Phần Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Nhu cầu bảo hộ từ xưa tới nay luôn tồn tại trong mỗi quốc gia. Có thể nói nhu cầu này là thiết yếu, bởi vì mỗi quốc gia dù mạnh hay yếu đều muốn xây dựng các ngành sản xuất trong nước vững mạnh và phát triển đồng đều. Bước sang thế kỷ 21, khi mà tiến trình toàn cầu hóa và khu vực hóa cũng đã đi được một chặng đường khá dài với sự ra đời của các tổ chức kinh tế như WTO, EU, NAFTA, AFTA... với những quy tắc thống nhất nhằm phát triển thương mại quốc tế, vấn đề bả
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hệ thống biện pháp bảo hộ phi thuế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o hộ lại mang nhiều màu sắc của thời kỳ mới.
Trong xu thế đó, Việt Nam đã nỗ lực hết mình để trở thành thành viên của ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1998) và hiện nay, chúng ta lại đang cố gắng đứng vào hàng ngũ 147 nước thành viên WTO để có thể hội nhập kinh tế một cách toàn diện. Tuy nhiên, với một nền kinh tế mà sức cạnh tranh còn kém, nếu hội nhập, Việt Nam hầu như không thể bảo hộ được nhiều ngành sản xuất trong nước, do phải áp dụng một biểu thuế quan thống nhất và các quy tắc chung. Tất cả các biện pháp bảo hộ phi thuế mà Việt Nam đang áp dụng chủ yếu thiên về biện pháp hạn chế số lượng mà hầu như sẽ phải xóa bỏ theo yêu cầu của WTO. Trong khi đó, những mặt hàng mà chúng ta có lợi thế cạnh tranh như hàng nông, thủy hải sản khi xuất khẩu ra nước ngoài vẫn phải chịu sự o ép của các quốc gia khác, với những điều khoản bảo hộ được viện dẫn là phù hợp với các quy định của WTO (như trường hợp bị áp thuế chống bán phá giá cá ba - sa xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, hạn chế nhập khẩu tôm vào thị trường EU do vi phạm quy tắc an toàn thực phẩm...).
Trước thực trạng đó, các biện pháp bảo hộ phi thuế mới, thích hợp trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, để làm sao vừa đạt được mục tiêu hội nhập vừa có thể đảm bảo lợi ích quốc gia phải được nghiên cứu. Việc chuẩn bị và xây dựng một khung pháp lý về các chính sách bảo hộ ngay từ bây giờ cũng không phải là sớm để chuẩn bị cho một tương lai xa sắp tới. Đó chính là lý do em chọn vấn đề: “Hoàn thiện hệ thống biện pháp bảo hộ phi thuế của Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
2. Mục đích và ý nghĩa của đề tài
Đề tài khoá luận tốt nghiệp “Hoàn thiện hệ thống biện pháp bảo hộ phi thuế của Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO” nhằm phân tích và chỉ rõ sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan đối với các nước đang phát triển như Việt Nam trong tiến trình hội nhập, phân tích và đánh giá quá trình áp dụng hệ thống hàng rào phi thuế quan của Việt Nam trong thời gian qua, chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong việc áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế của Việt Nam để từ đó đề xuất một số giải pháp khắc phục và hoàn thiện hệ thống phí thuế quan của Việt Nam trong tiến trình Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, giúp Việt Nam nhận thức rõ việc áp dụng Hệ thống các biện pháp phi thuế quan như thế nào, bằng cách nào để phù hợp với quy định của WTO, khi Việt Nam đã tiến gần tới đích trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại có tính toàn cầu này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các quy định về bảo hộ phi thuế quan của WTO, thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo hộ này của Việt Nam, trên cơ sở tham khảo quá trình áp dụng hàng rào phi thuế quan của Trung Quốc, Mỹ, ấn Độ.
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận chỉ tập trung phân tích các biện pháp phi thuế quan. Biện pháp thuế quan có nêu ra chỉ để so sánh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận này kết hợp chặt chẽ các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn để phân tích nền tảng lý luận của các biện pháp bảo hộ phi thuế quan, cũng như những quy định thực tiễn của WTO về vấn đề này, làm cơ sở cho phân tích quá trình áp dụng hệ thống hàng rào phi thuế quan của Việt Nam trong thời gian qua.
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để phân tích quá trình áp dụng hệ thống hàng rào phi thuế quan của Việt Nam trong tiến trình vận động và phát triển của nền kinh tế, cũng như trong quá trình hoàn thiện cơ chế, chính sách thương mại của Việt Nam.
- Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp và so sánh để nêu bật những ưu nhược điểm của việc sử dụng hàng rào phi thuế quan của Việt Nam cũng như những kinh nghiệm áp dụng của một số nước trong khu vực và thế giới để làm cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp hoàn thiện hệ thống các biện pháp bảo hộ phi thuế quan của Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO.
5. Cấu trúc của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về hàng rào phi thuế quan trong thương mại quốc tế.
Chương 2: Thực trạng áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan của Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hệ thống các biện pháp bảo hộ phi thuế quan của Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO.
Chương I
Khái quát về hàng rào phi thuế quan
trong thương mại quốc tế
Khái niệm và sự cần thiết của hàng rào phi thuế quan trong thương mại quốc tế
Chính sách thương mại quốc tế là một hệ thống các quan điểm, biện pháp và các công cụ mà các quốc gia sử dụng nhằm điều chỉnh các hoạt động ngoại thương phù hợp với các lợi thế quốc gia nhằm đem lại lợi ích cao nhất cho nước mình. Khi tham gia thương mại quốc tế, mỗi nước vừa phát huy được những thế mạnh của mình vừa tận dụng những lợi ích mà hoạt động ngoại thương đem lại. Nhưng mặt khác cũng sẽ bộc lộ những mặt yếu kém của nền kinh tế quốc gia đó. Do vậy, các quốc gia phải sử dụng một hệ thống các công cụ để điều chỉnh hoạt động ngoại thương. Trong đó phải kể đến việc sử dụng hàng rào phi thuế quan – một công cụ được coi là linh hoạt có tác động nhanh, mạnh trước những tình thế khẩn cấp. Sử dụng hàng rào phi thuế quan sao cho hợp lý và hiệu quả sẽ bảo vệ thị trường nội địa mỗi nước tránh được tác động tiêu cực của hàng hoá ngoại nhập.
1.1.1. Khái niệm và phân loại hàng rào phi thuế quan
a. Khái niệm
Hiện nay, trên thế giới chưa có một khái niệm thống nhất nào về hàng rào phi thuế quan (Non-Tariff Trade Barriers- NTBs). Mỗi một tổ chức, quốc gia lại có quan niệm khác nhau về hàng rào phi thuế quan .
Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO quan niệm rằng: “Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp phi thuế quan mang tính cản trở đối với thương mại mà không dựa trên cơ sở pháp lý, khoa học hoặc bình đẳng”[16, tr - 13]. Theo đó, WTO đã đưa ra định nghĩa biện pháp phi thuế quan như sau: “Biện pháp phi thuế quan là những biện pháp ngoài thuế quan, liên quan hoặc ảnh hưởng đến sự luân chuyển hàng hoá giữa các nước”[16, tr 13].
Trong khi đó, Phòng Thương Mại Mỹ (USTR) lại quan niệm: Bảo hộ phi thuế quan là tất cả những quy định được ban hành dưới dạng văn bản luật hoặc những quy định, chính sách hoặc các biện pháp khác của nhà nước, ngoài các biện pháp thuế quan với mục đích bảo vệ hàng sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh của hàng ngoại nhập và thúc đẩy phát triển sản xuất một số ngành kinh tế trọng điểm và kích thích xuất khẩu hoặc vì các mục tiêu kinh tế xã hội khác.[ 15, 19, 21]
Năm 1995, theo nghiên cứu của Hội đồng hợp tác kinh tế Thái Bình Dương (PECC) đã nhận xét: “ Hàng rào phi thuế quan là mọi công cụ phi thuế quan can thiệp vào thương mại, bằng cách này làm biến dạng sản xuất trong nước” [ 16, tr 11].
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OEDC) năm 1997 cũng đưa ra một định nghĩa khác: “ Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp biên giới nằm ngoài phạm vi thuế quan có thể được các quốc gia sử dụng, thông thường dựa trên cơ sở lựa chọn, nhằm hạn chế nhập khẩu” [ 16, tr 11].
ở Việt Nam, trong quá trình nghiên cứu, các nhà kinh tế thường sử dụng khái niệm về hàng rào phi thuế quan của Bộ Thương Mại: “Ngoài thuế quan ra, tất cả các biện pháp khác, dù là theo quy định pháp lý hay tồn tại trên thực tế, ảnh hưởng đến mức độ và phương hướng nhập khẩu được gọi là các hàng rào phi thuế quan” [4,tr 293]
Tóm lại, khái niệm hàng rào phi thuế quan rất phong phú, tuỳ thuộc vào góc độ nghiên cứu hay mục đích áp dụng mà người ta sử dụng khái niệm cho phù hợp.
b. Phân loại
Có nhiều cách phân loại hàng rào phi thuế quan. Chẳng hạn, trong cuốn “Cạnh tranh trong thương mại quốc tế ” của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, toàn bộ hệ thống hàng rào phi thuế quan trên thế giới nhìn chung có thể chia thành 5 nhóm sau:
Nhóm1: Những việc Chính phủ thường tham gia để hạn chế thương mại.
Nhóm 2: Các biện pháp hạn chế nhập khẩu có tính chất hành chính và do hải quan thực hiện.
Nhóm 3: Hàng rào có tính chất kỹ thuật đối với thương mại.
Nhóm 4: Hạn chế đặc thù, như hạn chế cấp phép nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu, quy chế về giá trong nước.
Nhóm 5: Lệ phí nhập khẩu, như tiền ký quỹ, thuế điều tiết nhập khẩu, hạn chế cho vay có tính chất phân biệt đối xử....
Hoặc trong cuốn sách “Thương mại quốc tế và an ninh lương thực” của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2001, hàng rào phi thuế quan được phân loại như sau:
- Hạn ngạch (quota) tức hạn chế số lượng một mặt hàng nhất định có thể cho phép nhập (có khi chỉ quy định đối với một nước nào đó, chẳng hạn xe ô tô của Nhật bán sang Mỹ).
- Quy định tiêu chuẩn hoặc dán nhãn trên mặt hàng mà nhà sản xuất nước ngoài không có tập quán làm như vậy.
- Các chính sách yêu cầu công chức phải mua sắm hàng nội.
- Các chiến dịch vận động dân chúng tiêu dùng hàng trong nước.
Bên cạng đó, Bộ Thương mại Việt Nam cũng đã phân loại hàng rào phi thuế quan bằng cách liệt kê một số các nhóm hàng rào phi thuế quan chính như sau:
- Các biện pháp hạn chế định lượng (như cấm, hạn ngạch, giấy phép);
- Các biện pháp quản lý giá (như trị giá tính thuế quan tối thiểu, giá nhập khẩu tối đa, phí thay đổi, phụ thu);
- Các biện pháp quản lý đầu mối (như đầu mối xuất khẩu, nhập khẩu);
- Các biện pháp kỹ thuật (như quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn, thủ tục xác định sự phù hợp, yêu cầu về nhãn mác, kiểm dịch động thực vật);
- Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời (tự vệ, trợ cấp và các biện pháp đối kháng, biện pháp chống bán phá giá);
- Các biện pháp liên quan tới đầu tư (thuế suất thuế nhập khẩu phụ thuộc tỷ lệ nội địa hóa, hạn chế tiếp cận ngoại tệ, yêu cầu xuất khẩu, ưu đãi gắn với thành tích xuất khẩu);
- Các biện pháp khác (tem thuế, biểu thuế nhập khẩu hay thay đổi, yêu cầu đảm bảo thanh toán, yêu cầu kết hối, thủ tục hành chính, thủ tục hải quan, mua sắm chính phủ, quy tắc xuất xứ).
1.1.2. Sự cần thiết của bảo hộ phi thuế quan trong xu thế toàn cầu hoá
Bảo hộ phi thuế là cần thiết trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế
Thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế cho thấy: nhu cầu bảo hộ sản xuất trong nước là cần thiết trong bất cứ giai đoạn nào, thời kỳ nào, ngay cả với các quốc gia hùng mạnh như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU... Ngay từ thời Chủ nghĩa trọng thương, vai trò của Nhà nước đã được đề cao thông qua việc việc áp dụng các biện pháp phi thuế quan như quản lý lượng vàng, ban hành các quy định nhằm khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Trong suốt những thế kỷ qua, bên cạnh việc áp dụng các biện pháp thuế quan tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, các quốc gia cũng áp dụng nhiều biện pháp bảo hộ phi thuế như hạn chế nhập khẩu, quản lý ngoại hối để bảo vệ sản xuất trong nước.
Bắt đầu từ giữa thế kỷ 20, xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa lan nhanh, các quốc gia đều thấy được lợi ích và tầm quan trọng của xu thế này và hầu như đều chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Hàng loạt các tổ chức kinh tế quốc tế ra đời như Cộng đồng kinh tế chung Châu Âu (EU), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Trong đó, WTO là tổ chức có quy mô lớn nhất, có tầm ảnh hưởng rộng nhất. WTO khuyến khích tự do hóa thương mại quốc tế và yêu cầu dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan. Về căn bản, so với giai đoạn trước, các biện pháp bảo hộ phi thuế quan đã được cắt giảm rất nhiều, nhưng do những ích lợi và hiệu quả của biện pháp này mà hiện nay nó vẫn được tất cả các quốc gia trên thế giới áp dụng dưới hình thức này hay hình thức khác.
Do trình độ phát triển giữa các quốc gia trên thế giới không đồng đều, chất lượng hàng hóa, dịch vụ và giá cả giữa nước này với nước khác có sự khác biệt lớn. Vì vậy, các nước thường có xu hướng phân công lao động để tập trung nguồn lực sản xuất những mặt hàng mà mình có lợi thế hơn. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào cũng dễ dàng chấp nhận từ bỏ một mặt hàng đang có ưu thế hoặc có tiềm năng phát triển để chuyển sang sản xuất một mặt hàng khác, chính điều này làm phát sinh nhu cầu bảo hộ. Ví dụ: Trung Quốc duy trì mức bảo hộ rất cao cho ngành công nghiệp ô tô, mặc dù họ không có lợi thế để sản xuất mặt hàng này như Hoa Kỳ và Nhật Bản, ngược lại Nhật Bản lại duy trì bảo hộ cao với ngành nông nghiệp. Thực tế này có thể do nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất, có thị trường quốc tế tức là có sự trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia. Giả sử một quốc gia không có lợi thế để sản xuất một mặt hàng nào đó, nếu để nó cạnh trạnh tự do thì lẽ dĩ nhiên là sẽ bị đào thải. Trong một số trường hợp, các quốc gia này vẫn duy trì sản xuất mặt hàng đó, do những vấn đề nhạy cảm hay mục đích kinh tế – xã hội khác, làm phát sinh nhu cầu bảo hộ.
Thứ hai, về thực tiễn, ở tất cả các quốc gia tăng trưởng cao nhờ xuất khẩu, dù đã gần đạt tới tỷ xuất tự do hoá hoàn toàn, họ vẫn thực hiện một số biện pháp bảo hộ thị trường trong nước. Rõ ràng vấn đề bảo hộ thị trường trong nước bằng biện pháp phi thuế ở các quốc gia này vẫn tồn tại, mặc dù họ là người khởi xướng và dẫn dắt việc cắt giảm bảo hộ và tiến tới tự do hoá hoàn toàn thương mại thế giới.
Ví dụ: Dù là một nền kinh tế mạnh nhất thế giới, khởi xướng cho xu thế tự do hóa thương mại và có tầm ảnh hưởng lớn trong WTO, Hoa Kỳ vẫn áp dụng các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước, dù chỉ với một ngành sản xuất nhỏ như cá da trơn (Vụ kiện bán phá giá cá tra - cá ba sa của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ).
Thứ ba, vấn đề bảo hộ mậu dịch càng đặc biệt được chú trọng ở những quốc gia đang phát triển, khi mà lợi thế cạnh tranh chưa cao và nhiều ngành sản xuất trong nước còn non trẻ. Ví dụ: Việt Nam đang nỗ lực hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng hội nhập thì lại phải đối mặt với những thách thức lớn trước sự xâm nhập của hàng hoá nước ngoài. Có thể nói, các ngành sản xuất của Việt Nam có rất ít lợi thế cạnh tranh (ngay cả với một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao như gạo, cà phê...), các mặt hàng khác như điện tử, sản phẩm có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, nếu tự do cạnh tranh với hàng nhập ngoại thì sẽ bị đánh bại ngay trên thị trường nội địa. Do đó, với những ngành sản xuất cần được chú trọng có liên quan mật thiết tới sự phát triển của nền kinh tế thì cần phải có sự bảo hộ hợp lý và thích đáng để có thể đủ sức đứng vững và cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Tóm lại, chính sách thương mại tự do có mục tiêu là thúc đẩy chuyên môn hóa quốc tế, tối đa hóa lợi ích kinh tế đối với các nền kinh tế nhưng chính sách tự do thương mại không phải lúc nào cũng mang lại lợi ích như vậy. Thực tiễn cho thấy, xu thế tự do hóa thương mại luôn song hành cùng với nhu cầu bảo hộ trong những điều kiện nhất định. Tự do hóa không phải là một khái niệm mang tính ‘tuyệt đối’. Do mỗi quốc gia có trình độ phát triển khác nhau, xuất phát điểm với quá trình hội nhập khác nhau, mục tiêu kinh tế, chính trị không đồng nhất nên việc áp dụng các chính sách thương mại với nội dung bảo hộ hay tự do hóa là khác nhau. Nhu cầu bảo hộ không chỉ với những nước đang phát triển mà ngay cả đối với những nước phát triển.
Bảo hộ phi thuế là cần thiết xét trên yếu tố cạnh tranh quốc gia và phân phối nguồn lực
Do vị thế của các quốc gia trên thế giới là không giống nhau và lợi thế so sánh cũng khác nhau, nên trong quá trình tự do hóa thương mại, các quốc gia thường nảy sinh mâu thuẫn về lợi ích. Điều này làm cho các chính sách tự do hóa thương mại bị cản trở, chủ yếu xuất phát từ sự kém hiệu quả trong phân phối nguồn lực và thất bại của thị trường trong nước. Giả sử dưới tác động của tự do hóa thương mại, khu vực sản xuất có hiệu quả như ngành điện tử có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất; nhưng đồng thời, các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ giảm dần quy mô như ngành mía đường. Tuy nhiên, nhà đầu tư không thể chuyển hướng kinh doanh từ ngành mía đường sang các ngành khác (ví dụ điện tử) và người lao động trong ngành mía không thể sang làm trong ngành điện tử, nên sự chuyển đổi vốn đầu tư và lao động không thể diễn ra một cách bình thường mà ngược lại đã làm tăng đội ngũ thất nghiệp, bán thất nghiệp và gây đình trệ sản xuất, kinh doanh.
Lợi ích của tự do thương mại là rõ ràng; tuy nhiên, thực tế quá trình chuyển đổi sản xuất và phân phối lại nguồn lực nhằm đáp ứng quá trình chuyên môn hóa ở các quốc gia lại không xảy ra dễ dàng. Điều này làm phát sinh nhu cầu bảo hộ sản xuất trong nước của các quốc gia trước sức ép của tự do hóa thương mại.
1.1.3. Mục đích của bảo hộ phí thuế quan
Mục đích của bảo hộ phi thuế quan trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế đối với các quốc gia đang phát triển là bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài nhằm phát triển sản xuất, khuyến khích xuất khẩu và tạo đà tăng trưởng trước sức ép của toàn cầu hóa.
Bởi vậy, không nên hiểu các biện pháp phi thuế như là một rào cản trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại. Các NTB có thể bao gồm các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu như các biện pháp tài trợ hoặc trợ giá hoặc các biện pháp hạn chế nhập khẩu được quốc tế công nhận như sử dụng các quy định về kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ.
Mục đích của bảo hộ là để thúc đẩy phát triển sản xuất, không thể bảo hộ tràn lan, mà phải tuân theo một số nguyên tắc cơ bản sau:
Chỉ bảo hộ những mặt hàng mà sản xuất trong nước đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế, có tiềm năng phát triển trong tương lai, tạo được nguồn thu ngân sách và giải quyết lao động
Việc bảo hộ đó được thống nhất cho mọi thành phần kinh tế, kể cả các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Chính sách bảo hộ được quy định trong từng trường hợp, từng thời kỳ và không bảo hộ vĩnh viễn cho bất kỳ hàng hóa nào.
Bảo hộ thị trường trong nước phải phù hợp với tiến trình tự do hoá thương mại và các hiệp định quốc tế mà Chính phủ Việt Nam đã ký kết.
Vấn đề bảo hộ như thế nào cho phù hợp với các quy định và thông lệ của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế mà Việt Nam đã tham gia (AFTA, APEC..) hay đang xúc tiến quá trình gia nhập (WTO) đòi hỏi phải có những bước đi thận trọng và xác định những lộ trình bảo hộ hợp lý để phù hợp với xu thế toàn cầu hóa, chuyên môn hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
1.1.4. Ưu điểm, nhược điểm của hàng rào phi thuế quan
a. Ưu điểm
Một là, hàng rào phi thuế quan rất phong phú về hình thức: nhiều biện pháp phi thuế khác nhau có thể đáp ứng cùng một mục tiêu, áp dụng cho cùng một mặt hàng.
Các biện pháp phi thuế trong thực tế rất phong phú về hình thức nên tác động, khả năng và mức độ đáp ứng mục tiêu của chúng cũng rất đa dạng. Do đó, nếu sử dụng biện pháp phi thuế để phục vụ một mục tiêu đề ra thì có thể có nhiều sự lựa chọn, kết hợp nhiều biện pháp hơn mà không bị gò bó trong khuôn khổ một công cụ duy nhất như thuế quan. Ví dụ: để nhằm hạn chế nhập khẩu phân bón, có thể đồng thời áp dụng các biện pháp hạn ngạch nhập khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu không tự động, đầu mối nhập khẩu, phụ thu nhập khẩu.
Hai là, hàng rào phi thuế quan đáp ứng nhiều mục tiêu
Mỗi quốc gia thường theo đuổi nhiều mục tiêu trong chính sách kinh tế, thương mại của mình. Các mục tiêu đó có thể là: 1) Bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến khích phát triển một số ngành nghề; 2) Bảo vệ an toàn sức khỏe con người, động thực vật, môi trường; 3) Hạn chế tiêu dùng; 4) Đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán; 5) Bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, v.v...
Bằng một biện pháp phi thuế có thể đồng thời đáp ứng nhiều mục tiêu mà đem lại hiệu quả cao. Ví dụ: quy định về vệ sinh kiểm dịch đối với nông sản nhập khẩu vừa đảm bảo an toàn sức khỏe con người, động thực vật lại vừa gián tiếp bảo hộ sản xuất nông nghiệp trong nước một cách hợp pháp. Hay cấp phép không tự động đối với dược phẩm nhập khẩu vừa giúp bảo hộ ngành dược nội địa, dành đặc quyền cho một số đầu mối nhập khẩu nhất định, quản lý chuyên ngành một mặt hàng quan trọng đối với sức khỏe con người.
Ba là, việc bảo hộ sản xuất trong nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế bằng hàng rào phi thuế quan tương đối thuận lợi vì nhiều biện pháp phi thuế quan chưa bị cam kết ràng buộc cắt giảm hay loại bỏ. Hiện nay, các hiệp định của WTO chỉ mới điều chỉnh việc sử dụng một số biện pháp phi thuế nhất định. Trong đó, tất cả các biện pháp phi thuế hạn chế định lượng Các biện pháp phi thuế hạn chế định lượng như cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu không tự động v.v... gây cản trở, bóp méo thương mại và thường bị coi là các Hàng rào phi thuế (NTBs).
đều không được phép áp dụng, trừ trường hợp ngoại lệ. Một số biện pháp phi thuế khác tuy có thể nhằm mục tiêu hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước nhưng vẫn được WTO cho phép áp dụng với điều kiện tuân thủ những quy định cụ thể, rõ ràng, khách quan. Chẳng hạn như tiêu chuẩn kỹ thuật, biện pháp kiểm dịch động thực vật, tự vệ, thuế chống bán phá giá, các biện pháp chống trợ cấp, thuế đối kháng, v.v…
b. Nhược điểm
Bên cạnh những lợi thế mà hàng rào phi thuế quan mang lại thì các biện pháp này vẫn còn một số nhược điểm.
Thứ nhất là tính mập mờ và khó dự đoán. Hiện nay, do hình thức thể hiện của các biện pháp phi thuế quan rất phong phú nên nhiều biện pháp chưa chịu sự điều chỉnh của các quy tắc thương mại. Cho nên, dù tác động của chúng có thể lớn nhưng lại là tác động ngầm, có thể che đậy hoặc biện hộ bằng cách này hay cách khác. Việc dự đoán một mặt hàng nào đó có áp dụng các biện pháp phi thuế quan hay không là rất khó, vì thực tế chúng thường được vận dụng trên cơ sở dự đoán chủ quan, đôi khi tuỳ tiện của nhà quản lí về sản xuất và nhu cầu tiêu dùng trong nước. Trong bối cảnh kinh tế phức tạp và thường xuyên biến động như hiện nay, việc đưa ra một dự đoán tương đối chính xác là rất khó khăn. Hậu quả của việc dự đoán không chính xác sẽ rất nghiêm trọng chẳng hạn như gây ra thiếu hụt trầm trọng nguồn cung cấp hàng hóa khi sản xuất trong nước có nhu cầu cao hay đang trong thời vụ khiến giá cả tăng vọt (sốt nóng) hoặc trái lại dẫn đến tình trạng cung vượt cầu quá lớn trên thị trường gây ra tình trạng sụt giá (sốt lạnh). Các biện pháp phi thuế quan đôi khi cũng làm nhiễu tín hiệu của thị trường mà người sản xuất và người tiêu dùng trong nước thường dựa vào đó để ra quyết định. Tín hiệu này chính là giá thị trường, một khi bị làm sai lệch, nó sẽ phản ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh thực sự, chỉ dẫn sai việc phân bổ nguồn lực trong nội bộ nền kinh tế. Do đó, khả năng xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất, kinh doanh hiệu quả trong trung hạn và dài hạn của người sản xuất bị hạn chế.
Hiệu quả mà các biện pháp phi thuế quan đem lại thường rất lớn nhưng lại khó có thể được lượng hoá rõ ràng như tác động của thuế quan. Nếu mức bảo hộ thông qua thuế quan đối với một sản phẩm có thể xác định được một cách dễ dàng thông qua mức thuế suất đánh lên sản phẩm đó thì mức độ bảo hộ thông qua biện pháp phi thuế quan là tổng mức bảo hộ của các biện pháp phi thuế quan riêng rẽ áp dụng cho cùng một sản phẩm. Bản thân mức độ bảo hộ của mỗi biện pháp phi thuế quan cũng chỉ có thể được ước lượng một cách tương đối chứ không thể lượng hoá rõ ràng như biện pháp thuế quan. Cũng vì mức độ bảo hộ của các biện pháp phi thuế không dễ xác định nên rất khó xây dựng một lộ trình tự do hoá thương mại như với bảo hộ chỉ bằng thuế quan.
Thứ hai là hàng rào phi thuế quan gây khó khăn và tốn kém trong quản lý. Vì khó dự đoán nên khi sử dụng các hàng rào phi thuế, nhà nước thường tiêu tốn nhân lực và phải trả một khoản chi phí khá cao để duy trì hệ thống điều hành, kiểm soát. Không chỉ có vậy, một số NTBs lại thuộc thẩm quyền và phạm vi quản lý của nhiều cơ quan với những mục tiêu khác nhau, đôi khi còn mâu thuẫn nhau, nên có thể gây ra khó khăn cho các nhà hoạch định chính sách. Một khó khăn khác trong việc quản lý các NTB đó là sự xuất hiện của những NTB bị động. Những NTB bị động đó chính là sự quan liêu trong bộ máy quản lý thương mại, năng lực thấp của các nhân viên hải quan, các văn bản pháp lý không được công bố công khai,v.v… Vẫn biết rằng những NTB này là do sự chủ quan của con người nhưng đó lại đang là một thực tế mà các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt và tìm cách khắc phục. Tuy nhiên, để khắc phục được tình trạng này đòi hỏi phải có sự phối hợp thực hiện đồng bộ của các cấp, bộ ngành có liên quan.
Thứ ba, việc sử dụng hàng rào phi thuế quan nhằm hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước không đem lại nguồn thu tài chính trực tiếp nào cho nhà nước mà thường chỉ làm lợi cho một số doanh nghiệp hoặc một số ngành nhất định được bảo hộ hoặc được hưởng ưu đãi, đặc quyền như được phân bổ hạn ngạch, được chỉ định làm đầu mối nhập khẩu. Chính điều này đã dẫn đến sự mất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nội bộ nền kinh tế của mỗi quốc gia.
1.2. Quy định của WTO về hàng rào phi thuế quan
1.2.1. WTO và tầm quan trọng của WTO với tự do hóa thương mại thế giới
WTO (The World Trade Organization - Tổ chức Thương mại thế giới) là một thể chế pháp lý của hệ thống thương mại đa phương, nó đưa ra những nghĩa vụ có tính nguyên tắc để chính phủ các nước thiết lập khuôn khổ các luật lệ và quy định thương mại trong nước phù hợp với thương mại thế giới. WTO có thể nói là tổ chức kinh tế quốc tế lớn nhất mà tầm ảnh hưởng của nó bao trùm và rộng khắp. Hiện nay, WTO có 147 thành viên, các quy tắc của nó điều chỉnh phần lớn khối lượng hàng hoá giao dịch trên thị trường thế giới. ảnh hưởng của WTO tới thương mại thế giới là tích cực, tạo ra một quy tắc chung về cơ bản là thông thoáng để các nước có thể điều chỉnh quan hệ thương mại với nhau.
Khi đã tham gia vào WTO, các quốc gia phải dành cho nhau quy chế đãi ngộ tối huệ quốc MFN, tức là đối xử như nhau theo một quy định thống nhất. Với các nước chưa phải là thành viên của WTO thì phải đàm phán song phương để được hưởng MFN với từng quốc gia và có thể phải chịu các quy định, trừng phạt thương mại vô lý, đơn phương từ các quốc gia khác áp đặt (quy chế cấm vận của Hoa Kỳ với Cuba, Iraq...). Thực tế cho thấy, khi chưa phải là thành viên của WTO, Việt Nam cũng gặp phải rất nhiều khó khăn trong buôn bán, làm ăn với các nước và chưa có chỗ dựa để viện dẫn và bảo vệ quyền lợi. Ví dụ, năm 2000, Việt Nam bị Trung Quốc áp dụng hạn ngạch đơn phương về nhập khẩu hoa quả tươi gây thiệt hại không nhỏ.
Gia nhập vào WTO, các quốc gia đang phát triển và có vị thế còn thấp trên trường quốc tế như Việt Nam mới có thể yên tâm về vị trí của mình trong thương mại quốc tế và mới có điều kiện để ổn định xây dựng sản xuất trong nước hướng theo mô hình toàn cầu hóa, chuyên môn hóa. Gia nhập vào WTO tức là khẳng định tinh thần hợp tác, cởi mở, mong muốn tham gia vào xu thế hội nhập chung. Ngoài ra, chúng ta còn có căn cứ để bảo vệ lợi ích và quyền lợi của mình, tránh được sự o ép của các quốc gia mạnh hơn. Bởi vậy, mục tiêu gia nhập vào WTO là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm đưa kinh tế đất nước tiến lên.
Tuy nhiên, các quy tắc của WTO tương đối khắt khe và không phải quốc gia nào cũng áp dụng dễ dàng, nhất là với những nền kinh tế mà năng lực cạnh tranh còn thấp như Việt Nam. Để đạt mục tiêu gia nhập tổ chức này, chúng ta không còn cách nào khác là phải xây dựng ngay hệ thống pháp lý điều chỉnh các hành vi thương mại quốc tế phù hợp với các quy định của WTO. Các biện pháp bảo hộ sản xuất trước kia không còn phù hợp phải loại bỏ và thay vào đó là sử dụng các biện pháp khác phù hợp với các quy định và chuẩn mực của WTO.
Vấn đề này đòi hỏi sự nghiên cứu kỹ về những bất cập trong mối quan hệ giữa bảo hộ và hội nhập; kinh nghiệm xử lý của các quốc gia; cũng như hệ thống pháp lý điều chỉnh các nội dung này của WTO.
1.2.2. Quy định về sử dụng Hạn ngạch
Hạn ngạch nhập khẩu là quy định của Nhà nước về số lượng hoặc giá trị của một mặt hàng nào đó được nhập khẩu từ một thị trường nào đó trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm). Hạn ngạch nhập khẩu là một loại rào cản thương mại ở mức độ thấp. Tác động của nó không được minh bạch, thu nhập hay lợi tô sẽ rơi vào tay những người nắm giữ hạn ngạch ưu đãi, mức độ bảo hộ không rõ ràng và sự cách ly khỏi thị trường có thể ở mức tuyệt đối. Tuy nhiên, với đặc điểm riêng của mình, hạn ngạch nhập khẩu khi được áp dụng sẽ có vai trò nhất định trong chính sách bảo hộ thông qua quản lý nhập khẩu của một quốc gia.
Hạn ngạch nhập khẩu làm cho số lượng nhập khẩu của hàng hoá chịu sự quản lý nhỏ hơn lượng nhập khẩu trong điều kiện tự do thương mại, nên giá của hàng hoá này trên thị trường nội địa sẽ cao hơn mức giá thế giới. Nhờ tác động này, hạn ngạch nhập khẩu có thể được sử dụng như một biện pháp của chính sách quản lý xuất nhập khẩu phục vụ mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, khi sử dụng hạn ngạch nhập khẩu, Chính phủ sẽ xác định trước được khối lượng nhập khẩu và có thể tác động đến hoạt động xuất khẩu của một hay một số quốc gia khác. Vì những đặc điểm này, hạn ngạch còn có thể được dùng như là biện pháp giúp sử dụng có hiệu quả nguồn ngoại tệ, thực hiện các cam kết của Chính phủ với nước ngoài và là công cụ để điều tiết hoạt động nhập khẩu.
WTO không cho phép các thành viên của mình áp dụng biện pháp hạn ngạch. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, biện pháp hạn ngạch có thể được sử dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử. Đó là những trường hợp sau:
áp dụng biện pháp hạn ngạch để cấm hoặc hạn chế xuất khẩu tạm thời nhằm ngăn ngừa hay khắc phục sự khan hiếm trầm trọng về lương thực, thực phẩm hay các sản phẩm thiết yếu khác.
áp dụng biện pháp hạn ngạch (cấm hoặc hạn chế xuất nhập khẩu) để thực thi các tiêu chuẩn hay quy chế về phân loại (classification), phân cấp (grading) hay tiếp thị các sản phẩm trong thương mại quốc tế.
áp dụng hạn ngạch để hạn chế nhập khẩu đối với mọi sản phẩm nông, ngư nghiệp. Trong trường hợp này, nước thành viên phải công bố tổng khối lượng hay tổng trị giá của sản phẩm được phép nhập khẩu trong một thời kỳ nhất định trong tương lai và mọi thay đổi về số lượng hay trị giá nói trên.
Các nước thành viên WTO có thể áp dụng biện pháp hạn ngạch để hạn chế số lượng hay trị giá hàng hoá nhập khẩu nhằm mục đích bảo vệ tình hình tài chính đối ngoại và cán cân thanh toán của nước mình. Các hạn chế nhập khẩu được định ra, duy trì hay mở rộng về mục đích này không được vượt quá mức cần thiết là “để ngăn ngừa sự đe doạ sắp xảy ra hay để chặn lại sự thiếu hụt nghiêm trọng dự trữ tiền tệ, hoặc trong trường hợp một nước thành viên có dự trữ tiền tệ rất thấ._.p, để nâng dự trữ tiền tệ lên một mức hợp lý”.[10, tr 97]
Điều đó có nghĩa là, các nước thành viên có thể hạn chế số lượng hoặc giá trị hàng hoá nhập khẩu, nhưng mức độ hạn chế không được vượt quá mức cần thiết để đề phòng hoặc ngăn chặn nguy cơ dự trữ tiền tệ giảm mạnh. Đối với những nước có dự trữ tiền quá mỏng thì mức độ hạn chế không được vượt quá mức cần thiết để tăng dự trữ một cách hợp lý. Đồng thời, WTO cũng yêu cầu các quốc gia thành viên khi thi hành chính sách trong nước phải có nghĩa vụ cân đối thu chi quốc tế lâu dài, tránh sử dụng tài nguyên một cách phi kinh tế, phải tận dụng mọi khả năng để mở rộng thương mại quốc tế.
Các nước đang phát triển có thể áp dụng các biện pháp hạn chế số lượng trong chương trình trợ giúp của Chính phủ để thúc đẩy kinh tế phát triển, hạn chế để bảo vệ thị trường và một số ngành công nghiệp cụ thể. Sự hỗ trợ của chính phủ, đặc biệt là chính phủ các nước có mức sống thấp, mức tăng trưởng thấp, sẽ giúp ích cho việc thực hiện các tôn chỉ của WTO. Vì vậy, WTO cho phép các nước này được áp dụng các biện pháp hạn chế số lượng hoặc giá trị hàng nhập khẩu để kiểm soát mức nhập khẩu, nhằm thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế của nước mình.
Ngoài ra, WTO còn quy định các ngoại lệ chung được áp dụng cho việc hạn chế số lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, khi chính phủ thấy cần thiết để bảo vệ: đạo đức xã hội, con người và động thực vật; tài sản quốc gia về nghệ thuật, lịch sử hay khảo cổ; tài nguyên thiên nhiên khan hiếm và liên quan đến xuất nhập khẩu vàng và bạc, với điều kiện là các biện pháp này phải thực hiện kèm theo việc hạn chế sản xuất hay tiêu dùng nội địa liên quan đến chúng.
Tuy nhiên, WTO cũng yêu cầu các quốc gia thành viên khi áp dụng biện pháp hạn ngạch để hạn chế nhập khẩu phải cam kết tránh gây ra tổn thất không cần thiết cho quyền lợi kinh tế và thương mại của các nước thành viên khác. Khi tình hình kinh tế trong nước đã được cải thiện, WTO yêu cầu các quốc gia thành viên phải dần dần nới lỏng các hạn chế, chỉ duy trì các hạn chế đó ở mức độ cần thiết, còn khi tình hình kinh tế trong nước thay đổi theo chiều hướng tốt không cần thiết phải duy trì những hạn chế đó nữa thì phải loại bỏ các hạn chế đó ngay lập tức.
Bên cạnh đó, WTO cũng quy định về việc cấm phân biệt đối xử khi áp dụng hạn ngạch. Việc cấm đoán hay hạn chế được thực hiện đối với việc nhập khẩu những sản phẩm cùng loại của tất cả các nước hoặc đối với việc xuất khẩu những sản phẩm cùng loại sang bất kỳ nước nào.
Khi hạn chế việc nhập khẩu của sản phẩm nào đó, các nước thành viên phải tận dụng mọi khả năng để việc phân phối những sản phẩm ấy phải sát với mức mà các nước thành viên khác dự tính có thể xuất khẩu được khi không có các biện pháp hạn chế số lượng.
Cụ thể WTO yêu cầu các quốc gia như sau:
Khi có thể tiến hành được, phải xác định hạn ngạch nhập khẩu và công bố hạn ngạch này trong từng thời gian cụ thể và những thay đổi nếu có.
Nếu không thể xác định hạn ngạch được thì có thể dùng giấy phép nhập khẩu không có hạn ngạch hoặc giấy chứng nhận nhập khẩu để hạn chế.
Nếu áp dụng hạn ngạch cho từng nước thì phải đạt được thoả thuận về phân phối hạn ngạch với các nước thành viên có quan hệ lợi ích lớn với nước mình.
Ngoài các quy định chung về hạn ngạch như trên, đối với các sản phẩm nông nghiệp (quy định tại Điều IV Hiệp định Nông nghiệp của WTO) có thể áp dụng một hình thức hạn ngạch đặc biệt gọi là Hạn ngạch thuế quan (Tariff Rate Quota - TRQ).
1.2.3. Quy định về sử dụng giấy phép nhập khẩu
a. Những quy định chung của WTO về việc cấp giấy phép nhập khẩu
Giấy phép nhập khẩu là văn bản pháp lý do cơ quan có thẩm quyền về quản lý xuất nhập khẩu cấp cho nhà nhập khẩu để họ có quyền nhập khẩu hàng hoá.
WTO quy định việc cấp phép nhập khẩu phải đơn giản, rõ ràng và dễ dự đoán. Các chính phủ phải công bố thông tin đầy đủ cho các nhà kinh doanh biết giấy phép được cấp như thế nào và căn cứ để cấp. Khi đặt ra các thủ tục cấp phép nhập khẩu mới hay thay đổi các thủ tục hiện tại, các thành viên phải thông báo theo những quy định cụ thể cho WTO. Việc xét đơn nhập khẩu cũng phải tuân thủ các quy định chặt chẽ. Điều 1, Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu quy định chi tiết như sau:
“Cấp phép nhập khẩu được hiểu là các thủ tục hành chính được sử dụng để thực hiện chế độ cấp phép nhập khẩu, yêu cầu phải nộp đơn xin nhập khẩu hoặc các loại giấy tờ khác (không liên quan đến mục đích Hải quan) cho các cơ quan hành chính thích hợp như là điều kiện tiên quyết để được phép nhập khẩu”. [10, tr 106]
Các thành viên của WTO phải đảm bảo rằng những thủ tục hành chính để thực hiện chế độ cấp phép nhận khẩu không được bóp méo thương mại do việc sử dụng không thích hợp các thủ tục đó. Các quy định đối với thủ tục cấp phép nhập khẩu phải được áp dụng trung lập và được quản lý theo một cách thức công bằng và hợp lý. WTO cũng quy định rằng mọi thông tin và quy định liên quan đến thủ tục nộp đơn xin giấy phép nhập khẩu như tiêu chuẩn của nhà nhập khẩu, cơ quan tiếp nhận, danh mục hàng hóa phải được công bố sao cho Chính phủ các nước và các nhà kinh doanh có thể nắm bắt được. Nếu điều kiện cho phép, các thành viên phải thông báo công khai các thông tin trên trong thời hạn 21 ngày trước khi các quy định và yêu cầu có hiệu lực, tuy nhiên trong mọi trường hợp không được muộn hơn ngày có hiệu lực. Tất cả các trường hợp ngoại lệ hoặc thay đổi quy định liên quan đến thủ tục cấp phép nhập khẩu hay danh mục các mặt hàng phải được công bố theo cách thức và trong cùng thời hạn nói trên.
Ngoài ra, WTO cũng quy định rằng người có giấy phép có quyền tiếp cận nguồn ngoại hối cần thiết để thanh toán hàng nhập khẩu cần giấy phép theo cùng điều kiện đối với các nhà nhập khẩu hàng không cần giấy phép.
b. Các trường hợp cấp phép nhập khẩu trong WTO
Theo WTO, thủ tục cấp phép nhập khẩu được chia thành 2 trường hợp:
- Thủ tục cấp phép nhập khẩu tự động: WTO quy định tất cả những người, cơ quan hoặc tổ chức đáp ứng đầy đủ yêu cầu pháp lý của thành viên nhập khẩu về việc tham gia hoạt động nhập khẩu mặt hàng thuộc diện cấp phép tự động đều có quyền nộp đơn xin cấp phép và được phê chuẩn ngay lập tức mà không bị gây khó khăn trở ngại gì.
- Thủ tục cấp phép nhập khẩu không tự động: Giấy phép nhập khẩu không tự động được các chính phủ sử dụng nhằm mục đích hạn chế hàng nhập khẩu. Theo quy định của WTO, cấp phép không tự động không được tạo thêm những tác động hạn chế hoặc cản trở thương mại. Đối với loại giấy phép này, WTO quy định phải giảm tối đa các trở ngại cho người xin giấy phép, chỉ giới hạn ở những gì hết sức cần thiết cho công tác quản lý nhập khẩu. Thời gian xét duyệt theo yêu cầu của WTO không vượt quá 60 ngày và thời hạn có hiệu lực của giấy phép phải hợp lý, không nên quá ngắn để ảnh hưởng tới việc nhập khẩu cũng như không gây trở ngại cho hàng hoá nhập khẩu từ xa.
Tất cả những người, công ty hoặc tổ chức đáp ứng đầy đủ yêu cầu pháp lý và hành chính của thành viên nhập khẩu đều có quyền ngang nhau trong việc nộp đơn xin cấp và được xem xét để cấp phép. Nếu đơn xin cấp phép không được chấp nhận thì theo yêu cầu của người nộp đơn, cơ quan chức năng phải thông báo lý do không chấp nhận và người nộp đơn được quyền khiếu kiện và yêu cầu xem xét lại theo pháp luật và thủ tục trong nước của thành viên nhập khẩu. Khi phân bổ giấy phép, các nước thành viên cần xem xét tình hình nhập khẩu của người nộp đơn. Cụ thể là, cần phải xét xem liệu giấy phép cấp cho người nộp đơn trong quá khứ có được sử dụng hết không? Trong trường hợp người nộp đơn không sử dụng hết giấy phép đã được cấp, cơ quan chức năng phải tìm hiểu lý do tại sao và cân nhắc những lý do này khi phân bổ giấy phép mới. Nếu lượng hàng hoá nhập khẩu quá mức được cấp phép nhưng vẫn có thể chấp nhận được thì có thể sẽ điều chỉnh mức phân bổ giấy phép trong tương lai để bù lại lượng nhập quá phép.
Nhằm thực hiện tốt các quy định trên về thủ tục cấp phép nhập khẩu, WTO đã thành lập Uỷ ban về cấp phép nhập khẩu. Uỷ ban này tạo các cơ hội thương lượng để thúc đẩy việc thực hiện các quy định này của các nước thành viên. Khi ban hành hoặc thay đổi thủ tục cấp phép nhập khẩu, các thành viên phải thông báo cho Uỷ ban trong vòng 60 ngày kể từ ngày công bố việc ban hành hay thay đổi đó.
1.2.4. Quy định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng
a. Những quy định chung
Trong thương mại thế giới, buôn bán công bằng và ngay thẳng là điều kiện quan trọng để thúc đẩy tự do hoá thương mại, góp phần bảo đảm sự ổn định và minh bạch trong thương mại. Thoả thuận về trợ cấp và chống trợ cấp đã đạt được trong thời kỳ GATT, sau đó Hiệp định này đã tiếp tục được sửa đổi, hoàn thiện và cấu thành nên hệ thống pháp lý của WTO ngày nay. Không giống như Hiệp định tiền nhiệm, Hiệp định mới về trợ cấp của WTO chứa đựng định nghĩa về trợ cấp và đưa ra khái niệm về “trợ cấp đặc thù” hay còn gọi là “trợ cấp riêng”. Chỉ các trợ cấp đặc thù hay trợ cấp riêng mới chịu sự điều chỉnh bởi các nguyên tắc được quy định trong hiệp định này.
Trợ cấp xảy ra khi một số lợi ích được chuyển giao nhờ có sự hỗ trợ của chính phủ về giá hay thu nhập, hay có sự đóng góp tài chính của chính phủ cũng như các tổ chức công cộng, chẳng hạn như chuyển giao trực tiếp các khoản tiền hay bảo lãnh tín dụng; hoặc bỏ qua các khoản tiền lẽ ra phải thu cho ngân sách nhà nước, chẳng hạn như các ưu đãi về thuế (trừ thuế gián thu); hoặc chính phủ cung cấp hàng hoá và dịch vụ không thuộc nhóm cơ sở hạ tầng, hay thông qua việc mua hàng hoá.
Hiệp định cũng quy định trợ cấp riêng là loại trợ cấp chỉ dành cho một ngành hoặc một số ngành, một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp nhất định, và các cơ quan có thẩm quyền hay các văn bản pháp luật không chỉ ra một cách rõ ràng, công khai các tiêu chuẩn khách quan để đạt được trợ cấp.
Trợ cấp áp dụng giới hạn cho các doanh nghiệp nhất định nằm trong một vùng địa lý xác định thuộc phạm vi thẩm quyền của nhà chức trách cấp trợ cấp thì cũng được coi là trợ cấp riêng. Việc xác định trợ cấp riêng phải được chứng minh rõ ràng trên cơ sở chứng cứ thực tế.
b. Những quy định cụ thể của WTO về các loại trợ cấp và các biện pháp đối kháng áp dụng cho mỗi loại trợ cấp
Các quy định về trợ cấp của WTO trong Hiệp định này áp dụng đối với các sản phẩm phi nông nghiệp, bao gồm 3 loại trợ cấp: trợ cấp bị cấm, trợ cấp có thể đối kháng, và trợ cấp không thể đối kháng (hay còn gọi là trợ cấp có thể chấp nhận được).
Trợ cấp bị cấm: Trợ cấp này có thể được sử dụng để hỗ trợ cho một ngành sản xuất non trẻ vươn lên chiếm lĩnh thị trường hoặc vì các mục đích kinh tế khác. Tuy nhiên, có một số hình thức trợ cấp bị cấm trong WTO. WTO đặc biệt cấm các thành viên không được sử dụng các biện pháp trợ cấp gắn với thành tích xuất khẩu (trợ cấp xuất khẩu) cũng như các trợ cấp gắn với việc ưu tiên sử dụng hàng nội địa hơn hàng nhập khẩu (tức là trợ cấp để sản xuất ra những sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu)
Trợ cấp có thể đối kháng: Điều 5 - Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO quy định những trường hợp sau đây sẽ được coi là trợ cấp có thể đối kháng:
Trường hợp trợ cấp được xác định rõ là đã gây ra phương hại (tổn hại) cho nền công nghiệp nội địa của một nước hoặc vô hiệu hoá hoặc tước đi mất lợi ích mà thông thường nước đó vẫn thu nhận được, đặc biệt là lợi ích thu được do chế độ nhân nhượng lẫn nhau về thuế quan.
Trường hợp trợ cấp gây ra phương hại (tổn hại) nghiêm trọng tới lợi ích của nước thứ ba là thành viên của WTO. Quy định của WTO cũng chỉ ra rõ rằng, phương hại (tổn hại) nghiêm trọng trong trường hợp này có nghĩa là:
Tổng trợ cấp tính theo giá trị của một sản phẩm vượt quá 5% trị giá của nó.
Trợ cấp để bù cho sự thua lỗ kéo dài trong hoạt động kinh doanh của một ngành sản xuất.
Trợ cấp để bù cho các hoạt động kinh doanh thua lỗ của một doanh nghiệp, trừ khi đó là một biện pháp nhất thời mang tính chất một lần và không lặp lại với doanh nghiệp đó và được cấp chỉ thuần tuý để cho phép có thời gian tìm kiếm một giải pháp lâu dài và tránh phát sinh một vấn đề xã hội gay gắt.
Trực tiếp xoá nợ cho doanh nghiệp, ví dụ như xoá một khoản nợ Nhà nước hay cấp kinh phí để thanh toán nợ.
Các nước thành viên của WTO sẽ không được áp dụng một trong các loại trợ cấp đã nêu ở trên. Nếu một thành viên của WTO chứng minh được rằng một nước thành viên khác đang áp dụng hay duy trì một khoản trợ cấp dẫn đến thiệt hại, làm vô hiệu hoá, suy giảm hay gây phương hại nghiêm trọng một ngành sản xuất của mình thì thành viên này có quyền khiếu nại lên cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Nếu cơ quan này xác định điều khiếu nại trên là đúng thì thành viên đang thực hành hay duy trì trợ cấp phải rút bỏ ngay trợ cấp đó hoặc phải có những biện pháp thích hợp để loại bỏ tác động có hại từ việc trợ cấp đó gây ra cho các thành viên khác. Nếu không, cơ quan giải quyết tranh chấp cho phép bên khiếu nại có quyền thực hiện biện pháp đối kháng. Thuế đối kháng phải được đánh với mức thuế phù hợp với từng trường hợp và trên cơ sở không phân biệt đối xử.
Trợ cấp không thể đối kháng (trợ cấp có thể chấp nhận được): Đây là loại trợ cấp không phải là trợ cấp riêng (quy định ở phần trên) hoặc cũng có thể là trợ cấp riêng nhưng liên quan tới các vấn đề sau:
Hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu như: chi phí nhân sự, chi phí công cụ, thiết bị, đất đai nhà cửa sử dụng cho hoạt động nghiên cứu; chi phí tư vấn và dịch vụ hoàn toàn cho hoạt động nghiên cứu; chi phí bổ sung phụ trội phát sinh trực tiếp từ hoạt động nghiên cứu; các chi phí điều hành khác phát sinh trực tiếp từ hoạt động nghiên cứu.
Trợ giúp cho các vùng khó khăn trên lãnh thổ của một nước thành viên. Vùng khó khăn đó phải được xác định ranh giới một cách rõ ràng về địa lý với những đặc điểm kinh tế và hành chính nhất định. Vùng đó được coi là vùng khó khăn trên cơ sở những tiêu thức vô tư và khách quan, nêu rõ ràng những khó khăn của vùng đó phát sinh từ những nhân tố không mang tính nhất thời; các tiêu thức đó phải được nêu rõ trong luật, quy chế hay những văn bản chính thức khác để có thể cho phép kiểm tra được.
Hỗ trợ nhằm xúc tiến nâng cấp những phương tiện hạ tầng hiện có cho phù hợp với yêu cầu mới về môi trường. Tuy nhiên, sự hỗ trợ đó chỉ là biện pháp nhất thời không kéo dài, có giới hạn không quá 20% chi phí nâng cấp, và không bao gồm chi phí thay thế hay vận hành những khoản đầu tư đã được hỗ trợ. Khoản hỗ trợ này cũng có thể được cấp cho mọi doanh nghiệp ứng dụng thiết bị mới hay quy trình sản xuất mới. Tuy nhiên, nếu một nước thành viên nào đó trong WTO có lý do để chứng minh được rằng, trợ cấp loại này đã dẫn tới những tác hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước của nước thành viên đó thì họ có thể khiếu nại lên Uỷ ban về Trợ Cấp và Các biện pháp đối kháng của WTO. Nếu Uỷ ban này xác định điều khiếu nại trên là đúng thì có thể khuyến nghị với nước đang áp dụng trợ cấp điều chỉnh chương trình trợ cấp sao cho triệt tiêu được tác động xấu của nó tới các thành viên khác. Uỷ ban phải có kết luận trong vòng 120 ngày kể từ ngày vấn đề được đưa ra trước Uỷ ban. Trong trường hợp các khuyến nghị nói trên không được tuân thủ trong vòng 6 tháng, Uỷ ban sẽ cho phép bên khiếu nại được áp dụng những biện pháp đối kháng tương xứng với tính chất và mức độ của tác động đã được xác định.
1.2.5. Quy định về các biện pháp chống bán phá giá và tự vệ
Việc ràng buộc thuế quan không được tăng và áp dụng chúng một cách bình đẳng với mọi đối tác thương mại (Quy chế tối huệ quốc-MFN) là một công cụ chủ yếu để đảm bảo thương mại toàn cầu được tiến hành thuận lợi. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, WTO cho phép một nước thành viên có thể không tuân thủ nguyên tắc này khi xảy ra hiên tượng bán phá giá.
a. Chống bán phá giá
Bán phá giá xảy ra khi một công ty xuất khẩu một sản phẩm với giá thấp hơn giá thông thường tại nước sản xuất. Không phải khi nào bán phá giá cũng tạo ra cạnh tranh không công bằng. Khi hành động bán phá giá gây thiệt hại nghiêm trọng cho một ngành sản xuất của một thành viên, WTO cho phép thành viên đó đặt ra thuế chống bán phá giá để khắc phục những thiệt hại do việc này gây ra. Tuy nhiên việc áp dụng thuế chống bán phá giá phải tuân theo những thủ tục chặt chẽ và thường rất phức tạp.
b. Các biện pháp tự vệ
Khi một mặt hàng nhập khẩu nào đó tăng lên đột biến gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho một ngành sản xuất, WTO cho phép các thành viên bị thiệt hại có thể sử dụng các biện pháp tự vệ tạm thời kể cả hạn chế định lượng để khắc phục thiệt hại do nhập khẩu gây ra.
WTO quy định, một nước chỉ có thể áp dụng các biện pháp tự vệ sau khi đã có sự điều tra để xác định tổn hại nghiêm trọng của các nhà chức trách có thẩm quyền. Hiệp định về các biện pháp tự vệ cũng chỉ rõ:
“Tổn hại nghiêm trọng” được hiểu là sự suy giảm toàn diện đáng kể tới vị trí của ngành công nghiệp nội địa.
“Đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng” được hiểu là tổn hại nghiêm trọng rõ ràng sẽ xảy ra.
Trong quá trình điều tra, việc xác định liệu một hàng hoá nhập khẩu có gây ra hoặc đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng cho sản xuất nội địa phải dựa trên cơ sở thực tế (chứ không chỉ là sự phỏng đoán, viện dẫn hay khả năng xa).
Việc áp dụng biện pháp tự vệ: WTO cho phép các nước thành viên được áp dụng các biện pháp tự vệ chỉ ở mức độ cần thiết để ngăn chặn hoặc khắc phục những tổn hại nghiêm trọng và tạo điều kiện thuận lợi điều chỉnh ngành công nghiệp có liên quan. Nếu các nước thành viên sử dụng biện pháp hạn chế số lượng thì không được giảm khối lượng hàng nhập khẩu xuống thấp hơn mức nhập khẩu trung bình trong 3 năm gần đây trừ khi chứng minh được rõ ràng rằng mức hạn chế thấp hơn đó là cần thiết để ngăn cản hay khắc phục những thiệt hại rất nghiêm trọng đang diễn ra.
Các thành viên sẽ chỉ áp dụng các biện pháp tự vệ trong khoảng thời gian cần thiết để ngăn chặn hay khắc phục những tổn hại nghiêm trọng và tạo điều kiện điều chỉnh. Thời gian này không được vượt quá 4 năm. Mặc dù vậy, WTO cũng nới rộng trong trường hợp đặc biệt cho phép thời hạn có thể kéo dài tới 8 năm tuỳ thuộc vào sự đánh giá của các nhà chức trách có thẩm quyền, nếu việc kéo dài là cần thiết nhằm tiếp tục bảo vệ hay điều chỉnh những tổn thất.
Tuy nhiên, trong những trường hợp nghiêm trọng mà sự chậm trễ có thể gây ra thiệt hại khó có thể khắc phục được, WTO cho phép một thành viên có thể áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời (chưa cần có sự điều tra của WTO) dựa trên xác định sơ bộ những chứng cứ rõ ràng chứng tỏ gia tăng nhập khẩu đã gây ra hoặc đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng. Biện pháp tạm thời được áp dụng dưới hình thức thuế quan, trong thời hạn dưới 200 ngày. Nếu như sau đó kết quả điều tra của WTO cho thấy hàng nhập khẩu này không gây ra hoặc đe dọa gây ra những tổn hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất nội địa thì nước áp dụng tự vệ phải hoàn lại lượng thuế đã thu.
1.2.6. Một số biện pháp phi thuế quan khác
Ngoài các biện pháp phi thuế quan chủ yếu như đã trình bày ở trên, WTO còn quy định về một số biện pháp phi thuế sau:
a. Quy định về trị giá tính thuế hải quan và các phụ thu tại cửa khẩu
WTO quy định trị giá tính thuế hải quan là trị giá giao dịch (trong giao dịch đơn giản thông thường là giá hợp đồng). Trong trường hợp không áp dụng được trị giá giao dịch thì phải sử dụng các cách tính khác, nhưng không được xác định trị giá tính thuế một cách tuỳ tiện, chẳng hạn sử dụng giá nhập khẩu tối thiểu để tính thuế.
Ngoài ra hải quan chỉ được thu các khoản phí và lệ phí tương ứng với chi phí cần thiết cho thủ tục thông quan. WTO không cho phép thu các khoản phí và phụ thu vì các mục đích bảo hộ hay thu ngân sách.
b. Rào cản kỹ thuật trong thương mại
Theo Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại, các nước thành viên WTO phải tuân thủ các yêu cầu sau:
- Các tiêu chuẩn hướng dẫn và khái niệm của các tổ chức tiêu chuẩn quốc tế như ISO, CODEX, IEC... phải được dùng làm căn cứ để thực hiện ở các quốc gia trừ khi các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan hoặc một phần nào đó của các tiêu chuẩn này là các cách thức không có hiệu quả hoặc không phù hợp cho việc thực hiện các mục tiêu hợp pháp đang đeo đuổi, ví dụ như các yếu tố căn bản về khí hậu hoặc địa lý hoặc các vấn đề cơ bản về công nghệ.
Quá trình xây dựng và ban hành phải theo hình thức mà các tổ chức quốc tế đã hướng dẫn.
Các thành viên sẽ tích cực xem xét để chấp nhận các quy định kỹ thuật tương ứng của các thành viên khác nếu như các thành viên đó thấy rằng các quy định này đáp ứng đầy đủ mục tiêu đặt ra các quy định của chính mình.
Việc xây dựng các quy định mới có khả năng cản trở thương mại phải được thông báo kịp thời cho các nước thành viên WTO.
c. Kiểm dịch động thực vật
Theo WTO, các nước thành viên có quyền sử dụng các biện pháp kiểm dịch động - thực vật cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người nhưng chỉ được áp dụng ở mức độ cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ con người, động vật và thực vật và dựa trên các nguyên tắc khoa học và không được duy trì nếu thiếu căn cứ khoa học xác đáng.
d. Các doanh nghiệp thương mại nhà nước
Trong WTO, các doanh nghiệp được ban các đặc quyền thương mại gọi là các doanh nghiệp thương mại nhà nước dù cho chúng thuộc sở hữu nhà nước hay sở hữu tư nhân. Ví dụ về các doanh nghiệp này là những doanh nghiệp thuộc loại “đầu mối” nhập khẩu, hay là những doanh nghiệp được phép độc quyền trong phân phối hàng nhập khẩu, hoặc là những doanh nghiệp có khả năng tiếp cận tới các nguồn tài chính hay ngoại tệ.
WTO cho phép các thành viên duy trì doanh nghiệp thương mại nhà nước song phải cam kết các hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp này phù hợp với các nguyên tắc chung về đối xử không phân biệt với các doanh nghiệp khác và phải hoạt động hoàn toàn trên tiêu chí thương mại.
CHương 2
Thực trạng áp dụng các biện pháp
bảo hộ phi thuế quan của Việt Nam
trong tiến trình hội nhập
2.1. Quá trình áp dụng biện pháp bảo hộ phi thuế của Việt Nam từ năm 1986 tới nay
Năm 1986 được xem là mốc đánh dấu cho công cuộc đổi mới của Việt Nam, khởi đầu là Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI; sau đó, Chính phủ đã ban hành hàng loạt chính sách nhằm thương mại hoá nền kinh tế, trong đó Quyết định 217/ HĐBT ngày14/11/1987 đã phản ánh rõ nhất bước chuyển này: gắn sản xuất với thị trường, thực hiện hạch toán kinh doanh, khẳng định tính thống nhất khách quan của toàn bộ thị trường xã hội. Tuy vậy, thời kỳ 1986-1988, nền kinh tế về cơ bản vẫn nằm dưới sự quản lý của cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Các xí nghiệp quốc doanh chưa có đủ những quyền chủ động cần thiết trong sản xuất kinh doanh, và trong hoạt động xuất nhập khẩu chủ yếu vẫn dồn vào một số đầu mối là các công ty quốc doanh của Nhà nước.
Năm 1989, các biện pháp quản lý xuất nhập khẩu có những bước chuyển biến thể hiện rõ nét nhất thông qua việc sử dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan. Hội nghị TW 6 (Khoá VI) năm 1989 đã thể hiện sự chuyển hướng cơ bản trong tư duy mà theo đó thị trường cả nước được coi là một thể thống nhất, các quan hệ thị trường đều được tính đến khi đề ra các chính sách kinh tế.
Tiếp theo đó, để cụ thể hoá quan điểm này hàng loạt các văn bản của chính phủ đã ra đời, trong đó Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII thực sự đã tạo ra một bước ngoặt trong chính sách quản lý nhà nước và sự ra đời của Bộ luật Doanh nghiệp đã khẳng định tính chất pháp lý của nền kinh tế thị trường dựa trên sự đa dạng của các hình thức sở hữu.
Từ năm 1996 tới nay, các chương trình kinh tế trọng điểm được xác định là: chương trình phát triển công nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng, chương trình phát triển khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường sinh thái, chương trình phát triển kinh tế dịch vụ, chương trình phát triển kinh tế đối ngoại, chương trình phát triển các vùng lãnh thổ, chương trình phát triển kinh tế xã hội miền núi, chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo và chương trình giải quyết các vấn đề xã hội. Những chương trình kinh tế trọng điểm này được Nhà nước đặt ra nhằm mục tiêu thúc đẩy nền kinh tế nội địa, đưa nước ta theo kịp và sánh ngang với các nước trong khu vực và trên thế giới. Sự nỗ lực và quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta đã được đền đáp xứng đáng khi nước ta liên tiếp gia nhập và các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực như: ASEAN, ASEM, APEC. Hiện nay, sau những nỗ lực đàm phán, Việt Nam đang dần dần từng bước hoàn tất thủ tục để sẵn sàng trở thành thành viên chính thức của WTO trong năm nay (2006), sau 11 năm là quan sát viên của tổ chức này (1995).
Trong chiến lược “phát triển kinh tế nhiều thành phần theo kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” chúng ta luôn đặt mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hoá là mục tiêu hàng đầu. Trong đó, mục tiêu quan trọng nhất trong quan điểm công nghiệp hoá vẫn là kết hợp xuất khẩu với sản xuất những mặt hàng trong nước có ưu thế. Nói cách khác, Việt Nam đang hướng đến một nền kinh tế mở cửa, hướng vào xuất khẩu nhằm khai thác một cách tối ưu những lợi thế của đất nước. Đó cũng là quan điểm chủ đạo của chính sách thương mại của Việt Nam trong những năm tới. Điều này khiến cho vấn đề bảo hộ sản xuất trong nước bằng các biện pháp phi thuế quan có những thay đổi rõ nét trong ba giai đoạn: giai đoạn 1986-1990, giai đoạn 1991-1995, giai đoạn 1996 tới nay, của quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
2.1.1. Giai đoạn 1986-1990
Thực hiện chủ trương đổi mới được đề ra trong Đại hội Đảng lần VI với định hướng công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mục tiêu cơ bản của chính sách quản lý xuất nhập khẩu được xác định là đẩy mạnh xuất khẩu, trong đó cụ thể là mở rộng quy mô, đa dạng hoá mặt hàng và phát triển đối tượng sản xuất hàng xuất khẩu nhằm đáp ứng các nhu cầu nhập khẩu và ngoại tệ cần thiết cho nền kinh tế quốc dân, thu hẹp chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu giảm nhập siêu góp phần cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế.
Để phục vụ mục tiêu đặt ra, Chính phủ đã tiến hành những cải cách mạnh mẽ trong chính sách quản lý xuất nhập khẩu bằng các biện pháp phi thuế quan. Bước đi đầu tiên là việc bãi bỏ hạn ngạch đối với 81 mặt hàng nhập khẩu. Từ ngày 1/3/1989, số mặt hàng phải chịu hạn ngạch nhập khẩu giảm từ 14 xuống còn 12 (xe vận tải, xi măng, hàng điện tử và phụ kiện, hàng dệt, xe đạp, quạt điện, bia và đồ giải khát, thuốc lá, mỹ phẩm và quần áo may sẵn), số mặt hàng phải chịu hạn ngạch xuất khẩu cũng giảm từ 10 xuống 7 (lương thực, cà phê, cao su, lạc, cùi và dầu dừa, gỗ và gỗ tròn, kim loại và sắt thép phế liệu). Gắn với hạn ngạch là việc áp dụng rộng rãi chế độ cấp giấy phép đối với hàng xuất khẩu (gạo và hàng dệt may) sang EU và hàng nhập khẩu (ô tô). Khi được phân bổ, các giấy phép không được chuyển nhượng giữa những người có giấy phép. Việc cấp phép trên cơ sở ai đến trước phục vụ trước. Thời gian sau, giấy phép xuất nhập khẩu được phép chuyển nhượng giữa các doanh nghiệp. Điều này phần nào gây ra tình trạng tiêu cực khi phân bổ giấy phép xuất khẩu. Bộ Thương mại và Du lịch chỉ cấp giấy phép cho các giao dịch thương mại còn giấy phép cho những giao dịch phi mậu dịch do cơ quan Hải quan cấp, buôn bán tiểu ngạch qua biên giới không cần có giấy phép. Trước năm 1986, các công ty thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu chỉ làm nhiệm vụ xuất nhập khẩu cho các bộ chủ quản. Trong giai đoạn 1988-1990, các công ty này mặc dù vẫn thuộc các bộ nói trên về mặt tài sản và nhân sự, nhưng nó đã được tự chủ khi tiến hành các hoạt động kinh doanh với bất kỳ một đơn vị kinh tế nào khác.
Trong lĩnh vực quản lý ngoại hối, những năm đầu đổi mới, ngoại hối bị quản lý đặc biệt chặt chẽ. Nghị định số 161-HĐBT ngày 18/10/1988 ra đời đã đưa ra những quy định cụ thể về vấn đề này, theo đó: việc mua bán, trao đổi ngoại tệ trên thị trường tự do bị nghiêm cấm, hoạt động này phải được tiến hành thông qua ngân hàng hoặc các tổ chức kinh doanh thu ngoại tệ; việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài phải có giấy phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức, công dân Việt Nam khi xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ có thu ngoại tệ đều phải gửi vào tài khoản tại ngân hàng, phải thực hiện nghĩa vụ bán và thanh toán ngoại tệ cho Nhà nước theo quy định; mọi hoạt động thanh toán, mua bán và chuyển đổi ngoại tệ được áp dụng theo tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố.
Tuy nhiên một số chuyển biến tích cực trong chính sách quản lý xuất nhập khẩu bằng các biện pháp phi thuế quan giai đoạn này cùng với chủ trương của Nhà nước về việc mở rộng quan hệ thương mại với các nước đã góp phần vào sự tăng trưởng có tính đột phá trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Năm 1989, lần đầu tiên Việt Nam đã xuất khẩu gạo, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng từ 789 (triệu R-USD) năm 1986 lên 2402,2 (triệu R-USD) năm 1990, tương ứng với 304,46%. Tỷ lệ nhập siêu năm 1986 là 180,01% đã giảm xuống chỉ còn 1,45% năm 1990.[13,27]
Năm 1988, có 28 doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò độc quyền trong hoạt động ngoại thương. Những doanh nghiệp này chiếm đến 92% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và 82% tổng kim ngạch xuất khẩu [13, tr 3-22]
Thời kỳ trước 1989 là thời kỳ tồn tại chế độ nhà nước độc quyền ngoại thương với vị trí độc tôn của các doanh nghiệp nhà nước.
Chế độ nhà nước độc quyền ngoại thương thể hiện ở chỗ nhà nước trực tiếp điều chỉnh số lượng, loại hàng, giá cả trong ngành ngoại thương. Như các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, ở thời kỳ này, trong cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp, ngành ngoại thương phát triển có kế hoạch về mọi mặt: số lượng, giá cả, mặt hàng, bạn hàng.
Do Việt Nam thực hiện chế độ “Nhà nước độc quyền ngoại thương” trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu nên chỉ có các doanh nghiệp nhà nước mới được quyền tiến hành các hoạt động liên quan tới ngoại thương.
Như vậy, chế độ nhà nước độc quyền ngoại thương và vị trí độc tôn của các doanh nghiệp nhà nước thời kỳ trước năm 1989 chính là rào cản lớn nhất đối với hoạt động xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Tự do hóa thương mại mới chỉ được thực hiện một phần.
2.1.2. Giai đoạn 1991-1995
Năm 1991, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII tiếp tục đưa ra các chương trình hành động nhằm điều chỉnh cơ cấu kinh tế, giữ vững định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong quá trình đổi mới. Do đó, khoảng thời gian này là sự tiếp tục của thời kỳ 1986-1990; trong quá trình đổi mới hoạt động quản lý xuất nhập khẩu bằng các biện pháp phi ._.nét vì những ngành này là tương lai xuất khẩu của Việt Nam như sản phẩm nhựa, nông sản chế biến, máy tính, điện tử. Các doanh nghiệp này rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước đối với các ngành để xác lập vị thế của mình trong phân công lao động quốc tế.
Đối với những ngành mà khả năng cạnh tranh đã được khẳng định do khai thác được lợi thế so sánh cũng cần được xem xét tiếp tục duy trì bảo hộ ở mức thấp. Vấn đề là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay có thị trường ngoài nước không ổn định. Trong trường hợp đó, bảo hộ ở mức trung bình có thể dành một thị phần nhất định trong nước, có ý nghĩa bảo đảm sự ổn định trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như khai thác lợi thế nhờ quy mô. So với những mặt hàng có lợi thế không rõ ràng thì mức độ bảo hộ hay hỗ trợ trong nước đối với nhóm này phải thấp hơn vì những mặt hàng có lợi thế rõ ràng ít nhất đã xác lập được vị thế của mình trong thương mại quốc tế.
Điều quan trọng là Nhà nước phải lựa chọn tiêu thức nào để định hướng xuất khẩu trong chính sách. Một chính sách thương mại không tránh khỏi yếu tố chủ quan. Nhưng tính chủ quan đó sẽ dần dần được loại trừ bởi chính sự đào thải và chọn lọc của kinh tế thị trường. Lý do là nội dung của chính sách thương mại là bảo hộ và tạo cơ hội đối với những mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu và cạnh tranh trên thị trường quốc tế mà đồng thời còn tạo cơ hội cho tất cả các doanh nghiệp trong các mặt hàng khác cũng phát huy được khả năng của mình trong một môi trường lành mạnh và thuận lợi. Trong trường hợp một hàng hoá không phát triển được hay không thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì sớm muộn hàng hoá đó sẽ không thể tiếp tục nằm trong đối tượng được bảo hộ.
Trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước là phải thường xuyên đánh giá và xem xét lại những nguyên nhân kể cả việc xác định lại tiềm năng của mặt hàng hoặc lĩnh vực đó cũng như cơ chế hỗ trợ và điều kiện đối với một sản phẩm chưa phát triển theo định hướng mục tiêu chính sách. Cơ quan Nhà nước sẽ đứng trước hai lựa chọn: Tiếp tục bảo hộ nhưng sẽ phải hoàn chỉnh cơ chế hỗ trợ, điều kiện thực hiện bảo hộ hoặc không tiếp tục bảo hộ và sẽ cắt giảm theo đúng lộ trình định sẵn.
3.3.2. Điều chỉnh việc áp dụng các công cụ bảo hộ phi thuế cho phù hợp với quy định của WTO
Để trở thành thành viên của WTO, Việt Nam cũng phải cam kết cắt giảm hàng rào phi thuế quan của mình. Những cam kết và lộ trình thực hiện cam kết cắt giảm các biện pháp phi thuế quan để bảo hộ nền kinh tế, một mặt phải xuất phát từ việc đáp ứng yêu cầu của WTO, nhưng cũng phải biết tận dụng ngay những quy định của WTO về những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và những nước có nền kinh tế chuyển đổi, những trường hợp ngoại lệ được phép áp dụng các biện pháp tự vệ để bảo hộ một cách hợp lý thị trường và sản xuất trong nước của mình. Mặt khác, các cam kết và lộ trình thực hiện cam kết dỡ bỏ các biện pháp bảo hộ phi thuế quan phải phối hợp chặt chẽ với các cam kết và lộ trình cắt giảm thuế quan, phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế, với khả năng cạnh tranh của từng loại sản phẩm, với mức độ chuẩn bị cho hội nhập, để đảm bảo hội nhập thành công, có hiệu quả, giảm bớt rủi ro, đem lại lợi ích lớn nhất cho đất nước. Phương hướng điều chỉnh cụ thể đối với từng biện pháp phi thuế quan, khóa luận xin kiến nghị thêm một số biện pháp định hướng sau:
a. Các biện pháp quản lý định lượng
(Bao gồm các biện pháp cấm xuất nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu và hạn ngạch nhập khẩu).
Về các biện pháp cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu
Do theo nguyên tắc chung, WTO không yêu cầu loại bỏ hoàn toàn các biện pháp cấm kinh doanh, cấm nhập khẩu, nhưng đòi hỏi phải công khai hóa những quy định này và các biện pháp cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu phải biện minh được tính hợp lý của nó. Vì thế, trước mắt, Việt Nam cần rà soát lại, có thể giảm bớt danh mục các hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu của mình, song vẫn giữ lại những sản phẩm cần thiết phải quản lý xuất nhập khẩu bằng biện pháp này nếu có thể biện minh được. Với những sản phẩm không cần thiết hoặc không thể biện minh được nên chuyển sang bảo hộ bằng các biện pháp khác. Ví dụ như:
- Thứ nhất: Giữ lại trong danh mục các mặt hàng cấm xuất, nhập khẩu những hàng hóa sau:
+ Vũ khí đạn dược, vật liệu nổ, trang thiết bị quân sự. Điều này phù hợp và có thể lý giải được tính hợp lý vì chúng đều là những sản phẩm có liên quan đến an ninh quốc gia.
+ Các loại ma tuý, hóa chất độc. Điều này phù hợp vì mặt hàng này liên quan đến sức khoẻ của con người.
+ Pháo các loại, sản phẩm văn hóa đồi truỵ, đồ chơi trẻ em có ảnh hưởng xấu tới giáo dục nhân cách và trật tự an toàn xã hội. Điều này cũng phù hợp vì có thể biện minh được tính hợp lý vì việc cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu những mặt hàng này nhằm mục đích bảo vệ con người và môi sinh, bảo vệc đạo đức xã hội, truyền thống văn hóa.
+ Các loại máy mã chuyên dụng và các chương trình phần mềm mật mã sử dụng trong phạm vi bảo vệ bí mật Nhà nước -Điều này phù hợp vì đây là những sản phẩm có liên quan đến an ninh quốc gia.
- Thứ hai: Một số mặt hàng có thể cần phải đưa ra khỏi danh sách những mặt hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu như:
+ Thuốc lá điếu, xì gà, và các dạng thuốc lá thành phẩm khác - việc cấm nhập khẩu những mặt hàng này không phù hợp với quy định của WTO và chúng ta cũng không thể đưa ra những biện minh hợp lý cho việc bảo hộ chúng, vì vậy nên chuyển sang quản lý bằng hạn ngạch thuế quan theo mức tiếp cận thị trường tối thiểu.
+ Hàng tiêu dùng đã qua sử dụng (hàng dệt may, giầy dép, quần áo); Hàng điện lạnh, hàng điện tử, hàng điện gia dụng, hàng trang trí nội thất, hàng gia dụng bằng gốm, sành sứ, thuỷ tinh, kim loại, nhựa cao su, chất dẻo và chất liệu khác; Vật tư, phương tiện đã qua sử dụng (máy, khung săm, lốp, phụ tùng động cơ, đã qua sử dụng của ôtô, máy kéo và xe hai bánh, ba bánh gắn máy, động cơ đốt trong đã qua sử dụng, xe đạp đã qua sử dụng, ô tô cứu thương đã qua sử dụng...). Việc cấm nhập khẩu những mặt hàng này không phù hợp với nguyên tắc của WTO và chúng ta không biện minh được. Vì vậy, có thể chuyển sang quản lý nhập khẩu bằng biện pháp cấp phép không tự động, hoặc đặt ra các tiêu chuẩn về kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường... để hạn chế nhập khẩu.
- Thứ ba: Một số mặt hàng khác trong danh mục các hàng hóa cấm nhập khẩu có thể chuyển sang danh mục nhập khẩu có điều kiện, tức theo các quy định riêng của Chính phủ, như vậy sẽ phù hợp với các yêu cầu của WTO hơn, chẳng hạn như : sản phẩm, vật liệu có chứa amiăng thuộc nhóm amphibole, phương tiện vận tải hay lái nghịch, các phương tiện chuyên dùng hoạt động trong phạm vi hẹp...
Danh mục những hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, xuất nhập khẩu có điều kiện đều phải công bố công khai, rộng rãi cho các đối tượng biết trước hàng năm và có thể công bố một cách ổn định cho nhiều năm.
Về hạn ngạch xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu
WTO chủ trương loại bỏ hạn chế số lượng xuất khẩu, nhập khẩu bằng hạn ngạch, tuy nhiên, nếu vì những lý do cụ thể hợp lý vào đó cần phải áp dụng hạn ngạch để hạn chế số lượng hàng hóa xuất nhập khẩu thì phải công bố công khai rõ ràng về số lượng, về điều kiện được phân bổ hạn ngạch, không được phân biệt đối xử. Những nước xin gia nhập WTO phải cam kết và đưa ra lộ trình loại bỏ việc sử dụng hạn ngạch.
ở Việt Nam, về danh nghĩa, chúng ta đã bãi bỏ chế độ hạn ngạch nhập khẩu từ năm 1994. Tuy nhiên đối với những mặt hàng có liên quan tới cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân và một số hàng tiêu dùng Việt Nam vẫn có những quy định về số lượng hoặc giá trị được nhập khẩu hàng năm. Về thực chất đây là các “ hạn ngạch mềm” và việc sử dụng những hạn chế định lượng này là điều trái với các quy định của WTO. Vì vậy, Việt Nam cần rà soát lại, hạn chế và loại bỏ việc sử dụng các biện pháp quản lý nhập khẩu loại này. Tuy nhiên vì trong những trường hợp đặc biệt, WTO vẫn cho phép các nước được sử dụng những biện pháp hạn chế nhập khẩu (trong đó có hạn nghạch), cho nên Việt Nam nên sớm ban hành những văn bản pháp quy về các biện pháp tình huống như tự vệ, hạn chế nhập khẩu để bảo vệ cán cân thanh toán, bảo vệ an ninh lương thực,... phù hợp với chuẩn mực của WTO, để có thể tái lập chế độ hạn nghạch khi cần thiết. Riêng đối với lĩnh vực hàng nông sản, một lĩnh vực nhạy cảm mà nhiều nước, kể cả những nước công nghiệp phát triển luôn tìm mọi biện pháp để bảo hộ, Việt Nam cần phải có những biện pháp bảo hộ thích hợp của mình. ở lĩnh vực này, chúng ta nên áp dụng chế độ hạn ngạch thuế quan đối với một số sản phẩm như: rau quả, thuỷ sản, ngô hạt, ngô xay, đậu tương, lạc dưa, dầu thực vật, muối ăn, gạo, sữa và sản phẩm từ sữa, thịt bò, thịt lợn, thịt gà,... Nếu thấy cần thiết ta có thể áp dụng ngay các biện pháp hạn ngạch nhập khẩu đối với những sản phẩm nông nghiệp trên, trước khi đàm phán với WTO, sau đó sẽ cam kết giảm dần theo yêu cầu của WTO.
Đối với hoạt động xuất khẩu, hiện nay Việt Nam đang duy trì chế độ hạn ngạch xuất khẩu cho hàng dệt may. Đây là mức hạn ngạch do phía nước ngoài đặt ra cho Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam cần cải tiến chế độ phân bổ hạn ngạch theo hướng tổ chức đấu thầu công khai, minh bạch hơn nữa, cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi phần kinh tế tham gia một cách bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử.
.Về cấp phép xuất nhập khẩu
WTO yêu cầu các nước chủ động xoá bỏ dần những quy định về giấy phép xuất nhập khẩu gây trở ngại cho hoạt động thương mại, nhưng không phản đối việc cấp phép xuất nhập khẩu vì mục đích theo dõi, thống kê của Nhà nước và những trường hợp thật cần thiết phải quản lý xuất nhập khẩu bằng giấy phép (ví dụ như với những mặt hàng xuất nhập khẩu có điều kiện). Tuy nhiên WTO yêu cầu, nếu vì điều kiện cụ thể nào đó phải áp dụng hình thức cấp phép xuất nhập khẩu thì phải công bố rõ ràng mọi quy định, điều kiện cho việc cấp phép xuất nhập khẩu đó cam kết thực hiện một cách công bằng, không phân biệt đối xử không gây cản trở cho thương mại có tính bảo hộ bất hợp lý cho sản xuất trong nước.
Trong quá trình đổi mới, mở cửa nền kinh tế những quy định về cấp phép xuất nhập khẩu đã có nhiều cải tiến, nhiều loại giấy phép đã được bãi bỏ. Đáp ứng yêu cầu của WTO. Việt Nam sẽ tiếp tục xem xét cải tiến chế độ cấp giấy phép của mình theo hướng rà soát, xoá bỏ những giấy phép không cần thiết, công bố công khai những loại giấy phép còn duy trì, đơn giản hoá, thủ tục cấp phép. Trong lĩnh vực này có thể đưa ra những điều chỉnh như sau:
- Có thể chuyển giấy phép xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thành giấy phép tự động.
- Đối với những mặt hàng trong danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện nên duy trì chế độ giấy phép không tự động.
- Rà soát, giảm thiểu danh mục hàng hoá quản lý chuyên ngành. Loại nào cần quản lý “chỉ tiêu kỹ thuật”, loại nào cần quản lý “chỉ tiêu vệ sinh”, thì công bố công khai chỉ tiêu kỹ thuật, chỉ tiêu vệ sinh... để hải quan căn cứ vào đó thi hành, không cần cấp phép. Giấy phép chuyên ngành chỉ nên duy trì với những hàng hoá không có thể công bố tiêu chuẩn rõ ràng (ví dụ như sách báo, tạp chí, sản phẩm nghe nhìn...) hoặc cần quản lý mục đích sử dụng (ví dụ như thiết bị truyền phát sóng vô tuyến, máy in.v.v..).
- Một số loại giấy phép nên chuyển sang giấy phép tự động như giấy phép nhập khẩu hàng hội chợ triển lãm, hàng thuê mua, thuê vận hành...
b. Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời (bao gồm trợ cấp xuất khẩu, bán phá giá hàng hóa và tự vệ trong thương mại)
Để đáp ứng yêu cầu của WTO, bên cạnh việc tiếp tục duy trì các hình thức trợ cấp không ảnh hưởng tới thương mại (như trợ cấp nghiên cứu giống mới, phương pháp sản xuất mới, xóa đói giảm nghèo, khắc phục thiên tai,...) thì những hình thức hỗ trợ cho xuất khẩu (như trợ giá, hỗ trợ lãi suất, thưởng thức xuất khẩu,...) cần phải từng bước loại bỏ, có thể thay vào đó là những hình thức trợ cấp khác phù hợp với các quy định của WTO. Ví dụ việc hỗ trợ cho xuất khẩu vẫn có thể thực hiện được thông qua hình thức tín dụng xuất khẩu hay các hình thức hỗ trợ khác mà thế giới thừa nhận và được nhiều nước trên thế giới thực hiện. Chẳng hạn như, muốn hỗ trợ cho mặt hàng xuất khẩu nào thì lấy từ Quỹ bảo đảm sản xuất được hình thành từ nguồn thu chênh lệch giá của chính mặt hàng đó, chứ không phải lấy từ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu do ngân sách Nhà nước cấp, vì nếu như vậy sẽ bị WTO và các thành viên của Tổ chức này phản đối. Trong vấn đề này, Việt Nam cần phải phát huy mạnh mẽ vai trò của các Hiệp hội ngành hàng, nhất là trong lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm. Nhà nước cần cho phép và khuyến khích các Hiệp hội ngành hàng tự thành lập các quỹ hỗ trợ, Quỹ phòng ngừa rủi ro cho ngành hàng của mình, nhất là những ngành hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn (như gạo, cà phê, cao su, chè, thuỷ hải sản....) Những hỗ trợ từ các Quỹ của Hiệp hội cho các thành viên khi giá cả thị trường biến động thất thường mà nguồn thu của Quỹ là do các thành viên đóng góp tự nguyện, hoặc từ các khoản tài trợ của các cá nhân, tổ chức trong ngoài nước theo đúng quy định của Nhà nước hay từ các khoản thu nhập chính đáng của Hiệp hội tạo ra thì không vi phạm các quy định của WTO.
Để thực hiện quyền tự vệ trong thương mại, ngày 24-5-2002, Uỷ ban thường vụ Quốc hội Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh về quyền tự vệ trong thương mại hàng hóa. Đây là một bước tích cực để chuẩn bị cho quá trình hội nhập. Các ngành sản xuất kinh doanh trong nước có thêm một công cụ bảo hộ để ngăn chặn, hạn chế những diễn biến bất thường do hàng hóa nhập khẩu của nước ngoài gây ra dẫn đến những thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước. Việc ban hành Pháp lệnh này sẽ làm môi trường pháp lý cho hoạt động thương mại được rõ ràng ổn định hơn. Vấn đề hiện nay là chúng ta phải sớm ban hành những văn bản pháp quy để hướng dẫn, tổ chức thực hiện pháp lệnh này. Tuy nhiên trong Pháp lệnh về quyền tự vệ trong thương mại hàng hóa mà Việt Nam ban hành chưa có nội dung nào đề cập tới vấn đề chống bán phá giá. Hiện nay ở Việt Nam mới chỉ có một điều khoản rất chung chung trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có nói về thuế đối kháng và thuế chống bán phá giá. Để bảo vệ thị trường và sản xuất trong nước trước những hàng nhập khẩu bán phá giá, chúng ta cần khẩn trương xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy về chống bán phá giá (có thể là Luật hoặc Pháp lệnh) nhằm thực hiện các mục tiêu sau:
- Thứ nhất: Để đảm bảo duy trì sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng trên thị trường.
- Thứ hai: Ngăn chặn một công ty hoặc một ngành sản xuất nước ngoài dùng hành động bán phá giá để chiếm lĩnh thị trường nước ta, nhằm bảo vệ cho các ngành sản xuất công nghiệp trong nước.
- Thứ ba: Là công cụ để chống lại tình trạng Chính phủ hoặc các Hiệp hội nước ngoài trợ cấp cho hàng hóa xuất khẩu của họ, dẫn đến hành động bán phá giá gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa của Việt Nam.
- Thứ tư: Là công cụ để áp dụng biện pháp trả đũa đối với những quốc gia, vùng, lãnh thổ nào áp dụng biện pháp bán phá giá mang tổ chức kỳ thị, phân biệt đối xử đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Việc ban hành Luật chống bán phá giá của Việt Nam nếu được ban hành phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, đồng thời phải phù hợp với Hiệp định chống bán phá giá theo khuôn khổ của WTO. Trong quá trình xây dựng Luật, cần chú ý đến yếu tố nền kinh tế đang phát triển ở nước ta, việc xây dựng các quy định phải phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước. Bên cạnh đó để đối phó với việc hàng nhập khẩu bán phá giá vào thị trường Việt Nam, chúng ta cũng cần nhanh chóng thành lập và phát triển các tập đoàn kinh tế trong các ngành nghề khác nhau. Nguyên nhân là do, khi đã tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế, các đối thủ cạnh tranh với hàng Việt Nam đều là những đối thủ khổng lồ, là những tập đoàn quốc gia và xuyên quốc gia giàu nguồn lực tài chính. Chỉ khi Việt Nam hình thành những tập đoàn kinh tế với quy mô và năng lực tài chính đủ mạnh, với cơ sở vật chất, kỹ thuật vững chắc thì mới có đủ sức cạnh tranh với các đối thủ bên ngoài.
c. Quy định về giá tính thuế hải quan
Theo Hiệp định xác định giá trị hải quan (ACV) của WTO, giá trị tính thuế nhập khẩu đối với hàng nhập khẩu chịu thuế là căn cứ vào giá trị giao dịch, chỉ một số ít trường hợp không xác định được giá trị giao dịch thì mới áp dụng cách tính khác.
Gia nhập WTO, Việt Nam phải tuân thủ Hiệp định xác định giá trị hải quan của WTO, tức là phải xây dựng kế hoạch lộ trình để từng bước loại bỏ biện pháp xác định giá trị hải quan dựa trên quy định giá tối thiểu đang được áp dụng hiện nay, xây dựng các văn bản pháp quy hướng dẫn các nguyên tắc xác định giá trị hải quan theo ACV. Thời gian đầu có thể áp dụng bảng giá tối thiểu trên diện hẹp, rồi từng bước loại bỏ dần bảng giá tối thiểu trong thời gian ân hạn theo quy định của WTO, và mở rộng dần đối tượng áp dụng các nguyên tắc xác định giá trị hải quan theo hiệp định ACV. Tuy nhiên, đây là một Hiệp định có tính kỹ thuật cao nên nó đòi hỏi một sự chuẩn bị kỹ lưỡng để tránh các tác động ngược chiều như hụt thu ngân sách đột ngột, gian lận thương mại lớn, dẫn đến xáo trộn về thị trường, ảnh hưởng xấu đến một số ngành sản xuất trong nước.
Để việc thực hiện Hiệp định có hiệu quả, nhất là trong điều kiện chúng ta đang tiến hành đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng các chính sách, văn bản pháp quy liên quan đến thực hiện hiệp định. Luật thuế xuất nhập khẩu phải được sửa đổi cho phù hợp với các quy định của ACV, đồng thời cần nhanh chóng ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Hải quan và nghiên cứu một số quy định trong lĩnh vực hải quan như quy chế kiểm tra sau thông quan, quy chế quản lý hải quan đối với địa điểm làm thủ tục hải quan ngoài cửa khẩu, quy chế dành cho hàng hóa chuyển tiếp, công tác kiểm hoá để sửa đổi bổ sung những điểm bất hợp lý, những điểm mới chưa có trong luật Hải quan.
3.3.3. áp dụng biện pháp bảo hộ phi thuế quan phù hợp với thông lệ quốc tế
"Bảo hộ vùng xám" là một thuật ngữ mới chỉ việc bảo hộ thông qua việc tấn công vào hàng hóa nhập khẩu bằng các biện pháp có thể biện hộ là phù hợp với thông lệ và quy định của WTO. Chúng bao gồm hàng rào tiêu chuẩn kĩ thuật, tiêu chuẩn môi trường, thủ tục nhập khẩu, phân phối gây phương hại tới quan hệ thương mại thông thường để trực tiếp hay gián tiếp thay thế hàng nhập khẩu bằng các nguồn hàng khác sản xuất trong nước nhưng kém cạnh tranh hơn. Các biện pháp "bảo hộ vùng xám" có hiệu quả không khác các biện pháp bảo hộ thông thường, nhưng cách thức và biện pháp bảo hộ tinh xảo hơn, tận dụng chính những lỗ hổng trong hệ thống pháp lý của WTO. Các cơ quan quản lý cần nhanh chóng nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ thống các biện pháp bảo hộ “vùng xám” và các biện pháp khác để sử dụng trong trường hợp cần thiết như:
- Xây dựng và hệ thống hoá các biện pháp kỹ thuật, môi trường, bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng, hệ thống quản lý chất lượng, quy cách, tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm mục đích bảo họ khi cần thiết cho các ngành thực hiện tự do hoá, tránh gây ra những biến động lớn đối với các ngành kinh tế.
- Xây dựng, hài hoà hoặc áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường, vệ sinh, tiêu chuẩn lao động của các quốc gia tiên tiến đối với hàng hoá nhập khẩu;
- Tăng cường đào tạo trình độ chuyên môn, kỹ thuật, luật pháp, kinh nghiệm cho các cán bộ thuộc các cơ quan chức năng liên quan đến việc áp dụng các biện pháp “vùng xám”.
- Xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho công tác điều tra, kiểm tra hàng hoá nhằm thực thi nghiêm túc các quy định về tiêu chuẩn, quy cách hàng hoá của các cơ quan quản lý chức năng.
- Đổi mới phương thức trợ cấp xuất khẩu hiện nay theo hướng tập trung có trọng điểm. Vì thế, trợ cấp xuất khẩu hướng vào những ngành kinh tế được bảo hộ có định hướng xuất khẩu (là mục tiêu của chính sách thương mại) chứ không chỉ đơn thuần dựa trên kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp như hiện nay.
- Nâng cao việc phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng với cơ quan thực hiện đàm phán quốc tế đảm bảo khả năng thực thi cơ chế bảo hộ vùng xám, tránh gây ra các tranh chấp có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường thương mại quốc tế.
3.3.4. Hoàn thiện hệ thống các quy định liên quan tới các bảo hộ phi thuế
Trong những năm qua, Luật Thương mại ban hành năm 1997 và các quy định văn bản pháp luật của Chính phủ ban hành đã phát huy tác dụng tích cực hỗ trợ cho nền kinh tế trong nước, thúc đẩy phát triển thương mại của Việt Nam.
Tuy nhiên, trước những thay đổi căn bản của điều kiện thương mại hiện nay, đặc biệt với tốc độ tự do hoá thương mại, thì việc sửa đổi bổ sung hệ thống luật pháp để tạo cơ sở pháp lý cho các BPPT mới càng trở nên cần thiết. Hệ thống Luật thương mại cần được bổ sung sửa đổi theo các định hướng sau:
Tạo ra một cơ chế cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng trong hoạt động thương mại và trong nền kinh tế.
Tạo ra các cơ sở pháp lý cho các bảo hộ phi thuế mới có thể sẽ áp dụng ở Việt Nam như: biện pháp chống bán phá giá và thuế đối kháng, biện pháp tự vệ, thuế thời vụ, xác định trị giá Hải quan theo quy định mới của WTO.
Góp phần thúc đẩy, bảo vệ sản xuất trong nước nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hóa, thực hiện chiến lược “hướng về xuất khẩu”.
Là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với các hoạt động xuất nhập khẩu.
3.3.5. Nâng cao trình độ cán bộ quản lý thực thi các chính sách bảo hộ phi thuế quan ở Việt Nam
Trước hết, đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách bảo hộ, bởi mỗi một quyết định đề ra sẽ có tác động to lớn tới các ngành sản xuất trong nước và theo chi phí cơ hội thì các biện pháp bảo hộ này sẽ gây thiệt hại và lãng phí cho xã hội. Bởi vậy, nếu một chính sách bảo hộ đề ra là sai lầm thì thiệt hại sẽ còn được nhân lên gấp bội. Ngoài ra, để thực thi được chính sách bảo hộ hợp lý, phù hợp với quy định và thông lệ quốc tế đòi hỏi người hoạch định chính sách phải có kinh nghiệm và sự am hiểu rộng, nếu không sẽ rất khó khăn cho Việt Nam trong giai đoạn muốn hội nhập vào các tổ chức kinh tế lớn như WTO, khi mà vị thế của chúng ta về kinh tế và chính trị còn thấp. Các cán bộ cấp cao này phải là người có kiến thức sâu rộng, có kĩ năng đàm phán, thuyết phục.
Với các cán bộ thực thi như cán bộ Hải quan, các Bộ ngành phụ trách về phân bổ hạn ngạch, trợ cấp thì phải được tiến hành đào tạo và nâng cao đạo đức, trách nhiệm và phải có kĩ năng xử lý trước mọi tình huống và đạo đức nghề nghiệp để phòng tránh tác động xấu của hạn chế nhập khẩu là buôn lậu, gian lận thương mại.
Mục lục
Trang
Danh mục chữ viết tắt 1
Danh mục bảng số liệu 4
Phần I: Mở đầu 5
Phần II: Nội Dung
Chương 1: Khái quát về hàng rào phi thuế quan trong thương mại
quốc tế 7
1.1 Khái niệm và sự cần thiết của hàng rào phi thuế quan trong
thương mại quốc tế 7
1.1.1 Khái niệm và phân loại hàng rào phi thuế quan 7
1.1.2. Sự cần thiết của bảo hộ phi thuế quan trong xu thế
toàn cầu hoá 9
1.1.3. Mục đích của bảo hộ phí thuế quan 12
1.1.4. Ưu điểm, nhược điểm của hàng rào phi thuế quan 13
1.2. Quy định của WTO về hàng rào phi thuế quan 16
1.2.1. WTO và tầm quan trọng của WTO với tự do hóa
thương mại thế giới 16
1.2.2. Quy định về sử dụng Hạn ngạch 17
1.2.3. Quy định về sử dụng giấy phép nhập khẩu 19
1.2.4. Quy định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng 22
1.2.5. Quy định về các biện pháp chống bán phá giá và tự vệ 25
1.2.6. Một số biện pháp phi thuế quan khác 26
Chương 2: Thực trạng áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan
của Việt Nam trong tiến trình hội nhập 28
2.1. Quá trình áp dụng biện pháp bảo hộ phi thuế của Việt Nam
từ năm 1986 tới nay 28
2.1.1. Giai đoạn 1986-1990 29
2.1.2. Giai đoạn 1991-1995 31
2.1.3. Giai đoạn từ năm 1996 tới nay 33
2.2. Hệ thống biện pháp phi thuế quan của Việt Nam hiện nay 35
2.2.1. Mục tiêu của việc áp dụng hệ thống biện pháp bảo hộ phi
thuế quan của Việt Nam trong điều kiện hội nhập 35
2.2.2. Các biện pháp bảo hộ phi thuế quan cụ thể 39
2.3. Tác động của việc bảo hộ bằng các biện pháp phi thuế tới các
ngành kinh tế Việt Nam 47
2.3.1. Ngành mía đường 47
2.3.2. Ngành thép 48
2.3.3. Ngành sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy 52
2.4. Đánh giá việc sử dụng công cụ bảo hộ phi thuế quan của
Việt Nam trong thời gian qua 53
2.4.1. Những thành công 53
2.4.2. Những hạn chế 54
2.4.3. Những điểm chưa phù hợp trong các biện pháp phi
thuế quan của Việt Nam so với các quy định của WTO 54
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện hệ thống các biện pháp bảo hộ
phi thuế quan của Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO 64
3.1. Cơ sở xây dựng giải pháp 64
3.1.1. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới việc áp dụng các
biện pháp bảo hộ phi thuế ở Việt Nam trong thời gian tới 64
3.1.2. Cam kết về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 67
3.1.3. Quan điểm và nguyên tắc sử dụng các biện pháp bảo hộ phi
thuế của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế 68
3.2. Kinh nghiệm sử dụng hàng rào phi thuế quan của một số
quốc gia 70
3.2.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc 70
3.2.2. Kinh nghiệm của ấn Độ 72
3.2.3. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ 75
3.2.4 Bài học Việt Nam rút ra từ kinh nghiệm của các nước 77
3.3. Các giải pháp điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống
phi thuế quan của Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO 77
3.3.1. áp dụng các biện pháp bảo hộ chọn lọc 78
3.3.2. Điều chỉnh việc áp dụng các công cụ bảo hộ phi thuế
cho phù hợp với quy định của WTO 80
3.3. 3. áp dụng biện pháp bảo hộ phi thuế quan phù hợp với thông lệ quốc tế 87
3.3.4. Hoàn thiện hệ thống các quy định liên quan tới các biệp pháp
bảo hộ phi thuế 88
3.3.5. Nâng cao trình độ cán bộ quản lý thực thi các chính sách
bảo hộ phi thuế quan ở Việt Nam 88
Phần III: Kết luận
Kết luận 89
Tài liệu tham khảo 91
Kết luận
Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng tăng, các NTM đã và đang được sử dụng như một xu thế tất yếu để bảo hộ các ngành sản xuất mới và có tiềm năng phát triển. Hơn nữa, nền kinh tế xã hội của bất kỳ quốc gia nào cũng có thể bị thiệt hại, khi hàng hoá được trợ cấp hay bị bán phá giá nhập khẩu ồ ạt vào thị trường trong nước. Trong những tình huống như vậy, việc áp dụng các NTM nhằm ổn định tình hình kinh tế là rất cần thiết. Thuế quan là một công cụ bảo hộ hợp pháp duy nhất được WTO thừa nhận, nhưng hiện nay các NTM lại đang được áp dụng ngày càng phổ biến trên thế giới. Bởi vì, bảo hộ phi thuế quan thực sự phát huy được tính nhanh nhạy và hiệu quả trong việc bảo đảm an toàn cho những ngành sản xuất non trẻ và nền kinh tế trước những biến động không ngừng của thị trường thế giới. Điều này đã được minh chứng rõ nét qua việc ngày càng có nhiều biện pháp phi thuế quan mới, được các quốc gia ‘sáng tạo’ thêm, liên quan đến tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn lao động hay công nghệ biến đổi gen, v.v… Qua đó có thể thấy rằng tương lai các NTM sẽ luôn tồn tại cùng với thương mại quốc tế.
Việc sử dụng các NTM thật sự có nhiều nét ưu việt, song ở mỗi quốc gia, khi xây dựng và sử dụng biện pháp này trong chính sách thương mại của nước mình, cũng cần phải thận trọng. Sự lạm dụng các NTM sẽ không chỉ gây khó khăn cho công tác quản lý mà còn gây ra nhưng tác động tiêu cực cho nền kinh tế quốc gia đó, chẳng hạn như triệt tiêu yếu tố cạnh tranh hoặc kích thích buôn lậu,v.v...
Với tính chất một nền kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi, thời gian qua, Việt Nam đã sử dụng nhiều biện pháp phi thuế quan nhằm mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước, trước các ưu thế đối với ngành sản xuất tương đồng của các quốc gia khác. Nhìn chung, việc áp dung NTMs cũng phần nào thu được những kết quả nhất định. Trước hết, việc sử dụng công cụ bảo hộ phi thuế này đã tạo điều kiện cho nhiều ngành sản xuất có sức cạnh tranh kém hơn so với nước ngoài có thể tiếp tục duy trì và phát triển. Trong đó, có một số sản phẩm tiếp tục tồn tại với hàng nhập khẩu trên thị trường trong nước dù năng lực cạnh tranh kém hơn. Một số khác đã nâng dần khả năng cạnh tranh nhờ nâng cao trình độ quản lý, đổi mới công nghệ. Hơn nữa các NTM còn hỗ trợ việc xây dựng một số ngành công nghiệp quan trọng cho mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các mục tiêu ổn định xã hội, tạo thêm công ăn việc làm cũng đã được thực hiện nhờ tác động của các NTM.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực mà các NTM mang lại thì vẫn tồn tại một số hạn chế. Đầu tiên phải kể tới sự suy giảm năng lực cạnh tranh của một số ngành sản xuất trong nước do bị hạn chế khả năng tiếp cận với nguyên liệu nhập khẩu giá rẻ, buộc phải chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế trong nước đắt hơn mà chất lượng có thể không bằng, làm chi phí sản xuất tăng lên dẫn tới khả năng cạnh tranh bị giảm sút. Mặt khác, việc áp dụng các biện pháp bảo hộ đã kích thích sản xuất để thay thế nhập khẩu trong khi đó định hướng chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam là sản xuất hướng về xuất khẩu. Kết quả của việc sử dụng các NTM để hạn chế nhập khẩu đã làm các nguồn lực bị chuyển dịch từ sản xuất phục vụ xuất khẩu sang các lĩnh vực hoặc ngành sản xuất thay thế nhập khẩu được nhà nước bảo hộ, gây tổn thất đáng kể cho các ngành xuất khẩu. Hơn nữa, các NTM không tạo ra động lực khuyến khích cạnh tranh trong các ngành được bảo hộ cao, làm phát sinh thói dựa dẫm, ỷ lại vào sự hỗ trợ ưu đãi của nhà nước và ngăn cản những nỗ lực chủ động cải tiến, hợp lý hoá sản xuất, tự nâng cao khả năng cạnh tranh của nhiều ngành nội địa.
Một hạn chế khác của việc sử dụng các NTM đó là chi phí quản lý cao nhưng hiệu quả quản lý lại thấp. Để quản lý các NTM đòi hỏi phải đầu tư nhân lực, chi phí lớn cho việc duy trì bộ máy quản lý phức tạp, nhiều khi còn chồng chéo giữ các cơ quan cùng được giao chức năng quản lý nhập khẩu. Tuy nhiên, lợi ích mà bộ máy thực thi chính sách bảo hộ mang lại phần nhiều không được như ý định ban đầu. Nhiều ngành công nghiệp trọng điểm vẫn phát triển trì trệ, kém hiệu quả, thiếu sức cạnh tranh.
Vậy, để có thể phát huy tối đã lợi ích của hàng rào bảo hộ phi thuế cũng như hạn chế tới mức thấp nhất những nhược điểm của nó, Nhà nước ta cần phải nghiên cứu và xây dụng một hệ thống các NTM khoa học, đồng bộ không tràn lan, chồng chéo để vừa đảm bảo mục tiêu bảo hộ một số ngành sản xuất trong nước nhưng vẫn đáp ứng được những chính sách tự do hoá thương mại theo yêu cầu của WTO khi gia nhập tổ chức này.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29432.doc