PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Chúng ta đang trong giai đoạn những năm đầu của thế kỷ XXI, thế kỷ đã có nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực: khoa học, công nghệ, thông tin, sinh học…đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin. Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin trên thế giới đã làm thúc đẩy sự phát triển của nhiều hoạt động khác, đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh doanh. Diệt vong hay tồn tại, thắng lợi hay thất bại, điều đó trong giai đoạn hiện nay có thể nói là phụ thuộ
106 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1398 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp thuộc Tổng Công ty máy và thiết bị công nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c rất nhiều vào yếu tố thông tin. Vì vậy, các công ty, các doanh nghiệp thuộc mọi ngành, mọi thành phần kinh tế luôn phải suy nghĩ, tìm giải pháp làm thế nào để có thể thu được thông tin một cách nhanh nhất, đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong bối cảnh quốc tế như vậy, Việt Nam sau gần 20 năm đổi mới cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, trở thành một nước có nền kinh tế đang phát triển khá ổn định, là nơi tập trung khá nhiều đầu tư của các nước Châu á và trên thế giới. Trước tình hình thế giới và trong nước như vậy, các doanh nghiệp thuộc các ngành, các thành phần kinh tế của Việt Nam đã chú trọng, quan tâm rất nhiều đến yếu tố thông tin để có thể giành được vị trí trong nền kinh tế.
Ngành sản xuất công nghiệp là một ngành luôn được Nhà nước ta quan tâm và đặt vào vị trí quan trọng trong nền kinh tế, tuy vậy, các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp của nước ta trong những năm qua còn gặp khá nhiều khó khăn do cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, công nghệ lạc hậu, chậm phát triển rất nhiều so với nhiều quốc gia trên thế giới. Đến nay, mặc dù đã có sự đi lên của một số doanh nghiệp, song lợi nhuận của các doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất công nghiệp vẫn còn khá khiêm tốn. Để có thể thu được lợi nhuận cao đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm mọi cách giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, các doanh nghiệp mới chỉ quan tâm đến khía cạnh này thì chưa đủ trong giai đoạn hiện nay, khi mà thông tin trở nên rất cần thiết cho các quyết định của doanh nghiệp. Chính vì vậy, hạch toán được chi phí sản xuất và tính giá thành chính xác mới chỉ là điều kiện cần, nhưng để đủ thì song song với điều đó là cần quan tâm làm thế nào để có thể cung cấp thông tin hữu ích nhất cho các nhà quản trị doanh nghiệp để có thể hoạch định nên các chiến lược, chính sách, quyết sách của doanh nghiệp.
Với ý nghĩa này, tác giả đã đi đến lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp”
2. Mục đích nghiên cứu.
- Hệ thống hoá lý luận chung về hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm, lý luận chung về hệ thống thông tin kế toán quản trị trong doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
- Khảo sát, nghiên cứu, đánh giá thực trạng hạch toán chi phí tính giá thành sản phẩm, thực trạng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp.
- Kiến nghị phương hướng, giải pháp hoàn thiện hạch toán chi phí, tính giá thành sản phẩm với việc xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lý luận, tình hình thực tế hạch toán chi phí tính giá thành sản phẩm, thực tế hệ thống thông tin kế toán quản trị của các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với tư duy khoa học lô gíc để nghiên cứu.
- Ngoài ra để nghiên cứu luận văn còn sử dụng các phương pháp khảo sát, phân tích, tổng hợp, đối chiếu, quy nạp, diễn giải để đưa ra những nhận xét, kiến nghị.
5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục bảng biểu, sơ đồ, chữ viết tắt, tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
Chương 2: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HẠCH TOÁN
CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VỚI VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP
1.1. Lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
1.1.1. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
1.1.1.1. Chi phí sản xuất.
Trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, thực hiện sản xuất ra những sản phẩm nhất định và tiêu thụ những sản phẩm đó trên thị trường nhằm thu lợi nhuận là hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp. Để tiến hành được các hoạt động sản xuất thì các doanh nghiệp cần phải kết hợp ba yếu tố của quá trình sản xuất đó là: Lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Quá trình sản xuất là quá trình người lao động sử dụng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo nên sản phẩm thoả mãn nhu cầu của xã hội. Đây cũng chính là quá trình tiêu hao các yếu tố nói trên để hình thành nên các chi phí tương ứng. Đó là chi phí về lao động như tiền lương, tiền công và các khoản trích theo lương gồm BHXH, BHYT, KPCĐ, chi phí về tư liệu lao động như chi phí khấu hao TSCĐ, công cụ dụng cụ và chi phí về đối tượng lao động như các loại nguyên vật liệu. Các chi phí này phát sinh thường xuyên gắn liền với quá trình sản xuất được gọi là chi phí sản xuất. Hao phí về tư liệu lao động và đối tượng lao động được gọi chung là hao phí về lao động vật hoá. Vì vậy về mặt chất:
Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.
Về mặt lượng, chi phí sản xuất phụ thuộc vào 2 yếu tố:
- Lượng hao phí lao động và hao phí tư liệu sản xuất trong kỳ.
- Giá cả của một đơn vị lao động đã hao phí và giá cả tư liệu sản xuất đã tiêu hao.
CPSX phát sinh bao gồm rất nhiều loại do đó cần phải phân loại CPSX nhằm quản lý tốt chi phí, tạo ra các thông tin hữu ích cho việc ra quyết định tăng thêm, giảm bớt, cắt bỏ…chi phí thích hợp và không thích hợp cho sản xuất. Có các cách phân loại CPSX như sau:
* Phân loại CPSX theo yếu tố chi phí:
Đây là cách phân loại dựa vào nội dung kinh tế của chi phí. Về thực chất chỉ có 3 yếu tố chi phí là chi phí về lao động, chi phí về tư liệu lao động và chi phí về đối tượng lao động. Tuy nhiên để có thể cung cấp thông tin một cách cụ thể hơn nhằm phục vụ cho việc xây dựng, phân tích định mức vốn lưu động, lập kiểm tra, phân tích dự toán chi phí nên các yếu tố chi phí trên được chi tiết theo nội dung kinh tế cụ thể của chúng. Theo cách phân loại này thì chi phí sản xuất bao gồm 7 yếu tố:
- Yếu tố nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ …sử dụng vào sản xuất (loại trừ giá trị dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi cùng với nhiên liệu, động lực).
- Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất trong kỳ.
- Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: Phản ánh tổng số tiền lương và các khoản phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho công nhân viên chức.
- Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên chức.
- Yếu tố khấu hao TSCĐ: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho hoạt động sản xuất trong kỳ.
- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng cho sản xuất trong kỳ.
- Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất trong kỳ.
Tác dụng trực tiếp của cách phân loại này là để tập hợp chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu đồng nhất của chi phí mà không xét đến công dụng, địa điểm phát sinh của chi phí. Ngoài ra cách phân loại này còn có ý nghĩa rất lớn trong quản lý CPSX, nó cho biết tỷ trọng từng yếu tố CPSX qua đó đánh giá, phân tích tình hình thực hiện dự toán CPSX, cung cấp tài liệu cho việc lập dự toán CPSX. Tuy nhiên cách phân loại này có nhược điểm là không tính được giá thành cho từng đơn vị sản phẩm do không phân biệt chi phí theo mục đích và công dụng của chi phí.
* Phân loại CPSX theo khoản mục chi phí trong GTSP.
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong GTSP và để thuận tiện cho việc tính giá thành, CPSX được phân loại theo khoản mục. Hiện nay, CPSX bao gồm các khoản mục sau:
- Chi phí NVLTT: bao gồm giá trị của nguyên liệu, vật liệu dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp.
- Chi phí NCTT: Bao gồm toàn bộ tiền lương và các khoản trích theo lương: BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm.
- Chi phí SXC: là những khoản chi phí phát sinh ở dưới phân xưởng, bộ phận sản xuất còn lại ngoài CPNVLTT và CPNCTT.
Cách phân loại này dựa vào mục đích, công dụng của chi phí mà không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào. Cách phân loại này giúp cho nhà quản trị doanh nghiệp dự toán được các khoản mục chi phí trọng yếu trong CPSX sản phẩm, cung cấp số liệu cho việc xây dựng định mức giá thành và quản lý giá thành theo khoản mục, tính toán nhanh giá thành thành phẩm và bán thành phẩm trong quá trình quản lý chi phí, phân tích tình hình thực hiện giá thành theo khoản mục chi phí. Từ đó xác định nguyên nhân, đề ra các giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ GTSP, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
* Phân loại CPSX theo mối quan hệ với đối tượng tập hợp chi phí.
- Chi phí trực tiếp: Là CPSX có liên quan trực tiếp đến sản xuất từng loại sản phẩm, đơn hàng. Vì vậy có thể tập hợp trực tiếp cho từng loại sản phẩm, đơn hàng đó. Thuộc loại chi phí này có CPNVLTT, CPNCTT.
- Chi phí gián tiếp: Là các chi phí có liên quan đến sản xuất nhiều loại sản phẩm, đơn hàng khác nhau. Loại chi phí này phải tập hợp chung rồi tiến hành phân bổ cho các đối tượng, sản phẩm, đơn hàng theo một tiêu thức phù hợp. Thuộc loại chi phí này có CPSXC.
Cách phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định phương pháp tập hợp và phân bổ CPSXC cho các đối tượng, sản phẩm có liên quan một cách chính xác, hợp lý.
Các cách phân loại chi phí nêu trên là cần thiết cho công tác quản lý chi phí và tính GTSP. Tuy nhiên không sử dụng được cho việc lập kế hoạch, kiểm tra và ra quyết định kinh doanh được. Do đó để cung cấp thông tin cho việc lập kế hoạch, kiểm tra và ra quyết định kinh doanh, CPSX được phân loại theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm hoàn thành.
* Phân loại CPSX theo mối quan hệ của chi phí với khối lượng sản phẩm hoàn thành.
Theo cách phân loại này, CPSX được chia thành biến phí và định phí.
- Biến phí là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ, chẳng hạn CPNVLTT, CPNCTT…Biến phí tính trên một đơn vị sản phẩm thì lại có tính cố định.
- Định phí: Là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ, chẳng hạn các chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh v.v…Các chi phí này nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nếu số lượng sản phẩm thay đổi.
- Chi phí hỗn hợp: Là loại chi phí bao gồm cả yếu tố biến phí và yếu tố định phí, chẳng hạn như chi phí điện thoại, chi phí sửa chữa thường xuyên TSCĐ. ở một khối lượng sản phẩm sản xuất nhất định thì chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của định phí. Vượt trên khối lượng đó thì chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của biến phí.
Quá trình sản xuất là quá trình thống nhất của 2 mặt: mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. CPSX là chỉ tiêu được dùng để phản ánh hao phí sản xuất, còn kết quả sản xuất được thể hiện bằng chỉ tiêu GTSP.
1.1.1.2. Giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hóa có liên quan đến một khối lượng sản phẩm hoàn thành nhất định.
GTSP là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả sử dụng vật tư, tài sản, tiền vốn và lao động trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời phản ánh kết quả của các giải pháp tổ chức kinh tế kỹ thuật cũng như công nghệ mà doanh nghiệp đã sử dụng. Do đó giá thành là căn cứ đánh giá chất lượng và hiệu quả của doanh nghiệp.
Để đáp ứng yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hóa, GTSP được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
* Theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành, giá thành được chia làm 3 loại:
- Giá thành kế hoạch: được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch.
- Giá thành định mức: Giá thành định mức cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức được xây dựng trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành.
- Giá thành thực tế: Là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm.
* Theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được chia làm 2 loại:
- Giá thành sản xuất: Là chỉ tiêu phản ánh tất cả các chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất.
- Giá thành toàn bộ: Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Cả CPSX và GTSP đều là các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh quá trình sản xuất. Mỗi chỉ tiêu có bản chất kinh tế và cách tính riêng song giữa chúng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Để hiểu rõ cần nghiên cứu mối quan hệ giữa CPSX và GTSP.
1.1.2. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
CPSX và GTSP đều là các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh hai mặt thống nhất của quá trình sản xuất. CPSX phản ánh mặt hao phí sản xuất còn GTSP phản ánh mặt kết quả của sản xuất. Do đó xét về bản chất cả CPSX và GTSP đều là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất.
CPSX và GTSP có mối quan hệ mật thiết với nhau. CPSX là tiền đề, là cơ sở để tính GTSP. Không tính được CPSX thì không tính được GTSP và ngược lại, không có GTSP thì không thể biết được lượng chi phí tạo ra giá trị sản phẩm là bao nhiêu, có hợp lý, hiệu quả không. Mặt khác, khi doanh nghiệp tiết kiệm được CPSX cũng có nghĩa là hạ thấp được GTSP. Vì vậy CPSX, GTSP không chỉ có mối quan hệ biện chứng trong lĩnh vực tính toán mà còn có sự gắn bó mật thiết với nhau trong lĩnh vực quản lý kinh tế. Tuy nhiên, giữa CPSX và GTSP có những điểm khác biệt quan trọng:
- Về phạm vi thời gian: CPSX luôn gắn liền với một thời kỳ nhất định, còn GTSP lại gắn với khối lượng sản phẩm hoàn thành nhất định có thể vừa liên quan đến kỳ này, vừa liên quan đến kỳ trước.
- Về phạm vi tính toán: CPSX trong kỳ bao gồm những chi phí phát sinh thực tế trong kỳ không phân biệt chi phí đó phải trả cho kỳ trước hoặc trả cho kỳ sau. Trong khi đó GTSP bao gồm phần lớn CPSX kỳ này và một phần CPSX đã chi ra kỳ trước (tồn tại dưới dạng chi phí SPDD đầu kỳ) nhưng cho sản phẩm trong kỳ này.
- Trong quá trình sản xuất, CPSX kỳ trước chuyển sang kỳ này thường không khớp với chi phí sản xuất kỳ này chuyển sang kỳ sau nên tổng CPSX trong một kỳ thường không trùng với tổng GTSP hoàn thành kỳ đó.
Mối quan hệ CPSX và GTSP được thể hiện qua sơ đồ sau:
CPSX dở dang đầu kỳ
A
CPSX phát sinh trong kỳ
B C D
Tổng GTSP hoàn thành
CPSX dở dang cuối kỳ
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa CPSX và GTSP.
Tổng GTSP hoàn thành
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
=
+
-
Qua sơ đồ ta thấy: AC = AB + BD - CD hay:
Khi AB = CD thì AC = BD hay khi giá trị SPDD đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc trong các ngành sản xuất không có SPDD thì tổng GTSP bằng tổng CPSX phát sinh trong kỳ.
1.1.3. Vai trò của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Với bản chất của CPSX và GTSP nêu trên thì hạch toán CPSX và tính GTSP có ý nghĩa vô cùng to lớn không chỉ với các doanh nghiệp ở tầm vi mô mà cả với tầm quản lý vĩ mô là Nhà nước.
* Vai trò của hạch toán CPSX và tính GTSP đối với doanh nghiệp.
Hạch toán đúng, đủ chi phí sản xuất, tính đúng giá thành sản phẩm giúp cho doanh nghiệp nắm được thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó xác định được kết quả của những chi phí đã bỏ ra, từ đó có biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, là điều kiện để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Mặt khác, thông qua hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm cũng giúp doanh nghiệp tìm được những khâu, những bộ phận yếu kém, không hiệu quả để mà hạn chế và có biện pháp xử lý kịp thời, phát hiện được những khả năng tiềm ẩn để phát huy nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
* Vai trò của hạch toán CPSX và tính GTSP đối với Nhà nước.
Thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp là cơ sở số liệu cho Nhà nước tổng hợp đánh giá kết quả chung của toàn bộ nền kinh tế, đồng thời qua đó Nhà nước nắm được thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó hoạch định các chính sách, chế độ quản lý vĩ mô nền kinh tế. Mặt khác, còn giúp cho Nhà nước thực hiện nhiệm vụ kiểm tra kinh tế tài chính của doanh nghiệp, góp phần làm lành mạnh hoá nền tài chính của doanh nghiệp cũng như của toàn đất nước.
1.1.4. Nội dung hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
1.1.4.1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành.
Để hạch toán CPSX và tính GTSP được chính xác, kịp thời đòi hỏi công việc đầu tiên nhà quản lý phải làm là xác định đối tượng hạch toán CPSX và đối tượng tính GTSP. Việc xác định đối tượng hạch toán CPSX chính là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và đối tượng chịu chi phí. Còn xác định đối tượng tính giá thành chính là việc xác định thành phẩm, bán thành phẩm, công việc nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối tượng đó có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang trên dây chuyền sản xuất tùy theo yêu cầu của hạch toán kinh tế nội bộ và tiêu thụ sản phẩm.
Để xác định đối tượng hạch toán CPSX và đối tượng tính GTSP cần dựa vào các căn cứ sau đây:
* Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: sản xuất giản đơn hay phức tạp.
Với sản xuất giản đơn, đối tượng hạch toán CPSX có thể là sản phẩm hay là toàn bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất một thứ sản phẩm) hoặc có thể là nhóm sản phẩm (nếu sản xuất nhiều thứ sản phẩm trong cùng một quá trình lao động). Còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm cuối cùng.
Với sản xuất phức tạp, đối tượng hạch toán CPSX có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm… Còn đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo.
* Căn cứ vào loại hình sản xuất: đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn.
Với sản xuất đơn chiếc hay sản xuất hàng loạt nhỏ: đối tượng hạch toán CPSX là các đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn.
Đối với sản xuất hàng loạt khối lượng lớn, phụ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất (giản đơn hay phức tạp) mà đối tượng hạch toán CPSX có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ… và đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm như đã nêu trên.
* Căn cứ vào yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh:
Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng hạch toán CPSX và tính GTSP ở các góc độ khác nhau, ngược lại với trình độ thấp thì đối tượng đó có thể bị hạn chế và thu hẹp lại.
Đối tượng hạch toán CPSX và đối tượng tính giá thành là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết. Việc xác định hợp lý đối tượng hạch toán CPSX là điều kiện để tính giá thành theo các đối tượng tính giá thành trong doanh nghiệp. Trong thực tế, một đối tượng hạch toán CPSX có thể trùng với một đối tượng tính giá thành. Trong nhiều trường hợp khác, một đối tượng hạch toán CPSX lại bao gồm nhiều đối tượng tính GTSP. Ngược lại, một đối tượng tính giá thành cũng có thể bao gồm nhiều đối tượng hạch toán CPSX. Mối quan hệ giữa đối tượng hạch toán CPSX và đối tượng tính giá thành sẽ quyết định việc lựa chọn phương pháp tính giá thành và kỹ thuật tính giá thành ở doanh nghiệp.
1.1.4.2. Hạch toán chi phí sản xuất.
Sau khi đã xác định được đối tượng tập hợp CPSX thì hàng kỳ căn cứ vào chứng từ kế toán chi phí tiến hành tập hợp CPSX theo từng đối tượng hạch toán CPSX.
* Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
CPNVLTT là chi phí có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng hạch toán chi phí. Vì vậy hàng ngày căn cứ vào các chứng từ xuất kho vật liệu trực tiếp cho sản xuất sản phẩm để tập hợp CPNVLTT cho từng đối tượng.
Tài khoản sử dụng: TK 621.
Nội dung kết cấu tài khoản này như sau:
Bên nợ: Tập hợp CPNVLTT thực tế phát sinh trong kỳ
Bên có: Kết chuyển CPNVLTT cho các đối tượng liên quan.
Sau khi kết chuyển tài khoản này không có số dư.
TK 621 được mở chi tiết cho từng đối tượng hạch toán CPSX: phân xưởng, bộ phận sản xuất, sản phẩm …
* Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp.
CPNCTT cũng là chi phí thường liên quan trực tiếp đến từng đối tượng chịu chi phí, vì vậy căn cứ vào bảng thanh toán lương để hạch toán cho từng đối tượng. Trường hợp CPNCTT liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí thì cần phân bổ cho từng đối tượng theo tiêu thức phù hợp. Thường sử dụng tiêu thức số giờ lao động trực tiếp, sản lượng sản phẩm sản xuất, chi phí định mức…
Tài khoản sử dụng: TK 622- Chi phí nhân công trực tiếp.
Nội dung kết cấu:
Bên nợ: Tập hợp CPNCTT thực tế phát sinh trong kỳ.
Bên có: Kết chuyển hoặc phân bổ CPNCTT.
Sau khi kết chuyển, phân bổ TK 622 không có số dư.
* Hạch toán chi phí sản xuất chung.
CPSXC là những khoản chi phí phát sinh ở dưới phân xưởng, bộ phận sản xuất còn lại ngoài CPNVLTT và CPNCTT. Để hạch toán chính xác, đầy đủ CPSXC thì cần phải phân loại CPSXC:
- Theo nội dung kinh tế của chi phí: CPSXC bao gồm:
+ Chi phí nhân viên phân xưởng.
+ Chi phí vật liệu.
+ Chi phí dụng cụ sản xuất.
+ Chi phí khấu hao TSCĐ.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài.
+ Chi phí bằng tiền khác.
- Theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm sản xuất ra, CPSXC được phân loại thành:
+ Chi phí SXC cố định
+ Chi phí SXC biến đổi.
Kết cấu tài khoản 627- Chi phí sản xuất chung như sau:
Bên nợ: - Tập hợp CPSXC thực tế phát sinh trong kỳ.
Bên có: - Các khoản ghi giảm CPSXC.
- Kết chuyển hoặc phân bổ CPSXC.
TK 627 cuối kỳ không có số dư và được hạch toán chi tiết cho từng phân xưởng, bộ phận sản xuất …
Trong các doanh nghiệp sản xuất thì đối với khoản mục CPSXC trước hết doanh nghiệp tập hợp CPSXC theo nội dung kinh tế của chi phí kết hợp với việc chi tiết chi phí đó là CPSXC cố định hay CPSXC biến đổi. Cuối kỳ mới tiến hành phân bổ CPSXC cho các đối tượng chịu chi phí theo tiêu thức phù hợp.
- Đối với CPSXC cố định:
+ Nếu mức sản xuất thực tế bằng hoặc cao hơn mức công suất bình thường thì CPSXC cố định được phân bổ hết vào chi phí chế biến sản phẩm. Kế toán ghi:
Nợ TK 154
Có TK 627 – Chi tiết CPSXC cố định.
+ Nếu mức sản xuất thực tế thấp hơn mức công suất bình thường thì kế toán phải tính và xác định CPSXC cố định phân bổ vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị sản phẩm theo mức công suất bình thường. Khoản CPSXC cố định không phân bổ (không tính vào GTSP số chênh lệch giữa tổng CPSXC cố định thực tế phát sinh lớn hơn CPSXC cố định được tính vào GTSP) được hạch toán vào giá vốn hàng bán trong kỳ. Kế toán ghi:
Nợ TK 154: Phần CPSXC cố định theo mức công suất bình thường.
Nợ TK 632: Phần CPSXC cố định không phân bổ.
Có TK 627: Chi tiết CPSXC cố định.
- Đối với CPSXC biến đổi: CPSXC biến đổi được phân bổ hết vào chi phí chế biến sản phẩm theo số thực tế phát sinh.
Nợ TK 154
Có 627- Chi tiết CPSXC biến đổi.
Do đặc điểm CPSXC là chi phí gián tiếp liên quan đến nhiều đối tượng vì vậy phải phân bổ khoản chi phí này cho từng đối tượng theo tiêu thức phù hợp.
Mức CPSXC phân bổ cho từng đối tượng
=
x
Tiêu thức phân bổ của từng đối tượng
Tổng CPSXC (cố định hay biến đổi) cần phân bổ
Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng
Tiêu thức thường được sử dụng ở đây là: tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất, số giờ làm việc của công nhân trực tiếp sản xuất…
* Tổng hợp chi phí sản xuất toàn doanh nghiệp.
Để đánh giá SPDD và tính GTSP thì các chi phí NVLTT, CPNCTT, CPSXC sau khi tập hợp được đến cuối kỳ cần kết chuyển sang tài khoản tổng hợp chi phí theo từng đối tượng chịu chi phí.
- Với phương pháp kê khai thường xuyên: kế toán sử dụng tài khoản 154 –chi phí sản xuất kinh doanh dở dang để tổng hợp chi phí sản xuất.
Nội dung kết cấu TK 154 như sau:
Bên nợ: - Kết chuyển CPNVLTT, CPNCTT, CPSXC
Bên có: - Các khoản ghi giảm chi phí.
- Giá thành sản phẩm hoàn thành.
TK 154 được mở chi tiết cho từng đối tượng hạch toán chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất, công trình, sản phẩm…)
- Với phương pháp kiểm kê định kỳ:
Kế toán sử dụng TK 631- Giá thành sản xuất để tổng hợp chi phí sản xuất.
Nội dung kết cấu TK 631 như sau:
Bên nợ:
- Kết chuyển CPNVLTT, CPNCTT, CPSXC.
- Kết chuyển CPSX kinh doanh dở dang cuối kỳ.
Bên có:
- Giá thành sản phẩm hoàn thành.
- Kết chuyển chi phí dở dang cuối kỳ.
Tùy thuộc vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp có thể mở TK 631 chi tiết theo các đối tượng tập hợp chi phí như đối với TK 154.
1.1.4.3. Phương pháp tính giá thành sản phẩm
Phương pháp tính GTSP là một phương pháp hoặc một hệ thống phương pháp được sử dụng để tính GTSP và đơn vị sản phẩm. Để tính được GTSP các doanh nghiệp phải căn cứ vào đặc điểm của quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp mình, vào đặc điểm sản phẩm, yêu cầu của quản lý, của hạch toán để có phương pháp tính giá thành phù hợp. Có các phương pháp tính giá thành sau:
- Phương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn)
Công thức tính: Zsp hoàn thành = Dđk + C - Dck
Phạm vi áp dụng: áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất khối lượng lớn và chu kỳ sản xuất kinh doanh ngắn như nhà máy điện, nước, các doanh nghiệp khai thác quặng, than, gỗ…
- Phương pháp tổng cộng chi phí:
Công thức tính: Giá thành sản phẩm = z1 + z2 + z3 +……+ zn
trong đó: zi (i = 1-n) là chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận sản xuất tạo nên thành phẩm.
Phạm vi áp dụng: áp dụng ở các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất được thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ, đối tượng tập hợp CPSX là các bộ phận, chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất. Phương pháp này được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp khai thác, dệt nhuộm, cơ khí chế tạo, may mặc…
- Phương pháp hệ số:
Công thức tính: QH = ; i= 1, n
Tổng giá thành sản xuất các loại sản phẩm
x Qi x H i
Zi =
QH
Phạm vi áp dụng: áp dụng ở các doanh nghiệp mà cùng một quy trình công nghệ sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên vật liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng được cho từng sản phẩm được mà phải tập hợp chung cho quá trình sản xuất.
- Phương pháp tỷ lệ:
Tỷ lệ chi phí
=
Tổng giá thành sản xuất thực tế của các loại sản phẩm
Tổng giá thành sản xuất kế hoạch (hoặc định mức) của các loại sản phẩm
Công thức tính:
=
Giá thành kế hoạch (hoặc định mức) đơn vị sản phẩm từng loại
x
Tỷ lệ chi phí
Giá thành thực tế đơn vị sản phẩm từng loại
Phạm vi áp dụng: áp dụng trong các doanh nghiệp mà trong cùng một quy trình công nghệ, cùng các yếu tố đầu vào, sản xuất ra nhóm sản phẩm cùng loại nhưng có quy cách, phẩm chất, kích cỡ khác nhau.
- Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ:
Tổng giá thành sản phẩm chính
Giá trị sản phẩm chính dở dang đầu kỳ
Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
Giá trị sản phẩm phụ thu hồi
Giá trị sản phẩm chính dở dang cuối kỳ
=
+
-
-
Công thức tính:
Phạm vi áp dụng: áp dụng đối với các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạnh các sản phẩm chính thu được còn có thể thu được những sản phẩm phụ. Để tính được GTSP chính kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ khỏi tổng CPSX sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể xác định theo nhiều phương pháp như giá có thể sử dụng được, giá ước tính, giá kế hoạch, giá nguyên liệu ban đầu…
- Phương pháp liên hợp:
Là phương pháp áp dụng trong các doanh nghiệp có tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các doanh nghiệp hóa chất, dệt kim, đóng giầy, may mặc…Kế toán có thể kết hợp các phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí, hệ số với loại trừ giá trị sản phẩm phụ.
* Vận dụng phương pháp tính giá thành sản phẩm trong một số loại hình doanh nghiệp chủ yếu.
- Doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng.
Trong các doanh nghiệp này, đối tượng hạch toán CPSX là từng đơn đặt hàng, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn. Đối với các chi phí trực tiếp (NVLTT, NCTT) phát sinh trong kỳ liên quan trực tiếp đến đơn đặt hàng nào thì hạch toán trực tiếp cho đơn đặt hàng đó theo các chứng từ gốc, đối với CPSXC, sau khi tập hợp xong sẽ phân bổ cho từng đơn theo tiêu chuẩn phù hợp (giờ công sản xuất, CPNCTT). Phương pháp tính giá thành tùy theo tính chất và số lượng sản phẩm của từng đơn để áp dụng phương pháp thích hợp như phương._. pháp trực tiếp, phương pháp hệ số, phương pháp tổng cộng chi phí hay phương pháp liên hợp v.v…
- Doanh nghiệp áp dụng hệ thống hạch toán định mức.
Giá thành thực tế sản phẩm
Giá thành định mức sản phẩm
Chênh lệch do thay đổi định mức
Chênh lệch so với định mức
=
±
±
Công thức tính:
Trên cơ sở hệ thống định mức tiêu hao lao động, vật tư hiện hành và dự toán về chi phí sản xuất, kế toán sẽ xác định giá thành định mức của từng loại sản phẩm. Đồng thời hạch toán riêng những chênh lệch do thay đổi định mức và chênh lệch so với định mức. Từ đó tiến hành tính giá thành thực tế theo công thức trên.
- Doanh nghiệp sản xuất phức tạp kiểu chế biến liên tục.
Các doanh nghiệp này có thể sử dụng một trong 2 phương pháp sau:
+ Tính giá thành phân bước theo phương án hạch toán có bán thành phẩm. Phương án hạch toán này thường được áp dụng ở các doanh nghiệp có yêu cầu hạch toán kinh tế nội bộ cao hoặc bán thành phẩm ở các bước có thể dùng để bán ra ngoài. Trình tự hạch toán CPSX và tính GTSP theo phương pháp này được phản ánh qua Sơ đồ 1.2
+ Tính giá thành phân bước theo phương án hạch toán không có bán thành phẩm. áp dụng ở những doanh nghiệp mà yêu cầu hạch toán kinh tế nội bộ không cao hoặc bán thành phẩm chế biến ở từng bước không bán ra ngoài
Cách tính giá thành thể hiện qua Sơ đồ 1.3
+
+
Chi phí NVL chính phát sinh trong kỳ bước 1
-
=
Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ bước 1
Chi phí chế biến phát sinh trong kỳ bước 1
Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ bước 1
Giá thành bán thành phẩm bước 1
+
+
-
=
Chi phí chế biến phát sinh trong kỳ bước 2
Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ bước 2
Chi phí bán thành phẩm bước 1 chuyển sang
Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ bước 2
Giá thành bán thành phẩm
bước 2
+
+
-
=
Chi phí bán thành phẩm bước n chuyển sang
Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ bước n
Chi phí chế biến phát sinh trong kỳ bước n
Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ bước n
Giá thành thành phẩm
Sơ đồ 1.2: Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương án phân bước có bán thành phẩm
Chi phí NVL chính tính cho thành phẩm
Chi phí chế biến bước 1 tính cho thành phẩm
Chi phí chế biến bước 2 tính cho thành phẩm
Chi phí chế biến bước n tính cho thành phẩm
Tổng giá thành thành phẩm
….
Sơ đồ 1.3: Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương án phân bước không có bán thành phẩm
1.2. Hệ thống thông tin kế toán quản trị doanh nghiệp.
1.2.1. Bản chất của hệ thống thông tin kế toán quản trị doanh nghiệp.
Quản trị là sự tác động có tổ chức của chủ thể quản trị lên đối tượng bị quản trị nhằm đạt được mục tiêu chung của tổ chức. Thuật ngữ quản trị tiếng Anh là management, vừa có nghĩa là quản lý, vừa có nghĩa là quản trị, nhưng được dùng chủ yếu với nghĩa quản trị. Ngoài ra tiếng Anh còn dùng một thuật ngữ nữa là administration với nghĩa là quản lý hành chính, quản lý chính quyền. Tiếng Pháp cũng có hai từ ngữ tương đương: gestion ( tương đương management của tiếng Anh) là quản trị kinh doanh còn administration (tương đương administration trong tiếng Anh) được dùng với nghĩa là quản lý các hoạt động hành chính, chính quyền.
Như vậy có thể thấy rằng quản lý là thuật ngữ được dùng với các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý xã hội nói chung và quản lý kinh tế nói riêng còn quản trị là thuật ngữ được dùng đối với cấp cơ sở trong đó có các tổ chức – doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp cần được quản trị. Quản trị này gọi là quản trị doanh nghiệp. Quản trị doanh nghiệp là quá trình tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ doanh nghiệp lên tập thể những người lao động trong doanh nghiệp, sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội để thực hiện một cách tốt nhất mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo đúng luật định và thông lệ xã hội.
Để quản trị doanh nghiệp có hiệu quả, các nhà quản trị cần nắm vững tình hình một cách chính xác, kịp thời bằng những con số cụ thể. Muốn vậy phải có thông tin. Thông tin trở thành khâu đầu tiên, có tính cơ bản của quản trị kinh doanh.
Thông tin quản trị doanh nghiệp là những tin tức mới, được thu nhận, được cảm thụ và được đánh giá là có ích cho việc ra quyết định hoặc giải quyết một nhiệm vụ nào đó trong quản trị kinh doanh.
Hệ thống thông tin quản trị doanh nghiệp được quan niệm là tập hợp các phương tiện, các phương pháp và các cơ quan có liên hệ chặt chẽ với nhau nhằm đảm bảo cho việc thu thập, lưu trữ, tìm kiếm, xử lý và cung cấp những thông tin cần thiết cho quản trị kinh doanh.
Hệ thống thông tin quản trị doanh nghiệp thường gồm 3 phân hệ cơ bản:
- Hệ thống thông tin khoa học công nghệ.
- Hệ thống thông tin thị trường.
- Hệ thống thông tin kế toán thống kê.
trong đó hệ thống thông tin kế toán thống kê có tầm quan trọng đặc biệt, phản ánh trạng thái của đối tượng quản trị mà thiếu nó thì hệ thống quản trị không thể tác động một cách chính xác với hiệu quả cao lên đối tượng quản trị kinh doanh.
Như vậy hệ thống thông tin kế toán là một bộ phận của hệ thống thông tin quản trị doanh nghiệp. Chức năng của kế toán là cung cấp và truyền đạt các thông tin kinh tế về một tổ chức cho các đối tượng sử dụng khác nhau. Vì vậy, thông tin kế toán phục vụ cả trong và ngoài doanh nghiệp. Để phục vụ được 2 loại đối tượng này, kế toán được chia làm 2 nhánh: nhánh kế toán cung cấp thông tin cho quản lý, điều hành hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp được gọi là kế toán quản trị, nhánh kế toán cung cấp thông tin cho những đối tượng bên ngoài doanh nghiệp được gọi là kế toán tài chính.
Kế toán tài chính liên quan đến quá trình báo cáo hoạt động của một tổ chức, doanh nghiệp cho các thành phần bên ngoài qua các hình thức: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệv.v… Đó là các báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh các mặt hoạt động của toàn doanh nghiệp. Như vậy, thông tin mà kế toán tài chính cung cấp là các tài liệu phản ánh các nghiệp vụ phát sinh trong kỳ đã qua, cho nên số liệu có tính lịch sử, không đủ đáp ứng nhu cầu quản lý của nhà quản trị ở trong doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Khác với kế toán tài chính, kế toán quản trị cung cấp thông tin nhằm thoả mãn nhu cầu của nhà quản trị các cấp trong doanh nghiệp. Việc ra quyết định của họ có tác động đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Như vậy nếu thông tin không đầy đủ, các nhà quản trị sẽ gặp khó khăn trong việc quản lý điều hành doanh nghiệp. Nếu thông tin không chính xác, các nhà quản trị có thể đưa ra các quyết định sai lầm, ảnh hưởng đến quá trình sinh lợi của doanh nghiệp; nếu thông tin không đáp ứng kịp thời thì các vấn đề tồn tại không được giải quyết và có thể mất cơ hội trong kinh doanh. Kế toán quản trị đã tạo ra phần lớn các thông tin nhằm giúp các nhà quản trị ra các quyết định điều hành sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp.
Như vậy hệ thống thông tin kế toán bao gồm 2 phân hệ:
- Hệ thống thông tin kế toán tài chính
- Hệ thống thông tin kế toán quản trị.
Để hiểu rõ hơn về hệ thống thông tin kế toán quản trị, cách tốt nhất là so sánh hệ thống thông tin kế toán tài chính và kế toán quản trị. Những điểm khác biệt cơ bản giữa hai hệ thống thông tin này thể hiện trên bảng 1.1 như sau:
Bảng 1.1: Phân biệt hệ thống thông tin kế toán quản trị và hệ thống thông tin kế toán tài chính.
Tiêu thức
Hệ thống thông tin
kế toán quản trị
Hệ thống thông tin
kế toán tài chính
Đối tượng sử dụng
Các cấp quản lý khác nhau trong nội bộ doanh nghiệp.
Các thành phần ở bên ngoài doanh nghiệp.
Đặc điểm thông tin
Linh hoạt thích hợp hướng
về tương lai, biểu hiện
bằng giá trị và hiện vật
Phản ánh quá khứ, biểu hiện bằng giá trị.
Nguyên tắc cung cấp thông tin
Do người quản lý quyết định, hữu ích cho quản lý, không có nguyên tắc chung.
Tuân theo chuẩn mực, nguyên tắc kế toán.
Phạm vi thông tin.
Từng bộ phận, từng khâu công việc
Toàn doanh nghiệp.
Kỳ báo cáo
Thường xuyên, tuỳ yêu cầu quản lý
Định kỳ quý năm.
Mức độ chính xác của thông tin
Chú trọng tính kịp thời, ít chú trọng tính chính xác.
Tính chính xác cao.
Tính pháp lệnh.
Không có tính pháp lệnh
Có tính pháp lệnh.
Tuy nhiên giữa hệ thống thông tin kế toán tài chính và hệ thống thông tin kế toán quản trị cũng có mối quan hệ mật thiết với nhau ở chỗ:
- Cả hai hệ thống thông tin này hợp thành hệ thống thông tin kế toán thống nhất của doanh nghiệp.
- Hệ thống thông tin kế toán quản trị không độc lập với hệ thống thông tin kế toán tài chính mà có thể dựa trên cơ sở hệ thống thông tin kế toán tài chính đồng thời phát triển, gia tăng những thông tin đó nhằm phục vụ cho nhu cầu quản trị doanh nghiệp.
1.2.2. Vai trò hệ thống thông tin kế toán quản trị doanh nghiệp.
Trách nhiệm của nhà quản lý trong doanh nghiệp là điều hành và quản lý các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, để làm tốt các chức năng quản lý, nhà quản trị phải có thông tin cần thiết để có thể ra các quyết định đúng đắn. Kế toán quản trị là nguồn chủ yếu, dù không phải là nguồn duy nhất, cung cấp nhu cầu thông tin đó. Vai trò của hệ thống thông tin kế toán quản trị thể hiện trong các khâu của quá trình quản lý như sau:
* Trong giai đoạn lập kế hoạch và dự toán.
Lập kế hoạch là xây dựng các mục tiêu cần phải đạt và vạch ra các bước thực hiện để đạt được các mục tiêu đó. Các kế hoạch này có thể là kế hoạch dài hạn hay ngắn hạn.
Dự toán cũng là một loại kế hoạch nhằm liên kết các mục tiêu và chỉ rõ cách huy động, sử dụng các nguồn lực để đạt mục tiêu đề ra.
Để chức năng lập kế hoạch và dự toán được thực hiện tốt, để các kế hoạch, dự toán được lập đảm bảo tính khoa học và tính khả thi cao đòi hỏi phải dựa trên thông tin đầy đủ, thích hợp và có cơ sở. Các thông tin này chủ yếu do kế toán quản trị cung cấp. Chẳng hạn, khi xây dựng chỉ tiêu lợi nhuận, doanh nghiệp phải xác định cách làm cụ thể để đạt mục tiêu đó. Kế toán viên của bộ phận kế toán quản trị sẽ cung cấp cho các nhà quản trị các thông tin, số liệu có cơ sở để nhà quản trị lựa chọn phương án tối ưu nhất, như chọn được sản phẩm sinh lợi cao nhất, huy động các nguồn lực hợp lý và có hiệu quả cao nhất, định giá bán hợp lý và có tính cạnh tranh cao nhất….
* Trong giai đoạn tổ chức thực hiện.
Trong khâu tổ chức thực hiện, các nhà quản trị phải biết cách liên kết tốt nhất các yếu tố, tổ chức, con người và các nguồn lực sao cho kế hoạch được thực hiện ở mức cao nhất và hiệu quả nhất. Để thực hiện tốt các chức năng này, nhà quản trị phải có nhu cầu thông tin rất lớn về các thông tin kế toán quản trị. Chẳng hạn, nhà quản trị cần được kế toán cung cấp thông tin để ra quyết định kinh doanh đúng đắn tron quá trình điều hành, chỉ đạo thực hiện các quyết định hàng ngày – các quyết định ngắn hạn. Ngoài ra, các quyết định dài hạn trong quá trình thực hiện các quyết định đầu tư dài hạn cũng cần phải có các thông tin cần thiết và đầy đủ.
* Trong giai đoạn kiểm tra và đánh giá.
Nhà quản trị sau khi đã lập kế hoạch đầy đủ và hợp lý, tổ chức thực hiện kế hoạch, đòi hỏi phải kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch. Phương pháp thường dùng là so sánh giữa số liệu thực hiện với số liệu kế hoạch và dự toán, xác định những sai biệt giữa kết quả đạt được và mục tiêu đã đề ra. Do đó, nhà quản trị cần được các kế toán viên quản trị cung cấp các báo cáo thực hiện để nhận diện những vấn đề còn tồn tại và cần có tác động của quản lý.
* Trong khâu ra quyết định.
Phần lớn các thông tin do kế toán quản trị cung cấp nhằm giúp các nhà quản trị ra quyết định. Đó là một chức năng quan trọng, xuyên suốt các khâu quản trị doanh nghiệp, từ khâu lập kế hoạch, tổ chức thực hiện đến việc kiểm tra đánh giá.
Các quyết định của nhà quản trị có thể là các quyết định đầu tư dài hạn, có thể là các quyết định ngắn hạn cho một khoảng thời gian trước mắt, cũng có thể là các quyết định mang tính tác nghiệp, điều hành hàng ngày, được vận dụng liên tục trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Để các các quyết định đúng đắn và kịp thời, các nhà quản trị phải có các thông tin đầy đủ, đáng tin cậy và thích hợp, nếu không thì không thể ra được các quyết định quản lý hiệu quả. Nếu có quá nhiều thông tin nhiễu loạn cũng khó có thể ra quyết định quản lý. Nhưng các thông tin thích hợp để ra quyết định thường không có sẵn. Kế toán quản trị thực hiện các nghiệp vụ phân tích chuyên môn, chọn lọc những thông tin cần thiết, rồi tổng hợp, trình bày chúng theo một trình tự dễ hiểu nhất và giải thích quá trình phân tích đó cho các nhà quản trị.
Kế toán quản trị giúp các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định không chỉ bằng cung cấp thông tin thích hợp, mà còn bằng cách vận dụng các kỹ thuật phân tích vào những tình huống khác nhau, từ đó nhà quản trị lựa chọn ra quyết định thích hợp nhất.
Như vậy thông tin kế toán quản trị rất đa dạng, phong phú, xuyên suốt các khâu của quá trình quản lý. Vì vậy, để cung cấp thông tin có hệ thống cho nhà quản trị cần thiết phải phân loại thông tin kế toán quản trị.
1.2.3. Phân loại hệ thống thông tin kế toán quản trị doanh nghiệp.
* Căn cứ vào mối quan hệ với các chức năng quản lý. Thông tin kế toán quản trị bao gồm:
- Các chỉ tiêu kinh tế được chính thức hoá từ các mục tiêu của doanh nghiệp.
- Các dự toán chung và các dự toán chi tiết.
- Thông tin về kết quả thực hiện các mục tiêu.
- Các báo cáo kế toán quản trị.
Tác dụng của cách phân loại này là nhằm cung cấp thông tin cho các giai đoạn khác nhau của quá trình quản lý. Tuy nhiên nhược điểm của cách phân loại này là chưa cho biết cụ thể thông tin đó phục vụ cho quản trị phần hành kế toán nào. Vì vậy cần căn cứ vào nội dung của thông tin để phân loại hệ thống thông tin kế toán quản trị như sau:
* Căn cứ vào nội dung của thông tin, hệ thống thông tin kế toán quản trị doanh nghiệp bao gồm:
- Thông tin kế toán quản trị các yếu tố sản xuất kinh doanh: hàng tồn kho, TSCĐ, lao động và tiền lương.
- Thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành.
- Thông tin kế toán quản trị doanh thu và kết quả kinh doanh.
- Thông tin kế toán quản trị các hoạt động đầu tư tài chính.
- Thông tin kế toán quản trị các hoạt động khác.
trong đó thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành được xem là bộ phận cơ bản, quan trọng nhất.
1.2.4. Nội dung hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành.
Về bản chất, thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành là thông tin về CPSX, GTSP phục vụ cho nhu cầu quản trị doanh nghiệp của nhà quản trị.
Hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành bao gồm các mảng thông tin sau:
- Thông tin về các loại chi phí sản xuất.
- Thông tin về giá thành sản phẩm.
- Thông tin về dự toán chi phí sản xuất.
1.2.4.1. Thông tin về các loại chi phí sản xuất.
Nhằm phục vụ cho việc hoạch định, kiểm soát và ra quyết định của nhà quản trị thì các khoản chi phí chi ra cần được các kế toán viên quản trị phân loại, tập hợp để cung cấp thông tin chi phí cần thiết cho nhà quản trị. Những thông tin về các loại CPSX mà nhà quản trị cần đó là:
* Chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.
- Chi phí sản xuất là toàn bộ chi phí có liên quan đến việc chế tạo sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Chi phí sản xuất bao gồm 3 khoản mục: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí lao động trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
- Chi phí ngoài sản xuất bao gồm hai loại: Chi phí bán hàng và tiếp thị, chi phí quản lý.
Để có thông tin về các loại chi phí này kế toán quản trị cần phải phân loại chi phí theo chức năng hoạt động của chi phí, nghĩa là xem xét vai trò của chi phí đối với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc nắm được hai loại chi phí này sẽ cho phép nhà quản trị doanh nghiệp biết được tương quan của các chi phí này trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó có biện pháp để khống chế các chi phí này ở mức hợp lý.
* Chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
- Chi phí sản phẩm: Là những khoản chi phí gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm. Chi phí sản phẩm bao gồm: CPNVLTT, CPNCTT, CPSXC. Chi phí sản phẩm chỉ tính ở kỳ mà sản phẩm tiêu thụ. Khi sản phẩm chưa được tiêu thụ thì chi phí sản phẩm được chuyển vào giá trị của hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán, còn khi sản phẩm được tiêu thụ thì chi phí sản phẩm được chuyển vào chỉ tiêu giá vốn hàng bán trên báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chi phí thời kỳ: Là những khoản chi phí phát sinh trong kỳ hạch toán. Chi phí thời kỳ có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận trong kỳ mà chi phí này phát sinh. Chi phí thời kỳ bao gồm: Chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Chi phí thời kỳ phát sinh kỳ nào được tính ngay vào chi phí kỳ đó. Các chi phí thời kỳ được chuyển vào chỉ tiêu chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp trên báo cáo kết quả kinh doanh. Nhà quản trị rất khó kiểm soát chi phí thời kỳ nếu để những chi phí này phát sinh quá mức cần thiết.
* Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
- Chi phí trực tiếp: Là chi phí có thể tách biệt, phát sinh một cách riêng biệt cho một hoạt động cụ thể của doanh nghiệp như một sản phẩm, một phân xưởng sản xuất, một đại lý. Xét về bản chất thì chi phí trực tiếp là chi phí mà tự bản thân nó hiển nhiên được chuyển vào đơn vị sản phẩm hoặc một đơn vị của tổ chức, cơ quan.
- Chi phí gián tiếp: Là các chi phí chung hay chi phí kết hợp, không có liên quan đến hoạt động cụ thể nào mà liên quan cùng lúc tới nhiều hoạt động. Do vậy để xác định chi phí gián tiếp của một hoạt động cụ thể phải áp dụng phương pháp phân bổ.
Trên góc độ quản trị doanh nghiệp thì chi phí trực tiếp thường mang tính chất có thể tránh được, nghĩa là phát sinh và mất đi cùng với sự phát sinh và mất đi của hoạt động cụ thể. Chi phí gián tiếp, trái lại mang tính không thể tránh được và chúng phát sinh để phục vụ cho ít nhất hai hoạt động trở lên cho nên chúng vẫn sẽ tồn tại khi một hoặc một vài hoạt động mà chúng phục vụ bị đình chỉ.
Để ra quyết định kinh doanh trong từng tình huống cụ thể, nhà quản trị cần thông tin về các loại chi phí sau:
* Định phí, biến phí và chi phí hỗn hợp.
Đây là những thông tin về chi phí phục vụ cho việc lập kế hoạch, kiểm tra và chủ động điều tiết chi phí của nhà quản trị. Nghĩa là căn cứ vào thông tin về các loại chi phí này do kế toán quản trị cung cấp, các nhà quản trị sẽ thấy được sự biến động của chi phí có phù hợp với sự biến động của mức độ hoạt động hay không và từ đó có các biện pháp hữu hiệu nhằm quản lý tốt các chi phí. Những thông tin chi phí này có được nhờ cách phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí.
- Định phí: Là những khoản chi phí không biến đổi trong một phạm vi phù hợp của mức độ hoạt động. Định phí có đặc điểm là: Tổng định phí không thay đổi trong phạm vi phù hợp của mức độ hoạt động. Định phí tính cho một đơn vị hoạt động căn cứ thì thay đổi. Nhằm phục vụ cho mục tiêu lập kế hoạch thì định phí được phân ra thành 2 loại:
+ Định phí tùy ý: Là định phí có thể được thay đổi nhanh chóng bằng hành động của nhà quản trị. Các nhà quản trị quyết định mức độ và số lượng định phí này trong các quyết định hàng năm.
+ Định phí bắt buộc: Là định phí không thể được thay đổi một cách nhanh chóng vì chúng thường liên quan đến tài sản cố định và cấu trúc cơ bản của doanh nghiệp.
- Biến phí: Là những khoản chi phí thay đổi tỷ lệ thuận với biến động về mức độ hoạt động. Biến phí có đặc điểm là: Biến phí tính cho một đơn vị hoạt động thì không thay đổi. Biến phí khi không có hoạt động thì bằng 0. Biến phí được chia làm 2 loại: Biến phí tỷ lệ và biến phí cấp bậc.
+ Biến phí tỷ lệ: Là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận trực tiếp với biến động của mức độ hoạt động căn cứ, thuộc về biến phí tỷ lệ có chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí lao động trực tiếp, hoa hồng bán hàng, …
+ Biến phí cấp bậc: Là những khoản chi phí chỉ thay đổi khi mức độ hoạt động thay đổi nhiều và rõ ràng, không đổi khi mức độ hoạt động thay đổi ít. Thuộc về biến phí cấp bậc thường bao gồm chi phí lao động gián tiếp, chi phí bảo trì…
Nhà quản trị muốn ứng phó với biến phí cấp bậc phải nắm được khả năng cung ứng của từng bậc để tránh huy động quá nhiều hoặc huy động quá ít so với nhu cầu.
Khi xác định một loại chi phí nào đó có phải là biến phí hay không, kế toán quản trị phải dựa vào tính chất về lượng tiêu hao của nó, bởi vì biến phí được cấu thành từ hai yếu tố cơ bản là lượng tiêu hao và mức giá đầu vào. Về mặt giá trị thì biến phí có thể không hoàn toàn tỷ lệ thuận với sự biến đổi của sản lượng một mặt hàng nào đó. Chẳng hạn bộ phận sản xuất tăng sản lượng sản phẩm thì mức tiêu hao nguyên vật liệu sẽ tỷ lệ thuận với sản lượng, nhưng do khối lượng nguyên vật liệu mua vào nhiều nên giá mua của nguyên vật liệu có thể giảm xuống do được hưởng chiết khấu, giảm giá,…Vì vậy chi phí NVLTT có thể không tăng tỷ lệ thuận với sản lượng sản phẩm sản xuất.
Ngoài ra khi phân định một yếu tố chi phí cho sản xuất có phải là định phí hay biến phí còn phụ thuộc vào cách thức tính toán các khoản chi phí đó. Chẳng hạn khi doanh nghiệp trả lương cho người lao động theo thời gian làm việc thì chi phí nhân công là định phí, nhưng khi doanh nghiệp trả lương cho người lao động theo sản phẩm thì chi phí nhân công là biến phí.
- Chi phí hỗn hợp: Là những khoản chi phí bao gồm cả 2 yếu tố biến phí và định phí. Phần bất biến của chi phí hỗn hợp thường phản ánh chi phí căn bản tối thiểu để duy trì phục vụ và để giữ dịch vụ đó luôn ở trạng thái sẵn sàng phục vụ. Còn phần chi phí khả biến trong chi phí hỗn hợp thường phản ánh chi phí thực tế sử dụng hoặc sử dụng quá định mức.
Nhằm mục đích lập kế hoạch, kiểm soát hoạt động kinh doanh và chủ động trong quản lý chi phí, kế toán viên quản trị cần phải ghi chép chi phí hỗn hợp khi chúng phát sinh và tách chúng thành hai yếu tố là chi phí khả biến và chi phí bất biến. Có hai phương pháp phân tích chi phí hỗn hợp thành chi phí khả biến và chi phí bất biến, đó là: - Phương pháp cực đại, cực tiểu
- Phương pháp bình phương bé nhất
+ Phương pháp cực đại cực tiểu: Nội dung của phương pháp này thể hiện qua các bước sau:
Bước 1: Khảo sát chi phí hỗn hợp ở các mức độ hoạt động khác nhau:
y0 = a x0 + b
y1 = a x1 + b
…
yn = a xn + b
Bước 2: Chọn 2 điểm: Điểm có mức độ hoạt động thấp nhất x tn, ytn
Điểm có mức độ hoạt động cao nhất xcn, ycn
Bước 3: Xác định biến phí đơn vị:
a =
Chênh lệch chi phí cao nhất với thấp nhất
Chênh lệch mức độ hoạt động cao nhất và thấp nhất
Bước 4: Định phí: b = ytn - a. xtn
+ Phương pháp bình phương bé nhất:
Theo phương pháp này có các bước sau:
Bước 1: Khảo sát chi phí hỗn hợp ở các mức độ khác nhau.
Bước 2: Biến phí đơn vị a, định phí b được xác định qua hệ phương trình sau:
S x.y = a. S x2 + b. S x
S y = a S x + nb
trong đó:
y: chi phí hỗn hợp.
x: mức độ hoạt động căn cứ.
a: Biến phí đơn vị.
b: định phí
n: số lần quan sát.
* Chi phí chênh lệch, chi phí cơ hội và chi phí chìm.
Thông tin về các loại chi phí này nhằm phục vụ cho việc ra quyết định về lựa chọn phương án của nhà quản trị.
- Chi phí chênh lệch: Việc tính toán chi phí chênh lệch được thực hiện bằng cách so sánh chi phí của các phương án khác nhau. Những chi phí có ở phương án này nhưng không có hoặc có một phần ở phương án khác được gọi là chi phí chênh lệch. Chi phí chênh lệch là căn cứ để ra quyết định về việc lựa chọn phương án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh.
- Chi phí cơ hội: Là phần lợi nhuận bị mất đi do lựa chọn hành động này thay vì hành động khác, phương án khác. Chi phí cơ hội không có trên sổ sách kế toán nhưng chi phí này phải được nhà quản trị xem xét một cách rõ ràng, dứt khoát trong mọi quyết định quản lý.
- Chi phí chìm: Là loại chi phí phát sinh trong quá khứ mà doanh nghiệp phải chịu và sẽ vẫn phải chịu dù doanh nghiệp chọn phương án hành động nào. Chi phí chìm không thích hợp với việc ra các quyết định kinh doanh của doanh nghiệp.
* Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được.
Các chi phí này có ý nghĩa trong việc quản trị chi phí của các nhà quản trị các cấp của doanh nghiệp đồng thời có ý nghĩa quan trọng trong việc phân tích kết quả của từng bộ phận thông qua báo cáo bộ phận của doanh nghiệp.
- Chi phí kiểm soát được ở một cấp quản lý nào đó là chi phí mà nhà quản lý cấp đó xác định được chính xác sự phát sinh của nó đồng thời có thẩm quyền ra quyết định đối với sự phát sinh của khoản chi phí đó.
- Chi phí không kiểm soát được đối với một cấp quản lý nào đó là những chi phí cấp đó không có quyền quyết định đối với chi phí đó.
1.2.4.2. Thông tin về giá thành sản phẩm.
Để giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp trong việc định giá bán sản phẩm, định giá hàng tồn kho cuối kỳ và ra các quyết định tình huống hàng ngày đòi hỏi phải tổng hợp được chi phí có liên quan đến sản xuất sản phẩm. Trong kế toán quản trị thông tin về chi phí đơn vị (giá thành sản phẩm) được tính toán và ghi chép theo những cách khác nhau trên cơ sở các phương pháp xác định chi phí. Có 2 phương pháp xác định chi phí là:
- Phương pháp xác định chi phí theo công việc.
- Phương pháp xác định chi phí theo quá trình sản xuất.
Phương pháp xác định chi phí theo công việc.
* Điều kiện áp dụng: Phương pháp này sử dụng trong các doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng hoặc các doanh nghiệp sản xuất đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ.
* Đặc điểm sản phẩm sản xuất: Sản phẩm của các doanh nghiệp này thường có tính tách biệt, không đồng nhất, có giá trị cao và thường được đặt mua trước khi bắt đầu sản xuất.
* Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất:
Theo phương pháp này, CPSX được tập hợp theo từng đơn đặt hàng. Đối với các chi phí về vật liệu xuất dùng, chi phí nhân công sản xuất liên quan đến đơn đặt hàng nào thì căn cứ vào chứng từ liên quan để hạch toán trực tiếp cho đơn đặt hàng đó. Đối với chi phí sản xuất chung, nếu liên quan đến nhiều đơn đặt hàng thì tiến hành phân bổ cho từng đơn đặt hàng theo tiêu thức phù hợp.
* Chứng từ sử dụng để hạch toán bao gồm:
- Đơn đặt hàng của khách hàng: Các khách hàng của doanh nghiệp đến doanh nghiệp đặt hàng và thể hiện yêu cầu của mình bằng đơn đặt hàng giao cho doanh nghiệp.
- Lệnh sản xuất: Khi nhận được đơn đặt hàng của khách hàng, giám đốc doanh nghiệp phải phát lệnh sản xuất và chuyển cho phòng kế toán và bộ phận sản xuất.
- Phiếu xuất kho vật tư: Đây là căn cứ để hạch toán vật tư xuất dùng cho đơn đặt hàng, là căn cứ để xác định chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
- Phiếu theo dõi lao động: Là bảng thanh toán lương dùng làm căn cứ xác định chi phí nhân công trực tiếp của từng đơn đặt hàng.
- Bảng phân bổ ước tính chi phí sản xuất chung: là căn cứ xác định chi phí sản xuất chung của từng đơn đặt hàng.
Trình tự luân chuyển chứng từ của phương pháp xác định chi phí theo công việc như sau: (Sơ đồ 1.4)
Đơn đặt hàng
Lệnh sản xuất
Phiếu xuất kho vật tư
Bảng phân bổ ước tính chi phí sản xuất chung
Phiếu theo dõi lao động
Phiếu tính giá thành theo công việc
Sơ đồ 1.4: Trình tự luân chuyển chứng từ theo phương pháp xác định chi phí theo công việc.
* Tài khoản sử dụng:
Kế toán cần sử dụng các tài khoản sau:
TK 621: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
TK 622: Chi phí nhân công trực tiếp.
TK 627: Chi phí sản xuất chung.
TK 154: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang.
TK 155: Thành phẩm.
Các TK 621, 622, 627, 154 được mở chi tiết cho từng đơn đặt hàng của khách hàng.
Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được thể hiện trên Sơ đồ 1.5
1. Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
2. Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp.
3. Chi phí sản xuất chung phân bổ ước tính.
4. Giá thành thành phẩm hoàn thành nhập kho.
TK 621
TK 622
TK 627
TK 154
TK 155
TK 632
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
5. Giá vốn đơn đặt hàng (công việc).
Sơ đồ 1.5: Trình tự kế toán chi phí theo công việc.
* Sổ sách sử dụng:
Mỗi một đơn đặt hàng được mở một phiếu chi phí công việc, phiếu này là một loại sổ chi tiết dùng để tập hợp chi phí sản xuất theo phương pháp xác định chi phí theo công việc. Phiếu chi phí công việc được lập khi phòng kế toán nhận được thông báo và lệnh sản xuất đã được phát ra cho công việc đó. Mỗi đơn đặt hàng được lập một phiếu chi phí công việc không quan tâm đến số lượng của đơn đặt hàng đó nhiều hay ít, phiếu này có tác dụng như một sổ phụ phản ánh chi phí sản xuất đã phát sinh trong quá trình sản xuất và có tác dụng như một báo cáo về sản phẩm sản xuất dở dang, khi sản phẩm hoàn thành thì phiếu chi phí công việc được chuyển từ khâu sản xuất sang tập hồ sơ theo dõi đơn đặt hàng đã kết thúc.
Kết cấu của phiếu chi phí công việc thể hiện trên Phụ lục số 01
Phương pháp xác định chi phí theo quá trình sản xuất.
* Điều kiện áp dụng: Phương pháp này thường được sử dụng ở các doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm phức tạp kiểu liên tục hoặc kiểu song song, sản phẩm của giai đoạn trước là đối tượng chế biến của giai đoạn tiếp sau.
* Đặc điểm sản phẩm: Sản phẩm thường mang tính đồng nhất, có giá trị nhỏ, được sản xuất đại trà hàng loạt lớn, đặt mua sau khi sản xuất.
* Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất:
CPSX được tập hợp theo từng giai đoạn công nghệ. Mỗi phân xưởng sản xuất thực hiện một giai đoạn công nghệ, giai đoạn đầu chi phí bỏ vào sản xuất thường gồm vật liệu chính, chi phí chế biến, giai đoạn sau là vật liệu phụ, chi phí chế biến hoặc chỉ bỏ thêm chi phí chế biến.
* Chứng từ sử dụng: - Quyết định sản xuất
- Lệnh sản xuất:
- Phiếu xuất kho vật tư.
- Phiếu theo dõi lao động trực tiếp.
- Bảng phân bổ chi phí sản xuất chung ước tính (hoặc thực tế).
Quyết định sản xuất
Lệnh sản xuất
Phiếu xuất kho vật tư
Bảng phân bổ ước tính chi phí sản xuất chung
Phiếu theo dõi lao động
Báo cáo sản xuất phân xưởng I
Báo cáo sản xuất phân xưởng II
Báo cáo sản xuất phân xưởng n
Trình tự luân chuyển chứng theo phương pháp này thể hiện trên Sơ đồ 1.6
Sơ đồ 1.6: Trình tự luân chuyển chứng từ theo phương pháp xác định chi phí theo quá trình sản xuất.
* Tài khoản sử dụng: Kế toán sử dụng các tài khoản sau:
TK 621: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
TK 622: Chi phí nhân công trực tiếp.
TK 627: Chi phí sản xuất chung.
TK 154: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang.
._.o số lượng sản phẩm cần sản xuất (đã xây dựng phần dự toán sản xuất) và định mức CPNCTT 1 đơn vị sản phẩm (đã xây dựng phần định mức).
Dự toán chi phí nhân công trực tiếp được xác định theo công thức sau:
Chi phí NCTT ước tính
=
Số lượng sản phẩm cần sản xuất
x
Định mức CPNCTT
1 đơn vị sản phẩm
* Dự toán chi phí sản xuất chung.
Khi dự toán chi phí sản xuất chung cần phải dự toán chi tiết các chi phí sản xuất chung cố định và chi phí sản xuất chung biến đổi.
- Đối với CPSXC biến đổi: Doanh nghiệp có thể dự toán CPSXC biến đổi theo 1 trong 3 cách sau:
Cách 1: Dự toán từng khoản mục biến phí sản xuất chung sau đó tổng hợp lại. Theo cách này, doanh nghiệp phải xây dựng được đơn giá cho từng khoản mục chi phí sản xuất chung. Công thức xác định như sau:
CPSXC biến đổi
Mức độ hoạt động ước tính
Đơn giá biến phí SXC
1 đơn vị hoạt động
= S [
x
]
Cách 2: Căn cứ vào định mức CPSXC biến đổi (đã xây dựng phần định mức CPSXC) và khối lượng sản phẩm sản xuất (xác định phần dự toán sản xuất).
CPSXC biến đổi
Khối lượng sản phẩm sản xuất hoàn thành
Đơn giá biến phí SXC
1 đơn vị sản phẩm
=
x
Cách 3: Xác định tỷ lệ chiếm của biến phí sản xuất chung so với tổng biến phí trực tiếp (gồm CPNVLTT và CPNCTT) bằng phương pháp thống kê kinh nghiệm số liệu của các kỳ trước.
Tổng biến phí trực tiếp
x
Tỷ lệ %
=
CPSXC biến đổi
- Đối với CPSXC cố định:
Định phí sản xuất chung thường không thay đổi so với kỳ thực tế, vì vậy có thể căn cứ vào chi phí thực tế phát sinh kỳ trước làm cơ sở ước tính cho kỳ kế hoạch.
3.3.2.5. Thiết kế tài khoản kế toán, sổ kế toán và báo cáo kế toán theo hướng cung cấp thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành cho doanh nghiệp.
Việc thiết kế tài khoản kế toán, sổ kế toán và báo cáo kế toán nhằm phục vụ cung cấp thông tin cho nhà quản trị doanh nghiệp phải xem xét mô hình tổ chức kế toán trong doanh nghiệp.
Có hai mô hình tổ chức kế toán trong doanh nghiệp có thể áp dụng, đó là: mô hình kế toán kết hợp và mô hình kế toán tách rời.
- Theo mô hình kế toán kết hợp, hệ thống kế toán quản trị được tổ chức kết hợp với hệ thống kế toán tài chính. Kế toán tài chính và kế toán quản trị được tổ chức thành một hệ thống thống nhất trong cùng một bộ máy kế toán. Kế toán tài chính sử dụng hệ thống tài khoản kế toán tổng hợp, còn kế toán quản trị sử dụng hệ thống tài khoản kế toán chi tiết, mức độ chi tiết của tài khoản phụ thuộc vào nhu cầu thông tin kế toán phục vụ cho quản trị nội bộ doanh nghiệp. Để xây dựng hệ thống kế toán quản trị chi phí giá thành phải sử dụng thêm các phương pháp khác như phương pháp thống kê, phương pháp toán… Việc ghi chép phản ánh, xử lý và truyền đạt thông tin được tính đến cả mục đích của kế toán tài chính và kế toán quản trị nhằm thoả mãn nhu cầu thông tin kế toán cho đối tượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
- Mô hình kế toán tách rời: theo mô hình này, tổ chức kế toán quản trị có tính độc lập với kế toán tài chính, sử dụng hệ thống tài khoản, hệ thống sổ sách riêng. Trong trường hợp này, kế toán trưởng phải bố trí bộ phận riêng để thực hiện nội dung kế toán quản trị.
Trong điều kiện lao động kế toán được tin học hóa như hiện nay thì mô hình kế toán kết hợp là phù hợp hơn với nước ta nói chung và trong các doanh nghiệp cơ khí thuộc Tổng công ty nói riêng với các lý do sau:
- Khái niệm kế toán quản trị thực sự vẫn còn khá mới mẻ với các nhà quản trị doanh nghiệp, kế toán quản trị mới xây dựng và phát triển ở mức độ thấp và còn mang tính chất lý thuyết nhiều hơn. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa có kinh nghiệm tổ chức thực hiện, chưa đủ điều kiện để tách riêng thành bộ phận độc lập.
- Kế toán tài chính và kế toán quản trị có quan hệ mật thiết với nhau về nguồn thông tin ban đầu cần thu thập, xử lý, có các phương pháp cơ bản và trình tự xử lý thông tin cung cấp cho các đối tượng sử dụng cũng giống nhau. Nếu tổ chức chung cùng một bộ máy sẽ tận dụng được lao động cho việc thu thập, xử lý, cung cấp thông tin chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
- Có thể dựa trên cơ sở tổ chức bộ máy kế toán doanh nghiệp để bổ sung chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận, không nên phá vỡ cấu trúc tổ chức của các phần hành kế toán để sắp xếp lại, như vậy sẽ đỡ tốn kém chi phí liên quan đến sổ sách, báo cáo kế toán… hơn so với tổ chức theo hệ thống kế toán riêng biệt.
Tuy vậy, tổ chức bộ máy kế toán hỗn hợp cũng có hạn chế là làm cho nội dung của công tác kế toán cồng kềnh, phức tạp, nếu nhân viên kế toán không được đào tạo chuyên sâu thì rất dễ bị nhầm lẫn, do vậy cần phải xác định, phân loại rõ ràng chi phí sản xuất cần được phản ánh trên báo cáo tài chính, trên báo cáo kế toán quản trị để từ đó thu nhận và xử lý.
Với những lý do nêu trên, luận văn xin được trình bày cách thiết kế tài khoản, sổ kế toán và báo cáo kế toán theo mô hình kế toán hỗn hợp cho các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty.
* Thiết kế tài khoản kế toán.
Tài khoản kế toán là phương pháp đặc thù của kế toán, được dùng để hệ thống hoá thông tin kế toán cho từng đối tượng kế toán cụ thể. Các tài khoản kế toán được mở chi tiết đến cấp 1, cấp 2, cấp 3 tuỳ thuộc vào nhu cầu theo dõi chi tiết các đối tượng kế toán đó của doanh nghiệp.
Tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty, về cơ bản tài khoản kế toán hạch toán chi phí giá thành ở các doanh nghiệp tuân theo hệ thống tài khoản ban hành theo quyết định 1141/TC/CĐKTT. Các tài khoản chi phí đã được mở chi tiết đến cấp 2 để theo dõi chi tiết theo nội dung kinh tế của chi phí. Tuy nhiên do yêu cầu của chuẩn mực kế toán mới về hạch toán CPSXC đồng thời nhằm cung cấp thông tin chi phí theo cách ứng xử của chi phí cho nhà quản trị mà không phải thiết kế thêm tài khoản kế toán mới thì tài khoản 627 – CPSXC còn cần phải mở chi tiết để theo dõi biến phí sản xuất chung và định phí sản xuất chung. Có thể chi tiết tài khoản 627 như sau:
627.A: Biến phí sản xuất chung.
627.B: Định phí sản xuất chung.
* Thiết kế hệ thống sổ kế toán.
Hiện nay các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty mới có bảng tính giá thành để theo dõi giá thành của các đơn đặt hàng hoàn thành. Tuy nhiên để có thể theo dõi cụ thể các chi phí phát sinh liên quan đến từng đơn đặt hàng kế toán cần lập cho mỗi đơn đặt hàng một phiếu chi phí công việc. Phiếu này là một loại sổ chi tiết dùng để tập hợp chi phí sản xuất theo phương pháp xác định chi phí theo công việc. Phiếu này có tác dụng như một sổ phụ phản ánh chi phí sản xuất đã phát sinh trong quá trình sản xuất và có tác dụng như một báo cáo về sản phẩm sản xuất dở dang. Phiếu chi phí công việc được lập khi phòng kế toán nhận được thông báo và lệnh sản xuất đã được phát ra cho công việc đó. Khi sản phẩm hoàn thành thì phiếu chi phí công việc được chuyển từ khâu sản xuất sang tập hồ sơ theo dõi đơn đặt hàng đã kết thúc (Xem phụ lục 01).
Ngoài ra có thể thiết kế thêm một số sổ kế toán để theo dõi chi tiết chi phí sản xuất theo cách ứng xử của chi phí cũng như làm cơ sở cho việc phân tích biến động của chi phí như:
- Sổ chi tiết chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
- Sổ chi tiết chi phí nhân công trực tiếp.
- Sổ chi tiết chi phí sản xuất chung.
(Phụ lục số 17, 18, 19).
Cơ sở lập các sổ chi tiết trên là:
- Căn cứ vào các chứng từ gốc liên quan đến các khoản mục chi phí như Phiếu xuất kho, bảng thanh toán lương, các chứng từ gốc phản ánh chi phí sản xuất chung thực tế như phiếu chi, bảng tính và phân bổ khấu hao, hoá đơn dịch vụ mua ngoài…để ghi cột thực tế.
- Căn cứ vào các đơn giá định mức, lượng định mức của các loại chi phí trên các bảng dự toán chi phí sản xuất để ghi cột định mức, dự toán.
- Căn cứ vào bảng phân loại chi phí sản xuất chung thành định phí và biến phí để ghi phần chi phí sản xuất chung định phí và chi phí sản xuất chung biến phí.
* Thiết kế hệ thống báo cáo kế toán.
Nhằm mục đích truyền đạt thông tin đến các nhà quản trị, hệ thống báo cáo kế toán quản trị chi phí giá thành phải đảm bảo được yêu cầu cung cấp thông tin thích hợp, kịp thời và phù hợp theo từng đối tượng sử dụng tin với chi phí được xử lý thích hợp.
Hệ thống báo cáo kế toán quản trị chi phí giá thành trong các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp có thể gồm các báo cáo sau:
- Các báo cáo phục vụ cho chức năng hoạch định của nhà quản trị gồm:
+ Dự toán sản xuất.
+ Dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
+ Dự toán chi phí nhân công trực tiếp.
+ Dự toán chi phí sản xuất chung.
(Phụ lục số 20,21, 22, 23).
- Các báo cáo phục vụ cho chức năng kiểm soát và đánh giá kết quả hoạt động gồm:
+ Báo cáo tình hình thực hiện định mức chi phí vật liệu và phân tích các chênh lệch về chi phí vật liệu.
+ Báo cáo tình hình thực hiện định mức chi phí nhân công và phân tích các chênh lệch về chi phí nhân công.
+ Báo cáo tình hình thực hiện dự toán biến phí sản xuất chung và phân tích các chênh lệch về biến phí sản xuất chung.
+ Báo cáo tình hình thực hiện dự toán định phí sản xuất chung và phân tích các chênh lệch về định phí sản xuất chung.
(Phụ lục 24, 25, 26, 27)
Các báo cáo trên được lập căn cứ vào các sổ chi tiết chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, sổ chi tiết chi phí nhân công trực tiếp, sổ chi tiết chi phí sản xuất chung.
3.3.2.6. ứng dụng thông tin kế toán quản trị cho việc ra các quyết định kinh doanh ngắn hạn.
Để có thể cung cấp thông tin cho các quyết định ngắn hạn như lựa chọn phương án kinh doanh khi có sự thay đổi của các yếu tố sản lượng, định phí, biến phí, giá bán, quyết định nên ngừng sản xuất hay tiếp tục sản xuất một bộ phận đang bị lỗ, nên sản xuất hay mua ngoài…thì kế toán quản trị sẽ sử dụng một số kỹ thuật như sau:
- Vận dụng lý thuyết thông tin thích hợp.
- Sử dụng kỹ thuật phân tích mối quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận.
- Ra quyết định ngắn hạn bằng một bản dự toán thu nhập theo hình thức số dư đảm phí.
* Vận dụng lý thuyết thông tin thích hợp.
Việc vận dụng lý thuyết thông tin thích hợp để ra các quyết định sản xuất kinh doanh có thể được xem là khâu quan trọng và có ý nghĩa bao trùm nhất. Vì việc nhận diện các thông tin thích hợp ngoài việc giảm thiểu được thời gian và chi phí cho việc thu thập xử lý thông tin, còn có tác dụng hạn chế tình trạng quá tải về thông tin dẫn đến việc đưa ra các quyết định sai lầm vì tình trạng nhiễu thông tin một khi các nhà quản trị phải đứng trước một khối lượng thông tin rất lớn, phong phú và có những tác động ảnh hưởng khác nhau. Thông tin thích hợp mà kế toán quản trị đề cập đến ở đây là thông tin về doanh thu, chi phí - các thông tin này phải đạt được cả hai tiêu chuẩn là:
- Phải liên quan đến tương lai.
- Phải có sự khác biệt giữa các phương án.
Để nhận diện thông tin thích hợp, có thể thực hiện theo trình tự sau đây:
Bước 1: Tập hợp tất cả các thông tin liên quan đến thu nhập và chi phí của các phương án đang được xem xét.
Bước 2: Loại bỏ các chi phí chìm - là những khoản chi phí đã chi ra trong quá khứ và không thể tránh được, vì vậy khoản chi phí này luôn tồn tại ở mọi phương án kinh doanh.
Bước 3: Loại bỏ các khoản thu nhập và chi phí giống nhau ở các phương án kinh doanh.
Bước 4: Phần thông tin còn lại sau khi đã được loại bỏ ở bước 2 và bước 3 là thông tin thích hợp làm nền tảng cho việc so sánh, đánh giá để ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu. Kết thúc bước này kế toán quản trị sẽ có một báo cáo tóm tắt thông tin thích hợp nhằm cung cấp cho nhà quản trị một căn cứ đáng tin cậy trong việc ra quyết định.
* Sử dụng kỹ thuật phân tích mối quan hệ chi phí-khối lượng-lợi nhuận.
Phân tích mối quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận là việc phân tích mối quan hệ nội tại để tìm ra một sự kết hợp có hiệu quả nhất giữa các nhân tố: giá bán sản phẩm, khối lượng hoạt động, biến phí của một đơn vị sản phẩm, định phí hoạt động và kết cấu của chi phí cũng như kết cấu sản lượng tiêu thụ, nhằm tìm ra khả năng tạo lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp.
Cụ thể như sau:
Phân tích điểm hoà vốn:
Định phí
=
Sản lượng hoà vốn
Đơn giá bán - Biến phí 1 sản phẩm
Doanh thu hoà vốn
Sản lượng hoà vốn x Đơn giá bán
=
Lựa chọn phương án kinh doanh:
a. Lựa chọn phương án kinh doanh khi biến phí và sản lượng thay đổi:
Số dư đảm phí = Doanh thu tiêu thụ – Chi phí khả biến.
Số dư đảm phí phương án mới
Ta có mô hình tổng quát sau:
Số dư đảm phí mới của một sản phẩm
=
Sản lượng tiêu thụ phương án kinh doanh cũ
) x
Tỷ lệ tăng sản lượng
(1 +
x
(C1)
Số dư đảm phí phương án cũ: C 0 . Nếu:
C1 –C0 >0 Nên tiến hành vì phương án mới sẽ gia tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
C1-C0 < 0 Không nên tiến hành vì phương án mới có lợi nhuận không gia tăng mà lại làm giảm một khoản C1 – C0.
b. Lựa chọn phương án kinh doanh khi định phí và sản lượng thay đổi:
x
Mức gia tăng
số dư đảm phí phương án mới do thay đổi sản lượng
(C1) =
Doanh thu phương án cũ
Tỷ lệ tăng sản lượng tiêu thụ
x
Tỷ lệ
số dư đảm phí phương án cũ
Mô hình tổng quát:
Mức tăng định phí phương án mới: C0. Nếu:
C1 – C0 > 0: Nên tiến hành vì phương án mới sẽ gia tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
C1 –C0 < 0: Không nên tiến hành vì phương án mới có lợi nhuận không gia tăng mà lại làm giảm một khoản C1 – C0.
c. Lựa chọn phương án kinh doanh khi biến phí, định phí và sản lượng tiêu thụ thay đổi.
) x
=
Sản lượng tiêu thụ phương án kinh doanh cũ
x
(1 +
Tỷ lệ tăng sản lượng
Số dư đảm phí mới của một sản phẩm
Số dư đảm phí phương án mới
(C1)
Mô hình tổng quát:
Số dư đảm phí phương án cũ: C0.
Tổng tăng giảm định phí phương án mới (DB) = Tổng tăng giảm định phí ở các khâu sản xuất, tiêu thụ, quản lý.
Nếu:
( C1 –C0 - DB ) >0 : Nên tiến hành vì phương án mới sẽ gia tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
( C1 –C0 - DB ) <0 : Không nên tiến hành vì phương án mới có lợi nhuận không gia tăng mà giảm một khoản ( C1 –C0 - DB )
d. Lựa chọn phương án kinh doanh khi định phí, sản lượng và giá bán thay đổi.
Mô hình tổng quát:
) x
x
=
Sản lượng tiêu
thụ phương án kinh doanh cũ
Số dư đảm phí phương án mới do thay đổi sản lượng, giá bán
(1 +
Tỷ lệ tăng sản lượng
Số dư đảm
phí mới của một sản phẩm phương án mới
(C1)
Số dư đảm phí phương án cũ (C0)
Tổng tăng giảm định phí phương án mới (DB) = Tổng tăng giảm định phí ở các khâu sản xuất, tiêu thụ, quản lý.
Nếu:
( C1 –C0 - DB ) >0 : Nên tiến hành vì phương án mới sẽ gia tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
( C1 –C0 - DB ) <0 : Không nên tiến hành vì phương án mới có lợi nhuận không gia tăng mà giảm một khoản ( C1 –C0 - DB )
e. Lựa chọn phương án kinh doanh khi biến phí, định phí, sản lượng và giá bán thay đổi.
Tổng số dư đảm phí phương án mới do thay đổi biến phí, giá bán, sản lượng
Mô hình tổng quát:
Sản lượng tiêu thụ phương án kinh doanh cũ
Số dư đảm phí mới của một sản phẩm phương án mới
Tỷ lệ tăng sản lượng
(1 +
(C1)
) x
x
=
Số dư đảm phí phương án cũ : C0 . Tổng mức tăng giảm định phí: DB. Nếu:
( C1 –C0 - DB ) >0 : Nên tiến hành vì phương án mới sẽ gia tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
( C1 –C0 - DB ) <0 : Không nên tiến hành vì phương án mới có lợi nhuận không gia tăng mà giảm một khoản ( C1 –C0 - DB )
f. Định giá bán sản phẩm trong một số trường hợp.
Trường hợp định giá bán cũng có thể áp dụng chuyển lỗ thành lãi cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp đang kinh doanh thua lỗ, khan hiếm thị trường và khách hàng có nhu cầu giảm giá.
Chỉ tiêu
Tổng cộng
Đơn vị
Biến phí đang sản xuất
kinh doanh
Xa
a
Mức tăng giảm biến phí theo đơn đặt hàng hoặc nhu cầu mới của khách hàng
X Da
Da
Mức lỗ đang phát sinh tại doanh nghiệp.
L
l =
L
X
Mức lợi nhuận cần đạt được với đơn đặt hàng mới
P
X
p =
P
Giá bán
Xa + X Da + L + P
a + Da + l + p
Tổng hợp mô hình giá trong những trường hợp doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh có lãi, thừa công suất sản xuất, giá bán tối thiểu với nhu cầu đặt hàng X sản phẩm như sau:
Chỉ tiêu
Tổng cộng
Đơn vị
Biến phí đang sản xuất kinh doanh
Xa
a
Mức tăng giảm biến phí theo đơn đặt hàng hoặc nhu cầu mới của khách hàng
X Da
Da
Mức lợi nhuận cần đạt được với đơn đặt hàng
P
P
p =
X
Giá bán
Xa + X Da + P
a + Da + p
g. Ra các quyết định trong các tình huống kinh doanh đặc biệt:
Quyết định ngừng sản xuất hay tiếp tục sản xuất kinh doanh một bộ phận đang bị lỗ.
Thông tin thích hợp trong trường hợp này là những chi phí bất biến có thể tránh được để bù lại sự giảm bớt của phần số dư đảm phí nếu doanh nghiệp ngừng sản xuất kinh doanh một bộ phận hoặc ngành hàng này. Khi đó, nhà quản trị sẽ so sánh giữa các khoản chi phí bất biến có thể loại bỏ khi ngừng kinh doanh bộ phận này với số dư đảm phí bộ phận.
- Nếu phần định phí có thể tránh được nếu ngừng kinh doanh bộ phận này > số dư đảm phí bộ phận: doanh nghiệp không nên duy trì hoạt động của bộ phận này.
- Nếu phần định phí có thể tránh dược nếu ngừng kinh doanh bộ phận này < số dư đảm phí bộ phận: doanh nghiệp nên duy trì hoạt động của bộ phận này cho đến khi có phương án khác mang lại lợi nhuận nhiều hơn.
Quyết định nên sản xuất hay mua ngoài:
Trường hợp 1: doanh nghiệp đang hoạt động dưới mức công suất thiết kế và khi không sản xuất bán thành phẩm thì cũng không có phương án kinh doanh khác thay thế. Như vậy, trong trường hợp này chi phí cơ hội bằng 0. Lúc này thông tin thích hợp để chọn lựa phương án nên tự sản xuất hay mua ngoài là:
- Các chi phí có thể tránh được nếu không sản xuất bán thành phẩm (gồm biến phí sản xuất bán thành phẩm và định phí gắn với việc nếu tự sản xuất bán thành phẩm).
- Giá mua bán thành phẩm từ nguồn cung cấp bên ngoài.
Khi đó:
- Nếu giá mua bán thành phẩm từ nguồn cung cấp bên ngoài < Phần chi phí có thể tránh được: Doanh nghiệp nên mua ngoài thì có lợi hơn việc tự sản xuất bán thành phẩm.
- Nếu giá mua bán thành phẩm từ nguồn cung cấp bên ngoài > Phần chi phí có thể tránh được: Doanh nghiệp nên tự sản xuất bán thành phẩm thì có lợi hơn việc mua ngoài.
Trường hợp 2: Trường hợp doanh nghiệp đang hoạt động hết mức công suất thiết kế nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu về thành phẩm cung cấp cho bên ngoài, và lợi nhuận ước tính sẽ thu về từ hợp đồng này lớn hơn khoản chi phí phải trả thêm nếu mua bán thành phẩm từ nguồn cung cấp bên ngoài về để lắp ráp thành sản phẩm hoàn thành cung cấp cho các hợp đồng này. Do có những giới hạn về yếu tố như nhân công, về giờ máy sử dụng, về số giờ lao động,… vì vậy, doanh nghiệp buộc phải đứng trước tình huống cần quyết định nên mua ngoài bộ phận chi tiết nào để có lợi nhất.
Trước hết ta xem xét nếu biến phí sản xuất + định phí gắn với việc sản xuất một bộ phận chi tiết nào đó > giá mua của bộ phận đó từ bên ngoài thì dứt khoát doanh nghiệp nên mua ngoài bộ phận này.
Sau đó, xem xét đến các yếu tố hạn chế của doanh nghiệp lúc này ta sẽ tính chi phí tăng thêm trên một đơn vị của yếu tố bị giới hạn, chẳng hạn nếu bị giới hạn về số lao động thì cần tính chi phí tăng thêm trên một giờ lao động, hay nếu bị hạn chế về số giờ máy hoạt động thì cần tính chi phí tăng thêm cho một giờ máy… sau đó sẽ quyết định mua ngoài những bộ phận, chi tiết nào đó có chi phí tăng thêm trên một đơn vị yếu tố giới hạn là thấp nhất.
Khoản chi phí tăng thêm chính là chênh lệch do giá mua ngoài > (Biến phí sản xuất bán thành phẩm + phần định phí gắn với việc sản xuất bán thành phẩm)
3.4. Điều kiện để thực hiện các giải pháp.
Như đã nêu trên, để hoàn thiện hạch toán CPSX và tính GTSP với việc xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị ở các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp, ngoài việc kế thừa thành tựu của các nước về vấn đề này và đưa ra các giải pháp cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp thì việc xác định một số điều kiện tiền đề nhằm hỗ trợ cho việc hoàn thiện hạch toán CPSX và tính GTSP, xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp nói trên cũng là một yêu cầu hết sức cấp thiết.
3.4.1. Về phía nhà nước và các cơ quan chuyên ngành.
Xuất phát từ vai trò định hướng hoặc hướng dẫn thực hiện, Nhà nước phải xây dựng được những khái niệm, nguyên tắc, chuẩn mực để xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị ở các doanh nghiệp, ban hành hệ thống tài khoản, hướng dẫn việc ghi chép thông tin kế toán quản trị ở các doanh nghiệp.
* Về chính sách kế toán.
Cần có một chính sách kế toán nhằm phân định nội dung của thông tin kế toán quản trị và thông tin kế toán tài chính cùng với văn bản hướng dẫn xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị được ban hành từ phía cơ quan Nhà nước. Cụ thể là Vụ chế độ kế toán thuộc Bộ tài chính phải đảm trách nhiệm vụ này. Mặt khác, cũng cần có văn bản hướng dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp về các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm kết hợp giữa cung cấp thông tin của kế toán tài chính và thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành để các doanh nghiệp qua đó vận dụng vào điều kiện cụ thể của doanh nghiệp mình.
* Về việc đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực.
Cần xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo chuyên ngành kế toán quản trị cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp có đào tạo kế toán vì kế toán quản trị cũng như thông tin kế toán quản trị vẫn còn là khái niệm khá mới mẻ ở Việt Nam.
Hội kế toán Việt Nam, với vai trò là một tổ chức nghề nghiệp cũng nên tạo điều kiện hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc thu thập các thông tin kế toán quản trị thông qua các buổi hội thảo, sinh hoạt của hội kế toán… Trên cơ sở đó giúp doanh nghiệp nhận thức được tầm quan trọng của thông tin kế toán quản trị trong việc quản lý điều hành hoạt động của đơn vị mình.
Bộ tài chính cũng cần tổ chức các khoá đào tạo kế toán quản trị cho các kế toán viên các doanh nghiệp thuộc các ngành, những người chưa được tiếp cận với môn học này ở các trường học để giúp họ hiểu được ý nghĩa tác dụng và nội dung của kế toán quản trị nói chung và hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành nói riêng.
3.4.2. Về phía các doanh nghiệp.
* Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp.
Cần nâng cao nhận thức và trình độ quản lý cho các nhà quản trị doanh nghiệp để tăng cường khả năng cạnh tranh và khả năng hội nhập với kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới. Các nhà quản trị phải biết đưa ra những yêu cầu về thông tin cần được bộ phận kế toán quản trị cung cấp, và quan trọng phải có kiến thức phân tích cũng như biết sử dụng thông tin. Mặt khác các nhà quản trị cũng phải biết kế hoạch hoá chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc lập kế hoạch dài hạn và ngắn hạn. Dự toán ngân sách được sử dụng trong kế toán quản trị sẽ là một công cụ định lượng giúp các nhà quản trị doanh nghiệp lập kế hoạch và kiểm soát việc thực hiện các kế hoạch này.
* Đối với bộ máy kế toán doanh nghiệp.
Hoàn thiện bộ máy kế toán của doanh nghiệp để bộ máy kế toán thực sự là nguồn cung cấp thông tin kế toán quản trị cho các quyết định của nhà quản trị doanh nghiệp. Ngoài ra trong tổ chức bộ máy kế toán tại doanh nghiệp, cần chú trọng tính bảo mật của thông tin kế toán quản trị.
* Đối với nguồn nhân lực thực hiện kế toán quản trị.
- Cần nắm vững luật kế toán, chuẩn mực kế toán mới ban hành và chế độ quản lý tài chính và hạch toán kế toán để vận dụng cho đúng. Đảm bảo đúng quy trình hạch toán và đúng nguyên tắc kế toán.
- Đào tạo đội ngũ kế toán phải có kiến thức chuyên sâu, hiểu vững nghiệp vụ kế toán cũng như kế toán quản trị và các kiến thức khác như thống kê, phân tích kinh doanh …
* Về sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật.
Lịch sử phát triển của việc thiết lập hệ thống thông tin cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin ở các nước trên thế giới cũng như tại Việt Nam đã chứng minh rằng sự ứng dụng phần mềm kế toán vào quản lý doanh nghiệp là một điều tất yếu. Hiện nay đa số các doanh nghiệp đều đã mua và sử dụng các phần mềm kế toán mà phổ biến là V.EFFECT, LV- AccNet, Bravo… tuy nhiên chưa khai thác hết được năng lực của máy móc thiết bị cũng như của các phần mềm kế toán. Những thông tin có được từ các phần mềm kế toán vẫn chỉ bao gồm các thông tin kế toán tài chính là chủ yếu, còn thông tin kế toán quản trị chưa có hoặc có thì rất ít và mới chỉ dừng lại ở mảng kế toán quản trị về tiền lương, vật tư và tài sản cố định là chủ yếu.
Vì vậy trước nhu cầu thông tin kế toán quản trị hiện nay đòi hỏi các nhà quản trị và các kế toán viên cần biết đặt hàng cho các chuyên viên phần mềm những yêu cầu quản lý của mình để họ có thể cung cấp được các phần mềm hiệu quả.
* Đối với hệ thống chỉ tiêu thông tin.
- Cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu thông tin trong nội bộ doanh nghiệp một cách đồng bộ và thống nhất, tránh sự trùng lắp nhằm đảm bảo cho sự truyền tải thông tin được nhanh chóng và thuận lợi, cũng như không xuất hiện mâu thuẫn lẫn nhau giữa các thông tin được cung cấp. Ban quản trị của doanh nghiệp cần thiết kế một cấu trúc tổ chức khoa học bao gồm việc tổ chức bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh hợp lý, có sự phân định rõ ràng về trách nhiệm và quyền hạn của từng bộ phận trong việc thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin. Có như vậy mới tạo nên một hệ thống thông tin hoàn chỉnh đáp ứng được nhu cầu thông tin của các đối tượng sử dụng trong doanh nghiệp.
- Cần xây dựng một hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật tiên tiến và hiện thực để vận dụng trong doanh nghiệp, nhằm cung cấp một nguồn dữ liệu đáng tin cậy cho kế toán quản trị trong việc dự báo và kiểm soát chi phí.
Kết luận chương 3.
Trong chương 3 luận văn đã đưa ra một số giải pháp cho việc hoàn thiện hạch toán CPSX và tính GTSP với việc xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành trong các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và trong các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp nói riêng.
Qua việc phân tích nội dung của hạch toán CPSX và tính GTSP, nội dung hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành, luận văn đã nêu ra được những vấn đề cụ thể của hạch toán CPSX, xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp từ việc hạch toán CPSX theo khoản mục và theo cách ứng xử của chi phí, áp dụng phương pháp hạch toán CPSXC nhằm cung cấp kịp thời thông tin giá thành cho nhà quản trị đến việc xây dựng các định mức chi phí và lập dự toán chi phí, thiết kế các tài khoản, sổ kế toán và báo cáo kế toán nhằm phản ánh thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành.
Dựa trên những đề xuất đã nêu, luận văn đã rút ra một số điều kiện cũng như yêu cầu cụ thể để có thể thực hiện hạch toán CPSX và tính GTSP, xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành trong các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và trong các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp nói riêng.
Bên cạnh đó luận văn còn khẳng định hoàn thiện hạch toán CPSX và tính GTSP, xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị trong các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp là một yêu cầu hết sức cấp thiết, cấp bách nhằm đạt được mục tiêu trong chiến lược phát triển Tổng công ty đến năm 2010 mà Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt.
KẾT LUẬN
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO của nước ta hiện nay, các doanh nghiệp cơ khí thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp phải tìm mọi cách đối phó với những cạnh tranh khốc liệt từ các doanh nghiệp khác ở cả trong và ngoài nước. Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải không ngừng tìm mọi biện pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Vì vậy công tác kế toán, đặc biệt là hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác giúp các nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra các quyết định đúng đắn phục vụ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Để thực hiện được nhiệm vụ này công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp cơ khí thuộc Tổng công ty phải không ngừng hoàn thiện. Việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp” có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Với phạm vi và điều kiện nhất định đề tài đã có một số đóng góp và đạt được những kết quả sau:
* Luận văn đã phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất, lý luận về hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí - giá thành.
* Luận văn đã phân tích đúng thực trạng về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, thực trạng hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành của các doanh nghiệp thuộc TCTM và TBCN. Từ đó, có những nhận xét, đánh giá, phân tích làm rõ những kết quả đã đạt được và những tồn tại cần được hoàn thiện.
* Từ những phân tích về lý luận và thực trạng tại các doanh nghiệp thuộc TCTM và TBCN, luận văn đã đề xuất những phương hướng và giải pháp hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí - giá thành tại các doanh nghiệp này, trong đó tập trung giải quyết một số vấn đề như: Hoàn thiện việc hạch toán chi phí nhằm cung cấp thông tin kế toán quản trị về các loại chi phí; Xây dựng phương pháp xác định chi phí nhằm cung cấp thông tin kế toán quản trị chi phí - giá thành; Xây dựng định mức chi phí sản xuất và dự toán chi phí sản xuất; Thiết kế tài khoản kế toán, sổ kế toán và báo cáo kế toán theo hướng cung cấp thông tin kế toán quản trị chi phí - giá thành …
Với nội dung trình bày, luận văn đã đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu đặt ra và những ý kiến đề xuất trong luận văn sẽ có ý nghĩa thiết thực, trọng yếu giúp các doanh nghiệp cơ khí nói chung, các doanh nghiệp cơ khí thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp nói riêng trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cũng như xây dựng được hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí - giá thành.
Tuy nhiên do phạm vi nghiên cứu rộng nên luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý tận tình của thầy cô giáo để luận văn được hoàn chỉnh, phát triển nội dung và phương pháp luận.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS-19.doc