Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Công ty Xây dựng miền Tây - Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 8

lời nói đầu Giai đoạn vừa qua, đất nước ta đã có những thành tựu nổi bật trong đổi mới quản lý kinh tế cũng như các chính sách kinh tế - xã hội. Hiện nay, nền kinh tế nước ta đã chuyển mình từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước. Trong quá trình đó, hệ thống kế toán Việt Nam cũng có những bước đổi mới, tiến bộ và nhảy vọt phù hợp với cơ chế kinh tế mới cũng như sự phát triển chung của đất nước. Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật

doc90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Công ty Xây dựng miền Tây - Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 8, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chất tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân, chiếm khoảng 30% tổng số vốn đầu tư của cả nước. Sản phẩm của ngành xây lắp thường là các công trình, hạng mục công trình có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài, có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế của địa phương cũng như nền kinh tế quốc dân. Trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, bước đột phá đầu tiên quan trọng đó là xây dựng, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng. Điều này không chỉ có nghĩa là khối lượng công việc của ngành xây dựng cơ bản tăng lên mà cùng với nó là số vốn đầu tư xây dựng cơ bản cũng tăng lên. Điều quan tâm hàng đầu là làm sao có thể quản lý một cách có hiệu quả vốn đầu tư, tránh tình trạng lãng phí, thất thoát vốn trong điều kiện thực hiện dự án xây lắp thường kéo dài về mặt thời gian. Chính vì lẽ đó mà hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp xây lắp nói riêng và các doanh nghiệp sản xuất nói chung. Để đứng vững trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp không những phải có uy tín mà giá cả sản phẩm của doanh nghiệp cũng phải có tính cạnh tranh. Muốn hạ giá thành sản phẩm doanh nghiệp phải quản lý tốt các khâu sản xuất, hạch toán đầy đủ các chi phí bỏ ra, giảm thiểu tối đa các chi phí. Muốn vậy, doanh nghiệp phải thực hiện tốt công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, từ đó phục vụ tốt cho việc phân tích đánh giá kết quả, hoàn thiện bộ máy quản lý, tổ chức sản xuất để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Trong thời gian thực tập tại công ty xây dựng miền Tây, được tìm hiểu thực tế hạch toán kế toán nói chung và hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng, em càng nhận thức sâu sắc được điều đó. Đây chính là lý do em lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng miền Tây - Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8” Bài viết gồm những nội dung chính sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp. Chương 2: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty xây dựng miền Tây. Chương 3: Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng miền Tây. Do phạm vi đề tài rộng, thời gian nghiên cứu hạn chế nên bài viết của em không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và các bạn. Chương 1: những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp 1.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh xây lắp ảnh hưởng đến hạch toán kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất công nghiệp, sáng tạo và trang bị tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân, tạo cơ sản vật chất cho xã hội, tăng tiềm lực kinh tế quốc phòng. So với các ngành sản xuất vật chất khác, sản phẩm xây lắp cũng được tiến hành sản xuất một cách liên tục từ khâu thăm dò, điều tra khảo sát đến thiết kế thi công và quyết toán công trình khi hoàn thành. Việc sản xuất sản phẩm cũng có tính dây chuyền, giữa các khâu của quá trình sản xuất có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nếu một khâu ngừng trệ sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của các khâu khác. Bên cạnh đó, sản phẩm xây lắp còn có những đặc điểm riêng sau: (1) Sản phẩm xây lắp mang tính chất riêng lẻ: Sản phẩm xây lắp không có sản phẩm nào giống sản phẩm nào, mỗi sản phẩm có yêu cầu về mặt thiết kế mỹ thuật, kết cấu, hình thức, địa điểm xây dựng khác nhau. Chính vì vậy, mỗi sản phẩm xây lắp đều có yêu cầu về tổ chức quản lý, tổ chức thi công và biện pháp thi công phù hợp với đặc điểm của từng công trình cụ thể. Có như vậy, việc sản xuất mới mang lại hiệu quả cao và đảm bảo cho sản xuất được liên tục. Do sản phẩm có tính chất đơn chiếc và được sản xuất theo đơn đặt hàng nên chi phí bỏ vào sản xuất thi công cũng hoàn toàn khác nhau giữa các công trình ngay cả khi công trình thi công theo thiết kế mẫu nhưng được xây dựng ở những địa điểm khác nhau với các điều kiện thi công khác nhau thì chi phí sản xuất cũng khác nhau. Việc tập hợp chi phí sản xuất, tính giá thành và xác định kết quả thi công xây lắp cũng được tính cho từng sản phẩm xây lắp riêng biệt. Sản xuất sản phẩm xây lắp được thực hiện theo đơn đặt hàng của khách hàng nên ít phát sinh chi phí trong lưu thông. (2) Sản phẩm xây lắp có giá trị khối lượng công trình lớn, thời gian thi công tương đối dài. Các công trình xây dựng cơ bản thường có thời gian thi công rất dài, có công trình phải xây dựng hàng chục năm mới xong, trong thời gian sản xuất thi công xây dựng chưa tạo ra sản phẩm cho xã hội nhưng lại sử dụng nhiều vật tư, nhân lực của xã hội. Do đó, khi lập kế hoạch xây dựng cơ bản cần cân nhắc, thận trọng, nêu rõ các yêu cầu về vật tư, tiền vốn, nhân công. Việc quản lý, theo dõi quá trình sản xuất, thi công phải bảo đảm chặt chẽ, sử dụng vốn tiết kiệm, đảm bảo chất lượng thi công công trình. Do thời gian thi công tương đối dài nên kỳ tính giá thành thường không xác định hàng tháng như trong sản xuất công nghiệp mà được xác định theo thời điểm thi công công trình, hạng mục công trình hoàn thành hay thực hiện bàn giao thanh toán theo giai đoạn quy ước tuỳ thuộc vào kết cấu đặc điểm kỹ thuật và khả năng về vốn của đơn vị xây lắp. Việc xác định đúng đắn đối tượng tính giá thành sẽ góp phần to lớn trong việc quản lý sản xuất thi công và sử dụng đồng vốn hiệu quả cao nhất. (3) Thời gian sử dụng sản phẩm xây lắp tương đối lâu dài. Các công trình xây dựng cơ bản thường có thời gian sử dụng lâu dài nên mọi sai lầm trong quá trình thi công thường khó sữa chữa, phá đi làm lại. Sai lầm trong xây dựng cơ bản vừa gây lãng phí vừa để lại hậu quả có khi rất nghiêm trọng, lâu dài và khó khắc phục. Do đặc điểm này mà trong quá trình thi công cần thường xuyên kiểm tra, giám sát chất lượng công trình. Sản phẩm xây lắp được sử dụng tại chỗ, địa điểm xây dựng luôn luôn thay đổi theo địa bàn thi công. Khi chọn địa điểm xây dựng phải điều tra nghiên cứu thật kỹ về điều kiện kinh tế, địa chất thuỷ văn, kết hợp với các yêu cầu về kinh tế, văn hoá, xã hội trước mắt cũng như lâu dài. Sau khi đã sử dụng, công trình không thể di dời nên nếu các công trình là nhà máy, xí nghiệp cần nghiên cứu các điều kiện về cung cấp nguyên vật liệu, nguồn lực lao động, nguồn tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo điều kiện thuận lợi cho công trình đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh sau này. Một công trình xây dựng cơ bản hoàn thành, điều đó có nghĩa là người công nhân xây dựng không còn việc gì phải làm ở đó nữa, phải chuyển đến thi công ở một công trình khác. Do đó sẽ phát sinh các chi phí như điều động công nhân, máy móc thi công, chi phí xây dựng các công trình tạm thời cho công nhân và máy móc. Cũng do đặc điểm này mà các đơn vị xây lắp thường sử dụng lực lượng lao động thuê ngoài tại chỗ, nơi thi công công trình để giảm bớt chi phí di dời. (5) Sản xuất xây dựng cơ bản thường diễn ra ngoài trời, chịu tác động trực tiếp bởi điều kiện môi trường thiên nhiên, thời tiết và do đó việc thi công xây lắp ở một mức độ nào đó mang tính thời vụ. Do đặc điểm này, trong quá trình thi công cần tổ chức quản lý lao động vật tư chặt chẽ, đảm bảo thi công nhanh, đúng tiến độ khi điều kiện môi trường thời tiết thuận lợi. Trong điều kiện thời tiết không thuận lợi ảnh hưởng đến chất lượng thi công, có thể sẽ phát sinh các khối lượng công trình phải phá đi làm lại và các thiệt hại phát sinh do ngừng sản xuất, doanh nghiệp cần có kế hoạch điều độ cho phù hợp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. (6) Tổ chức sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp ở nước ta hiện nay phổ biến theo phương thức khoán gọn các công trình, hạng mục công trình, khối lượng hoặc công việc cho các đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp (đội, xí nghiệp). Giá khoán gọn không chỉ bao gồm tiền lương mà còn có đủ các chi phí về vật liệu, công cụ, dụng cụ thi công, chi phí chung của bộ phận nhận khoán. Những đặc điểm hoạt động kinh doanh, đặc điểm sản phẩm, đặc điểm tổ chức sản xuất và quản lý ngành nói trên phần nào chi phối công tác kế toán trong các doanh nghiệp xây lắp, dẫn đến những khác biệt nhất định, trong đó có hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Xuất phát từ quy định về lập dự toán công trình xây dựng cơ bản là phải lập theo từng hạng mục công trình và phải phân tích theo từng khoản mục chi phí cũng như đặc điểm tại các đơn vị nhận thầu, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp có những đặc điểm sau: Hạch toán chi phí nhất thiết phải được phân tích theo từng khoản mục chi phí, từng hạng mục công trình, từng công trình cụ thể. Qua đó, thường xuyên so sánh, kiểm tra việc thực hiện dự toán chi phí, xem xét nguyên nhân vượt, hụt dự toán và đánh giá hiệu quả kinh doanh. Đối tượng hạch toán chi phí có thể là các công trình, hạng mục công trình, các đơn đặt hàng, các giai đoạn của hạng mục hay nhóm hạng mục... Vì thế, phải lập dự toán chi phí và giá thành theo từng hạng mục hay giai đoạn của hạng mục. Giá thành công trình thiết bị lắp đặt không bao gồm giá trị bản thân thiết bị do chủ đầu tư đưa vào để lắp đặt mà chỉ bao gồm những chi phí do doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến xây lắp công trình. Giá thành công tác xây dựng và lắp đặt kết cấu bao gồm giá trị vật kết cấu và giá trị thiết bị kèm theo như các thiết bị vệ sinh, thông gió, thiết bị sưởi ấm, điều hoà nhiệt độ, thiết bị truyền dẫn... 1.2. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp. 1.2.1. Chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp. 1.2.1.1 Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp. Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác, quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp 3 yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đồng thời, quá trình sản xuất hàng hoá cũng là quá trình tiêu hao của chính bản thân các yếu tố trên. Như vậy, để tiến hành sản xuất hàng hoá, người sản xuất phải bỏ ra chi phí về thù lao lao động, về tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vì thế, sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất. Ngành xây lắp có những đặc điểm riêng so với các ngành sản xuất vật chất khác nhưng để tạo ra sản phẩm cũng cần phải có tư liệu lao động (gồm các loại máy móc thiết bị, công cụ, dụng cụ... ), đối tượng lao động (nguyên vật liệu, thiết bị đưa đi lắp đặt... ) và sức lao động của con người. Trong điều kiện sản xuất hàng hoá, các chi phí này được biểu hiện dưới dạng giá trị gọi là chi phí sản xuất. Từ việc xem xét chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất nói chung, chúng ta có thể rút ra: Chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất và cấu thành nên giá thành sản phẩm xây lắp. Đối với các nhà quản lý, thông tin về chi phí hết sức quan trọng vì nó phản ánh trong kỳ doanh nghiệp đã tiết kiệm hay lãng phí chi phí và nguyên nhân do đâu. Vì vậy, để thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán cần thiết phải phân loại chi phí. 1.2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp. Phân loại chi phí sản xuất là việc căn cứ vào các tiêu thức khác nhau để phân chia chi phí sản xuất thành các loại khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu của quản lý và hạch toán. Có nhiều cách phân chia chi phí song mỗi cách phân chia phải đảm bảo được các yêu cầu sau: Tạo điều kiện sử dụng thông tin kế toán nhanh nhất cho công tác quản lý chi phí sản xuất phát sinh, phục vụ tốt cho công tác kiểm tra, giám sát chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Đáp ứng đầy đủ những thông tin cần thiết cho việc tính toán hiệu quả các phương án sản xuất nhưng lại cho phép tiết kiệm chi phí hạch toán và thuận lợi sử dụng thông tin hạch toán kế toán. ở các doanh nghiệp xây lắp, chi phí sản xuất thường được phân loại theo các tiêu thức sau đây: 1.2.1.2.1. Phân loại theo yếu tố chi phí. Phân loại theo yếu tố là việc phân chia chi phí sản xuất xây lắp thành những yếu tố chi phí sản xuất khác nhau trong đó mỗi yếu tố chi phí ban đầu bao gồm các chi phí có nội dung giống nhau, không phân biệt chi phí đó phát sinh ở đâu và dùng vào sản xuất sản phẩm cụ thể nào của doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia thành 7 yếu tố sau: Yếu tố nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ... sử dụng vào sản xuất kinh doanh (loại trừ giá trị dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi cùng với nhiên liệu, động lực). Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: Phản ánh tổng số tiền lương và các khoản phụ cấp mang tính chất tiền lương phải trả cho công nhân viên chức. Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và các khoản phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho công nhân viên chức. Yếu tố khấu hao tài sản cố định: Phản ánh tổng số khấu hao tài sản cố định phải trích trong kỳ của tất cả các tài sản cố định dùng cho sản xuất kinh doanh. Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh. Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ. Cách phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố này chỉ rõ quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp doanh nghiệp phải bỏ ra các chi phí gì. Nó là cơ sở để kế toán tập hợp chi phí sản xuất theo yếu tố, phục vụ việc lập bảng thuyết minh báo cáo tài chính, là cơ sở để phân tích, kiểm tra dự toán chi phí sản xuất và lập kế hoạch cung ứng vật tư, là cơ sở để tính tiêu hao vật liệu và thu nhập quốc dân. 1.2.1.2.2. Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. Theo cách phân loại này, các chi phí có công dụng và mục đích sử dụng giống nhau được xếp chung vào một nhóm chi phí, không cần quan tâm đến chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào. Giá thành của sản phẩm xây lắp được hình thành từ các khoản mục sau: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là chi phí của các vật liệu chính, các cấu kiện hoặc các bộ phận rời, vật liệu luân chuyển tham gia cấu thành thực thể sản phẩm xây lắp hoặc giúp cho việc thực hiện và hoàn thành khối lượng xây lắp (không kể vật liệu cho máy thi công và vật liệu tính trong chi phí sản xuất chung). Vật liệu trực tiếp dùng cho thi công xây lắp bao gồm: Vật liệu xây dựng: cát, đá, sỏi, sắt, thép, ximăng...; Vật liệu khác: bột màu, đinh, dây...; Nhiên liệu: than, củi dùng để nấu nhựa đường rải nhựa...; Vật kết cấu: bêtông đúc sẵn...; Thiết bị gắn liền với vật kiến trúc như: thiết bị vệ sinh, thông gió, ánh sáng, thiết bị sưởi ấm... Chi phí nhân công trực tiếp: Là toàn bộ tiền lương chính, lương phụ, phụ cấp có tính chất lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp các công trình, công nhân phục vụ thi công (kể cả công nhân vận chuyển, bốc dỡ vật tư trong phạm vi mặt bằng thi công, công nhân chuẩn bị thi công và thu dọn hiện trường), bao gồm cả lao động trong biên chế và lao động thuê ngoài. Các khoản trích KPCĐ, BHYT, BHXH tính theo tiền lương phải trả công nhân trực tiếp xây lắp và tiền ăn ca của công nhân xây lắp không hạch toán vào khoản mục này. Chi phí máy thi công: Bao gồm chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời: Chi phí thường xuyên sử dụng máy thi công bao gồm: Lương chính, lương phụ của công nhân điều khiển, phục vụ vận hành máy, chi phí vật liệu, công cụ - dụng cụ, chi phí khấu hao, chi phí dịch vụ mua ngoài, các chi phí khác bằng tiền phục vụ cho quá trình chạy máy. Chi phí tạm thời sử dụng máy thi công bao gồm: Chi phí sửa chữa lớn máy thi công (đại tu, trung tu...), chi phí công trình tạm thời cho máy thi công (lều, lán, bệ, đường ray chạy máy...). Chi phí này được phân bổ trong thời gian sử dụng máy. Chi phí sản xuất chung: Phản ánh chi phí của đội, công trường xây dựng gồm: Lương nhân viên quản lý đội, BHYT, BHXH, KPCĐ được trích theo tỷ lệ quy định trên lương trả công nhân trực tiếp xây lắp (trong biên chế của doanh nghiệp) và nhân viên quản lý đội, tiền ăn ca, khấu hao tài sản cố định dùng chung cho hoạt động của đội và những chi phí khác liên quan đến hoạt động của đội. Cách phân loại này chỉ rõ chi phí doanh nghiệp bỏ ra cho từng lĩnh vực hoạt động, từng địa điểm phát sinh chi phí, làm cơ sở cho việc tính giá thành theo khoản mục, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành... 1.2.1.2.3. Phân loại theo cách ứng xử của chi phí. Cách phân loại này có tác dụng đối với quản trị doanh nghiệp, phân tích điểm hoà vốn và phục vụ cho việc ra các quyết định quản lý cần thiết để hạ giá thành sản phẩm tăng hiệu quả kinh doanh. Tổng chi phí của doanh nghiệp được chia thành biến phí và định phí. Biến phí: Là những khoản mục chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với biến động về mức độ hoạt động. Biến phí bao gồm các khoản như: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp... Biến phí tính cho đơn vị thì ổn định nhưng tổng biến phí thay đổi khi sản lượng thay đổi. Định phí: Là những khoản chi phí không biến đổi khi mức độ hoạt động thay đổi. Định phí bao gồm các khoản như: Chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí thuê mặt bằng, chi phí đào tạo nhân viên, chi phí nghiên cứu... Khi sản lượng thay đổi, tổng định phí giữ nguyên còn định phí đơn vị thay đổi theo chiều tỷ lệ nghịch. 1.2.1.2.3. Phân loại theo mối quan hệ giữa chi phí với đối tượng chịu phí. Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp bao gồm: Chi phí trực tiếp: Là những chi phí liên quan trực tiếp đến từng đối tượng chịu phí. Những chi phí này được kế toán căn cứ vào chứng từ gốc để tập hợp cho từng đối tượng. Chi phí gián tiếp: Là những chi phí ban đầu liên quan đến nhiều đối tượng chịu phí. Về phương diện kế toán, chi phí gián tiếp không thể căn cứ vào các chứng từ gốc để tập hợp cho từng đối tượng chịu phí mà phải tập hợp riêng sau đó phân bổ cho các đối tượng theo tiêu thức thích hợp. Cách phân loại này có ý nghĩa với việc xác định phương pháp kế toán tập hợp và phân bổ chi phí cho các đối tượng một cách hợp lý. 1.2.1.3. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp. Đối tượng để hạch toán chi phí sản xuất là đối tượng để tập hợp chi phí sản xuất, là phạm vi giới hạn mà các chi phí sản xuất cần được tổ chức tập hợp theo đó. Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên cần thiết của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Để xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phải căn cứ vào đặc điểm phát sinh chi phí và công dụng của chi phí trong sản xuất. Tuỳ theo cơ cấu tổ chức sản xuất, yêu cầu và trình độ quản lý kinh tế, yêu cầu hạch toán nội bộ của doanh nghiệp mà đối tượng tập hợp chi phí có thể là toàn bộ quy trình công nghệ hay từng giai đoạn, từng quy trình công nghệ riêng biệt. Tuỳ theo quy trình công nghệ sản xuất của sản phẩm, đặc điểm của sản phẩm, yêu cầu của công tác tính giá thành sản phẩm mà đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là từng nhóm sản phẩm, từng mặt hàng sản phẩm, từng bộ phận, cụm chi tiết hoặc chi tiết sản phẩm. Trong sản xuất xây lắp, sản phẩm thường là đơn chiếc và có giá trị lớn, mỗi sản phẩm được tiến hành theo hợp đồng riêng với yêu cầu kỹ thuật, tiến độ thi công bàn giao, chi phí khác nhau. Ngoài ra, phương thức khoán gọn cũng thường được các đơn vị xây lắp áp dụng, khi có hợp đồng khoán gọn các tổ, đội sản xuất tiến hành tổ chức cung ứng vật tư, nhân lực thi công cho tới khi hoàn thành bàn giao công trình. Do đó, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất ở doanh nghiệp xây lắp được xác định theo công trình, hạng mục công trình, một bộ phận của một hạng mục công trình, nhóm hạng mục công trình kết hợp với các tổ đội xây lắp. Tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng có tác dụng phục vụ tốt cho việc tăng cường quản lý sản xuất và chi phí sản xuất, cho công tác hạch toán kinh tế nội bộ và hạch toán kinh tế toàn doanh nghiệp, phục vụ cho việc tính giá thành được kịp thời, chính xác. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Có 2 phương pháp chủ yếu để tập hợp chi phí sản xuất là phương pháp ghi trực tiếp và phương pháp phân bổ gián tiếp. Phương pháp ghi trực tiếp: Phương pháp này áp dụng trong trường hợp các chi phí sản xuất có quan hệ trực tiếp với từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt. Phương pháp ghi trực tiếp đòi hỏi phải tổ chức việc ghi chép ban đầu (chứng từ gốc) theo từng đối tượng. Trên cơ sở đó, kế toán tập hợp số liệu từ các chứng từ gốc theo từng đối tượng liên quan và ghi trực tiếp vào các tài khoản cấp 1, cấp 2 hoặc các tài khoản chi tiết theo đúng đối tượng. Phương pháp ghi trực tiếp đảm bảo việc tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng chi phí với độ chính xác cao. Phương pháp phân bổ gián tiếp: Phương pháp này áp dụng trong trường hợp chi phí sản xuất phát sinh có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí mà không thể tổ chức việc ghi chép ban đầu riêng rẽ theo từng đối tượng được. Phương pháp này đòi hỏi tập hợp các chứng từ, ghi chép ban đầu các chi phí sản xuất có liên quan tới nhiều đối tượng theo từng địa điểm phát sinh chi phí (tổ, đội sản xuất, công trường... ). Sau đó, chọn tiêu thức phân bổ để tính toán, phân bổ chi phí sản xuất đã tập hợp cho các đối tượng có liên quan. Thực tế có nhiều phương pháp hạch toán chi phí khác nhau, doanh nghiệp cần dựa vào điều kiện cụ thể cũng như đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, yêu cầu quản lý để kết hợp và lựa chọn phương pháp thích hợp cho doanh nghiệp. Từ đặc điểm sản phẩm, đặc điểm sản xuất kinh doanh và đối tượng tập hợp chi phí, từ 2 phương pháp cơ bản nêu trên, trong doanh nghiệp xây lắp có những phương pháp hạch toán chi phí sản xuất sau: Phương pháp hạch toán chi phí sản phẩm hoặc đơn đặt hàng: Sản phẩm hoàn chỉnh trong xây dựng cơ bản để tính giá thành có thể là một ngôi nhà, một vật kiến trúc đã hoàn thành. Do đặc điểm của tính chất quy trình công nghệ, đặc điểm của loại hình sản xuất cũng như yêu cầu tính toán chi phí theo đơn đặt hàng nên hàng tháng, các chi phí sản xuất phát sinh có liên quan đến sản phẩm hoặc đơn đặt hàng nào sẽ được tập hợp và phân loại chi phí vào sản phẩm hoặc đơn đặt hàng đó. Khi sản phẩm hoàn thành, toàn bộ các chi phí phát sinh từ khi khởi công đến khi hoàn thành chính là giá thành sản phẩm. Phương pháp tính giá thành sản phẩm được áp dụng là phương pháp trực tiếp. Các chi phí trực tiếp bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp được tập hợp trực tiếp cho đơn đặt hàng. Còn chi phí sử dụng máy thi công được tập hợp theo từng công trường, cuối kỳ chi phí sử dụng máy thi công được phân bổ cho từng đơn đặt hàng hay từng sản phẩm theo tiêu thức thích hợp. Chi phí sản xuất chung được tập hợp cho tất cả các đơn đặt hàng, cuối kỳ tính phân bổ cho từng đơn đặt hàng theo tiêu thức thích hợp. Phương pháp tập hợp chi phí theo nhóm sản phẩm: Phương pháp này được áp dụng khi tất cả các hạng mục công trình, các ngôi nhà... các phần công việc được tiến hành thi công cùng một lúc. Tất cả các chi phí phát sinh gồm các chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp được phân loại và tập hợp theo giới hạn là nhóm sản phẩm. Khi xây dựng hoàn thành, để tính giá thành của từng hạng mục, từng ngôi nhà, phương pháp tính giá thành được áp dụng là phương pháp tỷ lệ hoặc phương pháp hệ số. Phương pháp tập hợp chi phí theo khu vực thi công hoặc theo bộ phận thi công: Phương pháp này thường được áp dụng trong các doanh nghiệp xây lắp thực hiện khoán. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là các bộ phận, đơn vị thi công như tổ đội sản xuất hoặc các khu vực thi công. Các chi phí sản xuất được phân loại và tập hợp theo các đối tượng là tổ, đội sản xuất, công trường hay phân xưởng... nhưng yêu cầu tính giá thành là theo từng sản phẩm. Để tính được giá thành sản phẩm khi hoàn thành phải áp dụng phương pháp kết hợp như kết hợp phương pháp trực tiếp với phương pháp hệ số, phương pháp tính cộng chi phí kết hợp với phương pháp tỷ lệ hoặc phương pháp hệ số. Các chi phí trực tiếp được tập hợp trực tiếp cho từng đối tượng sản phẩm trong khu vực thi công, bộ phận thi công. Các chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung được tập hợp cho từng khu vực hoặc bộ phận thi công và được phân bổ cho từng đối tượng trong bộ phận, khu vực đó theo tiêu thức thích hợp. 1.2.2. Giá thành sản phẩm xây lắp. 1.2.2.1. Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm xây lắp. Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan đến bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Như bất kỳ các ngành sản xuất kinh doanh khác, giá thành của sản phẩm xây lắp cũng thực hiện 2 chức năng chủ yếu đó là bù đắp chi phí và tái sản xuất mở rộng. Số tiền thu về khi bàn giao công trình phải đủ để bù đắp toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra từ khi khởi công cho đến khi tiêu thụ. Mặt khác, trong cơ chế thị trường, mục đích và nguyên tắc kinh doanh là ngày càng đầu tư phát triển quy mô, muốn vậy, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải đem lại lợi nhuận. Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hạ giá thành sản phẩm, giá thành cần được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau tức là doanh nghiệp cần phải tiến hành phân loại giá thành theo nhiều tiêu thức khác nhau. 1.2.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp. Giá thành sản phẩm xây lắp thường được phân loại theo những tiêu thức phổ biến sau: 1.2.2.2.1. Phân loại theo thời điểm tính và nguồn số liệu. Theo cách phân loại này, giá thành của sản phẩm xây lắp được chia thành: Giá trị dự toán: Trong xây dựng cơ bản, sản phẩm xây dựng là nhà cửa, vật kiến trúc... mà giá trị của nó được xác định bằng giá trị dự toán thông qua hợp đồng giữa bên giao thầu và bên nhận thầu trên cơ sở thiết kế kỹ thuật thi công, định mức và đơn giá do nhà nước quy định cho từng khu vực thi công và phần tích luỹ theo định mức. Giá trị dự toán là giá thanh toán cho khối lượng công tác xây lắp hoàn thành theo dự toán: Giá trị dự toán = Chi phí hoàn thành khối lượng công tác xây lắp theo dự toán + Lợi nhuận định mức Giá trị dự toán là cơ sở để kế hoạch hoá việc cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản, là căn cứ xác định hiệu quả công tác thiết kế cũng như căn cứ để kiểm tra việc thực hiện kế hoạch khối lượng thi công và xác định hiệu quả hoạt động kinh tế của doanh nghiệp xây lắp. Giá thành công tác xây lắp: Là một phần của giá trị dự toán, là chỉ tiêu tổng hợp các chi phí trực tiếp và các chi phí gián tiếp theo các khối lượng công tác xây lắp hoàn thành. Trong quản lý và hạch toán, giá thành công tác xây lắp được phân biệt thành các loại giá thành sau đây: Giá thành dự toán công tác xây lắp: Là toàn bộ các chi phí để hoàn thành khối lượng công tác xây lắp theo dự toán. Như vậy, giá thành dự toán là một bộ phận của giá trị dự toán của từng công trình xây lắp riêng biệt và được xác định từ giá trị dự toán không có phần giá trị định mức: Giá thành dự toán = Giá trị dự toán - Lợi nhuận định mức Hoặc: Giá thành dự toán bằng khối lượng công tác xây lắp theo định mức kinh tế, kĩ thuật do nhà nước quy định nhân với đơn giá xây lắp do nhà nước ban hành theo từng khu vực thi công và các chi phí khác theo định mức. Giá thành dự toán được xây dựng và tồn tại trong một thời gian nhất định, nó được xác định trong những điều kiện trung bình về sản xuất thi công, về tổ chức quản lý, về hao phí lao động vật tư... cho từng loại công trình hoặc công việc nhất định. Giá thành dự toán có tính cố định tương đối và mang tính chất xã hội. Giá thành kế hoạch: Là giá thành được xác định từ những điều kiện và đặc điểm cụ thể của một doanh nghiệp xây lắp trong một kỳ kế hoạch nhất định. Căn cứ vào giá thành dự toán và điều kiện cụ thể, năng lực thực tế sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch, doanh nghiệp tự xây dựng những định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá để xác định những hao phí cần thiết cho thi công công trình trong kỳ kế hoạch. Như vậy, giá thành kế hoạch là một chỉ tiêu để các doanh nghiệp xây lắp tự phấn đấu để thực hiện mức lợi nhuận do hạ giá thành trong kế hoạch. Giá thành kế hoạch = Giá thành dự toán - Lãi do hạ giá thành + - Chênh lệch so với dự toán Giá thành định mức: Là tổng chi phí để hoàn thành một khối lượng xây lắp cụ thể, được tính toán trên cơ sở đặc điểm kết cấu của công trình, phương pháp tổ chức thi công và quản lý thi công theo các định mức chi phí đã đạt được tại doanh nghiệp, công trường tại thời điểm bắt đầu thi công. Khi đặc điểm kết cấu công trình thay đổi hay có sự thay đổi về phương pháp tổ chức, về quản lý thi công, thì định mức sẽ thay đổi và khi đó, giá thành định mức được tính toán lại cho phù hợp. Giá thành thực tế: Là toàn bộ chi phí sản xuất thực tế phát sinh để thực hiện hoàn thành quá trình thi công do kế toán tập hợp được. Giá thành thực tế biểu hiện chất lượng, hiệu quả kết quả hoạt động của doanh nghiệp xây lắp. So sánh giá thành thực tế với giá thành kế hoạch cho thấy mức độ hạ giá thành kế hoạch của doanh nghiệp. So sánh giá thành thực tế với giá thành dự toán, phản ánh chi tiêu tích luỹ ._.của doanh nghiệp, từ đó có thể dự định khả năng của doanh nghiệp trong năm tới. So sánh giá thành thực tế với giá thành định mức cho thấy mức độ hoàn thành định mức đã đề ra của doanh nghiệp đối với từng khối lượng xây lắp cụ thể. 1.2.2.2.2. Căn cứ vào giai đoạn tính giá thành. Do quá trình thi công, sản xuất sản phẩm xây lắp kéo dài, chi phí phát sinh lớn nên để có thể kiểm soát được chi phí, người ta xác định các điểm dừng kỹ thuật để tính giá. Theo cách phân loại này có hai loại giá thành: Giá thành hoàn chỉnh: Giá thành hoàn chỉnh, hạng mục công trình đã hoàn chỉnh, đảm bảo kỹ thuật, đúng thiết kế và hợp đồng, đã bàn giao cho chủ đầu tư và được chấp nhận thanh toán. Giá thành thực tế công tác xây lắp: Giá thành thực tế công tác xây lắp phản ánh tổng chi phí doanh nghiệp chi ra cho xây dựng công trình đạt đến một điểm dừng kỹ thuật nhất định. Nhà quản trị có thể dựa vào chỉ tiêu này thu thập thông tin kịp thời về chi phí cho từng giai đoạn thi công từ đó so sánh với dự toán thiết kế, phát hiện kịp thời những chênh lệch bất hợp lý, tìm hiểu nguyên nhân để điều chỉnh cho phù hợp với giai đoạn sau. 1.2.2.2.3 Căn cứ vào phạm vi phát sinh chi phí. Theo góc độ này, giá thành sản phẩm được chia thành 2 loại là giá thành sản xuất và giá thành toàn bộ. Giá thành sản xuất là chỉ tiêu phản ánh những chi phí liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm, gắn với quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. Giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp bao gồm 4 khoản mục: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công, chi phí sản xuất chung. Giá thành toàn bộ: Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành toàn bộ ngoài những khoản mục giống giá thành sản xuất còn bao gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho các sản phẩm. 1.2.2.3. Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm. Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ do doanh nghiệp sản xuất ra và cần phải tính được giá thành và giá thành đơn vị. Xác định đối tượng tính giá thành cũng là công việc đầu tiên trong toàn bộ công tác tính giá thành sản phẩm của kế toán. Bộ phận kế toán giá thành phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp, các loại sản phẩm và lao vụ mà doanh nghiệp sản xuất, tính chất sản xuất của chúng để xác định đối tượng tính giá thành cho phù hợp. Trong xây dựng cơ bản, sản phẩm có tính đơn chiếc, đối tượng tính giá thành là từng công trình, hạng mục công trình cụ thể đã xây dựng hoàn thành. Ngoài ra, đối tượng tính giá thành có thể là từng giai đoạn công trình hoặc từng giai đoạn hoàn thành quy ước, tuỳ vào phương thức bàn giao thanh toán giữa đơn vị xây lắp với chủ đầu tư. Sau khi đã xác định được đối tượng tính giá thành sản phẩm, kế toán phải lựa chọn và xây dựng được phương pháp tính giá thành cho phù hợp để không những đảm bảo xác định đúng đắn giá thành sản phẩm mà còn đảm bảo công tác tính giá thành sản phẩm được đơn giản, thuận lợi trên cơ sở phù hợp với đối tượng tính giá thành sản phẩm. Phương pháp tính giá thành sản phẩm đó là một hay một hệ thống các phương pháp để tính giá thành sản phẩm. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm thường được sử dụng trong các doanh nghiệp xây lắp bao gồm: Phương pháp tính giá thành trực tiếp: Phương pháp này được áp dụng chủ yếu trong các doanh nghiệp xây lắp với đặc điểm sản phẩm đơn chiếc và chi phí sản xuất được tập hợp riêng cho từng đối tượng. Theo phương pháp này, công thức tính giá thành như sau: Z = DĐK + C - DCK Trong đó: Z: Giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành. DĐK: Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ. C: Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. DCK: Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ. Phương pháp tổng cộng chi phí: Phương pháp này thường được áp dụng trong các doanh nghiệp có quy mô lớn, quá trình xây lắp tiến hành theo các tổ, đội sản xuất hay từng giai đoạn công trình. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng đội sản xuất hoặc từng giai đoạn thi công còn đối tượng tính giá thành là các công trình xây lắp hoàn thành. Theo phương pháp này, giá thành được xác định như sau: Z = DĐk + C1 + C2 + ......... + Cn - DCK Trong đó: C1, C2, ..., Cn là chi phí phát sinh ở từng tổ đội hay từng giai đoạn thi công. Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng: Phương pháp này thường áp dụng trong trường hợp bên giao thầu ký hợp đồng với doanh nghiệp xây lắp thi công bao gồm nhiều công việc khác nhau mà không cần hạch toán riêng cho từng công việc. Khi đó, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là đơn đặt hàng. Chi phí thực tế phát sinh được tập hợp riêng cho từng đơn đặt hàng kể từ khi khởi công đến khi hoàn thành công trình. Toàn bộ chi phí đã tập hợp là giá thành của đơn đặt hàng đó. Phương pháp tính giá thành theo định mức: Nội dung của phương pháp này là: Căn cứ vào định mức kỹ thuật hiện hành và dự toán chi phí sản xuất được duyệt để tính ra giá thành định mức cho sản phẩm. Tổ chức công tác hạch toán chi phí sản xuất thực tế phù hợp với định mức và số chi phí sản xuất chênh lệch thoát ly định mức. Giá thành thực tế của sản phẩm được tính theo công thức: Giá thành thực tế = Giá thành định mức + - Chênh lệch do thay đổi định mức + - Chênh lệch do thoát ly định mức Mục đích của phương pháp này là kịp thời vạch ra mọi chi phí sản xuất thoát ly định mức nhằm tăng cường tính chất kiểm tra và phân tích các số liệu chi phí sản xuất và giá thành đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc tính toán giản đơn và cung cấp thông tin kịp thời. 1.2.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp. Chi phí sản xuất với bản chất là các hao phí mà đơn vị bỏ ra cho hoạt động sản xuất nên nó có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp. Nó thể hiện sự tiết kiệm hay lãng phí của đơn vị cũng như trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào đạt đến trình độ nào trong quá trình sản xuất. Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị đã sử dụng các yếu tố đầu vào lãng phí hay tiết kiệm và trình độ sử dụng các yếu tố đó ở mức cao, thấp hay trung bình. Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu liên quan tới khối lượng sản phẩm hoàn thành, biểu hiện kết quả ban đầu của quá trình sản xuất kinh doanh của đơn vị. Giá thành là một đại lượng có tỷ trọng lớn trong báo cáo kết quả kinh doanh, nó ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Nó cũng biểu hiện hiệu quả sử dụng chi phí của đơn vị. Đơn vị sử dụng chi phí có hiệu quả là đơn vị không có hay ít có các chi phí thiệt hại như: sản phẩm hỏng, phá đi làm lại... Như vậy, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là 2 chỉ tiêu có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp. Chi phí sản xuất thể hiện mặt hao phí còn giá thành biểu hiện mặt kết quả của quá trình sản xuất. Đó là 2 mặt thống nhất của quá trình sản xuất. Quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp có thể biểu thị qua công thức sau: Giá thành sản phẩm = Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ + Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ - Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ Doanh nghiệp có quản lý tốt 2 chỉ tiêu này thì mới có thể đạt được kết quả cao trong sản xuất kinh doanh. Đối với người thực hiện nghiệp vụ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm thì việc nghiên cứu 2 chỉ tiêu này là cơ sở cho việc tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất phát sinh và xác định chính xác kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. 1.3. hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. 1.3.1. Nguyên tắc và trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp. Hiện nay, các doanh nghiệp xây lắp đang áp dụng chế độ kế toán ban hành theo quyết định số 1864/QĐ/BTC ngày 16/12/1998 trong đó quy định rõ chế độ chứng từ, tài khoản sử dụng, nguyên tắc hạch toán, lập báo cáo tài chính... Theo quyết định này, việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp xây lắp phải tuân theo các nguyên tắc sau: Doanh nghiệp xây lắp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên. Đối với nguyên liệu, vật liệu, dich vụ mua ngoài sử dụng ngay (không qua kho) cho hoạt động sản xuất hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thì chi phí hạch toán vào tài khoản loại 6 là giá mua chưa tính thuế giá trị gia tăng đầu vào của khối lượng nguyên vật liệu, dịch vụ mua ngoài dùng ngay cho sản xuất kinh doanh. Đối với nguyên liệu, vật liệu, dịch vụ mua ngoài sử dụng ngay (không qua kho) cho hoạt động sản xuất hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng hoặc chịu thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp thì chi phí hạch toán vào tài khoản loại 6 là giá mua bao gồm cả thuế giá trị gia tăng đầu vào của khối lượng nguyên liệu, dịch vụ mua ngoài dùng ngay cho sản xuất kinh doanh. Đối với tài khoản để tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm (TK154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang) ngoài việc hạch toán tổng hợp còn phải hạch toán chi tiết nơi phát sinh chi phí: tổ, đội sản xuất, sản phẩm, nhóm sản phẩm... Đối với những chi phí sản xuất không có khả năng hạch toán trực tiếp vào các đối tượng chịu chi phí, trước hết phải tập hợp các chi phí này vào tài khoản tập hợp chi phí, sau đó tiến hành phân bổ chi phí đã tập hợp cho các đối tượng chịu phí theo tiêu thức phù hợp. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là bước công việc cần tiến hành để tập hợp chi phí sản xuất phục vụ cho việc tính giá thành kịp thời, chính xác. Cũng như các ngành sản xuất khác, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp xây lắp được tiến hành theo trình tự sau: Tập hợp chi phí cơ bản (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công, chi phí sản xuất chung) có liên quan đến đối tượng sử dụng (công trình, hạng mục công trình, tổ đội thi công). Tính toán và phân bổ lao vụ của các ngành sản xuất kinh doanh phụ có liên quan trực tiếp cho từng công trình, hạng mục công trình trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và đơn giá lao vụ. Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung (những chi phí không thể tách riêng) cho các công trình có liên quan theo tiêu thức thích hợp. Xác định chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cuối kỳ, tính ra giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành. Tính toán và phân bổ chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp cho các sản phẩm xây lắp để tính ra giá thành toán bộ sản phẩm xây lắp hoàn thành. 1.3.2. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là các chi phí về nguyên liệu, vật liệu sử dụng trực tiếp cho hoạt động xây lắp của doanh nghiệp. Chi phí nguyên vật liệu phải được tính theo giá thực tế khi xuất sử dụng. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp cần lưu ý: Không hạch toán vào khoản mục này đối với trường hợp xây lắp nhận thiết bị xây dựng cơ bản của bên giao thầu (bên A) hoặc do bên A uỷ quyền cho bên B mua để lắp đặt vào công trình nhận thầu. Để hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán các doanh nghiệp xây lắp sử dụng tài khoản 621. Kết cấu của tài khoản này như sau: Bên Nợ: Trị giá thực tế nguyên liệu, vật liệu sử dụng trực tiếp cho hoạt động xây lắp của doanh nghiệp. Bên Có: Trị giá nguyên liệu, vật liệu trực tiếp sử dụng không hết được nhập lại kho. Kết chuyển hoặc tính phân bổ trị giá nguyên vật liệu thực tế sử dụng cho hoạt động xây lắp trong kỳ vào TK 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và chi tiết cho các đối tượng để tính giá thành công trình xây lắp, giá thành sản phẩm, dịch vụ lao vụ. TK 621 cuối kỳ không có số dư. TK 621 phải được mở chi tiết theo từng công trình xây dựng, lắp đặt (công trình, hạng mục công trình, các giai đoạn công việc, khối lượng xây lắp có dự toán riêng). Vật liệu sử dụng cho công trình, hạng mục công trình nào thì phải tính trực tiếp cho công trình đó. Trường hợp không tính riêng được thì phải phân bổ cho từng công trình, hạng mục công trình theo định mức tiêu hao, theo khối lượng thực hiện. Phương pháp hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có thể được khái quát theo sơ đồ sau: TK 621 TK 154 TK 152 TK 111, 112, 331 ... Xuất kho nguyên vật liệu trực tiếp thực hiện sản xuất sản phẩm xây lắp NVL mua ngoài sử dụng ngay không qua kho TK 133 VAT Kết chuyển chi phí NVL trực tiếp Sơ đồ 1.1: Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. 1.3.3. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp. Chi phí nhân công trực tiếp là các chi phí lao động trực tiếp tham gia vào quá trình hoạt động xây lắp và các hoạt động sản xuất công nghiệp, cung cấp dịch vụ, lao vụ trong các doanh nghiệp xây lắp. Chi phí lao động động trực tiếp thuộc hoạt động xây lắp bao gồm cả các khoản phải trả cho người lao động thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp và lao động thuê ngoài theo từng loại công việc. Chi phí nhân công trực tiếp nếu tính trả lương theo sản phẩm hoặc tiền lương theo thời gian nhưng có liên hệ trực tiếp với từng đối tượng tập hợp chi phí cụ thể thì dùng phương pháp tập hợp trực tiếp. Đối với chi phí nhân công trực tiếp có liên quan tới nhiều đối tượng và không hạch toán trực tiếp được thì phải dùng phương pháp phân bổ gián tiếp. Tiêu chuẩn được dùng để phân bổ hợp lý là phân bổ theo giờ công định mức hoặc theo lương định mức hoặc phân bổ theo giờ công thực tế. Đối với hoạt động xây lắp, chi phí nhân công trực tiếp không bao gồm các khoản trích BHYT, BHXH, KPCĐ và tiền ăn ca phải trả cho công nhân xây, lắp. Tài khoản sử dụng hạch toán chi phí nhân công trực tiếp : TK 622. Kết cấu tài khoản này như sau: Bên Nợ: Chi phí nhân công trực tiếp tham gia vào quá trình thi công các công trình. Bên Có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp sang TK 154 để tính giá thành công trình hoàn thành. TK 622 cuối kỳ không có số dư. Phương pháp hạch toán chi phí nhân công trực tiếp: TK 622 TK 154 TK 334 (3341) TK 111, 112, 3342 ... Tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp trong biên chế của doanh nghiệp Tiền lương phải trả cho lao động thuê ngoài Kết chuyển chi phí NC trực tiếp Sơ đồ 1.2: Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp. 1.3.4. Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công. Hạch toán chi phí máy thi công phụ thuộc vào hình thức sử dụng máy thi công: tổ chức đội máy thi công riêng biệt chuyên thực hiện các khối lượng thi công bằng máy hoặc giao máy thi công cho các đội, xí nghiệp xây lắp. Nếu doanh nghiệp có tổ chức các đội máy thi công riêng biệt và có phân cấp hạch toán cho đội máy tổ chức hạch toán riêng thì tất cả các chi phí liên quan tới hoạt động của đội máy thi công được hạch toán vào các khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung chứ không phản ánh vào khoản mục chi phí máy thi công. Sau đó, các khoản mục này được kết chuyển để tính giá thành cho 1 ca máy thực hiện và cung cấp cho các đối tượng xây lắp. Quan hệ giữa đội máy thi công với đơn vị xây lắp có thể thực hiện theo phương thức cung cấp lao vụ lẫn nhau giữa các bộ phận hay có thể thực hiện theo phương thức bán lao vụ lẫn nhau giữa các bộ phận trong nội bộ. Nếu doanh nghiệp không tổ chức đội máy thi công riêng biệt hoặc có tổ chức đội máy thi công riêng biệt nhưng không tổ chức kế toán riêng cho đội máy thi công; thực hiện phương thức thi công hỗn hợp vừa thủ công vừa kết hợp bằng máy thì các chi phí liên quan tới hoạt động của đội máy thi công đựơc tính vào khoản mục chi phí máy thi công. Trường hợp doanh nghiệp thực hiện giao khoán xây lắp nội bộ cho đơn vị nhận khoán (không tổ chức hạch toán riêng) thì doanh nghiệp không theo dõi chi phí phát sinh thực tế mà chỉ theo dõi tiền tạm ứng chi phí máy thi công và thanh toán tiền tạm ứng khi có bảng quyết toán tạm ứng về giá trị xây lắp đã hoàn thành bàn giao. Để hạch toán chi phí sử dụng máy thi công, hàng ngày các đội xe máy phải lập “nhật trình xe máy” hoặc “phiếu theo dõi hoạt động xe máy thi công”. Định kỳ, kế toán thu hồi các chứng từ trên để tổng hợp các chi phí phục vụ cho xe máy thi công cũng như kết quả thực hiện của từng loại máy, từng nhóm máy hoặc từng máy. Sau đó, tính và phân bổ chi phí sử dụng máy cho các đối tượng xây lắp. Tài khoản sử dụng: TK 623 - chi phí sử dụng máy thi công. Tài khoản này có kết cấu như sau: Bên Nợ: Các chi phí liên quan đến máy thi công (chi phí lương lái máy, chi phí nguyên vật liệu chạy máy, chi phí bảo dưỡng, sửa chữa máy, chi phí khấu hao máy thi công... ). Bên Có: Kết chuyển chi phí máy thi công. Tài khoản 623 cuối kỳ không có số dư và chi tiết thành 6 tiểu khoản: 6231: Chi phí nhân công. 6232: Chi phí vật liệu. 6233: Chi phí dụng cụ sản xuất. 6234: Chi phí khấu hao máy thi công. 6237: Chi phí dịch vụ mua ngoài. 6238: Chi phí bằng tiền khác. Phương pháp hạch toán chi phí máy thi công: Trường hợp máy thi công thuê ngoài: Toàn bộ chi phí thuê máy thi công được tập hợp vào TK 623: Nợ TK 623 (6237): Giá thuê chưa thuế. Nợ TK 133: VAT được khấu trừ. Có TK 331, 111,112... : Tổng giá thuê ngoài. Cuối kỳ, kết chuyển chi phí máy thi công vào TK 154 theo từng đối tượng: Nợ TK 154 Có TK 623 (6237). Trường hợp doanh nghiệp tổ chức đội máy thi công riêng biệt và có phân cấp quản lý để theo dõi riêng chi phí như một bộ phận sản xuất độc lập, kế toán phản ánh như sau: Toàn bộ chi phí liên quan trực tiếp đến đội máy thi công được tập hợp riêng trên các tài khoản 621, 622, 627, chi tiết cho đội máy thi công. Cuối kỳ, tổng hợp chi phí vào tài khoản 154 (1543. Chi tiết đội máy thi công) để tính giá thành ca máy (hoặc giờ máy). Từ đó xác định giá trị mà đội máy thi công phục vụ cho từng đối tượng theo giá thành ca máy (hoặc giờ máy) và khối lượng dịch vụ (số ca máy, giờ máy) phục vụ cho từng đối tượng. Cụ thể: Nếu các bộ phận trong doanh nghiệp không tính kết quả riêng mà thực hiện phương thức cung cấp lao vụ lẫn nhau: Nợ TK 623: Giá trị của đội máy thi công phục vụ cho các đối tượng. Có TK 154 (1543. Chi tiết đội máy thi công): Giá thành dịch vụ của đội máy thi công phục vụ cho các đối tượng. Nếu các bộ phận trong doanh nghiệp xác định kết quả riêng: Nợ TK 632: Giá trị phục vụ lẫn nhau trong nội bộ. Có TK 154: Giá thành dịch vụ của đội máy thi công phục vụ cho các đối tượng trong nội bộ. Đồng thời kế toán phản ánh giá bán nội bộ về chi phí sử dụng máy cung cấp lẫn nhau: Nợ TK 623: Giá bán nội bộ. Nợ TK 133: VAT đầu vào được khấu trừ (nếu có). Có TK 512: Doanh thu nội bộ. Có TK 33311: VAT đầu ra phải nộp (nếu có). Nếu đội máy thi công có phục vụ bên ngoài: Bút toán 1: Phản ánh giá vốn dịch vụ bán ra ngoài: Nợ TK 632: Giá vốn phục vụ bên ngoài. Có TK 154: Giá thành dịch vụ của đội máy thi công phục vụ cho các đối tượng bên ngoài. Bút toán 2: Phản ánh giá bán cho các đối tượng bên ngoài: Nợ TK liên quan (131, 111,112... ): Tổng giá thanh toán. Có TK 511 Có TK 33311 (nếu có). Trường hợp doanh nghiệp không tổ chức đội máy thi công riêng biệt hoặc có tổ chức đội máy thi công riêng biệt nhưng không phân cấp thành 1 bộ phận độc lập để theo dõi riêng chi phí thì chi phí phát sinh được tập hợp vào TK 623. Tập hợp chi phí vật liệu: Nợ TK 623 (6232) Có TK liên quan (152,111, 112,... ). Tập hợp chi phí tiền lương, tiền công của công nhân điều khiển và phục vụ máy thi công: Nợ TK 623 (6231). Có TK liên quan (334,111,112,... ). Các chi phí khác liên quan đến bộ máy thi công trong từng đội (chi phí khấu hao, chi phí sửa chữa máy thi công thuê ngoài, điện, nước, chi phí bằng tiền khác... ): Nợ TK 623 (chi tiết tiểu khoản). Nợ TK 133 (nếu có). Có TK liên quan (214, 152, 111, 112... ) Kết chuyển hoặc phân bổ chi phí máy thi công cho các đối tượng: Nợ TK 154 Có TK 623 1.3.5. Hạch toán chi phí sản xuất chung. Để tập hợp chi phí sản xuất chung trong các doanh nghiệp xây lắp, kế toán sử dụng TK 627. Nội dung, kết cấu của TK 627 như sau: Bên Nợ: Các chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ, bao gồm: Lương nhân viên quản lý đội; tiền ăn ca, các khoản trích BHYT, BHXH, KPCĐ được tính theo tỷ lệ quy định hiện hành trên tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp, nhân viên sử dụng máy thi công và nhân viên quản lý đội (thuộc biên chế của doanh nghiệp); khấu hao tài sản cố định dùng chung cho hoạt động của đội và những chi phí khác liên quan tới hoạt động của đội. Bên Có: Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung. Kết chuyển chi phí sản xuất chung cuối kỳ. TK 627 cuối kỳ không có số dư và được chi tiết thành 6 tiểu khoản: 6271: Chi phí nhân công. 6272: Chi phí vật liệu. 6273: Chi phí dụng cụ sản xuất. 6274: Chi phí khấu hao tài sản cố định dùng chung cho đội. 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài. 6278: Chi phí bằng tiền khác. Chi phí sản xuất chung được tập hợp theo nội dung khoản mục quy định. Tuỳ thuộc vào tổ chức sản xuất của các tổ, đội xây lắp ở doanh nghiệp mà kế toán tổ chức hạch toán cho phù hợp. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất chung được thể hiện qua sơ đồ sau: TK 334, 338 TK 627 (6271 - 6278) TK 152, 153 TK 214 TK 111,112,131 Tiền lương phải trả NV quản lý đội, BHYT, BHXH, KPCĐ và tiền ăn ca phải trả CNV của đội NVL, CC - DC xuất dùng chung cho đội KH TSCĐ dùng chung cho đội Chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác dùng chung cho đội TK 133 VAT Các khoản ghi giảm CP SXC Kết chuyển CP SXC cuối kỳ. TK 111, 152 TK 154 Sơ đồ 1.3: Hạch toán chi phí sản xuất chung. 1.3.6. Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang. 1.3.6.1. Tổng hợp chi phí sản xuất. Việc tổng hợp chi phí sản xuất trong xây lắp được tiến hành theo từng đối tượng (công trình, hạng mục công trình... ) và chi tiết theo khoản mục vào tài khoản 154. Kết cấu của TK 154 như sau: Bên Nợ: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công, chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ liên quan đến giá thành sản phẩm xây lắp. Bên Có: Giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành bàn giao. Các khoản giảm chi phí. Số dư bên Nợ: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cuối kỳ. Phương pháp hạch toán tổng hợp chi phí: Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Nợ TK 154. Có TK 621. Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp: Nợ TK 154. Có TK 622. Kết chuyển chi phí máy thi công: Nợ TK 154. Có TK 623. Kết chuyển chi phí sản xuất chung: Nợ TK 154. Có TK 627. Trường hợp doanh nghiệp là nhà thầu chính, khi nhận giao khối lượng xây lắp hoàn thành từ nhà thầu phụ, kế toán ghi: Nợ TK 154 (1541. chi tiết đối tượng): Giá trị bàn giao (nếu chưa xác định là tiêu thụ). Nợ TK 632 : Giá trị bàn giao (nếu được xác định là tiêu thụ). Nợ TK 133 (nếu có). Có TK 331: Tổng số tiền phải trả nhà thầu phụ. Tổng giá thành công trình xây lắp hoàn thành trong kỳ: Nợ TK 632: Bàn giao cho chủ đầu tư hay nhà thầu chính (kể cả trường hợp đơn vị nhận khoán nội bộ tổ chức hạch toán và tính kết quả riêng) Nợ TK 155: Nếu sản lượng xây lắp hoàn thành chờ tiêu thụ. Nợ TK 241 (2412): Giá thành công trình lán trại, nhà ở tạm, công trình phụ trợ có nguồn vốn đầu tư riêng trong doanh nghiệp. Có TK 154: Giá thành sản xuất công trình hoàn thành. 1.3.6.2. Kiểm kê, đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ. Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất là bước công việc cung cấp số liệu cho kế toán tính ra giá thành của công trình hoàn thành. Nhưng việc tính giá thành có chính xác không còn phụ thuộc vào việc xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ. Đánh giá sản phẩm dở dang ở doanh nghiệp xây lắp phụ thuộc vào phương thức thanh toán khối lượng hoàn thành giữa bên giao thầu và bên nhận thầu: Nếu quy định thanh toán sản phẩm xây lắp sau khi hoàn thành toàn bộ thì giá trị sản phẩm là tổng chi phí phát sinh từ lúc khởi công đến khi hoàn thành. Do đó, đến cuối kỳ, sản phẩm chưa hoàn thành thì toàn bộ chi phí phát sinh được tính vào giá trị sản phẩm dở dang. Phương pháp này có ưu điểm là dễ làm cho việc tính toán nhưng lại làm cho chỉ tiêu chi phí sản xuất kinh doanh dở dang trong bảng cân đối kế toán tăng lên vì các công trình xây lắp thường có giá trị lớn từ đó là tăng tình trạng ứ đọng vốn. Nếu quy định thanh toán sản phẩm xây lắp theo điểm dừng kỹ thuật hợp lý (xác định được giá dự toán) thì sản phẩm dở dang là khối lượng xây lắp chưa đạt tới điểm dừng kỹ thuật hợp lý đã quy định và được tính giá theo chi phí thực tế sau khi đã phân bổ chi phí thực tế theo giai đoạn hoàn thành và giai đoạn còn dở dang theo giá trị dự toán. Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ được tiến hành theo các bước sau: Giá thành dự toán khối lượng dở dang cuối kỳ của từng giai đoạn = Giá thành dự toán của từng giai đoạn x Tỷ lệ hoàn thành của từng giai đoạn Hệ số phân bổ CP thực tế cho giai đoạn dở dang = CP thực tế dở dang đầu kỳ + CP thực tế phát sinh trong kỳ Giá thành dự toán của KLXL hoàn thành bàn giao trong kỳ + Tổng giá thành dự toán khối lượng dở dang cuối kỳ của các giai đoạn CPSX thực tế dở dang cuối kỳ của từng giai đoạn = Giá thành dự toán dở dang cuối kỳ của từng giai đoạn x Hệ số phân bổ Phương pháp này yêu cầu khối lượng tính toán phải nhiều hơn, việc xác định điểm dừng kỹ thuật hợp lý là rất khó đòi hỏi chuyên môn cao nhưng nó phản ánh chi phí một cách kịp thời, chính xác. 1.3.7. Hạch toán chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, tính giá thành toàn bộ sản phẩm xây lắp. Hạch toán chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp tại các doanh nghiệp xây lắp cũng tương tự như các doanh nghiệp khác tức là cũng tập hợp toàn bộ chi phí bán hàng phát sinh vào bên Nợ TK 641 và chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh vào bên Nợ TK 642. Về nguyên tắc, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp cuối kỳ được kết chuyển toàn bộ để xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, do đặc điểm hoạt động xây lắp, các chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp liên quan đến hoạt động xây lắp cuối kỳ sẽ được phân bổ cho từng đối tượng để tính giá thành toàn bộ sản phẩm xây lắp. Công thức phân bổ như sau: CPBH (CPQLDN) kết chuyển kỳ sau = Tổng CPBH (CPQLDN) x CPNCTT của SPXL DDCK CPNCTT của SPXL DDĐK + CPNCTT phát sinh trong kỳ CPBH (CPQLDN) tính cho SPXL hoàn thành bàn giao trong kỳ = Tổng CPBH (CPQLDN) - CPBH (CPQLDN) kết chuyển kỳ sau Tổng CPBH (CPQLDN) bao gồm CPBH (CPQLDN) kỳ trước chuyển sang và CPBH (CPQLDN) phát sinh kỳ này. CPBH (CPQLDN) phân bổ cho SPXL hoàn thành trong kỳ = CPNCTT của SPXL hoàn thành trong kỳ x Tổng CPBH (CPQLDN) tính cho SPXL hoàn thành bàn giao trong kỳ Tổng CPNCTT của SPXL hoàn thành bàn giao trong kỳ Giá thành toàn bộ sản phẩm xây lắp được tính theo công thức: Giá thành toàn bộ SPXL hoàn thành = Giá thành sản xuất SPXL hoàn thành + CPBH phân bổ cho SPXL hoàn thành + CPQLDN phân bổ cho SPXL hoàn thành 1.3.8. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương thức khoán gọn. Phương thức khoán sản phẩm xây lắp cho các đơn vị cơ sở, các tổ đội thi công là phương thức quản lý thích hợp với cơ chế thị trường. Phương thức này vừa gắn lợi ích của người lao động, tổ đội thi công với khối lượng, chất lượng sản phẩm cũng như tiến độ thi công công trình, vừa mở rộng quyền tự chủ về hạch toán kinh doanh, lựa chọn phương thức tổ chức lao động, tổ chức thi công, phát huy khả năng tiềm tàng của từng tổ đội. Các đơn vị nhận khoán có thể nhận khoán gọn khối lượng, công việc hoặc hạng mục công trình. Giá nhận khoán gọn bao gồm cả chi phí tiền lương, vật liệu, công cụ, dụng cụ thi công, chi phí chung. Khi nhận khoán, bên giao khoán và bên nhận khoán phải lập hợp đồng giao khoán trong đó ghi rõ nội dung công việc, trách nhiệm và quyền lợi mỗi bên cũng như thời gian thực hiện hợp đồng. Khi hoàn thành bàn giao công trình nhận khoán, hai bên lập biên bản thanh lý hợp đồng. 1.3.8.1. Hạch toán tại đơn vị giao khoán. 1.3.8.1.1. Trường hợp đơn vị nhận khoán nội bộ không tổ chức bộ máy kế toán riêng. Kế toán đơn vị giao khoán hạch toán như sau: Khi tạm ứng vật tư, tiền vốn cho đơn vị nhận khoán: Nợ TK 141 (1413. Chi tiết đơn vị nhận khoán). Có TK liên quan (152, 153, 111, 112... ) Khi thanh lý hợp đồng, căn cứ vào quyết toán tạm ứng về giá trị khối lượng xây lắp đã hoàn thành, bàn giao, kế toán phản ánh số chi phí thực tế: Nợ TK 621: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Nợ TK 622: chi phí nhân công trực tiếp. Nợ TK 623: chi phí máy thi công. Nợ TK 627: chi phí sản xuất chung. Nợ TK 133 ( nếu có). Có TK 141 (1413): Giá trị xây lắp giao khoán nội bộ. Trường hợp giá trị xây lắp giao khoán nội bộ phải trả lớn hơn số đã tạm ứng, ghi nhận hay thanh toán bổ sung số thiếu cho đơn vị nhận khoán: Nợ TK 141 (1413. Chi tiết đơn vị). Có TK liên quan (111, 112, 338... ). Trường hợp số đã tạm ứng lớn hơn giá trị giao khoán nội bộ, số thừa phải thu hồi ghi: Nợ TK liên quan (111, 112, 334, 1388... ) Có TK 1413. Tại đơn vị giao khoán, TK 141 (1413) phải được mở chi tiết cho từng đơn vị nhận khoán. Đồng thời phải mở sổ theo dõi khối lượng xây lắp giao khoán gọn theo từng công trình, hạng mục công trình trong đó phản ánh cả giá nhận thầu và giá giao khoán, chi tiết theo từng khoản mục phí. Còn tại đơn vị nhận khoán cần mở sổ theo dõi khối lượng nhận khoán cả về giá trị nhận khoán và chi phí thực tế theo từng khoản mục chi phí. Trong đó, chi phí nhân công thực tế cần chi tiết theo bộ phận thuê ngoài và bộ phận chi phí phải trả cho công nhân viên của đơn vị. Số chênh lệch giữa chi phí thực tế với giao khoán là mức tiết kiệm hoặc vượt chi của đơn vị nhận khoán (Xem phụ lục 1: Sổ theo dõi khối lượng xây lắp khoán gọn). 1.3.8.1.2 Trường hợp đơn vị nhận khoán có tổ chức bộ máy kế toán riêng và được phân cấp quản lý tài chính. Kế toán đơn vị giao khoán sử dụng TK 136 (1362 - Phải thu về khối lượng xây lắp giao khoán nội bộ) để phản ánh toàn bộ giá trị mà đơn vị ứng về vật tư, tiền, khấu hao tài sản cố định... cho đơn vị nhận khoán nội bộ, chi tiết theo từng đơn vị. Đồng thời, tài khoản này cũng được sử dụng để phản ánh giá trị xây lắp hoàn thành bàn giao từ các đơn vị nhận khoán nội bộ có phân cấp quản lý riêng. TK này quy định chỉ sử dụng ở đơn vị giao khoán. Khi tạm ứng cho đơn vị cấp dưới (đơn vị nhận khoán nội bộ) bằng vật tư, bằng tiền... để cấp dưới thực hiện khối lượng nhận khoá._.o hiệu quả sử dụng chi phí vật tư tại công ty xây dựng miền Tây. Đối với khoản mục chi phí nhân công trực tiếp, khoản mục này được hạch toán căn cứ vào các bảng chấm công, bảng thanh toán lương chuyên nghiệp, bảng thanh toán lương thêm giờ và bảng thanh toán lương thuê ngoài. Điều này đảm bảo nguyên tắc làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít đã tạo điều kiện tăng năng suất lao động. Việc áp dụng trả lương theo sản phẩm đã gắn liền lợi ích vật chất của người lao động với tiến độ thi công và chất lượng công trình. Đối với khoản mục chi phí sử dụng máy thi công, công ty sử dụng nhật trình hoạt động máy thi công vừa thể hiện đặc thù ngành nghề kinh doanh của công ty vừa góp phần tính chính xác chi phí nguyên nhiên vật liệu cũng như chi phí khấu hao máy thi công Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm hoàn thành được thể hiện trên bảng “Chi phí sản xuất và giá thành xây lắp”. Số liệu trên bảng được trình bày hợp lý, khoa học, rõ ràng, chi tiết góp phần cung cấp thông tin cho quản lý được dễ dàng, thuận tiện, đặc biệt là các thông tin quản trị. Trong sơ đồ hạch toán kế toán khoán đội, công ty xây dựng miền Tây sử dụng thêm tài khoản 336 để theo dõi chi phí, sản lượng đội thực hiện. Đây là sự vận dụng sáng tạo chế độ kế toán vào tình hình thực tế tại công ty. Với việc sử dụng TK 336, kế toán không cần phải thực hiện thêm bút toán ghi nhận hay thanh toán bổ sung số thiếu cho đội nhận khoán trong trường hợp giá trị xây lắp giao khoán nội bộ không khớp với số đã tạm ứng. Kế toán chỉ cần căn cứ vào số dư trên TK 1413 và TK 336 là xác định được công ty phải thu hồi số tạm ứng thừa hay còn phải thanh toán bổ sung số thiếu cho đội. Có được những thành quả nêu trên là nhờ sự nỗ lực không nhỏ của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty trong đó phải kể đến nỗ lực của phòng tài chính - kế toán đã thực hiện tốt vai trò quản lý chi phí và cung cấp thông tin của mình. Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng miền Tây vẫn còn một số tồn tại sau đây: 3.2.1. Về tổ chức luân chuyển chứng từ. Công ty xây dựng miền Tây hoạt động trong lĩnh vực xây lắp có bao thầu. Địa bàn hoạt động của công ty rất rộng. Có những đội thi công cách trụ sở chính của công ty hàng trăm km. Tại các đội đều có nhân viên kế toán có nhiệm vụ lập, thu thập và tổng hợp các chứng từ lên bảng kê hàng tháng chuyển về phòng kế toán của công ty để hạch toán. Trên thực tế, việc giao nộp chứng từ của các nhân viên kế toán đội thường rất chậm trễ gây khó khăn cho công tác hạch toán tập trung tại công ty. Khi nộp chứng từ cho công ty, kế toán đội thường tập trung chứng từ của nhiều kỳ vừa làm cho việc hạch toán rất vất vả vừa vi phạm nguyên tắc cập nhật trong hạch toán kế toán. Công việc kế toán dồn vào cuối kỳ nhiều mà số lương nhân viên kế toán là không đổi làm cho quyết toán chậm, không hoàn thành các bảng tập hợp chi phí cho từng công trình. Một đặc điểm rất khác biệt so với các ngành sản xuất vật chất khác là địa điểm diễn ra hoạt động sản xuất xây dựng cơ bản không cố định mà luôn thay đổi phụ thuộc vào các công trình được xây dựng ở đâu. Vì vậy, quá trình luân chuyển chứng từ gốc từ chân công trình về phòng kế toán của bất kỳ doanh nghiệp xây lắp nào cũng gặp khó khăn do khoảng cách giữa công trình với trụ sở công ty. Trong cùng một khó khăn chung như vậy, công ty xây dựng miền Tây muốn tồn tại và đứng vững trên thị trường có nhiều đối thủ cạnh tranh phải tìm và thực hiện các biện pháp khắc phục khó khăn cũng như khắc phục tình trạng trên. Bởi vì, chỉ có cập nhật chứng từ mới phản ánh đúng, đủ, chính xác khoản mục chi phí, từ đó cung cấp thông tin kế toán sát thực cho nhà quản trị doanh nghiệp để tìm ra biện pháp giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. 3.2.2. Về hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Tại công ty xây dựng miền Tây, khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp luôn chiếm một tỷ trọng lớn khoảng 60% - 70% trong cơ cấu chi phí và giá thành sản phẩm. Chính vì vậy mà sự biến động của khoản mục phí này có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành sản phẩm. Việc sử dụng tiết kiệm, hợp lý khoản mục chi phí này sẽ góp phần đáng kể vào việc hạ giá thành sản phẩm của công ty. Với đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản là khi xây dựng các công trình, các loại vật liệu chủ yếu được giao đến tận chân công trình, không thông qua kho. Chính vì vậy mà công ty xây dựng miền Tây không sử dụng tài khoản 152 để hạch toán nguyên nhiên vật liệu tồn kho song vẫn viết phiếu nhập kho, xuất kho. Theo em, đây không phải là cách làm hay. Mặc dù công ty không có kho bãi cố định để bảo quản, dự trữ nguyên nhiên vật liệu song tại các đội vẫn có các kho tạm, vẫn có nhân viên vật tư thực hiện việc cung ứng và bảo quản vật tư. Hơn nữa, vật tư mua về cho thi công không phải xuất dùng hết một lần mà được bảo quản trong các kho tạm, mỗi lần xuất dùng đều có các phiếu xuất kho. Mặt khác, công ty xây dựng miền Tây không có sổ danh điểm vật tư. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý cũng như hiệu quả hạch toán chi phí nguyên vật liệu. Như ta đã biết, chi phí nguyên vật liệu chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng chi phí và giá thành sản phẩm. Các loại nguyên vật liệu rất đa dạng, nhiều chủng loại như: Đá, cát, sỏi, sắt thép, nhựa đường, xăng dầu, sơn giao thông... Tại mỗi địa phương nơi các đội thi công công trình, các loại vật tư này có thể có tên gọi khác nhau. Công ty không sử dụng sổ danh điểm vật tư có thể dẫn đến tình trạng nhầm lẫn trong hạch toán. Do vậy, cần có sự thống nhất trong quản lý, theo dõi vật tư. 3.2.3. Về hạch toán chi phí sử dụng máy thi công. Khoản mục chi phí sử dụng máy thi công chiếm một tỷ trọng tương đối khoảng 30% trong tổng chi phí xây lắp phát sinh tại công ty xây dựng miền Tây. Đây là một khoản mục chi phí rất quan trọng thể hiện trình độ sử dụng máy móc trong thi công, xây dựng. Máy thi công là một nhân tố phục vụ đắc lực không thể thiếu cho thi công đặc biệt trong thời kỳ hiện nay với việc thi công những công trình có yêu cầu kỹ thuật cao, tiến độ nhanh. Do vậy mà việc hoàn thiện hạch toán chi phí sử dụng máy thi công có ý nghĩa quan trọng trong kế hoạch hạ giá thành sản phẩm cũng như nâng cao chất lượng công trình. Tại công ty xây dựng miền Tây, chi phí sử dụng máy thi công bao gồm 6 khoản mục: Chi phí nhân công, phản ánh tiền lương của công nhân lái máy. Chi phí nguyên nhiên vật liệu phục vụ quá trình vận hành máy. Chi phí dụng cụ sản xuất, phụ tùng sửa chữa, thay thế phục vụ cho quá trình vận hành máy. Chi phí khấu hao, chi phí sửa chữa lớn, chi phí lãi vay trung hạn. Chi phí dịch vụ mua ngoài. Các chi phí khác. Việc hạch toán chi phí nhân công, chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ và các chi phí khác tuân theo chế độ kế toán hiện hành. Riêng đối với TK 6234 - Chi phí khấu hao máy thi công em thấy nổi lên một số vấn đề sau: Về chi phí khấu hao máy thi công: Khi trích khấu hao máy thi công theo mức khoán, kế toán định khoản như sau: Bút toán 1: Nợ TK 335 Có TK 214 Bút toán 2: Nợ TK 1413 Có TK 335 Khi kế toán nhận được nhật trình hoạt động máy thi công, căn cứ vào chi phí khấu hao thực tế của máy sử dụng cho công trình cụ thể, kế toán ghi: Nợ TK 623(6234) Có TK 336 Sở dĩ kế toán công ty xây dựng miền Tây sử dụng TK 335 để tính và phân bổ chi phí khấu hao máy thi công vì nó xuất phát từ cơ chế khoán mà công ty áp dụng, chi phí máy thi công theo giá giao khoán bao giờ cũng có chênh lệch so với chi phí thực tế. Việc sử dụng TK 335 để tính và phân bổ chi phí khấu hao máy thi công như trên không đúng với chế độ và sai bản chất của tài khoản. Theo quy định của chế độ, việc trích khấu hao tài sản cố định được thực hiện theo tháng. Mà hàng tháng, công ty đã có nhật trình hoạt động máy thi công thì chỉ cần căn cứ vào nhật trình này để tính chi phí khấu hao thực tế và hạch toán theo đúng chế độ, không cần phải qua nhiều bút toán như trên. Trong kết cấu của TK 6234 còn bao gồm các chi phí lãi vay. Khi trích trước chi phí lãi vay: Nợ TK 1413 Có TK 335 Khi công ty trả lãi vay, kế toán ghi: Nợ TK 335 Có TK 111, 112 Đồng thời ghi luôn bút toán: Nợ TK 623 (6234) Có TK 336 Trong xây dựng cơ bản, chi phí lãi tiền vay phục vụ cho thi công công trình không hạch toán vào chi phí tài chính mà được tính trực tiếp vào giá trị công trình song không phải được hạch toán vào TK 623 mà được hạch toán vào chi phí sản xuất chung hoặc chi phí quản lý doanh nghiệp, cuối kỳ phân bổ cho các công trình. Do vậy, cách hạch toán chi phí lãi vay như trên là không đúng với chế độ. 3.2.4. Về tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm. Hiện nay, công tác tổ chức hạch toán chi tiết chi phí sản xuất tại công ty xây dựng miền Tây chưa có bước tổng hợp chi tiết chi phí sản xuất phát sinh trên quy mô toàn doanh nghiệp. Công ty có nhiều đội xây dựng công trình, mỗi đội lại thi công những công trình khác nhau. Việc hạch toán hiện nay tại công ty mới chỉ tập hợp chi phí phát sinh chi tiết tại từng đội từng công trình, nằm tách nhau tại các bảng tài khoản kế toán TK 621, 622, 623, 627. Do đó, việc đối chiếu số liệu với sổ tổng hợp khó khăn và mất thời gian. Công ty xây dựng miền Tây sử dụng TK 154 để tập hợp chi phí sản xuất trên toàn công ty. Do đặc điểm kinh doanh của công ty, đối tượng tập hợp chi phí và tính giá thành là từng công trình xây dựng. Kế toán tập hợp chi phí theo khoản mục. Các tài khoản 621, 622, 623, 627 đều được mở chi tiết cho từng công trình, từng đội thi công, số liệu được theo dõi chi tiết trên các bảng tài khoản kế toán của các tài khoản này. Thế nhưng khi tổng hợp chi phí, kế toán không mở chi tiết TK 154 cho từng công trình, từng đội tương ứng và cũng không có sổ chi tiết TK 154 mà chỉ có sổ cái. Điều này gây khó khăn cho việc tổng hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm. Khi lập bảng tính giá thành sản phẩm, kế toán lại phải căn cứ vào các bảng tài khoản kế toán TK 621, 622, 623, 627 trong khi đó nếu có bảng tài khoản kế toán TK 154 chi tiết cho từng đội, từng công trình thì chỉ cần lấy số liệu trên bảng này. 3.2.5. Công tác kế toán quản trị. Hiện nay, tại công ty xây dựng miền Tây, công tác kế toán tài chính thực hiện rất hiệu quả, thông tin kế toán cung cấp đáp ứng được cho nhu cầu quản lý. Nhưng bên cạnh đó, công tác kế toán quản trị tại công ty chưa được coi trọng. Trong phần hành kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, công việc kế toán quản trị chỉ mới dừng lại ở việc lập các báo cáo tổng hợp chi phí sản xuất và giá thành xây lắp. Trong môi trường cạnh tranh ngày nay, việc cung cấp thông tin kế toán cho quản trị doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở việc cung cấp chính xác, kịp thời mà một yêu cầu nữa là các thông tin đó phải được phân tích và trình bày sao cho bộ phận quản trị có thể dựa vào đó để đưa ra các quyết định nhanh chóng và hiệu quả. Yêu cầu này có thể được đáp ứng khi công tác kế toán quản trị được thực hiện triệt để. Với việc đẩy mạnh công tác kế toán quản trị, bộ phận quản trị sẽ biết được các thông tin cơ cấu cũng như các yếu tố chi phí xây lắp, các biến động trong các khoản mục hay các yếu tố chi phí ... từ đó sẽ có được các quyết định nhanh chóng, phù hợp góp phần tích cực vào việc giảm chi phí, hạ giá thành. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả của thông tin kế toán nói riêng và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung thì cần đẩy mạnh hơn nữa công tác kế toán quản trị. Trong thời gian thực tập tại công ty xây dựng miền Tây, em nhận thấy những tồn tại nêu trên không phải do trình độ của nhân viên kế toán. Ngược lại, họ đều là những người được đào tạo ở trình độ đại học và có kinh nghiệm trong nghề. Song trong quá trình làm việc, kế toán viên thường làm theo thói quen và làm theo những người tiền nhiệm, trước đã hạch toán như thế nào thì cứ tiếp tục hạch toán theo cách đó. Điều này có thể làm họ cảm thấy công việc thuận tiện, dễ làm, ở góc độ nào đó còn tiết kiệm thời gian, công sức. Chuẩn mực, chế độ vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện, luôn thay đổi. Mỗi lần có sự thay đổi, các nhân viên kế có thể chưa cập nhật hoặc đã được cập nhật nhưng ngại làm theo cái mới mà cứ quen làm theo một quy trình đã định sẵn. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán. Công ty càng phát triển thì càng có nhiều mối quan hệ, càng có nhiều đối tượng quan tâm đến công ty đòi hỏi những thông tin công ty đưa ra đặc biệt là các thông tin kế toán phải chính xác, kịp thời, đáng tin cậy. Mặt khác, các doanh nghiệp hiện nay đều có xu hướng áp dụng phần mềm kế toán để hỗ trợ cho công tác hạch toán kế toán. Công ty xây dựng miền Tây muốn sử dụng kế toán máy một cách có hiệu quả thì các thông tin đầu vào cung cấp cho máy cũng phải chuẩn xác, tuân theo chế độ kế toán tài chính hiện hành. Như vậy, hoàn thiện hệ thống kế toán nói chung và hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng là một yêu cầu cấp thiết đối với công ty xây dựng miền Tây. 3.3. Sự cần thiết phải hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển lâu dài nhất thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động của mình mà nội dung chính là hoàn thiện bộ máy tổ chức, quy trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong đó, hiệu quả của quá trình sản xuất chính là nhân tố chủ yếu đem lại hiệu quả chung của toàn doanh nghiệp. Như vậy, với vai trò là nhân tố chủ yếu đem lại hiệu quả chung của toàn doanh nghiệp thì việc hoàn thiện quá trình sản xuất chính là nội dung trọng tâm của việc nâng cao hiệu quả hoạt động của mỗi đơn vị. Để đạt được mục tiêu này, quá trình sản xuất phải diễn ra một cách thuận lợi từ khâu lập dự toán đến khâu tổ chức thực hiện và quan trọng là quản trị doanh nghiệp phải thu thập được những thông tin chính xác, kịp thời về tình hình chi phí và kết quả để từ đó đề ra những biện pháp không ngừng giảm bớt những chi phí không cần thiết, khai thác tối đa tiềm năng nguyên vật liệu, lao động của đơn vị. Bộ phận quản trị chỉ có thể có được những thông tin hữu ích cho các quyết định của mình khi doanh nghiệp có một hệ thống kế toán được hoàn thiện về mọi mặt. Khi đó, bộ phận quản trị không những chỉ thu được những thông tin về tình hình sản xuất một cách nhanh chóng, kịp thời mà các thông tin đó còn được xử lý bằng các phương pháp ghi chép, tính toán mang tính chất nghiệp vụ chuyên ngành rất hữu ích cho việc ra các quyết định quản lý. Với tư cách là một phần rất quan trọng của hệ thống kế toán doanh nghiệp thì việc hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm không thể tách rời với hoàn thiện hệ thống kế toán nói chung. Việc hoàn thiện hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm mặc dù là một phần trong hoàn thiện hệ thống kế toán tại doanh nghiệp song không vì thế mà coi nó chỉ là nhiệm vụ riêng của một bộ phận. Nó đòi hỏi phải có sự phối hợp cùng thực hiện giữa các bộ phận, phòng ban trong công ty. Có thể thấy đây là điều kiện đầu tiên trong việc hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Kết quả của việc hoàn thiện công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm sẽ giúp cho doanh nghiệp quản lý một cách hiệu quả về tình hình chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, giúp doanh nghiệp thực hiện được các kế hoạch tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Như vậy, có thể nói hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất là yêu cầu tất yếu, khách quan, phù hợp với sự phát triển và nhu cầu quản lý. 3.4. Quan điểm và yêu cầu hoàn thiện. Để tồn tại và đứng vững trên thị trường, các doanh nghiệp cần phải tăng khả năng cạnh tranh đáp ứng những đòi hỏi khắt khe của thị trường. Một trong những chỉ tiêu đảm bảo khả năng đó chính là hạ thấp giá thành sản phẩm, tạo lợi thế so sánh trên thị trường. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả đồng vốn, trên cơ sở đó giảm chi phí thấp nhất nếu có thể. Việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ngoài yêu cầu tính đúng, tính đủ, chính xác cần phải cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin cần thiết để nhà quản lý đưa ra quyết định đúng đắn nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận toàn công ty. Do đó, vấn đề hoàn thiện hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng miền Tây phải đạt được các yêu cầu sau: Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, lựa chọn phương pháp tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với đặc điểm của công ty. Xác định đúng đối tượng tính giá thành, lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp. Xây dựng quy tắc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của doanh nghiệp chặt chẽ, thống nhất. Quy trình, trình tự công việc phân bổ chi phí cần thiết cho từng đối tượng chịu phí phù hợp. Đảm bảo thông tin kế toán được thu thập và xử lý chính xác, kịp thời, hữu ích trong việc ra các quyết định quản lý. Để đạt được các yêu cầu trên, công ty phải có các điều kiện sau: Bộ máy kế toán của công ty được tổ chức hợp lý, đội ngũ nhân viên kế toán phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, am hiểu các thông lệ quốc tế về kế toán. Công ty luôn quan tâm đúng mức về mặt vật chất, tinh thần cho cán bộ công nhân viên, phải đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, tạo mọi điều kiện thuận lợi để kế toán phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một tất yếu khách quan, phù hợp với sự phát triển và yêu cầu quản lý. Việc hoàn thiện này mặc dù phải căn cứ vào chế độ kế toán tài chính hiện hành song không vì thế mà tuân theo một khuôn mẫu định trước, tất cả các doanh nghiệp đều giống nhau. Hoàn thiện có nghĩa là hoàn chỉnh hơn sao cho lý luận phù hợp với thực tế và thực tế trên cơ sở lý luận, bổ sung, hoàn thiện lý luận và ngày càng gắn với thông lệ, chuẩn mực quốc tế, phù hợp với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế đất nước. Đặc biệt, việc hoàn thiện này phải là hoàn thiện “mở” tức là phải thuận lợi, linh hoạt, dễ dàng sửa đổi khi có sự thay đổi của chế độ, chuẩn mực. 3.5. Một số giải pháp hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng miền Tây. Để hoàn thiện hạch toán kế toán nói chung và hạch toán chi phí sản xuất tính giá thành sản phẩm nói riêng cần có sự phối hợp đồng bộ của các phòng ban chức năng trong công ty nhưng có thể nói đó là nhiệm vụ chủ yếu đặt ra cho phòng kế toán - tài chính tại công ty. Chính vì vậy, phòng kế toán đóng một vai trò quan trọng trong hoàn thiện hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm. Để thực hiện được vai trò này, cần phải thấy rõ những tồn tại, những mặt yếu cũng như những tiềm năng của đơn vị trong phù hợp với những đặc điểm của công ty để có phương hướng hoàn thiện hợp lý và hiệu quả. Từ những tồn tại trong hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng miền Tây mà em vừa phân tích ở trên, em xin đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty như sau: 3.5.1. Về tổ chức luân chuyển chứng từ. Để khắc phục tình trạng chậm trễ trong việc giao nộp chứng từ gốc từ chân công trình về phòng kế toán công ty, em xin đưa ra một số giải pháp sau: Quy định ngày giao nộp chứng từ tại chân công trình về phòng kế toán công ty dựa theo khoảng cách từ nơi thi công công trình với công ty. Nếu khoảng cách đó: Dưới 50 km thì 5 ngày tập hợp chứng từ một lần. Từ 50 đến 100 km thì 10 ngày tập hợp chứng từ một lần. Từ 100 đến 200 km thì 20 ngày tập hợp chứng từ một lần. Với những công trình xa hơn thì có thể tập hợp chứng từ theo tháng. Người có trách nhiệm thực hiện quy định này và trực tiếp chịu trách nhiệm chính là kế toán đội và các đội trưởng. Nhân viên kế toán tại công ty cần tổ chức hướng dẫn nghiệp vụ kế toán cũng như quy định về kế toán (cụ thể là chế độ chứng từ) cho kế toán đội và đội trưởng xây dựng tuân thủ đầy đủ chế độ chứng từ kế toán. 3.5.2. Về hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Để đảm bảo nhu cầu nguyên vật liệu cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty được tiến hành thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn và quản lý chi phí nguyên vật liệu một cách chặt chẽ, cần phải nhận biết một cách cụ thể về số hiện có và tình hình biến động của từng thứ vật liệu được sử dụng cho sản xuất của công ty. Bởi vậy, các loại vật liệu cần phải được phân chia một cách tỷ mỷ, chi tiết theo tính năng lý, hoá, theo quy định phẩm chất của vật liệu. Việc phân chia vật liệu một cách chi tiết, tỷ mỷ trong các doanh nghiệp sản xuất được thực hiện trên cơ sở xác định và lập sổ danh điểm vật liệu, trong đó vật liệu được chia thành loại, nhóm, thứ và mỗi loại, nhóm, thứ được sử dụng một ký hiệu riêng gọi là số danh điểm vật liệu được sử dụng thống nhất trong phạm vi doanh nghiệp. Mỗi loại vật liệu sử dụng một số trang trong sổ danh điểm vật liệu để ghi đủ nhóm, thứ vật liệu thuộc loại vật liệu đó. Ví dụ: Sổ danh điểm vật liệu của công ty có thể được xây dựng như sau: Sổ danh điểm vật liệu Loại: Nguyên liệu, vật liệu chính - Ký hiệu: 1521. Ký hiệu Tên, nhãn hiệu quy cách vật liệu Đơn vị tính Đơn giá Thành tiền Nhóm Danh điểm vật liệu 1521-01 Thép các loại Kg 1521-01-01 Thép ỉ6 Kg 1521-01-02 Thép ỉ8 Kg ... 1521-02 Gạch các loại Viên 1521-02-01 Gach xây tường Viên 1521-02-021 Gach lát nền Viên ... Công ty xây dựng miền Tây không sử dụng thẻ kho. Như vậy, với việc mở sổ danh điểm vật tư, công ty sẽ có thêm thông tin liên quan đến vật tư, có thể mã hoá các loại vật tư phục vụ đắc lực cho quản lý cũng như hạch toán chi phí về vật liệu, rất thuận lợi cho công ty khi sử dụng kế toán máy. Mặt khác, để việc hạch toán nguyên vật liệu chính xác, theo đúng chế độ, thuận lợi cho việc nhập các phiếu nhập kho, xuất kho vào máy, công ty nên bổ sung TK 152 vào hệ thống tài khoản. Tài khoản này có thể được mở chi tiết cho các loại vật liệu dùng thường xuyên, khối lượng cần cho thi công công trình lớn, mật độ nhập xuất nhiều. 3.5.3. Về hạch toán chi phí sử dụng máy thi công. Thay vì hạch toán chi phí khấu hao máy thi công mà chi phí lãi vay như hiện nay, kế toán công ty nên sửa lại cách hạch toán theo đúng chế độ như sau: Căn cứ vào nhật trình hoạt động máy thi công, kế toán tính ra chi phí khấu hao máy thi công cho từng công trình và ghi: Nợ TK 623 (6234) Có TK 214 Về hạch toán chi phí lãi vay: Khi trích trước chi phí lãi vay: Nợ TK 1413 Có TK 335 Khi công ty trả lãi vay, kế toán ghi: Nợ TK 335 Có TK 111, 112 Đồng thời ghi luôn bút toán: Nợ TK 642 Có TK 336 3.5.4 Hoàn thiện hạch toán chi tiết chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Theo em, sau khi lập bảng tài khoản kế toán các tài khoản chi phí, kế toán công ty nên lập bảng tổng hợp tài khoản kế toán với kết cấu tương tự bảng tài khoản kế toán. Để tập hợp chi phí và tính giá thành được dễ dàng và chính xác, tiết kiệm thời gian và chi phí, công ty nên mở sổ chi tiết TK 154 cho từng công trình từng đội thi công với tên gọi là Bảng tài khoản kế toán TK154 và có kết cấu theo mẫu chung của công ty. Với việc mở sổ chi tiết TK 154, trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng miền Tây có thể khái quát lại như sau: Chứng từ về chi phí sản xuất Bảng tổng hợp chứng từ gốc Bảng tài khoản kế toán TK621,622,623, 627, 642 Bảng tổng hợp tài khoản kế toán TK621,622,623, 627, 154, 642 Sổ đăng ký CT - GS Chứng từ ghi sổ Bảng tài khoản kế toán TK 154 Sổ Cái TK621, 622, 623, 627, 154, 642 Bảng tính chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp. Bảng cân đối tài khoản Báo cáo tài chính Ghi chú: : Ghi cuối tháng hoặc định kỳ Đối chiếu, kiểm tra Sơ đồ 2.9: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo hình thức “Chứng từ ghi sổ” tại công ty xây dựng miền Tây (sau khi hoàn thiện) 3.5.5. Đẩy mạnh công tác kế toán quản trị. Để phục vụ cho việc phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, sau khi lập bảng chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, kế toán có thể lập bảng phân tích sau: bảng phân tích tổng hợp chi phí sản xuất STT Khoản mục chi phí Dự toán Thực tế Chênh lệch Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1 Chi phí NVLTT 2 Chi phí NCTT 3 Chi phí MTC 4 Chi phí SXC Cộng Qua bảng phân tích tổng hợp được lập như trên, bộ phận quản lý sẽ biết được số liệu dự toán các khoản chi phí và phần chênh lệch giữa thực tế với dự toán, từ đó giúp cho các nhà quản trị biết được nguyên nhân gây biến động giá thành và có các biện pháp để hạn chế sự biến động đó trong kỳ kế toán sau. Cụ thể hơn khi xem xét những biến động trong các khoản mục chi phí, công việc phân tích không chỉ dừng lại sau khi đã xem xét thấy được sự biến động mà còn phải chỉ ra được nguyên nhân ảnh hưởng đến sự biến động đó. Thông thường có 2 nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động này là nhân tố giá và nhân tố sản lượng. Biến động về lượng = Giá dự toán x (Lượng thực tế - Lượng dự toán) Biến động về giá = Lượng thực tế x (Giá thực tế - giá dự toán) 3.5.6. áp dụng máy tính cho hạch toán kế toán. Cùng với sự phát triển của xã hội hiện nay, nền sản xuất cũng không ngừng phát triển để đáp ứng những yêu cầu mới. Yêu cầu của công tác quản lý khối lượng và chất lượng cảu thông tin kế toán ngày càng tăng, đặc biệt công tác quản trị doanh nghiệp trong cơ chế thị trường cạnh tranh ngày nay đòi hỏi việc xử lý thông tin phải được thực hiện nhanh chóng và chính xác trong đó thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Hơn nữa, công ty đang tiến hành hạch toán theo hình thức “Chứng từ ghi sổ”, một hình thức rất phù hợp với việc áp dụng kế toán máy. Hiện nay công ty đang sử dụng phần mềm kế toán FAST để hỗ trợ công việc hạch toán. Tuy nhiên, việc sử dụng phần mềm này tại công ty chưa thực sự hiệu quả. Công ty chỉ mới áp dụng kế toán máy đối với các phần hành kế toán tiền mặt - ngân hàng, các khoản phải thu - phải trả, kế toán vật tư. Phần hành hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chủ yếu vẫn làm thủ công. Để có thể áp dụng kế toán máy vào phần hành này theo em, trước hết kế toán phải xây dựng một danh mục tài khoản đầy đủ từ các tài khoản tổng hợp đến các tài khoản chi tiết đặc biệt là các tài khoản chi phí phải được mã hoá theo tên công trình và đội thi công. Việc mã hoá tài khoản đã được kế toán công ty thực hiện tương đối khoa học. Tiếp theo, khâu nhập dữ liệu phải chính xác, đúng đối tượng. Muốn vậy, kế toán nên kiểm tra, phân loại các chứng từ cùng loại để vào máy được nhanh chóng, dễ dàng, không bị nhầm lẫn. Đối với khâu ra các báo cáo theo yêu cầu, kế toán nên kết chuyển dữ liệu sang EXCEL để sửa lại mẫu bảng biểu, thêm dòng, thêm cột cho phù hợp với yêu cầu bởi vì nếu in báo cáo trực tiếp từ FAST thì bảng biểu không được theo ý muốn. Tóm lại, có thể thấy rằng, để nâng cao hiệu quả hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, kế toán công ty xây dựng miền Tây có rất nhiều biện pháp. Song, để sự thay đổi thực sự mang lại tác dụng, công ty cần phải thực hiện tốt và đồng bộ các biện pháp sao cho khi biện pháp này thực hiện thì có tác dụng tích cực thực thi biện pháp kia. Có như vậy, công cuộc đổi mới của công ty mới có tính bền vững lâu dài. Đây là nguyên tắc chung cho tất cả các đơn vị kinh tế tham gia trên thị trường. kết luận Trên đây, em vừa trình bày xong toàn bộ nội dung của bài viết này. Chương 1 là nội dung những vấn đề lý luận chung nhất về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp bao gồm các khái niệm, nội dung, phân loại và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm theo chế độ tài chính kế toán hiện hành tại Việt Nam. Chương 2 với nội dung chính là thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty xây dựng miền Tây. Thông qua phân tích tình hình thực tế hạch toán các nghiệp vụ về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm từ khâu lập chứng từ cho đến hạch toán chi tiết, hạch toán tổng hợp và lập báo cáo, kết hợp với cơ sở lý luận ở chương 1, em đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty xây dựng miền Tây. Đó chính là nội dung chương 3. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt kiến thức và thời gian, bài viết này chắc chắn chưa đầy đủ về mặt lý luận, chưa sát với thực tế tại công ty. Hơn nữa, những nhận xét, đánh giá trong bài mang tính chất chủ quan của cá nhân em. Vì vậy, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn. danh mục tài liệu tham khảo 1. Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính - Chủ biên: TS. Nguyễn Văn Công - Nhà xuất bản tài chính/2001. 2. Giáo trình: Phân tích hoạt động kinh doanh - Khoa Kế toán - Trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội - Nhà xuất bản thống kê/2001 3. Các tài liệu kế toán của công ty xây dựng miền Tây. 4. Luận văn K39, K40 của khoa Kế toán - Trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội. bảng ký hiệu viết tắt BHYT: Bảo hiểm y tế BHXH: Bảo hiểm xã hội KPCĐ: Kinh phí công đoàn CPSX: Chi phí sản xuất NVL: Nguyên vật liệu NC: Nhân công CC - DC: Công cụ dụng cụ HK TSCĐ: Khấu hao tài sản cố định KLXL: Khối lượng xây lắp XDCT: Xây dựng công trình BCN: Ban chủ nhiệm. BCH: Ban chỉ huy KH - KT: Kế hoạch kỹ thuật VTTB: Vật tư thiết bị TCCB: Tổ chức cán bộ HC: Hành chính TC - KT: Tài chính kế toán. CP & GT: Chi phí và giá thành. CPBH: Chi phí bán hàng. CPQLDN: Chi phí quản lý doanh nghiệp. CPNCTT: Chi phí nhân công trực tiếp. CT - GS: Chứng từ ghi sổ. Phụ lục 1 Sổ theo dõi khối lượng xây lắp khoán gọn (Tại đơn vị giao khoán). Ngày ... tháng ... năm ... Đơn vị nhận khoán: TT Tên CT, HMCT giao khoán Tổng số CP vật liệu CP nhân công CP máy thi công Chi phí chung Giá nhận thầu Giá giao khoán Giá nhận thầu Giá giao khoán Giá nhận thầu Giá giao khoán Giá nhận thầu Giá giao khoán Giá nhận thầu Giá giao khoán ... ... ... Cộng Phụ lục 2 Sổ theo dõi khối lượng xây lắp nhận khoán gọn Đơn vị nhận khoán: Thời gian thực hiện: Công trình: CT Tên công việc nhận khoán Đơn vị tính Khối lượng CP vật liệu CP nhân công ... SH NT Nhận khoán Thực tế Nhận khoán Thực tế Nhận khoán Thực tế ... ... CNV của đơn vị Thuê ngoài ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... Cộng mục lục Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp 1 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0102.doc
Tài liệu liên quan