Lời mở đầu
Như chúng ta đã biết quy luật kinh tế quan trọng hàng đầu là quy luật tiết kiệm thời gian. Quy luật này có liên quan trực tiếp tới tổ chức lao động khoa học, mặt khác một trong những nhiệm vụ quan trọng của tổ chức lao động khoa học là tiết kiệm thời gian làm việc. Những hao phí lao động cần thiết để hoàn thành công việc hoặc chế tạo sản phẩm phù hợp với điều kiện tổ chức và kỹ thuật nhất định đã được thể hiện trong các mức. Chính sự thể hiện đó đã làm cho định mức lao động có liên q
36 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1243 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hình thức trả công trong Doanh nghiệp hiện nay là 1 yêu cầu cấp bách, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uan chặt chẽ với tổ chức lao động khoa học. Hơn thế nữa, xét theo những phương hướng cụ thể của tổ chức lao động khoa học thì định mức kỹ thuật lao động có vai trò hết sức quan trọng vì nhờ định mức kỹ thuật lao động mà có thể áp dụng những nội dung của tổ chức lao động khoa học vào thực tế. Việc lựa chọn và áp dụng trong thực tế những dự án của bất cứ phương hướng tổ chức lao động khoa học nào cũng không thể thực hiện được nếu không có các mức lao động tương ứng, phù hợp với những điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định.
Định mức lao động tạo khả năng kế hoạch hoá tốt hơn bảo đảm thực hiện có hiệu quả nhất việc tính toán xác định số lượng máy móc thiết bị và số lượng lao động cần thiết, khuyến khích sử dụng nguồn dự trữ trong sản xuaat. Nhưng định mức lao động chỉ có tác dụng thực sự tới việc giải quyết các nhiệm vụ kinh tế xã hội trong điều kiện các xí nghiệp đã áp dụng các mức có căn cứ khoa học, tức là các mức đã tính đến những nhân tố xã hội tâm sinh lý, nhân tố kinh tế và tổ chức kỹ thuật tối ưu. Những mức như thế sẽ định hướng và thúc đẩy công nhân vương tới những kết quả lao động cao nhất trong những điều kiện sản xuất nhất định.
Công tác tổ chức lao động khoa học là một vấn đề hết sức quan trọng trong các doanh nghiệp hiện nay, tuy nhiên công tác này trong thời gian hiện nay không được đặt vào đúng vị trí vốn có của nó .Định mức kỹ thuật lao động là một nội dung quan trọng của tổ chức lao động khoa học. Định mức kỹ thuật lao động là cơ sở để thực hiện các nội dung khác của công tác tổ chức lao động khoa học, muốn thực hiện tốt công tác tổ chức lao động khoa học thì công việc định mức kỹ thuật lao động phải thực hiện chính sác và có hiệu quả.
Thực trạng định mức kỹ thuật lao động hiện nay ở các doanh nghiệp và các xí nghiệp có nhiều vấn đề cần phải xem xét lai do sự tồn tại của các phương pháp định mức kỹ thuật lao động kém hiệu quả mặt khác trình độ phát triển khoa học kỹ thuật hiện nay đã hết sức hiện đại vậy định mức kỹ thuật lao động có những thay đổi như thế nào và ảnh hưởng đối với tổ chức lao động khoa học ra sao.
Mục đích chủ yếu khi nghiên cứu vấn đề này là : nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề định mức kỹ thuật lao động dưới giác độ nghiên cứu khoa học làm cơ sở để nghiên cứu các công tác khác của tổ chức lao động khoa học ; giúp ta nắm được các phương pháp chủ yếu của định mức kỹ thuật lao động đồng thời cho ta thấy được vai trò hết sức to lớn của định mức kỹ thuật lao động đối với tổ chức lao động khoa học nó ảnh hưởng như thế nào tới các nội dung của tổ chức lao động khoa học. Thấy được những vấn đề đang tồn tại của công tác định mức kỹ thuật lao động hiện nay từ đó có những giải pháp nhằm củng cố, phát triển và hoàn thiện hơn nữa để công tác định mức kỹ thuật lao động ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình đối với tổ chức lao động khoa học nói riêng, cũng như vai trò của nó đối với sự phát triển của mỗi tổ chức sản xuất kinh doanh trong xã hội nói chung.
Trong đề án này ta sẽ nghiên cứu các vấn đề trong 3 chương như sau.
Phần I Các khái niệm, nhiệm vụ, nội dung và các vấn đề liên quan tới định mức kỹ thuật lao động trong doanh nghiệp.
Phần II Định mức kỹ thuật lao động là cơ sở của tổ chức lao động khoa học.
Mục lục Trang
Lời mở đầu
01
Phần I Các khái niệm, nhiệm vụ, nội dung và các vấn đề liên quan tới định mức kỹ thuật lao động trong doanh nghiệp
05
I. Khái niệm định mức kỹ thuật lao động
05
II. Nhiệm vụ, nội dung của định mức kỹ thuật lao động trong doanh nghiệp
06
III. Phân loại mức lao động, kết cấu hao phí thời gian làm việc, kết cấu mức kỹ thuật thời gian, sự phân chia quá trình sản xuất ra các bộ phận hợp thành
08
1. Phân loại mức lao động
08
Kết cấu hao phí thời gian làm việc, kết cấu mức kỹ thuật thời gian
Kết cấu hao phí thời gian làm việc.
Kết cấu mức kỹ thuật thời gian.
09
09
11
3. Sự phân chia quá trình sản xuất ra các bộ phận hợp thành.
14
IV. Các hình thức nghiên cứu khảo sát thời gian làm việc
17
1. Chụp ảnh thời gian làm việc.
a. Chụp ảnh cá nhân ngày làm việc.
b. Chụp ảnh cá nhân ngày làm việc.
c. Tự chụp ảnh công việc.
d. Chụp ảnh thời điểm.
17
18
18
19
19
2. Bấm giờ bước công việc.
21
V. Các phương pháp định mức kỹ thuật lao động và công tác quản lý các mức lao động.
24
1. Các phương pháp định mức kỹ thuật lao động.
a. Phương pháp tổng hợp.
b. Phương pháp phân tích.
24
24
24
2. Quản lý mức lao động.
26
Phần II Định mức kỹ thuật lao động là cơ sở của tổ chức lao động khoa học.
29
I. Định mức kỹ thuật lao động là cơ sở để thực hiện các nội dung của tổ chức lao động khoa học.
29
II. Những tồn tại của công tác định mức kỹ thuật lao động và các phương hướng giải quyết.
32
Kết luận
35
Phần I
Các khái niệm, nhiệm vụ, nội dung và các vấn đề liên quan tới định mức kỹ thuật lao động trong doanh nghiệp.
Khái niệm định mức kỹ thuật lao động.
Theo nghĩa hẹp định mức kỹ thuật lao động là những chỉ tiêu xác định mức cho các loại công việc, xây dựng các chỉ tiêu nhằm đạt mức phù hợp các loại công việc.Theo nghĩa rộng đây là một công việc, công tác, quá trình dự tính tổ chức các công việc đó có năng suất lao động cao trên cơ sở đó xác định mức tiêu hao để thực hiện xác định công việc. Nói cách khác đây là lĩnh vực hoạt động thực tiễn về xây dựng và áp dụng các mức lao động đối với tất cả các quá trình lao động.
Định mức lao động chịu tác động của các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật. Mặt khác, trong nền sản xuất xã hội định mức lao động cũng thực hiện nhiều chức năng quan trọng khác nhau. Hiệu quả của nó tuỳ thuộc vào mức độ và tính chất tiên tiến, có căn cứ khoa học của các mức lao động cụ thể. Định mức lao động tạo khả năng kế hoạch hoá tốt hơn bảo đảm thực hiện có hiệu quả nhất việc tính toán xác định số lượng máy móc thiết bị và số lượng lao động cần thiết, khuyến khích sử dụng nguồn dự trữ trong sản xuất, nhưng định mức lao động chỉ có tác dụng thực sự tới việc giải quyết các nghiệm vụ kinh tế xã hội trong điều kiện các tổ chức đã áp dụng các mức có căn cứ khoa học tức là các mức đã tính đến những nhân tố xã hội, tâm sinh lý nhân tố kinh tế và tổ chức kỹ thuật tối ưu. Những mức như thế sẽ định hướng và thúc đẩy công nhân vươn tới những kết quả lao động cao nhất trong những điều kiện sản xuất nhất định.
Mức lao động không chỉ dựa vào những tài liệu kỹ thuật, mà còn phải tính đến yếu tố sức khỏe của con người trong quá trình lao động. Bởi vì, hiệu quả lao động phụ thuộc đồng thời vào yếu tố kỹ thuật và yếu tố con người, hơn thế nữa có phụ thuộc vào những điều kiện mà ở đó con người tiến hành công việc. Từ đó, các mức lao động cần phải tính đến các căn cứ kỹ thuật, tổ chức, kinh tế các yếu tố tâm sinh lý và những kinh nghiệm tiên tiến trong sản xuất. Căn cứ tổ chức đó là những phương pháp tổ chức sản xuất và tổ chức lao động tiên tiến được thể hiện trong năm. Căn cứ kinh tế được thể hiện ở sự phân tích, đánh giá mức độ ảnh hưởng của các mức lao động tới năng suất, chất lượng và giá thành sản phẩm căn cứ tâm sinh lý được khẳng định thông qua việc lựa chon phương án tối ưu về quá trình lao động tức là quá trình được thực hiện ở những điều kiện thuận lợi với cường độ lao động bình thường. Chế độ lao động và nghỉ ngơi hợp lý vừa bảo đảm sức khoẻ cho người công nhân, vừa tăng khả năng làm việc của họ
Nhiệm vụ, nội dung của định mức kỹ thuật lao động trong doanh nghiệp.
Định mức kỹ thuật lao động nghiên cứu hao phí lao động với mục đích xác định trên cơ sở khoa học các mức lao động cho các công việc trong quá trình sản xuất, đồng thời tìm ra những biện pháp nhằm sử dụng hợp lý lao động sống bảo đảm nâng cao năng suất lao động. Thời gian hao phí để hoàn thành một công việc (một sản phẩm) phụ thuộc vào nhiều yếu tố : người lao động , công cụ lao động và tổ chức lao động. Nghiên cứu đầy đủ các yếu tố trên, nhằm xác định mức tiêu hao thời gian cần thiết để hoàn thành công việc (sản xuất sản phẩm) là nhiệm vụ của định mức kỹ thuật lao động trong doanh nghiệp.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ nói trên nội dung cơ bản của định mức kỹ thuật lao động trong doanh nghiệp bao gồm các vấn đề.
Phân tích quá trình sản xuất ra các bộ phận hợp thành, xác định kết cấu và trình tự hợp lý thực hiện các bộ phận của bước công việc, phát hiện những bất hợp lý trong quá trình thực hiện, hoàn thiện chúng trên cơ sở phân công và hiệp tác lao động hợp lý. Dựa vào loại hình sản xuất và đặc điểm của doanh nghiệp mà ta phân chia quá trình sản xuất của doanh nghiệp thành các bộ phận hợp thành rồi từ đó phân chia ra các bước công việc, sau đó dựa vào đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp mà phân chia bước công việc theo mặt công nghệ hoặc theo mặt lao động như đã nêu ở phần trước. Ngoài ra ta phải phát hiện những vấn đề không hợp lý trong quá trình thực hiện những bộ phận trong sự phân chia đó dựa vào cơ sở là sự phân công và hiệp tác lao động của doanh nghiệp, nghĩa là dựa vào sự phân công bố trí người lao động vào các bộ phận của doanh nghiệp.
Cải thiện tổ chức và phục vụ nơi làm việc trên cơ sở trang bị và bố trí hợp lý nơi làm việc áp dụng hình thức và chế độ phục vụ cho các nơi làm việc hoạt động có nhiều hiệu quả hơn, cải thiện các điều kiện lao động , hợp lý hoá các phương pháp và thao tác lao động. Các quá trình sản xuất khác nhau, có yêu cầu tổ chức và phục vụ nơi làm việc khác nhau. Cần nhận biết những đặc điểm khác nhau của các nơi làm việc khác nhau của các nơi làm việc để phục vụ nơi làm việc để tổ chức và phục vụ hợp lý cho từng loại nơi làm việc khác nhau. Tổ chức nơi làm việc bao gồm: trang bị và bố trí nơi làm việc và tuỳ thuộc vào đặc điểm, nội dung của lao động; điều kiện lao động thuận lợi hay không thuận lợi; trình độ trang bị kỹ thuật cho lao động; ngành và loại hình sản xuất mà nội dung trang bị cho nơi làm việc cũng khác nhau. Căn cứ vào trình độ nơi làm việc, có thể đánh giá được trình độ phát triển của sản xuất. Chính vì vậy mà tổ chức phục vụ nơi làm việc là một nội dung hết sức quan trọng của định mức kỹ thuật lao động.
Tiến hành khảo sát xác định các loại thời gian hao phí và nguyên nhân những lãng phí, nhằm xây dựng các mức và tiêu chuẩn lao động. Sử dụng các biện pháp khảo sát thời gian làm việc mà ta sẽ nghiên cứu ở phần sau ta xác định các loại thời gian trong quá trình làm việc của người công nhân mà từ đó tính toán xác định những thời gian lãng phí để xem đó là thời gian lãng phí do công nhân hay lãng phí do tổ chức hoặc do nguyên nhân nào khác dựa vào những loại hao phí thời gian làm việc mà ta đã nghiên cứu ở trên và có biện pháp khắc phục tình trạng lãng phí thời gian làm việc này của công nhân.
Đưa các mức tiêu chuẩn được xây dựng vào thực hiện trong sản xuất, thường xuyên theo dõi tình hình thực hiện mức, điều chỉnh những mức sai, mức lạc hậu. Đây là nội dung xây dựng và thực hiện đưa mức lao động vào thực tế sản xuất từ sản xuất thực tế đó mà rút ra những thiếu sót của mức và có những biện pháp khắc phục để tạo ra những mức lao động đúng đắn, phù hợp với thực tế, nội dung này của công tác định mức kỹ thuật lao động chính là liên quan tới vấn đề quản lý mức mà ta cũng nghiên cứu ở phần sau.
Phân loại mức lao động, kết cấu hao phí thời gian làm việc, kết cấu mức kỹ thuật thời gian, sự phân chia quá trình sản xuất ra các bộ phận hợp thành.
Phân loại mức lao động.
Nếu định mức kỹ thuật lao động tính toán đầy đủ những căn cứ tổ chức, căn cứ tâm sinh lý, căn cứ kỹ thuật... như đã nêu trên là định mức có căn cứ khoa học. Ngược lại định mức lao động theo thống kê kinh nghiệm là định mức chỉ dựa vào tài liệu thống kê và kinh nghiệm của cán bộ chuyên môn, không tính đến những điều kiện tổ chức kỹ thuật cụ thể của sản xuất những yếu tố tâm sinh lý của người lao động... Kết quả là mức xác định được còn chứa đựng những yếu tố lạc hậu, hạn chế tăng năng suất lao động và hiêu quả quản lý sản xuất nói chung. Để có thể sử dụng các thành tựu khoa học và những kinh nghiệm tiên tiến trong định mức lao động thì phải hiểu rõ và nắm chắc bản chất các loại mức được áp dụng trong thực tiễn. Các loại mức đó là: mức thời gian, mức sản lượng, mức phục vụ, mức thời gian phục vụ, mức số lượng người làm việc ... .
Mức thời gian là số lượng thời gian cần thiết được quy định để một hoặc một nhóm công nhân của một nghề nào đó có trình độ thành thạo tương ứng với mức độ phức tạp của công việc này hay công việc khác (bước công việc , chi tiết sản phẩm ...) trong những điều kiện tổ chức, kỹ thuật, sản xuất nhất định.
Mức sản lượng là số lượng sản phẩm (chiếc, mét, tấn ...) được quy định để công nhân hay một nhóm công nhân có trình độ thành thạo phù hợp với mức độ phức tạp của công việc phải hoàn thành trong đơn vị thời gian (ngày, giờ ...) với những điều kiện tổ chức, kỹ thuật, sản xuất nhất định.
Mức thời gian và mức sản lượng có liên quan mật thiết với nhau, tuỳ điều kiện và đặc điểm của sản xuất mà người ta tính mức thời gian hay mức sản lượng.
Mức thời gian phục vụ là một trong những biểu hiện biến dạng của mức thời gian. Đó là số lượng thời gian được quy định đối với một hay một nhóm công nhân có trình độ thành thạo nhất định phục vụ đơn vị thiết bị, đơn vị diện tich sản xuất ( hay những đơn vị sản xuất khác ) trong những điều kiện tổ chức, sản xuất và kỹ thuật nhất định.
Mức phục vụ là số lượng đơn vị thiết bị (diện tích sản xuất, nơi làm việc, số đầu con gia súc ...) được quy định để một hay một nhóm công nhân phải phục vụ trong những điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định. Mức phục vụ là đại lượng nghịch đảo của mức thời gian phục vụ. Mức phục vụ thường được áp dụng trong kd kết quả sản xuất không đo được bằng những số đo tự nhiên (chiếc , cái) và áp dụng đối với công nhân phụ
Mức biên chế (mức định biên – mức định viên – mức số lượng người làm việc ) là số lượng người lao động có trình độ nghiệp vụ thích hợp được quy định chặt chẽ để thực hiện một khối lượng công việc cụ thể trong một bộ máy quản lý nhất định.
Mức tổng hợp là lượng lao động quy định cho các loại công nhân viên trong doanh nghiệp để hoàn thảnh một đơn vị sản phẩm.
Mức thời gian, trong thực tế là cơ sở xuất phát để tích ra các loại mức khác vì thời gian làm việc là thước đo lao động nói chung và về nghuyên tắc định mức kỹ thuật lao động xác định mức hao phí thời gian cần thiết để hoàn thành công việc này hay công việc khác. Mức thời gian cho công việc làm bằng tay, hay vừa làm bằng tay vừa làm bằng máy , hoặc các công việc băng máy đều bao gồm: thời gian tác nghiệp (chính và phụ), thời gian phục vụ nơi làm việc (phục vụ kỹ thuật, phục vụ tổ chức ), thời gian chuẩn bị và kết thúc, thời gian ngừng do yêu cầu công nghệ và tổ chức sản xuất , thời gian nghỉ ngơi do nhu cầu cá nhân người lao động.
Kết cấu hao phí thời gian làm việc, kết cấu mức kỹ thuật thời gian.
Kết cấu thời gian làm việc.
Thời gian chuẩn kết là thời gian hao phí để thực hiện các công việc chuẩn bị và kết thúc cho một quá trình làm việc (ví dụ như nhận nhiệm vụ, nhận dụng cụ nguyên vật liệu, nghiên cứu bản vẽ hoặc tài liệu hướng dẫn sản xuất) ký hiệu Tck .
Thời gian tác nghiệp là độ dài thời gian hao phí để thực hiện những tác động trực tiếp làm thay đổi đối tượng, thời gian tác nghiệp bao gồm thời gian tác nghiệp chính (ký hiệu Ttnc) và thời gian tác nghiệp phụ (ký hiệu Ttnp) , thời gian tác nghiệp chính là khoảng thời gian diễn ra sự thay đổi đối tượng lao động do tác động trực tiếp của máy móc thiết bị, thời gian tác nghiệp phụ là khoảng thời gian người công nhân thực hiện những công việc làm bằng tay trên máy để hoàn thành bước công việc của mình (ví dụ : điều khiển máy sửa chữa máy, thay thế bộ phận của thiết bị ).
Thời gian phục vụ là khoảng thời gian diễn ra trong đó người công nhân dùng để thực hiện những công việc đảm bảo cho quá trình chính thực hiện được liên tục nhịp nhàng, thời gian phục vụ chia thành thời gian phục vụ tổ chức là thời gian thực hiện công việc có tính chất tổ chức nơi làm việc và thời gian phục vụ kỹ thuật là thời gian thực hiện công việc có tính chất kỹ thuật.
Thời gian nghỉ ngơi và thực hiện nhu cầu cần thiết của người công nhân là thời gian nghỉ ngời trong khoảng thời gian làm việc thuộc tính chất công việc và điều kiện làm việc, là thời gian cần thiết, ngừng hoạt động để thực hiệ công việc hợp lý nhằm duy trì khả năng làm việc ổn định lâu dài.
Ngoài các loại thời gian trên còn có thời gian lãng phí bao gồm thời gian lãng phí công nhân là khoảng thời gian trong đó người lao động không thực hiện những nhiệm vụ được giao do vi phạm kỷ luật lao động (ví dụ: đi muộn về sớm, nói chuyện riêng, làm việc riêng trong giờ làm việc ) , thời gian lãng phí tổ chức là thời gian mà người lao động không làm việc do khả năng tổ chức yếu kém (ví dụ: không đảm bảo đủ nguyên , nhiên liệu, phân công bố trí lao động không hợp lý, không bảo đảm điều kiện làm việc ), thời gian lãng phí kỹ thuật là thời gian công nhân ngừng lao động do máy móc thiết bị bị hỏng hóc, thời gian lãng phí không cần thiết ví dụ thời gian sửa chữa sản phẩm hỏng thời gian này làm việc nhưng không được công nhận.
Kết cấu mức kỹ thuật thời gian.
Như các sơ đồ nêu trên trong mức kỹ thuật thời gian chỉ tính thời gian cần thiết hoàn thành nhiệm vụ sản xuất khác với kết cấu thời gian làm việc bao gồm thời gian chuẩn kết, thời gian tác nghiệp, thời gian phục vụ, thời gian nghỉ ngơi và nhu cầu cần thiết.
Trong mức kỹ thuật thời gian không tính các loại thời gian lãng phí (lãng phí không trông thấy và lãng phí trông thấy) không tính thời gin phụ và thời gian phục vụ trùng lặp với thời gian chính. Thời gian nghỉ ngơi được tính toán theo các yếu tố gây mệt mỏi ảnh hưởng đến khả năng lao động của người công nhân. nếu có những thời gian công nhân ngừng làm việc theo yêu cầu của công nghệ phân bố đều đặn trong ca thì thời gian bày đượng tính vào thời gian nghỉ ngơi. Thời gian nghỉ ngơi thường được quy định theo tỉ lệ phần trăm so với thời gian tác nghiệp. Trong các bước công việc thủ công, thời gian nghỉ ngơi thường được tính theo tỉ lệ phần trăm so với thời gian ca làm việc.
Thời gian nghỉ do nhu cầu cần thiết có thể quy định thành đại lượng tuyệt đối tuỳ thuộc vào điều kiện giải quyết các nhu cầu sinh lý của công nhân.
Như vậy ta nhận thấy rằng kết cấu thời gian làm việc khác với kết cấu mức kỹ thuật thời gian. Mức kỹ thuật thời gian không tính thời gian hao phí trong quá trình làm việc đồng thời dựa vào bảng 2 ta nhận thấy rằng:
Mức thời gian :
Mtg =
Mtg : Mức thời gian.
T : Thời gian làm việc trong ngày.
SLTP : Số lượng thành phẩm quy định trong ngày.
Tđđ = Tkđ + Tck = Ttn + Tpv + Tnc + Tck
Tkđ = Ttn + Tpv + Tnc
Trong đó:
Thời gian chuẩn kết của 1 sản phẩm :
Tck =
Với - : là thời gian chuẩn kết của cả loạt sản phẩm.
- n : là số lượng sản phẩm của một loạt.
Tuỳ thuộc vào loại hình sản xuất khác nhau, công thức tính mức thời gian một sản phẩm cũng khác nhau.
Trên cơ sở mức thời gian ta tính được mức sản lượng trong một ca làm việc (Tsl):
Tsl = = =
Với - Ttn : thời gian tác nghiệp của một sản phẩm.
- Tca : thời gian ca làm việc.
Tuỳ thuộc vào loại hình sản xuất, phương pháp định mức mà công thức tính mức hiến dạng như sau:
Trong trường hợp sản xuất hàng loạt thời gian chuẩn kết quy định cho cả loạt sản phẩm do đó mức thời gian cho một sản phẩm quy định như sau:
Mtg = + Tkđ
Với - n : Số sản phẩm trong loạt.
Dựa vào đặc điểm mỗi loại hao phí thời gian và tiêu chuẩn định mức quy định mà có công thức tính mức thời gian trong từng loại hình sản xuất như sau:
Trong loại hình sản xuất hàng khối (nhiều)
Tkđ = Ttn . (1 + a%Tpvtc + a%Tnc) + Tc.a%Tpvkt
Trong loại hình sản xuất hàng loạt
Tkđ = Ttn . (1 + a%Tpv + a%Tnc)
Trong loại hình sản xuất nhỏ
Tđđ = Tck + Ttn(1 + a%Tpv + a%Tnc)
Với a%Tpvtc , a%Tnc , a%Tpv là tỉ lệ thời gian phục vụ tổ chức, thời gian nghỉ ngơi nhu cầu cần thiết, thời gian phục vụ kỹ thuật và thời gian phục vụ so với thời gian tác nghiệp.
a%Tpvkt là tỉ lệ thời gian phục vụ kỹ thuật so với thời gian chính.
Mức sản lượng được tính như sau:
MSL=
MSL: Mức sản lượng.
T : một giờ hoặc 1 ca làm việc.
Đơn vị tính mức thời gian trong mức sản lượng là 1 giờ hoặc 1 ca làm việc.
Với loại hính sản xuất hang khối.
MSL =
(sản phẩm/ca)
Hoặc
MSL =
Với Ttn(ca) : là do chụp ảnh thu được.
Ttn(1sp) : là do bấm giờ thu được.
Tóm lại mức sản lượng càng cao thì mức thời gian càng thấp và ngược lại. Như vậy, giữa mức thời gian và mức sản lượng có sự phụ thuộc nghịch đảo. Mối quan hệ phụ thuộc ấy có thể biểu hiện qua những công thức sau đây:
Với - a : là phần trăm giảm mức thời gian.
- b : là phần trăm tăng mức sản lượng.
a =
và
b =
Sự phân chia quá trình sản xuất ra các bộ phận hợp thành.
Sự phân chia quá trình sản xuất ra các bộ phận hợp thành: quá trình sản xuất là quá trình khai thác, chế biến một sản phẩm nào đó cần thiết cho xã hội. Trong quá trình đó diễn ra sự thay đổi của đối tượng lao động về mặt hình dáng kích thước tính chất lý hoá học, tính chất cơ học hoặc về vị trí không gian để trở thành sản phẩm phục vụ ho đời sống. Ta phải phân chia quá trình sản xuất hợp thành bởi một số nguyên nhân sau; nhằm tổ chức có hiệu quả hoạt động lao động của con người , cần phải nghiên cứu toàn diện quá trình lao động với tư cách là quá trình riêng lẻ tại từng nơi làm việc cũng như nghiên cứu chúng trong mối liên kết giữa chúng với nhau do tác động của phân công và hiệp tác lao động ; do trong các xí nghiệp công nghiệp diễn ra những quá trình sản xuất hết sức đa dạng và khác nhau ... vì vậy phân chia quá trình sản xuất thành các bộ phận trở thành một yêu cầu bức thiết, không thể bỏ qua được. Quá trình sản xuất được phân chia thành các bộ phận hợp thành như sau :
Quá trình sản xuất
uất
Mặt lao động
Cử động
Bước chuyển tiếp
Giai đoạn chuyển tiếp
Thao tác
Động tác
Bước công việc
Quá trình bộ phận
Bảng 3. Sự phân chia quá trình sản xuất ra các bộ phận hợp thành.
Quá trình sản xuất trước hết được phân chia ra thành các quá trình sản xuất bộ phận. Quá trình sản xuất bộ phận được hiểu là bộ phận đồng nhất và kết thúc về phương diện công nghệ của quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất bộ phận có thể là quá trình công nghệ để chế tạo sản phẩm, cũng có thể là quá trình quá trình công nghệ để chế tạo sản phẩm, cũng có thể là quá trình phục vụ sản xuất. Trong các quá trình công nghệ để chế tạo sản phẩm, cũng có thể là quá trình phục vụ sản xuất. Quá trình sản xuất bộ phận lại được phân chia thành các bước công việc ví dụ: quá trình gia công cơ khí một chiếc trục bao gồm các bước công việc như sau: tiện, phay, khoan, mài.
Bước công việc là một phần của quá trình sản xuất , bao gồm các công việc kết tiếp nhâu được thực hiện bởi một hay một nóm công nhân trên một đối tượng lao động nhất định tại một nơi làm việc nhất định. Sự cố định về đối tượng lao động người công nhân và nơi làm việc là đạc trưng cơ bản của bước công việc. Thay đổi một trong bao yếu tố đó sẽ tạo thành bước công việc mới. Sự phân chia quá trình sản xuất thành bước công việc là sơ sở để phân phối hợp lý công việc giữa những người thực hiện, để tổ chức và kế hoạch hoá lao động đúng đắn, để tính đến kết quả hoạt động lao động của công nhân, nhờ có sự phân chia quá trình sản xuất thành các bước công việc trên mỗi bước công việc xác định được hao phí lao động , do đó có thể tính được lượng lao động hao phí của toàn bộ quá trình sản xuất. Đặc điểm của các bước công việc là tổ hợp khi tiến hành thì toàn bộ khối lượng nguyên liệu được đưa vào tổ hợp máy, đều được gia công ngay một lần với công nghệ không thay đổi. Bước công việc chính là đối tượng của định mức kỹ thuật lao động.
Về mặt công nghệ bước công việc được phân chia thành các giai đoạn chuyển tiếp và các bước chuyển tiếp. Giai đoạn chuyển tiếp là bộ phận đồng nhất về công nghệ của bước công việc, nó được biểu thị bằng sự cố định của bề mặt gia công, dụng cụ và chế độ gia công. Đặc điểm của giai đoạn chuyển tiếp trong tất cả các bước công việc, trừ các công việc tổ hợp là đều có khả năng tách ra hoàn thành ở một nơi làm việc riêng biệt, trong loại hình sản xuất hàng khối, mỗi bước công việc thường chỉ có một giai đoạn chuyển tiếp, còn trong loại hình sản xuất hàng loạt nhỏ và đơn chiếc, mỗi bước công việc thường bao gồm một số giai đoạn chuyển tiếp.
Về mặt lao động bước công việc được phân chia thành các thao tác, động tác và các cử động. Thao tác là tổ hợp các hoạt động của công nhân nhằm thực hiện một mục đích nhất định về công nghệ. Thao tác là bộ phận của bước công việc được đặc trưng bởi tính mục đích. Tuỳ từng mục đích nghiên cứu mà có thể phân chia các thao tác thành thạo chính và thao tác phụ, hoặc có nhóm thao tác thành tổ hợp thao tác. thao tác lại được phân chia tiếp tục thành động, động tác là một bộ phận của thao tác biểu thị bằng những cử động chân tay và thân thể của công nhân nhằm lấy đi hay di chuyển một vật nào đó, các động tác được tạo thành từ các cử động, cử động là bộ phận của động tác biểu thị bằng sự thây đổi một lần vị trí các bộ phận cơ thể của công nhân, cử động là hành động nhỏ nhất của con người không thể phân chia được nữa và được diễn ra một cách không gián đoạn, không có sự thay đổi hướng.
Trên đây ta đã nghiên cứu các loại mức lao động đây và các hao phí thời gian làm việc đây cũng là một nhân tố giúp ta phân biệt các loại thời gian trong quá trình định mức kỹ thuật lao động từ đó mà xây dựng được các mức lao động chính sác, có hiệu quả, ngoài ra ta cũng đã nghiên cứu việc phân chia quá trình sản xuất ra các bộ phận hợp thành đây cũng là một vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình nghiên cứu định mức kỹ thuật lao động mà ta sẽ ứng dụng nhiều các vấn đề trên trong quá trình nghiên cứu định mức kỹ thuật lao động ở các phần sau.
Các hình thức nghiên cứu khảo sát thời gian làm việc.
Mục đích chung của việc khảo sát là : Nghiên cứu những hao phí thời gian làm việc thực tế của công nhân và thiết bị trên cơ sở đó phát hiện những lãng phí thưòi gian và đề ra biện pháp loại trừ nó. Nghiên cứu những phương pháp làm việc và thao tác tiên tiến của những công nhân lành nghề và những người có phát minh sáng kiến cải tiến kỹ thuậtnhằm phổ biến và áp dụng rộng rãi trong công nhân. Thu thập tài liệu ban đầu để tổ chức và bố trí lao động trong dây chuyền sản xuất cũng như nơi làm việc được hợp lý nhất. Thu thập tài liệu ban đầu để trên cơ sở đố xác định nội dung công việc và trình tự thực hiện công việc được hợp lý nhất (căn cứ để xây dựng mức lao động và tiêu chuẩn lao động ). Tuỳ theo mục đích của việc khảo sát và cách tiến hành trong thực tế tổ chức lao động cũng như định mức kỹ thuật lao động người ta thường dùng những phương pháp nghiên cứu hao phí thời gian làm việc sau: chụp ảnh thời gian làm việc, bấm giờ bước công việc, kết hợp cả chụp ảnh và bấm giờ.
Chụp ảnh thời gian làm việc.
Chụp ảnh thời gian làm việc là hình thức khảo sát nghiên cứu tất cả các loại hoạt động và thời gian hao phí diễn ra trong ngày làm việc của công nhân hay thiết bị.
Chụp ảnh thời gian làm việc thường nhằm mục đích sau: phân tích sử dụng thời gian làm việc hiện hành , phát hiện các loại thời gian lãng phí, tìm nguyên nhân và tìm ra biện pháp nhằm loại trừ chúng ; lấy tài liệu để xây dựng mức, xây dựng tiêu chuẩn thời gian chuẩn kết, phục vụ, nghỉ ngơi, nhu cầu cần thiết ; nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng thời gian của những người lao động tiên tiến và phổ biến rộng rãi trong công nhân ; lấy tài liệu để cải tiến tổ chức sản xuất, tổ chức lao động.
Chụp ảnh thời gian làm việc có những hình thức cụ thể khác nhau tuỳ thuộc mục đích nghiên cứu, loại hình sản xuất , hình thức tổ chức sản xuất, tổ chức lao động mà áp dụng : chụp ảnh cá nhân ngày làm việc, chụp ảnh tổ nhóm ngày làm việc , tự chụp ảnh và chụp ảnh thời điểm.
Chụp ảnh cá nhân ngày làm việc.
Chụp ảnh cá nhân ngày làm việc là việc ghi lại toàn bộ các hoạt động và hao phí thời gian của một công nhân hay một thiết bị trong ngày , ca làm việc.
Ưu điểm của phương pháp này là cho phép ghi đầy đủ, tỷ mỉ, toàn bộcác hoạt động của công nhân (thiết bị), cho phép phát hiện các lãng phí trông thấy và không trông thấy, đề ra những biện pháp tổ chức kinh tế - kỹ thuật hợp lý, đánh giá đúng đắn tình hình thực mức nâng cao chất lượng mức hiện có và xây dựng các mức mới có căn cứ khoa học.
Nhược điểm của phương pháp này là tốn nhiều thời gian.
Chụp ảnh tổ (nhóm) ngày làm việc.
Chụp ảnh tổ (nhóm) ngày làm việc là hình thức khảo sát nhằm nghiên cứu những thời gian làm việc đồng thời của của nhóm (tổ) người làm việc (hặc nhóm máy). Do đối tượng khảo sát không phải là một mà là một số người máy nên không thể theo dõi ghi liên tục tỷ mỷ các thời gian hao phí như chụp ảnh cá nhân, mà phải theo dõi qua khoảng cách thời gian, khoảng cách dài hay ngắn tuỳ theo số lượng đối tượng khảo sát. qua kinh nghiệm thực tế thường người ta lấy khoảng cách là một phút để khảo sát từ 1 đến 3 người, hai phút cho 4 đến 6 người và ba phút cho 7 đến 8 người. Bởi vậy không nên quan sát quá nhiều (lớn hơn 8 người) vì phải tập trung cao độ căng thẳng, là giảm độ chính xác của tài liệu khảo sát.
Ưu điểm : Trong cùng một lúc theo dõi, quan sát được nhiều người (máy). việc ghi chép phân tích đơn giản.
Nhược điểm: Do không ghi hép được liên tục, mà qua khoảng cách thời gian, nên không ghi hết tên hao phí cho từng người, mà ghi bằng chữ ký hiệu theo nhóm hao phí nên không xác định được nguyên nhân cụ thể của từng lãng phí; do đó không đề ra được những biện pháp cụ thể.
Tự chụp ảnh công việc.
Tự chụp ảnh là hình thức khảo sát thời gian làm việc trong đó công nhân tự ghi lại việc sử dụng thời gian làm việc của chính mình, nêu nguyên nhân của những lãng phí và đề nghị những biện pháp để khắcphục chúng.
Ưu điểm của phương pháp này là nếu tổ chức tôt thực hiện có hệ thống sẽ cung cấp được nhiều tài liệu phong phú, kịp thời, giúp cho lãnh đạo nắm được tình hình sản xuất ở các bộ phận sản xuất , các ca làm việc , kịp thời có biện pháp uốn nắn. Động viên được đông đảo công nhân tham gia, quản lý sản xuất , đấu tranh chống lãng phí thời gian trong sản xuất tăng cường kỷ luật lao động , tinh thần làm chủ tập thể.
Nhược điểm: thường chỉ nêu được những lãng phí trông thấu, không nêu được những lãng phí không trông thấy. Số liệu không phản ánh đầy đủ những lãng phí (thường công nhân không ghi những lãng phí do chính họ gây r._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35188.doc