LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của lĩnh vực y tế trên thế giới. Hoà chung với xu thế đó nhiều cơ hội đã mở rộng với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực y tế ở Việt Nam. Công ty cổ phần thiết bị y tế Medínsco là một trong số doanh nghiêp đó.Công ty chuyên nhập khẩu kinh doanh thiết bị y tế tại thị trường Việt Nam với thời gian hoạt động dài và có nhiều bứơc tiến triển. Nhập khẩu cho phép Medinsco khai thác các tiềm năng thế mạn
58 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1520 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hoạt động kinh doanh Nhập khẩu thiết bị y tế ở Công ty cổ phần thiết bị y tế Medinsco, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h về trang thiết bị y tế của các nước trên thế giới, bổ sung các sản phẩm trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không đủ nhu cầu tiêu dùng, vật tư y tế trong nước.
Ta cũng biết rằng máy móc, thiết bị, vật tư y tế giữ một vai trò không nhỏ trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc củng cố, duy trì và nâng cao chất lượng sức khoẻ mỗi người dân, đồng thời tạo điều kiện cho quá trình phát triển các ngành khác và toàn bộ nền kinh tế. Đó là một mục tiêu lớn của Nhà nước nói chung cũng như của Ngành y tế nói riêng trong thời đại hội nhập phát triển.
Qua một thời gian thực tập tại công ty cổ phần thiết bị y tế được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô trong khoa thương mại và các cô chú trong công ty tôi xin chọn đề tài: ‘’Hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu thiết bị y tế ở Công ty cổ phần thiết bị y tế Medinsco ’’
Đề tài được kết cấu gồm ba phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kinh doanh nhập khẩu hàng hoá và những nhân tố ảnh hưởng tới kinh doanh nhập khẩu thiết bị y tế của Công ty cổ phần thiết bị y tế Medinsco.
Chương 2: Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty cổ phần thiết bị y tế Medinsco.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu thiết bị y tế ở Công ty cổ phần thiết bị y tế Medinsco
Kết luận.
Với thời gian thực tập còn ngắn nhiều hạn chế về kiến thức, cũng là lần đầu tiên thực tập nên em rất mong được sự giúp đỡ chỉ bảo của quý thầy cô.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI NHẬP KHẨU THIẾT BỊ Y TẾ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN THIẾT BỊ Y TẾ MEDINSCO
I. Lý luận chung về hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp thương mại
1. Khái niệm.
Quá trình toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới đang diễn ra với tốc độ phát triển ngày càng nhanh và sâu sắc. Đó là xu thế tất yếu và là một quy luật mà mọi quốc gia trong khu vực và trên thế giới đều phải tuân theo. Biểu hiện rõ nét nhất của xu thế này là quá trình tự do hoá buôn bán trong khu vực, lãnh thổ và phạm vi trên toàn thế giới. Và mỗi người dân của một nước đã không ít lần sử dụng hàng loạt kết quả của các giao dịch quốc tế. Đó là chúng ta được đi xe ôtô TOYOTA của Nhật sản xuất, sử dụng máy tính IBM của Mỹ, quần áo của Trung Quốc….
Với ý nghĩa ấy, Nhập khẩu được hiểu là hoạt động mua hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước từ nước ngoài nhằm mục tiêu thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất trong nước và là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng giữa các quốc gia với nhau. Nhập khẩu cũng là một trong những hoạt động cốt lõi của thương mại quốc tế.
2. Các hình thức nhập khẩu.
2.1 Nhập khẩu tự doanh (Nhập khẩu trực tiếp).
Là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp. Doanh nghiệp cần tiến hành nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi, đúng chính sách luật pháp quốc gia cũng như quốc tế.
Đặc điểm:
- Doanh nghiệp phải chịu mọi rủi ro, tổn thất cũng như lợi nhuận thu được. Do đó, để có hiệu quả cao đòi hỏi doanh nghiệp phải thận trọng trong từng bước từ việc nghiên cứu thị trường cho đến khi bán hàng và thu tiền.
- Doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng với đối tác nước ngoài, còn các hợp đồng liên quan đến khâu tiêu thụ thì có thể lập sau.
2.2 Nhập khẩu uỷ thác.
Trong giao dịch quốc tế, không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tham gia một cách trực tiếp do nhiều yếu tố khác nhau, trong khi đó họ lại muốn được giao dịch. Từ nhu cầu đấy hình thành nên phương thức nhập khẩu uỷ thác. Đó là phương thức mà doanh nghiệp này uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng giao dịch trực tiếp tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác sẽ tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác.
Đặc điểm:
- Doanh nghiệp nhập khẩu (doanh nghiệp nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra làm đại diện cho bên uỷ thác giao dịch, ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập khẩu hàng cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại, bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất.
- Doanh nghiệp được uỷ thác nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch nhập khẩu chứ không được tính doanh số, doanh thu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải lập hai hợp đồng:
Hợp đồng mua bán hàng hoá với người nước ngoài.
b. Hợp đồng uỷ thác với bên uỷ thác.
2.3 Nhập khẩu liên doanh.
Là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp cùng nhau giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi cho các bên tham gia, lãi cùng hưởng rủi ro cùng chịu.
Đặc điểm:
- Các bên tham gia chỉ phải góp một phần vốn nhất định và tỷ lệ phân chia lãi lỗ phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp giữa các bên.
- Doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ chỉ được tính doanh số bán hàng trên số hàng theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế trên doanh số đó. Doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu phải lập hai hợp đồng:
a. Một hợp đồng với đối tác nước ngoài.
b. Một hợp đồng với đối tác liên doanh.
2.4 Nhập khẩu hàng đổi hàng.
Là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, phương tiện thanh toán trong hợp đồng này không phải là tiền mà bằng hàng hoá. Mục đích nhập khẩu ở đây không phải chỉ thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất khẩu được hàng và thu lợi từ hoạt động xuất khẩu nữa.
Đặc điểm:
- Phương thức này mang lại nhiều lợi ích hơn cho các bên tham gia hợp đồng và có thể tiến hành cùng một lúc cả hoạt động xuất và nhập khẩu.
- Hàng hoá xuất và nhập cũng là bạn hàng trong hoạt động xuất khẩu.
- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim nghạch nhập khẩu trực tiếp, kim nghạch xuất khẩu, doanh số tiêu thụ trên cả hai loại mặt hàng.
- Để đảm bảo thực hiện hợp đồng, các bên thường sử dụng các biện pháp sau:
+ Dùng thư tín dụng đối ứng: Là loại thư tín dụng mà trong nội dung của nó có các điều khoản quy định chung. Thư tín dụng chỉ có hiệu lực khi người mở một thư tín dụng khác có kim ngạch tương đương.
+ Dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá. Người này chỉ giao chứng từ đó cho người nhận hàng khi người này đổi lại một chứng từ sở hữu hàng hoá có giá trị tương đương.
2.5 Nhập khẩu tái xuất.
Là hoạt động nhập khẩu hàng hoá không phải để tiêu thụ ở nội địa mà để xuất sang nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận. Những hàng nhập khẩu này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Phương thức nhập khẩu này được thực hiện thông qua 3 nước: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước tái xuất.
Đặc điểm:
- Doanh nghiệp nhập khẩu ở nước tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mỗi bạn hàng xuất và bạn hàng nhập khẩu, bảo đảm sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động.
- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch cả xuất và nhập khẩu. Doanh số bán trên trị giá hàng xuất khẩu đối với các mặt hàng kinh doanh.
- Doanh nghiệp tái xuất lập hai bản hợp đồng:
a. Hợp đồng xuất khẩu
b. Hợp đồng nhập khẩu và không chịu thuế xuất nhập khẩu đối với các mặt hàng kinh doanh.
- Để đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường sử dụng thư tín dụng giáp lưng.
- Hàng hoá không nhất thiết phải qua nước tái xuất mà có thể nhập thẳng về nước thứ ba (các hoạt động giao dịch thì vẫn liên quan đến nước tái xuất). Doanh nghiệp tái xuất còn có thể có được những khoản lợi do được thanh toán tiền hàng song lại có thể trả chậm cho bên xuất khẩu.
Với nhiều phương thức nhập khẩu như vậy, các doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng môi trường kinh doanh, để từ đó ứng dụng các phương thức này một cách linh hoạt với thị trường này, với bạn hàng này, ta có thể dùng phương thức nào là có lợi hơn, song với thị trường, với bạn hàng khác và vào một thời điểm khác thì phương thức ấy chưa chắc đã có lợi bằng các phương thức khác. Không nên áp dụng một hay một vài phương pháp cho mọi thị trường và mọi đối tác.
3. Quy trình nhập khẩu hàng hoá của doanh nghiệp
3.1. Xác định mặt hàng nhập khẩu
Mỗi doanh nghiệp có những nhiệm vụ chức năng khác nhau. Vì vậy tuỳ thuộc vào chức năng pháp lý của từng doanh nghiệp mà doanh nghiệp cần thực hiện nhiệm vụ kinh doanh về chủng loại hay mặt hàng nào. Từ đó lựa chọn phương thức giao dịch nhập khẩu. Trong kinh doanh thương mại quốc tế có nhiều phương thức giao dịch khác nhau để doanh nghiệp có nhiêù sự lựa chọn phù hợp đó là :
a/ Giao dịch thông thường.
Là phương thức giao dịch đợc thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc, ngời bán và ngời mua trực tiếp quan hệ bằng cách gặp gỡ trực tiếp hoặc qua th từ để bàn bạc và thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch.
b/ Giao dịch qua trung gian.
Trong hình thức giao dịch này có ngời thứ ba làm trung gian giữa ngời bán và ngời mua.
c/ Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá.
Là một thị trờng đặc biệt tại đó thông qua những ngời môi giới do sở giao dịch chỉ định.
d/ Giao dịch tại hội trợ triển lãm.
3.2. Điều tra nghiên cứu thị trường nhập khẩu.
Thị trường có một vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại của một doanh nghiệp bởi thị trường là tổng thể các mối quan hệ về lưu thông hàng hoá và tiền tệ. Qua thị trường doanh nghiệp sẽ biết được lượng cung, cầu từ đó có kế hoạch sản xuất kinh doanh thích hợp. Nhiều doanh nghiệp nhờ năng động, nắm bắt sự nhanh nhạy với thị trường mà việc kinh doanh thành đạt, song cũng không ít doanh nghiệp vì khả năng hiểu biết thị trường hạn chế mà dẫn đến phá sản. Do vậy, để hoạt động kinh doanh có hiệu quả các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhập khẩu nói riêng phải nắm vững các yếu tố về thị trường, hiểu biết quy luật vận động của thị trường, từ đó phản ứng kịp thời trước những thay đổi của thị trường. Nghiên cứu thị trường của một doanh nghiệp nhập khẩu gồm :
+ Nghiên cứu mặt hàng cần nhập khẩu
+ Nghiên cứu thị trường và các nhân tố ảnh hưởng
+ Nghiên cứu quan hệ cung cầu hàng hoá, sự biến động của chúng.
+ Nghiên cứu giá hàng hoá nhập khẩu.
+ Xác định mức giá thấp nhập khẩu đối với thị ttrờng có quan hệ giao dịch.
Trên cơ sở phân tích đúng đắn ảnh hưởng của nhân tố tới giá cả doanh nghiệp sẽ nắm được xu hướng biến động của chúng, từ đó xác định mức giá cho mặt hàng mà ta có kế hoạch nhập khẩu đối với thị trường ta sẽ giao dịch.
Nếu mặt hàng này thuộc về đối tượng giao dịch phổ biến hoặc có trung tâm giao dịch trên thế giới thì phải tham khảo giá thị trường thế giới về mặt hàng cần kinh doanh. Chú ý khi định giá cần tính đến yếu tố cước phí vận tải, cũng có thể dựa vào chào hàng của hãng, dựa vào giá nhập khẩu của thời kỳ trước, vào giá của lô hàng trước, các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật để tăng hay giảm giá thành nhập khẩu khi giao dịch.
3.3. Đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu.
a/ Sau khi chọn các bên tiến hành giao dịch đàm phán có kết quả phải đi đến ký kết hợp đồng kinh tế .
Trước khi đàm phán ký kết hợp đồng doanh nghiệp phải đặt hàng của đối tác cung cấp hàng nhập khẩu và dịch vụ, sau khi đặt hàng doanh nghiệp có thể nhận được bản chào hàng hay thư trả lời của nhà cung cấp. Từ đây doanh nghiệp có thể nắm bắt được những thông tin cần thiết về giả cả, quy cách…của hàng hoá nhập khẩu. Trong kinh doanh buôn bán quốc tế, các bên tham gia giao dịch thường có phong tục tập quán, ngôn ngữ, tài chính tiền tệ…khác nhau. Dẫn đến quyền lợi của các bên không thống nhất , trái ngược nhau, để giải quyết những bất đồng này các bên tham gia đàm phán phảI trao đổi thống nhất các quan điểm chung với nhau để có thể đi đến một hợp đồng ngoại thương.
Hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận của những doanh nghiệp, tổ chức quốc tịch khác nhau trong đó một bên là bên bán (xuất khẩu) có nghĩa vụ phải chuyển vào quyền sở hữu của bên mua (nhập khẩu) một khối lợng hàng hoá nhất định, bên nhập khẩu có nghĩa vụ trả tiền và nhận hàng.
b/ Những điều khoản cơ bản của một hợp đồng ngoại thương.
Nội dung của một bản hợp đồng theo nguyên tắc tự do ký kết của hai bên quyết định sao cho phù hợp với quyền lợi của cả hai bên và đúng pháp luật. Nhưng việc ký kết hợp đồng kinh tế ngoại thương thường gặp khó khăn do các chủ thể hợp đồng thường không có sự tương đồng về văn hoá, ngôn ngữ, phong tục tập quán,...Vì vậy, để tránh tranh chấp có thể xảy ra thì nội dung hợp đồng xuất nhập khẩu cần phải có một số điều căn bản sau:
- Điều khoản về đối tượng hợp đồng:
+ Điều khoản tên hàng
+ Điều khoản chất lượng
+ Điều khoản số lượng:
+ Điều khoản trọng lượng của hàng hoá:
- Điều khoản về giá cả hàng hoá:
+ Đồng tiền tính giá:
+ Mức giá
+ Phương pháp quy định giá: Tuỳ theo thoả thuận trong hợp đồng.
- Điều khoản giao hàng.
Nội dung cơ bản là xác định thời hạn, thời điểm, phương thức và việc thông báo giao hàng.
+ Trong hợp đồng cần ghi rõ thời hạn giao hàng:
+ Điểm giao hàng
+ Phơng thức giao hàng:
+ Thông báo giao hàng:
- Điều khoản về thanh toán trả tiền.
+ Đồng tiền thanh toán
+ Thời hạn thanh toán
+ Phương thức thanh toán: Có nhiều phương thức trả tiền nhưng trong thanh toán quốc tế chủ yếu dùng hai phương thức sau:
* Phương thức nhờ thu
* Phương thức tín dụng chứng từ
c/ Phương thức ký hợp đồng.
* Có nhiều cách ký kết hợp đồng đó là:
- Hai bên ký kết vào một hợp đồng mua bán (một văn bản).
- Người mua xác nhận (bằng văn bản) là người mua đồng ý với các điều khoản của một chủ chào hàng tự do. Nếu người mua viết đúng thủ tục cần thiết và gửi đúng trong thời hạn quy định cho người bán.
- Người bán xác nhận (bằng văn bản) đơn đặt hàng của người mua. Trong trường hợp này hợp đồng thể hiện bằng hai văn bản: đơn đặt hàng của người mua và văn bản xác nhận của người bán.
- Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được thoả thuận giữa các bên (nêu rõ các thoả thuận đã thoả thuận).
3.4. Thực hiện hợp đồng .
Sau khi hợp đồng được ký kết tức là quyền lợi và nghĩa vụ của các bên được xác lập, các bên cần phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Bên nhập khẩu cần phải xắp xếp các việc phải làm và ghi thành biểu bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng rất phức tạp đòi hỏi các bên tham gia phải tuân thủ luật lệ quốc gia và quốc tế, đồng thời đảm bảo quyền lợi của quốc gia và uy tín của doanh nghiệp.
Trình tự các bước thực hiện hợp đồng gồm có:
+ Xin giấy phép nhập khẩu.
+ Mở thư tín dụng L/C (Nếu thanh toán bằng L/C ).
+ Thuê tàu.
+ Mua bảo hiểm.
+ Làm thủ tục hải quan.
+ Nhận hàng, kiểm tra hàng hoá.
+ Thanh toán.
+ Giải quyết tranh chấp nếu có.
a/ Xin giấy phép nhập khẩu:
Giấy phép nhập khẩu là một biện pháp quan trọng của Nhà nước nhằm quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu. Sau khi ký hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy phép nhập khẩu để được thực hiện hợp đồng đó. Giấy phép này do Bộ Thơng mại cấp. Để được cấp giấy phép doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải có điều kiện:
- Hoạt động theo đúng ngành nghề mà doanh nghiệp đăng ký kinh doanh
- Thực hiện đúng luật pháp và cam kết tuân thủ các quy định của luật pháp hiện hành.
- Doanh nghiệp có số vốn lưu động tối thiểu tính bằng đồng Việt Nam tương đương với 200.000 USD tới thời điểm đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu.
- Doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu phải có nghĩa vụ nộp lệ phí và sử dụng lệ phí do Bộ Tài chính và Bộ Thơng mại quy định.
- Hiện nay chính phủ có quyết định, doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải làm bộ hố sơ bao gồm những văn bản sau:
+ Đơn xin nhập khẩu.
+ Phiếu hạn nghạch.
+ Bản sao của hợp đồng được ký.
b/ Mở thư tín dụng L/C.
Nếu hợp đồng quy định phải thanh toán bằng phương thức thư tín dụng chứng từ thì bên mua phải mở L/C ở ngân hàng khi có thông báo của bên bán.
Thời gian mở L/C phụ thuộc vào thời hạn giao hàng. Để cho chặt chẽ, hợp đồng thường quy định cụ thể ngày giao hàng và ngày mở L/C. Nếu hợp đồng quy định không cụ thể thường thời gian này là khoảng 15 - 20 ngày trước khi đến thời hạn giao hàng. Cơ sở để mở L/C là các điều khoản trong hợp đồng. Đơn vị hợp đồng dựa vào cơ sở đó làm đơn xin mở L/C theo mẫu của ngân hàng.
c/ Thuê tàu chở hàng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng việc ai thuê tàu, thuê tàu theo hình thức nào dựa vào ba căn cứ: điều khoản hợp đồng, đặc điểm hàng hoá, điều kiện vận tải. Nếu điều kiện cơ sở giao hàng là FOB thì bên nhập khẩu phải thuê tàu chở hàng, còn nếu điều kiện cơ sở giao hàng là CIF thì bên nhập khẩu không phải thuê tàu mà nghĩa vụ đó thuộc về người bán.
Tuỳ theo đặc điểm của hàng hoá kinh doanh mà doanh nghiệp lựa chọn phương thức thuê tàu phù hợp: tàu chuyến, tàu chợ hay tàu bao. Nếu nhập khẩu thường xuyên với khối lợng lớn thì nên thuê bao, nhập khẩu không thường xuyên nhưng khối lượng lớn thì nên thuê tàu chuyến,còn nếu nhập khẩu với khối lượng nhỏ thì thuê tàu chợ.
d/ Mua bảo hiểm hàng hoá.
Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, mát mát. Để hạn chế mọi tổn thất có thể xảy ra thì bảo hiểm hàng hoá đường biển ra đời là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng bảo hiểm bao, hợp đồng bảo hiểm chuyến. Đối với bảo hiểm bao, doanh nghiệp ký kết hợp đồng từ đầu năm. Mỗi khi giao hàng xuống để vận chuyển chỉ cần gửi đến Công ty bảo hiểm một thông báo một văn bản gọi là: “Giấy báo bắt đầu vận chuyển”. Đối với bảo hiểm chuyến, doanh nghiệp gửi đến công ty bảo hiểm một băn bản gọi là: “Giấy yêu cầu bảo hiểm”. Trên cơ sở giấy yêu cầu này doanh nghiệp và Công ty bảo hiểm đàm phán ký kết hợp đồng bảo hiểm với nhau.
Bên cạnh hình thức bảo hiểm, doanh nghiệp cần lựa chọn điều kiện bảo hiểm: Có ba loại điều kiện
+ Điều kiện A bảo hiểm mọi rủi ro có thể xảy ra, với phí xuất 0,5%.
+ Điều kiện B bảo hiểm tổn thất, phí xuất 0,34% - 0,36%.
+ Điều kiện C bảo hiểm miễn tổn thất riêng, phi xuất 0,25% -0,28%.
e/ Làm thủ tục hải quan.
Hàng hoá đi qua biên giới quốc gia để nhập khẩu đều phải làm các thủ tục của hải quan. Thủ tục hải quan gồm 3 bước sau:
+ Khai báo hải quan: Doanh nghiệp phải khai báo chi tiết về hàng hoá xuất nhập khẩu lên tờ khai hải quan một cách trung thực và chính xác. Tờ khai phải đi kèm cùng một số chứng từ khác: Giấy phép nhập khẩu, hoá đơn, phiếu đóng gói, bản kê khai chi tiết, vận đơn,...
+ Xuất trình hàng hoá: Hải quan được phép kiểm tra hàng hoá nếu thấy cần thiết, hàng hoá nhập khẩu phải được xắp xếp trật tự, thuận tiện cho việc kiểm tra. Chủ hàng chịu chi phí nhân công về việc mở và đóng các kiện hàng.
+ Thực hiện các quyết định của hải quan: Sau khi kiểm tra các giấy tờ liên quan và hàng hoá, hải quan ra quyết định: Cho hàng được phép qua biên giới (thông quan) hoặc cho hàng qua với một số điều kiện kèm theo hoặc hàng không được nhận,...Chủ hàng phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của hải quan.
f/ Nhận hàng, kiểm tra hàng:
Để nhận được hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài về doanh nghiệp nhập khẩu phải làm các công việc sau:
- Ký kết hợp đồng với cơ quan vận tải về việc giao hàng.
- Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu từng tháng, từng quý, từng năm, cơ cấu hàng hoá, lịch tàu, vận chuyển, giao nhận.
- Cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc nhận hàng như vận đơn, lệnh giao hàng,... nếu tàu biển không giao những tài liệu đó cho cơ quan vận tải.
- Theo dõi việc giao nhận và giải quyết trong phạm vi của mình những vấn đề xảy ra trong việc giao nhận.
- Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản phí tổn về giao nhận, bốc xếp, bảo quản, vận chuyển hàng hoá nhập khẩu.
- Thông báo cho doanh nghiệp đặt hàng chuẩn bị tiếp nhận hàng hoá.
- Chuyển hàng hoá về kho hàng của doanh nghiệp hoặc giao trực tiếp cho các đơn vị đặt hàng.
- Kiểm tra hàng hoá: Hàng hoá nhập khẩu về qua cửa khẩu phải được kiểm tra chặt chẽ , trách các sai sót. Mỗi cơ quan chứ năng tiến hành kiểm tra đúng quyền hạn của mình. Nếu phát hiện ra các dấu hiệu không bình thường thì mời bên giám định đến lập biên bản. Cơ quan giao thông kiểm tra niêm phong, kẹp chì trước khi dỡ hàng ra khỏi phương tiện vận tải. Đơn vị nhập khẩu có tư cách là một bên đứng tên trong vận đơn cũng phải kiểm tra hàng hoá và lập thư dự kháng nếu thấy nghi ngờ hoặc hàng hoá bị tổn thất, thiếu hụt hoặc không đúng hợp đồng.
g/ Thanh toán.
Thanh toán là khâu quan trọng trong kinh doanh thương mại quốc tế. Vì đặc điểm buôn bán với nước ngoài phức tạp nên thanh toán trong thương mại quốc tế phải thật thận trọng tránh xảy ra tổn thất. Có nhiều phương thức thanh toán : phương thức nhờ thu, Thư tín dụng (L/C), chuyển tiền,... Thực hiện theo phương thức như thế nào phải quy định cụ thể trong hợp đồng. Doanh nghiệp phải tiến hành thanh toán theo đúng điều kiện quy định trong hợp đồng đã ký kết.
h/ Giải quyết tranh chấp:
Trong thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng nhập khẩu phát hiện hàng nhập khẩu bị mất mát, thiếu hụt, hư hỏng,… thì lập hồ sơ khiếu nại. Đối tượng khiếu nại có thể là bên bán, người vận chuyển,... tuỳ theo tính chất của thiệt hại. Bên nhập khẩu chỉ viết đơn khiếu nại và gửi cho bên bị khiếu nại trong các điều khoản quy định. Đơn khiếu nại phải có bằng chứng về sự tổn thất gồm: biên bản giám định, vận đơn đường biển, hoá đơn, đơn bảo hiểm (nếu khiếu nại Công ty bảo hiểm),...
Dựa vào nội dung khiếu nại mà người nhập khẩu và bên bị khiếu nại có các cách giải quyết khác nhau. Nếu không tự giải quyết được thì làm đơn kiện gửi trọng tài kinh tế hoặc toà án kinh tế để giải quyết.
3.5 Tổ chức tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu.
Sau khi nhập hàng về nước, doanh nghiệp giao hàng cho đơn vị đặt hàng hoặc tổ chức bán hàng trên thị trường nội địa. Doanh nghiệp nhập khẩu cần tiến hành tiêu thụ hàng hoá sao cho hiệu quả và đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp. Đây là khâu cuối cùng nhưng nó có vai trò hết sức quan trọng trong kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp nhập khẩu. Vì vậy doanh nghiệp cần phải:
- Nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường trong nước và tâm lý khách hàng trong việc mua hàng hoá nhất là đối với hàng hóa mà doanh nghiệp kinh doanh.
- Xác đinh các kênh phân phối hàng hoá và các hình thức bán hàng phù hợp đạt hiệu quả cao.
- Tiến hành quảng cáo hàng hoá và xúc tiến hoạt động bán hàng.
- Xác định mức giá cụ thể dựa trên cơ sở cung cầu thị trường trong nước và chi phí của doanh nghiệp bỏ ra.
- Tổ chức, đào tạo nhân sự của doanh nghiệp về nghiệp vụ bán hàng cụ thể tại các cửa hàng.
- Chấp hành những quy định của phấp luật nhà nước ban hành.
4. Đặc điểm của sản phẩm thiết bị y tế:
Sản phẩm thiết bị y tế một yếu tố quan trọng trong việc bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của người dân. Sản phẩm thiết bị y tế bao gồm nhiều chủng loại hàng hoá khác nhau nhưng có thể chia thành 3 nhóm chính sau: Thiết bị y tế, dụng cụ y tế, hoá chất và vật tư y tế. Những mặt hàng này chủ yếu phục vụ trong nghành y tế thường có yêu cầu cao về chất lượng kỹ thuật, vệ sinh, bảo quản phải nghiêm ngặt đúng theo một quy trình quy định tiêu chuẩn và có giá thành cũng rất cao. Ví dụ như máy chụp cắt lớp, máy siêu âm, máy X quang, ôtô cứu thương đều có giá mấy chục nghìn USD.
Hoà với nhịp độ phát triển kinh tế của đất nước và trên thế giới, thì yêu cầu của nhiều người dân ngày càng cao về chất lượng khám, chữa bệnh. Vì vậy các mặt hàng thết bị y tế cũng phát triển kịp đáp ứng các nhu cầu của thời đại, ngày càng nhiều sản phẩm y tế ra đời tăng về số lượng, cao về chất lượng. Tất cả các sản phẩm đó sự kết hợp của những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến như: máy theo dõi bệnh nhân, máy phân tích máu, máy tạo oxi…
5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu hàng hoá của công ty cổ phần thiết bị y tế Mendinsco.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu trang thiết bị y tế của công ty Mendinsco là liên quan đến nhiều quốc gia, nhiều lĩnh vực trong thương mại quốc tế. Do đó, những thay đổi trong cơ chế, chính sách, pháp luật của các quốc gia có liên quan và luật pháp quốc tế,... đều tác động mạnh tới hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của Medinsco. Vì vậy để hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty diễn ra một cách thuận lợi thì các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh.
5.1. Nhân tố về chính sách, luật pháp trong nước và quốc tế.
Trong kinh doanh quốc tế ,các hoạt động xuất nhập khẩu là một hoạt động đa dạng và phức tạp, nó phải chịu sự chi phối của nhiều nguồn luật khác nhau: luật quốc tế, luật nước nhập khẩu, luật nước xuất khẩu, luật của nước thứ ba,…. Hệ thống luật pháp này tạo hành lang bảo vệ quyền lợi của các bên khi tham gia vào thương mại quốc tế. Và để hoạt động một cách có hiệu quả, đương nhiên các doanh nghiệp nhập khẩu cần nắm vững được hệ thống luật pháp, phong tục tập quán trong nước cũng như quốc tế và cả luật pháp của nước có liên quan.
5.2. Sự thay đổi của thị trường trong nước và nước ngoài.
Chúng ta biết rằng cung cầu là yếu tố quan trọng bậc nhất đối với các nhà kinh doanh. Sự thay đổi cung - cầu trên thị trường ảnh hưởng trực tiếp tới khối lượng kinh doanh của doanh nghiệp. Việc làm của các doanh nghiệp là xác định được lượng cung và cầu hiện tại, đồng thời cần phải dự báo được những xu hướng thay đổi của nó trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Với các doanh nghiệp nhập khẩu, việc làm này không chỉ dừng lại ở thị trường nội địa mà phải trên các thị trường khác và cả thị trường quốc tế. Đặc biệt với các doanh nghiệp vừa nhập khẩu thành phẩm vừa nhập khẩu bán thành phẩm và nguyên liệu như Công ty XNK và kỹ thuật bao bì thì hoạt động của họ còn phải chịu chi phối của nền sản xuất và từng thời kỳ phát triển của đất nước.
5.3 Chính sách quản lý vĩ mô và quan hệ kinh tế quốc tế của Nhà nước.
Ngoài hệ thống luật pháp, tuỳ từng thời kỳ phát triển của đất nước mà chính phủ ban hành các chính sách vĩ mô quản lí hoạt động nhập khẩu. Các chính sách mà các chính phủ thường đưa ra và tác động trực tiếp tới hoạt động nhập khẩu là việc dựng nên các hàng rào nhằm bảo hộ nền sản xuất còn yếu sức cạnh tranh trong nước. Các công cụ mà thường sử dụng là công cụ thuế quan và công cụ phi thuế quan (hạn nghạch, giấy phép nhập khẩu, biện pháp quản lí ngoại tệ và các tiêu chuẩn địa phương).
a/ Chính sách tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái có tác động rất lớn tới hoạt động nhập khẩu vì nó là cơ sở để so sánh giá cả của hàng hoá trong nước với thế giới, đồng thời phục vụ cho sự vận động của tiền tệ và hàng hoá giữa các quốc gia, các doanh nghiệp nhập khẩu theo dõi và căn cứ vào tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ và ngoại tệ để đẩy mạnh hay hạn chế hoạt động của mình. Khi đồng nội tệ bị mất giá thì hoạt động nhập khẩu là không có lợi và so với trước doanh nghiệp phải trả nhiều tiền hơn cho một đơn vị hàng hoá và ngược lại khi đồng nội tệ tăng giá thì hoạt động nhập khẩu là có lợi và so với trước doanh nghiệp phải trả ít tiền hơn cho một đơn vị hàng hoá. Sự điều tiết tỷ giá của Nhà nước: cố định, thả nổi, hay thả nổi có quản lý vì thế có tác động rất mạnh tới hoạt động của doanh nghiệp.
b/ Quan hệ kinh tế quốc tế.
Các quan hệ này có tác động tương hỗ tới hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Thông thường một doanh nghiệp nhập khẩu sẽ thấy thuận lợi hơn trong suốt quá trình giao dịch nếu đối tác là một nước láng giềng, trong cùng một khu vực hay cùng một khối. Họ cũng cảm thấy dễ chịu hơn khi các chính phủ dành cho nhau quy chế đặc biệt (quy chế tối huệ quốc, cho hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan,...) và đến lượt nó, nhập khẩu lại củng cố mối quan hệ ấy giữa các quốc gia.
5.4 Các nhân tố khác.
a/ Cơ sở hạ tầng.
Hoạt động nhập khẩu diễn ra có thuận lợi hay không phụ thuộc nhiều vào điều kiện cơ sở hạ tầng của một quốc gia. Hệ thống cơ sở hạ tầng gồm có: Hệ thống giao thông vận tải, sân bay, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc và hệ thống tài chính ngân hàng. Một nước có cơ sở hạ tầng phát triển là cơ sở để phát triển các hoạt động nhập khẩu bởi cùng với sự phát triển của cơ sở hạ tầng là việc giảm thiểu các chi phí trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình.
b/ Hoạt động xuất khẩu của quốc gia.
Tuy là một mặt đối lập, song xuất khẩu lại có tác động to lớn và trực tiếp tới hoạt động nhập khẩu. Đó là cỗ máy chính tạo nguồn ngoại tệ an toàn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu. Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu nguồn nguyên liệu nhằm nâng cao chất lượng nguồn tài nguyên thiên nhiên khai thác của nội địa phục vụ cho các đơn vị sản xuất thì điều này càng có ý nghĩa hơn. Xuất khẩu được đồng nghĩa với việc thị trường được mở rộng, tiêu thụ được nhiều hơn nên sản xuất phát triển và lại càng nhiều nguyên liệu hơn. Thực tế phát triển kinh tế của nhiều nước như: Nhật Bản, Singapore,... đã chứng minh rằng nhập khẩu chỉ phát triển khi xuất khẩu phát triển và ngược lại.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CUẢ CÔNG TY
CỔ PHẦN THIẾT BỊ Y TẾ MEDINSCO
I. Kết quả kinh doanh của công ty Medinsco.
1. Các chỉ tiêu kinh doanh của công ty Medinsco
Để biết về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, chúng ta đi tìm hiểu và phân tích một số chỉ tiêu của công ty trong năm 2004 đến 2006.
Bảng 1: Kết quả kinh doanh của công ty Medinsco giai đoạn 2004 - 2006
ĐVT : triệu đồng
Chỉ tiêu
TH năm 2004
TH năm 2005
TH năm 2006
Tỷ lệ % 06/05
I. Giá trị (doanh thu)
76.202
84.000
179.729
214
1. kinh doanh sản phẩm chính:
72.414
80.200
175.297
218
_Máy, thiết bị y tế
42.314
43.243
96.745
_Dụng cụ y tế
15.265
17.576
34.256
_Hoá chất và vật tư
14.835
19.381
44.296
2. Phí hàng uỷ thác
0.416
0.8
1.153
144
3. Trị giá phí dịch vụ
3.372
3.000
3.279
109
II. Gía trị hàng nhập khẩu
52.800
62.500
144.800
153
III. Lợi nhuận trước thuế
416
1.390
2.465
177
IV. Thuế TNDN
116
380
769
V. Lợi nhuận sau thuế
300
1.010
1.696
122
(Nguồn: Phòng kinh doanh –Công ty cổ phần thiết bị y tế Medinsco).
Qua bảng báo cáo kết quả kinh doanh của công ty trong các năm vừa qua cho thấy doanh thu, giá trị hàng nhập khẩu và lợi nhuận của Công ty liên tục tăng theo từng năm. Nă._.m 2004 lợi nhuận sau thuế của công ty đạt 300 triệu đồng do năm 2004 Medinsco được chuyển đổi thành công ty cổ phần nên bước đầu có nhiều bỡ ngỡ chưa kịp thích ứng với môi trường mới và chính sách của công ty về giảm giá thành của một số mặt hàng trong kinh doanh, vì vậy trong 2004 lợi nhuận sau thuế của công ty đạt được không đáng kể. Nhưng đến năm 2005 Medinsco đã chuyển biến, hoà nhập với môi trường cạnh tranh mới lợi nhuận sau thuế công ty đạt là 1010 triệu đồng tăng 710 triệu đồng so với năm 2004. Đến năm 2006 doanh thu tăng gấp 214% so năm 2005, lợi nhuận sau thuế của Công ty tăng lên là 1696 triệu đồng tức tăng 686 triệu đồng so với năm 2005. Sự phát triển vượt bậc của công ty là nỗ lực, đoàn kết của toàn cán bộ công nhân viên cũng như sự tín nhiệm của các bạn hàng của Medinsco. Kết quả cho thấy Công ty đã hoạt động kinh doanh hết sức hiệu quả và phát triển ổn định.
2. Các sản phẩm chủ yếu của công ty Medinsco:
Là công ty chuyên kinh doanh nhập khẩu với nhiều loại sản phẩm khác nhau, có số lượng lớn về trang thiết bị y tế. Nhưng có thể chia các sản phẩm đó thành 3 nhóm sản phẩm nhập khẩu chủ yếu của công ty như sau:
Máy,thiết bị: Máy soi, bàn mổ, giường mổ, các thiết bị chuẩn đoán hình ảnh, ô tô cứu thương và các loịa máy móc phục vụ y tế…
Dụng cụ, phim: Các dụng cụ phẫu thuật: dao mổ, kéo,kẹp, bơm kim tiêm, hộp đựng dụng cụ y tế và các sản phẩm chỉ dùng một lần…
Hoá chất và vật tư y tế: Hoá chất xét nghiệm, sinh phẩm, test xét nghiệm, hoá chất phòng chống dịch…
Bảng 2. Nhóm sản phẩm kinh doanh chủ yếu của công ty Medinsco
ĐVT : triệu đồng
Nhóm sản phẩm
2004
2005
2006
Máy, thiết bị
42.314
43.243
96.745
Dụng cụ, phim
15.265
16.576
34.256
Hoá chất
14.835
20.381
44.296
(Nguồn: Phòng kinh doanh –Công ty cổ phần thiết bị y tế Medinsco).
Có thể thấy rằng trong những năm 2004 – năm 2005 các nhóm mặt hàng về máy, thiết bị y tế và dụng cụ, phim tăng ổn định do nhóm hàng này có giá trị lớn, sử dụng lâu dài được các đơn vị đặt mua nên tốc độ tiêu thụ chậm, nhưng về mặt hàng hoá chất ngày càng tăng cao, từ năm 2004 đến năm 2005 tăng 5.546 tỷ đồng tuơng đương với 37.4% do phát hiện một số bệnh dịch mới: lở mồm, long móng ở trâu bò, lao phổi….Tính đến năm 2006 tất cả các nhóm hàng đều tăng mạnh. Cụ thể về các sản phẩm máy, thiết bị từ năm 2005 - năm 2006 tăng 53.502 tỷ đồng tức tăng 124%. Dụng cụ, phim tăng 17.68 tỷ đồng tức tăng 107%. Hoá chất tăng 23.915 tỷ đồng tức tăng 117%. Sở dĩ có sự tăng mạnh đó do đươc sự quan tâm của nhà nước cho nghành y tế trong việc nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh của mọi người dân và phù hợp với nhu cầu hội nhập. Bên cạnh đó là một số đại dịch lớn ngày một bùng phát khó kiểm soát như: Cúm gà, Sarts….
II. Tình hình kinh doanh nhập khẩu hàng hoá của công ty Medinsco
Hoạt động nhập khẩu của Công ty Medinsco trong những năm gần đây đã có những bước phát triển vượt bậc, hiệu quả góp phần giúp Công ty đứng vững và có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Sở dĩ có những kết quả như vậy, do mặt hàng thiết bị y tế của nước ta chưa sản xuất và phát triển được nhiều, bên cạnh đó công ty Medinsco trước kia là từ công ty thiết bị y tế TW1 của Bộ Y Tế nên có quan hệ mật thiết với các đơn vị y tế. Với những điểm mạnh trên thì Medinsco luôn đứng vững được trong nền kinh tế thị trường nhiều biến đổi và không bị tụt hậu so với các đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực trang thiết bị y tế. Sau đây kết qủa kinh doanh nhập khẩu hàng hoá của công ty.
1. Kết quả kinh doanh hàng nhập khẩu
Là công ty chuyên nhập khẩu các mặt hàng về trang thiết bị y tế bao gồm máy móc, thiết bị, dụng cụ, hoá chất y tế. Trong những năm qua hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu cuả Medinsco phát triển khá mạnh và có kết quả khả quan..Cụ thể là:
Bảng 3: Doanh thu hàng nhập khẩu từ năm 2003 – 2006
ĐVT: Triệu đồng
Năm
Doanh thu hàng nhập khẩu
2003
2004
2005
2006
57279
76171
75649
107564
(Nguồn: Phòng kinh doanh –Công ty cổ phần thiết bị y tế Medinsco).
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy doanh thu của công ty từ năm 2003 – 2006 tăng đều qua các năm với tốc độ trong khoảng 13% đến 19,5 %, chỉ riêng năm 2005 giảm không đáng kể 0.79% so với năm 2004. Qua đó phản ánh nghành y tế nước ta ngày phát triển nhưng đến năm 2006 doanh thu về mặt hàng y tế của công ty tăng nhanh, do nhu cầu khám chữa bệnh của người dân và đổi mới các thiết bị y tế lạc hậu, nhiều mạng lưới y tế được mở rộng trên khắp cả nước. Thể hiện rõ trong việc ngân sách của nhà nước trong nghành y tế ngày một tăng, dẫn đến giá trị hàng nhập khẩu của công ty cũng thay đổi trong những năm gần đây.
Bảng 4: Gía trị hàng nhập khẩu của Công ty cổ phần thiết bị y tế Medinsco
ĐVT: triệu đồng
(Nguồn: Phòng kinh doanh –Công ty cổ phần thiết bị y tế Medinsco).
Giá trị hàng nhập khẩu trong các năm 2003 đến năm 2006 liên tục biến đổi không đều. Do mặt hàng thiết bị y tế có giá trị lớn và khác nhau theo từng nhóm mặt hàng. Đối với những nhóm mặt hàng máy móc thiết bị thì có giá trị lớn, sử dụng lâu dài thường từ vài trăm triệu trở lên như Máy siêu âm màu, Máy thở, Máy phân tích máu…Cho nên những năm nào công ty mà bán được nhiều máy móc thiết bị thì năm đó sẽ cao. Còn đối với những mặt hàng dụng cụ y tế , hoá chất thường có giá trị không cao so với máy móc, thiết bị nên nó chiếm tỷ lệ giá trị hàng nhập khẩu thấp. Cụ thể năm 2004 giảm 34.14% so với năm 2003, năm 2005 tăng 4.3% so với năm 2004, năm 2006 tăng 42.5% so với năm 2005. Tuy vậy việc tăng hay giảm giá trị hàng nhập khẩu của công ty không phản ánh được tình hình kinh doanh. Vì trong năm 2003 đến 2005 giá trị hàng nhập khẩu giảm nhưng nhìn vào kết quả kinh doanh của công ty vẫn tăng lên.
Để hiểu rõ tình hình hoạt động nhập khẩu của Công ty Medinsco chúng ta đi nghiên cứu, phân tích hoạt động nhập khẩu của Công ty hình thức nhập khẩu, những mặt hàng nhập khẩu, các thị trường nhập khẩu chính và các vấn đề liên quan đến việc mặt hàng nhập khẩu của công ty.
2. Hình thức nhập khẩu.
Trong các hoạt động nhập khẩu của công ty thì nhập khẩu hàng uỷ thác chiếm vai trò hết sức quan trọng và chiếm lợi nhuận cao trong doanh thu của Medinsco, do Medinsco là doanh nghiệp có kinh nghiệm kinh doanh về trang thiết bị y tế lâu năm và độc quyền của một số hãng sản xuất thiết bị y tế lớn trên thế giới. Ví dụ như mặt hàng phim X-Quang của hãng AFGA, máy và thiết bị y tế của hãng ITO …Công ty đã nhập khẩu uỷ thác cho các chương trình viện trợ của các tổ chức quốc tế, nhiều đơn vị y tế trên cả nước như các bệnh viên, trường đại học y và các khách hàng có nhu cầu….
Bảng 5: Giá trị hàng nhập khẩu uỷ thác
ĐVT: Triệu đồng
Năm
Giá trị nhập khẩu uỷ thác
2003
2004
2005
2006
16300
18590
27001
27125
(Nguồn: Phòng kinh doanh –Công ty cổ phần thiết bị y tế Medinsco).
Nhận xét: Qua biểu đồ nhận thấy giá tri hàng nhập khẩu uỷ thác qua từng năm thay đổi không đều đặn và tăng dần theo từng năm, do trong những năm gần đây xuất hiện nhiều bệnh dịch nên các đơn vị y tế các địa phương tăng cường chú trọng. Thể hiện rõ nhất trên biểu đồ đó là từ năm 2004 cho đến năm 2005 tăng 45,23%, trong khi đó trong những năm 2003 – 2004 và 2005 – 2006 tăng nhẹ trong khoảng từ 5,12% đến 14%.
Sở dĩ như vậy vì giá trị uỷ thác hàng nhập khẩu của công ty theo từng nhóm hàng là khác nhau và sự ưu tiên của chính phủ về mặt hàng này theo từng thời điểm hoặc do các chính sách của nhà nước . Về mặt hàng thuộc nhóm máy móc thiết bị y tế có giá trị lớn do đó năm nào công ty mà bán được nhiều máy móc thiết bị thì năm có doanh thu tương đối cao.
3. Thị trường của công ty Medinsco
- Thị trường nhập khẩu: Thị trường nhập khẩu chủ yếu là các hãng trang thiết bị y tế và các Tổ chức viện trợ quốc tế như UNICEF, JICA …Bên cạnh đó để có nguồn hàng đáp ứng thêm nhu cầu về các mặt hàng trang thiết bị y tế trong nước công ty đã không ngừng nghiên cứu mở rộng thị trường cung cấp của mình. Đồng thời công ty duy trì các mối quan hệ làm ăn lâu dài với các hãng nổi tiếng trên khắp Thế giới về trang thiết bị y tế như: Hãng AFGA ( là hãng cung cấp sản phẩm phim X quang và máy X quang ), hãng TOYOTA ( cung cấp các loại ô tô cứu thương)…
Sau đây là trị giá một số sản phẩm mà công ty nhập khẩu từ các hãng trong giai đoạn năm 2004_năm 2006 ( trị giá trên 1 tỷ đồng ).
Bảng 6. Trị giá nhập khẩu của từng hãng
ĐVT : tỷ đồng
Năm TH
Tên sản phẩm
Trị giá
Hãng cung cấp
2004
Máy ghi điện não
1.25
Nippon
Máy siêu âm màu
1
Siemen
Máy X Quang, Phim X Quang
1.5
AFGA
Kính hiển vi
1.45
Nippon
Hoá chất chống dịch
2.5
Bochemie
Sinh phẩm, vacxin
3.4
Organon
Ôtô cứu thương
2.8
Marubeni
2005
Máy thở
2.3
Dynamic
Máy siêu âm màu
1.9
Siemen
Máy X Quang, Phim X Quang
2.1
AFGA
Kính hiển vi
2.4
Nippon
Hoá chất chống dịch
2.6
Sumitomo
Sinh phẩm, vacxin
1.84
Organon
Ôtô cứu thương
1.5
Toyota
Máy phân tích máu
1.7
SYSMEX ( singapore )
2006
Máy thở
1.5
Dynamic
Maý theo dõi bệnh nhân
2.3
Medicore ( Hàn quốc )
Máy X Quang, Phim X Quang
1.8
AFGA
Kính hiển vi
1
Nippon
Hoá chất chống dịch
1.9
Bochemie
Sinh phẩm, vacxin
1.6
Organon
Ôtô cứu thương
2.3
Toyota
Máy phân tích máu
1.65
SYSMEX ( singapore )
Maý và thiết bị y tế
1.4
ITO
(Nguồn: Phòng kinh doanh –Công ty cổ phần thiết bị y tế Medinsco).
Để có được những nguồn hàng tốt duy trì khả năng cung cấp, Medinsco luôn chú trọng sự uy tín và tìm hiểu mở rộng quan hệ làm ăn với các hãng sản xuất y tế trên khắp Thế giới. Sở dĩ có mối quan hệ này do những quan hệ trước kia Medinsco là Công ty thiết bị y tế TW1 được sự chỉ đạo, giới thiệu của Chính phủ hay các Tổ chức viện trợ… nhằm tái thiết lĩnh vực y tế sau thời kỳ chiến tranh và phát triển chất lượng cuộc sống nhân dân với nhiều chương trình dự án lớn như Chuơng trình phòng chống AIDS, Chương trình viện trợ phòng chống thiên tai, dự án VIE92/P05 và VIE94/P07… Những nguồn cung cấp này được giới thiệu bởi các bạn hàng, thông qua các cuộc hội thảo, các hiệp định của Chính phủ Việt Nam với các Tổ chức viện trợ trên Thế giới. Ngoài ra các nguồn hàng này công ty được chính các hãng sản xuất nổi tiếng trực tiếp đề nghị lập quan hệ làm ăn lâu dài cùng có lợi như công ty làm đại lý độc quyền cho hãng AFGA…
Với những nguồn hàng dồi dào thuận lợi như vậy giúp Medinsco luôn sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng nhanh chóng, đúng hẹn nhờ đó uy tín , thị trường công ty ngày càng mở rộng thu được kết quả cao trong kinh doanh hàng nhập khẩu.
4. Thị trường bán hàng nhập khẩu
Bên cạnh những thuận lợi về các nguồn hàng cung cấp của mình thì mỗi doanh nghiệp việc tìm đầu ra cho các mặt hàng nhập khẩu hết sức quan trọng. Nó quyết định hiệu quả kinh doanh, đời sống cán bộ công nhân viên trong công ty.
Với việc đã tạo dựng được lòng tin, uy tín của Medinsco là sự lưạ chọn ưu tiên của các đơn vị cần mua các trang thiết bị y tế: Các bệnh viện trung ương, địa phương, Trường đại học Y, các chương trình phòng chống dịch bệnh quốc gia…., các cơ sở y tế và đơn vị có nhu cầu.
Bảng 7. Một số sản phẩm chính của doanh nghiệp thực hiện cho các đơn vị có trị giá trên 0.5 tỷ đồng trong năm 2004 đến năm 2006
ĐVT: tỷ đồng
Tên thiết bị
Trị giá(Tỷ đồng)
Năm TH
Tên cơ quan ký hợp đồng
Thiết bị y tế chodự trữ quốc gia
1.7
2004
Tổng công ty TBYT Việt nam
Máy đông khô
5.2
2005
Viện vacxin Nha trang
Thiết bị phòng thí nghiệm
1.95
2006
Viện vệ sinh dịch tễ
Máy ghi điện não
0.5
2005
Đại học y Thái Bình
Thiết bị phòng thí nghiệm
2.6
2004
Đại học y Hà Nội
Máy C T
.8
2004
Sở y tế Hải Dương
Thiết bị y tế
0.66
2005
Sở y tế Bắc Cạn
Máy X-Quang
1.7
2006
Bệnh viện điều dưỡng
Giường chức năng
1.9
2005
Bệnh viện Hữu nghị
Dao mổ điện
3.4
2004
Cục quân y
Thiết bị phòng thí nghiệm
3.8
2005
TTNC kiểm nghiệm dươcquân đội
Thiết bị y tế
3.3
2004
Chương trình phòng chốngSARS
(Nguồn: Phòng kinh doanh –Công ty cổ phần thiết bị y tế Medinsco).
Đạt những hợp đồng trên bước vào thời kỳ hội nhập công ty nhanh chóng đổi mới các phuơng thức kinh doanh sáng tạo để phù hợp nền kinh tế thị trường, Medinsco đã chú trọng nghiên cứu thị trường và tâm lý khách hàng. Nhờ các mạng lưới đại lý bán hàng nên những thông tin về thị trường, nhu cầu của các đơn vị và các đối thủ cạnh tranh luôn được công ty chú ý tiếp thu đề ra các giải pháp chiến lược hữu hiệu. Cụ thể khi có một đơn hàng hay một yêu cầu của đơn vị mua hàng công ty xem xét giới thiệu về các tính năng, chất lượng, giá cả của từng mặt hàng để nguời mua có thể tham khảo đưa ra quyết định. Với những khách mua hàng công ty sẵn sàng hướng dẫn chi tiết cách sử dụng, có chế độ lắp đặt, bảo hành, bảo dưỡng cũng như trách nhiệm mặt hàng bán ra của công ty. Chính sự nhiệt tình, tính trách nhiệm của mình thì hầu hết các đơn vị mua hàng hài lòng, có quan hệ lâu dài trở thành khách hàng thường xuyên của Medinsco.
III. Đánh giá hoạt động nhập khẩu thiết bị y tế của công ty Medinsco
1: Những thuận lợi và khó khăn trong kinh doanh nhập khẩu thiết bị y tế của công ty Medinsco khi Việt Nam gia nhập WTO:
VIệt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế Giới ( WTO ). Như chúng ta biết WTO là một tổ chức gồm có 150 thành viên chiếm trên 85% tổng thương mại hàng hoá trên toàn cầu, các thành viên khi gia nhập WTO phải theo một số luật định chung của tổ chức này. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và công ty Medinsco nói riêng sẽ có những thuận lợi, khó khăn gì.
1.1 Thuận lợi
- Thị trường nhập khẩu được mở rộng, giảm thuế:
Gia nhập WTO, ngoài việc được sự đối xử bình đẳng trong quan hệ thương mại như tất cả các thành viên khác của WTO, Các doanh nghiệp Việt Nam cũng được hưởng những ưu đãi thương mại cho một nước đang phát triển, ở trình độ thấp. Nhờ thành quả đàm phán cắt giảm thuế quan và loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan trong lịch sử 50 năm qua của WTO đến nay, doanh nghiệp Việt Nam cũng như Medinsco sẽ được hưởng lợi từ việc nhập khẩu các mặt hàng thiết bị y tế ở thị trường các nước thành viên của WTO với mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu thấp. Nếu không là thành viên WTO, chắc chắn doanh nghiệp Việt Nam không thể nhập khẩu nhiều hàng hoá với mức thuế ưu đãi từ các nước đang là thành viên WTO. Đây là một trong những quy chế đãi ngộ tối huệ quốc với các nước thành viên WTO.
- Bình đẳng trong giải quyết tranh chấp thương mại:
Các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng các quy định chỉ dành cho thành viên của WTO, được tiếp cận bình đẳng vào các thị trường của 150 thành viên WTO mà không bị chèn ép, đối xử không bình đẳng như khi chưa là thành viên WTO. Các doanh nghiệp Việt Nam thông qua các hiệp hội của mình hoặc thông qua cơ quan quản lý nhà nước về thương mại (Cục quản lý cạnh tranh...) để kiến nghị Chính phủ áp dụng các biện pháp bảo vệ sản xuất trong nước. Chẳng hạn, với tư cách là thành viên WTO, doanh nghiệp có thể kiến nghị Chính phủ tiến hành điều tra về mức gây phương hại của hàng nhập khẩu để thực hiện áp dụng thuế đối kháng hoặc chống bán phá giá theo quy định của Hiệp định về chống bán phá gía và thuế đối kháng; thực hiện điều tra để áp dụng thuế chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam; áp dụng các biện pháp tự vệ trong trường hợp nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam quá mức, gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước...
Doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận, sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO để giải quyết tranh chấp trong thương mại, tránh bị các nước lớn chèn ép khi xảy ra tranh chấp thương mại quốc tế. . Ví dụ, nếu trước kia các quy định của GATT cùng nhiều hạn chế với đặc trưng là thiếu cơ chế đảm bảo cho các nghị quyết được thực hiện ở WTO, được xem như một "Liên hợp quốc" trong lĩnh vực thương mại quốc tế, mà trong đó mỗi quốc gia thành viên đều có một phiếu bầu, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đó đảm bảo mục tiêu công bằng hơn, thống nhất và chắc chắn hơn; đảm bảo một quy trình, thủ tục và thời gian biểu chặt chẽ cho việc giải quyết tranh chấp; đảm bảo có được kết luận đúng cho tranh chấp.
- Hưởng lợi từ các chính sách trong nước:
Gia nhập WTO, tham gia vào một "sân chơi' chung trên phạm vi toàn cầu, WTO mang lại một cơ hội toàn diện về thị trường hàng hoá, thị trường dịch vụ, thị trường vốn và thị trường lao động. Với một không gian kinh tế mới rộng lớn hơn rất nhiều, với hệ thống cơ chế chính sách, luật pháp minh bạch, cú thể tiên liệu được, thông qua sự phân công lao động toàn cầu, việc gia nhập WTO hay nói rộng hơn là tham gia vào qui trình toàn cầu hoá sẽ giúp Việt Nam thúc đẩy các cải cách kinh tế trong nước, làm sâu sắc hơn các thành quả của cải cách.
Nhờ việc Việt Nam tham gia vào WTO, thực thi chính sách mở cửa thị trường, tự do hoá thương mại, nền kinh tế trong nước sẽ phải cải cách, mở cửa, tái cơ cấu. Nền hành chính sẽ được cải cách nhằm đáp ứng các yêu cầu công khai, minh bạch, dễ dự đoán của "luật chơi quốc tế", bộ máy quản lý hành chính nhà nước sẽ trở nên gần hơn, trở thành một nền hành chính phục vụ dân, phục vụ doanh nghiệp, làm cho môi trường kinh doanh thông thoáng, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp, đồng thời giảm thiểu các chi phí tốn kém của doanh nghiệp trong quá trình gia nhập, tiếp cận và tham gia thị trường.
Một khi các cam kết khi gia nhập WTO được thực hiện, một mặt quá trình mở cửa, tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại, đầu tư minh bạch hoá chính sách sẽ dần đáp ứng yêu cầu của luật chơi quốc tế, mặt khác tạo điều kiện cho chúng ta bổ sung những nguồn lực mà trong nước còn thiếu, còn yếu như vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý. Các nhà sản xuất, kinh doanh trong nước sẽ được đặt trong môi trường cạnh tranh, năng động hơn; tiếp cận với công nghệ, trình độ , chất lượng quốc tế.
1.2 khó khăn:
Việc gia nhập WTO không chỉ đem lại thuận lợi, cơ hội cho công ty Medinsco mà cũn đưa lại những thách thức, khó khăn rất lớn đối với các doanh nghiệp họat động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Những cơ hội, những điều kiện có thể đem lại thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam thỡ ngược lại cũng cú thể đem lại những cơ hội, điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài, từ đó tạo ra những khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
- Khó khăn về thị trường trong nước.
Từ khi nhà nước thực hiện chính sách cho phép mọi thành phần kinh tế tham gia vào các hoạt động XNK thì Medinsco mất đi vị trí độc quyền về nhập khẩu toàn bộ vật tư thiết bị trong lĩnh vực thiết bị y tế. Trên thị trường bấy giờ có nhiều doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân cùng tham gia kinh doanh. Hầu hết các Bộ, ngành và các cơ quan khác đều thành lập bộ phận xuất nhập khẩu trong Bộ - Ngành đó để thuận lợi trong công viêc chức năng của mình, do ở cùng trong ngành nên họ am hiểu tình hình tốt hơn, được ưu đãi hơn về nhập khẩu chủng loại của nghành đó. Như vậy Medinsco gặp nhiều sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường với các doanh nghiệp khác. Đây là một khó khăn lớn đối với Công ty.
- Khó khăn về thị trường nước ngoài
Khi gia nhập WTO sẽ đòi hỏi khắt khe hơn những tiêu chuẩn, quy trình nhập khẩu hàng hoá do luật đinh của Tổ chức WTO và các nước sở xuất nhập khẩu
Khó khăn trong việc tạo dựng mở rộng các bạn hàng, thị trường mới , vì chưa thể hiểu kỹ về họ như hiểu về bạn hàng truyền thống được, càng chưa hiểu về phong tục, tập quán, thông lệ buôn bán, luật pháp của nước họ,...Thậm chí cả ngôn ngữ của họ chúng ta cũng chưa thể thông thạo. Trước đây quan hệ thương mại quố tế dựa trên cơ sở nghị định được ký giữa hai Chính phủ nhưng nay theo cơ chế thị trường đã thay đổi, đòi hỏi việc mua bán kinh doanh của Medinsco phải dựa vào quan điểm hai bên cùng có lợi. Muốn thực hiện được nguyên tắc này Medinsco phải nắm kỹ về đối tác từ khi ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế mới không bị tổn thất. Hiện nay, Công ty có quan hệ buôn bán với nhiều hãng của các quốc gia trên thế giới. Đây chính là một khó khăn cho Công ty khi thực hiện công việc của mình.
- Chính sách của Nhà nước gây nên.
Một số quy định của Chính phủ chưa thực sự khuyến khích các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, không tạo được động lực cho các doanh nghiệp này phát triển.
Các Bộ, ngành có liên quan chưa có sự thống nhất với nhau trong việc chỉ đạo các hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị y tế, chưa có chính sách ưu đãi cho nhập khẩu vật tư trong nước chưa sản xuất được, nhất là trong lĩnh vực sản xuất thiết bị y tế.
Chủ trương hạn chế nhập khẩu đã gây nên nhiều khó khăn cho một Công ty chuyên làm công tác nhập khẩu như Medinsco. Việc mở rộng đối tượng tham gia kinh doanh xuất - nhập khẩu làm cho Medinsco phải chịu sự cạnh tranh lớn trên thị trường. Những quy định về vay vốn với ngân hàng có nhiều vướng mắc khiến cho Medinsco không tìm được đủ vốn để nhập khẩu tự doanh. Khi sử dụng vốn Công ty, thuê mua tài chính thì lãi suất lại quá cao khiến Công ty lúng túng trong việc thực hiện hoạt động liên doanh, liên kết đầu tư. Công ty không được phép kinh doanh sử dụng tiền mặt là ngoại tệ các nước cho nên không thu hút được vốn cho hoạt động nhập khẩu thiết bị y tế.
Để khắc phục những hạn chế này trong thời gian tới Medinsco cần nhìn thẳng vào sự thật, mạnh dạn đổi mới toàn diện đúng theo quan điển đổi mới của Đảng và Nhà nước, đồng thời cần phải triệt để tận dụng những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh đồng thời đề ra những giải pháp hợp lý để tháo gỡ từng khó khăn nêu trên.
2. Đánh giá hoạt động nhập khẩu của Công ty Medinsco
2.1. Điểm mạnh
Trải qua nhiều năm phấn đấu và phát triển Công ty Medinsco đã có lớn những kết quả đạt được trong thời gian qua là: Góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho các đơn vị y tế trên cả nước, hiện đại hoá các trang thiết bị y tế cho các bệnh viện lớn có nhu cầu như những máy móc thiết bị y tế hiện đại, hoá chất phòng dịch…với chất lượng đảm bảo và đầy đủ nhất. Bên cạnh cung cấp các trang thiết bị y tế thì công ty còn cung cấp các dụng cụ, thiết bị hỗ trợ công tác giảng dạy, tập huấn cho cán bộ nghành y tế trên toàn cả nước. Góp phần thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước và Bộ Y Tế về các chương trình phòng chống quốc gia, chương trình viện trợ nhân đạo của các Tổ chức y tế trên thế giới như chương trình phòng chống SARTS, chương trình AIDS…
Trong cơ chế thị trường đổi mới kinh doanh một mặt hàng trong cơ chế thị trường là khá nguy hiểm và khó có sức cạnh tranh trên thị trường. Chính vì thế mà Công ty đã chuyển hướng sang kinh doanh tổng hợp nhưng vẫn dựa trên thế mạnh chủ yếu là nhập khẩu các mặt hàng truyền thống trong lĩnh vực thiết bị y tế . Nhận thấy các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩch vực y tế trong nước khi tham gia chức năng nhập khẩu còn thiếu kinh nghiệm, kiến thức và nhất là thông tin nên Medinsco đã tham gia các hoạt động tư vấn, thẩm định giá cả, soạn thảo tài liệu và tổ chức đào tạo tại chỗ cho các đơn vị y tế trong nước.
Với đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ, am hiểu nghiệp vụ và pháp luật: Ngay sau khi chuyển sang công ty cổ phần hoạt động theo cơ chế mới phù hợp cơ chế thị trường, Công ty đã thực hiện lại việc tổ chức bộ máy quản lý và đào tạo lao động cho phù hợp. Tính đến nay, Medinssco đã có một đội ngũ công nhân viên trình độ cao với trên 80% cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng và nhân viên Công ty thông thạo ngoại ngữ, vi tính, am hiểu các nghiệp vụ xuất - nhập khẩu. Do đó, việc giao dịch với bạn hàng ngoài nước của Công ty được thuận tiện dễ dàng. Với những bạn hàng truyền thống như các hãng y tế lớn ở Châu Âu, Mỹ , Nhật...cán bộ nghiệp vụ còn hiểu rõ về phong tục tập quán, văn hoá, pháp luật của những quốc gia đó.
Cho tới nay công ty có một số lượng khách lớn trên khắp đất nước đặc biệt là các tỉnh miền Bắc, với phương thức kinh doanh hiệu quả mà công ty luôn giữ vững được những số khách hàng này và trở thành khách hàn truyền thống của công ty. Vì thế công ty luôn có đơn đặt hàng đều đặn mà không cần phải xúc tiến quảng bá sản phẩm nhiều. Dẫn đến uy tín công ty ngày càng được nâng cao, đây là một ưu thế mạnh so với các doan nghiệp kinh doanh thiết bị y tế trong nước. Bên cạnh đó công ty còn nhận được nhiều đề nghị hợp tác là nhà cung cấp cho các hãng sản xuất y tế trên thế giới, do đó nguồn hàng công ty ngày càng đa dạng đáp ứng đủ thị trường có nhu cầu.
Để bán hàng có hiệu quả thì công ty phân phối mạng đại lý cửa hàng đóng ở nhiều nơI trong thành phố Hà Nội kinh doanh, đáp ứng các khách hàng. Thường xuyên báo cáo kết quả và phản ánh của bạn hàng lên công ty, tổ chức họp bàn phương thức bán hàng hợp lý. Vì thế mà công ty luôn theo sát nắm bắt diễn biến thị trường.
Về nội bộ Công ty, cán bộ công nhân viên đều đoàn kết giúp dỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Lãnh đạo Công ty và cán bộ nhân viên đều có sự đồng tâm hiệp lực với nhau để đạt mục tiêu là làm cho Medinsco không ngừng phát triển. Với ý thức, trách nhiệm là phải gắn lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể để phát triển lâu dài, bền vững. Công ty đã có chế độ khuyến khích vật chất, khen thưởng với cán bộ công nhân viên có thành tích đóng góp cho công ty. Điều này đã giúp người lao động càng thêm gắn bó với Medinsco.
Với quy mô cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, các phòng ban chức năng cụ thể, hỗ trợ nhau đã giúp Công ty đổi mới về cơ chế làm việc, giảm bớt các thủ tục phiền hà, đội ngũ cán bộ nghiệp vụ của Công ty không ngừng được năng cao trình độ chuyên môn của mình và được đào tạo chính quy từ các trường đại học lớn với các chuyên ngành kinh tế, thương mại, ngoại thương, có khả năng tiếp cận với trình độ quản lý tiên tiến và tiếp thu tốt các kinh nghiệm kinh doanh của các nước trên thế giới.
2.2. Điểm yếu.
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, Công ty Medinsco cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót của mình.
- Về tổ chức cán bộ: chưa đủ năng lực để ổn định và bố trí sắp xếp bộ máy hoạt động sao cho có hiệu quả. Cán bộ lãnh đạo tiếp thu kiến thức mới cũng như mức độ nhạy bén còn hạn chế chỉ dựa vào kinh nghiệm làm việc của thời kỳ bao cấp nên chưa có chiến lược về tổ chức cán bộ của Công ty. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo các phòng làm công tác xuất nhập khẩu khá lớn tuổi, thiếu nhạy bén trong cơ chế thị trường nhiều đổi mới, trình độ ngoaị ngữ chưa cao.
- Hoạt động Marketing chưa cao do đội ngũ cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm còn quá ít dẫn tới hoạt động xúc tiến bán hàng còn yếu
Thiếu hẳn đội ngũ cán bộ nhân viên quản lý giàu kinh nghiệm và đội ngũ nhân viên am hiểu nghiệp vụ, nhất là nghiệp vụ xuất nhập khẩu.
Việc nghiên cứu thị trường và những thông tin về giá cả, thị trường, khách hàng còn hạn chế do đó không nắm và theo kịp những biến động của thị trường dẫn tới các ứng xử trong kinh doanh còn cứng nhắc, thiếu sự linh động.
- Hình thức nhập khẩu không đa dạng, chủ yếu nhập khẩu uỷ thác và tự doanh, còn các hình thức khác chưa được phát huy nhiều, do đó nghiệp vụ kinh doanh của cán bộ không được củng cố và nâng cao.
- Thị trường: Tuy Công ty có tới 13 thị trường nhưng chủ yếu chỉ có một số thị trường là bạn hàng thường xuyên như ở Nhật, Mỹ và một số hãng sản xuất y tế nổi tiếng AFGA…, điều này hạn chế sự đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh và hạn chế sự lựa chọn của Công ty.
- Không chớp được thời cơ do thiếu thông tin và sự nhạy bén dẫn tới dự báo tình huống sai nên không chớp được thời cơ. Điều quan trọng hơn cả là trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh không thực hiện khoán sản phẩm, khoán chỉ tiêu doanh số cho các đơn vị phòng hay tới từng cán bộ nhân viên mà mới thực hiện khoán bằng cái gọi là phân định trách nhiệm để phấn đấu: đơn vị nào không thực hiện được cũng không bị phạt, đơn vị làm tốt khuyến khích không thoả đáng, một số cán bộ thiếu trách nhiệm, không hoàn thành cũng không bị xử lý, do đó không động viên được mọi người hoạt động một cách thực sự.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU THIẾT BỊ Y TẾ Ở CÔNG TY CỔ PHẦN THIẾT BỊ Y TẾ MEDINSCO
Sau hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc, tất cả các ngành các lĩnh vực đều phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là lĩnh vực trang thiết bị y tế, một ngành luôn có sự gắn bó mật thiết với sức khoẻ người dân và quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng đó trong những năm tới đây chính phủ sẽ đầu tư, phát triển nghành y tế là nhiệm vụ ưu tiên, quan trọng trong các chương trình quốc gia: Chương trình tiêm chung quốc gia, Chương trình phòng chống AIDS, Chương trình Lao,… gần đây có nhiều chương trình quốc gia quan trọng khác nhằm nâng cao sức khoẻ người dân. Bên cạnh các chương trình đó thì Chính phủ cũng quan tâm chú trọng tới từng bước hiện đại trang thiết bị y tế, vật chất mạng lưới y tế cơ sở. Để hoạt động kinh doanh của công ty có hiệu quả hơn nữa trong thời gian tới Mendinsco cần xác định rõ những phương hướng nhiệm vụ kinh doanh của mình trong thời gian tới. Qua đây Medinsco biết được trong tương lai mình cần đạt được những mục tiêu gì và làm thế nào để đạt được các mục tiêu đề ra.
I. Phương hướng, mục tiêu nhập khẩu của Công ty Medinsco trong thời gian tới.
- Là một Công ty kinh doanh nhập khẩu trang thiết bị y tế nên mục tiêu và phương hướng của Medinssco trong thời gian tới là thực hiện tốt hơn nữa việc nhập khẩu vật tư, thiết bị máy móc y tế phục vụ tốt cho nghành y tế của quốc gia. Do đó hoạt động kinh doanh nói chung và công tác nhập khẩu nói riêng của Công ty phải gắn liền với phương hướng và chiến lược phát triển của lĩnh vực thiết bị y tế - Bộ Y Tế. Có như vậy mới phát huy vai trò và hiệu quả kinh doanh của Công ty cổ phần thiết bị y tế Medinsco.
- Tranh thủ nhập khẩu các thiết bị y tế tiên tiến, hiện đại không gây nguy hại đến tính mạng con người, ô nhiễm môi trường và các công nghệ lạc hậu không đảm bảo kỹ thuật. Bên cạnh đó Medinsco cần kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh doanh gắn với cũng cố tăng cường và mở rộng sản xuất, hoàn thành đầy đủ các khoản nộp ngân sách nhà nước; tạo công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên công ty có thu nhập ổn định để ra sức cống hiến.
- Hoạt động kinh doanh tập trung khôi phục lại những mặt hàng, thị trường cũng như các khách hàng thường xuyên và tìm hiểu thêm các khách hàng mới, thị trường mới cho các mặt hàng truyền thống của Công ty. Bám sát các cơ sở sản xuất và cơ sở kinh doanh vật tư y tế trong nước để tăng cường khai thác vật tư nội địa. Bên cạnh đó mở rộng, đa dạng hoá các h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5637.doc