Lời nói đầu
Bước vào thế kỷ 21, xu hướng chung của nền kinh tế thế giới là sự quốc tế hoá và hợp tác hoá. Các quốc gia trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau hơn về kinh tế chính trị...nền kinh tế càng được quốc tế hoá bao nhiêu thì sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các công ty càng trở nên mạnh mẽ. Tất cả các quốc gia đều phải vào cuộc cạnh tranh khốc liệt để tránh bị đẩy lùi lại phía sau. Thị trường tự do cạnh tranh đã thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của các doanh nghiệp, chính vì vậy mọi
116 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1221 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hạch toán tập hợp chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị Doanh nghiệp tại Xí nghiệp gỗ Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạt động kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải gắn với một thị trường nhất định. Doanh nghiệp phải căn cứ vào thị trường để quyết định những vấn đề then chốt và cơ bản là: Sản xuất ra cái gì ? Sản xuất cho ai ? Và sản xuất như thế nào với chi phí bao nhiêu ?
Các doanh nghiệp phải căn cứ vào giá cả và lượng các yếu tố sản xuất kinh doanh để làm sao cho có một sự kết hợp tối ưu giữa các yếu tố đó nhằm tạo ra những sản phẩm mà doanh nghiệp mong muốn . Mặt khác các doanh nghiệp cũng thường xuyên nắm gíá cả thị trường, chấp nhận những sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp với tình trạng chi phí như thế nào để đạt được mức lợi nhuận tối đa. Thị trường chỉ thừa nhận mức hao phí lao động xã hội cần thiết trung bình để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hàng hoá và quy luật giá trị đã đặt tất cả các doanh nghiệp với các mức chi phí cá biệt khác nhau lên một mặt bằng trao đổi (thông qua giá cả) trên thị trường.
Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, để có được lợi nhuận cao hay bình thường cũng phải phấn đấu hạ giá thành sản phẩm . Muốn vậy, doanh nghiệp phải xác định mức chi phí hợp lý để tạo ra sản phẩm từ đó mới có thể dẫn tới việc tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Đây là biện pháp quan trọng để đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh, vừa bảo toàn vốn, vừa có lãi và tăng tích luỹ. Bên cạnh đó, hạ giá thành sản phẩm giúp doanh nghiệp hạ gía bán và do đó đầy nhanh quá trình tiêu thụ sản phẩm, giúp doanh nghiệp tăng lợi nhuận, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm bớt lượng vốn lưu động sử dụng vào sản xuất. Như vậy, sẽ tạo được khả năng mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Do vậy thực hiện tốt vấn đề tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là cơ sở cho việc tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đúng, đủ, chính xác và kịp thời sẽ giúp cho công tác quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, kiểm tra tính hợp pháp hợp lệ của chi phí trong sản xuất, cung cấp thông tin cho quản lý. Trên ý nghĩa đó, tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm luôn là một vấn đề cấp bách đối với các doanh nghiệp, đòi hỏi các nhà kinh tế không ngừng bổ sung hoàn thiện lý luận làm cơ sở cho thực tiễn.
Là một đơn vị sản xuất kinh doanh. Xí nghiệp Gỗ Hà nội đã sử dụng kế toán như một công cụ đắc lực để điều hành quản lý các hoạt động kinh tế và kiểm tra quá trình sử dụng tài sản, sử dụng vốn nhằm bảo đảm quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
Xuất phát từ tầm quan trọng của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Trong thời gian thực tập tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội, được sự quan tâm giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn thực tập và các cán bộ Phòng Kế toán, em xin nghiên cứu đề tài :
“Hoàn thiện hạch toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị Doanh nghiệp tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội”
Phương pháp nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phân tích về mặt lý luận và tham khảo ý kiến của các thầy giáo, cô giáo và các cô chú ở đơn vị thực tập và có ý kiến nhằm hoàn thiện hợp lý kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm .
Với những phương pháp nghiên cứu, ngoài Phần mở đầu và Phần kết luận, nội dung của Chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm có 3 phần chính sau:
Phần I : Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các Doanh nghiệp
Phần II : Thực trạng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội
Phần III : Nhận xét, đánh giá, kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội trong nền kinh tế thị trường.
Phần I
Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các Doanh nghiệp
I- Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất :
Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất :
Trong bất kỳ một hình thái kinh tế - xã hội nào, quá trình sản xuất đều gắn liền với sự vận động tiêu hao các yếu tố cơ bản. Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải có đầy đủ các yếu tố cơ bản, đó là : Lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động .Sự tham gia của các yếu tố sản xuất vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp có khác nhau và nó hình thành các khoản chi tương ứng : Chi phí tiền lương trả cho người lao động, chi phí khấu hao tư liệu lao động và chi phí tiêu hao nguyên vật liệu .Đó cũng chính là 3 yếu tố chi phí cơ bản tạo nên giá trị sản phẩm bao gồm 3 bộ phận : C, V, M. Trong đó:
C : Là toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ như :Khấu hao TSCĐ, chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ ... Bộ phận được gọi là hao phí lao động vật hoá .
V : Là chi phí về tiền lương, tiền công phải trả cho người lao động tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm, dịch vụ .Nó được là hao phí lao động sống cần thiết .
(V+M) : Là giá trị mới do lao động sống tạo ra trong quá trình hoạt động tạo ra giá trị sản phẩm, dịch vụ .
Như vậy C và V chính là chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm .Trong điều kiện tồn tại quan hệ hàng hoá - tiền tệ, chi phí về lao động vật hoá và lao động sống doanh nghiệp phải chi ra để tiến hành sản xuất kinh doanh đều được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và được gọi là chi phí sản xuất kinh doanh. Như vậy, tại các doanh nghiệp sản xuất, theo chế độ kế toán Việt nam, chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm).
Chi phí có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thực chất là sự vận động của các yếu tố sản xuất bỏ ra và biến đổi chúng thành sản phẩm cuối cùng theo mục đích của doanh nghiệp .Trong các loại hình doanh nghiệp hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau và thuộc các thành phần kinh tế khác nhau : DNNN, Doanh nghiệp tư nhân, Doanh nghiệp liên doanh... thì về bản chất chi phí sản xuất đều không có gì khác nhau .
ở Doanh nghiệp cũng cần phải phân biệt giữa chi tiêu (expenditure) và chi phí (expense). Phải chăng chi phí và chi tiêu của Doanh nghiệp lại giống nhau ? không hoàn toàn như vậy. Có trường hợp chi phí nhưng không phải là chi tiêu hoặc có trường hợp chi tiêu nhưng không phải là chi phí .Như vậy chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Còn chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của Doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì.Việc phân biệt giữa chi phí và chi tiêu rất có ý nghĩa trong việc tìm hiểu bản chất cũng như nội dung, phạm vi và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.
Để có thể quản lý tốt chi phí sản xuất, trước hết phải hiểu rõ về các loại phí hay nói cách khác là nắm vững các cách phân loại chi phí.
Phân loại chi phí sản xuất :
Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí sản xuất vào từng loại, từng nhóm khác nhau theo những đặc tính nhất định.
Trong công tác quản lý cũng như việc tật hợp chi phí sản xuất, kế toán phải thực hiện đối với từng loại chi phí khác nhau. Hạch toán chi phí theo từng loại sẽ nâng cao tính chi tiết của thông tin hạch toán phục vụ đắc lực cho công tác kế hoạch hoá và quản lý nói chung, đồng thời có cơ sở tin cậy cho việc phấn đấu giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh tế của chi phí .
Việc phân loại chi phí có tác dụng kiểm tra và phân tích quá trình phát sinh chi phí và hình thành giá thành sản phẩm nhằm động viên mọi khả năng tiềm tàng trong việc hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất của xí nghiệp .Tuỳ theo việc xem xét chi phí ở góc độ khác nhau và mục đích quản lý chi phí mà chúng ta lựa chọn tiêu thức phân loại chi phí cho phù hợp .Chi phí sản xuất được phân loại theo một số tiêu thức sau :
Phân loại theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh :
Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động kinh doanh, toàn bộ chi phí được chia làm 3 loại :
+ Chi phí sản xuất kinh doanh : Bao gồm những chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất, tiêu thụ và quản lý hành chính, quản trị kinh doanh .
+ Chi phí hoạt động tài chính : Gồm những chi phí liên quan đến hoạt động về vốn và đầu tư tài chính .
+ Chi phí bất thường : Gồm những chi phí ngoài dự kiến có thể do chủ quan hay khách quan mang lại .
Cách phân loại này giúp cho việc phân định chi phí được chính xác, phục vụ cho việc tính giá thành, xác định chi phí và xác định kết quả của từng hoạt động kinh đúng đắn cũng như lập Báo cáo tài chính nhanh chóng, kịp thời.
Phân loại theo yếu tố chi phí (theo nội dung kinh tế):
Theo cách phân loại này, mỗi yếu tố chi phí chỉ bao gồm những chi phí có cùng một nội dung kinh tế, không phân biệt chi phí đó phát sinh ở lĩnh vực sản xuất nào, ở đâu và mục đích hoặc tác dụng của chi phí như thế nào .Theo quy định hiện hành ở Việt nam, toàn bộ chi phí được chia làm 7 yếu tố :
+ Yếu tố nguyên liệu, vật liệu : Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ...sử dụng vào sản xuất - kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
+ Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
+ Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương : Phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho toàn bộ CNVC.
+ Yếu tố BHX, BHYT, KPCĐ : Phản ánh Phần BHX, BHY, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả CNVC.
+ Yếu tố khấu hao TSCĐ : Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho SXKD trong kỳ.
+ Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài : Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào SXKD .
+ Yếu tố chi phí khác bằng tiền : Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ .
Phân loại chi phí theo nội dung kinh tế có tác dụng cho biết kết cấu, tỷ lệ trong từng loại chi phí mà Doanh nghiệp đã chi ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh để lập bản thuyết minh Báo cáo tài chính (Phần chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố) phục vụ cho yêu cầu thông tin và quản trị Doanh nghiệp để phân tích tình hình dự toán chi phí, lập dự toán chi phí sản xuất kinh doanh cho kỳ sau.
Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm :
Việc phân loại chi phí theo cách này cho phép ta thấy được ảnh hưởng của từng loại khoản mục đến kết cấu của giá thành sản phẩm, đồng thời nó cũng cung cấp những thông tin cần thiết để xác định hướng và biện pháp hạ giá thành sản phẩm .Các khoản mục chi phí được quy định thống nhất trong từng ngành kinh tế .
Theo quy định hiện hành, giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) ở Việt nam bao gồm 3 khoản mục chi phí :
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : Phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu ... tham gia trực tiếp vào việc chế tạo, sản xuất sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ .
+ Chi phí Nhân công trực tiếp : Gồm tiền lương phụ cấp lương và các khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ với tiền lương phát sinh .
+ Chi phí sản xuất chung : Là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất (trừ chi phí vật liệu và nhân công trực tiếp).
Ngoài ra khi tính chỉ tiêu giá thành sản phẩm toàn bộ (giá thành đầy đủ) thì chỉ tiêu giá thành còn bao gồm khoản mục chi phí Bán hàng và chi phí quản lý Doanh nghiệp .
Việc phân loại chi phí sản xuất theo cách này có ý nghĩa hết sức quan trọng .Nó giúp cho Doanh nghiệp quản lý được chi phí theo từng loại sản phẩm, từng khu vực sản xuất, từng loại chi phí sản xuất .Từ đó giúp cho việc phân tích hoạt động kinh doanh trong Doanh nghiệp có hiệu quả .
Cách phân loại này phù hợp với các nguyên tắc và thông lệ có tính phổ biến của kế toán ở một số nước phát triển trên thế giới .Bên cạnh tác dụng tạo điều kiện đễ dàng thuận lợi cho quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, phân loại chi phí sản xuất theo cách này sẽ góp phần quốc tế hoá hệ thống kế toán của nước ta tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hợp tác với các nước trên thế giới đẩy nhanh tiến trình đổi mới của đất nước .
Phân loại theo chức năng trong sản xuất kinh doanh :
Dựa vào chức năng của các hoạt động trong quá trình kinh doanh và chi phí liên quan đến việc thực hiện các chức năng mà chia chi phí sản xuất kinh doanh làm 3 loại :
+ Chi phí sản xuất : Gồm những chi phí phát sinh liên quan đến việc chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng .
+ Chi phí tiêu thụ : Gồm tất cả các chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm , hàng hoá, lao vụ...
+ Chi phí Quản lý : Gồm những chi phí quản lý kinh doanh, hành chính và những chi phí chung phát sinh liên quan đến hoạt động của Doanh nghiệp .
Cách phân loại này là cơ sở để xác định giá thành sản xuất, xác định trị giá hàng tồn kho, phân biệt được chi phí theo từng chức năng cũng như căn cứ để kiểm tra, kiểm soát và quản lý chi phí .
Phân loại theo cách thức kết chuyển chi phí :
Toàn bộ chi phí kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ .
+ Chi phí sản phẩm : Là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua .Chi phí sản phẩm chỉ thu hồi khi sản phẩm được tiêu thụ .Khi sản phẩm chưa tiêu thụ được thì những chi phí này nằm trong các đơn vị sản phẩm tồn kho .Chi phí sản phẩm gồm : chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
+ Chi phí thời kỳ : là những khoản chi phí phát sinh trong kỳ hạch toán, vì thế chi phí thời kỳ có ảnh hưởng đến lợi nhuận của kỳ chúng phát sinh .Chi phí thời kỳ không phải là những khoản chi phí tạo thành thực thể của sản phẩm hay nằm trong các yếu tố cấu thành giá vốn của hàng mua vào mà là những khoản chi phí hoàn toàn biệt lập với quá trình sản xuất sản phẩm hoặc là hàng hoá mua vào. Chi phí thời kỳ bao gồm: Chi phí bán hàng và chi phí quản lý Doanh nghiệp.
Phân loại theo quan hệ giữa chi phí với khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành:
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm căn cứ để ra quyết định kinh doanh thì chi phí lại được chia thành : Biến phí, định phí và chi phí hỗn hợp .
+ Biến phí : Là những chi phí thay đổi về tổng số, và tỷ lệ so với khối lượng công việc hoàn thành .Biến phí có 3 đặc điểm :
Biến phí đơn vị sản phẩm ổn định, không thay đổi
Tổng biến phí thay đổi khi sản lượng thay đổi
Biến phí bằng 0 khi không có hoạt động
Biến phí bao gồm các khoản chi phí sau đây :
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
chi phí nhân công trực tiếp
Một bộ phận chi phí sản xuất chung : Nguyên vật liệu phụ, lao động gián tiếp, động lực lao động công cụ nhỏ, chi phí về nguyên liệu .
+ Định phí : Là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn các chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh... Tuy nhiên nếu trong kỳ có sự thay đổi về khối lượng sản phẩm sản xuất thì chi phí cố định trên một đơn vị sản phẩm sẽ biến động tương quan tỷ lệ nghịch với sự biến động của sản lượng .
+ Chi phí hỗn hợp : Bao gồm cả yếu tố biến phí lẫn định phí .ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của định phí, quá mức đó nó lại thể hiện đặc tính của biến phí .
Chi phí hỗn hợp bao gồm những khoản chi phí như : Chi phí điện thoại,chi phí sử dụng điện nước, chi phí bảo dưỡng máy móc thiết bị, chi phí nguyên vật liệu gián tiếp .Chỉ có chi phí sản xuất chung mới có đặc điểm của chi phí hỗn hợp .
Việc phân loại chi phí theo cách này có tác dụng to lớn đối với quản trị kinh doanh, phân tích điểm hoà vốn và phục vụ cho việc ra quyết định quản lý cần thiết để hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh .
Phân loại theo quan hệ với quá trình sản xuất :
+ Chi phí trực tiếp : Là những chi phí tự bản thân chúng có quan hệ trực tiếp tới quá trình sản xuất và có thể chuyển trực tiếp cho sản phẩm hoặc đối tượng chịu chi phí .
+ Chi phí gián tiếp : Là những chi phí chung, không phân định được cho từng đối tượng nên cần phải phân bổ.
Mỗi cách phân loại chi phí đều có ý nghĩa riêng đồng thời có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau và đều nhằm tới một mục đích chung là quản lý tốt chi phí sản xuất và tính đúng giá thành sản phẩm .Các cách phân loại chi phí khác nhau cho phép ta hiểu cặn kẽ hơn nội dung và tính chất của chi phí , vị trí mỗi loại chi phí trong quá trình sản xuất .Từ đó đi đến mục tiêu nghiên cứu, xây dựng hệ thống định mức các khoản mục giá thành cho từng loại hoạt động sản xuất .
Bên cạnh các cách phân loại trên, trong quản lý kinh tế cón sử dụng một số loại thuật ngữ khác nhau như : chi phí cơ hội, chi phí khác biệt, chi phí tới hạn ...
Trong sản xuất chi phí chỉ là một mặt thể hiện sự hao phí đi .Để đánh giá chất lượng kinh doanh của các tổ chức kinh tế thì chi phí chi ra cũng phải xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt thứ hai cũng là mặt cơ bản của quá trình sản xuất đó là kết quả sản xuất thu được. Quan hệ so sánh đó đã hình thành nên chỉ tiêu ''Giá thành sản phẩm ''.
2. Giá thành sản phẩm :
a) Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm:
Giá thành sản phẩm cũng là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt : Mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí phát sinh (phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang) và các chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra bất kể ở kỳ nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ.
Giá thành sản phẩm là một phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hoá, giá thành là lượng hao phí kết tinh trong sản phẩm.giá thành sản phẩm lại là một chỉ tiêu tính toán không thể thiếu của quản lý theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, do vậy có thể nói giá thành sản phẩm vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan ở một phạm vi nhất định.
Dùng thuật ngữ ''chi phí sản xuất'' C.Mác đã chỉ rõ bản chất của giá thành : "chi phí sản xuất của hàng hoá chỉ hoàn toàn do tư bản đã thực sự chi phí vào sản xuất hàng hoá cấu thành mà thôi ''. Bản chất của chi phí sản xuất và của giá thành sản phẩm là như thế, điều đó không chỉ đúng với sản xuất tư bản chủ nghĩa mà còn đúng với mọi hình thức sản xuất khác. Bởi vì như C.Mác viết :"chi phí sản xuất hoàn toàn không phải là một khoản mục chỉ có trong kế toán tư bản mà thôi. Tính chất độc lập của yếu tố giá trị ấy trong thực tiễn không ngừng biểu hiện ra quá trình sản xuất thực tế của hàng hoá...".
Giá thành sản phẩm có quan hệ mật thiết với gía trị hàng hoá và là một bộ phận cơ bản của giá trị hàng hoá.
Ta biết : Giá trị hàng hoá = C + V + M .
ở góc độ Doanh nghiệp, để tạo ra sản phẩm dịch vụ thì doanh nghiệp phải bỏ ra hai bộ phận chi phí là C và V. Đó là chi phí sản xuất mà doanh nghiệp phải bỏ ra để tạo ra sản phẩm dịch vụ, giá thành sản phẩm là chi phí sản xuất tính cho sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp sản xuất đã hoàn thành trong kỳ.
Như vậy, giá thành là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế tài chính của xí nghiệp giá thành dược tíng toán chính xác cho từng loại sản phẩm hoặc lao vụ cụ thể (đối tượng tính giá) và chỉ tính toán xác định đối với số lượng sản phẩm hoặc lao vụ đã hoàn thành. Khi kết thúc một hay một số giai đoạn công nghệ sản xuất (nửa thành phẩm).
b) Phân loại giá thành sản phẩm :
Để đáp ứng nhu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành cũng được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Về lý luận cũng như trên thực tế, ngoài các khái niệm giá thành xã hội và giá thành cá biệt, còn có khái niệm giá thành công xưởng, giá thành toàn bộ...
Căn cứ vào thời gian và cơ sở số liệu để tính, giá thành sản phẩm được chia thành:
+ Giá thành kế hoạch : Giá thành kế hoạch được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch
+ Giá thành định định mức : Giống như giá thành kế hoạch, giá thành định mức cũng được xác định trược khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với giá thành k ế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức lại được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Giá thành định mức được xem là thước đo chính xác kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, tiền vồn trong doanh nghiệp, để đánh giá các giải pháp mà doanh nghiệp đã áp dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả chi phí.
+ Giá thành thực tế: khác với hai loại trên, giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành thực tế của sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của Doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế-tổ chức-kỹ thuật để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của Doanh nghiệp.
Phân loại theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ:
+ Giá thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưỏng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất.
Giá thành sản xuất của sản phẩm bao gồm các chi phí sản xuất :chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung tính cho những sản phẩm, công việc, lao vụ hoàn thành. Giá thành sản xuất của sản phẩm được sử dụng ghi sổ cho sản phẩm đã hoàn thành nhập kho bàn giao cho khách hàng. Giá thành sản xuất của sản phẩm cũng là căn cứ để tính toán giá vốn hàng bán và lãi gộp ở các Doanh nghiệp sản xuất .
+ Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan tới việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (chi phí sản xuất, quản lý và bán hàng). Giá thành tiêu thụ của sản phẩm là căn cứ để tính toán lãi trước thuế lợi tức của Doanh nghiệp. Giá thành tiêu thụ còn được gọi là giá thành đầy đủ và được tính theo công thức:
Giá thành toàn bộ Giá thành sản xuất Chi phí Chi phí
Của Sản phẩm = của sản phẩm + QLDN + BH
Tuỳ theo từng loại hình Doanh nghiệp hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau, nếu quá trình sản xuất và quá trình tiêu thụ (bán hàng) diễn ra đồng thời (như đối với các hoạt động dịch vụ, du lịch, vận tải...) thì giá thành sản xuất thực tế và giá thành sản phẩm tiêu thụ được xác định đồng thời.
ý nghĩa của giá thành sản xuất thực tế được sử dụng khi nhập kho thành phẩm còn giá thành sản phẩm tiêu thụ được sử dụng để tính toán xác định kết quả bán hàng (kết quả kinh doanh của Doanh nghiệp ).
3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm :
Xét về mặt nội dung, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt của quá trình sản xuất, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giống nhau về chất vì đều là những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình sản xuất và chế tạo sản phẩm.
Xét về mặt kế toán, thì kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là hai bước công việc liên tiếp và gắn bó hữu cơ với nhau. Tuy nhiên, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm lại không giống nhau về lượng sự khác nhau đó thể hiện ở các điểm sau:
+ Chi phí sản xuất luôn gắn với từng thời kỳ đã phát sinh chi phí, còn giá thành lại gắn với khối lượng sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành.
+ Chi phí sản xuất trong kỳ bao gồm cả những chi phí sản xuất đã trả trước trong kỳ nhưng chưa phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ trước nhưng kỳ này mới phát sinh thực tế, nhưng không bao gồm chi phí trả trước của kỳ trước phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ này nhưng thực tế chưa phát sinh. Ngược lại, trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm một phần chi phí thực tế đã phát sinh (chi phí trả trước) hoặc một phần chi phí phí sẽ phát sinh ở kỳ sau nhưng đã ghi nhận là sản phẩm của kỳ này (chi phí phải trả).
+ Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm đang còn dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Còn giá thành sản phẩm không liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang.
Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có thể được khái quát qua sơ đồ sau :
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
B D
A Tổng giá thành sản phẩm dịch vụ C hoàn thành
Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
Qua sơ đồ trên, ta thấy: AC = AB + BD - CD
Hay :
Tổng giá thành chi phí sản xuất dở chi phí sản xuất chi phí sản
xuất dở
Sản phẩm = dang đầu kỳ + phát sinh trong kỳ - dang
cuối kỳ
Nếu :
+ Chi phí sản xuất dở dang dầu kỳ = chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
+ Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ > chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ thì tổng giá thành sản phẩm lớn hơn tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
+ Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ < chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ thì tổng giá thành sản phẩm nhỏ hơn tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ rất mật thiết vì nội dung cơ bản của chúng đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí Doanh nghiệp bỏ ra cho hoạt động sản xuất. Chi phí sản xuất trong kỳ là căn cứ là cơ sở để tính giá thành của sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành . Sự tiết kiệm hay lãng phí về chi phí sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm là cao hay thấp. Tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là hai công việc kế tiếp nhau, gắn bó hữu cơ với nhau. Quản lý giá thành phải gắn liền với quản lý chi phí sản xuất .
4. Nhiệm vụ kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sẩn phẩm:
Trong công tác quản lý Doanh nghiệp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn luôn được các nhà quản lý Doanh nghiệp quan tâm, vì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu phản ánh chất lượng của hoạt động sản xuất của Doanh nghiệp. Thông qua những thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm do bộ phận kế toán cung cấp, những người quản lý Doanh nghiệp nắm được chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thực tế của từng loại hoạt động, từng loại sản phẩm, lao vụ cũng như kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp, để phân tích đánh giá tình hình thực hiện các định mức chi phí và dự toán chi phí,tình hình sử dụng tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm để có các quyết định quản lý thích hợp .
Tổ chức kế toán đúng, hợp lý và chính xác chi phí sản xuất và tính đúng tính đủ giá thành sản phẩm có ý nghĩa rất lớn trong quản lý chi phí, giá thành ;tổ chức kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chi phí phát sinh ở Doanh nghiệp nói chung, ở từng bộ phận đối tượng nói riêng góp phần quản lý vật tư, tài sản, lao động, tiền vốn có hiệu quả. Mặt khác, tạo điều kiện và có biện pháp phấn đấu hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm .Tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm còn là tiền đề để xác định chính xác kết quả hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Để thực hiện tốt như vậy thì kế toán có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm của Doanh nghiệp để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành thích hợp.
Tổ chức tập hợp và phân bổ từng loại chi phí sản xuất theo đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định và bằng phương pháp thích hợp đã chọn, cung cấp kịp thời những số liệu thông tin tổng hợp về các khoản mục chi phí và yếu tố chi phí quy định, xác định đúng đắn chi phí của sản phẩm dở dang cuối kỳ.
Vận dụng phương pháp tính giá thành thích hợp để tính toán giá thành và giá thành đơn vị của các đối tượng tính giá thành theo đúng các khoản mục quy định và đúng kỳ tính giá thành đã xác định.
Định kỳ cung cấp Báo cáo về chi phí sản xuất và giá thành cho lãnh đạo Doanh nghiệp và tiến hành phân tích tình hình thực hiện các định mức chi phí và đặc điểm toán chi phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và kế hoạch hạ giá thành sản phẩm, phát hiện kịp thời khả năng tiềm tàng đề xuất biện pháp thích hợp để phấn đấu không ngừng tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm.
II - Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm, dịch vụ :
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất :
Đối tượng kế toán tâp hợp chi phí sản xuất là phạm vi giới hạn sản xuất mà chi phí sản xuất cần phải tâp hợp theo đó nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm tra, phân tích chi phí và yêu cầu tính giá thành sản phẩm.
Việc xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên cần thiết của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Có xác định đúng đắn đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với đặc điểm tình hoạt động sản xuất, đặc điểm quy trình sản xuất sản phẩm và đáp ứng được yêu cầu quản lý chi phí sản xuất của Doanh nghiệp mới giúp cho tổ chức tốt nhất công việc kế toán tập hợp c._.hi phí sản xuất. Từ khâu ghi chép ban đầu, tổng hợp số liệu, tổ chức tài khoản và sổ chi tiết đều phải theo đúng đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất đã xác định.
Hoạt động sản xuất của các Doanh nghiệp có thể tiến hành ở nhiều địa điểm,nhiều phân xưởng, tổ đội sản xuất khác nhau, ở từng địa điểm sản xuất lại có thể sản xuất chế biến nhiều sản phẩm, nhiều công việc lao vụ khác nhau, theo các quy trình công nghệ sản xuất khác nhau. Do đó chi phí sản xuất của Doanh nghiệp cũng phát sinh ở nhiều địa điểm, nhiều bộ phận liên quan đến nhiều sản phẩm, công việc.
Để xác định đúng đắn đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất trước hết phải căn cứ vào đặc điểm phát sinh cuả chi phí và công dụng của chi phí trong sản xuất. Tùy theo cơ cấu tổ chức sản xuất, yêu cầu và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, yêu cầu hạch toán kinh doanh của Doanh nghiệp mà đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất có thể là toàn bộ quá trình công nghệ sản xuất của Doanh nghiệp, hay từng giai đoạn, từng quy trình công nghệ riêng biệt, từng phân xưởng, tổ đội sản xuất. Tuỳ theo quy trình công nghệ sản xuất và đặc điểm của sản phẩm mà đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất có thể là từng nhóm sản phẩm, nhóm cây trồng, từng mặt hàng sản phẩm, từng công trình xây dựng, từng đơn đặt hàng, từng loạt hàng hoặc từng bộ phận, cụm chi tiết hoặc chi tiết sản phẩm.
Thực chất của việc xác định đối tưọng tập hợp chi phí sản xuất là xác định hoạt động hay phạm vi của chi phí phát sinh làm cơ sở cho việc tập hợp chi phí sản xuất. Tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng đã được quy định hợp lý có tác dụng phục vụ tốt cho việc tăng cường quản lý chi phí sản xuất và phục vụ cho công tác tính giá thành sản phẩm được kịp thời và đúng đắn .
Đối tượng tính giá thành :
Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc lao vụ do Doanh nghiệp sản xuất ra, cần phải tính được tổng giá thành và giá thành đơn vị. Khi tính giá thành sản phẩm dịch vụ trước hết phải xác định được đối tượng tính giá thành .
Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên cần thiết trong toàn bộ công việc tính giá thành sản phẩm của kế toán. Bộ phận kế toán giá thành phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất của Doanh nghiệp, tính chất sản xuất và cung cấp sử dụng của chúng để xác định đối tượng tính giá thành cho thích hợp .
Về mặt tổ chức sản xuất ,nếu Doanh nghiệp sản xuất sản phẩm có tính chất đơn chiếc như đóng tàu, sửa chữa ô tô... thì đối tượng tính giá thành là từng sản phẩm dịch vụ hoàn thành.
Về mặt quy trình công nghệ sản xuất, nếu quy trình công nghệ sản xuất giản đơn, thì đối tượng tính giá thành chỉ có thể là sản phẩm đã hoàn thành ở cuối quy trình sản xuất. Nếu quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu liên tục thì đối tượng tính giá thành có thể là thành phẩm ở giai đoạn chế biến cuối cùng, cũng có thể là các loại nửa thành phẩm hoàn thành ở từng giai đoạn sản xuất. Nếu quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu song song (lắp ráp) thì đối tượng tính giá thành có thể là từng bộ phận, từng chi tiết sản phẩm.
Khi xem xét các loại nửa thành phẩm tự chế, các bộ phận hoặc chi tiết sản phẩm có là đối tượng tính giá thành hay không, còn cần phải cân nhắc đến các mặt : Chu kỳ sản xuất sản phẩm dài hay ngắn, nửa thành phẩm tự chế có phải là sản phẩm hàng hoá (có bán ra ngoài) hay không, yêu cầu về trình dộ quản lý và hạch toán kinh doanh của Doanh nghiệp như thế nào để xác định cho phù hợp.
Kỳ tính giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành cần tiến hành công việc tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành. Xác định kỳ tính giá thành cho từng đối tượng tính giá thành thích hợp, sẽ giúp cho tổ chức công việc tính giá thành sản phẩm được khoa học, hợp lý, đảm bảo cung cấp số liệu thông tin về giá thành thực tế của sản phẩm, lao vụ kịp thời trung thực phát huy được vai trò kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm của kế toán.
Xác định đối tượng tính giá thành đúng và phù hợp với diều kiện đặc điểm của Doanh nghiệp giúp cho kế toán tổ chức mở sổ kế toán, các bảng tính giá và tính giá thành sản phẩm theo từng đối tượng cần quản lý và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm có hiệu quả đáp ứng nhu cầu quản lý nội bộ Doanh nghiệp.
3. Mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành:
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành về cơ bản là khác nhau. Tuy nhiên chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau và trong nhiều trường hợp có sự phù hợp nhau. Nó có sự giống nhau, chẳng hạn về bản chất, chúng đều là những phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí, vì thế có sự trùng hợp nhau.
Sự khác nhau đó là : Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là căn cứ để mở các tiểu khoản, các sổ chi tiết, tổ chức công tác ghi chép ban đầu, tập hợp số liệu chi phí sản xuất chi tiết theo từng đối tượng (từng địa điểm phát sinh, từng đối tượng chịu chi phí sản xuất ) giúp tăng cường quản lý chi phí sản xuất và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong doanh nghiệp . Xác định đối tượng tính giá thành lại là căn cứ để kế toán mở các phiếu tính giá thành sản phẩm (bảng chi tiết giá thành sản phẩm ) tổ chức công tác tính giá thành theo từng đối tưọng, phục vụ cho việc kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm, tính toán hiệu quả xác định thu nhập, phát hiện khả năng tiềm tàng để có biện pháp phấn đấu không ngừng hạ giá thành sản phẩm, phục vụ yêu cầu quản lý hạ giá thành .
Cụ thể, để phân biệt được đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là một, cần dựa vào các cơ sở sau đây:
Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất :
+ Với sản xuất giản đơn:
- Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất một loại sản phẩm ) hoặc có thể là nhóm sản phẩm (nếu sản xuất nhiều loại sản phẩm cùng tiến hành trong một quá trình lao động)
- Đối tượng tính giá thành ở đây là sản phẩm cuối cùng.
+ Với sản xuất phức tạp :
- Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm.
- Đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hay thành phẩm ở từng bước chế tạo.
Loại hình sản xuất:
+ Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất nhỏ hàng loạt :
- Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là các đơn đặt hàng riêng biệt.
- Đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn đặt hàng .
+ Với sản xuất hàng loạt và sản xuất với khối lượng lớn, phụ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất (đơn giản hay phức tạp).
- Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ.
- Đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm.
Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh :
Dựa trên cơ sở trình độ, yêu cầu và tổ chức quản lý để xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành. Với trình độ cao có thể chi tiết đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành ở các góc độ khác nhau. Ngược lại, nếu trình độ thấp thì đối tượng đó có thể bị hạn chế và thu hẹp lại .
Mặc dù có sự giống và khác như vậy nhưng đối tượng tính giá thành và đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau xuất thân từ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Mối quan hệ đó thể hiện ở việc sử dụng số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp được để xác định giá trị chuyển dịch của các yếu tố chi phí sản xuất và các đối tượng tính giá thành. Mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành gồm ba dạng sau:
+ Một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với một đối tượng tính giá thành
+ Một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với nhiều đối tượng tính giá thành
+ Nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với một đối tượng tính giá thành
Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là vấn đề có ý nghĩa to lớn, mang tính định hướng cho tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Đồng thời thể hiện được mục đích và phạm vi tiến hành hai giai đoạn của công tác kế toán nêu trên.
III - Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành sản phẩm dịch vụ
1. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất :
Khái niệm, Nội dung các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất :
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của từng đối tượng hạch toán chi phí
Nội dung chủ yếu của các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là kế toán mở thẻ (hoặc sổ ) chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh các chi phí đã phát sinh có liên quan đến đối tượng, hàng tháng tổng hợp chi phí theo từng đối tượng. Mỗi phương pháp hạch toán chi phí ứng với một loại đối tượng hạch toán chi phí nên tên gọi của phương pháp này biểu hiện đối tượng mà nó cần tập hợp và phân loại chi phí .Vì thế, trong thực tế thường áp dụng các phương pháp hạch toán chi phí sau:
Phương pháp hạch toán chi phí theo chi tiết hoặc theo bộ phận sản phẩm :
Theo phương pháp này các chi phí sản xuất được tập hợp và phân loại theo từng chi tiét hoặc bộ phận sản phẩm. Khi áp dụng phương pháp này thì giá thành được áp dụng bằng tổng cộng số chi phí của các chi tiết bộ phận cấu thành sản phẩm .Phương pháp này khá phức tạp chỉ áp dụng hạn chế ở các Doanh nghiệp chuyên môn hoá sản xuất cao, sản xuất được ít loại sản phẩm hoặc mang tính chất đơn chiếc, có ít chi tiết và bộ phận cấu thành sản phẩm .
Phương pháp hạch toán chi phí theo sản phẩm :
Theo phương pháp này các chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp và phân loại theo từng thứ tự sản phẩm riêng biệt không phụ thuộc vào tính chất phức tạp của sản phẩm và quy trình công nghệ sản xuất. Nếu quá trình chế biến sản phẩm phải trải qua nhiều phân xưởng khác nhau thì các chi phí được tập hợp theo từng phân xưởng trong đó có các chi phí trực tiếp được phân loại theo từng sản phẩm, các chi phí sản xuất chung được phân bổ cho từng sản phẩm theo các tiêu chuẩn phù hợp. Khi áp dụng phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo sản phẩm thì giá thành sản phẩm được xác định bằng phương pháp trực tiếp hoặc bằng phương pháp tổng cộng chi phí .Phương pháp này được áp dụng rộng rãi ở các Doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất hàng loạt và khối lượng lớn như xí nghiệp Dệt, xí nghiệp khai thác khoáng sản...
Phương pháp hạch toán chi phí theo nhóm sản phẩm :
Theo phương pháp này các chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp và phân loại theo nhóm sản phẩm cùng loại. Khi áp dụng phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm thì giá thành sản phẩm được xác định bằng phương pháp hỗn hợp sử dụng đồng thời một số phương pháp như : Phương pháp trực tiếp, phương pháp hệ số, phương pháp tỷ lệ .Phương pháp này được áp dụng rộng rãi ở các Doanh nghiệp sản xuất nhiều chủng loại sản phẩm có quy cách khác nhau như Doanh nghiệp đóng tàu, may mặc
Phương pháp hạch toán chi phí theo đơn đặt hàng :
Các chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp và phân loại theo thứ tự sản phẩm riêng biệt, không phụ thuộc vào tính chất phức tạp của sản phẩm và quy trình công nghệ sản xuất. Khi đơn đặt hàng hoàn thành thì tổng số chi phí tập hợp theo đơn đặt hàng là giá thành thực tế của sản phẩm, khối lượng công việc hoàn thành theo đơn đặt hàng. Phương pháp này được áp dụng rộng rãi ở các Doanh nghiệp sản xuất đơn chiếc như Doanh nghiệp cơ khí, sửa chữa...
Phương pháp hạch toán chi phí theo giai đoạn công nghệ:
Theo phương pháp này các chi phí phát sinh được tập hợp và phân loại theo từng giai đoạn công nghệ, từng loại sản phẩm và bán sản phẩm. Phương pháp này áp dụng ở xí nghiệp mà toàn bộ công nghệ sản xuất được qua nhiều giai đoạn công nghệ và nguyên vật liệu chính được chế biến một cách liên tục từ giai đoạn đầu đến giai đoạn cuối theo một trình tự nhất định .
Phương pháp hạch toán chi phí theo đơn vị sản xuất :
Theo phương pháp này, chi phí phát sinh được tập hợp theo từng đơn vị sản xuất (phân xưởng, tổ đội...) trong mỗi đơn vị sản xuất các chi phí lại được tập hợp theo đối tượng chịu chi phí chi tiết sản phẩm, nhóm sản phẩm .
Phương pháp hạch toán chi phí theo định mức :
Phương pháp này áp dụng ở những Doanh nghiệp đã xây dựng được một hệ thống định mức từng loại sản phẩm trong chi phí cho quá trình sản xuất kinh doanh một cách khoa học, hợp lý được thực tiễn kiểm nghiệm nhiều lần .Các khoản chi thực tế phát sinh sẽ được phân loại theo chi phí định mức và được tập hợp vào các TK chi tiết tương ứng.
Phương pháp hạch toán chi phí theo nội dung kinh tế :Theo phương pháp này các TK chi phí của Doanh nghiệp được mở theo từng yếu tố .
Phương pháp liên hợp : Sử dụng đồng thời 2 hay nhiều phương pháp khác nhau để tập chi phí sản xuất.
Vận dụng các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất để tập hợp chi phí sản xuất cơ bản,chi phí sản xuất chung :
Chi phí cơ bản là những chi phí sản xuất thuộc các yếu tố cơ bản của sản xuất, có mối quan hệ trực tiếp đến sản phẩm sản xuất trong kỳ .Chi phí cơ bản ở các Doanh nghiệp gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp dùng vào quá trình sản xuất.
Đối với chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí thì được tập hợp trực tiếp cho đối tượng chi phí đó. Những chi phí cơ bản liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí thì vận dụng phương pháp tập hợp gián tiếp rồi phân bổ. Trên thực tế, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp ít liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí .
Chi phí sản xuất chung là những chi phí quản lý phân xưởng, khấu hao TSCĐ và các chi phí khác liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí. Những chi phí này khi phát sinh sẽ hạch toán vào các khoản mục chi phí theo từng yếu tố cụ thể. Cuối kỳ để tập hợp chi phí theo từng đối tượng cụ thể thì phải tiến hành phân bổ cho từng đối tượng tập hợp chi phí theo từng tiêu thức phù hợp.Việc tính toán phân bổ các chi phí gồm 2 bước là : Tính hệ số phân bổ và tính chi phí phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí .
Phương pháp tính giá thành sản phẩm, dịch vụ :
Khái niệm, Nội dung các phương pháp tính giá thành :
Phương pháp tính giá thành là một phương pháp hoặc hệ thống phương pháp được sử dụng để tính giá thành của đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành .Việc tính giá thành sản phẩm trong từng Doanh nghiệp cụ thể, tuỳ thuộc vào đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành mà có thể áp dụng một trong các phương pháp nói trên hoặc áp dụng kết hợp một số phương pháp với nhau .Những phương pháp thường được áp dụng là :
Phương pháp trực tiếp : Phương pháp này áp dụng trong các Doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm dở dang không có hoặc có rất ít .
Giá trị sản
Giá thành Giá trị sản phẩm dở Chi phí sản xuất phẩm dở
đơn vị dang đầu kỳ + trong kỳ - dang cuối kỳ
Sản phẩm =
Số lượng sản phẩm hoàn thành trong kỳ
Phương pháp tổng cộng chi phí : Thường áp dụng với Doanh nghiệp mà quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các bộ phận, chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất .Giá thành sản phẩm được xác định bằng tổng cộng chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí của giai đoạn bộ phận sản xuất tạo nên sản phẩm
Giá thành thành phẩm =Z1 + Z2+ .......... + Zn
Phương pháp tổng cộng chi phí được áp dụng phổ biến trong các Doanh nghiệp khai thác, dệt, nhuộm, cơ khí chế tạo, may mặc ...
Phương pháp hệ số : áp dụng trong các Doanh nghiệp mà trong cùng một quy trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm được mà phải tập hợp chung cho cả quá trình sản xuất. Theo phương pháp này, trước hết kế toán căn cứ vào hệ số quy định, quy đổi các loại sản phẩm về sản phẩm gốc rồi từ đó dựa vào tổng số chi phí liên quan đến giá thành các loại sản phẩm đã tập hợp để tính ra giá thành sản phẩm gốc và giá thành từng loại sản phẩm .
Giá thành Tổng giá thành sản xuất của các loại sản phẩm
đơn vị =
Sản phẩm gốc Tổng số sản phẩm gốc quy đổi
Giá thành đơn vị Giá thành đơn vị Hệ số quy đổi
Sản phẩm từng loại = Sản phẩm gốc x Sản phẩm từng loại
Trong đó :
Sản lượng sản Số lượng sản Hệ số quy đổi
phẩm quy đổi = ồ phẩm loại i x sản phẩm loại i
Tổng giá thành Giá trị sản Tổng chi phí sản Giá trị sản
sản xuất của các = phẩm dở dang + xuất phát sinh - phẩm dở
loại sản phẩm đầu kỳ trong kỳ dang
cuối kỳ
Phương pháp tỷ lệ : áp dụng thích hợp trong Doanh nghiệp có cùng quy trình công nghệ sản xuất, kết quả sản xuất là một nhóm sản phẩm cùng loại với những chủng loại, phẩm cấp, quy cách khác nhau .Căn cứ vào tỷ lệ chi phí giữa chi phí sản xuất thực tế và chi phí sản xuất kế hoạch (hoặc định mức ), kế toán sẽ tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành sản phẩm từng loại .
Giá thành thực tế Giá thành kế hoạch (hoặc Tỷ lệ chi phí thực tế
đơn vị sản phẩm = định mức) đơn vị sản phẩm x so với chi phí kế
từng loại từng loại thực tế hoạch (hoặc định mức)
Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ : Đối với các Doanh nghiệp mà trong cùng quy trình sản xuất bên cạch sản phẩm chính thu được sản phẩm phụ, để tính giá thành sản phẩm chính phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ khỏi tổng chi phí sản xuất theo các phương pháp như giá kế hoạch, giá ước tính ...
Tổng giá Giá trị sản Tổng chi phí Giá trị Giá trị sản
thành
Sản phẩm = phẩm chính dở + sản xuất phát - sản phẩm phụ - phẩm
Chính chính dở
dang đầu kỳ sinh trong kỳ thu hồi dang cuối kỳ
Phương pháp liên hợp : Là phương pháp áp dụng trong những Doanh nghiệp có tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau. Trên thực tế, kế toán có thể kết hợp phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ, hệ số với loại trừ giá trị sản phẩm phụ v..v...
Vận dụng các phương pháp tính giá thành sản phẩm, dịch vụ trong một số loại hình Doanh nghiệp chủ yếu :
Doanh nghiệp sản xuất giản đơn : áp dụng trong các Doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất giản đơn sản xuất một hoặc một số ít hàng với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm dở dang không có hoặc có không đáng kể. Đối tượng tập hợp chi phí được xác định toàn bộ quy trình công nghệ và đối tượng tính giá thành có thể là một loại sản phẩm hoặc từng nhóm sản phẩm tương tự. Kỳ tính giá thành xác định theo kỳ Báo cáo .
Doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng : Thường áp dụng ở những Doanh nghiệp mà sản xuất sản phẩm ra được thiết kế và tiêu thụ theo từng đơn đặt hàng kỳ sau thường không lặp lại y nguyên .Chi phí sản xuất có thể tập hợp theo từng phân xưởng (nếu có nhiều phân xưởng) nhưng phải chi tiết theo từng đơn đặt hàng. Đối tượng tính giá thành là sản phẩm theo từng đơn đặt hàng. Kỳ tính giá thành được xác định theo chu kỳ sản xuất, kết thúc sản xuất một đơn đặt hàng nào đó mới tính giá thành .
Doanh nghiệp áp dụng hệ thống hạch toán định mức : Trên cơ sở hệ thống định mức tiêu hao lao động, vật tư hiện hành và dự toán và chi phí sản xuất chung, kế toán sẽ xác định giá thành định mức của từng loại sản phẩm. Giá thành thực tế của sản phẩm được xác định dựa trên cơ sở của giá thành định mức và Phần sai lệch giữa chi phí thực tế và chi phí định mức .
Giá thành thực tế Giá thành định + Chênh lệch do +
Chênh lệch so
của sản phẩm = mức sản phẩm - thay đổi định mức -
với định mức
Doanh nghiệp sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến liên tục:
Trong các Doanh nghiệp sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến liên tục, quy trình công nghệ phức tạp, sản xuất phải trải qua từng giai đoạn chế biến. Kết quả sản xuất của giai đoạn trước là đối tượng chế biến của giai đoạn sau. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất được xãc định theo từng giai đoạn công nghệ (theo từng phân xưởng) sản phẩm được sản xuất thường xuyên liên tục với khối lượng lớn. Kỳ tính giá thành được tính theo kỳ Báo cáo .Phương pháp tính giá thành thường là phương pháp trực tiếp kết hợp phương pháp tổng cộng chi phí hay phương pháp hệ số (hoặc tỷ lệ).
Tuỳ theo tính chất hàng hoá của bán thành phẩm và yêu cầu công tác quản lý .Chi phí sản xuất có thể được tập hợp theo phương án có bán thành phẩm và phương án không có bán thành phẩm:
+ Tính giá thành phân bước theo phương án hạch toán có bán thành phẩm :
Phương án hạch toán này thường được áp dụng ở các Doanh nghiệp có yêu cầu hạch toán kinh tế nội bộ cao hoặc bán thành phẩm ở các bước có thể dùng làm thành phẩm bán ra ngoài. Đặc điểm của phương án này là khi tập hợp chi phí sản xuất của các giai đoạn công nghệ, giá trị bán thành phẩm của bước trước chuyển sang tính theo giá thực tế và được phản ánh theo khoản mục chi phí và gọi là kết chuyển tuần tự.Trình tự tập hợp chi phí như sau :
Chi phí NVL chính
Chi phí chế biến B1
Giá trị SPDD B1
Giá thành bán TP B1
Chi phí chế biến B2
Giá trị SPDD B2
Giá thành bán TP B2
Chi phí chế biến B3
Giá trị SPDD B3
Giá thành bán TP B(n-1)
Chi phí chế biến Bn
Giá trị SPDD Bn
ồ Z sp
+ + - - + =
- - = = + +
=...= = + + - + - -
=
+ Tính giá thành phân bước theo phương án không có bán thành phẩm :
Trong những Doanh nghiệp mà yêu cầu hạch toán kinh tế nội bộ không cao hoặc bán thành phẩm chế biến ở từng bước không bán ra ngoài thì chi phí chế biến phát sinh trong các giai đoạn công nghệ được tính nhập vào giá thành thành phẩm một cách song song nên còn gọi là kết chuyển song song . Theo phương án này kế toán không cần tính giá thành bán thành phẩm trong từng giai đoạn mà chỉ tính giá trị sản phẩm bàng cách tổng hợp các chi phí sản xuất trong các giai đoạn công nghệ. Có thể phản ánh qua sơ đồ sau :
Chi phí NVL Chính tính cho Thành phẩm
Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành
Chi phí chế biến B1tính cho thành phẩm
Chi phí chế biến B2 tính cho thành phảm
................................
Chi phí chế biến Bn tính cho thành phẩm
Doanh nghiệp có tổ chức bộ phận sản xuất kinh doanh phụ :
Sản xuất phụ là ngành được tổ chức ra để phục vụ cho sản xuất kinh doanh chính. Sản phẩm lao vụ của sản xuất phụ được sử dụng cho các nhu cầu của sản xuất kinh doanh chính, Phần còn lại có thể cung cấp ra cho bên ngoài .
Phương pháp tính giá thành sản phẩm, lao vụ của sản xuất, kinh doanh phụ tuỳ thuộc vào đặc điểm công nghệ và mối quan hệ giữa các bộ phận sản xuất phụ trong Doanh nghiệp, cụ thể:
+ Trường hợp không có sự phục vụ lẫn nhau giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh phụ hoặc giá trị và khối lượng phục vụ không đáng kể : Chi phí sản xuất sẽ được tập hợp riêng theo từng bộ phận ,từng hoạt động. Giá thành sản phẩm lao vụ của từng bộ phận sẽ được tính theo phương pháp trực tiếp .
+ Trường hợp có sự phục vụ lẫn nhau đáng kể giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh phụ : Kế toán có thể áp dụng các phương pháp như :phương pháp phân bổ một lần, phương pháp đại số, hoặc phương pháp kinh nghiệm để xác định giá trị phục vụ trong thực tế . Trong thực tế thì phương pháp phân bổ lẫn nhau một lần sử dụng là phổ biến (nó gồm phương pháp phân bổ lẫn nhau một lần theo giá thành kế hoạch và theo giá thành ban đầu ).
IV - Nội dung hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, dịch vụ
Nguyên tắc hạch toán chi phí vào giá thành sản phẩm :
Theo chế độ quy định về hạch toán hiện nay chỉ tính vào giá thành sản phẩm dịch vụ chỉ hạch toán những khoản chi phí cơ bản trực tiếp (chi phí NVL trực tiếp, chi phí N C trực tiếp ) và chi phí sản xuất chung (chi phí quản lý phan xưởng, khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài...).
Còn chi phí QLDN và chi phí BH được hạch toàn vào giá thành thực tế của sản phẩm bán ra. Thực chất đối với Doanh nghiệp sản xuất, chi phí QLDN và chi phí BH cũng là chi phí sản xuất song về kỹ thuật tính toán thì theo nguyên tắc thạn trọng trong kế toán, nó được tính cho sản phẩm, dịch vụ bán ra. Điều này cũng không có gì mâu thuẫn với bản chất của giá thành bởi vì đến khâu cuối cùng của quá trình kinh doanh của Doanh nghiệp (là khâu bán hàng) Giá thành sản phẩm dịch vụ được bảo đảm chứa đựng chi phí Doanh nghiệp chi ra cần bù đắp.
Những khoản chi phí khác như : Chi phí đầu tư, chi cho hoạt động taì chính, chi các khoản bất thường ... Thì các khoản chi đã có nguồn bù đắp riêng thì không hạch toán vào chi phí sản xuất và tất nhiên là không tính vào giá thành sản phẩm .
Việc xác định nguyên tắc hạch toán chi phí vào giá thành sản phẩm dịch vụ có ý nghĩa rất lớn trong việc tính đúng, tính đủ và hợp lý chi phí vào giá thành sản phẩm của Doanh nghiệp, đảm bảo tính nhất quán và các nguyên tắc kế toán trong kế toán chi phí.
Tổ chức hệ thống chứng từ, hệ thống sổ sách để hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp :
Chứng từ gốc liên quan đến các chi phí phát sinh là những chứng từ về các yếu tố chi phí như: Vật tư (phiếu xuất kho) tiền lương(Bảng phân bổ tiền lương ,BHXH, BHYT<KPCĐ) khấu hao TSCĐ (Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ) tiền mặt (phiếu chi ) tiền gửi ngân hàng (giấy báo nợ hoặc bảng sao kê ).
Sổ kế toán áp dụng để ghi chép, tập hợp chi phí sản xuất gồm hai hệ thống sổ:
+ Hệ thống sổ kế toán phục vụ cho kế toán tài chính (sổ kế toán tổng hợp ). Tuỳ theo hình thức kế toán mà Doanh nghiệp áp dụng để có sổ kế toán khác nhau . Nhưng ở mỗi hình thức kế toán cũng chung ở sổ cái tài khoản tổng hợp, mỗi tài khoản kế toán tổng hợp được mở một sổ cái. Mặc dù các Doanh nghiệp sử dụng các loại sổ sách khác nhau theo từng hình thức thì các loại sổ cũng đều phải cung cấp các thông tin, chỉ tiêu để lập báo cáo tài chính về chi phí, về giá thành.
+ Hệ thống sổ kế toán phục vụ cho kế toán quản trị (kế toán phân tích). Tuỳ theo yêu cầu quản lý cụ thể và đối tượng tập hợp chi phí của Doanh nghiệp để xác định mà kế toán chi phí mở các sổ kế toán chi tiết để tập hợp chi phí theo đối tựợng tập hợp chi phí. Mẫu sổ chi tiết tuỳ theo từng Doanh nghiệp thiết kế .
Chi phí sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp bao gồm nhiều loại với tính chất và nội dung khác nhau. Việc tập hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý, khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác kịp thời được. Trình tự này phu thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành nghề, từng Doanh nghiệp ,vào mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp ,vào trình đọ công tác quản lý hạch toán...Tuy nhiên có thể khái quát chung việc tập hợp chi phí sản xuất qua các bước sau :
- Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử dụng .
- Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của các ngành sản xuất kinh doanh phụ cho từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ .
- Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các loại sản phẩm có liên quan .
- Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ, tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm .
Tuỳ theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho áp dụng trong Doanh nghiệp mà nội dung và cách thức hạch toán chi phí sản xuất có những điểm khác nhau .
A - hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên :
Phương pháp kê khai thường xuyên (KKTX) là phương pháp theo dõi tình hình hiện có ,biến động tăng giảm vật tư hàng hoá một cách liên tục trên sổ sách. áp dụng phương pháp này có ưu điểm là : Chính xác và có thể cho thông tin bất cứ lúc nào về tình hình nhập, xuất, tồn vật tư hàng hoá và tình hình biến động tăng giảm chi phí sản xuất, hàng hoá, tình hình chênh lệch thiếu hụt ... và kịp thời có biện pháp xử lý .
Hạch toán chi phí Nguyên vật liệu trực tiếp (NVLTT) :
Khái niệm : Chi phí NVLTT bao gồm giá trị NVL chính, NVL phụ, nhiên liệu ... được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất hoặc sản phẩm ...) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tập hợp chi phí riêng được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan. Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, trọng lượng ... Công thức phân bổ như sau:
Chi phí vật liệu phân Tổng tiêu thức phân bổ Tỷ lệ (Hệ số)
bổ cho từng đối tượng = của từng đối tượng x phân bổ
Hệ số = Tổng chi phí vật liệu cần phân bổ
Phân bổ Tổng tiêu thức phân bổ
Tài khoản sử dụng:
Để theo dõi các khoản chi phí vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng TK 621 - Chi phí NVLTT .TK này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất...).
Bên Nợ : Giá trị NVL xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm
Bên Có : -Giá trị vật liệu xuất dùng không hết
-Kết chuyển chi phí vật liệu trực tiếp
TK 621 cuối kỳ không có số dư.
Phương pháp hạch toán cụ thể :
Cách hạch toán có thể được phản ánh qua sơ đồ sau:
Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí Vật liệu trực tiếp
TK151,152,111,112
331,311,338...... TK621 TK154
Vật liệu dùng trực tiếp Kết chuyển chi phí vật liệu
Chế tạo sản phẩm, tiến hành trực tiếp theo từng đối tượng
Lao vụ, dịch vụ để tính giá thành
TK133 TK152
Thuế GTGT được Vật liệu dùng không
Khấu trừ (nếu có) hết mhập lại kho
Chứng từ và sổ sách kế toán :
Trước hết từ Bảng kê số 3 (Bảng tính giá trị thực tế vật liệu và công cụ dụng cụ) kế toán vào Bảng phân bổ số 2 (Bảng phân bổ NVL, công cụ dụng cụ) .Sau khi vào bảng phân bổ số 2, kế toán vào tiếp Bảng kê số 4 (Tập hợp chi phí sản xuất theo phân xưởng). Từ đó kế toán vào NKCT số 7 và vào sổ cái TK 621 .
Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp (NCTT) :
Khái niệm : Chi phí NCTT là những khoản tiền phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất s._.xuất của Xí nghiệp). Nên trả lương theo ngày công sản xuất thực tế .
+ Lương cho nhân viên phân xưởng được trả theo lương của bộ phận gián tiếp thì không kích thích được sự đôn đốc, quản lý, kiểm tra theo dõi được sát sao của Quản đốc đối với phân xưởng mình chịu trách nhiệm theo dõi. Nên trả lương theo sản phẩm thì mới kích thích họ được.
+ Phần lương tập hợp cho chi phí sản xuất chung (TK 627) của Xí nghiệp được tập hợp lại và phân bổ cho vào chi phí sản xuất cho từng phân xưởng theo tiêu thức phù hợp. Nhưng phần chi phí chung này không bao gồm chi phí trích BHXH, BHYT và KPCĐ từ lương của nhân viên phục vụ phân xưởng.
+ Máy móc thiết bị của Xí nghiệp chủ yếu là cũ và lạc hậu nên luôn luôn Xí nghiệp phải chi ra những khoản chi phí để sửa chữa theo định kỳ
Xí nghiệp nên dùng TK 335 để tập hợp các khoản chi phí đã được dự toán trước chứ không nên để cuối kỳ phát sinh ra thì mới tập hợp và phân bổ hết cho cả quý và để đảm bảo nguyên tắc chính xác và nguyên tắc thận trọng trong kế toán .
+ Kỳ tính giá thành sản phẩm, kỳ tập hợp chi phí sản xuất theo định kỳ là quý
Giá xuất NVL được Xí nghiệp tính theo phương pháp bình quân gia quyền (bình quân cả kỳ dự trữ) cho nên cuối quý mới tính được giá xuất nguyên vật liệu, mới biết được các khoản chi phí phát sinh trong kỳ, cuối quý mới biết được giá thành đơn vị của sản phẩm. Việc cung cấp thông tin cho Giám đốc Xí nghiệp không kịp thời được theo yêu cầu của quản lý kinh tế. Nên thay kỳ hạch toán bằng tháng thì tốt hơn.
+ Mặc dù Xí nghiệp có Báo cáo kế toán tài chính được lập theo đúng định kỳ nhưng Xí nghiệp vẫn thiếu 1 trong 4 Báo cáo kế toán quan trọng nhất đó là Báo cáo lưu chuyển tiền tệ .
III – Hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội
Qua nghiên cứu thực trạng công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Xí nghiệp Gỗ Hà nội. Phân tích ưu điểm, nhược điểm dựa vào lý luận chung và tiến hành đối chiếu với Xí nghiệp, em xin mạnh dạn đưa ra một vài ý kiến góp phần hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm để Xí nghiệp tham khảo như sau:
ý kiến 1 :
Xí nghiệp Gỗ Hà nội từ khi hình thành, tồn tại và phát triển cho tới tận ngày hôm nay, đã phải trải qua nhiều bước biến chuyển thăng trầm của lịch sử, có lúc thuận lợi và cũng có lúc gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Cho đến bây giờ, Xí nghiệp đã và đang tồn tại và phát triển theo thời gian, điều đó chứng tỏ Xí nghiệp Gỗ Hà nội đã thực hiện đúng đắn Quy định và chế độ của Nhà nước ban hành, đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào sức mạnh của một nền kinh tế quốc dân của cả nước .
Những gì tốt đẹp và đúng đắn đã làm được của Xí nghiệp thì Xí nghiệp nên cố gắng duy trì nó.
Hiện tại, Xí nghiệp phân loại chi phí sản xuất theo nội dung kinh tế là rất phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình. Theo cách thức phân loại này, cho ta thấy được tỷ lệ từng loại chi phí theo nội dung kinh tế của nó ; vì sản phẩm của Xí nghiệp là các mặt hàng đồ mộc, cho nên tỷ trọng chi phí về nguyên vật liệu là rất đáng kể trong tổng chi phí sản xuất của Xí nghiệp để từ đó có biện pháp thích hợp để tiết kiệm chi phí sản xuất cho Xí nghiệp.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là theo từng phân xưởng và cụ thể là theo từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm. Còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm hoàn thành ở giai đoạn công nghệ cuối cùng là hoàn toàn hợp lý và khoa học, phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất của Xí nghiệp.
Sổ sách của kế toán là tương đối đầy đủ và đúng đắn theo quy định của Bộ tài chính ban hành. Kế toán viên trong phòng kế toán được đào tạo và kinh nghiệm lâu năm trong nghề, độc lập thực hiện từng nhiệm vụ trong từng phần hành kế toán của mình ; đồng thời kết hợp với các bộ phận khác trong phòng kế toán, tạo nên một hệ thống kế toán hoạt động có hiệu quả.
Hình thức trả lương theo số giờ công sản xuất thực tế của người công nhân . Trả lương theo hình thức này sẽ khuyến khích người lao động trong sản xuất, nâng cao được trách nhiệm của công nhân đối với sản phẩm của mình làm ra.
Xí nghiệp có sáng kiến khi xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm là theo lô, mẻ, đơn đặt hàng sản xuất sản phẩm ngoài các sản phẩm hoàn thành. Nó thể hiện sự hợp lý trong công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Xí nghiệp có bộ máy kế toán đơn giản và gọn nhẹ .
Xí nghiệp có bộ máy quản lý kinh tế tương đối hoàn chỉnh nhưng gọn nhẹ, trong đó tốt hơn cả là bộ máy kế toán tài chính của Xí nghiệp, việc phân công trách nhiệm giữa những người trong bộ máy kế toán rất rõ ràng, theo từng phần hành cụ thể và riêng biệt, không có sự chồng chéo quyền hạn và chức năng giữa các kế toán viên, giúp cho bộ máy kế toán của Xí nghiệp hoạt động có hiệu quả và cung cấp thông tin kế toán cho Giám đốc được chính xác và kịp thời.
Trên đây là những gì Xí nghiệp đã làm được. Để đảm bảo cho bộ máy quản lý kinh tế nói chung và bộ máy kế toán nói riêng phát huy được khả năng cuả mình thì Xí nghiệp Gỗ Hà nội phải tăng cường củng cố và hoàn thiện hơn nữa những ưu điểm của mình. Có làm được như vậy thì sự tồn tại và phát triển của Xí nghiệp được bảo đảm một cách chắc chắn hơn.
ý kiến 2 :
Kỳ tính giá thành sản phẩm của Xí nghiệp Gỗ Hà nội được tổ chức tính giá thành sản phẩm theo quý (3 tháng mới tổng hợp số liệu để tính giá thành). Trong điềukiện nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt thì kỳ tính giá thành này là không phù hợp vì như ta đã biết bản chất của kế toán là đưa ra những thông tin kinh tế chính xác, nhanh chóng và kịp thời để giúp những người có trách nhiệm đưa ra được các quyết định về hoạt động sản xuất kinh doanh. Những thông tin kinh tế (mà đặc biệt là thông tin về kế toán, về tình hình chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm) giúp cho Doanh nghiệp tổ chức tình hình sản xuất phù hợp, liên tục thực hiện biện pháp hạ giá thành có hiệu quả, góp phần vào việc tăng lợi nhuận, đẩy mạnh quy mô sản xuất – kinh doanh.
Giá thành được tính vào cuối quý nên sang đầu quý sau Ban giám đốc có thể chưa có những thông tin cần thiết để ra Quyết định chính xác nên ảnh hưởng đến tình hình sản xuất chung của toàn Xí nghiệp.
Theo em, việc tính giá thành nên theo từng tháng một để số liệu được đưa ra kịp thời, nhanh chóng góp phần đẩy mạnh sản xuất chung, hoà nhịp với sự phát triển nhanh chóng của thị trường cạnh tranh tự do.
Khi mà kỳ tính giá thành sản phẩm được thay đổi từ quý thành tháng thì kỳ hạch toán tập hợp chi phí sản xuất của Xí nghiệp cũng phải thay đổi từ quý thành tháng theo để có sự phù hợp giữa các số liệu, vì quá trình tập hợp chi phí sản xuất có mối liên hệ rất mật thiết với quá trình tính giá thành sản phẩm, nó là cơ sở tiền đề cho quá trình tính giá thành sản phẩm của Xí nghiệp. Hay nói cách khác là kỳ hạch toán kế toán tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội nên thay đổi từ quý thành tháng là một việc làm hợp lý nhất. Nó không những tính toán và cung cấp thông tin kế toán một cách kịp thời mà còn vấn đề theo dõi tình hình xuất nguyên vật liệu của Xí nghiệp được nhanh chóng (vì Xí nghiệp Gỗ Hà nội hiện tại đang tính theo phương pháp bình quân gia quyền đối với các nguyên vật liệu xuất kho; Nếu Xí nghiệp hạch toán theo quý thì đến cuối quý mới tính được giá xuất nguyên vật liệu, cuối quý mới mới biết được chi phí phát sinh trong kỳ, cuối quý mới biết được giá thành đơn vị sản phẩm trong kỳ. Một năm trời mới có 4 lần cung cấp thông tin kế toán tổng hợp cho Giám đốc biết nhưng nếu theo tháng thì một năm sẽ có 12 lần cung cấp thông tin kế toán tổng hợp cho Giám đốc, để giám đốc cập nhật được thông tin kịp thời và thích ứng được với nền kinh tế thị trường luôn luôn biến động).
ý kiến 3 :
Trong phần thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Xí nghiệp, ta thấy Xí nghiệp đã không hạch toán khoản mục chi phí do thiệt hại trong sản xuất . Những chi phí về thiệt hại trong sản xuất thực chất đã được tính vào chi phí sản phẩm của Xí nghiệp. Hạch toán chi phí về thiệt hại sản phẩm hỏng và ngừng sản xuất sẽ góp phần phản ánh chính xác giá thành sản phẩm.
Đối với các khoản thiệt hại về sản phẩm hỏng :
Sản phẩm của Xí nghiệp có 2 loại là : Sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được thành thành phẩm và sản phẩm hỏng không sửa chữa được.
Với sản phẩm hỏng sửa chữa được thì để sản phẩm hỏng trở thành thành phẩm, Xí nghiệp phải tốn thêm một khoản chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng. Trình tự tập hợp và phân bổ chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng theo từng nguyên nhân được hạch toán như sau :
TK152,153,334 TK142 TK 338
Bồi thường
TK821
Tập hợp chi phí Chi phí bất thường
Sửa chữa sản phẩm hỏng TK627
Tính vào chi phí SXC
Với sản phẩm hỏng không sửa chữa được thì sản phẩm đó coi như bị loại bỏ. Phần thiệt hại từ những sản phẩm hỏng bị loại bỏ này sẽ được xử lý theo từng nguyên nhân và được thể hiện qua sơ đồ sau :
TK111,112,152 TK154 TK138
Giá trị phế liệu thu hồi
TK334
Bồi thường
Giá trị sản phẩm hỏng
Không sửa chữa được TK821
Tính vào chi phí bất thường
TK627
Tính vào chi phí SXC
Đối với các khoản thiệt hại về ngừng sản xuất :
TSCĐ của Xí nghiệp chủ yếu là máy móc thiết bị và nhà xưởng cũ, sử dụng lâu năm rồi cho nên cần phải thường xuyên gia cố và sửa chữa để còn sử dụng được nữa. Khi tiến hành sửa chữa TSCĐ thì quá trình sản xuất của Xí nghiệp tạm ngừng và Xí nghiệp phải bỏ ra những khoản chi phí để sửa chữa, khoản này được gọi là thiệt hại về ngừng sản xuất.
Chi phí sửa chữa lớn TSCĐ của Xí nghiệp Gỗ Hà nội do phân xưởng Cơ điện đảm trách và thường Xí nghiệp có kế hoạch về sửa chữa lớn TSCĐ. Cho nên, các khoản chi phí này của Xí nghiệp nên hạch toán vào TK335 –Chi phí phải trả, chứ không nên hạch toán vào TK 631.1 như Xí nghiệp đang làm hiện nay, đảm bảo nguyên tắc thận trọng trong kế toán.
Quá trình hạch toán thiệt hại về ngừng sản xuất có thể được thể hiện qua sơ đồ sau:
TK334,338,111,152 TK335 TK627,642
Trích trước chi phí về ngừng
Chi phí thực tế về ngừng sản xuất theo kế hoạch(1)
sản xuất trong kế hoạch(2) Tiến hành trích bổ sung(3)
Ghi giảm chi phí(4)
ý kiến 4 :
Bảng phân bổ số 3 “Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ” của Xí nghiệp tự tạo ra mẫu không theo quy định của Nhà nước. Theo bảng này (do Xí nghiệp tự làm mẫu) không cho biết được tình hình tăng giảm TSCĐ, tỷ lệ từng loại khấu hao TSCĐ, nguyên giá TSCĐ, số khấu hao đã trích trong tháng trước, số khấu tăng giảm trong tháng. Cho nên để thực hiện theo đúng quy định của chế độ kế toán ban hành và cũng tăng cường công tác quản lý Xí nghiệp nên áp dụng biểu mẫu Bảng kê số 3 “Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ” do Bộ tài chính ban hành. Biểu mẫu này có ở trong Quyển “ Hệ thống kế toán Doanh nghiệp do Vụ chế độ kế toán ban hành. Vì biểu mẫu này phản ánh tất cả những nội dung kế toán mà Xí nghiệp chưa phản ánh trong biểu mẫu của mình.
Mặt khác, Xí nghiệp đã chia TSCĐ thành 2 loại là Nhà xưởng và Máy móc thiết bị, tỷ lệ khấu hao cơ bản tương ứng của 2 loại này là 8% và 6%. Nhưng Xí nghiệp đã gộp cả Nhà xưởng và Máy móc thiết bị ở trong “Bảng tính khấu hao cơ bản” ở phân xưởng Cơ điện, bộ phận Đời sống, bộ phận XDCB, bộ phận kinh doanh dịch vụ. Để thấy được tình hình sử dụng TSCĐ của từng loại TSCĐ ở từng phân xưởng sản xuất thì kế toán nên sử dụng biểu mẫu Bảng phân bổ số 3 do Bộ tài chính quy định và ghi vào bảng này chi tiết cho từng loại TSCĐ ở từng phân xưởng.
ý kiến 5 :
Với các khoản trích theo lương . Xí nghiệp Gỗ Hà nội cũng tiến hành trích trên cơ sở là tiền lương phải trả sau khi đã tính được nhưng Xí nghiệp chỉ trích BHXH và KPCĐ mà Xí nghiệp không trích BHYT trên quỹ lương phải trả. Điều này là sai với chế độ kế toán, cho nên Xí nghiệp phải trích thêm cả khoản BHYT nữa cho CBCNV của Xí nghiệp.
Mặc dù Xí nghiệp đã trích BHXH và KPCĐ nhưng các khoản trích theo lương này không đúng tỷ lệ theo chế độ kế toán hiện hành là 15% (BHXH) và 2% (KPCĐ).
Vậy : Để kế toán của Xí nghiệp Gỗ Hà nội hạch toán đúng các khoản trích theo lương thì kế toán của Xí nghiệp phải tiến hành trích đủ cả 3 khoản phải trả là BHXH, BHYT và KPCĐ. Trong đó đối với từng khoản trích, tỷ lệ trích phải đúng theo quy định, như : Quỹ BHXH được hình thành theo tỷ lệ 20% trên tổng quỹ lương (trong đó 15% được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh và 5% được trừ vào thu nhập của người lao động). Quỹ BHYT được hình thành theo tỷ lệ 3% trên tổng quỹ lương (trong đó 2% được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh và 1% được trừ vào thu nhập của người lao động). KPCĐ được hình thành theo tỷ lệ 2% trên quỹ lương và khoản mục này được tính hết vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ.
ý kiến 6 :
Theo đặc điểm tổ chức sản xuất ở Xí nghiệp thì Xí nghiệp áp dụng phương pháp tính giá thành theo phương pháp trực tiếp là phù hợp. Nhưng trong thực tế, Xí nghiệp còn tiến hành sản xuất theo đơn đặt hàng của khách hàng mang lại
Để đảm bảo cho công tác tính giá thành được chính xác và kịp thời thì kế toán tính giá thành có thể áp dụng như sau : Phân loại sản phẩm sản xuất theo đơn đặt hàng và sản phẩm không sản xuất theo đơn đặt hàng. Đối với các sản phẩm sản xuất theo đơn đặt hàng thì tiến hành tập hợp chi phí riêng cho đơn đặt hàng đó. Còn các sản phẩm sản xuất không theo đơn đặt hàng thì ta tính giá thành theo phương pháp trực tiếp đã và đang sử dụng.
ý kiến 7 :
Hiện tại, Xí nghiệp đang sử dụng Bảng kê số 3 để tính giá thành thực tế nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ xuất kho. Theo chế độ kế toán thì Bảng kê số 3 chỉ được sử dụng ở trong Doanh nghiệp có sử dụng giá hạch toán trong hạch toán chi tiết vật liệu. Mà Xí nghiệp sử dụng Bảng kê số 3 để tính giá xuất NVL, CCDC chỉ theo giá thực tế, điềuđó là sai với chế độ kế toán Việt nam.
Nếu Xí nghiệp muốn sử dụng Bảng kê số 3 để tính giá xuất NVL, CCDC trong hạch toán chi tiết vật liệu thì Xí nghiệp phải sử dụng giá hạch toán để tính toán, và nếu Xí nghiệp sử dụng giá hạch toán để hạch toán chi tiết vật liệu thì nó rất phức tạp so với tình hình hạch toán thực tế vật liệu tại Xí nghiệp.
Cho nên Xí nghiệp muốn tính giá xuất NVL, CCDC theo giá thực tế thì không sử dụng Bảng kê số 3 được. Muốn vậy, Xí nghiệp nên đăng ký với Bộ tài chính một biểu mẫu thích hợp (Biểu mẫu này có thể gần giống bảng kê số 3 nhưng không bao gồm cột giá hạch toán) để hạch toán chi tiết Vật liệu.
ý Kiến 8 :
Hình thức kế toán mà Xí nghiệp đang áp dụng là hình thức Nhật ký chứng từ (NKCT). Hình thức kế toán NKCT chỉ áp dụng trong những Doanh nghiệp có quy mô lớn, số lượng nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhiều, số lượng tài khoản sử dụng nhiều, yêu cầu quản lý cao và trình độ nhân viên kế toán cao và đồng đều. Xét thấy quy mô của Xí nghiệp không lớn (tổng tài sản gần 4 tỷ đồng), số lượng nghiệp vụ kinh tế phát sinh không nhiều, tài khoản sử dụng ít, trình độ kế toán chưa cao, cho nên hình thức NKCT áp dụng cho Xí nghiệp là chưa hợp lý. Cho nên Xí nghiệp nên áp dụng hình thức kế toán Chứng từ ghi sổ (CTGS) là thích hợp nhất, vì hiện nay Xí nghiệp đang áp dụng kế toán thủ công (ghi chép bằng tay) mà áp dụng hình thức CTGS thì vẫn được, mà sau này khi có điều kiện Xí nghiệp áp dụng kế toán bằng máy Vi tính thì cũng áp dụng được hình thức CTGS một cách dễ dàng.
ý kiến 9 :
Xí nghiệp áp đồng thời 2 phương pháp hạch toán hàng tồn kho là phương pháp KKTX và phương pháp KKĐK. Phương pháp KKTX áp dụng cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính còn phương pháp KKĐK áp dụng cho bộ phận sản xuất kinh doanh phụ. Cùng một lúc sử dụng 2 phương pháp thì cũng phức tạp trong công tác kế toán. Có thể áp dụng đồng thời 2 phương pháp đó trong điều kiện lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính và Bộ phận sản xuất kinh doanh phụ là độc lập nhau. Nhưng ở tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội thì giữa 2 lĩnh vực kinh doanh (chính và phụ) này có mối liên hệ với nhau thông qua phân xưởng Cơ điện (vì chi phí tập hợp ở phân xưởng Cơ điện lại được phân bổ cho cả 2 lĩnh vực sản xuất kinh doanh ở Xí nghiệp thông qua các phân xưởng và bộ phận).
Cho nên Xí nghiệp chỉ có thể lựa chọn sử dụng một trong hai phương pháp hạch toán trên. Theo em thì Xí nghiệp nên chọn phương pháp KKTX vì theo phương pháp này, cho ta biết tình hình biến động tài sản của Xí nghiệp ở bất cứ thời điểm nào trong kỳ hạch toán và số dư đầu kỳ và cuối kỳ của mỗi khoản mục cần theo dõi.
ý kiến 10 :
Phân xưởng Cơ điện thuộc bộ phận sản xuất kinh doanh phụ nhưng sự tác động và ảnh hưởng của nó tới 2 phân xưởng sản xuất chính là phân xưởng Xẻ và phân xưởng Mộc là rõ nét và cơ bản. Phân xưởng Cơ điện chủ yếu thực hiện nhiệm vụ gia cố và sửa chữa TSCĐ cho toàn Doanh nghiệp. Nên chi phí phát sinh tại phân xưởng Cơ điện mang tính chất của chi phí chung hơn vì chi phí của nó được phân bổ cho các phân xưởng và bộ phận khác theo số giờ công sản xuất thực tế. Vậy Xí nghiệp nên coi chi phí tại phân xưởng Cơ điện là một bộ phận của chi phí sản xuất chung và dùng TK627.3 để tập hợp chi phí phát sinh tại phân xưởng Cơ điện này (với TK627.1 “Chi phí sản xuất chung ở phân xưởng Xẻ”. TK627.2 “Chi phí sản xuất chung ở phân xưởng Mộc” ).
ý kiến 11 :
Tiền lương trả cho công nhân trực tiếp sản xuất trong Xí nghiệp là trả lương theo sản phẩm (rất tốt vì hình thức trả lương này là hình thức tiến bộ nhất vì nó kích thích được sức lao động của người lao động trong sản xuất, đẩy mạnh năng suất lao động của người lao động). Nhưng tính lương sản phẩm theo giờ công sản xuất thực tế là chưa hợp lý (ngắn quá) vì sản phẩm đồ mộc, gỗ hoàn thành trong khoảng thời gian không ngắn quá (khoảng 10 ngày). Cho nên, Xí nghiệp có thể thay đổi tiền lương trả cho công nhân trực tiếp sản xuất là theo ngày công sản phẩm.
Trong khi đó thì tiền lương của các nhân viên quản lý phân xưởng (Quản đốc phân xưởng) lại không làm cơ sở để tính và trích BHXH, BHYT, và KPCĐ, tức là các khoản trích theo lương BHXH, BHYT và KPCĐ của Xí nghiệp được trích trên cơ sở chỉ có tiền lương phải trả của công nhân trực tiếp sản xuất thôi. Cho nên, để đúng với chế độ kế toán thì các khoản trích theo lương phải được trích trên cơ sở tổng quỹ lương của CBCNV của Xí nghiệp theo đúng tỷ lệ trích được quy định như đã nói ở phần trước.
ý kiến 12 :
Định kỳ, bộ máy kế toán của Xí nghiệp đã tính toán và lập ra các Báo cáo tài chính và gửi lên các cơ quan có thẩm quyền (cơ quan chủ quản – Sở Công nghiệp Hà nội – cơ quan thuế…) theo đúng kỳ hạn nhưng vẫn thiếu 1 trong 4 Báo cáo tài chính quan trọng và “bắt buộc phải có” của Xí nghiệp đó là “Báo cáo lưu chuyển tiền tệ”. Cho nên Xí nghiệp Gỗ Hà nội nên bổ sung lại bộ Báo cáo kế toán tài chính của mình cho đầy đủ theo đúng chế độ kế toán. Và điều này lại rất cần thiết cho Xí nghiệp trong điều kiện Xí nghiệp sẽ tiến hành Cổ phần hoá trong nay mai. Khi cổ phần hoá xong và có điều kiện, Xí nghiệp sẽ tham gia vào thị trường chứng khoán quốc gia, khi đó Xí nghiệp cần phải cung cấp tình hình tài chính của mình thông qua bộ Báo cáo kế toán tài chính để cho các đối tác, các nhà đầu tư tìm hiểu, nghiên cứu và tìm cách hợp tác và đầu tư với Xí nghiệp. Khi đó thì ngoài tình hình tài chính khả quan của Doanh nghiệp, bộ Báo cáo tài chính của Xí nghiệp được lập đầy đủ và đúng theo chuẩn của chế độ kế toán thì sẽ rất có lợi cho Xí nghiệp trong việc tìm đối tác để mở rộng quy mô và đẩy mạnh sự phát triển của Xí nghiệp.
ý kiến 13 :
Bất kể một hoạt động nào thuộc lĩnh vực gì, theo quan điểm này hay quan điểm khác thì hoạt động đó phải đem lại lợi ích gì cho bộ phận xã hội nào trong xã hội. Mà hoạt động đó có hợp pháp hay không, có đúng với các quy định mà nhà nước ban hành hay không ? Thì cần phải tiến hành theo dõi, giám sát, kiểm tra, kiểm soát nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động. Cho nên, công tác kiểm toán nội bộ trong Xí nghiệp cần phải được chú trọng hơn nữa và tính hiệu quả rất được quan tâm hiện nay.
Thứ nhất là nếu hệ thống kiểm soát nội bộ của Xí nghiệp hoạt động tốt thì các nghiệp vụ kinh tế qua Xí nghiệp xử lý thì rất an toàn về tính trung thực và tính chính xác của chứng từ và tài liệu kế toán, từ đó mà tạo được lòng tin cho các đối tượng quan tâm tới Xí nghiệp.
Thứ hai là nếu hệ thống kiểm soát nội bộ của Xí nghiệp hoạt động tốt thì các khoản chi ra là tương đối hợp lý, không bị thất thoát rò rỉ tài sản của Xí nghiệp ra ngoài, để mà từ đó xác định được chi phí và giá thành thành phẩm của Xí nghiệp là chính xác. Và cuối cùng là các Báo cáo tài chính được lập là trung thực, trình độ quản lý của nhân viên trong Xí nghiệp được nâng cao và tạo được uy tín lớn trên thương trường.
Để làm được như vậy, Xí nghiệp cần tiến hành lập một Ban thanh tra kinh tế tài chính của Xí nghiệp (Ban này khoảng độ 2 người là đủ). Nhiệm vụ của ban là tiến hành kiểm toán nội bộ để từ đó đánh giá việc thực hiện công tác kế toán của các bộ phận trong Doanh nghiệp, có quyết định thưởng phạt cụ thể rõ ràng để nâng cao tinh thần trách nhiệm cho mọi thành viên trong Xí nghiệp.
Bên cạnh đó, định kỳ kế toán cũng cần tổ chức phân tích tình hình tài chính và tình hình thực hiện kế hoạch của Xí nghiệp, vạch ra những nguyên nhân làm cho hoàn thành hoặc chưa hoàn thành, những tiềm năng khả năng tiềm tàng có thể khai thác và đề ra các phương hướng cần phấn đấu để không ngừng hạ thấp giá thành sản phẩm.
Cụ thể để thực hiện tốt các hướng hoàn thiện ở trên thì Xí nghiệp phải đảm bảo các điều kiện :
- Cần có sự chỉ đạo chặt chẽ hơn nữa từ Giám đốc Xí nghiệp xuống các phòng, ban, phân xưởng, bộ phận sản xuất để tổ chức hạch toán đầy đủ các chỉ tiêu cần thiết để đánh giá được chất lượng công tác ở các phân xưởng, các phòng ban.
- Công tác hạch toán ở các phân xưởng cần thực hiện tốt sát với mọi chi phí phát sinh. Phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa những nhân viên kế toán để tính đúng, tính đủ các chỉ tiêu thông tin kế toán.
- Tất cả các phòng ban phải đảm trách tốt nhiệm vụ của mình. Phòng Kỹ thuật – Kế hoạch – Vật tư chịu trách nhiệm xây dựng các định mức tiêu hao và các thông số kỹ thuật phục vụ sản xuất ; dựa vào tình hình thực tế để xây dựng kế hoạch thu mua và cung cấp vật tư kịp thời cho các phân xưởng sản xuất để đảm bảo nhịp độ sản xuất được liên tục.
ý kiến 14 :
Hiện nay, theo đà phát triển cao của khoa học kỹ thuật trên thế giới, đặc biệt là lĩnh vực điện tử tin học thì máy Vi tính là một công cụ rất đắc lực cho nhiều hoạt động khác nhau như : Ngân hàng, Bảo hiểm, Bưu chính viễn thông, An ninh quốc phòng, Lưu trữ hồ sơ… và lĩnh vực hạch toán kế toán cũng không nằm ngoài vùng tác động của nó.
Trên thế giới, cụ thể là những nước tiên tiến phát triển thì việc áp dụng máy Vi tính vào công tác hạch toán kế toán được phổ biến vì máy Vi tính có những tính năng hoạt động rất tốt trong điều kiện hạch toán kế toán thủ công (ghi chép bằng tay) như : Xử lý dữ liệu cực nhanh, các bản báo cáo tài chính được in ra đẹp, đầy đủ và chính xác, cung cấp số liệu theo yêu cầu của quản lý rất kịp thời, lưu trữ thông tin một cách gọn nhẹ… Cho nên với nhiều tính năng như vậy thì xu hướng chung hiện nay là đưa máy Vi tính vào công tác hạch toán kế toán của Xí nghiệp.
Khi mà Xí nghiệp áp dụng máy Vi tính vào công tác hạch toán kế toán thì sẽ giảm được một lượng nhân viên kế toán, và từ đó để giảm được chi phí quản lý Doanh nghiệp của Xí nghiệp hay nói cách khác là trình độ quản lý Doanh nghiệp được nâng cao.
ý kiến 15 :
Quản lý chỉ tiêu giá thành thành phẩm : Xí nghiệp Gỗ Hà nội là một Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) tự chủ về vốn kinh doanh, tự hạch toán kinh tế lãi lỗ. Muốn sản xuất và kinh doanh có lãi thì Xí nghiệp phải tìm được chỗ đứng của mình trên thị trường. Khi phân tích chỉ tiêu giá thành để tăng cường quản lý, Xí nghiệp cần xây dựng chi phí định mức, giá thành định mức. Xí nghiệp nên lập hệ thống chi phí định mức dựa vào định mức kỹ thuật của sản phẩm cho mỗi khoản mục, dựa vào chi phí thực tế phát sinh kỳ trước và những yếu tố biến đổi tăng giảm dự kiến trong năm do phòng Kế hoạch và Ban giám đốc Xí nghiệp xác định. Từ hệ thống chi phí định mức này kế toán có thể so sánh với thực tế phát sinh để điều chỉnh tăng giảm các khoản mục chi phí một cách hợp lý. Các khoản mục chi phí khi phát sinh đều phải được kiểm tra kỹ càng từ khâu lập chứng từ đến quá trình sử dụng chi phí đó như thế nào. Sổ sách kế toán phải phù hợp tập hợp đầy đủ, không bỏ sót khoản chi nào, phản ánh một cách trung thực mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp giúp cho việc quản lý của Xí nghiệp ngày càng chặt chẽ hơn.
Kết luận
Tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị Doanh nghiệp là một công tác không thể thiếu được đối với công tác kế toán tài chính của Doanh nghiệp, nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Xí nghiệp Gỗ Hà Nội là một Doanh nghiệp nhà nước (DNNN), chuyên sản xuất –kinh doanh các sản phẩm hàng mộc. Công tác hạch toán là khâu quan trọng, đặc biệt kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được coi là trung tâm của toàn bộ công việc kế toán, đã cung cấp được những thông tin thực sự cần thiết cho quá trình quản lý của Xí nghiệp. Tuy nhiên, quá trình tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Xí nghiệp cũng còn một số hạn chế. Những ý kiến trong bài này không ngoài mục đích góp phần hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nhằm tăng cường công tác hạch toán kế toán, giám đốc chặt chẽ các chi phí sản xuất, tính đúng, tính đủ giá thành.
Mục đích của em khi chọn đè tài này là để trình bày Chuyên đề thực tập tốt nghiệp với việc gắn lý luận với thực tế. Trước hết, thể hiện nhận thức về mặt lý luận của em đối với đề tài này và sau nữa là quá trình thực tập timf hiểu thực tế hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Xí nghiệp Gỗ Hà Nội .
Trong thời gian thực tập thầy giáo hướng dẫn đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo em cả về phương pháp và kién thức cùng với sự chỉ bảo nhiệt tình của các Cô ở Phòng Kế toán - Tài chính (phòng Tài vụ) của Xí nghiệp đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Do thời gian tìm hiểu thực tế không có nhiều và trình độ chuyên môn còn hạn hẹp nên bài viết này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Kế toán tài chính trong các Doanh nghiệp
Nhà xuất bản Tài chính - 1998
2. Kế toán Doanh nghiệp thực hành
Chủ biên : TS. Nguyễn Văn Công
3. Chế độ Kế toán mới
Nhà xuất bản Thống kê
4. Phân tích hoạt động kinh doanh
Trường Đại học KTQD - Khoa Kế toán
5. Kế toán Quản trị và Phân tích kinh doanh
Nhà xuất bản Thống kê - 1995
6. Tạp chí Tài chính
7. Nguyên lý Kế toán Mỹ
8. Đặc điểm Kế toán Pháp
9. Giáo trình Phần mềm Kế toán FAST ACCOUNTING .
Mục lục
Lời nói đầu
Phần I : Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các Doanh nghiệp
I - Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất
Giá thành sản phẩm
Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Nhiệm vụ kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
II - Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm, dịch vụ
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
Đối tượng tính giá thành
Mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành
III – Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành sản phẩm, dịch vụ
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
Phương pháp tính giá thành sản phẩm, dịch vụ
IV – Nội dung hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, dịch vụ
Nguyên tắc hạch toán chi phí vào giá thành sản phẩm
Tổ chức hệ thống chứng từ, hệ thống sổ sách để hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp
A – Hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp Kê khai thường xuyên (KKTX)
Hạch toán chi phí Nguyên vật liệu trực tiếp (NVLTT)
Hạch toán chi phí Nhân công trực tiếp (NCTT)
Hạch toán chi phí trả trước
Hạch toán chi phí phải trả
Hạch toán chi phí sản xuất chung (SXC)
Hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất
Hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm kinh doanh phụ
Tỏng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang
B – Hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp Kiểm kê định kỳ (KKĐK)
Hạch toán chi phí Nguyên vật liệu
Hạch toán chi phí Nhân công trực tiếp (NCTT)
Hạch toán chi phí SXC
Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang
V – Hạch toán chi tiết chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, dịch vụ
VI - Đặc điểm hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo các hình thức sổ kế toán
Hình thức sổ Nhật ký chung (NKC)
Hình thức sổ Nhật ký sổ cái (NKSC)
Hình thức sổ Chứng từ ghi sổ (CTGS)
Hình thức sổ Nhật ký chứng từ (NKCT)
VII – Kế toán Máy trong công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
VIII – Sơ lược nội dung hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất tại một số nước trên thế giới
Tại Pháp
Tại Mỹ và Canađa
Phần II : Thực trạng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội
I – những đặc điểm kinh tế kỹ thuật, tổ chức sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp tác động đến hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp Gỗ Hà nội
Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của Xí nghiệp
Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý
Đặc điểm chung về công tác hạch toán kế toán ở Xí nghiệp Gỗ Hà nội
II - Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội
đối tượng hạch toán chi phí sản xuất
Tài khoản sử dụng
Tổ chức quá trình hạch toán chi phí sản xuất của Xí nghiệp
III - Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội
Đối tượng tính giá thành sản phẩm
Kỳ tính giá thành sản phẩm
Phương pháp tính giá thành thành phẩm
Phân tích tình hình sản xuất - kinh doanh của Xí nghiệp Gỗ Hà nội
Phần III : Nhận xét, đánh giá, kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội
I – ý nghĩa của việc tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
II – nhận xét và đánh giá tình hình hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội
III – Hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội
Kết luận
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0231.doc