đoán trong ngẳn hạn tỷ lệ doanh nghiệp có website sẽ đạt đến độ ổn định ở mức 45% – 50%.
Doanh thu từ Thương mại điện tử đã rõ ràng và có xu hướng tăng đều qua các năm . Có gần 75% doanh nghiệp có tỷ trọng doanh thu từ Thương mại điện tử chiếm trên 5% tổng doanh thu trong năm 2008. Mặt khác, chỉ 6% doanh nghiệp đánh giá doanh thu từ Thương mại điện tử có xu hướng giảm.
Hình 5: Cơ cấu doanh thu từ Thương mại điện tử năm 2008
Nhu cầu về cán bộ chuyên trách về Thương mại điện tử rất cần thiết đối với những doanh nghiệp muốn ứng dụng Thương mại điện tử vào trong mô hình kinh doanh của doanh nghiệp mình. Điều này phản ánh rõ nhất ở các doanh nghiệp đã xây dựng website, tham gia sàn giao dịch Thương mại điện tử hoặc triển khai dự án ứng dụng Thương mại điện tử. Theo thống kê của Bộ Công Thương, 34% doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về thương mại điện tử, với tỷ lệ trung bình 2.6 người trong mỗi doanh nghiệp. Về hình thức đào tạo, đào tạo tại chỗ vẫn là lựa chọn phổ biến hơn cả với 56.4% doanh nghiệp, 30.3% doanh nghiệp áp dụng hình thức gửi nhân viên đi học, 7.8% tự mở lớp đào tạo cho nhân viên. Tỷ lệ doanh nghiệp không có bất cứ hình thức đào tạo nào là 26.5%.
Hình thức đào tạo tại chỗ được tất cả các doanh nghiệp với mọi quy mô áp dụng, hình thức gửi nhân viên đi học và mở lớp đào tạo hầu như chỉ được áp dụng trong các doanh nghiệp có trên 50 lao động. Trong số các doanh nghiệp không triển khai bất cứ hình thức đào tạo nào về Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin thì các doanh nghiệp nhỏ chiếm tỷ lệ cao. Tuy nhiên, rất nhiều trường Đại học và Cao đẳng đã nắm bắt được nhu cầu của doanh nghiệp và đang triển khai các chương trình đào tạo chính quy liên quan tới Thương mại điện tử. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho các doanh nghiệp trong tương lai, khi đội ngũ sinh viên được đào tạo chính quy về Thương mại điện tử ra trường sẽ là những nhân viên nòng cốt về Thương mại điện tử tại doanh nghiệp.
Hình 6:
Các hình thức đào tạo nguồn nhân lực Thương mại điện tử trong doanh nghiệp năm 2008
Các con số thống kê cho thấy , đến thời điểm cuối năm 2008 nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức rõ về tầm quan trọng của Thương mại điện tử đối với hoạt động sản xuất kinh doanh và sẵn sàng ứng dụng Thương mại điện tử ở mức cao hơn trong thời gian tới.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, để doanh nghiệp thực sự ứng dụng được Thương mại điện tử vẫn còn tồn tại một số trở ngại nhất định. Điều trở ngại lớn nhất trong ứng dụng Thương mại điện tử mà các doanh nghiệp đánh giá về vấn đề hạ tầng Công nghệ thông tin và truyền thông trong các năm qua đã được cải thiện song vẫn còn một số sự cố như: đường truyền chậm, mạng bị ngắt, v..v..do đó chất lượng ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Ngoài ra vẫn còn một số vấn đề về: pháp lý, môi trường xã hội và tập quán kinh doanh,…
Bảng sau minh họa kết quả khảo sát của Vụ Thương mại điện tử về đánh giá các tác động của Thương mại điện tử đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các tác dụng
2005
2006
2007
2008
Xây dựng hình ảnh doanh nghiệp
-
2.78
2.9
2.91
Thu hút khách hàng mới
3.27
3.19
2.84
2.76
Mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng
3.32
3.23
2.74
2.7
Tăng khả năng cạnh tranh
1
2.22
2.32
2.55
Giảm chi phí kinh doanh
3.09
2.45
2.48
2.51
Tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động
2.95
2.45
2.54
2.5
Tăng doanh số
3.11
2.64
2.55
2.48
Có thể thấy trong nhận thức của doanh nghiệp về những tác động mà Thương mại điện tử mang lại, điểm số của hai tác động luôn được đánh giá cao trong các năm trước là “Mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng” và “Thu hút khách hàng mới” đang giảm dần. Trong khi đó, hai tác động ngày càng được doanh nghiệp đánh giá cao là “Xây dựng hình ảnh, thương hiệu cho doanh nghiệp” và “Tăng khả năng cạnh tranh” của doanh nghiệp. Điều này phản ánh thực tế là cùng với việc ứng dụng Thương mại điện tử dần đi vào chiếu sâu, nhận thức của doanh nghiệp về tác động mà Thương mại điện tử đem lại cũng chuyển biến từ những tác động ngắn hạn và bên ngoài như “Mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng” và “Thu hút khách hàng mới”, sang các tác động có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài hơn là “Xây dựng hình ảnh doanh nghiệp” và “Tăng khả năng cạnh tranh”.
Nhìn chung , các doanh nghiệp Việt nam đã thực sự bước vào giai đoạn triển khai ứng dụng thực tế mà Thương mại điện tử đem lại để cải tiến phương thức kinh doanh. Tuy nhiên vẫn còn khá nhiều doanh nghiệp tham gia vào Thương mại điện tử thiếu chuyên nghiệp và chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu thông tin về sản phẩm và dịch vụ . Do đó , lãnh đạo các doanh nghiệp cần quan tâm đến việc đầu tư, thay đổi tầm nhìn và quan điểm của mình tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng hòa nhập với nền kinh tế sôi động hiện nay ở Việt Nam nói riêng và trên toàn Thế giới nói chung.
Có thể thấy được, các doanh nghiệp có quan hệ đối tác mạnh với nước ngoài sẽ là lực lượng tiên phong và phát huy tốt nhất những lợi ích trong việc ứng dụng Thương mại điện tử B2B ở Việt Nam , đồng thời , các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn cần sự hỗ trợ của Nhà nước để có thể tiếp thu những ứng dụng tiên tiến của Thương mại điện tử một cách hiệu quả .
c/ Hợp tác Quốc tế:
Hiện nay, Mỹ là thị trường ứng dụng thương mại điện tử lớn nhất Thế giới. Mỹ chiếm hơn 80% tỷ lệ Thương mại điện tử toàn cầu, và tuy dung lượng này sẽ giảm dần, song Mỹ vẫn có khả năng lớn cho việc chiếm tới trên 70% tỷ lệ Thương mại điện tử toàn cầu trong 10 -15 năm tới. Mặc dù một số nước Châu Á như Singapore , Hồng Kông ,Trung Quốc đã phát triển rất nhanh và rất hiệu quả, nhưng Thương mại điện tử các nước khác ở châu lục này đều còn phát triển chậm. Khoảng cách ứng dụng Thương mại điện tử giữa các nước phát triển và đang phát triển vẫn còn rất lớn. Các nước phát triển chiếm hơn 90% tổng giá trị giao dịch Thương mại điện tử toàn cầu, trong đó riêng phần của Bắc Mỹ và Châu Âu đã lên tới trên 80%. Trong khi đó, xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ hiện chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nhưng chỉ chiếm dưới 0,4% tổng kim ngạch nhập khẩu của nước này. Mỹ là một thị trường lớn, đa dạng và hấp dẫn. Tuy nhiên, chính những yếu tố này cũng là một thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu sang Mỹ bởi sẽ có rất nhiều đối thủ. Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam muốn khai thác hiệu quả thị trường Mỹ hay bất kỳ một thị trường nào khác, không thể bỏ qua vai trò quan trọng của việc ứng dụng Thương mại điện tử để giới thiệu về doanh nghiệp, về sản phẩm,... Ngày nay, Thương mại điện tử được biết đến như một phương thức kinh doanh có hiệu quả ; tạo ra một phong cách kinh doanh, làm việc mới phù hợp với cuộc sống công nghiệp ; là một công cụ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ khắc phục những điểm kém lợi thế để cạnh tranh ngang bằng với các doanh nghiệp lớn.
Trước tình hình trên, trong thời gian vừa qua, Việt nam luôn nỗ lực hợp tác Quốc tế nhằm thực hiện các mục tiêu : Nâng cao năng lực quản lý và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến Thương mại điện tử ; Thúc đẩy việc trao đổi thông tin, dữ liệu thông qua hệ thống máy tính nối mạng trong nội bộ nền kinh tế và với các nền kinh tế khác ; Hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp hàng đầu Thế giới về ứng dụng Thương mại điện tử nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp giảm chi phí giao dịch, hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ như hiện nay.
Từ năm 2006 đến nay, Việt nam tích cực tham gia vào các cuộc họp liên quan đến Thương mại điện tử của Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), tham gia tích cực vào hoạt động của Nhóm Chỉ đạo về Thương mại điện tử ( ECSG ), Tổ chức Hỗ trợ thương mại và Thương mại điện tử của Liên Hợp Quốc ( UN/CEFACT ), Hội đồng Châu Á – Thái Bình Dương ( AFACT ). Việt Nam đã đăng cai các phiên họp về Thương mại điện tử của APEC và được bầu làm chủ tịch Tiểu nhóm Thương mại phi giấy tờ của ECSG. Qua các hoạt động trong ECSG, Việt Nam đã khẳng định được vị thế và vai trò ngày càng tích cực trong hoạt động hợp tác quốc tế về Thương mại điện tử trong khu vực APEC. Từ năm 2007, Việt Nam đã tích cực tham gia vào việc xây dựng 9 dự án của Chương trình Bảo vệ dữ liệu cá nhân trong Thương mại điện tử của APEC.
Bên cạnh các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ đa phương, từ năm 2006 đến nay Việt Nam cũng đã chủ động đẩy mạnh hoạt động hợp tác song phương với các quốc gia và vùng lãnh thổ như Mỹ, Trung quốc, Hàn Quốc, Đài Loan,v..v..
Hoạt động thực tế của Thương mại điện tử tạo ra những hiệu quả và lợi ích mà mô hình phát triển của thương mại truyền thống không thể sánh kịp . Là một nước đi sau và có xuất phát điểm thấp về Thương mại điện tử nên Việt Nam tích cực ._.(vào năm 2010) và Hải Phòng (vào năm 2011) thành Cục Hải quan điện tử. Đến nay, việc triển khai thủ tục hải quan điện tử đã đạt được các mục tiêu đặt ra như rút ngắn thời gian thông quan, giảm hồ sơ giấy tờ, giảm chi phí cho doanh nghiệp.
r Lợi ích của Khai hải quan điện tử:
Hải quan điện tử mang lại những lợi ích cho doanh nghiệp qua việc rút ngắn thời gian trung bình làm thủ tục hải quan, tiết kiệm chi phí, đặc biệt là tránh phải tiếp xúc với nhân viên Hải quan, giảm đi được những sách nhiễu, phiền hà, tiêu cực. Thay vì phải đến chi cục hải quan và mất nhiều thời gian để làm các thủ tục xuất, nhập khẩu hàng hóa, các doanh nghiệp sẽ thực hiện việc khai báo qua hệ thống mạng điện tử và việc thông quan sẽ được hoàn tất trong thời gian ngắn. Cụ thể thời gian thông quan đối với lô hàng thuộc diện miễn kiểm tra hải quan là 5-10 phút, đối với lô hàng phải kiểm tra hồ sơ là 20-30 phút, còn hàng hóa phải kiểm tra thực tế hàng hóa phụ thuộc vào thời gian kiểm tra.
Thủ tục hải quan sẽ được thực hiện bằng các phương tiện điện tử thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử của cơ quan hải quan. Doanh nghiệp kê khai trên phần mềm - do Tổng cục Hải quan cung cấp hoặc tải miễn phí trên website của Tổng cục Hải quan - theo các tiêu chí và khuôn dạng chuẩn của Tổng cục Hải quan. Hồ sơ hải quan điện tử phải đảm bảo sự toàn vẹn và có giá trị pháp lý như hồ sơ hải quan giấy.
r Trình tự thực hiện Khai hải quan điện tử trong giai đoạn hiện nay:
Bước 1 : Đăng nhập hệ thống
Hình 1: Màn hình đăng nhập hệ thống
Các thông tin đưa vào:
Mã số xuất nhập khẩu.
Mật khẩu: lần đầu tiên truy nhập vào hệ thống mật khẩu do đơn vị hải quan cung cấp là mã số xuất nhập khẩu. Sau đó để đảm báo tính bảo mật, công ty có thể thay đổi mật khẩu của mình.
Sau khi đăng nhập hệ thống màn hình trang chủ xuất hiện:
Hình 2: Trang chủ của Website khai hải quan điện tử
Bước 2 : Khai báo dữ liệu tờ khai
Căn cứ vào loại hình xuất nhập khẩu, công ty có thể chọn các chức năng trên menu phía bên trái màn hình là loại hình kinh doanh.
Để khai báo tờ khai xuất khẩu công ty chọn mục Tờ khai xuất khẩu.
Công ty chọn Chi cục Hải quan mà công ty làm thủ tục trong hộp thoại kéo thả. Các chi cục hải quan điện tử không đứng riêng độc lập mà được đưa về trực thuộc các chi cục hải quan. Dữ liệu thực hiện hải quan điện tử sẽ được quy về cục hải quan các tỉnh, thành phố để đảm bảo thống nhất, có quản lý tập trung. Do đó việc khai báo của nhân viên sẽ thuận lợi khi khai báo ở nhiều cửa khẩu khác nhau mà thông tin vẫn liên thông.
Các dạng thông tin đưa vào có 2 dạng:
Thông tin người sử dụng tự nhập.
Thông tin lựa chọn trên danh mục hệ thống cung cấp như phương tiện vận tải, cảng địa điểm bốc dỡ hàng, điều kiện giao hàng, đồng tiền thanh toán, phương thức thanh toán, xuất xứ hàng hoá, đơn vị tính.
Công ty nhập đầy đủ các thông tin trên màn hình nhập liệu. Các chỉ tiêu thông tin có màu đỏ là các chỉ tiêu thông tin bắt buộc phải đưa vào. Ngoại trừ một số thông tin cho phép nhập mã: mã số công ty, mã số đơn vị làm thủ tục hải quan, mã số nước nhập khẩu. Các thông tin khi nhập dưới dạng tiếng Việt đều phải sử dụng chuẩn Unicode dựng sẵn.
Hình 3: Màn hình nhập thông tin hàng hóa
a/ Nhập các thông tin hàng hoá:
Tên hàng quy cách phẩm chất.
Mã số hàng hoá.
Xuất xứ.
Lượng.
Đơn vị tính.
Đơn giá nguyên tệ.
Trị giá.
Nếu muốn thêm thông tin hàng mới, nhấn vào nút .
b/ Nhập các thông tin thuế:
Trị giá tính thuế (Tính theo tiền VNĐ)
Thuế suất XNK.
Thuế suất VAT.
Tỷ lệ chênh lệch giá.
Một số thông tin như Số tiền thuế XNK, Trị giá tính thuế VAT, Số tiền chênh lệch giá hệ thống sẽ tự động tính toán.
c/ Gửi các chứng từ đi kèm:
Tuỳ thuộc vào từng loại hình xuất nhập khẩu mà có các chứng từ đi kèm khác nhau.
Hình 4: Gửi các chứng từ đi kèm
d/ Lưu trữ thông tin tờ khai:
_ Sau khi nhập đầy đủ các thông tin, công ty nhấn nút để lưu trữ.
_ Trường hợp nếu không lưu trữ được các thông tin hệ thống sẽ hiển thị các thông báo cho công ty biết thiếu các thông tin gì.
_ Nếu việc lưu trữ thành công hệ thống sẽ cấp cho số tiếp nhận điện tử, công ty sẽ ghi nhớ số tiếp nhận điện tử này để đến làm thủ tục hải quan.
Bước 3 : Nhân viên in số tiếp nhận được cơ quan hải quan cấp cùng bộ hồ sơ giấy đến cơ quan hải quan làm thủ tục.
Bước 4 : Sau khi nhận số tiếp nhận hồ sơ từ công ty, cán bộ cơ quan hải quan thực hiện nghiệp vụ kiểm tra và chấp nhận thông tin. Nếu thông tin khai hải quan điện tử được chấp nhận thì cơ quan hải quan sẽ cấp số cho tờ khai hải quan điện tử và phân luồng thông quan hàng hóa. Với sự hỗ trợ của hệ thống thông tin, cơ quan hải quan đánh giá độ tuân thủ và phân luồng hàng hóa dựa trên bộ tiêu chí quản lý rủi ro và hồ sơ về quá trình chấp hành pháp luật của công ty để áp dụng khi thông quan:
Luồng xanh dành cho những hàng hóa được chấp nhận thông quan trên cơ sở thông tin khai trên hải quan điện tử.
Luồng vàng dành cho hàng hóa phải kiểm tra chứng từ giấy thuộc hồ sơ hải quan trước khi thông quan hàng hóa.
Luồng đỏ là những hàng hóa phải kiểm tra chứng từ giấy thuộc hồ sơ hải quan và kiểm tra hàng trước khi thông quan hàng hóa.
Sau bước này, thủ tục hải quan hàng hóa điện tử tiến hành như thủ tục hải quan hàng hóa thông thường.
r Một vài chức năng khác của khai hải quan điện tử:
a/ Tìm kiếm tờ khai: Chức năng này được sử dụng để sửa đổi các thông tin trên tờ khai đã khai báo. Để tìm kiếm tờ khai nhấn vào nút
_ Nhập các chỉ tiêu tìm kiếm ví dụ như số tiếp nhận điện tử, mã số đơn vị xuất nhập khẩu, trạng thái xử lý.
_ Hệ thống sẽ hiển thị các tờ khai thoả mãn điều kiện tìm kiếm trong danh sách kết quả tìm.
_ Tờ khai sẽ chỉ được thay đổi thông tin nếu như hải quan chưa duyệt tờ khai này (tờ khai chưa có số chính thức).
Hình 5: Tìm kiếm tờ khai
b/ Hỏi đáp về Tờ khai: Chức năng này nhằm mục đích trao đổi thông tin giữa công ty và hải quan.
Trường hợp nếu có thông tin từ phía hải quan, công ty sẽ phân biệt các thông tin này căn cứ vào người gửi là cán bộ hải quan.
Hình 6: Hồi đáp thông tin giữa doanh nghiệp và hải quan
c/ Tra cứu thông tin doanh nghiệp: Chức năng này cho phép công ty có thể tra cứu các thông tin về các vụ vi phạm pháp luật hải quan, thông tin cưỡng chế thuế của công ty.
+ Tra cứu thông tin vi phạm: Hệ thống sẽ thông báo cho biết chi tiết công ty có vi phạm pháp luật hải quan hay không.
Hình 7: Thông tin vi phạm
+ Tra cứu thông tin cưỡng chế: Hệ thống sẽ hiển thị các thông tin cưỡng chế của công ty.
Hình 8: Thông tin cưỡng chế
d/ Thông tin cá nhân: Chức năng này cho phép thay đổi mật khẩu, cập nhật các thông tin liên quan đến công ty.
Hình 9: Thay đổi mật khẩu
r Những tồn tại và hạn chế của Khai hải quan điện tử:
Về cơ bản thủ tục hải quan điện tử đáp ứng được yêu cầu thông quan nhanh hàng hóa do quy trình thủ tục đơn giản, rõ ràng, dễ thực hiện. Việc khai báo hải quan điện tử ít sử dụng giấy tờ mẫu biểu hơn, việc lưu trữ số liệu, hồ sơ dễ dàng, thuận tiện. Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp tham gia thủ tục hải quan điện tử còn chưa cao. Vì bên cạnh những kết quả tích cực trên, thực tế cũng còn những hạn chế bất cập:
Thủ tục thông quan điện tử mới chỉ thực sự thuận lợi với những doanh nghiệp có hàng hóa xuất nhập khẩu thuộc luồng xanh . Còn với hàng hóa xuất nhập khẩu thuộc luồng vàng và luồng đỏ thì quy trình khai báo hải quan vẫn còn tương đối phức tạp.
Việc kết nối liên ngành với các tổ chức thương mại, cơ quan thuế, kho bạc, ngân hàng, chứng nhận xuất xứ (C/O) để có thông tin kịp thời, chính xác phục vụ cho thông quan hàng hóa chưa thật thuận lợi.
Đường truyền và phần mềm khai báo hải quan điện tử cũng vẫn chưa thật thuận tiện. Các doanh nghiệp vẫn còn e ngại tình trạng nghẽn mạng hay cắt điện bất ngờ khi đang kê khai dễ dẫn đến việc mất dữ liệu.
Việc vận động, tuyên truyền doanh nghiệp tham gia thủ tục hải quan điện tử vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Nhiều doanh nghiệp chưa có nhận thức đúng đắn về hải quan điện tử nên vẫn chưa đầu tư thích đáng về trang thiết bị và nhân lực.
Vì vậy, trước tình hình trên, hiện nay, Tổng cục hải quan đang nỗ lực phấn đấu, khắc phục những nhược điểm nhằm hoàn thiện và đẩy mạnh dịch vụ hải quan điện tử.
c/ Chứng nhận xuất xứ điện tử (C/O ưu đãi):
Các mẫu C/O ưu đãi bao gồm:
C/O Form A (Mẫu C/O ưu đãi dùng cho hàng xuất khẩu của Việt Nam)
C/O Form D (MẪu C/O ưu đãi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN)
C/O Form E (Mẫu C/O ưu đãi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc)
C/O Form S (Mẫu C/O ưu đãi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Lào)
C/O Form AK (Mẫu C/O ưu đãi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam và các nước ASEAN khác sang Hàn Quốc)
Khai báo C/O điện tử là quy trình thay thế cách khai báo truyền thống (trên giấy tờ) bằng các form trên mạng internet nhằm mục đích thuận tiện và giảm chi phí cho doanh nghiệp và dễ dàng cho quy trình quản lý của đơn vị cấp C/O.
Theo Quyết định số 0519/QĐ-BTM, ngày 21/3/2006, Bộ Công Thương triển khai Đề án quản lý và cấp chứng nhận xuất xứ điện tử (eCoSys). Hệ thống eCoSys được triển khai qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Xây dựng hệ thống quản lý, lưu trữ, xử lý dữ liệu C/O form ưu đãi của tất cả các Phòng quản lý xuất nhập khẩu trên toàn quốc do Bộ Công Thương quản lý tại trung tâm tích hợp dữ liệu của Bộ.
- Giai đoạn 2: Cấp C/O điện tử trên diện hẹp, áp dụng thí điểm với các doanh nghiệp lớn, có uy tín, kim ngạch xuất khẩu cao và ổn định.
- Giai đoạn 3 (bắt đầu triển khai từ tháng 04/2008): Cấp chứng nhận xuất xứ điện tử trên diện rộng. Giai đoạn này sẽ cấp C/O điện tử cho tất cả các form và cho tất cả các doanh nghiệp trên phạm vi cả nước.
Về lâu dài, để hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa, eCoSys sẽ kết nối với Hải quan điện tử và tích hợp với một số dịch vụ thương mại. eCoSys cũng sẽ sẵn sàng cho việc trao đổi C/O điện tử với các thành viên của Hiệp định Khu vực thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham gia kí kết như ASEAN – Trung Quốc, ASEAN – Hàn Quốc, ASEAN – Nhật bản…
Triển khai hệ thống eCoSys là xu hướng tất yếu mang lại hiệu quả thiết thực cho các Cơ quan quản lý Nhà nước cũng như các doanh nghiệp:
+ Đối với Cơ quan quản lý Nhà nước: hệ thống eCoSys góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, phục vụ tốt cho công tác thống kê xuất khẩu, qua đó phục vụ công tác quản lý nhà nước về thương mại.
+ Đối với doanh nghiệp: eCoSys giúp tiết kiệm thời gian (do quy trình khai báo nhanh gọn, không phụ thuộc vào thời gian, không gian), chi phí cũng như giảm bớt các thủ tục không cần thiết để có chứng nhận xuất xứ cho hàng hoá xuất khẩu. Ngoài ra, việc ứng dụng eCoSys còn cung cấp nguồn số liệu chính xác và trung thực về lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam ra nước ngoài.
Việc cấp C/O điện tử diễn ra theo quy trình sau:
-Công ty gửi Tờ khai xuất xứ điện tử (eForm) có Chữ ký số của lãnh đạo công ty tới Phòng Quản lý xuất nhập khẩu. Hồ sơ điện tử đề nghị cấp C/O của công ty có gắn Chữ ký số có giá trị pháp lý như hồ sơ giấy thông thường. Sau khi kiểm tra tính hợp lệ của Chữ ký số và thông tin nhận được, Phòng Quản lý xuất nhập khẩu sẽ công khai thông tin về tính hợp lệ của eForm trên hệ thống eCoSys.
-Sau khi Phòng Quản lý xuất nhập khẩu đồng ý cấp C/O, công ty sẽ mang Tờ khai xuất xứ bằng giấy có chữ ký của lãnh đạo có thẩm quyền và các chứng từ liên quan nộp cho Phòng Quản lý xuất nhập khẩu.
-Phòng Quản lý xuất nhập khẩu kiểm tra sự phù hợp của dữ liệu khai trên eForm và Tờ khai xuất xứ bằng giấy. Nếu phù hợp, Phòng sẽ cấp ngay chứng nhận xuất xứ bằng giấy cho công ty.
Quy trình đăng ký C/O điện tử trực tuyến:
Bước 1: Đăng nhập
Form đăng nhập hệ thống khai báo C/O
Để sử dụng các form khai báo C/O, đầu tiên công ty phải đăng nhập vào hệ thống bằng cách nhập Mã số thuế và mật khẩu (do VCCI cung cấp). Hệ thống được mặc định mật khẩu cũng chính là Mã số thuế khi công ty đăng nhập ban đầu. Sau đó để đảm báo tính bảo mật, công ty có thể thay đổi mật khẩu của mình.
Sau khi đăng nhập thành công Mẫu form xin cấp C/O xuất hiện.
Bước 2: Điền mẫu form xin cấp C/O
Về cơ bản việc điền thông tin form xin cấp C/O cũng tương tự như khi công ty điền form trên giấy, nhân viên điền thông tin vào các vị trí trống trên form (vị trí có đường kẻ gạch nối) và các tùy chọn theo kiểu đánh dấu.
Mẫu đơn kê khai
Bước 3: Kê khai form
Công ty khai báo việc chọn loại form nào trong mục Đơn đề nghị cấp C/O thì hệ thống sẽ hiển thị loại form đó để công ty tiện khai báo.
Form A
_Cách khai báo các form điện tử cũng tương tự như cách khai báo trên giấy. Công ty khai báo theo các tiêu chí cụ thể trên form.
_Tên công ty xuất khẩu, nhập khẩu và tên quốc gia… sẽ được hệ thống tự động điền sẵn từ khi công ty khai báo form kê khai.
Bước 4: Hoàn tất quy trình
Sau khi hoàn tất khai báo thông tin về C/O, lãnh đạo công ty sử dụng thẻ CA do Bộ Công Thương cấp để ký số và gửi thông tin tới Phòng Quản lý xuất nhập khẩu. Sau khi kiểm tra tính hợp lệ của Chữ ký số và thông tin nhận được, Phòng Quản lý xuất nhập khẩu sẽ cấp C/O điện tử và thông tin công khai trên mạng. Công ty in mẫu C/O từ trên mạng, nộp kèm đơn đề nghị cấp C/O và hồ sơ đầy đủ tại Phòng Quản lý xuất nhập khẩu để phục vụ cho công tác hậu kiểm. Kết thúc quy trình in đơn, form, trên mỗi tờ đơn, form sẽ xuất hiện một mã vạch 2 chiều. Mã vạch này sẽ có nhiệm vụ cung cấp các thông tin của đơn, form tới hệ thống tiếp nhận đặt tại VCCI thông qua đầu đọc mã vạch 2 chiều. Phòng Quản lý xuất nhập khẩu sẽ kiểm tra và cấp ngay chứng nhận xuất xứ cho công ty.
Thay đổi mật khẩu quản trị: Để đảm bảo an toàn về thông tin khi sử dụng hệ thống khai báo CO điện tử trực tuyến, công ty có thể thay đổi thường xuyên mật khẩu tài khoản thuộc công ty mình. Cách làm như sau:
Nhập mật khẩu hiện hành.
Nhập mật khẩu mới.
Xác nhận mật khẩu mới.
Nhấn nút thay đổi mật khẩu.
Các giải pháp khác:
Từ những tính hiệu tích cực của kinh tế Thế giới, đặc biệt là dấu hiệu lạc quan của nền kinh tế Việt Nam 7 tháng đầu năm 2009, công ty cần quan tâm tới một số giải pháp:
1/ Về hàng hóa:
Để đảm bảo chất lượng sản phẩm đầu vào đáp ứng được yêu cầu , tiêu chuẩn cao của khách hàng khó tính , công ty nên chọn các nhà cung cấp có uy tín , có hệ thống kiểm tra , kiểm hóa kỹ càng , nên bố trí người của công ty đến tận nơi để xem xét , giám sát quy trình một cách nghiêm túc trước khi ký hợp đồng.
Công ty nên hợp tác chặt chẽ với các nhà cung cấp hàng hóa nhờ đó mà công ty có thể kiểm soát và bắt kịp các thông tin thường xuyên về sự biến động của giá, về chất lượng và số lượng hàng hóa,…Ngoài ra, công ty tích cực tìm kiếm thêm nhiều nhà cung cấp nguồn ở nhiều loại mặt hàng, hoạt động sản xuất kinh doanh có uy tín, nhanh chóng hướng đến hợp tác bền lâu, tránh tình trạng thông qua trung gian. Hơn nữa điều này giúp cho việc kinh doanh của công ty phong phú hơn về hàng hóa và chủng loại, mở rộng quy mô kinh doanh.
Công ty nên tìm hiểu kỹ thông tin về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa cũng như tiêu chuẩn về độ an toàn, sức khỏe của những quốc gia mà công ty muốn hợp tác kinh doanh. Nếu thực hiện tốt đều này, công ty sẽ tạo được lòng tin ở khách hàng và hơn thế nữa là lòng trung thành của khách hàng. Ngoài ra nếu nắm bắt những thông tin về những tiêu chuẩn của quốc gia khác, công ty sẽ tạo được lợi thế và vững vàng trong môi trường cạnh tranh qua cách thức làm việc chuyên nghiệp. Những thông tin về tiêu chuẩn hàng hóa ở các nước, công ty cần cập nhật và tham khảo các tài liệu do VCCI cung cấp hoặc trên một số website có ích như: Codex Alimentarius Commission, địa chỉ cung cấp những thông tin chi tiết về các tiêu chuẩn của ngành công nghiệp lương thực,nông sản,….Những trang web với siêu thị thông tin theo từng Quốc gia và lục địa như:
Quốc gia / Châu lục Địa chỉ Internet
Afica
Argentina
Australia
Austria
Brazil
Canada
European Union
China
Czech Republic
Nếu có điều kiện , công ty nên xây dựng nhà máy sản xuất riêng cho mình để tự chủ nguồn cung , tiết kiệm được các chi phí môi giới trung gian, đảm bảo nguồn cung kịp thời và phù hợp với hợp đồng đã ký kết với khách hàng nước ngoài. Lợi ích chính của việc bán sản phẩm của mình là có thể kiểm soát được mức lợi nhuận mong muốn trên mỗi sản phẩm và vì thế công ty có khả năng tối đa hóa lợi nhuận. Nếu biết chính xác giá thành mỗi sản phẩm, công ty có thể thử nghiệm các mức giá khác nhau để tìm ra mô hình giá chuẩn nhất. Đánh giá đúng giá trị hàng hóa và bỏ qua khâu trung gian sẽ giúp công ty có giá cả cạnh tranh để giữ chân khách hàng của mình.
2/ Về nhân sự:
Thái độ làm việc của các nhân viên ngoại thương cần phải thật sự nghiêm túc, tích cực, tận tâm , tạo cho khách hàng sự tin tưởng tuyệt đối khi quyết định hợp tác với công ty vì khi công ty bán sản phẩm của mình có nghĩa là công ty đang thực hiện việc “bán” một mối quan hệ với chính mình. Do đó đòi hỏi nhân viên công ty cần dành thêm thời gian và công sức để xây dựng sự tín nhiệm và duy trì một mối quan hệ với các khách hàng đã chọn công ty làm đối tác kinh doanh chứ không phải là những công ty khác cùng lúc chào hàng với họ.
Công ty cần chú trọng chất lượng nguồn nhân lực, quan tâm thích đáng đến trình độ tay nghề, trình độ ngoại ngữ, chuyên môn nghiệp vụ, vì đây chính là nhân tố duy trì sự phát triển bền vững của công ty. Bên cạnh đó, công ty cần bố trí người đúng việc, làm theo năng lực hưởng theo lao động, thực hiện phân phối công bằng.
Thêm vào đó, công ty cũng cần có các chương trình đào tạo nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ của nhân viên đồng thời không quên chỉnh đốn về tư tưởng nhằm giữ gìn và phát huy văn hóa làm việc trong công ty . Nâng cao tinh thần trách nhiệm của nhân viên bằng các biện pháp nhắc nhở, kỷ luật đối với những nhân viên lơ là, không hoàn thành nhiệm vụ hay làm trái với nội quy của công ty.
Ngoài ra, công ty cũng cần đầu tư nhiều hơn nữa cho công tác tuyển dụng nhân sự để tìm kiếm được những ứng viên có đủ năng lực, trình độ và sử dụng đúng người đúng việc. Đồng thời cần có chính sách lương bổng và các ưu đãi thỏa đáng để khuyến khích, động viên tinh thần, nhằm tăng hiệu quả lao động của nhân viên và cũng nhằm thu hút, giữ gìn nhân tài cho công ty.
3/ Về khả năng hoạt động của công ty:
Công ty nên đinh hướng và đề ra những mục tiêu, phương án kinh doanh cho mình một cách rõ ràng và mang tính hiệu quả hơn. Đồng thời công ty điều chỉnh lại cơ cấu quản lý sao cho phù hợp với khuynh hướng phát triển Thương mại điện tử trong tương lai nhằm mang tính chuyên nghiệp hơn trong hoạt động kinh doanh của công ty nói chung và của từng nhân viên nói riêng. Hơn thế nữa, một khi cơ cấu hoạt động của công ty được phân công ra thành từng bộ phận riêng biệt (bộ phận hỗ trợ khách hàng, bộ phận marketing, bộ phận bán hàng, bộ phận tìm kiếm nhà cung cấp hàng hóa,..), nhân viên của từng bộ phận sẽ tập trung hơn vào chuyên môn của mình, giảm áp lực làm việc và nếu có nhân viên nào xin nghỉ việc cũng giảm nhẹ tình trạng thiếu hụt nhân lực trong công ty.
B/ Khuyến nghị đối với những đối tượng liên quan:
1.Khuyến nghị đối với Nhà nước:
¡Về Thương mại điện tử :
Hiện nay vẫn còn một số vấn đề khó khăn cho các doanh nghiệp trong phong trào ứng dụng Thương mại điện tử như:
+ Phương tiện truyền thông: báo chí, phát thanh, truyền hình,…: Phát thanh và truyền hình thường cung cấp các nội dung thông tin có chọn lọc, khá phong phú nhưng một vấn đề mới mẻ như Thương mại điện tử mà xem lướt qua thì chỉ mới có ấn tượng, chưa kịp hiểu. Báo chí chuyển tải khá nhiều bài viết không sâu về Thương mại điện tử để lại một ấn tượng không rõ ràng nơi doanh nghiệp.
+ Tham gia các sàn giao dịch điện tử: Có khoảng hơn 500 doanh nghiệp Việt Nam tham gia Alibaba.com. Họ học hỏi được khá nhiều từ sàn giao dịch nổi tiếng này nhưng cũng gặp không ít khó khăn khi Alibaba.com áp dụng phương pháp đóng phí “member” và không có nhiều hỗ trợ cho các doanh nghiệp ngoài Trung Quốc tham gia.
+ Trong số hơn 200.000 doanh nghiệp Việt Nam thì không phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng cho Thương mại điện tử bởi lẽ họ không có cùng khả năng như nhau về hạ tầng kỹ thuật, trình độ quản lý, năng lực chuyên môn và năng lực tài chính.
+ Thiếu cơ chế pháp lý hoàn thiện để giải quyết tranh chấp qua mạng : Ở nước ta, luật thương mại điện tử đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện , nên sẽ khó khăn khi xử lý các vấn đề tranh chấp xảy ra trong thực tế , nhưng chưa có trong luật . Hơn nữa, các hoạt động lừa đảo trên mạng thì không ít và ngày càng tinh vi hơn , vì vậy , ở giai đoạn đầu của kinh doanh thương mại điện tử , nếu có phát sinh các tranh chấp , kiện tụng,… thì phần thiệt thòi thường thuộc về phía các doanh nghiệp . Đòi hỏi, các doanh nghiệp phải tự bảo vệ mình bằng các biện pháp kinh doanh kết hợp với công nghệ.
Nhà nước cần thiết lập một số biện pháp hỗ trợ như sau:
+ Giải thích tường tận những điều kiện cần và đủ để thực hiện từng quy trình sẽ làm cho doanh nghiệp hiểu rõ những lợi ích thật sự mà Thương mại điện tử mang lại cũng như những khó khăn trở ngại mà doanh nghiệp phải vượt qua. Nếu có một mô hình Thương mại điện tử thật mà hướng dẫn các doanh nghiệp thực hành trực tiếp thì kết quả sẽ cao nhất và hiệu quả nhất. Đối với doanh nghiệp, một khi đã hiểu rõ ích lợi của Thương mại điện tử thì họ xem đầu tư phát triển Thương mại điện tử là đầu tư cho sự phát triển chứ không phải thử nghiệm một ứng dụng công nghệ.
+ Tư vấn cho các doanh nghiệp theo phương pháp ứng dụng nào sao cho phù hợp với doanh nghiệp nhất. Do đó Nhà nước nên chia các dịch vụ Thương mại điện tử theo 3 mức khác nhau là: Mức Thương mại điện tử sơ cấp, Mức Thương mại điện tử trung cấp và Mức Thương mại điện tử cao cấp. Tuỳ theo doanh nghiệp ở mức nào mà hướng dẫn họ tiếp cận đến việc sử dụng từng mức đó.
+ So sánh đối chiếu phương thức kinh doanh của doanh nghiệp với đối thủ trực tiếp luôn luôn là cách hữu hiệu cho doanh nghiệp thấy rõ vì sao năng lực cạnh tranh của mình lại yếu hơn đối thủ.
+ Tạo thêm nhiều cổng thông tin Thương mại điện tử có chất lượng để tập hợp và hỗ trợ công tác quảng bá , mở rộng mối tương quan, liên kết, kết hợp nhằm mở rộng thị trường.
+ Tạo cơ sở hạ tầng cho việc phát triển Thương mại điện tử như hỗ trợ xây dựng website đối với doanh nghiệp , khuyến khích công tác ứng dụng B2B và khuyến khích phát triển các ngành phụ trợ cho Thương mại điện tử như viễn thông , ngành Công nghệ thông tin... như nâng cao tốc độ đường truyền Internet đáp ứng được yêu cầu trong Thương mại điện tử , khuyến khích phát triển và có sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc phát triển các công cụ xây dựng phần mềm ; giải pháp kết hợp các phần mềm Thương mại điện tử với các phần mềm ứng dụng và các cơ sở dữ liệu truyền thống ; sự quan tâm đầu tư của Nhà nước trong công tác nâng cấp , mua sắm các máy chủ Thương mại điện tử đặc biệt (công suất, an toàn).
+ Hoàn thiện kiến trúc thượng tầng cho việc phát triển Thương mại điện tử: xây dựng tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng , an toàn và độ tin cậy trong Thương mại điện tử ; hoàn thiện khung pháp lý , cơ chế chính sách thu hút và tạo mọi điều kiện về thủ tục hành chính tương hỗ cho công tác này.
+ Trong thời gian tới, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các bộ, ban ngành, các tổ chức chính phủ và các doanh nghiệp để từ đó thắt chặt sự liên kết, giao dịch, hình thành một hạ tầng vững chắc, tạo tiền đề thúc đẩy Thương mại điện tử và Chính phủ điện tử phát triển.
+ Cần đẩy mạnh triển khai các văn bản pháp luật về Thương mại điện tử. Thương mại điện tử là lĩnh vực còn mới mẻ lại dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến, để các văn bản quy phạm pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, tạo ra môi trường quản lý và hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động các doanh nghiệp, các Cơ quan quản lý Nhà nước cần nỗ lực hơn nữa trong việc triển khai thực hiện các văn bản pháp luật đã ban hành. Trong triển khai cần chú trọng đến các hoạt động hướng dẫn, phổ biến nội dung của các văn bản pháp luật để các doanh nghiệp hiểu và thực hiện đúng các quy định đã ban hành.
+ Tăng cường hợp tác Quốc tế về Thương mại điện tử: Hợp tác song phương cùng các quốc gia tiên tiến về Thương mại điện tử cần được đẩy mạnh hơn nữa nhằm tìm kiếm các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí giao dịch, hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hỗ trợ các doanh nghiệp , hiệp hội trong việc tham gia hoạt động của tổ chức Quốc tế về Thương mại điện tử như Liên minh các Tổ chức cấp chứng nhận website thương mại điện tử uy tín Châu Á-Thái Bình Dương (ATA), Liên minh Thương mại điện tử Châu Á-Thái Bình Dương (PAA)…từng bước nâng cao uy tín của doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động Thương mại điện tử.
¡Về việc nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động xuất khẩu hàng hóa cho các doanh nghiệp Việt Nam
- Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài , tham gia mạnh mẽ trong phân công lao động quốc tế , tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu / khu vực , nỗ lực phát triển nguồn cung cho xuất khẩu (cả về mặt số lượng và nâng cao chất lượng) sau khi đã gia nhập WTO nhằm tạo ra được một cấu trúc xuất khẩu mang tính cạnh tranh và đạt hiệu quả cao.
- Tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện quyết liệt cải cách thể chế, cải cách hành chính, thuận lợi hóa hoạt động xuất khẩu phù hợp với các cam kết của WTO và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tích cực , chủ động thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế đầy đủ và sâu rộng để tạo điều kiện tiếp cận thị trường rộng lớn cho hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu của Việt Nam. Tăng cường củng cố các thị trường Mỹ , EU , Nhật Bản , Trung Quốc... và khai phá mạnh các thị trường mới ở Trung Đông, Châu Phi và Mỹ La-tinh cho phát triển xuất khẩu. Mở cửa sớm các thị trường dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu tiên tiến, hiện đại cho các nhà đầu tư nước ngoài nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu.
- Nỗ lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp và nông nghiệp tạo chuyển biến về chất trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam.
- Tăng cường đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng xuất khẩu , đồng thời khai thác hiệu quả hệ thống hạ tầng hiện có phục vụ tốt nhất cho xuất khẩu của đất nước . Phát triển Thương mại điện tử , ứng dụng Công nghệ thông tin trong các giao dịch thương mại.
- Đẩy mạnh các hoạt động thuận lợi hóa và hỗ trợ việc gia nhập thị trường của khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước , khai thác hiệu quả các nguồn lực của đất nước cho xuất khẩu , khuyến khích việc liên doanh , liên kết hợp nhất , sáp hợp các doanh nghiệp xuất khẩu để hình thành các tập đoàn xuất khẩu mạnh của Việt Nam,...
- Tiếp tục khai thác tối đa làn sóng đầu tư mới từ hiệu ứng gia nhập WTO vào các ngành hàng xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam , nhất là các ngành chế biến , chế tạo và các ngành công nghiệp công nghệ cao có khả năng tăng trưởng xuất khẩu mạnh như sản phẩm gỗ , cơ khí nhỏ , dây và cáp điện , sản phẩm nhựa , linh kiện điện tử và vi tính , phần mềm, ...
- Cải tiến việc thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, phát triển thị trường xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xúc tiến thương mại. Tăng cường vai trò và trách nhiệm của các cơ quan ngoại giao và đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài trong việc cung cấp thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường , kênh phân phối nước ngoài...
- Không ngừng chú trọng phát triển nguồn nhân lực cho xuất khẩu , chú ý đào tạo ứng dụng các kỹ năng nghiên cứu thị trường , marketing , kỹ năng đàm phán quốc tế , nghiệp vụ kỹ thuật ngoại thương , nâng cao trình độ luật pháp quốc tế , trình độ ngoại ngữ , ứng dụng tin học , nâng cao tay nghề . Việc đào tạo cần theo hai hướng , trước mắt , đối với người lao động cần thuần thục về kỹ năng và chuyên môn hóa sâu. Mặt khác phải chú trọng đặc biệt tới đào tạo , bồi dưỡng nhân tài , có khả năng ứng dụng và tích hợp khoa học công nghệ của nhân loại cho phát triển của Việt Nam về lâu dài.
2.Khuyến nghị đối với Hải quan:
Bộ phận Hải quan giúp đỡ các doanh nghiệp nhiều hơn nữa trong việc thiết lập và kê khai hàng hóa một cách nhanh gọn nhưng chính xác ; đặc biệt là các doanh nghiệp vừa mới thành lập , chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc giao nhận hàng ; tránh tình trạng sách nhiễu, phiền hà, tiêu cực.
Ngành Hải quan cũng cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống thủ tục hải quan điện tử, trong đó có việc áp dụng tiêu chí quản lý rủi ro vừa phù hợp với thực tế hàng hóa xuất nhập khẩu, vừa đảm bảo yêu cầu quản lý. Qua thực tế áp dụng tiêu chí quản lý rủi ro cần được xem xét bổ sung, hoàn thiện nhằm giúp phân luồng kiểm tra hải quan được chính xác, tạo điều kiện cho hàng hóa hợp pháp và tập trung quản lý đối với hàng hóa có nguy cơ sai phạm.
Ngành Hải quan cần được đầu tư, nâng cấp đường truyền, bổ sung nguồn nhân lực, mở rộng cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin để thủ tục hải quan điện tử thực sự phát huy hiệu quả khi thực hiện mở rộng trong thời gian tới. Đồng thời mong muốn chương trình Khai Hải quan điện tử sẽ sớm mở rộng áp dụng cho các hình thức khai báo khác như loại hình gia công, đầu tư, tạm nhập tái xuất, hàng phi mậu dịch...
3. Khuyến nghị đối với các bộ ngành liên quan:
Trong nhiều yếu tố để có thể vận hành thủ tục hải quan điện tử đảm bảo tự động hóa hoàn toàn, thì việc mã hóa hàng hóa xuất nhập khẩu có vai trò quan trọng. Bởi muốn làm thủ tục hải quan cho một mặt hàng xuất nhập khẩu nào đó, Cơ quan hải quan phải nắm được các chế độ, chính sách có liên quan tác động đến mặt hàng đó. Tuy nhiên, việc mã hóa, chuẩn hóa danh mục hàng hóa theo mã số HS (Danh mục hàng hóa và mã hóa hàng hóa của Tổ chức Hải quan Thế giới mà Việt Nam đã áp dụng) và theo quy định của Nghị định 12/2006/NĐ-CP ngày 23/1/2006 (hướng dẫn Luật Thương mại) do các bộ ngành xây dựng đến nay mới hoàn thành phân nửa. Chính vì vậy, ý kiến của Tổng cục Hải quan cho rằng, các bộ ngành cần khẩn trương xây dựng mã hóa, chuẩn hóa đối với hàng hóa xuất nhập khẩu để đưa vào hệ thống xử lý dữ liệu điện tử, từ đó nâng cao được mức độ tự động.
Hệ thống Công nghệ thông tin chậm, tắc nghẽn do hệ thống hạ tầng mạng vượt khỏi tầm của Hải quan. Do đó Bộ Tài chính kết hợp cùng với ngành điện lực đẩy nhanh tiến độ xét duyệt các dự án nâng cấp hạ tầng Công nghệ thông tin, mua sắm máy móc thiết bị cho ngành Hải quan, xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp nguồn điện ổn định, phục vụ cho triển khai mở rộng Hải quan điện tử.
._.