Lời nói đầu
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, người lao động là một nhân tố không thể thiếu của bất kỳ doanh nghiệp nào. Lao động là điều kiện đầu tiên, cần thiết cho sự tồn tại và phát triển xã hội loài người, là yếu tố cơ bản nhất, quyết định nhất trong quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất, để bảo đảm tiến hành liên tục quá trình tái sản xuất, trước hết cần phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động, nghĩa là sức lao động mà con người bỏ ra phải được bồi hoàn dướ
54 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1256 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Đầu tư xây dựng và phát triển kỹ thuật hạ tầng Sơn Vũ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i dạng thù lao lao động. Doanh nghiệp căn cứ vào thời gian, khối lượng và chất lượng công việc của người lao động để tính và trả thù lao cho người lao động dưới dạng tiền lương, thưởng, trợ cấp (phần thù lao lao động được biểu hiện bằng tiền). Có đảm bảo được lợi ích cá nhân cho người lao động thì mới thúc đẩy người lao động đem hết khả năng, nỗ lực phấn đấu sáng tạo trong sản xuất, mới làm tăng năng suất lao động. Nhưng để làm tốt điều này còn phải phụ thuộc rất nhiều vào chính sách tiền lương và công tác tổ chức hạch toán tiền lương trong doanh nghiệp.
Tại Việt Nam hiện nay, trong các doanh nghiệp xây lắp đang tồn tại khá nhiều bất cập về vấn đề tiền lương. Để tìm hiểu thêm về vấn đề này em đã lựa chọn đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình là:
“Hoàn thiện hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty Đầu tư xây dựng và phát triển kỹ thuật hạ tầng Sơn Vũ”
Kết cấu chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm các phần sau:
Lời mở đầu
Phần I: Cơ sở lý luận về hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong các doanh nghiệp xây lắp
Phần II. Tình hình thực tế về hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Đầu tư xây dựng và phát triển kỹ thuật hạ tầng Sơn Vũ
Phần III. Hoàn thiện hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty Đầu tư xây dựng và phát triển kỹ thuật hạ tầng Sơn Vũ
Phần I
Cơ sở lý luận về hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong các doanh nghiệp xây lắp
I. đặC ĐIểM CủA DOANH NGHIệP XÂY LắP ảNH Hưởng đến kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
Trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản nhằm tạo ra cơ sở vật chất chủ yếu cho nền kinh tế quốc dân, các tổ chức xây lắp nhận thầu giữ vai trò quan trọng. Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại các tổ chức xây lắp như: Tổng công ty, công ty, xí nghiệp, đội xây dựng… thuộc các thành phần kinh tế khác nhau về quy mô sản xuất, hình thức quản lý nhưng các đơn vị này đều là nhận thầu xây lắp. Sản phẩm xây lắp có đặc điểm riêng biệt khác với ngành sản xuất khác và có ảnh hưởng tới việc thanh toán tiền lương.
- Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất như người lao động, thiết bị thi công… phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Vì vậy, để giảm bớt chi phí về nhân công, tiền ăn ở, sinh hoạt, doanh nghiệp tăng số lượng lao động thuê ngoài.
- Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc … có quy mô lớn, kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm lâu dài… Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý và hạch toán sản phẩm xây lắp nhất thiết phải lập dự toán, mọi chi phí phát sinh như tiền lương công nhân, tiền nguyên vật liệu đều được ứng theo dự toán. Vì vậy, chi phí nhân công được ứng trước trước khi sản phẩm xây lắp được hoàn thành.
- Đối tượng hạch toán chi phí có thể là các hạng mục công trình, các giai đoạn công việc của hạng mục công trình hoặc nhóm các hạng mục công trình… từ đó xác định phương pháp hạch toán chi phí, phương pháp tính giá thành cho phù hợp.
II. Vai trò, vị trí của tiền lương và nhiệm vụ hạch toán
1. Tiền lương và các hình thức trả lương
1.1. Khái niệm tiền lương
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có ba yếu tố: Sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Sức lao động là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời còn là yếu tố cơ bản nhất, quyết định nhất. Muốn cho quá trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp tiến hành thường xuyên liên tục, thì một vấn đề thiết yếu là phải tái sản xuất sức lao động. Để tái sản xuất sức lao động, người lao động cần có một số lượng vật phẩm tiêu dùng nhất định. Vì vậy, khi người lao động tham gia lao động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải trả thù lao lao động cho họ. Trong nền kinh tế hàng hoá, thù lao lao động được biểu hiện bằng thước đo giá trị gọi là tiền lương.
Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống cần thiết mà doanh nghiệp trả cho người lao động theo thời gian, khối lượng công việc và chất lượng lao động mà người lao động đã cống hiến cho doanh nghiệp.
Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động, các doanh nghiệp sử dụng tiền lương làm đòn bấy kinh tế để khuyến khích tinh thần tích cực lao động, là nhân tố thúc đẩy để tăng năng suất lao động. Đối với các doanh nghiệp, tiền lương phải trả cho người lao động là một yếu tố cấu thành nên giá trị sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp sáng tạo ra.
1.2. Quỹ tiền lương
Quỹ tiền lương của doanh nghiệp là toàn bộ tiền lương của doanh nghiệp trả cho tất cả các loại lao động thuộc doanh nghiệp quản lý và sử dụng. Thành phần quỹ tiền lương bao gồm các khoản chủ yếu là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian thực tế làm việc (theo thời gian, theo sản phẩm…); tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng việc, nghỉ phép hoặc đi học; các loại tiền thưởng trong sản xuất; các khoản phụ cấp thường xuyên (phụ cấp khu vực, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp học nghề, phụ cấp làm thêm giờ…). Trong quan hệ với quá trình sản xuất kinh doanh, kế toán phân loại quỹ tiền lương của doanh nghiệp như sau:
- Tiền lương chính: Là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian làm nhiệm vụ chính đã quy định cho họ, bao gồm: tiền lương cấp bậc, các khoản phụ cấp thường xuyên và tiền thưởng trong sản xuất.
- Tiền lương phụ : Là tiền lương phải trả cho người lao động trong thời gian không làm nhiệm vụ chính nhưng vẫn được hưởng lương theo chế độ quy định như tiền lương trả cho người lao động trong thời gian nghỉ phép, thời gian đi làm nghĩa vụ xã hội, hội họp, đi học, tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng sản xuất.
Việc phân chia quỹ tiền lương thành tiền lương chính và tiền lương phụ có ý nghĩa nhất định trong công tác hạch toán, phân bổ tiền lương theo đúng đối tượng và trong công tác phân tích tình hình sử dụng quỹ lương ở các doanh nghiệp.
1.3. Các hình thức trả lương
1.3.1. Trả lương theo thời gian
Trả lương theo thời gian là tính trả lương cho người lao động theo thời gian làm việc, theo ngành nghề và trình độ thành thạo nghiệp vụ, kỹ thuật, chuyên môn của người lao động.
Đơn vị để tính tiền lương thời gian là lương tháng, lương ngày hoặc lương giờ.
- Lương tháng: Được quy định sẵn với từng bậc lương trong các thang lương.
Mức lương tháng = Mức lương tối thiểu x(HS lương +HS các khoản phụ cấp)
Trong đó:
Mức lương tối thiểu: Là mức lương trả cho người lao động làm công việc đơn giản nhất (không qua đào tạo) với điều kiện lao động và môi trường lao động bình thường.
Các khoản phụ cấp gồm: Phụ cấp chức vụ; phụ cấp ngành nghề; phụ cấp độc hại, nguy hiểm; phụ cấp khu vực
- Lương ngày: Là tiền lương trả cho người lao động theo mức lương ngày và số ngày làm việc thực tế trong tháng. Số ngày làm việc trong tháng có thể là 22 hoặc 26 ngày tuỳ thuộc vào chế độ làm việc cụ thể.
- Lương giờ: Là tiền lương phải trả là số tiền lương trả cho một giờ làm việc và được xác định bằng cách lấy tiền lương ngày chia cho số giờ tiêu chuẩn theo quy định của Luật Lao động (không quá 8 giờ/ngày)
- Lương công nhật: Là tiền lương được trả do sự thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Nhìn chung, hình thức trả lương theo thời gian có mặt hạn chế là mang tính bình quân, nhiều khi không phù hợp với kết quả lao động thực tế của người lao động. Để khắc phục phần nào hạn chế đó, trả lương theo thời gian có thể được kết hợp chế độ tiền thưởng để khuyến khích người lao động hăng hái làm việc.
1.3.2. Tiền lương trả theo sản phẩm
Trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào số lượng và chất lượng sản phẩm hoàn thành và đơn giá tiền lương cho một sản phẩm. Đây là hình thức trả lương phù hợp với nguyên tắc phân phối lao động, gắn chặt số lượng lao động và chất lượng lao động, khuyến khích người lao động nâng cao năng suất lao động góp phần làm tăng thêm sản phẩm cho xã hội một cách hợp lý. Trong việc trả lương theo sản phẩm vấn đề quan trọng là phải xây dựng các định mức giá tiền lương đối với từng loại sản phẩm, từng loại công việc một cách hợp lý.
Tuỳ thuộc vào tình hình thực tế ở từng doanh nghiệp mà vận dụng theo từng hình thức trả lương cho phù hợp, cụ thể:
- Hình thức tiền lương theo sản phẩm trực tiếp : Tiền lương phải trả cho người lao động được tính trực tiếp theo số lượng sản phẩm hoàn thành đúng quy cách, phẩm chất và đơn giá tiền lương sản phẩm đã quy định không chịu bất cứ một sự hạn chế nào.
- Hình thức tiền lương theo sản phẩm gián tiếp: Thường được áp dụng để trả lương cho lao động gián tiếp ở các bộ phận sản xuất.
- Hình thức tiền lương theo sản phẩm có thưởng, có phạt: Ngoài tiền lương theo sản phẩm trực tiếp, người lao động còn được thưởng trong sản xuất như thưởng tăng năng suất lao động, tiết kiệm vật tư, giảm tỷ lệ hàng hỏng, nâng cao chất lượng sản phẩm...
- Hình thức tiền lương sản phẩm thưởng luỹ tiến: Căn cứ vào mức độ hoàn thành định mức để tính tiền lương phải trả theo định mức. Nếu vượt định mức thì tính tiền lương theo tỷ lệ luỹ tiến.
- Hình thức khoán khối lượng hoặc khoán công việc: áp dụng cho những công việc lao động giản đơn, có tính chất đột xuất như bốc dỡ nguyên vật liệu, hàng hoá, sửa chữa nhà cửa… Trong trường hợp này, doanh nghiệp xác định trả lương cho người lao động theo khối lượng và chất lượng công việc mà họ hoàn thành.
- Hình thức khoán quỹ lương: Là dạng đặc biệt của tiền lương sản phẩm được sử dụng để trả lương cho những người làm việc tại các đơn vị của doanh nghiệp. Căn cứ vào khối lượng công việc của từng đơn vị, doanh nghiệp khoán quỹ lương. Quỹ lương thực tế của từng đơn vị phụ thuộc vào mức độ hoàn thành công việc được giao. Tiền lương thực tế của nhân viên vừa phụ thuộc vào quỹ lương thực tế của đơn vị, vừa phụ thuộc vào số nhân viên của từng đơn vị đó.
2. Mục đích sử dụng và nguồn hình thành của các khoản trích theo lương.
2.1. Quỹ Bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH là quỹ dùng để trợ cấp cho ngời lao động có tham gia đóng góp quỹ trong các trường hợp họ bị mất khả năng lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, mất sức…
Theo chế độ tài chính hiện hành, quỹ BHXH được hình thành bằng cách tính theo tỷ lệ 20% trên tổng quỹ tiền lương của doanh nghiệp. Người sử dụng lao động phải nộp 15% trên tổng quỹ lương và tính vào chi phí sản xuất kinh doanh, còn 5% trên tổng quỹ lương thì do người lao động trực tiếp đóng góp (trừ vào thu nhập của họ). Những khoản trợ cấp thực tế cho người lao động tại doanh nghiệp trong các trường hợp họ bị ốm đau, tai nạn lao động, nữ nhân viên nghỉ thai sản,… được tính toán trên cơ sở mức lương ngày của họ, thời gian nghỉ (có chứng từ hợp lệ) và tỷ lệ trợ cấp BHXH. Khi người lao động được nghỉ hưởng BHXH, kế toán phải lập phiếu nghỉ hưởng BHXH cho từng người và lập bảng thanh toán BHXH để làm cơ sở thanh toán với cơ quan quản lý quỹ.
Các doanh nghiệp phải nộp BHXH trích được trong kỳ vào quỹ tập trung do quỹ BHXH quản lý (qua tài khoản của họ ở kho bạc)
Bảng thanh toán bảo hiểm xã hội
Tháng.....năm
Đơn vị tính:
STT
Họ Và Tên
Mức lương
Nghỉ ốm
Nghỉ con ốm
Nghỉ sinh con
Nghỉ KHHGĐ
Nghỉ tai nạn LĐ
Số ngày
T.Tiền
Số ngày
T.Tiền
Số ngày
T.Tiền
Số ngày
T.Tiền
Số ngày
T.Tiền
Cộng
2.2. Quỹ Bảo hiểm y tế
Quỹ BHYT là quỹ được sử dụng để trợ cấp cho những người có tham gia đóng góp quỹ trong các hoạt động khám, chữa bệnh. Theo chế độ hiện hành các doanh nghiệp phải thực hiện trích quỹ BHYT bằng 3% tổng quỹ lương, trong đó doanh nghiệp phải chịu 2% (tính vào chi phí sản xuất kinh doanh) còn người lao động trực tiếp nộp 1% (trừ vào thu nhập của họ). Quỹ BHYT do cơ quan BHYT thống nhát quản lý và trợ cấp cho người lao động thông qua mạng lưới y tế. Vì vậy, khi trích BHYT, các doanh nghiệp phải nộp cho BHYT (qua tài khoản của họ ở kho bạc)
2.3. Kinh phí công đoàn
Kinh phí công đoàn là nguốn tài trợ cho hoạt động công đoàn ở các cấp. Theo chế độ tài chính hiện hành, KPCĐ được trích theo tỷ lệ 2% trên tổng số tiền lương phải trả cho người lao động và doanh nghiệp phải chịu toàn bộ (tính vào chi phí sản xuất kinh doanh ).
Thông thường, khi trích được KPCĐ thì một nửa doanh nghiệp phải nộp cho công đoàn cấp trên, một nửa được sử dụng để chi tiêu cho hoạt động công đoàn tại đơn vị.
Sơ đồ hạch toán thanh toán BHXH, BHYT, KPCĐ
TK 334 TK 338 TK 622, 627, 641, 642
Số BHXH phải trả Trích KPCĐ, BHXH, BHYT,
trực tiếp cho CNVC theo tỷ lệ quy định tính vào
TK 111, 112... chi phí kinh doanh (19%)
Nộp kinh phí công đoàn TK 334
BHXH, BHYT cho cơ Trích KPCĐ, BHXH, BHYT
quan quản lý theo tỷ lệ quy định trừ vào thu
nhập của CNVC (6%)
TK 111, 112...
Chi tiêu kinh phí công Số BHXH, BHYT chi vượt
đoàn tại cơ sở được cấp
Cuối kỳ kế toán trên cơ sở các bảng thanh toán tiền lương lập bảng phân bổ tiền lương và các khoản trích theo tiền lương.
TK ghi
TK Có
ghi Nợ
TK 334: Phải trả CNV
TK 338: Phải trả phải nộp khác
Lương chính
Lương phụ
...........
Cộng
KPCĐ
(3382)
BHXH
(3383)
BHYT
(3384)
1.Chi phí NCTT
- FX1
- FX2
- ...
2.Chi phí sx chung
- FX1
- FX2
- ...
3.Chi phí BH
4.Chi phí QLDN
5.Chi phí XDCB dở dang (241)
6. Chi phí phải trả
7. Quỹ khen
thưởng
8........................
KT trưởng Người lập (KT tiền lương)
( Ký, Họ tên) ( Ký, Họ tên)
3. Yêu cầu, nhiệm vụ và nguyên tắc hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh thì các chủ doanh nghiệp coi tiền lương là một yếu tố của chi phí sản xuất. Còn đối với người lao động, tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu. Mục đích của các nhà sản xuất là lợi nhuận, còn mục đích của người cung ứng sức lao động là tiền lương. Với ý nghĩa này, tiền lương không chỉ mang bản chất là chi phí, mà nó trở thành phương tiện tạo ra giá trị mới, hay đúng hơn là nguồn cung ứng sự sáng tạo sức sản xuất, năng lực của lao động trong quá trình sản sinh ra các giá trị gia tăng.
Đối với người lao động, tiền lương nhận được thoả đáng sẽ là động lực kích thích năng lực sáng tạo để làm tăng năng suất lao động. Mặt khác khi năng suất lao động tăng thì lợi nhuận doanh nghiệp sẽ tăng, do đó nguồn phúc lợi của doanh nghiệp mà người lao động được nhận lại cũng sẽ tăng lên, nó là phần bổ sung thêm cho tiền lương, làm tăng thu nhập và tăng lợi ích cho người cung ứng sức lao động. Hơn nữa, khi lợi ích của người lao động được đảm bảo bằng các mức lương thoả đáng, nó sẽ tạo ra sự gắn kết cộng đồng những người lao động với mục tiêu và lợi ích của doanh nghiệp, xoá bỏ sự ngăn cách giữa người chủ doanh nghiệp với người cung ứng sức lao động, làm cho người lao động có trách nhiệm hơn, tự giác hơn với các hoạt động của doanh nghiệp ...Các nhà kinh tế gọi đó là "phản ứng dây chuyền tích cực" của tiền lương .
Ngược lại, nếu doanh nghiệp trả lương không hợp lý, hoặc vì mục tiêu lợi nhuận thuần tuý mà không chú ý đúng mức đến lợi ích của người lao động, thì nguồn nhân công có thể bị kiệt quệ về thể lực, giảm sút về chất lượng, làm hạn chế các động cơ cung ứng sức lao động. Biểu hiện rõ nhất là tình trạng cắt xén thời gian làm việc, lãng phí nguyên nhiên vật liệu và thiết bị, làm dối, làm ẩu, mâu thuẫn giữa người làm công và chủ doanh nghiệp có thể dẫn đến bãi công, đình công.
Do vậy hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý sản xuất kinh doanh. Nó là nhân tố giúp cho doanh nghiệp hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất của mình. Tổ chức tốt hạch toán tiền lương giúp cho công tác quản lý lao động của doanh nghiệp vào nền nếp, thúc đẩy người lao động chấp hành tốt kỷ luật lao động, tăng năng suất và hiệu suất công tác, đồng thời tạo ra các cơ sở cho việc tính lương theo đúng nguyên tắc phân phối theo lao động.
Tổ chức công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương giúp cho doanh nghiệp quản lý tốt quỹ tiền lương, đảm bảo việc trả lương và trợ cấp bảo hiểm xã hội đúng nguyên tắc, đúng chế độ, khuyến khích người lao động hoàn thành nhiệm vụ được giao, đồng thời cũng tạo cơ sở cho việc phân bổ chi phí nhân công vào giá thành sản phẩm được chính xác. Nhưng để làm tốt công tác hạch toán lao động và tiền lương thì kế toán phải làm tốt các nhiệm vụ sau:
- Tổ chức ghi chép, phản ánh, tổng hợp số liệu về số lượng lao động, thời gian và kết quả lao động, tính lương và tính trên các khoản theo lương, phân bổ các phần nhân công đúng đối tượng sử dụng lao động.
- Hướng dẫn, kiểm tra các nhân viên kế toán ở các bộ phận sản xuất kinh doanh, các phòng ban thực hiện đầy đủ các chứng từ ghi chép ban đầu về lao động tiền lương, mở sổ kế toán cần thiết và hạch toán nghiệp vụ lao động tiền lương đúng chế độ, đúng phương pháp.
- Lập báo cáo về lao động, tiền lương thuộc phần việc do mình phụ trách.
- Phân tích tình hình quản lý, sử dụng thời gian lao động, chi phí phân công năng suất lao động, đề xuất các biện pháp nhằm khai thác, sử dụng triệt để có hiệu quả mọi tiềm năng lao động sẵn có trong doanh nghiệp.
- Để đảm bảo cung cấp thông tin cho nhà quản lý đòi hỏi hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương phải đảm bảo những nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc 1: Trả lương ngang nhau cho người lao động (công bằng). Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc phân phối lao động. Những người lao động khác nhau về tuổi tác, giới tính, trình độ… nhưng có mức hao phí lao động như nhau thì được trả lương như nhau.
Đây là nguyên tắc quan trọng vì nó đảm bảo sự công bằng bình đẳng. Sự bình đẳng không phân biệt đối xử giới tính, chống tiền lương bình quân. Đó là động lực rất lớn đối với người lao động có tác dụng khuyến khích người lao động làm việc.
Nguyên tắc này nhất quán trong từng chủ thể kinh tế, doanh nghiệp, từng khu vực hoạt động. Nó thể hiện sự chênh lệch về chất lượng lao động thông qua hệ thống thang bảng lương, tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật, hệ thống chức năng công nhân viên chức. Trong thực tế phải thể hiện trong quy chế phân phối tiền lương thu nhập.
- Nguyên tắc 2: Nguyên tắc này đảm bảo tái sản xuất sức lao động và không ngừng nâng cao mức sống để có tích luỹ.
Quá trình sản xuất chính là sự kết hợp đồng thời các yếu tố như quá trình tiêu hao các yếu tố lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong đó, lao động với tư cách là hoạt động của con người sử dụng lao động để tạo ra các vật phẩm có ích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của mình. Về bản chất, tiền lương là một bộ phận cấu thành nên giá thành sản phẩm và giá cả hàng hoá. Mặt khác, tiền lương còn đảm bảo kinh tế để khuyến khích lao động, kích thích và tái tạo mối quan tâm của người lao động đến kết quả công việc của họ. Nói cách khác, tiền lương là một nhân tố thúc đẩy năng suất lao động.
Nguyên tắc này cần thiết để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm.
- Nguyên tắc 3: Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao động làm các nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân
Việc thực hiện nguyên tắc này giúp nhà nước tạo sự cân đối giữa các ngành, khuyến khích sự phát triển nhanh chóng ngành mũi nhọn, đồng thời đảm bảo lợi ích cho người lao động.
Tiền lương có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của bất cứ doanh nghiệp nào. Tuy nhiên để thấy hết được tác dụng của nó thì ta phải nhận thức đúng, đầy đủ về tiền lương, lựa chọn phương thức trả lương sao cho phù hợp nhất. Có được sự hài lòng đó, người lao động mới phát huy hết khả năng sáng tạo của mình trong công việc.
Mỗi nền kinh tế có điều kiện sản xuất khác nhau, phân phối lao động khác nhau, do vậy, có ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ cống hiến và sử dụng hao phí sức lao động của từng người. Bởi vậy, cần phải xây dựng các chế độ tiền lương hợp lý giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Nó tạo điều kiện thu hút và có tiềm năng sản xuất lớn.
Nguyên tắc này dựa trên cơ sở sau:
+ Trình độ lành nghề bình quân của người lao động ở các ngành khác nhau là khác nhau, sự khác nhau cần thiết trong trả lương. Thông qua đó khuyến khích người lao động nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn.
+ Điều kiện lao động khác nhau: Mỗi điều kiện lao động có ảnh hưởng khác nhau tới người lao động. Điều kiện lao động càng độc hại, nguy hiểm càng tác động xấu tới sức khoẻ con người và tiêu tốn sức lực hơn. Do vậy, tiền lương cũng phải khác nhau trong những điều kiện lao động khác nhau.
+ Vai trò của các ngành trong nền kinh tế quốc dân: Trong nền kinh tế quốc dân, tuỳ từng thời kỳ mà có những ngành mang tính mũi nhọn, trọng điểm. Sự phát triển của những ngành mang tính mũi nhọn ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Do đó, cần phải có những biện pháp trong đó có tiền lương để thu hút, khuyến khích người lao động trong ngành có ý nghĩa kinh tế quan trọng.
+ Sự phân bổ khu vực sản xuất mỗi ngành kinh tế có thể phân bổ từ các vùng địa lý khác nhau do các vùng này có điều kiện kinh tế xã hội khác nhau. Chính vì thế, tiền lương cũng phải điều chỉnh cho phù hợp.
Tiền lương là một phần của thu nhập quốc dân đựơc nhà nước phân phối có tổ chức, có kế hoạch cho người lao động. Nó được trả theo cấp bậc chứ không gắn với việc hao phí sức lao động và kết quả lao động dẫn tới hiện tượng bất hợp lý là người làm nhiều cũng như ngời làm ít, người làm tốt cũng như người làm kém. Và đó là nguyên nhân dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội, kìm hãm hoạt động sản xuất kinh doanh. Bởi vậy, việc xây dựng nguyên tắc hạch toán tiền lương hợp lý đã có tác dụng to lớn trong các doanh nghiệp như kích thích người lao động tăng cường học hỏi, nâng cao trình độ tay nghề, nâng cao năng suất chất lượng công vịêc và có ý thức kỷ lụât lao động cao.
iii. Hạch toán lao động và tiền lương trong doanh nghiệp
1. Hạch toán lao động trong doanh nghiệp
1.1 Hạch toán số lượng lao động
Chỉ tiêu số lượng lao động của doanh nghiệp được phản ánh trên “Sổ danh sách lao động” của doanh nghiệp do bộ phận tiền lương lập trên số lao động hiện có của doanh nghiệp, bao gồm cả số lao động dài hạn, lao động tạm thời, lao động trực tiếp, gián tiếp và lao động thuộc các lĩnh vực khác ngoài sản xuất. “Sổ danh sách lao động” không chỉ lập chung cho toàn doanh nghiệp mà còn lập riêng cho từng bộ phận sản xuất trong từng doanh nghiệp nhằm thường xuyên nắm chắc số lượng lao động hiện có của từng bộ phận và toàn doanh nghiệp.
Cơ sở để ghi “Sổ danh sách lao động” là chứng từ ban đầu về tuyển dụng, thuyên chuyển công tác, nâng bậc, thôi việc…Các chứng từ trên đại bộ phận do phòng Quản lý lao động-tiền lương lập mỗi khi tuyển dụng, nâng bậc, cho thôi việc…
Mọi biến động về số lượng lao động đều phải được ghi chép kịp thời vào “Sổ danh sách lao động”, trên cơ sở đó làm căn cứ cho việc tính lương phải trả và các chế độ khác cho người lao động được kịp thời.
1.2. Hạch toán thời gian và kết quả lao động
Hạch toán thời gian lao động phải được ghi chép, phản ánh kịp thời, chính xác số ngày công, giờ công làm việc thực tế hoặc ngừng việc, nghỉ việc của từng người lao động, từng đơn vị sản xuất, từng phòng ban trong doanh nghiệp.
Hạch toán thời gian lao động có ý nghĩa rất lớn trong việc quản lý lao động, kiểm tra việc chấp hành kỷ luật lao động, kiểm tra việc chấp hành kỷ luật lao động, làm căn cứ tính lương, tính thưởng chính xác cho từng người lao động.
Chứng từ ban đầu quan trọng nhất dể hạch toán thời gian lao động trong các doanh nghiệp là “Bảng chấm công”. “Bảng chấm công” sử dụng để ghi chép thời gian thực tế làm việc, nghỉ việc, vắng mặt của người lao động theo từng ngày. “Bảng chấm công” phải lập riêng cho từng bộ phận và dùng trong một tháng(tương ứng với một kỳ lương). Tổ trưởng tổ sản xuất hoặc trưởng các phòng ban là người trực tiếp ghi “Bảng chấm công” căn cứ vào số lao động có mặt, vắng mặt đầu ngày làm việc ở đơn vị mình. “Bảng chấm công” phải để tại một địa điểm công khai để người lao động giám sát thời gian lao động của mỗi người. “Bảng chấm công “ là căn cứ để tính lương, tính thưởng cho từng người lao động và để tổng hợp thời gian lao động trong doanh nghiệp.
Đối với các trường hợp ngừng việc xảy ra trong ngày do bất cứ nguyên nhân gì, đều phải lập “Biên bản ngừng việc”, trong đó ghi rõ nguyên nhân xảy ra ngừng việc, thời gian ngừng việc và người chịu trách nhiệm. “Biên bản ngừng việc” là cơ sở để tính lương và xử lý thiệt hại xảy ra.
Đối với các trường hợp nghỉ việc do ốm đau, tai nạn lao động, thai sản,…đều phải có chứng từ nghỉ việc do cơ quan có thẩm quyền cấp và được ghi vào “Bảng chấm công” theo những ký hiệu quy định.
Đi đôi với việc hạch toán số lượng và thời gian lao động, việc hạch toán kết quả lao động là một nội dung quan trọng trong toàn bộ công tác quản lý và hạch toán lao động-tiền lương ở các doanh nghiệp.
Hạch toán kết quả lao động phải đảm bảo phản ánh chính xác số lượng và chất lượng sản phẩm hoặc khối lượng công việc hoàn thành của từng người, từng bộ phận làm căn cứ tính lương, tính thưởng và kiểm tra sự phù hợp của tiền lương phải trả với kết quả lao động thực tế, tính toán, xác định năng suất lao động, kiểm tra tình hình thực hiện định mức lao động của từng người, từng bộ phận và cả doanh nghiệp.
Để hạch toán kết quả lao động trong các doanh nghiệp, kế toán sử dụng các chứng từ ban đầu khác nhau tuỳ thuộc vào loại hình và đặc điểm sản xuất của từng doanh nghiệp. Chứng từ ban đầu được sử dụng phổ biến để hạch toán kết quả lao động là “Phiếu xác nhận sản phẩm hoặc công việc hoàn thành”, “Hợp đồng giao khoán”… “Phiếu xác nhận sản phẩm hoặc công việc hoàn thành” là chứng từ xác nhận số sản phẩm hoặc công việc hoàn thành của từng đơn vị hoặc cá nhân người lao động. Phiếu này do người giao việc lập và phải có đầy đủ chữ ký của người giao việc, người nhận việc, người kiểm tra chất lượng sản phẩm và người duyệt. Phiếu được chuyển cho phòng kế toán để tính lương, tính thưởng (hình thức trả lương theo sản phẩm)
Trong trường hợp giao khoán công việc thì chứng từ ban đầu là “Hợp đồng giao khoán”. Hợp đồng này là biên bản ký kết giữa người giao khoán và người nhận khoán về khối lượng công việc, thời gian làm việc, trách nhiệm và quyền lợi mỗi bên khi thực hiện công việc đó. Chứng từ này là cơ sở để thanh toán tiền công lao động cho từng người nhận khoán.
Trường hợp khi kiểm tra, nghiệm thu phát hiện sản phẩm hỏng thì cán bộ kiểm tra chất lượng phải cùng với người phụ trách bộ phận lập “Phiếu báo hỏng” để làm căn cứ lập biên bản xử lý.
2. Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương
Chứng từ, thủ tục kế toán tiền lương trong doanh nghiệp xây lắp
Để theo dõi tình hình sử dụng thời gian lao động và các khoản thanh toán cho người lao động: Tiền lương, các khoản phụ cấp, trợ cấp, bảo hiểm, tiền thưởng…kế toán sử dụng các loại chứng từ ban đầu khác nhau, tuỳ theo loại hình và đặc điểm sản xuất ở từng doanh nghiệp. Các loại chứng từ: Bảng chấm công, bảng thanh toán tiền lương, phiếu nghỉ hưởng BHXH, danh sách người lao động hưởng BHXH, bảng thanh toán tiền thưởng, phiếu xác nhận sản phẩm hoặc công việc hoàn thành, phiếu báo làm thêm giờ, hợp đồng giao khoán, biên bản điều tra tai nạn lao động:
Bảng thanh toán tiền lương: Là chứng từ làm căn cứ thanh toán tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp tự cấp cho người lao động đồng thời là căn cứ để thống kê về lao động tiền lương. Bàn thanh toán tiền lương được lập hàng tháng theo từng bộ phận (phòng, ban, tổ, nhóm…) tương ứng với bảng chấm công. Cơ sở để lập bảng thanh toán tiền lương là các chứng từ về lao động như: Bảng chấm công, bảng tính phụ cấp, trợ cấp, phiếu xác nhận thời gian lao động hoặc công việc hoàn thành… Căn cứ các chứng từ liên quan, kế toán tiền lương lập bảng thanh toán tiền lương chuyển cho kế toán trưởng duyệt để làm căn cứ lập phiếu chi và phát lương (Mẫu số 02).
Bảng chấm công: Theo dõi ngày công thực tế làm việc, nghỉ việc, … để có căn cứ tính trả lương, BHXH trả thay lương cho từng người và quản lý lao động trong đơn vị. Mỗi bộ phận phải lập bảng châm công hàng tháng. Cuối tháng người chấm công và phụ trách bộ phận ký vào bảng chấm công và chuyển bảng chấm công và các chứng từ liên quan về cho kế toán kiểm tra đối chiếu, quy ra công để tính lương và BHXH. Ngày công quy định là 8 giờ (Mẫu số 01).
Hợp đồng giao khoán: Là bản ký kết giữa người giao khoán và người nhậ khoánvề khối lượng công việc, thời gian làm việc, trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên khi thực hiện công việc đó, đồng thời là cơ sở để thanh toán tiền công lao động cho người nhận khoán (Mẫu số 08).
Phiếu báo làm thêm giờ: Là chứng từ xác nhận số giờ công, đơn giá và số tiền làm thêm được hưởng của từng công việc là cơ sở để tính trả lương cho người lao động.
Phiếu xác nhận sản phẩm hoặc công việc hoàn thành: Là chứng từ xác nhận số sản phẩm hoặc công việc hoàn thànhcủa đơn vị hoặc cá nhận người lao động.
Bảng thanh toán tiền thưởng: Là chứng từ xác nhận số tiền thưởng cho từng người lao động, làm cơ sở để tính thu nhập của mỗi người lao động và ghi sổ kế toán. Bảng thanh toán tiền thưởng chủ yếu dùng trong các trường hợp thưởng theo lương không dùng trong các trường hợp thưởng đột xuất, thưởng tiết kiệm nguyên vật liệu…(Mẫu số 05)
Sau đây là một số bảng biểu mẫu kèm theo
2.1. Tài khoản sử dụng
Phương pháp hạch toán
2.1. Tài khoản sử dụng
Tài khoản 334 - Phải trả công nhân viên: Dùng để phản ánh các khoản phải trả và tình hình thanh toán các khoản phải trả cho công nhân viên của doanh nghiệp xây lắp về tiền lương, phụ cấp lưu động, tiền công, tiền thưởng, BHXH và các khoản phải trả khác thuộc về thu nhập của công nhân viên (thuộc biên chế của doanh nghiệp) và tiền công phải trả cho lao động thuê ngoài
Tính chất tài khoản là tài khoản nguồn vốn
Bên nợ:
Các khoản tiền lương, phụ cấp lưu động, tiền công, tiền thưởng, BHXH và các khoản khác đã ứng, đã trả trước cho công nhân viên
Các khoản khấu trừ vào tiền công, tiền lương của công nhân vi._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32379.doc