Mục lục
Danh mục bảng biểu
STT
Trang
Sơ đồ
Sơ đồ 1
Sơ đồ tổ chức Công ty KPMG Việt Nam
42
Sơ đồ 2
Sơ đồ tổ chức kế toán của Công ty KPMG
44
Sơ đồ 3
Sơ đồ Kiểm toán quy trình cho vay do KPMG thực hiện
98
Bảng biểu
Bảng 1
Sai phạm có thể xảy ra với Quy trình cho vay
26
Bảng 2
Kiểm soát nội bộ ảnh hưởng đến cơ sở dẫn liệu
34
Bảng 3,4,5
Tài liệu phân tích rủi ro quy trình cho vay của kiểm toán viên cho Ngân hàng AT
62 -64
Bảng 6
Tài liệu phân tích các lớp nghiệp vụ quan
112 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hoạt động kiểm toán quy trình cho vay trong các Ngân hàng Thương mại do Công ty TNHH KPMG quốc tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trọng và kiểm soát của kiểm toán viên cho Ngân hàng AT
67-71
Bảng 7
Phân tích quy trình cho vay - Ngân hàng AT
63
Bảng 8
Rà soát tín dụng một số khách hàng - Ngân hàng AT
73
Bảng 9
Bảng đối chiếu kiểm tra lãi thu
74
Bảng 10
Biểu phân tích tỷ suất lợi nhuận từ cho vay - Ngân hàng AT
77
Bảng 11
Giấy tờ làm việc - phân tích lợi nhuận cho vay - Ngân hàng AT
78
Bảng 12
Rà soát chi tiết hồ sơ tín dụng - Ngân hàng AT
80
Bảng 13
Tài liệu phân tích rủi ro chiến lược kinh doanh cho Ngân hàng GX
85
Bảng 14
Tài liệu phân tích các lớp nghiệp vụ trọng yếu và kiểm soát cho Ngân hàng GX
87
Bảng 15
Đánh giá tín dụng ban đầu cho khách hàng vay mới - Ngân hàng GX
89
Bảng 16
Chênh lệch giữa Sổ cái và Danh mục cho vay
91
Bảng 17
Biểu phân tích thu nhập từ lãi cho vay của Ngân hàng GX
92
Bảng 18
Khách hàng vay chọn để kiểm tra chi tiết
93
Bảng 19
Rà soát tín dụng cho công ty MK KEW
94
Lời mở đầu
Tiến trình hội nhập của nước ta trong gần 20 năm qua theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra sức sống cho nền kinh tế, mở ra những cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam. Một nhu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp là phải kiểm tra, kiểm soát các hoạt động, phục vụ yêu cầu quản lý, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, khách hàng, các cơ quan chức năng. Chính vì thế, nhu cầu kiểm toán để một bên thứ ba, độc lập khách quan, có kỹ năng nghiệp vụ, địa vị và trách nhiệm pháp lý kiểm tra và đưa ra kết luận về tình hình tài chính của doanh nghiệp được kiểm tra là tất yếu cùng với sự phát triển của xã hội.
Tại Việt Nam, những doanh nghiệp đầu tiên cần phải được kiểm toán là các ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp đều phải tuân theo những quy luật của nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển, không tránh khỏi những rủi ro. Các ngân hàng với loại hình kinh doanh đặc biệt, trong cơ chế thị trường lại càng gặp phải nhiều rủi ro hơn, bản thân các hoạt động kinh doanh ngân hàng dễ bị tổn thương khi có gian lận và sai sót. Có một nền tảng tài chính vững chắc do hệ thống ngân hàng đem lại là một điều kiện vô cùng thuận lợi cho hoạt động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ngược lại, sự bấp bênh của hệ thống ngân hàng sẽ gây nên những ảnh hưởng với tác hại rất lớn đến tất cả các ngành khác. Bên cạnh những thành tích đã đạt được trong thời gian qua, hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung còn có những biểu hiện yếu kém, sai sót. Để điều chỉnh tình hình này, công tác kiểm toán đối với các ngân hàng, nhằm hỗ trợ cho hệ thống kiểm soát nội bộ trong kiểm tra, đánh giá, xác nhận độc lập về các thông tin, đồng thời đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng, là một yêu cầu tất yếu.
Đó chính là lý do em chọn đề tài “Hoàn thiện hoạt động kiểm toán quy trình cho vay trong các Ngân hàng thương mại”, để hiểu sâu hơn về kiểm toán hoạt động cho vay các ngân hàng thương mại tại công ty TNHH KPMG hiện nay cũng như các giải pháp hoàn thiện hoạt động đó, góp phần quan trọng đảm bảo an toàn hiệu quả trong kinh doanh của các Ngân hàng thương mại. Phương pháp nghiên cứu của đề tài kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực tiễn kiểm toán các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đặc biệt là thực tế công tác kiểm toán do KPMG thực hiện. Tuy nhiên, do khuôn khổ có hạn, đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô, các anh chị kiểm toán viên, các bạn và tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này.
Đề tài đã được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thạc sĩ Nguyễn Hồng Thuý. Em xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới cô giáo.
Kết cấu đề tài: “Hoàn thiện hoạt động kiểm toán quy trình cho vay trong các Ngân hàng thương mại”
Lời mở đầu
Nội dung của đề tài được chia thành 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về kiểm toán quy trình cho vay trong kiểm toán tài chính đối với các ngân hàng thương mại
Chương II: Thực hiện kiểm toán quy trình cho vay trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty TNHH KPMG Việt Nam
Chương III: Bài học kinh nghiệm và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động kiểm toán quy trình cho vay của các ngân hàng thương mại tại công ty TNHH KPMG
Kết luận của đề tài
Chương 1 : những vấn đề lý luận chung về kiểm toán quy trình cho vay trong kiểm toán tài chính đối với các ngân hàng thương mại
I - Quy trình cho vay tại các ngân hàng thương mại với vấn đề kiểm toán
1. ý nghĩa của quy trình cho vay
1.1- Khái niệm về các ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là các trung gian tài chính mà mọi người quen thuộc nhất. Có thể nói, rất nhiều dịch vụ ngân hàng ngày nay đã được thực hiện lần đầu tiên ở các quốc gia cổ đại nơi thương mại nở rộ. Chúng gắn liền với hoạt động buôn bán của con người như một phần không thể thiếu và đã từng song hành suốt lịch sử của chúng ta cho đến tận ngày nay. Đến khoảng cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX cùng với sự mở rộng quy mô và phạm vi lưu thông hàng hóa, hệ thống ngân hàng cũng được phát triển và phân chia làm hai loại:
- Những ngân hàng được phép phát hành tiền gọi là những ngân hàng phát hành.
- Những ngân hàng không được phép phát hành tiền được gọi là những ngân hàng thương mại (ngân hàng kinh doanh).
Ngày nay, trong nền kinh tế của bất cứ quốc gia nào, chúng ta đều thấy không thể thiếu được sự tham gia của hệ thống ngân hàng, một kênh quan trọng thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ nhằm ổn định nền kinh tế. Xét riêng về ngân hàng thương mại, là các tổ chức “vì lợi nhuận”, chuyên trách về cho vay các doanh nghiệp thương mại và công nghiệp, được coi là những trung gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Tại Việt Nam, khái niệm về ngân hàng thương mại được quy định “Là ngân hàng được thực hiện tất cả hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan vì mục đích lợi nhuận góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước” - (Nghị định 49/CP- 2000).
1.2- Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại hoạt động và tồn tại qua một quá trình lâu dài cho đến ngày nay là vì những vai trò quan trọng đóng góp cho nền kinh tế và xã hội.
Thứ nhất, Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian tín dụng, với sự chuyên môn hoá và thành thạo trong nghề nghiệp của mình đứng ra tập trung tiền tệ chưa sử dụng của những người có vốn, cho vay những đối tượng cần vốn, khắc phục hạn chế của quan hệ tín dụng trực tiếp. Hoạt động trung gian tín dụng của ngân hàng thương mại góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn trên thị trường. Phần lớn các quan hệ tín dụng được tập trung qua ngân hàng thương mại, riêng với các doanh nghiệp thì nguồn tín dụng do các ngân hàng thương mại cung cấp đã trở nên phổ biến và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong kết cấu tài sản nợ của doanh nghiệp.
Ngân hàng thương mại thường được gọi là chủ thể nhận và kinh doanh tiền gửi: Hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại là thu hút vốn thông qua những khoản tiền gửi phát séc, tiền gửi tiết kiệm và các khoản tiền gửi có kỳ hạn. Sau đó, ngân hàng sử dụng các phương tiện tài trợ này để cho vay, chủ yếu là cho vay thương mại ngắn, trung và dài hạn, để mua chứng khoán của Chính phủ. Ngân hàng cho vay nhằm tài trợ chi tiêu cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng với mức lãi suất hợp lý, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. Thông qua các khoản cho vay của ngân hàng, thị trường có thêm thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng. Đây cũng là cơ sở để ngân hàng thương mại thực hiện chức năng tạo cung tiền, kiểm soát lượng tiền cung ứng đối với toàn bộ nền kinh tế.
Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng thương mại. Với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng (thu nhập từ lãi cho vay). Ngoài lãi cho vay, ngân hàng còn có nguồn thu từ các loại phí khác nhau từ các hoạt động cho vay. Phí thu được liên quan đến các hoạt động cho vay có thể rất đáng kể, đóng góp quan trọng vào thu nhập của ngân hàng. Các loại phí chính phát sinh từ cho vay bao gồm:
Phí bắt nguồn khoản cho vay
Phí dịch vụ/ đại lý
Phí dự phòng/ cam kết
Phí liên quan đến lãi suất
Đồng thời, rủi ro trong hoạt động ngân hàng thường tập trung vào danh mục các khoản cho vay. Vì thế, hoạt động cho vay thường là khu vực tập trung sự chú ý quản lý.
2. Các loại hình cho vay của ngân hàng - Quy trình tín dụng
2.1- Các loại hình cho vay của ngân hàng
Ngân hàng cung cấp nhiều loại hình cho vay khác nhau tương ứng với sự đa dạng trong đối tượng vay và mục đích vay vốn của khách hàng, với sự đa dạng trong các tiêu thức quản lý các khoản vay. Một ngân hàng có thể sử dụng nhiều hình thức cho vay hay chỉ giới hạn trong những loại đem lại lợi thế nhất định cho ngân hàng.
Phân chia theo đối tượng vay và mục đích sử dụng
Cho vay công nghiệp và thương mại: áp dụng cho các công ty trong nước hay công ty đa quốc gia, cho các mục đích kinh doanh như:
tài trợ yêu cầu vốn lưu động, mua hàng nhập kho;
mua trang thiết bị, nhà xưởng; mua các tài sản kinh doanh khác;
trả thuế, trả lương cán bộ công nhân viên;
tài trợ việc mua lại doanh nghiệp; và
tài trợ các công ty con ở nước ngoài.
Cho vay tiêu dùng: là giao dịch đặc thù của các ngân hàng bán lẻ, tài trợ các cá nhân như hộ gia đình, các tiêu dùng cá nhân như:
hàng hóa tiêu dùng (mua ô tô, nhà ở, trang thiết bị gia đình, vật liệu xây dựng để sửa chữa, hiện đại hoá nhà cửa... );
chi tiêu giáo dục, kể cả khoản cho vay sinh viên;
thuế cá nhân;
các kỳ nghỉ, và các chi tiêu cá nhân khác.
Doanh thu gộp từ khoản cho vay tiêu dùng lớn hơn hầu hết khoản cho vay thương mại, nhưng rủi ro thường cao hơn; và vì chúng là các khoản cho vay tương đối nhỏ, chi phí xử lý trên mỗi đồng tiền cho vay cũng cao hơn.
Cho vay kinh doanh bất động sản:
các khoản cho vay xây dựng ngắn hạn và giải phóng mặt bằng (chỉ tài trợ trong quá trình xây dựng);
các khoản cho vay dài hạn tài trợ việc mua đất canh tác, nhà, trung tâm thương mại, khách sạn, trường học.
Đối với loại hình vay này, ngân hàng được đảm bảo bằng chính tài sản thực: đất đai, toà nhà, các công trình khác.
Cho vay nông nghiệp: nhằm hỗ trợ nông dân trong hoạt động gieo trồng, thu hoạch và bảo quản sản phẩm.
Cho vay các ngân hàng và tổ chức tài chính: Bao gồm các khoản tín dụng dành cho ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác. Ngoài các khoản cho vay thẳng, ngân hàng và các tổ chức tín dụng còn đi vay hoặc cho vay dưới dạng các giao dịch trên thị trường tiền tệ.
Các khoản cho vay khác: Gồm các khoản cho vay không được xếp loại ở trên và các khoản cho vay kinh doanh chứng khoán.
Phân chia theo bảo đảm
Tài sản đảm bảo các khoản cho vay cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất không có hoặc không đủ. Theo đó, các khoản cho vay của ngân hàng có thể phân loại thành:
Khoản cho vay bảo đảm: được bảo đảm bằng thế chấp các tài sản cụ thể (vật thế chấp), ví dụ như bất động sản, chứng khoán, tiền gửi hay tài khoản tiết kiệm, hàng tồn kho, trang thiết bị hay các khoản phải thu. Cho vay có bảo đảm yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải ký hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo (quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài chính của người thứ ba..) và có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản tài sản đảm bảo.
Thông thường, lý do yêu cầu thế chấp là nhằm giảm rủi ro thua lỗ của ngân hàng trong trường hợp vỡ nợ. Tuy nhiên, sự hiện diện đơn thuần của tài sản thế chấp không đảm bảo rằng khoản cho vay sẽ được hoàn trả (ví dụ, khoản thế chấp không thể bán được hoặc đã hao mòn hết giá trị từ lúc nó được đem thế chấp). Đối với các khoản vay đảm bảo đầy đủ, giá trị của tài sản thế chấp phải lớn hơn hẳn lượng tiền cho vay.
Khoản cho vay không bảo đảm: Cho vay không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ, các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng... cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
Phân chia theo cơ sở lãi suất
Khoản cho vay lãi suất cố định: có lãi suất được định trước trong hợp đồng và không thay đổi từ khi bắt đầu cho đến ngày đáo hạn. Các khoản cho vay với lãi suất cố định có ưu điểm giúp xác định được trước số lãi sẽ thu được nhưng lại có thể chịu rủi ro lãi suất khi thị trường có thay đổi lớn.
Khoản cho vay lãi suất thả nổi: có lãi suất thay đổi theo cung cầu trên thị trường. Đối với các khoản cho vay tính theo lãi suất thả nổi, lãi sẽ được tính theo lãi suất thị trường vào thời điểm tính lãi. Ngân hàng có thể căn cứ vào LIBOR, SIBOR hay tỷ lệ lãi suất phổ biến trên thị trường khác để tính lãi.
Cho vay với lãi suất thả nổi có thể hạn chế rủi ro lãi suất cho ngân hàng, tuy nhiên lại gây khó khăn cho khách hàng vay, nên các khách hàng thường có xu hướng muốn chọn lãi suất cố định.
Khoản cho vay lãi suất biến thiên: (thường là các khoản cho vay bất động sản) có lãi suất phụ thuộc vào sự điều chỉnh gắn với tỷ lệ lãi phổ biến trên thị trường, thường kèm một tỷ lệ lãi tối đa xác định. Sự điều chỉnh đối với khoản vay lãi suất biến thiên thường ít hơn so với khoản vay lãi suất thả nổi và không bắt buộc phải thay đổi trực tiếp theo tỷ lệ lãi thị trường.
Phân chia theo thời hạn vay
Phân loại các khoản cho vay theo thời hạn cho vay có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì nó liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của các khoản cho vay cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo đó, các khoản cho vay được chia thành:
Cho vay ngắn hạn: là các khoản cho vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng;
Cho vay trung hạn: là các khoản cho vay có thời hạn cho vay từ trên 1 năm đến 5 năm;
Cho vay dài hạn: là các khoản cho vay có thời hạn cho vay trên 5 năm.
Thời hạn cho vay thường được xác định cụ thể (ngày, tháng, năm) và ghi trong hợp đồng cho vay, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản vay. Thời hạn cho vay có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về; hoặc cũng có thể là thời gian mà khi kết thúc, ngân hàng sẽ xem xét lại quan hệ cho vay với khách hàng.
Phân loại theo phương thức cho vay:
Các khoản cho vay không kỳ hạn: Các khoản cho vay này không có ngày đáo hạn cố định, và sẽ được hoàn trả tuỳ thuộc vào yêu cầu của ngân hàng. Các khoản cho vay này thường có lãi suất thả nổi theo lãi suất thị trường (điều chỉnh hàng ngày hay hàng tháng), được sử dụng để tài trợ cho nguồn vốn hoạt động. Mặc dù ngày đáo hạn không được cố định từ trước nhưng ngân hàng thường yêu cầu hoàn trả vốn và lãi từng phần theo một lịch trình cụ thể sau 90 đến 180 ngày từ khi nhận được vốn. Các khoản cho vay không kỳ hạn đem lại cho ngân hàng sự linh hoạt cao hơn trong việc tránh khỏi các tình huống bất lợi.
Các khoản cho vay kỳ hạn: thường trong một quãng thời gian xác định - 30, 60, 90, 120, 180 hay 360 ngày. Các khoản cho vay này thường được gia hạn trong một khoảng thời gian gọi là “kỳ gia hạn”. Lãi suất cố định cho kỳ hạn đầu tiên và cho mỗi kỳ gia hạn. Các khoản cho vay này thường phục vụ tài trợ hàng tồn kho và các khoản phải thu cho nhu cầu kinh doanh mùa vụ. Những kỳ hạn xác định cho phép ngân hàng đánh giá lại tình hình của người vay trước mỗi lần gia hạn và điều chỉnh lại lãi suất.
Các khoản cho vay trả góp: yêu cầu thanh toán định kỳ, thường từ 6 đến 48 tháng. Ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản cho vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ. Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp, khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập thường xuyên của người vay. Vì rủi ro cao, lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ, đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Đối với hạn mức tính cho cả kỳ, khách hàng có thể thực hiện vay-trả nhiều lần nhưng số dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Đối với hạn mức tính cho cuối kỳ, dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức nhưng đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để cho dư nợ cuối kỳ không vượt quá hạn mức.
Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc ngân hàng hay tổ chức tín dụng cho phép khách hàng rút séc trên tài khoản vãng lai vượt quá số dư nợ của mình. Vào lúc đó, ngân hàng hay tổ chức tín dụng chuyển vào tài khoản vãng lai của khách hàng lượng tiền tương đương với khoản thấu chi và đồng thời thiết lập một số dư cho vay đối với lượng tiền đã chuyển. Một hạn mức thấu chi được thiết lập cho tài khoản vãng lai, cho phép khách hàng chỉ được rút tối đa tới hạn mức đó và trong khoảng thời gian nhất định. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Hình thức cho vay này linh hoạt, phần lớn là không có đảm bảo nên nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến đối với những khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện được cấp hạn mức thấu chi. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau. Lãi suất có thể thả nổi hay cố định theo thời điểm tính lãi. Nghiệp vụ cho vay từng lần khá đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay riêng biệt.
Các khoản cho vay với mục đích đặc biệt
Tài trợ dự án: liên quan đến việc cung cấp quỹ cho một đối tượng vay để hoàn thành việc xây dựng hay thu mua tài sản có kỳ vọng (nhưng thực sự chưa) tạo ra thu nhập. Ví dụ như việc xây các tòa nhà hay đóng tàu. Tài trợ dự án cũng có thể là tài trợ việc bán dự án sau khi nó hoàn thành. Tài trợ dự án thường chịu rủi ro cao hơn do sự thành công của dự án không chắc chắn, và vì thế nó thường yêu cầu tỷ lệ lãi suất cao hơn các loại cho vay khác.
Chiết khấu hoá đơn (hay tài trợ các khoản phải thu) và đại diện:
Chiết khấu hoá đơn, còn gọi là “tài trợ các khoản phải thu”, là trường hợp ngân hàng giao trước tiền cho người vay dựa trên các khoản phải thu được lựa chọn của người đó (trên cơ sở liên tục) nhượng lại cho ngân hàng để làm đảm bảo cho khoản cho vay. Trên lý thuyết, ngân hàng nắm quyền sở hữu với các khoản phải thu được thế chấp.
Đại diện là phương pháp tài trợ tương tự như chiết khấu hóa đơn, ngoại trừ việc ngân hàng sẽ được nhượng lại, trên cơ sở liên tục, toàn bộ sổ cái các con nợ. Những người đi vay tham gia vào thỏa thuận này để tăng tốc luồng tiền bằng cách loại trừ thời gian trễ giữa lúc họ giao hàng và thời gian thanh toán của các khách hàng theo hóa đơn.
Những người đi vay thường trả hoa hồng cho các khoản phải thu được chiết khấu hay đại diện, dựa trên giá trị, và lãi suất tiền vay trước ngày đáo hạn theo lịch trình của các khoản phải thu.
Khoản cho vay giáp lưng: một ngân hàng cho vay một khách hàng và nhận một khoản tiền ký quỹ từ một bên khác hay một khoản ký quỹ thế chấp từ chính bên đó để đảm bảo sự thanh toán với khoản cho vay. Thông thường, người đi vay và người ký quỹ, nếu không phải cùng một bên, thì có mối quan hệ là thành viên trong cùng một nhóm.
Khoản cho vay song song: trong cùng một nhóm ngân hàng hay tổ chức tín dụng, một chi nhánh hay công ty con cho vay và một chi nhánh hay công ty con khác nhận tiền gửi đối với một người vay. Khoản tiền gửi được thế chấp để làm đảm bảo sự thanh toán khoản cho vay.
Nếu các chi nhánh hay công ty con nói trên thuộc cùng một ngân hàng hay một tổ chức tín dụng và ở trong cùng một quốc gia, có thể coi đây là khoản cho vay giáp lưng.
Rủi ro tiềm tàng đối với khoản cho vay song song cũng giống như bất kỳ khoản cho vay có bảo đảm nào khác.
Bảo lãnh tín dụng/ thư tín dụng dự phòng: Các ngân hàng và tổ chức tín dụng thường đại diện cho khách hàng của mình phát hành bảo lãnh tín dụng/ thư tín dụng dự phòng tới người thụ hưởng thứ ba. Việc này đảm bảo cho người thụ hưởng thứ ba rằng nếu khách hàng của ngân hàng hay tổ chức tài chính không thể trả theo cam kết hợp đồng của mình, thì ngân hàng hay tổ chức tài chính sẽ thực hiện thay nghĩa vụ đó.
Tài trợ thuê mua: ngân hàng là bên cho thuê (các trang thiết bị trong hoạt động sản xuất-kinh doanh) và khách hàng là bên đi thuê với nghĩa vụ thanh toán tiền thuê hàng tháng. Theo hợp đồng thuê mua, quyền sở hữu tài sản vẫn thuộc về ngân hàng, bên đi thuê quản lý việc sử dụng, bảo quản và sửa chữa tài sản.
Phân chia theo mối quan hệ với khách hàng
Cho vay trực tiếp: một ngân hàng trực tiếp cho vay toàn bộ khoản vay đối với một khách hàng. Ngân hàng đó chịu toàn bộ rủi ro tín dụng của khoản cho vay và chịu trách nhiệm quản lý thích hợp.
Đôi khi một đối tượng đi vay cần nguồn vốn vượt quá mức một ngân hàng riêng lẻ có thể cung cấp theo hạn mức cho vay của nó. Trong những trường hợp đó, giả sử người đi vay có nền tảng tài chính để duy trì một khoản tiền vay lớn như vậy, ngân hàng có thể đáp ứng yêu cầu của người đi vay thông qua các thỏa thuận hợp tác cho vay như dưới đây:
Cho vay đồng tài trợ: là thỏa thuận mà một số ngân hàng hay tổ chức tín dụng cho vay từng phần của tổng số tiền cho vay và hưởng lợi nhuận cũng như chịu rủi ro tương ứng. Một hay một số ngân hàng hay tổ chức tín dụng được ủy quyền bởi người vay làm tổ chức đại lý hay nhóm quản lý, được hưởng thêm phí quản lý theo thoả thuận. Nhóm quản lý thường cung cấp số tiền lớn nhất và truyền thông tin chi tiết cho các ngân hàng khác. Cho vay đồng tài trợ thường liên quan đến các doanh nghiệp thương mại lớn. Các chi phí như phí pháp lý và chi phí chuẩn bị hợp đồng cho vay thường được trả bởi người vay.
Cho vay dự phần: là trường hợp các ngân hàng chung phần trong một khoản cho vay bắt đầu bởi ngân hàng khác. Tuy nhiên, người vay không biết đến sự thỏa thuận giữa các ngân hàng tham dự và trong trường hợp không thu hồi được nợ, ngân hàng cho vay khởi đầu sẽ phải đảm bảo thanh toán cho các ngân hàng còn lại. Đồng thời, phần tham dự cho vay có thể được bán cho các ngân hàng dự phần với những điều khoản khác với khoản cho vay gốc.
Cơ cấu cho vay của các ngân hàng:
Cơ cấu cho vay đối với từng ngân hàng rất khác nhau. Nhân tố chủ yếu tạo nên sự khác nhau trong danh mục cho vay giữa các ngân hàng là đặc điểm của thị trường nơi ngân hàng hoạt động. Mỗi ngân hàng phải có trách nhiệm đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng trong thị trường của mình.
Tuy nhiên, ngân hàng không phụ thuộc hoàn toàn vào khu vực hoạt động của mình, họ có thể mua lại toàn bộ hoặc một phần các khoản cho vay từ ngân hàng khác, hoặc cùng tham gia với các ngân hàng khác để cung cấp một khoản cho vay hay sử dụng các hợp đồng phát sinh tín dụng để hạn chế những thay đổi bất lợi bắt nguồn từ danh mục cho vay do sự biến động của nền kinh tế trong khu vực nơi ngân hàng hoạt động.
Quy mô ngân hàng cũng là một nhân tố quan trọng quyết định cấu trúc danh mục cho vay của từng ngân hàng, đặc biệt là quy mô vốn chủ sở hữu được sử dụng để xác định mức cho vay tối đa đối với một khách hàng. Ngân hàng lớn (ngân hàng bán buôn) chủ yếu cung cấp các khoản tín dụng trị giá lớn cho các công ty. Các ngân hàng nhỏ thường tập trung vào nghiệp vụ tín dụng bán lẻ dưới dạng các khoản cho vay cá nhân giá trị nhỏ, cho vay trả góp, cho vay mua nhà thế chấp.
Kinh nghiệm và trình độ quản lý cũng góp phần tạo ra cơ cấu trong danh mục cho vay của ngân hàng. Bên cạnh đó, cơ cấu cho vay còn phụ thuộc vào tương quan giữa thu nhập dự tính trên các khoản tín dụng và thu nhập dự tính từ các tài sản khác. Với điều kiện các yếu tố khác không đổi, nhìn chung một ngân hàng muốn cung cấp những khoản cho vay mang tỷ lệ thu nhập dự tính cao nhất sau khi đã tính tới toàn bộ chi phí và rủi ro tổn thất tín dụng.
Quy định pháp lý đối với hoạt động cho vay có ảnh hưởng rất lớn tới danh mục cho vay của ngân hàng bởi vì danh mục cho vay có vai trò rất lớn đối với trạng thái rủi ro và an toàn trong hoạt động ngân hàng. Thông thường, ngân hàng không được cho vay với một khách hàng quá 15% khoản mục vốn cổ phần và thặng dư vốn của ngân hàng. Các khoản cho vay đối với nhân viên ngân hàng cũng phải chịu những ràng buộc nhất định.
2.2- Tổ chức bộ phận tín dụng và Quy trình tín dụng
2.2.1- Tổ chức bộ phận tín dụng
Tổ chức và trách nhiệm:
Uỷ ban Điều hành: Gồm có Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc, Giám đốc Tài chính, các nhà điều hành cấp cao. Uỷ ban chịu trách nhiệm hoàn toàn cho tất cả các khoản vay được cấp. Đồng thời uỷ ban có trách nhiệm thiết lập các chính sách tín dụng; phê chuẩn các khoản cho vay lớn, những khoản cho vay vượt quá hạn mức tín dụng; thông qua mức dự phòng tổng thể. Giám sát của uỷ ban thuộc theo dõi giám sát mức độ cao.
Uỷ ban Tín dụng: Gồm các nhà quản lý, có nhiệm vụ tham gia các cuộc họp thường kỳ, xem xét hoạt động tín dụng hàng ngày, giám sát các cán bộ tín dụng trong việc tuân thủ chính sách tín dụng. Họ cũng xem xét điều kiện đối với các đối tượng cho vay mới, phê chuẩn các khoản cho vay trong phạm vi quyền hạn; rà soát các khoản cho vay hiện thời; lập công thức cho các chính sách cho vay, chẳng hạn theo khu vực và hạn mức. Ngoài ra, họ có trách nhiệm báo cáo cho Uỷ ban Điều hành về kết quả công việc của mình.
Các cán bộ tín dụng: Đảm nhiệm chức năng ma-ket-ting và chức năng thu hồi nợ; giới thiệu các loại hình cho vay và xây dựng mối quan hệ với khách hàng. Họ chịu trách nhiệm về hồ sơ đi vay của các khách hàng; chuẩn bị đề nghị cho vay và lập tờ trình gửi Uỷ ban Tín dụng. Các cán bộ tín dụng hoạt động theo chính sách và thủ tục tín dụng, bị hạn chế về quyền hạn.
Phân tích viên tín dụng: Chịu trách nhiệm đánh giá tín dụng đối với các đề xuất cho vay mới và rà soát tín dụng đối với các khoản vay hiện thời. Phân tích viên tín dụng thu thập và cung cấp các thông tin chung về ngành, hỗ trợ các cán bộ tín dụng. Họ không có quyền hạn phê chuẩn.
Quản lý tín dụng: Bảo quản hồ sơ tín dụng của từng khách hàng vay, thu thập chứng từ cần thiết về các khoản cho vay, xác nhận các thông tin về khách hàng. Các quản lý viên giám sát ngày đến hạn thanh toán các khoản cho vay cùng việc nhận lãi và gốc; giám sát các khoản cho vay quá hạn mức; giám sát sự thay đổi trên thị trường về giá trị của các tài sản đảm bảo cho các khoản vay. Họ cũng phối hợp với phòng ngân quỹ trong việc nhận và trả các quỹ; phối hợp với phòng kế toán về lãi suất và các loại phí của khách hàng.
Sự phối hợp của bộ phận tín dụng với các phòng ban khác:
- Bộ phận kế toán: giải ngân khế ước nợ, thu tiền lãi;
- Bộ phận kiểm toán nội bộ: rà soát mảng tín dụng;
- Bộ phận pháp chế: xem xét các khoản tín dụng có đảm bảo đúng pháp lý cho ngân hàng không;
- Phòng thu hồi nợ: các công tác cần thiết khi thu hồi nợ, có thể là kiện tụng, đưa ra toà.
2.2.2 - Quy trình tín dụng:
Hầu hết các khoản cho vay tiêu dùng được bắt đầu bằng việc khách hàng xin vay vốn, đến gặp nhân viên của ngân hàng và ghi những thông tin cần thiết vào đơn xin vay. Ngược lại, cho vay kinh doanh thường được bắt đầu bằng việc tiếp xúc giữa cán bộ tín dụng và các hãng kinh doanh. Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng, các ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích tín dụng. Đó chính là nội dung công việc mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan trong ngân hàng phải thực hiện khi cho vay. Các quy trình chính của một khoản vay là:
Cấp một khoản vay
Đánh giá khách hàng
Để có thể cấp một khoản vay cho khách hàng, cán bộ tín dụng phải tìm hiểu qua phỏng vấn và qua các hình thức khác về tính cách và mục đích xin vay của khách hàng, tham khảo xem các hợp đồng tín dụng trước đây của khách hàng có được thực hiện đúng hay không. Trường hợp khách hàng là một công ty, ngân hàng sẽ đề nghị khách hàng nộp các báo cáo tài chính hoàn chỉnh kèm các tài liệu cần thiết để ngân hàng có thể đánh giá nhu cầu và giá trị tín dụng của khách hàng. Khi toàn bộ các tài liệu cần thiết đã được cung cấp, bộ phận phân tích tín dụng của ngân hàng sẽ tiến hành phân tích nhằm xác định xem dòng tiền và các tài sản dự phòng của khách hàng có đủ hoàn trả món vay không. Phân tích trước khi cho vay là bước quan trọng nhất, thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay.
Phê chuẩn
Bộ phận phân tích tín dụng chuẩn bị một bản báo cáo tóm tắt có kèm kết quả phân tích để gửi cho những người có thẩm quyền trong phòng tín dụng xem xét và phê chuẩn.
Giải ngân khoản vay
Nếu phòng tín dụng chấp thuận đơn xin vay của khách hàng, toàn bộ các thoả thuận và thủ tục cần thiết sẽ được hoàn tất để các bên có liên quan lập một hợp đồng tín dụng hoàn chỉnh. Hợp đồng cho vay là văn bản ghi lại thoả thuận giữa người đi vay (khách hàng) và ngân hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản vay trong một khoảng thời gian nhất định với lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp lý xác định quyền và nghĩa vụ của cả hai bên, tuân thủ các quy định của pháp luật và Bộ Tài chính.
Sau khi hợp đồng cho vay đã được ký kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền cho khách hàng như đã thoả thuận.
Giám sát khoản vay
Ngân hàng sẽ phải tiếp tục theo dõi khoản cho vay để đảm bảo rằng khách hàng sử dụng tiền vay đúng mục đích, đúng tiến độ và sẽ thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi như đã cam kết vào các thời điểm đã định. Với các khoản cho vay thương mại lớn, cán bộ tín dụng sẽ đến và kiểm tra công việc kinh doanh của khách hàng định kỳ xem có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ không, đồng t._.hời xem xét khách hàng có cần dịch vụ nào của ngân hàng nữa không. Nếu các thông tin thu thập thêm phản ánh chiều hướng tốt, cho thấy chất lượng các khoản cho vay được đảm bảo. Ngược lại, khi chất lượng khoản cho vay bị đe dọa, ngân hàng cần có các biện pháp xử lý kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân, nếu bên vay vi phạm hợp đồng cho vay.
Ngoài ra, cán bộ tín dụng sẽ phải thường xuyên kiểm tra tài sản thế chấp của khách hàng để đảm bảo cho ngân hàng có quyền phát mại tài sản trong trường hợp khách hàng không có khả năng hoàn trả món vay. Ngân hàng cũng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp, giảm số tiền cho vay... khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng.
Thu hồi nợ (bao gồm xác định các khoản cho vay có vấn đề)
Quan hệ cho vay kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi của khoản cho vay. Các khoản cho vay đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản cho vay an toàn. Một số trường hợp, các khoản này không được hoàn trả hoặc hoàn trả không đúng kỳ hạn. Việc xem xét, tìm nguyên nhân là rất quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan đến an toàn các khoản cho vay.
3. Rủi ro và kiểm soát liên quan đến hoạt động cho vay
3.1- Các rủi ro liên quan
Do khối lượng giao dịch lớn cùng với tính phức tạp và dễ biến động của tiền tệ nên trong hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng thường gặp nhiều rủi ro, nhất là rủi ro đối với hoạt động cho vay. Các loại rủi ro gắn liền với hoạt động cho vay của ngân hàng có thể được phân chia thành các nhóm như sau:
Rủi ro chính
Rủi ro tín dụng: Rủi ro phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc lẫn lãi của các khoản vay, hoặc việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn. Đây là rủi ro của sản phẩm dịch vụ quan trọng nhất trong các ngân hàng thương mại, nó tồn tại trong toàn bộ phần tài sản, không chỉ vốn vay; nhưng có ảnh hưởng quan trọng nhất lên hoạt động cho vay.
Ngân hàng thường phân loại rủi ro tín dụng dựa trên thống kê kinh nghiệm và phân tích các điều kiện thị trường. Phân loại này cho phép nhà quản lý xác định các tỷ lệ rủi ro liên quan tới từng nhóm khách hàng, các nguyên nhân gây rủi ro và môi trường nảy sinh rủi ro. Phân loại này cũng giúp nhà quản lý xác định các phép đo rủi ro tín dụng một cách hợp lý và ngưỡng rủi ro mà ngân hàng có thể chấp nhận.
Rủi ro lãi suất: Rủi ro phát sinh trong trường hợp có sự thay đổi về lãi suất ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng – bị lỗ do tăng chi phí, lãi suất thị trường thay đổi làm giảm giá trị tài sản hoặc phát sinh sự không cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản Có và tài sản Nợ của ngân hàng. Nếu lãi suất thả nổi tại mức ngân hàng vay tăng lên cao hơn lãi suất cố định nó cho vay, ngân hàng phải chịu tổn thất.
Rủi ro thứ cấp
Rủi ro thanh khoản: Rủi ro phát sinh khi ngân hàng không có đủ khả năng đảm bảo nhu cầu rút tiền gửi đồng thời của khách hàng ngay lập tức do thiếu tiền mặt dự trữ và việc chuyển đổi các tài sản Có khác sang tiền mặt gặp khó khăn hoặc chịu ảnh hưởng của các hợp đồng cho vay.
Rủi ro ngoại hối: Phát sinh khi có sự biến động tỷ giá và xuất hiện trạng thái hối đoái mở trong kinh doanh tiền tệ, ảnh hưởng lên các khoản cho vay liên quan tới yếu tố ngoại tệ.
Các rủi ro khác
Rủi ro thế chấp: tài sản đảm bảo không dùng để siết nợ được. Mặc dù tài sản đảm bảo là ngoại bảng, không được phản ánh vào bảng cân đối kế toán nội bảng; song nó tiềm ẩn nhiều rủi ro và có thể ảnh hưởng đến trạng thái tương lai của bảng cân đối khi các tài sản ngoại bảng chuyển đổi thành nội bảng.
Rủi ro tập trung: do đối tượng vay của ngân hàng quá tập trung vào một nhóm khách hàng, một ngành nào đó. Khi nhóm khách hàng này chịu một tác động xấu ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của họ, ngân hàng có nguy cơ bị thua lỗ và phá sản theo.
Rủi ro tác nghiệp: là những rủi ro phát sinh từ những sai sót của hệ thống thông tin hoặc kiểm soát nội bộ dẫn đến thất thoát, bao gồm rủi ro an toàn chung, rủi ro pháp lý, rủi ro an toàn tài liệu, rủi ro giao dịch, rủi ro về thông tin, rủi ro kiểm soát, rủi ro nhân sự, rủi ro hệ thống công nghệ thông tin, rủi ro thay đổi quản lý…
Có hai mối quan hệ giữa rủi ro và sinh lợi trong hoạt động cho vay. Trước khi cho vay, mối quan hệ đó là: Rủi ro càng cao, sinh lợi kỳ vọng càng lớn. Tuy nhiên, sau khi cho vay, quan hệ đó lại là tổn thất càng cao thì sinh lợi càng thấp. Ngân hàng có thể theo đuổi chiến lược tài trợ rủi ro cao hoặc thấp trong ngắn hạn, song đều phải xác lập mối liên hệ rủi ro và sinh lời nhằm đảm bảo gia tăng thu nhập cho chủ sở hữu trong dài hạn.
Trên thế giới phổ biến 5 tiêu thức đánh giá hoạt động của ngân hàng, được kết hợp với nhau trong một chỉ số xếp hạng, thường được gọi là chỉ số CAMELS. Các chữ cái bắt nguồn từ:
- Sự thích hợp về vốn chủ sở hữu (Capital Adequacy);
- Chất lượng tài sản (Asset quality);
- Chất lượng quản lý (Management quality);
- Kết quả thu nhập (Earning record);
- Trạng thái thanh khoản (Liquydity position);
- Sự nhạy cảm với rủi ro thị trường (Sensitivity to market risk).
Rủi ro từ hoạt động cho vay là rất lớn, tổn thất nếu xẩy ra sẽ làm giảm thu nhập dự tính và có thể gây thua lỗ hoặc phá sản cho ngân hàng. Những rủi ro nói trên đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có hệ thống đánh giá rủi ro để thường xuyên xác định, đo lường và quản lý rủi ro một cách đầy đủ. Trên thực tế, Ban lãnh đạo các ngân hàng hạn chế rủi ro bằng cách áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro - một quá trình chấp nhận rủi ro đã được tính toán trước với mục đích hạn chế các mất mát tài chính, đảm bảo có sự an toàn chung thích đáng để đạt được các mục tiêu kinh doanh và tăng cường lợi nhuận cho ngân hàng.
Do ảnh hưởng không tránh khỏi của rủi ro tín dụng, an toàn tín dụng là nội dung chính trong quản lý rủi ro của mọi ngân hàng thương mại. Ngân hàng có các biện pháp mang tính chất hành chính như đặt ra các tiêu chuẩn cho việc xem xét cấp tín dụng, hạn mức giao dịch; các khoản nợ không có khả năng thu hồi, lãi treo được đưa ra ngoại bảng để theo dõi, nếu có cơ hội sẽ tìm cách thu hồi; hoặc sử dụng các quỹ dự phòng để bù đắp cho những tài sản này. Ngoài ra, ngân hàng hoạt động tại Việt Nam phải tuân thủ các điều kiện đảm bảo an toàn tín dụng được quy định trong Luật các Tổ chức tín dụng và các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
3.2- Kiểm soát đối với các rủi ro của hoạt động cho vay:
Sự cần thiết của việc kiểm soát rủi ro tín dụng đối với các NHTM
Mục tiêu quản lý của ngân hàng thương mại là tối đa hoá lợi ích của ngân hàng trên cơ sở đảm bảo an toàn. Mục tiêu quản lý khoản mục cho vay cũng thống nhất với mục tiêu chung: giảm thiểu rủi ro và tăng khả năng sinh lời. Các ngân hàng phải kiểm soát rủi ro với hoạt động cho vay vì họ rất coi trọng kiểm soát nhằm giảm rủi ro của các sai sót, giảm rủi ro cho vay các khách hàng không an toàn, và cuối cùng là giảm rủi ro thua lỗ.
Do tỷ trọng lớn của các khoản cho vay trong tổng tài sản của ngân hàng, tình trạng khó khăn về tài chính của một ngân hàng thường phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi, bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau: quản lý yếu kém, cho vay không tuân thủ đúng chính sách tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài dự kiến của nền kinh tế. Các rủi ro trên đối với chức năng cho vay của ngân hàng phải được giám sát chặt chẽ, đảm bảo tính hiệu quả của các chính sách và của quy trình cho vay.
Ngoài ra, yêu cầu về một chương trình cho vay lành mạnh cũng bao gồm cả việc kiểm soát định kỳ đối với tất cả các khoản cho vay cho đến ngày đáo hạn. Những khoản cho vay có vấn đề được phát hiện trong quá trình kiểm soát phải được tìm ra nguyên nhân và giải pháp phục hồi mức tối đa phần vốn cho vay.
Các kiểm soát chung:
Uỷ quyền và phê chuẩn
Phân tách trách nhiệm giữa:
+ Đánh giá và phê chuẩn một khoản vay;
+ Hạch toán khoản vay;
+ Kiểm soát và lưu chuyển các quỹ;
+ Kiểm soát và lưu chuyển tài sản đảm bảo;
+ Giám sát hồ sơ vay.
Quản lý và giám sát
Kiểm soát vật chất.
Để thực hiện được những kiểm soát này, ngân hàng phải thiết lập chính sách và thủ tục cho vay bằng văn bản phù hợp, rõ ràng và được hoàn thiện qua nhiều năm. Nội dung cơ bản của một chính sách cho vay tốt gồm:
Miêu tả rõ ràng thị trường tín dụng chính của ngân hàng.
Tiêu chuẩn đối với danh mục cho vay của ngân hàng (nêu lên các đặc điểm của một danh mục cho vay chất lượng cao như loại hình, thời gian đáo hạn, quy mô và chất lượng của các khoản cho vay...) trong một bản tiêu chuẩn chất lượng thích hợp áp dụng cho toàn bộ danh mục cho vay. Một vài vấn đề khác như việc xác định những khoản cho vay ngân hàng nên từ chối, loại hình cho vay mà ngân hàng cần hạn chế thực hiện.
Những thủ tục, hoạt động cần thiết cho việc chào mời, xem xét, đánh giá và ra quyết định đối với đơn xin vay của khách hàng.
Những tài liệu được yêu cầu phải kèm theo đơn xin vay và phải được lưu lại trong hồ sơ tín dụng của ngân hàng (ví dụ như các báo cáo tài chính, các thoả thuận cam kết).
Xác định rõ trách nhiệm và thẩm quyền ra quyết định của từng cán bộ tín dụng và ban thẩm định tín dụng trong việc xét duyệt các đơn xin vay (ví dụ xác định rõ số tiền cho vay tối đa và loại hình cho vay mà một cán bộ tín dụng hay ban thẩm định tín dụng có thể thông qua và những chữ ký cần phải có; giới hạn về trách nhiệm trong việc thông báo thông tin trong phạm vi phòng tín dụng); chỉ rõ ai sẽ là người chịu trách nhiệm trong việc quản lý và xem xét các hồ sơ tín dụng của ngân hàng.
Những hướng dẫn về việc tiếp nhận, đánh giá và bảo quản và sử dụng tài sản thế chấp cho các món vay.
Một bản trình bày về chính sách và thủ tục đối với việc xác định lãi suất cho vay, các khoản phí và thời hạn hoàn trả món vay.
Công bố mức giới hạn tối đa đối với tổng dư nợ (ví dụ, tỷ lệ tối đa được phép giữa tổng các khoản cho vay và tổng tài sản của ngân hàng).
Miêu tả các bước cần được tiến hành để “tìm kiếm”, phân tích và phát hiện những khoản cho vay có vấn đề.
Một chính sách cho vay tốt sẽ mang lại nhiều lợi thế và thuận lợi cho ngân hàng, giúp ngân hàng hướng tới một danh mục cho vay hiệu quả, có thể đạt được nhiều mục tiêu, chẳng hạn như tăng cường khả năng sinh lợi, hạn chế rủi ro và đáp ứng được những đòi hỏi của các cơ quan quản lý. Những trường hợp ngoại lệ đối với chính sách cho vay của ngân hàng phải được dẫn giải đầy đủ, rõ ràng cũng như cũng phải có sự phê chuẩn của ban lãnh đạo. Trong khi chính sách cho vay phải linh hoạt để phù hợp với những thay đổi trong nền kinh tế và trong các quy định, ngân hàng cũng cần tránh mắc phải những sai phạm trong hoạt động cho vay.
Dựa trên chính sách cho vay của ngân hàng, một số biện pháp cơ bản được áp dụng để kiểm soát các khoản cho vay là:
Thực hiện kiểm soát và xem xét định kỳ (30, 60 hay 90 ngày) với những khoản cho vay lớn đồng thời tiến hành kiểm tra bất thường đối với những khoản cho vay có quy mô nhỏ.
Tổ chức quá trình kiểm soát tất cả những đặc tính quan trọng nhất đối với mỗi khoản cho vay, bao gồm:
- Đánh giá quá trình thanh toán của khách hàng nhằm đảm bảo rằng khách hàng không vi phạm kế hoạch thanh toán.
- Đánh giá sự thay đổi trong tình hình tài chính của người vay và sự thay đổi trong các dự báo, đánh giá những yếu tố làm tăng, giảm nhu cầu tín dụng của người vay.
- Đánh giá chất lượng và tình trạng của tài sản thế chấp.
- Xem xét đầy đủ khía cạnh pháp lý của hợp đồng tín dụng để đảm bảo rằng ngân hàng có quyền lợi hợp pháp sở hữu một phần hay toàn bộ tài sản thế chấp trong trường hợp người vay không có khả năng thanh toán.
- Đánh giá xem liệu khoản cho vay có phù hợp với chính sách của ngân hàng và những tiêu chuẩn được các cơ quan quản lý áp dụng khi kiểm tra danh mục cho vay của ngân hàng hay không.
Cuối cùng, theo dõi thường xuyên hơn đối với những khoản cho vay có vấn đề.
Kiểm soát cụ thể
Kiểm toán nội bộ:
Kiểm toán nội bộ hoạt động độc lập với quy trình hoạt động của ngân hàng nhằm kiểm tra thường xuyên quy mô, hiệu lực, tính kinh tế của cơ chế kiểm tra nội bộ.
Kiểm soát tín dụng:
Các ngân hàng có thể áp dụng một hệ thống chấm điểm và xếp hạng tín dụng theo một nguyên tắc thống nhất và thường xuyên để kịp thời có các biện pháp xử lý đối với những khách hàng không có khả năng trả nợ, giảm tới mức thấp nhất rủi ro tín dụng của Ngân hàng.
Phòng tín dụng của ngân hàng phải định kỳ kiểm tra toàn bộ các khoản cho vay cho đến khi cả gốc và lãi của các khoản cho vay này thu hồi được đầy đủ. Kiểm soát tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng đối với một chương trình cho vay lành mạnh của ngân hàng. Nó không chỉ giúp các nhà quản lý ngân hàng phát hiện ra những khoản cho vay có vấn đề nhanh hơn mà còn giúp xác định xem các cán bộ tín dụng có tuân thủ đúng chính sách cho vay của ngân hàng hay không.
Để tăng cường tính khách quan trong quá trình kiểm soát tín dụng, rất nhiều ngân hàng lớn đã tách đội ngũ cán bộ kiểm soát tín dụng ra khỏi phòng tín dụng.
Trong trường hợp tốc độ phát triển của nền kinh tế suy giảm hay các ngành chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục cho vay của ngân hàng phải đối mặt với những vấn đề lớn (sự xuất hiện của các đối thủ cạnh tranh mới hay sự thay đổi công nghệ tạo ra nhu cầu mới) thì ngân hàng cần phải tăng cường các biện pháp kiểm soát tín dụng.
Kiểm soát kế toán:
Đối chiếu thích hợp giữa sổ cái và các sổ chi tiết, đảm bảo các mục tiêu chính xác, đầy đủ và hiện hữu.
Trong đó:
Chính xác là đảm bảo tính đúng đắn của việc tính giá trên cở sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành.
Đầy đủ là tất cả các khoản cho vay, các khoản lãi và chi phí từ cho vay đã xẩy ra phải được ghi chép hết và không bị bỏ sót.
Hiện hữu (có thật) là bất kỳ khoản cho vay, lãi và phí từ cho vay đã được ghi nhận đều thực sự xẩy ra.
Năng lực của nhân viên:
Đội ngũ nhân viên có năng lực sẽ góp phần giảm bớt các rủi ro sai sót trong tác nghiệp do không hiểu biết đầy đủ về quy trình nghiệp vụ.
Mức độ kiểm soát cao thực hiện bởi ban quản lý cấp cao: thể hiện ở mức độ giám sát cao của ban lãnh đạo cấp cao đối với hoạt động tín dụng, sự tham gia của ban quản lý cấp cao xung quanh chức năng tín dụng
4. Kế toán đối với hoạt động cho vay
4.1- Nguyên tắc kế toán đối với hoạt động cho vay
Trong các công cụ phục vụ quản lý tín dụng, ngăn ngừa rủi ro, kế toán tín dụng có một vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Kế toán tín dụng là công việc ghi chép, phản ánh các khoản cho vay, thu nợ, theo dõi dư Nợ, trên cơ sở đó hình thành thông tin phục vụ quản lý, chỉ đạo tín dụng đạt hiệu quả cao, bảo vệ an toàn tài sản của Ngân hàng. Bộ phận kế toán quỹ thực hiện phát tiền vay trên cơ sở hồ sơ phát tiền vay đã được xét duyệt và các nghiệp vụ kế toán ghi nhận các nghiệp vụ xẩy ra liên quan đến khoản cho vay của ngân hàng. Các nhiệm vụ của bộ phận kế toán ngân hàng gồm có:
- Ghi nhận các bút toán kế toán liên quan đến nghiệp vụ cho vay một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời;
- Lập các báo cáo quản trị cung cấp các thông tin về các khoản cho vay với từng khách hàng, quá trình cấp tiền vốn và nhận các khoản thanh toán, báo cáo về các khoản cho vay chưa thu hồi. Quản lý hồ sơ cho vay, theo dõi kỳ hạn nợ để thu hồi nợ đúng hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn khi người vay không đủ khả năng trả nợ đúng hạn.
- Tính và ghi nhận các khoản thu từ lãi phát sinh, độ nhạy cảm của mức lãi suất trong kỳ...
- Thông qua quản lý các tài khoản cho vay, đề xuất các giải pháp quản lý nợ của các khách hàng vay;
- Lập báo cáo tài chính.
* Dự phòng các khoản cho vay:
- Xoá sổ: Các khoản cho vay phải được xoá bỏ nếu không có khả năng thực tế thu hồi;
- Dự phòng cá biệt: tất cả các khoản cho vay “nghi ngờ” được xác định đều phải được lập dự phòng cá biệt;
- Dự phòng chung: mặc dù không có khoản cho vay nào được xác định cụ thể là “nghi ngờ”, nhưng do bản chất một phần của các hồ sơ cho vay có thể không thu hồi được nên phải thiết lập dự phòng chung.
* Bảng cân đối kế toán.
Dư nợ cho vay được thể hiện trên bảng cân đối kế toán ở chỉ tiêu các khoản cho vay, phản ánh số tiền mà ngân hàng hiện đang cho vay tính đến thời điểm cụ thể. Dư nợ là chỉ tiêu tích luỹ qua các kỳ:
Dư nợ cuối kỳ
=
Dự nợ đầu kỳ
+
Doanh số cho vay trong kỳ
-
Doanh số thu nợ trong kỳ
Một số ngân hàng khác lại tính dư nợ cho vay ròng phản ánh giá trị có thể thu hồi được ước tính, thường bằng số gốc vay chưa thanh toán trừ đi dự phòng tổn thất tín dụng sẽ xẩy ra:
Dư nợ ròng
=
Dư nợ
-
Dự phòng tổn thất tín dụng
* Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động cho vay của ngân hàng qua chỉ tiêu thu nhập tiền lãi. Thu từ lãi được hạch toán trên cơ sở dồn tích.
* Khoản mục ngoài bảng cân đối kế toán:
Các cam kết cho vay chưa thực hiện; các khoản bảo đảm, bảo lãnh được ghi nhận và theo dõi trên các tài khoản ghi nhớ hoặc tiềm ẩn.
4.2- Hạch toán quy trình cho vay:
* Tài khoản sử dụng:
Các tài khoản phản ánh nghiệp vụ tín dụng được phân chia thành các tài khoản nội bảng và các tài khoản ngoại bảng.
Tài khoản nội bảng
Các tài khoản phản ánh nghiệp vụ cho vay
Để quản lý tín dụng theo thời hạn vay, các tài khoản cho vay trong hạn được bố trí thành tài khoản cho vay ngắn hạn, tài khoản cho vay trung hạn và dài hạn.
Để quản lý đồng tiền cho vay, các tài khoản cho vay được bố trí thành tài khoản cho vay bằng đồng Việt Nam và tài khoản cho vay bằng ngoại tệ.
Kết cấu của các tài khoản cho vay như sau:
Bên Nợ ghi: - Số tiền cho vay
Bên Có ghi: - Số tiền thu Nợ
- Số tiền chuyển Nợ quá hạn
Số dư Nợ: - Số tiền người vay còn Nợ ngân hàng
Tài khoản phản ánh Nợ quá hạn
Tài khoản Nợ quá hạn phản ánh số nợ người vay không trả đúng hạn và cũng không được gia hạn thêm, phải xử lý chuyển nợ quá hạn.
Bên Nợ ghi: - Số tiền chuyển nợ quá hạn
Bên Có ghi: - Số tiền thu nợ quá hạn
Số dư Nợ: - Số dư nợ quá hạn chưa trả
Tài khoản tiền lãi cộng dồn dự thu
Tài khoản này dùng để phản ánh số lãi cộng dồn tính trên các tài khoản cho vay các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước mà ngân hàng thương mại sẽ nhận được khi đến hạn.
Bên Nợ ghi: - Số tiền lãi tính cộng dồn dự thu
Bên Có ghi: - Số tiền thực tế người vay trả
- Số tiền lãi đến kỳ hạn mà không nhận được chuyển sang lãi chưa thu được
Số dư Nợ: - Số lãi cho vay mà ngân hàng chưa được thanh toán
Cả 3 tài khoản trên đều được mở chi tiết theo từng khách hàng vay.
Tài khoản dự phòng phải thu khó đòi
Tài khoản này dùng để phản ánh việc lập dự phòng và xử lý các khoản dự phòng về các khoản cho vay của NHTM đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân không có khả năng đòi được vào cuối niên độ kế toán. Khoản dự phòng phải thu khó đòi được trích từ chi phí của kỳ kế toán.
Bên Nợ ghi: - Các khoản nợ phải thu khó đòi không thu được phải xử lý xoá nợ
- Kết chuyển số chênh lệch về dự phòng phải thu khó đòi đã lập không sử dụng còn lại đến cuối niên độ kế toán
Bên Có ghi: - Số dự phòng các khoản phải thu khó đòi tính vào chi phí
Số dư Có: - Số dự phòng các khoản phải thu khó đòi còn lại cuối kỳ
Tài khoản này được mở một tài khoản chi tiết.
Tài khoản ngoại bảng
Tài khoản “Lãi cho vay chưa thu được”
Tài khoản này dùng để phản ánh số tiền lãi cho vay sau khi đã tính toán được nhưng người vay không có khả năng thanh toán.
Bên Nhập ghi:- Số tiền lãi chưa thu được
Bên Xuất ghi: - Số tiền lãi thu được
Số còn lại: - Số tiền lãi cho vay còn chưa thu được tính đến một thời điểm nào đó
Tài khoản “Nợ khó đòi chờ xử lý”
Tài khoản này dùng để hạch toán các khoản nợ bị tổn thất đã dùng dự phòng rủi ro để bù đắp đang trong thời gian theo dõi để có thể tiếp tục thu hồi dần. Thời gian theo dõi trên tài khoản này phải theo quy định của Nhà nước; tuy nhiên không thu được thì cũng huỷ bỏ khoản nợ.
Bên Nhập ghi: - Số tiền nợ khó đòi được bù đắp nhưng đưa ra theo dõi ngoại bảng
Bên Xuất ghi: - Số tiền thu hồi được của khách hàng
- Số tiền nợ bị tổn thất đã hết thời gian theo dõi
Số còn lại: - Số nợ bị tổn thất được bù đắp nhưng vẫn tiếp tục theo dõi để thu hồi
* Chứng từ kế toán cho vay:
Chứng từ dùng trong kế toán cho vay là những loại giấy tờ đảm bảo pháp lý cho các khoản cho vay của ngân hàng. Những tranh chấp về các khoản cho vay hay trả nợ giữa ngân hàng và người đi vay đều phải giải quyết trên cơ sở các chứng từ cho vay hợp lệ, hợp pháp. Chứng từ kế toán cho vay bao gồm nhiều loại để phục vụ cho công việc hạch toán và theo dõi thu hồi nợ.
Các chứng từ gốc:
Giấy đề nghị vay vốn
Hợp đồng tín dụng
Giấy nhận nợ
Các loại giấy tờ xác nhận tài sản thế chấp, cầm cố…
Các chứng từ ghi sổ:
Nếu giải ngân bằng tiền mặt: dùng giấy lĩnh tiền mặt
Nếu giải ngân bằng chuyển khoản: các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt như uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi…
Nếu ngân hàng chủ động tính tài khoản tiền gửi của người vay để thu nợ thì dùng phiếu chuyển khoản
Nếu ngân hàng thu lãi hàng tháng theo phương pháp tích số thì dùng bảng kê số dư để tính tích số…
* Quy trình hạch toán cho vay:
Kế toán khi cho vay
Hồ sơ xin vay đầy đủ theo quy định của chế độ tín dụng do người vay nộp, sau khi được cán bộ tín dụng thẩm định và giám đốc ngân hàng duyệt cho vay sẽ được chuyển sang kế toán để kiểm soát và giải ngân số tiền cho vay theo tiến độ và hạn mức quy định trong hợp đồng tín dụng. Căn cứ vào các chứng từ (giấy lĩnh tiền mặt hoặc uỷ nhiệm chi), kế toán vào sổ chi tiết hoặc nhập dữ liệu vào máy tính. Bút toán phản ánh khi cho vay:
Nợ TK cho vay
Có TK tiền mặt/ TK tiền gửi người thụ hưởng/ TK thanh toán vốn giữa các ngân hàng thích hợp
Kế toán giai đoạn thu nợ:
Cơ sở để kế toán thu hồi nợ là kỳ hạn nợ ghi trên hợp đồng tín dụng. Các nhân viên tín dụng chịu trách nhiệm xác định kỳ hạn nợ của các khoản cho vay, còn các nhân viên kế toán chịu trách nhiệm theo dõi kỳ hạn nợ để thu hồi nợ đúng kỳ hạn. Vì vậy, bộ phận tín dụng và bộ phận kế toán phải phối hợp để theo dõi tình hình trả nợ của người vay theo đúng kỳ hạn đã định, hoặc xử lý chuyển nợ quá hạn nếu người vay không có khả năng trả nợ đúng hạn và không được gia hạn nợ. Kế toán ghi:
Nợ TK Tiền mặt/ TK Tiền gửi của người vay
Có TK Cho vay – tiểu khoản của người vay
Kế toán chuyển nợ quá hạn
Đến hạn trả nợ, nếu người vay không có khả năng trả nợ và cũng không được ngân hàng gia hạn nợ thì kế toán lập phiếu chuyển khoản để chuyển sang tài khoản nợ quá hạn.
Nợ TK Nợ quá hạn thích hợp
Có TK Cho vay – tiểu khoản của người vay
Khi người vay trả nợ quá hạn, kế toán ghi:
Nợ TK Tiền mặt/ TK Tiền gửi của người vay
Có TK Nợ quá hạn thích hợp
Kế toán thu lãi:
Hàng tháng, kế toán tiến hành tính và hạch toán dự thu lãi, ghi:
Nợ TK Tiền lãi tính dồn dự thu
Có TK Thu nhập – thu lãi cho vay
Khi khách hàng vay trả lãi, ngân hàng hạch toán:
Nợ TK Tiền mặt/ TK Tiền gửi của người vay
Có TK Tiền lãi tính dồn dự thu
Kế toán Dự phòng:
- dự phòng cá biệt:
Nợ TK Chi phí nợ xấu
Có TK Dự phòng cá biệt
- dự phòng chung:
Nợ TK Chi phí nợ xấu
Có TK Dự phòng chung
- xoá sổ trực tiếp:
Nợ TK Chi phí nợ xấu
Có TK Khoản cho vay xoá sổ
II - Khái quát về kiểm toán quy trình cho vay trong kiểm toán báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại
1. Đối tượng và mục tiêu kiểm toán
Tại Việt Nam, quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành theo nghị định số 07/CP ngày 29/1/1994 của Chính phủ quy định: “…kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thuộc các tổ chức kiểm toán độc lập về tính đúng đắn, hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội khi có yêu cầu của đơn vị này”.
Đối tượng của kiểm toán độc lập đối với quy trình cho vay là tổng thể các nghiệp vụ cho vay, bao gồm các nghiệp vụ trong và ngoài bảng cân đối kế toán (các nghiệp vụ trong bảng cân đối kế toán: giải ngân cho vay và thu nợ, thu nhập từ lãi cho vay; các nghiệp vụ ngoài bảng cân đối: thư tín dụng L/C, thư bảo lãnh L/G không có bảo đảm, quản lý các tài sản đảm bảo của khách hàng vay, hay các hợp đồng ngoại hối), cơ cấu rủi ro tiềm ẩn, toàn bộ các giai đoạn trong quá trình xét duyệt cho vay, giám sát cho vay, uy tín tài chính của khách hàng vay và tài sản đảm bảo của họ.
Khi tiến hành kiểm toán độc lập đối với quy trình cho vay của Ngân hàng, các mục tiêu kiểm toán cần hướng tới là:
Tất cả các khoản cho vay, bao gồm cả các khoản bảo lãnh, đều có thực và được ghi nhận đúng.
Lãi được tính đầy đủ trên cơ sở dồn tích với tất cả các tài sản chịu lãi.
Lãi và các khoản thu nhập khác từ cho vay được tính đúng dựa trên cơ sở các tài sản chịu lãi hiện có.
Các khoản cho vay là có thể thu hồi được và được định giá đúng
Các khoản dự phòng nợ khó đòi đã được trích lập đầy đủ và đúng giá trị.
Số dư các khoản cho vay được trình bày thích hợp (đầy đủ, đúng đắn và hợp lý) trên báo cáo tài chính.
Chiến lược chung trong cách tiếp cận kiểm toán quy trình cho vay là xem xét môi trường kiểm soát, đặc biệt là kiểm soát mức độ cao. Trong đó, kiểm toán viên đánh giá rủi ro của toàn bộ nghiệp vụ cho vay, đảm bảo rằng những rủi ro này đã được kiểm soát, tránh những thất thoát có thể đe dọa tới sự tồn tại của ngân hàng. Đồng thời, kiểm toán viên cần thu thập bằng chứng kiểm toán nhằm đảm bảo ngân hàng đã thiết lập dự phòng rủi ro thích đáng; xác định ảnh hưởng của hoạt động tín dụng tới kết quả tài chính của ngân hàng. Cách tiếp cận này đòi hỏi khả năng xét đoán cao của kiểm toán viên.
2. Các sai phạm có thể xẩy ra
Trong quá trình kiểm toán quy trình cho vay của các ngân hàng thương mại, các sai phạm thường xảy ra là:
Thất thoát các khoản cho vay do đánh giá không chính xác về rủi ro của khách hàng; hồ sơ tín dụng không đầy đủ
Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra trong tương lai; cho vay tài trợ các hoạt động đầu cơ
Xu hướng cho vay các khoản lớn không đúng quy định
Kiểm toán viên cũng cần chú ý các trường hợp sau có thể có sai phạm:
Trường hợp
Nguyên nhân/ Rủi ro tiềm tàng
Chính sách và các thủ tục cho vay không được xác định rõ ràng và lập văn bản cho tất cả các loại hình cho vay, gồm: loại giao dịch, bảo đảm, lãi suất, sự tuân thủ pháp luật...
Các khoản cho vay có thể không được lập đúng theo chính sách của ngân hàng.
Trong danh mục các khoản cho vay có nhiều khoản là cho vay không có bảo đảm.
Ngân hàng chịu rủi ro có thể sẽ bị thua lỗ lớn.
Các khoản lỗ khi cho vay không được ghi chép đầy đủ.
Quản lý về rủi ro tín dụng không thích đáng.
Có quan hệ thân thiết với khách hàng.
Chi tiết các khoản cho vay có thể bị ghi sai hoặc sửa chữa.
Nhân viên thiếu kinh nghiệm hoặc có sự luân chuyển liên tục nhân viên ở phòng tín dụng.
Các thủ tục cho vay có thể không được tuân thủ đúng.
Các quyết định cho vay được thực hiện bởi những người không đủ năng lực/ không đúng thẩm quyền.
Hồ sơ về các khoản cho vay không được sắp xếp theo một trật tự chuẩn.
Quản lý việc giải ngân các khoản vay hoặc ghi nhận các khoản lãi hay phí phải thu có thể yếu kém.
Không có sự phân tách trách nhiệm rõ ràng giữa cán bộ tín dụng và nhân viên quản lý tín dụng và kế toán.
Các cá nhân có thể vô ý hoặc cố ý gây ra sai phạm (biển thủ tài sản, ghi sai các khoản công nợ hoặc vào sổ sai các nghiệp vụ...) mà không có các thủ tục kiểm soát cần thiết để phát hiện kịp thời.
3. Trình tự kiểm toán
Để đảm bảo thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán hiệu lực, thích hợp cho việc đưa ra kết luận kiểm toán, với chi phí kiểm toán thấp, mọi cuộc kiểm toán đều được tiến hành theo một quy trình chung. Đó là chuẩn bị kiểm toán, thực hiện công việc kiểm toán, kết thúc và lập báo cáo kiểm toán. Một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính ngân hàng thương mại cũng tuân theo quy trình kiểm toán gồm ba bước như trên. Kiểm toán hoạt động cho vay được tiến hành song song cùng các phần khác trong toàn bộ quá trình kiểm toán.
3.1- Chuẩn bị kiểm toán
Trong giai đoạn đầu tiên của cuộc kiểm toán, kiểm toán viên lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán. Lập kế hoạch kiểm toán bao gồm ba phần: Kế hoạch chiến lược, kế hoạch tổng thể và kế hoạch chi tiết (chương trình kiểm toán). Đối với quy trình cho vay tại ngân hàng, trong giai đoạn này kiểm toán viên cũng phải thu thập được các thông tin cơ sở.
Lập kế hoạch chiến lược
Theo VSA số 300 “Kế hoạch chiến lược là những định hướng cơ bản, những nội dung trọng tâm, phương pháp tiếp cận chung của mọi cuộc kiểm toán do cấp chỉ đạo vạch ra dựa trên sự hiểu biết về tình hình hoạt động và môi trường kinh doanh của đơn vị được kiểm toán".
Kế hoạch kiểm toán chiến lược được lập cho các cuộc kiểm toán đối với khách hàng có quy mô lớn, có tính chất phức tạp, hoặc kiểm toán báo cáo tài chính trong nhiều năm. Nội dung của kế hoạch chiến lược bao gồm:
Tình hình kinh doanh, nghĩa vụ pháp lý của khách hàng;
Chế độ kế toán ngân hàng, chuẩn mực kế toán đang áp dụng và yêu cầu về lập và trình bày báo cáo tài chính;
Đánh giá hệ thống KSNB, các loại rủi ro chủ yếu và ảnh hưởng của chúng đến báo cáo tài chính;
Xác định mục tiêu kiểm toán trọng tâm và phương pháp kiểm toán;
Xác định nhu cầu về sự hợp tác của các chuyên gia. Trong ngân hàng, số lượng các nghiệp vụ cho vay rất lớn và phức tạp. Hầu hết các ngân hàng sử dụng một hệ thống xử lý thông tin trên máy tính. Chính vì vậy kiểm toán viên phải dự trù việc cần đến sự trợ giúp của các chuyên gia máy tính để có thể thu thập được những bằng chứng hữu hiệu.
Dự kiến nhóm trưởng và thời gian thực hiện
Lập kế hoạch kiểm toán tổng quát
Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán
Việc chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán bao gồm các công việc sau:
Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán cho một khách hàng mới hay tiếp tục kiểm toán cho một khách hàng truyền thống.
Nhận diện các lý do kiểm toán của khách hàng.
Lựa chọn đội ngũ nhân viên thực hiện kiểm toán: Việc lựa chọn đội ngũ nhân viên thích hợp vừa đảm bảo hiệu quả của cuộc kiểm toán vừa tuân thủ theo chuẩn mực kiểm toán chung được thừa nhận (GAAS).
Hợp đồng kiểm toán: văn bản thoả thuận chính thức giữa công ty kiểm toán và khách hàng về việc thực hiện kiểm toán và các dịch vụ liên quan khác.
Thu thập thông tin cơ sở
Trong giai đoạn này Kiểm toán viên cần:
- Tìm hiểu lĩnh vực ngân hàng, thu thập những hiểu biết về nền kinh tế. Ngoài ra cần hiểu biết về công nghệ ngân hàng, hệ thốn._.ự phòng của Ngân hàng Thế giới, kết hợp các quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước để hình thành hệ thống xếp hạng riêng phù hợp cho mình.
2. Đối chiếu sao kê tín dụng với sổ cái kế toán:
Ngân hàng thực hiện đối chiếu hàng tháng giữa số dư nợ vay trên Sao kê tín dụng và Sổ cái. Tuy nhiên, việc đối chiếu còn sơ sài nên nhiều chênh lệch đã bị bỏ sót. Ngân hàng chưa tiến hành điều tra, xử lý nên những chênh lệch này vẫn còn tồn tại đến tận thời điểm kiểm toán. Điều này có thể khiến cho các sai sót không được phát hiện kịp thời.
Ngân hàng nên ban hành quy chế để những chênh lệch được phát hiện ra trong quá trình đối chiếu được giải quyết kịp thời và triệt để.
3. Phân loại sao kê tín dụng theo ngành nghề kinh doanh:
Sao kê tín dụng của Ngân hàng có phân loại theo khách hàng, thời hạn, loại hình đảm bảo… mà không phân loại theo ngành nghề. Thực tế là khả năng trả nợ của khách hàng tùy thuộc một phần vào loại hình kinh doanh. Việc phân tích tín dụng dựa theo loại hình kinh doanh sẽ giúp Ngân hàng quản lý rủi ro tín dụng dễ dàng hơn và đưa ra quyết định liên quan đến các khoản vay một cách chính xác hơn. Ngân hàng nên có quy trình lập báo cáo phân tích tín dụng theo loại hình/ lĩnh vực kinh doanh.
4. Báo cáo tín dụng tổng hợp theo dõi khách hàng có nhiều hạn mức vay hoặc có khoản vay tại nhiều chi nhánh:
Ngân hàng không lập báo cáo cho các khoản vay của những khách hàng có nhiều hạn mức hay đồng thời vay ở hai chi nhánh trở lên. Việc quản lý rủi ro tín dụng sẽ khó khăn hơn khi Ngân hàng không nắm đủ các thông tin cần thiết để theo dõi tổng dư nợ vay của từng khách hàng.
Ngân hàng nên theo dõi và lập báo cáo định kỳ về tình hình dư nợ của những khách hàng có nhiều hạn mức hoặc vay tại hai hay nhiều chi nhánh. Các báo cáo này cần được gửi đến tất cả các chi nhánh trong toàn quốc để tham khảo. Bất cứ khoản vay mới nào đối với những khách hàng kể trên nên được thông báo với Hội Sở để đảm bảo tổng giá trị khoản vay không vượt quá hạn mức cho phép.
Tuy nhiên, theo các quy định hiện hành tại Việt Nam về cho vay mà Ngân hàng phải tuân thủ, Ngân hàng GX không có các sai phạm trọng yếu trong việc trình bày các khoản cho vay, lãi thu từ cho vay và các khoản dự phòng cho khoản nợ khó đòi. Vì vậy, ngoài những lưu ý nêu trên, kiểm toán viên của KPMG vẫn đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần.
V – so sánh hoạt động Kiểm toán quy trình cho vay đối với hai ngân hàng do KPMG thực hiện
1. Đối chiếu quá trình kiểm toán quy trình cho vay với hai ngân hàng
Trong thực hiện kiểm toán quy trình cho vay đối với hai ngân hàng thuộc hai loại hình khác nhau (một ngân hàng nước ngoài thuộc tập đoàn ngân hàng quốc tế và một ngân hàng cổ phần trong nước với các chi nhánh), KPMG đã thực hiện những bước kiểm toán cụ thể khác nhau sao cho thích hợp nhất đối với mỗi ngân hàng.
Với Ngân hàng AT, thuộc một tập đoàn có vị thế trong khu vực, là khách hàng kiểm toán thường xuyên lâu năm của KPMG, công ty đã đạt được những hiểu biết khá đầy đủ và toàn diện về khách hàng. Hệ thống kiểm soát nội bộ của AT được xây dựng hoàn thiện qua nhiều năm, theo nhận xét của KPMG khẳng định về thiết kế và vận hành đều tốt và đáng tin cậy, kiểm toán viên chú trọng thực hiện các thử nghiệm kiểm soát nhằm giảm bớt thời gian và chi phí kiểm toán mà vẫn đạt được những kết luận có giá trị. Các thử nghiệm cơ bản tiến hành không đòi hỏi phải thực hiện với số lượng lớn và quá chi tiết.
Với Ngân hàng GX, KPMG thực hiện cuộc kiểm toán lần đầu nên luôn chú ý thu thập thêm những thông tin cần thiết chưa được dự tính trước. Do thời gian GX đi vào hoạt động chưa lâu, mặc dù hệ thống kiểm soát nội bộ đã được chú trọng nhưng vẫn còn những thiếu sót, những điểm chưa được xây dựng đầy đủ. Kiểm toán viên của KPMG thu thập bằng chứng kiểm toán hợp lý bằng cách thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết với những khâu mà kiểm soát nội bộ không có hoặc hoạt động không hiệu lực. Cụ thể như sau:
Hệ thống xếp hạng tín dụng của ngân hàng chưa hoàn chỉnh nên trong rà soát tín dụng, KPMG chú ý hơn đến vấn đề đánh giá khách hàng vay của GX trên phương diện khả năng thu hồi vốn.
Việc đối chiếu hàng tháng giữa số dư nợ vay trên Sao kê tín dụng và Sổ cái thực hiện còn sơ sài, nhiều chênh lệch bị bỏ sót. Kiểm toán viên KPMG phải thực hiện đối chiếu lại kỹ lưỡng và phỏng vấn các nhân viên Ngân hàng về các chênh lệch phát hiện được, tìm hiểu bản chất để đưa ra bút toán điều chỉnh thích hợp.
Tổng hạn mức tối đa cho một khách hàng/nhóm khách hàng vay ở các chi nhánh khác nhau chưa được Ngân hàng quản lý. Vì vậy, các kiểm toán viên đã phải lập một báo cáo hợp nhất về các khoản cho vay theo khách hàng, nhằm đảm bảo số dư cho vay của mỗi khách hàng đối với toàn ngân hàng không vượt quá hạn mức quy định.
Các điểm còn yếu trong hệ thống kiểm soát của Ngân hàng GX đều được KPMG nêu ra trong thư quản lý và đề xuất các khuyến nghị nhằm giúp cho Ngân hàng đạt được mô hình kiểm soát tốt hơn trong tương lai, đảm bảo an toàn hoạt động cho vay, tăng cường khả năng sinh lời.
2. Tổng kết chung quá trình kiểm toán quy trình cho vay trong các ngân hàng thương mại do KPMG thực hiện
Mặc dù có một số bước kiểm toán cụ thể khác nhau với từng ngân hàng, phương pháp tiếp cận kiểm toán chung của KPMG vẫn là kiểm toán dựa vào rủi ro, kiểm toán một cách hệ thống theo quy trình hoạt động. Kiểm toán viên thực hiện các thử nghiệm để thu thập bằng chứng kiểm toán nhằm đảm bảo rằng hệ thống kiểm soát nội bộ được dựa vào để kiểm toán là một hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu quả. Tức là kiểm toán viên phải xem xét ngân hàng có đưa ra các quy định về cơ chế phòng ngừa rủi ro và chúng có hoạt động tốt hay không, cơ chế hoạt động có thực hiện các nguyên tắc cơ bản của kiểm soát nội bộ như nguyên tắc bất kiêm nhiệm, nguyên tắc phân tách chức năng giữa các bộ phận, không có sự chồng chéo trong công việc quyền lợi, có quy định rõ về thẩm quyền. Đặc biệt, quy trình cho vay với đặc trưng số lượng giao dịch lớn và có nhiều rủi ro, cùng với tỷ trọng lớn trên báo cáo tài chính, càng cần được quan tâm hơn về các biện pháp kiểm soát nội bộ với quy trình.
Sau đây là sơ đồ về trình tự các bước kiểm toán quy trình cho vay trong kiểm toán báo cáo tài chính các ngân hàng thương mại do KPMG thực hiện:
Kết thúc kiểm toán
chương 3: bài học kinh nghiệm và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động kiểm toán quy trình cho vay tại công ty tnhh kpmg
I - Nhận xét chung và những Bài học kinh nghiệm từ quá trình kiểm toán quy trình cho vay do KPMG thực hiện
1. Các nhận xét chung
Hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu, đem lại nguồn thu chính cho các Ngân hàng thương mại, đồng thời lại là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất. Do đó, công tác kiểm toán hoạt động cho vay có một vai trò vô cùng quan trọng. Hoạt động kiểm toán quy trình cho vay góp phần:
- Cung cấp cho những người quan tâm những thông tin trung thực về thực trạng hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, giúp cho các nhà quản lý của Ngân hàng có những đánh giá chính xác và có những điều chỉnh kịp thời để điều tiết hoạt động cho vay;
- Đề xuất các biện pháp sửa đổi và cải tiến công tác quản lý hoạt động cho vay trong các ngân hàng thương mại;
- Qua kiểm toán, kiểm toán viên đưa ra những nhận xét, đánh giá, xác nhận về tính đúng đắn của các số liệu báo cáo nói chung, số liệu về hoạt động cho vay nói riêng, củng cố lòng tin và đảm bảo lợi ích cho các bên liên quan.
KPMG là một trong bốn công ty kiểm toán về dịch vụ kiểm toán và tư vấn tài chính hàng đầu thế giới hiện đang có mặt tại Việt Nam, với thế mạnh nổi bật về kiểm toán ngân hàng. Hoạt động ở Việt Nam từ năm 1994, công ty kiểm toán quốc tế KPMG đã góp phần vào sự nghiệp phát triển ngành kiểm toán. Phương pháp kiểm toán của KPMG đã được xây dựng thành hệ thống thống nhất trên toàn cầu, liên tục phát triển và được cập nhật, cải tiến phù hợp với những thay đổi của nền kinh tế thế giới. Thực tế hoạt động của KPMG Việt Nam cho thấy phương pháp kiểm toán của KPMG trong lĩnh vực ngân hàng tài chính luôn được hoàn thiện theo thời gian. Chính điều này đã đưa KPMG trở thành công ty hàng đầu trong việc cung cấp các dịch vụ chuyên môn cho các tổ chức tài chính tại Việt Nam. Lợi thế của phương pháp kiểm toán này là:
Tập trung vào các quy trình chủ chốt ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng, cùng với việc tập hợp các ý kiến phản hồi về các rủi ro, các yếu điểm trong hệ thống kiểm soát và các cơ hội hoàn thiện hoạt động của Ngân hàng;
Các vấn đề quan trọng được phản ánh một cách chủ động và kịp thời tới các cấp lãnh đạo, giúp ban lãnh đạo các ngân hàng thông qua kiểm toán đưa hoạt động kinh doanh đi đúng hướng;
Hiệu quả tối đa và giảm thiểu chi phí nhờ biện pháp kiểm toán dựa vào rủi ro của KPMG; và
Đáp ứng kịp thời tất cả các yêu cầu về thời hạn báo cáo.
2. Bài học kinh nghiệm rút ra từ kiểm toán quy trình cho vay các ngân hàng thương mại do KPMG Việt Nam thực hiện
Phương pháp kiểm toán báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại do KPMG thực hiện có những thế mạnh vượt trội, trong đó kiểm toán quy trình cho vay chiếm một vị trí quan trọng. Kiểm toán quy trình cho vay do KPMG thực hiện có những điểm đáng học tập như:
2.1- Phương pháp kiểm toán dựa vào rủi ro
Phương pháp kiểm toán của KPMG rất chú trọng đến việc đánh giá rủi ro, và các công việc kiểm toán cũng dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro để thiết lập và thực hiện (risk-based). Kiểm toán nói chung đều nhằm mục đích hạn chế, ngăn ngừa các rủi ro trong hoạt động của đơn vị. Để tránh những thất thoát có thể đe doạ tới sự tồn tại của ngân hàng trong tương lai, yêu cầu đặt ra cho kiểm toán là phải định hướng vào rủi ro đối với tổ chức cơ cấu, quy trình hoạt động, việc quản lý và điều tiết rủi ro cũng như cơ chế kiểm tra nội bộ của tất cả các quy trình hoạt động và kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là quy trình cho vay. Chính vì vậy, việc phân tích rủi ro là khâu đầu tiên trong quá trình kiểm toán ngân hàng thương mại của KPMG với mục đích không bỏ sót lĩnh vực nhiều rủi ro khi lên kế hoạch kiểm toán.
KPMG đánh giá rủi ro theo 2 hướng: rủi ro chiến lược kinh doanh và rủi ro các lớp nghiệp vụ trọng yếu.
Rủi ro chiến lược kinh doanh: liên quan đến các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới Ngân hàng và các yếu tố nội lực của Ngân hàng. Các yếu tố bên ngoài như chính trị, kinh tế, xã hội, công nghệ…; các yếu tố nội lực của ngân hàng gồm các chiến lược và mục tiêu quản lý, các chỉ tiêu đánh giá hoạt động và rủi ro, môi trường kiểm soát bên trong ngân hàng. KPMG tập trung vào tất cả các vấn đề trọng yếu có liên quan. Chẳng hạn như lạm phát quốc gia, các cuộc khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng hệ thống ngân hàng có thể dẫn đến rủi ro các ngân hàng không thu hồi được nợ và khả năng phải xóa sổ các khoản nợ là lớn. Hoặc bước tiến của công nghệ thông tin làm thay đổi về căn bản sản phẩm của ngân hàng do đòi hỏi của hội nhập quốc tế có thể ảnh hưởng đến quy trình nghiệp vụ của các nhân viên, nếu trình độ của nhân viên không đáp ứng kịp có thể kéo theo những sai phạm trọng yếu trên báo cáo tài chính...
Rủi ro các lớp nghiệp vụ trọng yếu: KPMG xác định và kiểm tra các quy trình nghiệp vụ trọng yếu của ngân hàng; đánh giá các rủi ro tiềm ẩn trong các quy trình này và các kiểm soát hiện có của ngân hàng để quản lý các rủi ro đó.
Việc phân tích rủi ro đặc biệt quan trọng trong kiểm toán quy trình cho vay của ngân hàng thương mại vì rủi ro của quy trình này là rất lớn. Khi phân tích rủi ro, KPMG tiến hành phân tích theo hệ thống một cách tổng thể, thống nhất theo một tiêu chuẩn chung hướng dẫn kiểm toán viên thu thập được đầy đủ thông tin để ra những đánh giá và nhận định đúng đắn nhất. Những đối tượng có khả năng rủi ro nhiều sẽ được lựa chọn đưa vào chương trình kiểm toán trước và những đối tượng có rủi ro thấp hơn sẽ được thực hiện sau. Với quy trình cho vay của ngân hàng, kiểm toán viên quan tâm đến các lớp nghiệp vụ về chi phát tiền vay, thu hồi nợ vay, thu nhập từ lãi cho vay. Việc đánh giá rủi ro tiềm tàng trong các nghiệp vụ cũng như rủi ro kiểm soát của các lớp nghiệp vụ này ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu thập các bằng chứng liên quan đến cơ sở dẫn liệu của các khoản mục trong quy trình cho vay.
Việc phân tích rủi ro còn nhằm giúp cho đội kiểm toán xác định được phương pháp kiểm toán phù hợp. Nếu đánh giá mức độ rủi ro thấp, phương pháp kiểm toán KPMG có thể áp dụng là kiểm tra tiếp cận dựa trên hệ thống kiểm soát nội bộ, giảm bớt phương pháp kiểm tra chi tiết và sẽ có quyết định ngược lại nếu đánh giá mức độ rủi ro cao.
Để hoạt động kiểm toán định hướng vào rủi ro thì đòi hỏi mỗi kiểm toán viên của KPMG phải nhận biết được các loại hình rủi ro mà ngân hàng hàng phải đối phó. Tìm hiểu rủi ro được KPMG thực hiện ngay từ đầu khi tìm hiểu khách hàng; trong công tác lập kế hoạch kiểm toán cũng như trong quá trình thực hiện kiểm toán phải luôn chú ý tới những rủi ro có thể xảy ra để đảm bảo hiệu quả cho cuộc kiểm toán và tiết kiệm chi phí. Đồng thời kiểm toán viên có thể phát hiện kịp thời những vấn đề mới để có những điều chỉnh thích hợp trong việc thực hiện các thủ tục kiểm toán. Tuy nhiên, việc kiểm toán dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro của khách hàng, không bỏ sót bất cứ một thủ tục nào cũng khiến cho chi phí kiểm toán còn cao so với mặt bằng chung trên thị trường Việt Nam.
2.2- Phần mềm rà soát tín dụng cho kiểm toán viên
Phương pháp rà soát danh mục cho vay của KPMG rất có hiệu quả, giúp kiểm toán viên thu thập đầy đủ bằng chứng phục vụ cho mục tiêu kiểm toán, đồng thời giúp các nhà quản lý ngân hàng trong việc hoàn thiện quản lý hoạt động cho vay. KPMG không chỉ xác minh các báo cáo tài chính và bày tỏ ý kiến mà còn đưa ra những kiến nghị như một công cụ giúp ban lãnh đạo đánh giá thực trạng tài chính của ngân hàng, đối chiếu với các mục tiêu cụ thể. Qua đó, KPMG cũng chỉ ra các nguyên nhân hạn chế và giải pháp khắc phục giúp cho ngân hàng đạt tới một trạng thái tốt hơn.
Phương pháp này cung cấp cho các kiểm toán viên một phần mềm đánh giá hồ sơ cho vay của các khách hàng được lập trình sẵn (File Promaker). Đối với quy trình cho vay trong các ngân hàng thương mại, việc thực hiện rà soát các khoản cho vay đòi hỏi một trình độ cao và kinh nghiệm ở kiểm toán viên. Do đó, những nhận định của kiểm toán viên trong việc đánh giá và xếp hạng chất lượng của khoản cho vay theo các mức đạt, lưu ý đặc biệt, kém chất lượng, khó đòi hay thua lỗ (mất khả năng thu hồi) phải được đem ra thảo luận trong nhóm kiểm toán kỹ lưỡng trước khi có quyết định cuối cùng. Điều này một mặt sẽ đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán, mặt khác góp phần nâng cao trình độ cho kiểm toán viên trong quá trình thảo luận thực tế.
2.3- Phối hợp giữa các dạng kiểm toán
KPMG chú ý đến cả 2 dạng kiểm toán phòng ngừa và kiểm toán phát hiện vì chúng có tác dụng bổ trợ cho nhau. Kiểm toán phòng ngừa hướng về việc khuyến cáo các rủi ro có thể dẫn tới gian lận sai sót trong tương lai, trong khi kiểm toán phát hiện chỉ nêu lên những gian lận sai sót đã xảy ra. Trong thời gian trước mắt, khi mà ý thức chấp hành các quy định nội bộ, các quy định pháp luật ở cán bộ viên chức chưa nghiêm, kiểm toán ngăn ngừa rất quan trọng. Làm tốt loại kiểm toán này, KPMG có thể đưa ra kiến nghị cho ban lãnh đạo ngân hàng có xử phạt nghiêm minh giúp hạn chế các sai sót, gian lận trong tương lai.
2.4- Kiểm soát chặt chẽ chất lượng kiểm toán
Về việc đảm bảo chất lượng kiểm toán thể hiện qua quy trình kiểm toán, KPMG đặt các cấp Kiểm toán viên để tạo cơ hội cho kiểm toán viên phấn đấu thăng tiến, do vậy mà có tác dụng nâng cao chất lượng kiểm toán; nêu rõ tiêu chuẩn từng cấp cho kiểm toán viên cố gắng trau dồi năng lực. Trách nhiệm, quyền hạn của từng cấp kiểm toán viên được xác định rõ. Giao nhiệm vụ cho một Kiểm toán viên cao cấp giám sát, có một số kiểm toán viên cấp thấp hơn giúp việc để thực hiện kiểm toán một nội dung nào đó. Công việc thực hiện của các kiểm toán viên luôn được giám sát chặt chẽ bởi trưởng nhóm kiểm toán và theo sát kế hoạch kiểm toán đã được lập. Tất cả các vấn đề nẩy sinh trong quá trình kiểm toán đều được thông báo tới cả nhóm kiểm toán viên. Do thực hiện kiểm toán theo chu trình nên các phần hành kiểm toán được liên kết chặt chẽ với nhau và được thường xuyên kiểm tra đối chiếu với nhau. Toàn bộ kết quả kiểm toán của cả nhóm sau đó lại được rà soát bởi Trưởng phòng kiểm toán và cuối cùng là Phó Giám đốc Công ty để hoàn thiện hồ sơ và đưa ra ý kiến kiểm toán cuối cùng. Việc rà soát qua nhiều lớp như vậy sẽ giảm thiểu tối đa rủi ro phát hiện và đảm bảo chất lượng kiểm toán.
2.5- Tiêu chuẩn kiểm toán viên
KPMG rất chú trọng việc tuân thủ về tính độc lập của kiểm toán viên. Đối với các ngân hàng có mối quan hệ gắn bó với kiểm toán viên (về quan hệ huyết thống, về lợi ích kinh tế) thì kiểm toán viên đó sẽ không được bố trí vào đội kiểm toán cho khách hàng này. Như vậy, KPMG đã giảm thiểu khả năng các kiểm toán viên có thể cố tình che giấu các gian lận sai sót phát hiện được về tình hình tài chính của khách hàng hay cố ý đưa ra ý kiến thiên lệch về báo cáo tài chính được kiểm toán. Về năng lực chuyên môn, KPMG bố trí trưởng nhóm phải là người có kinh nghiệm và hiểu biết vững vàng, đồng thời cố gắng duy trì nhân sự của nhóm kiểm toán đối với một khách hàng cụ thể ổn định qua các năm.
Người làm công tác kiểm toán luôn phải “đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu trong mọi trường hợp”. Họ vừa là người phải có đầy đủ kiến thức chuyên môn, vừa là người trung thực, khách quan và độc lập trong hoạt động nghiệp vụ. Vì vậy, KPMG luôn có sự lựa chọn kỹ càng đội ngũ kiểm toán viên.
II - Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện kiểm toán quy trình cho vay tại công ty tnhh kpmg
1. Sự cần thiết phải đổi mới, hoàn thiện các phương pháp thủ tục kiểm toán
Kiểm toán độc lập quy trình cho vay là một nhu cầu tất yếu: Nhân viên tác nghiệp có thể do vô ý hoặc lãng quên nên không tuân thủ các quy trình thủ tục hoặc trở nên cẩu thả trong quá trình thao tác nghiệp vụ. Cần có người đứng bên ngoài quy trình tiến hành quan sát, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện các nghiệp vụ giao dịch, tác nghiệp của họ; phát hiện và ngăn ngừa sự gian lận, cố ý sai phạm xảy ra.
Nền kinh tế toàn cầu luôn luôn biến động, trong đó môi trường kinh doanh, yêu cầu tuân thủ luật pháp quốc gia và quốc tế ngày càng trở nên phức tạp hơn. Hiện nay chúng ta đã tham gia một số các tổ chức lớn trong khu vực như ASEAN, ASEM, APEC… với tư cách thành viên chính thức, và mục tiêu trước mắt là gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO vào năm 2005. Để đạt mục tiêu đó, một mặt nền kinh tế của nước ta phải đổi mới nhanh chóng nhằm đáp ứng những điều kiện đặt ra, mặt khác cần phải đổi mới các chính sách, các quy định pháp luật sao cho hoà hợp chung với các quy ước, các chuẩn mực quốc tế. Hoạt động cho vay cũng chịu những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp từ các yếu tố này. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng và sự hội nhập quốc tế, rủi ro trong quy trình cho vay cũng có tính đa dạng và phức tạp hơn, nhất là khi các ngân hàng thương mại Việt Nam áp dụng kinh doanh các sản phẩm mới đang được thực hiện tại các ngân hàng trên thế giới. Để bắt kịp những thay đổi về kinh doanh, về thể thức kế toán và ứng dụng của công nghệ thông tin, phương pháp kiểm toán cũng cần phải luôn được hoàn thiện, đổi mới.
Công ty kiểm toán KPMG là một công ty có danh tiếng trên toàn cầu với một phương pháp kiểm toán chặt chẽ và đáng tin cậy, đặc biệt với lĩnh vực kiểm toán ngân hàng. Tuy nhiên, quá trình hoạt động của KPMG ở Việt Nam chưa lâu, nền kinh tế Việt Nam lại có nhiều đặc trưng riêng của thời kỳ quá độ nên cũng đòi hỏi một phương pháp kiểm toán riêng thích hợp. Hiện nay, với chính sách mở cửa của Việt Nam gia nhập vào khối AFTA năm 2001-2005, với sự phát triển vượt bậc về số lượng và chất lượng phục vụ của các công ty kiểm toán Việt Nam, để đảm bảo giữ vững uy tín của công ty hàng đầu thế giới với các khách hàng và đứng vững trong thị trường cạnh tranh khốc liệt ở Việt Nam, Ban Giám Đốc của KPMG cần quan tâm hơn nữa đến việc hoàn thiện tổ chức kiểm toán quy trình cho vay.
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện kiểm toán quy trình cho vay tại công ty TNHH KPMG
Qua nghiên cứu, tìm hiểu lý luận và thực tiễn kiểm toán quy trình cho vay tại Công ty KPMG, em xin đưa ra một số ý kiến nhằm góp phần hoàn thiện tổ chức kiểm toán quy trình này như sau:
2.1- Về công tác lập kế hoạch kiểm toán
KPMG cũng gặp phải một số khó khăn do đặc trưng mùa vụ của công việc phải kiểm toán cho các ngân hàng khác nhau vào cùng một thời điểm. Mặc dù các trưởng phòng kiểm toán đã cố gắng sắp xếp bố trí nhân lực trên kế hoạch công tác và ước tính thời gian kiểm toán cần thiết tại đơn vị khách hàng, song thực tế có thể nảy sinh những vấn đề ngoài dự kiến khiến cho công việc cần thực hiện tăng lên. Khi đó, để có thêm nhân sự cho đội kiểm toán là rất khó khăn, vì các kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán khác của công ty cũng đang tham gia kiểm toán một khách hàng khác. Công ty có thể tuyển thêm nhân viên kiểm toán cho phù hợp với quy mô số lượng khách hàng, cũng như tăng cường đào tạo để nâng cao trình độ của mỗi kiểm toán viên, từ đó giảm bớt áp lực trong mỗi cuộc kiểm toán. Điều này cũng phù hợp với chiến lược chung hiện tại của công ty.
2.2- Về việc tiến hành chọn mẫu
Trong kiểm toán, KPMG có thể áp dụng chọn các khoản mục từ một tổng thể, chọn các khoản mục cá biệt, hay chọn mẫu đại diện (theo kế hoạch chọn mẫu KPMG được hướng dẫn trong KAM). Tuy nhiên trên thực tế, mẫu được chọn phần lớn dựa vào nhận định nghề nghiệp và kinh nghiệm của kiểm toán viên, thường đều là các khoản cho vay có giá trị lớn và hai hay ba khoản như vậy đã chiếm một tỷ trọng khá cao trong tổng thể. Như vậy việc chọn mẫu đã bỏ qua những khoản khác có giá trị trung bình chiếm phần lớn trong tổng thể không được kiểm tra. Điều này có thể gây ra bỏ sót những sai phạm tiềm ẩn trong các khoản bị bỏ qua này.
Kiểm toán viên nên áp dụng nhiều tiêu chuẩn chọn mẫu hơn ngoài tiêu thức giá trị của các phần tử trong tổng thể. Việc này có thể thực hiện thông qua phân tầng phân tổ, đảm bảo mẫu chọn mang tính đại diện cao. Các khoản cho vay được chọn để kiểm tra ngoài tiêu chí có giá trị lớn, có thể là khoản cho vay mà kiểm toán viên nhận thấy có vấn đề, hoặc mới được cấp trong năm, các khoản cho vay được gia hạn nhiều lần…
2.3- Về các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán
Để thực hiện kiểm toán hoạt động cho vay, kiểm toán viên có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau như:
+ Xem xét, phân tích tài liệu hiện có (hồ sơ tín dụng, danh mục cho vay, tài liệu của trung tâm thông tin tín dụng CIC…), qua đó có thể đánh giá những rủi ro tiềm ẩn.
+ Phỏng vấn cán bộ liên quan đến quy trình để biết cán bộ đã nắm quy trình, đã thực hiện quy trình đến đâu. Xác định chỗ nào có thể phát sinh rủi ro do cán bộ không hiểu, không nắm vững những quy định, quy tắc của ngân hàng, cán bộ có đề xuất gì để xử lý rủi ro. Phỏng vấn cán bộ để biết được những rủi ro mà cán bộ gặp phải là thấp hay cao, từ đó giảm bớt hay cần thêm bước kiểm toán nào khác.
+ Đánh giá thông qua thị sát: Kiểm toán viên phải tự đi xem xét và đánh giá, nhìn nhận xem trên thực tế các nhân viên ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay như thế nào.
+ Bản danh mục câu hỏi: Danh mục câu hỏi về hệ thống giám sát tín dụng và danh mục câu hỏi để kiểm toán từng trường hợp riêng lẻ. Thông qua đó, có thể đánh giá hệ thống cơ chế kiểm tra nội bộ cài đặt trong quy trình cho vay được thực hiện như thế nào.
+ Vẽ sơ đồ hoạt động để biết công đoạn nào cán bộ phải thực hiện thao tác gì. Thông qua vẽ sơ đồ để phát hiện điểm mạnh, điểm yếu trong quy trình.
+ Các chương trình vi tính: Có thể áp dụng các chương trình phần mềm vi tính để hỗ trợ cho công tác kiểm tra.
Phương pháp kiểm toán của KPMG đã bao quát các công cụ như phân tích tài liệu, phỏng vấn cán bộ, thị sát, sử dụng sự hỗ trợ của các chương trình vi tính. Tuy nhiên, KPMG chưa tận dụng lợi thế của Bảng danh mục câu hỏi và Sơ đồ hoạt động của quy trình để khai thác các bằng chứng cần thiết phục vụ cho việc đưa ra ý kiến thích hợp cho quy trình cho vay. Đây là 2 công cụ hữu ích mà KPMG cũng nên sử dụng trong kiểm toán ngân hàng nói chung và kiểm toán quy trình cho vay nói riêng. Qua đó, kiểm toán viên có thể đánh giá cơ chế giám sát nội bộ trong ngân hàng hoạt động có hiệu quả không, phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của các quy định và thực hiện những quy định đó. Thông qua đó, xác định những rủi ro phát sinh mà chưa được phát hiện.
2.4- Về thủ tục phân tích với quy trình cho vay
Hiện nay, kiểm toán viên chủ yếu tiến hành phân tích ngang so sánh giữa năm hiện tại với năm trước, việc phân tích dọc chỉ được thực hiện về khả năng sinh lời của thu nhập lãi từ cho vay.
Kiểm toán viên nên sử dụng thêm các thủ tục phân tích để so sánh các kết quả từ hoạt động cho vay với các ngân hàng có cùng quy mô, các ngân hàng thuộc cùng loại hình, cũng như so sánh với các định hướng chung của ngành để có được cái nhìn toàn diện hơn về toàn bộ kết quả hoạt động của quy trình. Các so sánh này không chỉ gồm các chỉ tiêu tài chính (như tỷ lệ lãi thu từ cho vay trên tổng thu nhập của ngân hàng, lỗ do phải xoá sổ các khoản nợ không thu hồi được) mà còn gồm các chỉ tiêu phi tài chính (như cơ cấu khách hàng, phương pháp áp dụng để thu hút và duy trì các khách hàng vay của mỗi ngân hàng…). Việc so sánh với các ngân hàng khác trong quá trình thực hiện kiểm toán quy trình cho vay trong kiểm toán Báo cáo tài chính trong các Ngân hàng thương mại có thể giúp kiểm toán viên đánh giá được vị thế trên thị trường của ngân hàng này là ở mức độ nào? Có hợp lý hay không? Việc thực hiện thêm các thủ tục phân tích này vừa không tốn nhiều thời gian đối với một công ty có nhiều khách hàng trong lĩnh vực ngân hàng như KPMG, qua trao đổi với các kiểm toán viên thực hiện kiểm toán khách hàng khác, lại vừa mang lại hiệu quả cho những nhận định của kiểm toán viên.
2.5- Về đào tạo kỹ năng sử dụng Excel
Thứ năm là công tác đào tạo kiểm toán viên. Tại KPMG, công tác này vốn rất được chú trọng, tiến hành trên các lĩnh vực: Kiến thức chung về nghiệp vụ ngân hàng, kiến thức về pháp luật, kiến thức về kinh tế, kiến thức về chuyên môn về lĩnh vực kiểm toán. Ngoài ra, yêu cầu đối với mỗi kiểm toán viên còn phải nắm vững các kiến thức về tin học, ngoại ngữ, kỹ năng kiểm toán, kỹ năng giao tiếp… được chứng minh qua thi tuyển phỏng vấn và được kiểm toán viên tự trau dồi thêm. Tuy nhiên, riêng về mảng tin học Excel, một công cụ quen thuộc và lại hỗ trợ rất nhiều cho công việc kiểm toán, nên được KPMG tổ chức một lớp học ngắn về các kỹ năng thường dùng trong kiểm toán. Với các kỹ năng này, khối lượng công việc kiểm toán có thể giảm đi đáng kể, góp phần tiết kiệm thời gian và chi phí, nâng cao hiệu quả công việc của mỗi kiểm toán viên.
Kết luận
Trong bối cảnh nền kinh tế tài chính vận động hướng tới mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp tiên tiến hiện đại vào năm 2020, các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam đang ngày càng tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh, đổi mới hoàn thiện các cơ chế nghiệp vụ của mình. Tại các Ngân hàng thương mại, hoạt động cho vay đem lại nguồn thu nhập chính, đồng thời cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Những năm qua, hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại còn chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn, nợ quá hạn, nợ khó thu hồi và không có khả năng thu hồi vẫn chiếm một số lượng đáng kể làm ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng. Kiểm toán quy trình cho vay vì vậy có ý nghĩa rất cần thiết nhằm hạn chế rủi ro, ngăn chặn, phát hiện kịp thời và cảnh báo các sai phạm trong quy trình, đảm bảo an toàn hoạt động cho vay của các ngân hàng, góp phần thực hiện mục tiêu sinh lời của ngân hàng. Để đáp ứng nhu cầu nêu trên, nâng cao chất lượng kiểm toán quy trình cho vay là một yêu cầu bức xúc đặt ra cho các công ty kiểm toán, góp phần đảm bảo sự ổn định an toàn và vững mạnh của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Hoạt động của các công ty kiểm toán ở nước ta đã ra đời và phát triển trong hơn 10 năm, một thời gian rất ngắn so với lịch sử lâu đời của kiểm toán trên thế giới. Kiểm toán đối với các ngân hàng thương mại ở nước ta lại càng mới hơn. Trong số các công ty thực hiện kiểm toán đối với các Ngân hàng thương mại, có thể nói KPMG luôn giữ vai trò đứng đầu về uy tín và chất lượng và đã có những đóng góp đáng kể vào nền kinh tế Việt Nam.
Chuyên đề thực tập nêu lên cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động cho vay trong các Ngân hàng thương mại và hoạt động kiểm toán quy trình cho vay do KPMG thực hiện. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cũng như những kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động kiểm toán quy trình cho vay nói riêng và quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính của các Ngân hàng thương mại nói chung. Do giới hạn về thời gian, lượng kiến thức nghiên cứu còn chưa sâu nên bài viết còn nhiều hạn chế thiếu sót. Vì vậy, em rất mong có được ý kiến của các thầy cô, sự đóng góp của các bạn và những người quan tâm tới kiểm toán quy trình cho vay trong ngân hàng thương mại để đưa ra những nhận định sâu sắc hơn. Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới thạc sĩ Nguyễn Hồng Thuý và các anh chị kiểm toán viên công ty KPMG đã trực tiếp hướng dẫn, góp ý và giúp đỡ em trong quá trình thực tập./.
Hà Nội, ngày 27 tháng 05 năm 2005
Sinh viên
Phùng Thị Hương Giang
Danh mục tài liệu tham khảo
STT
Tên tài liệu
Tên tác giả
NXB/Năm XB
1
Kiểm toán
Alvin A. Arens James K.Loebbecke
Thống kê/2000
2
Lý thuyết kiểm toán
GS.TS. Nguyễn Quang Quynh
Tài chính/1998
3
Kiểm toán tài chính
GS.TS. Nguyễn Quang Quynh
Tài chính/2001
4
Kiểm toán Ngân hàng
ThS. Lâm Thị Hồng Hoa
ThS. Nguyễn Thị Loan
Thống kê/2002
5
Kế toán Ngân hàng
NGƯT. Vũ Thiện Thập
Thống kê/2002
6
Quản trị Ngân hàng thương mại
Peter S.Rose
Tài chính/2001
7
Các văn bản pháp luật hiện hành về Ngân hàng
Thống kê/2002
8
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (quyển I,II,III,IV,V)
Bộ Tài chính
Tài chính 2001/2003/2004
9
Hệ thống chuẩn mực Quốc tế về kiểm toán
Bộ Tài chính
Tài chính/1998
10
Sổ tay kiểm toán
EURO - TAPVIET
Bộ Tài chính
Tài chính/1998
11
Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại
David Cox
Chính trị quốc gia 1997
12
Bank Practice Guide
Tài liệu hướng dẫn thực hành kiểm toán ngân hàng của KPMG
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36257.doc