Lời mở đầu.
Sự phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Xã hội ngày càng tiến bộ, nhu cầu của con người ngày càng đa dạng đòi hỏi sản xuất cũng không ngừng mở rộng. Vì vậy, quá trình sản xuất có ý nghĩa quan trọng, chiếm một khối lượng lớn trong công việc hàng ngày của xã hội loài người.
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong cơ chế này, các doanh ng
44 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1162 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty thiết bị Giáo dục I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệp phải tổ chức hạch toán kinh doanh độc lập, tự tìm đối tác kinh doanh từ khâu mua vào để sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Chính vì vậy, doanh nghiệp luôn đề cao nguyên tắc "Tự bù đắp và có lãi". Lợi nhuận và không ngừng nâng cao lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu và quyết định sự phát triển của mọi hoạt động kinh doanh. Để đạt được mục tiêu này, doanh nghiệp hoặc phải nâng cao giá bán hoặc phải hạ thấp giá thành sản phẩm. Giá bán không phải là biện pháp lâu dài và bền vững vì người tiêu dùng luôn mong muốn có được sản phẩm chất lượng cao mà giá lại hạ. Vì vậy, biện pháp có ý nghĩa lâu dài, mang tính chiến lược là biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm trong điều kiện chất lượng không đổi hoặc ngày càng được nâng cao.
Để thực hiện được điều này, doanh nghiệp cần tổ chức tốt công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nhằm đánh giá được mọi khía cạnh, nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và giá thành. Từ đó thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm, giảm bớt lượng vốn lưu động sử dụng trong sản xuất và lưu thông, tạo thế và lực mới cho doanh nghiệp trong sản xuất và cạnh tranh.
Cũng như mọi doanh nghiệp khác, Công ty thiết bị Giáo dục I chịu sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường. Với tư cách là một doanh nghiệp Nhà nước tiến hành sản xuất thì công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chiếm một khối lượng lớn và không thể thiếu được trong hoạt động của bộ máy kế toán. Qua thời gian thực tập tại Công ty thiết bị Giáo dục I, được sự chỉ bảo của các anh chị kế toán và sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thanh Quý, nhận thấy vai trò quan trọng cũng như những vướng mắc, tồn tại trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, em xin mạnh dạn lựa chọn đề tài: "Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty thiết bị Giáo dục I".
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề xin trình bày ba phần chính:
Phần I: Những vấn đề cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất.
Phần II: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty thiết bị Giáo dục I
Phần III: Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty thiết bị Giáo dục I.
Vì trình độ còn nhiều hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong được sự giúp đỡ của cô giáo Nguyễn Thanh Quý để hoàn thành tốt chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Phần I
Những vấn đề lí luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất.
I. Sự cần thiết của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp
1. Khái niệm, bản chất của chi phí sản xuất
Xã hội loài người muốn tồn tại và phát triển thì phải sản xuất ra của cải vật chất và không ngừng tái sản xuất mở rộng. Để sản xuất và mở rộng sản xuất, doanh nghiệp nói riêng và toàn xã hội nói chung cần bỏ ra các chi phí về nguyên vật liệu, về tiền công lao động và các khoản phải trả khác cho người lao động , chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài....Đồng thời, quá trình sản xuất lại là quá trình tiêu hao chính bản thân các yếu tố này. Rõ ràng, muốn có bất kỳ một loại sản phẩm nào, dù là nhỏ nhất thì doanh nghiệp đều phải bỏ ra những chi phí nhất định. Chi phí là yếu tố khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người sản xuất.
Trên thực tế, có một khái niệm chúng ta rất hay nhầm lẫn với khái niệm chi phí - đó là chi tiêu. Vì vậy cần xem xét điểm khác biệt giữa hai khái niệm này. Về mặt lượng, chi phí là những hao phí về lao động và tài sản có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ còn chi tiêu là sự giảm đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp bất kể nó dùng vào mục đích gì: cho quá trình cung cấp, cho sản xuất kinh doanh hay tiêu thụ. Về mặt thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng chưa được tính vào chi phí (như chi mua vật tư về nhập kho nhưng chưa sử dụng trong kỳ...) và lại có những khoản được tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu (các khoản trích trước tiền lương lao động trực tiếp, trích trước về thiệt hại ngừng sản xuất theo kế hoạch...)
Như vậy, có thể thấy rõ bản chất của chi phí sản xuất. Theo kế toán Việt Nam, chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp phải bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một kỳ nhất định (tháng, quí, năm).
Theo kế toán Pháp, chi phí được hiểu là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp bỏ ra mua các yếu tố của quá trình sản xuất trong một thời gian nhất định. Các yếu tố đó gồm: vật tư cho sản xuất, tiền công cho người lao động và các chi phí khác phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Mặc dù mỗi nước đưa ra một khái niệm khác nhau về chi phí song bản chất của chi phí không thay đổi. Nắm được đúng bản chất chi phí, xác định đúng chi phí phát sinh là tiền đề đánh giá đúng hiệu quả sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Công việc này đòi hỏi sự lao động nghiêm túc của người làm công tác kế toán.
2. Khái niệm, bản chất của giá thành sản phẩm
Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Chi phí sản xuất biểu hiện mặt hao phí sản xuất còn giá thành sản phẩm biểu hiện mặt kết quả sản xuất. Giá thành sản phẩm là thước đo bù đắp chi phí và thước đo lập giá. Theo kế toán Việt Nam, giá thành là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ hoàn thành. Như vậy, giá thành sản phẩm không bao gồm tất cả các chi phí đã phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Giá thành sản phẩm chỉ phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn... trong quá trình sản xuất với một khối lượng sản phẩm nhất định.
3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là biểu hiện bằng tiền của những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá. Chi phí sản xuất liên quan đến thời kỳ tiến hành sản xuất còn giá thành sản phẩm liên quan đến khối lượng sản phẩm, dịch vụ, lao vụ hoàn thành trong kỳ. Muốn tính được giá thành sản phẩm, trước hết phải tập hợp được chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm được thể hiện:
Tổng CPSX sản phẩm = CPSX + CPSX - CPSX
hoàn thành dở dang đầu kỳ phát sinh trong kỳ dở dang cuối kỳ
Qua đó ta thấy, chi phí sản xuất là một yếu tố quan trọng trong giá thành sản phẩm. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có thể bằng nhau hoặc khác nhau phụ thuộc vào phần chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ hoặc cuối kỳ. Số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp được là cơ sở, căn cứ để tính giá thành cho từng đối tượng tính giá thành có liên quan. Có thể tương ứng với một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là nhiều đối tượng tính giá thành hoặc ngược lại, nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất tương ứng với một đối tượng tính giá thành.
Tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng không chỉ phục vụ tốt cho việc quản lí mà còn phục vụ tốt cho công tác tính giá thành một cách đầy đủ, kịp thời.
4. Vai trò của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, công việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một bước quan trọng kết thúc quá trình sản xuất, chuẩn bị cho quá trình tiêu thụ.
Trong cơ chế thị trường, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm không phản ánh đúng vai trò của nó. Các doanh nghiệp không được tự ý quyết định các yếu tố chi phí cho quá trình sản xuất. Nhà nước khống chế các chi phí đầu vào, khống chế các phương án đánh giá các yếu tố vật chất và cả phương án sản xuất. Giá thành thời kỳ này không biểu thị các chi phí bỏ ra để sản xuất sản phẩm mà biểu hiện sự ràng buộc về mặt ý chí của con người để thực hiện quá trình sản xuất. Giá thành biến động một cách phức tạp, phản ánh xuyên tạc sự hình thành, vận động của các yếu tố đầu vào, chi phí sản xuất kinh doanh. Điều này khiến cho các doanh nghiệp hao phí các khoản chi phí mà không tính đến hiệu quả, khả năng tự bù đắp, gây ra hiện tượng "Lãi giả, lỗ thật" và cũng khiến cho các doanh nghiệp không phát huy được khả năng linh hoạt chủ động mà mang nặng tính ỷ lại, trông chờ từ phía Nhà nước và thiếu quan tâm đến hiệu quả do các đầu vào đem lại.
Bước sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải tự chủ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Một nguyên tắc cơ bản nhất của hạch toán kinh tế trong nền kinh tế mới này là: tự bù đắp và có lãi. Mục tiêu quan trọng hàng đầu đối với các doanh nghiệp là không ngừng nâng cao lợi nhuận. Lúc này, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm mới phát huy vai trò của nó. Để đạt được mục tiêu lợi nhuận, doanh nghiệp hoặc phải nâng cao giá bán hoặc phải hạ thấp giá thành sản phẩm. Giá bán không phải là biện pháp lâu dài và bền vững vì người tiêu dùng luôn mong muốn có được sản phẩm có chất lượng cao mà giá lại hạ. Vì vậy, biện pháp có ý nghĩa lâu dài, mang tính chiến lược là hạ thấp giá thành sản phẩm. Muốn đạt được điều đó, doanh nghiệp cần tiết kiệm chi phí sản xuất trong điều kiện chất lượng sản phẩm không đổi hoặc ngày càng được nâng cao. Như vậy, có thể nói chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là một yếu tố quan trọng, quyết định sự tồn tại trong cạnh tranh của các doanh nghiệp. Tiết kiệm được chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm là cơ sở để hạ giá bán sản phẩm mà vẫn đạt được mục tiêu lợi nhuận, thu hút được lượng tiêu thụ lớn, tạo lợi thế trong cạnh tranh.
Tổ chức tốt công tác hạch toán chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng tích luỹ của doanh nghiệp, cải thiện đời sống của người lao động, tiết kiệm được tài nguyên thiên nhiên cho quốc gia. Đồng thời, thông tin về chi phí giá thành sản phẩm còn rất có ích đối với Nhà nước, các nhà đầu tư hay Ngân hàng....
5. Yêu cầu và nhiệm vụ của kế toán hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Như đã biết thông tin về chi phí và giá thành sản phẩm không chỉ quan trọng đối với doanh nghiệp mà còn có ích đối với các chủ thể khác ngoài doanh nghiệp như Nhà nước, nhà đầu tư ... Do đó, doanh nghiệp cần phải làm tốt công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành, cụ thể kế toán phải thực hiện các nhiệm vụ sau :
- Căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất của doanh nghiệp để xác định chính xác đối tượng tập hợp chi phí, phương pháp tập hợp và phân bổ chi phí một cách hợp lí. Kế toán hạch toán chi phí sản xuất không chỉ đòi hỏi ghi chép đơn thuần về mặt lượng hao phí mà còn bao gồm cả việc xác định đúng địa điểm chịu phí, đối tượng chịu phí ...
- Xác định đúng đối tượng tính giá thành, phương pháp tính giá thành, kỳ tính giá thích hợp.
- áp dụng phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang hợp lí, tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm có loại bỏ những khoản thiệt hại không được quy kết trách nhiệm rõ ràng.
- Thông qua các thông tin về chi phí, giá thành tập hợp được, kế toán phải tiến hành xem xét, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành, đánh giá công tác lập kế hoạch xem có sát với thực tế không để có những điều chỉnh hợp lí phục vụ tốt cho quản trị doanh nghiệp.
Để làm tốt công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm, các cán bộ kế toán phải tuân thủ các nguyên tắc sau :
- Nắm vững nội dung bản chất kinh tế của chi phí sản xuất, của giá thành sản phẩm.
- Phân định được chi phí sản xuất với giá thành sản phẩm và nắm rõ mối quan hệ giữa chúng.
- Nắm vững được các cách phân loại chi phí, phân loại giá thành hợp lí theo yêu cầu của công tác quản lí và hạch toán.
- Hiểu được trình tự hạch toán chi phí sản xuất, tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
II.Phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
A. Phân loại chi phí sản xuất.
Mặc dù bản chất chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí nhưng thực tế phát sinh chi phí lại rất đa dạng. Trong một kỳ kinh doanh, chi phí sản xuất có rất nhiều loại khác nhau cả về vị trí, tính chất, công dụng....Để thuận lợi cho công tác hạch toán và quản lí, cần thiết phải phân loại chi phí sản xuất kinh doanh. Có nhiều cách phân loại chi phí dựa vào các căn cứ khác nhau:
1. Phân loại chi phí theo khoản mục:
Theo cách này, chi phí sản xuất kinh doanh được chia làm 5 khoản mục
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu tham gia vào quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
- Chi phí nhân công trực tiếp: gồm toàn bộ khoản thù lao lao động phải trả cho công nhân trực tiếp chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ như: tiền lương, phụ cấp lương, các khoản trích theo lương cho các quĩ BHXH, BHYT, KPCĐ.
- Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng như: tiền lương cho cán bộ quản lí phân xưởng, khấu hao TSCĐ, máy móc thiết bị cho phân xưởng (trừ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp).
- Chi phí bán hàng: là toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ.
- Chi phí quản lí doanh nghiệp: gồm những khoản chi phí phát sinh liên quan đến hoạt động của toàn doanh nghiệp như chi phí quản lí kinh doanh, chi phí hành chính...
Cách phân loại này tạo thuận lợi cho việc tính giá thành sản phẩm từ đó xác định đúng giá bán sản phẩm, hàng hoá.
2. Phân loại chi phí theo yếu tố chi phí:
Theo cách này toàn bộ chi phí trong doanh nghiệp được chia làm 7 yếu tố:
- Chi phí nguyên vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, phụ tùng thay thế...phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh.
- Chi phí nhiên liệu động lực: là những loại vật liệu để cung cấp năng lượng cho quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ.
- Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương: bao gồm tổng số tiền lương và các khoản phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho cán bộ công nhân trong kỳ.
- Quĩ BHXH, BHYT, KPCĐ: phản ánh phần BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỉ lệ nhất định trên tổng số lương và phụ cấp lương phải trả cho cán bộ công nhân trong kỳ.
- Chi phí khấu hao TSCĐ: phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả các TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: bao gồm toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
- Chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ các chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố chi phí trên được dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Cách phân loại này phục vụ việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động, lập và phân tích dự toán chi phí, lập dự toán chi phí cho kỳ sau. Đồng thời, cách phân loại này còn cho ta biết tỉ trọng từng loại chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong kỳ.
3. Phân loại chi phí theo chức năng trong sản xuất kinh doanh:
Theo cách này, chi phí được chia làm 3 loại:
- Chi phí sản xuất: Gồm toàn bộ chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất sản phẩm.
- Chi phí tiêu thụ: là toàn bộ chi phí phục vụ quá trình tiêu thụ, thực hiện giá trị sản phẩm.
- Chi phí quản lí doanh nghiệp: là toàn bộ các chi phí có liên quan đến các hoạt động của toàn doanh nghiệp.
Cách phân loại này không chỉ tạo điều kiện cho công tác xác định giá thành công xưởng của sản phẩm mà còn tạo điều kiện cho công tác tính giá thành toàn bộ của sản phẩm.
4. Phân loại chi phí theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm:
Theo cách này, chi phí sản xuất được chia làm hai loại:
- Chi phí khả biến (hay biến phí): là những khoản mục chi phí có quan hệ tỉ lệ thuận với biến động về mức độ hoạt động. Biến phí khi tính cho một đơn vị sản phẩm thì không thay đổi. Biến phí có thể gồm các khoản chi phí như: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp....
- Chi phí bất biến (hay định phí): là các khoản chi phí không biến đổi khi mức độ hoạt động thay đổi nhưng khi tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi. Khi mức độ hoạt động tăng thì định phí tính cho một đơn vị sản phẩm giảm và ngược lại. Định phí bao gồm các khoản chi phí như: chi phí khấu hao TSCĐ, tiền lương của bộ phận quản lí, chi phí quảng cáo...
Cách phân loại này thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm căn cứ để đề ra các quyết định kinh doanh.
5. Phân loại chi phí theo lĩnh vực kinh doanh
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh, người ta chia chi phí làm ba loại:
- Chi phí sản xuất kinh doanh: gồm những chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất, tiêu thụ và quản lí hành chính, quản trị kinh doanh.
- Chi phí hoạt động tài chính: gồm những chi phí liên quan đến hoạt động về vốn và đầu tư tài chính.
- Chi phí bất thường: gồm những chi phí ngoài dự kiến, có thể do chủ quan hoặc khách quan mang lại.
Cách phân loại này giúp việc phân định chi phí được chính xác, phục vụ cho việc tính giá thành, xác định chi phí và kết quả của từng hoạt động kinh doanh một cách đúng đắn, làm căn cứ để lập báo cáo tài chính.
B. Phân loại giá thành
Để đáp ứng công tác quản trị nội bộ, đánh giá và xem xét tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay đề ra các biện pháp, phương hướng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, người ta phân chia giá thành sản phẩm làm nhiều loại dựa trên các tiêu thức khác nhau:
1. Căn cứ vào thời điểm và nguồn số liệu tính giá thành, có các loại sau:
- Giá thành kế hoạch: là chỉ tiêu giá thành được xác định trước khi bước vào kỳ kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và hệ thống định mức kĩ thuật hiện hành.
- Giá thành định mức: là chỉ tiêu giá thành cũng được xác định trước khi bước vào kỳ kinh doanh trên cơ sở định mức kinh tế kĩ thuật hiện hành. Tuy nhiên, chỉ tiêu này thường được lập trong một khoảng thời gian ngắn, gắn liền với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Do đó, giá thành định mức thường xác thực và tiên tiến hơn giá thành kế hoạch.
- Giá thành thực tế: là chỉ tiêu giá thành được xác định khi kỳ kinh doanh kết thúc, dựa trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành thực tế sản phẩm là căn cứ để xác định kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lí và giám sát chi phí, xác định được các nguyên nhân vượt (hay hụt) định mức chi phí trong kỳ hạch toán. Từ đó, doanh nghiệp điều chỉnh kế hoạch, định mức chi phí cho phù hợp.
2. Căn cứ vào phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được chia làm 2 loại:
- Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng): là toàn bộ hao phí của các yếu tố dùng vào sản xuất các sản phẩm, dịch vụ và được xác định bằng công thức:
Giá thành = Chi phí nguyên vật liệu + Chi phí nhân công + Chi phí
sản xuất trực tiếp trực tiếp sản xuất chung
Giá thành sản xuất là cơ sở để xác định giá vốn hàng bán và lãi gộp ở các doanh nghiệp sản xuất.
- Giá thành tiêu thụ (còn gọi là giá thành toàn bộ hay giá thành đầy đủ): là khoản chi phí thực tế phát sinh liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, được tính theo công thức:
Giá thành = Giá thành + Chi phí + Chi phí
toàn bộ sản xuất bán hàng quản lí doanh nghiệp
Giá thành tiêu thụ chỉ được xác định khi sản phẩm hoặc dịch vụ được tiêu thụ. Giá thành tiêu thụ là căn cứ để tính toán lãi trước thuế lợi tức của doanh nghiệp.
Cách phân loại này giúp nhà quản lí biết được kết quả kinh doanh (lãi, lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp đang kinh doanh.
III . Nội dung của hạch toán chi phí sản xuất và tính thành sản phẩm.
A. Nội dung của hạch toán chi phí sản xuất.
1. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là công việc đầu tiên quan trọng của tổ chức hạch toán trong quá trình sản xuất.
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Trên thực tế, mỗi doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất có thể lựa chọn các đối tượng hạch toán chi phí sản xuất phù hợp.
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí sản xuất. Về cơ bản, phương pháp hạch toán chi phí sản xuất bao gồm các phương pháp hạch toán chi phí theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân xưởng, theo nhóm sản phẩm…
2. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất
Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử dụng.
Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ các ngành sản xuất kinh doanh phụ cho từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ.
Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các loại sản phẩm có liên quan.
Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ, tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm.
3. Hạch toán chi phí sản xuất
3.1 Hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên
Kê khai thường xuyên là phương pháp phản ánh một cách thường xuyên, liên tục tình hình xuất- nhập- tồn kho nguyên vật liệu, hàng hoá ...sau mỗi lần phát sinh các nghiệp vụ nhập, xuất. Nội dung phương pháp này như sau:
a. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu (NVL) trực tiếp.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ....được dùng trực tiếp vào việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt ( Phân xưởng, bộ phận sản xuất, sản phẩm…) thì hạch toán trực tiếp cho từng đối tượng đó. Ngược lại, nếu khoản chi phí này liên quan đến nhiều đối tượng thì tập hợp chung sau đó phân bổ cho từng đối tượng theo công thức:
Chi phí NVL phân bổ cho từng đối tượng
=
Tiêu thức phân bổ của đối tượng i
x
Tổng chi phí vật liệu cần phân bổ
Tổng tiêu thức phân bổ
Để theo dõi chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng tài khoản 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Tài khoản này có kết cấu như sau:
Bên nợ: Tập hợp chi phí NVL trực tiếp xuất dùng cho chế tạo sản phẩm.
Bên có: Giá trị NVL xuất dùng không hết nhập lại kho, phế liệu thu hồi.
Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Tài khoản 621 cuối kỳ không có số dư.
Quá trình hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
(theo phương pháp kê khai thường xuyên)
TK 151, 152 TK 621 TK 154
NVL dùng trực tiếp K/c chi phí NVL trực tiếp
cho sản xuất sản phẩm cuối kỳ
TK 331, 111,112 TK 152
NVL mua xuất dùng ngay NVL dùng không hết
không nhập kho nhập lại kho
TK 133
VAT khấu trừ
b. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp:
Chi phí nhân công trực tiếp là toàn bộ các khoản chi phí về thù lao lao động phải trả như tiền lương chính, tiền lương phụ, các khoản phụ cấp, các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tiền lương cho công nhân trực tiếp sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiên lao vụ, dịch vụ. Chi phí nhân công trực tiếp thường được tính trực tiếp cho từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất.
Trong trường hợp chi phí nhân công trực tiếp có liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau thì cần tiến hành phân bổ chi phí nhân công trực tiếp tương tự như đối với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Tiêu thức phân bổ chi phí nhân công trực tiếp có thể là tiền công định mức, giờ công định mức hay giờ công thực tế, khối lượng sản phẩm...
Để theo dõi khoản mục này, kế toán dùng tài khoản 622- Chi phí nhân công trực tiếp.
Bên nợ: Tập hợp chi phí nhân công trực tiếp phát sinh
Bên có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp.
Tài khoản 622 cuối kỳ không có số dư
Sơ đồ 2: Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp
(theo phương pháp kê khai thường xuyên)
TK 334 TK 622 TK 154
Lương, phụ cấp lương K/c chi phí
trả cho CNTTSX nhân công trực tiếp
TK 338
Các khoản trích theo lương
của CNTTSX
TK 335
Trích trước tiền lương
CNTTSX
c. Hạch toán chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất (ngoài chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp). Chi phí sản xuất chung thường được tập hợp chung cho toàn phân xưởng và cuối kỳ phân bổ cho từng đối tượng theo tiêu thức phù hợp. Trong thực tế, người ta thường áp dụng các tiêu thức phân bổ như: phân bổ theo định mức, theo giờ làm thực tế của công nhân sản xuất, theo tiền công công nhân sản xuất.... Công thức phân bổ chi phí sản xuất chung tương tự như công thức phân bổ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Để theo dõi khoản mục này, kế toán dùng tài khoản 627- Chi phí sản xuất chung. Tài khoản này được mở chi tiết cho từng phân xưởng, từng bộ phân sản xuất và dịch vụ.
TK 627 có kết cấu như sau:
Bên nợ: Ghi nhận chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh
Bên có: Các khoản giảm trừ chi phí sản xuất chung
Kết chuyển chi phí sản xuất chung
Tài khoản 627 cuối kỳ không có số dư; được chi tiết thành 6 tiểu khoản:
TK 627.2 - Chi phí vật liệu: dùng để theo dõi các khoản chi phí về vật liệu xuất dùng chung cho phân xưởng như sửa chữa, bảo dưỡng máy móc, thiết bị, nhà cửa, kho tàng... ( trường hợp tự làm) và các vật liệu cho quản lí phân xưởng.
TK 627.3 - Chi phí dụng cụ sản xuất: dùng để theo dõi toàn bộ các khoản chi phí về công cụ, dụng cụ dùng cho sản xuất trong phạm vi phân xưởng.
TK 627.4 - Chi phí khấu hao TSCĐ: dùng để phản ánh chi phí về khấu hao TSCĐ thuộc các phân xưởng sản xuất hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
TK 627.7 - Chi phí dịch vụ mua ngoài: dùng để theo dõi toàn bộ các chi phí về dịch vụ mua ngoài phục vụ sản xuất kinh doanh của các bộ phận sản xuất, phân xưởng như các chi phí về sửa chữa TSCĐ, chi phí về điện thoại, điện nước....
TK 627.8 - Chi phí bằng tiền khác: dùng để theo dõi các chi phí khác còn lại ngoài các chi phí kể trên như: chi phí hội nghị, lễ tân, tiếp khách, giao dịch... của phân xưởng, bộ phận sản xuất.
Sơ đồ 3: Hạch toán chi phí sản xuất chung
( theo phương pháp kê khai thường xuyên)
TK 334, 338 TK 627 TK 111, 112,
Chi phí nhân viên Các khoản ghi giảm
phân xưởng chi phí
TK 152, 153...
Chi phí NVL, CCDC
dùng cho phân xưởng
TK 214 TK 154
Chi phí khấu hao Phân bổ chi phí SX chung
tài sản cố định cho từng đối tượng
TK 142, 335
Chi phí theo dự toán
TK 111, 112, 331..
Chi phí dịch vụ
mua ngoài
TK 133
VAT khấu trừ
d. Hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất
* Hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng:
Sản phẩm hỏng là những sản phẩm không thoả mãn các tiêu chuẩn chất lượng và đặc điểm kĩ thuật của sản xuất về màu sắc, trọng lượng, kích cỡ lắp ráp.... Sản phẩm hỏng có thể được chia làm hai loại: sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được và sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được.
Sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được là những sản phẩm hỏng mà về mặt kĩ thuật có thể sửa chữa được và việc sửa chữa đó có lợi về mặt kinh tế.
Sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được là những sản phẩm hỏng mà về mặt kĩ thuật là không thể sửa chữa được hoặc có thể sửa chữa được nhưng việc sửa chữa không đem lại hiệu quả kinh tế.
Cả hai loại sản phẩm hỏng này có thể chi tiết thành sản phẩm trong định mức và sản phẩm hỏng ngoài định mức. Trong đó, sản phẩm hỏng trong định mức là những sản phẩm hỏng được xem là không thể tránh khỏi trong quá trình sản xuất mà doanh nghiệp dự kiến xảy ra, chi phí cho các sản phẩm hỏng trong định mức được coi là chi phí sản xuất chính phẩm. Sản phẩm hỏng ngoài định mức là những sản phẩm hỏng nằm ngoài dự kiến của doanh nghiệp, xảy ra do các nguyên nhân bất thường, không được chấp nhận nên phải trừ thẳng vào thu nhập trong kỳ.
Sơ đồ 4: Hạch toán chi phí sản phẩm hỏng
TK,153,334,338... TK 142 TK 821
Chi phí sửa chữa Số thiệt hại tính vào
sản phẩm hỏng phát sinh chi phí bất thường
TK 154,155,632... TK 627
Giá trị sản phẩm hỏng không Số thiệt hại tính vào
sửa chữa được phát sinh giá thành chính phẩm
TK138, 152
Giá trị thu hồi, bồi thường
* Hạch toán thiệt hại ngừng sản xuất:
Trên thực tế, do nhiều lí do chủ quan cũng như khách quan (thiên tai, địch hoạ, thiếu nguyên vật liệu....) mà doanh nghiệp phải ngừng sản xuất trong một thời gian. Trong thời gian ngừng sản xuất, doanh nghiệp vẫn phải bỏ ra một số khoản chi phí để duy trì hoạt động như tiền công lao động quản lí, khấu hao máy móc, nhà xưởng, chi phí bảo dưỡng... Những khoản chi phí này được coi là thiệt hại về ngừng sản xuất.
Đối với những khoản chi phí về ngừng sản xuất theo kế hoạch, dự kiến, kế toán theo dõi trên tài khoản 335- Chi phí phải trả
Còn đối với chi phí về thiệt hại do ngừng sản xuất bất thường, không được chấp nhận nên phải theo dõi riêng trên tài khoản 142- Chi phí trả trước. Cuối kỳ, sau khi trừ đi phần thu hồi (nếu có do bồi thường...) giá trị thiệt hại thực tế sẽ được xử lí theo quyết định tuỳ thuộc nguyên nhân gây ra thiệt hại.
Sơ đồ 5: Hạch toán chi phí thiệt hại ngừng sản xuất.
TK 111, 152,334... TK 335 TK 821, 415
Tập hợp chi phí chi ra Thiệt hại thực.
trong thời gian ngừng SX.
TK 138, 111…
Giá trị bồi thường.
g. Tổng hợp chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên
Các chi phí ở trên cuối cùng được tập hợp để phục vụ công tác tính giá thành sản phẩm.
Tài khoản sử dụng: Theo phương pháp kê khai thường xuyên, chi phí sản xuất cuối kỳ được tập hợp vào tài khoản 154- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang để tính giá thành. Tài khoản này được mở chi tiết cho từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất như: từng loại sản phẩm, từng bộ phận sản xuất hay từng nhóm sản phẩm... và có kết cấu như sau:
Bên nợ: Tập hợp chi phí sản xuất phát sinh theo từng đối tượng
Bên có: Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất
Giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành trong kỳ
Dư nợ: Phản ánh chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cuối kỳ
Sơ đồ 6: Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất sản phẩm.
(theo phương pháp kê khai thường xuyên)
TK 621 TK 154 TK 152, 138, 821...
K/c chi phí NVL Các khoản giảm trừ
trực tiếp chi phí
TK 622 TK 155
K/c chi phí nhân công Nhập kho
trực tiếp
TK 627 TK 157
K/c chi ph._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3401.doc