Lời nói đầu
Hiện nay, trong xu thế đổi mới của đất nước, nền kinh tế thị trường đã và đang mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng có không ít thách thức đối với các doanh nghiệp. Để có thể đứng vững và không ngừng phát triển các doanh nghiệp phải chú trọng tất cả các khâu trong quá trình sản xuất từ khi bỏ vốn ra cho đến khi thu được vốn về, tiết kiệm chi phí và thu được lợi nhuận cao để đảm bảo bù đắp được chi phí bỏ ra và thực hiện tái sản xuất mở rộng.
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta có tốc
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1282 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Công ty Xây dựng công trình Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
độ tăng trưởng khá nhanh và bắt đầu có tích luỹ. Trong xu thế phát triển chung đó, lĩnh vực đầu tư xây lắp có tốc độ phát triển nhanh chưa từng có ở nước ta. Các công trình được xây dựng ngày càng nhiều, trong đó không ít các công trình có giá trị lớn về kinh tế và chính trị, đánh dấu sự phát triển lớn lao trong ngành xây dựng. Hàng năm ngành xây dựng cơ bản thu hút gần 30% tổng vốn đầu tư cả nước. Với nguồn vốn lớn như vậy, vấn đề đặt ra là làm sao quản lý tốt, có hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng phí, thất thoát vốn trong quá trình thi công, giảm chi phí , hạ giá thành, tăng tính cạnh tranh cho doanh nghiệp trong điều kiện thi công kéo dài, địa bàn sản xuất luôn thay đổi.
Chính vì vậy, việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một công tác kế toán quan trọng, giúp doanh nghiệp có cái nhìn xác thực về thực trạng hoạt động của doanh nghiệp mình. Thông qua những thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm do kế toán cung cấp, các nhà quản trị doanh nghiệp sẽ nắm được kết quả chính xác từng hoạt động, từng loại sản phẩm lao vụ dịch vụ cũng như toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Sử dụng hợp lý các thông tin này sẽ tạo đòn bẩy kinh tế nhằm hạ giá thành sản phẩm và tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, qua thời gian nghiên cứu lý luận trong trường học và thời gian thực tập thực tế tại Công ty xây dựng công trình Hà Nội, em đã chọn đề tài “ Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng công trình Hà Nội” cho bài viết của mình.
Mục đích của đề tài là vận dụng lý luận về hạch toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp vào nghiên cứu thực tiễn công tác kế toán tại Công ty xây dựng công trình Hà Nội, qua đó tìm ra những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc trong hoạt động kế toán của Công ty đồng thời mạnh dạn đề ra một số kiến nghị nhằm góp phần nhỏ vào việc hoàn thiện công tác kế toán tại Công ty.
Luận văn tốt nghiệp gồm 3 phần.
Phần I: Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp.
Phần II: Thực trạng công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Xây Dựng Công Trình Hà Nội.
Phần III. Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng công trình Hà Nội.
Phần I
những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp.
I. Đặc điểm hoạt động xây lắp có ảnh hưởng đến hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Xây dựng cơ bản (XDCB) là ngành sản xuất độc lập, có chức năng tạo cơ sở vật chất cho nền kinh tế và là động lực thúc đẩy kinh tế, quốc phòng. So với các ngành sản xuất khác, XDCB có những đặc điểm kinh tế, kỹ thuật đặc trưng được thể hiện rất rõ ở sản phẩm và quá trình tái tạo ra sản phẩm của ngành.
1. Đặc điểm sản phẩm xây lắp.
Sản phẩm xây lắp là những công trình, hạng mục công trình (HMCT) xây dựng, vật kiến trúc…có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất xây lắp lâu dài. Mặt khác, có rất nhiều phương pháp kỹ thuật thi công khác nhau dẫn đến giá trị công trình khác nhau. Vì vậy, đòi hỏi việc tổ chức quản lý và hạch toán nhất thiết phải lập dự toán và trong quá trình xây lắp phải so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo, đồng thời để giảm bớt rủi ro phải mua bảo hiểm cho công trình xây lắp.
Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá hạch toán hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư từ trước. Do đó, tính chất hàng hoá của sản phẩm thể hiện không rõ hay nói cách khác tác động của yếu tố thị trường bị hạn chế.
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất (xe, máy, phương tiện thiết bị thi công, người lao động…) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này gây nhiều khó khăn phức tạp cho công tác quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Do vậy, công tác kế toán phải tổ chức tốt quá trình hạch toán ban đầu, ngoài việc phải thường xuyên tiến hành kiểm kê vật tư tài sản nhằm phát hiện hư hỏng, sai phạm một cách kịp thời.
Thời gian sử dụng sản phẩm xây lắp rất lâu dài. Đặc điểm này đòi hỏi công tác kế toán phải tổ chức tốt sao cho đảm bảo chất lượng công trình như dự toán thiết kế, tạo điều kiện thuận lợi cho bàn giao công trình, ghi nhận doanh thu và thu hồi vốn.
2. Đặc điểm tổ chức sản xuất xây lắp.
Hoạt động xây lắp được diễn ra dưới điều kiện sản xuất thiếu tính ổn định, luôn biến đổi theo địa điểm và gia đoạn thi công. Do vậy, doanh nghiệp thường phải thay đổi, lựa chọn phương án tổ chức thi công thích hợp cả về mặt thi công đến tiến độ.
Chu kỳ sản xuất kéo dài, dễ gặp những rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian như hao mòn vô hình, thiên tai…Do vậy, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này cần tổ chức sản xuất hợp lý, đẩy nhanh tiến độ thi công là điều kiện quan trọng để tránh những tổn thất, rủi ro và ứ đọng vốn trong đầu tư kinh doanh.
Quá trình sản xuất diễn ra trong một phạm vi hẹp với số lượng công nhân và vật liệu lớn. Đòi hỏi tổ chức công tác xây lắp phải có sự phối hợp đồng bộ và chặt chẽ giữa các bộ phận và giai đoạn công việc.
Sản xuất XDCB thường diễn ra ngoài trời, chịu tác động trực tiếp bởi điều kiện môi trường, thiên nhiên. Trong điều kiện thời tiết không thuận lợi ảnh hưởng đến chất lượng thi công, có thể sẽ phát sinh các thiệt hại do ngừng sản xuất hay do phải phá đi, làm lại, vì vậy doanh nghiệp cần có kế hoạch điều độ, phù hợp sao cho có thể tiết kiệm chi phí, hạ giá thành.
Tổ chức trong các doanh nghiệp xây lắp ở nước ta phổ biến là theo phương thức “khoán gọn” các công trình, HMCT, khối lượng hoặc các công việc cho các đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp. Trong giá khoán công trình không chỉ có tiền lương mà còn có đủ các chi phí về vật liệu, công cụ dụng cụ thi công, chi phí chung của các bộ phận nhận khoán. Việc giao khoán trên sẽ giúp cho việc nâng cao trách nhiệm trong quản lý xây dựng của các đội xây dựng, xí nghiệp tiết kiệm chi phí và đẩy nhanh tiến độ thi công.
3. Đặc điểm công tác kế toán trong đơn vị kinh doanh xây lắp.
Kế toán chi phí nhất thiết phải được phân tích theo khoản mục chi phí, do đối tượng hạch toán chi phí là HMCT, các giai đoạn của HMCT hoặc nhóm HMCT cụ thể, nhằm thường xuyên so sánh, kiểm tra việc thực hiện dự toán chi phí. Qua đó xem xét nguyên nhân vượt kế hoạch, hụt dự toán và đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Đối tượng tính giá thành là các công trình, HMCT hoàn thành, các khối lượng xây lắp có dự toán riêng đã hoàn thành. Từ đó xác định phương pháp tính giá thành sản phẩm cho thích hợp như phương pháp trực tiếp, phương pháp tổng cộng chi phí, phương pháp hệ số hoặc phương pháp tỷ lệ. Để có thể so sánh, kiểm tra chi phí sản xuất xây lắp thực tế phát sinh với dự toán đã được lập thì dự toán chi phí thường được lập theo từng khoản mục chi phí: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung.
Giá thành công trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị của bản thân thiết bị đưa vào lắp đặt mà chỉ bao gồm những chi phí do doanh nghiệp xây lắp bỏ ra có liên quan đến xây lắp công trình. Bởi vậy, khi nhận các thiết bị do đơn vị chủ đầu tư bàn giao để lắp đặt, giá của các thiết bị này được ghi vào TK 002- vật tư, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công.
Giá thành công tác xây dựng và lắp đặt kết cấu bao gồm giá trị vật kiến trúc và giá trị thiết bị kèm theo như các thiết bị vệ sinh, thông gió, thiết bị sưởi ấm…
Những đặc điểm hoạt động kinh doanh, đặc điểm sản phẩm, đặc điểm tổ chức
sản xuất và quản lý ngành nói trên đã phần nào chi phối công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp. Đầu tiên, việc tập hợp chi phí sản xuất tiến hành khó khăn do các nghiệp vụ kinh tế phát sinh rời rạc làm cho quá trình tập hợp, bảo quản và chuyển chứng từ gốc về phòng kế toán mất nhiều thời gian. Thêm nữa, là những khó khăn trong phân bổ các chi phí sản xuất chung cho các công trình.
II. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp.
1. Chi phí sản xuất trong đơn vị kinh doanh xây lắp.
1.1 Khái niệm.
Cũng như các ngành sản xuất vật chất khác, doanh nghiệp xây lắp muốn tiến hành hoạt động sản xuất ra sản phẩm thì cần có ba yếu tố cơ bản là tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Các yếu tố này tham gia vào quá trình sản xuất, hình thành nên ba loại chi phí tương ứng là chi phí về sử dụng tư liệu lao động, chi phí về đối tượng lao động và chi phí về sức lao động. Trong điều kiện sản xuất hàng hoá, các chi phí này được biểu hiện dưới dạng giá trị gọi là chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp chi ra để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong một kỳ kinh doanh nhất định (tháng, quý, năm) và cấu thành nên giá thành của sản phẩm xây lắp.
Tuy nhiên, để hiểu đúng chi phí sản xuất cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu.
Chi phí là những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán.Chi tiêu thể hiện sự giảm vốn đơn thuần của doanh nghiệp. Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau. Có những khoản đã chi ra nhưng chưa được coi là chi phí (như vật liệu mua về nhập kho chưa xuất dùng…) và ngược lại có những khoản được coi là chi phí nhưng thực tế chưa phải chi ra (như các chi phí trích trước..)
1.2 Phân loại chi phí sản xuất.
Việc phân loại chi phí một cách hợp lý, khoa học không những có ý nghĩa quan trọng đối với công tác kế toán chi phí sản xuất mà còn là cơ sở của kế hoạch hoá kiểm tra và phân tích chi phí sản xuất của toàn công ty, thúc đẩy việc tiết kiệm chi phí, phát huy hơn nữa vai trò của kế toán đối với sự phát triển của công ty.
Chi phí sản xuất kinh doanh có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau
tuỳ thuộc vào mục đích và yêu cầu của công tác quản lý. Thông thường chi phí sản xuất được phần loại theo các tiêu thức sau:
Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố:
Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố là sắp xếp những chi phí có chung tính chất kinh tế vào một yếu tố, không kể chi phí đó phát sinh ở đâu, dùng vào mục đích gì trong quá trình sản xuất sản phẩm (phục vụ quản lý hay trực tiếp sản xuất). Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia thành các yếu tố sau:
Chi phí nguyên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế…mà công ty dùng để sản xuất trong kỳ (loại trừ giá trị vật liệu không dùng hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi cùng với nhiên liệu, động lực).
Chi phí nhân công: bao gồm toàn bộ số tiền công phải trả, các khoản trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ) của cán bộ công nhân viên trong công ty.
Chi phí khấu hao tài sản cố định (TSCĐ): phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng trong kinh doanh của doanh nghiệp.
Chi phí dịch vụ mua ngoài: bao gồm toàn bộ số tiền mà công ty phải bỏ ra để chi trả cho khối lượng lao vụ, dịch vụ mua và thuê ngoài như tiền điện, tiền nước…
Chi phí khác bằng tiền: là toàn bộ số chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài bốn yếu tố chi phí nói trên.
Việc phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí có tác dụng rất lớn trong quản lý chi phí sản xuất, nó cho biết kết cấu, tỷ trọng của từng yếu tố chi phí sản xuất để phân tích, đánh gía tình hình thực hiện dự toán, lập báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố ở bảng thuyết minh báo cáo tài chính, cung cấp tài liệu tham khảo để lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ lương, tính toán nhu cầu vốn lưu động cho kỳ sau.
Phân loại chi phí theo mối quan hệ của chi phí với quá trình sản xuất:
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất có thể phân thành hai loại. Đó là:
Chi phí trực tiếp: là những chi phí có liên quan trực tiếp tới quá trình sản xuất và tạo ra sản phẩm (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp).
Chi phí gián tiếp: là những chi phí cho hoạt động tổ chức, phục vụ quản lý, do đó không tác động trực tiếp đối với từng đối tượng cụ thể. Đó là các chi phí có liên quan đến việc quản lý của doanh nghiệp như: trả lương cho bộ máy quản lý doanh nghiệp, khấu hao TSCĐ phục vụ cho quản lý doanh nghiệp.
Do mỗi loại chi phí trên có tác động khác nhau đến khối lượng, chất lượng công trình nên việc hạch toán chi phí theo hướng phân định rõ chi phí trực tiếp, chi phí gián tiếp có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong việc đánh giá tính hợp lý của chi phí nhằm tìm ra biện pháp không ngừng giảm chi phí gián tiếp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của doanh nghiệp.
Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí:
Theo cách phân loại này, chi phí được chia thành hai loại sau:
Chi phí khả biến (biến phí): là những khoản mục chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với biến động về mức độ hoạt động. Biến phí khi tính cho một đơn vị thì ổn định, không thay đổi. Nó thường bao gồm các khoản chi phí như nguyên vật liệu, nhân công trực tiếp…
Chi phí bất biến (định phí): là những khoản chi phí không biến đổi khi mức độ hoạt động thay đổi. Chi phí bất biến chỉ giữ nguyên trong phạm vi phù hợp của doanh nghiệp, tức là phạm vi giữa khối lượng sản phẩm tối thiểu và khối lượng sản phẩm tối đa mà doanh nghiệp đã dự định sản xuất. Các chi phí này nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi trong trường hợp sản phẩm thay đổi. Nó thường bao gồm các chi phí như: chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh.
Cách phân loại này có tác dụng lớn đối với các nhà quản trị trong việc phân tích điểm hoà vốn và phục vụ cho việc ra quyết định quản lý cần thiết để hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh.
Phân loại theo khoản mục chi phí: Theo cách phân loại này chi phí được chia thành các khoản mục sau:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (NVLTT): là chi phí của vật liệu chính, vật liệu phụ, vật kết cấu, vật liệu luân chuyển…cần thiết để tạo nên sản phẩm xây lắp. Chi phí NVLTT không bao gồm chi phí vật liệu xuất dùng cho sản xuất chung.
Chi phí nhân công trực tiếp (NCTT): bao gồm tiền lương cơ bản, các khoản phụ cấp lương, lương phụ có tính chất ổn định của công nhân sản xuất trực tiếp.
Chi phí sử dụng máy thi công: là các chi phí trực tiếp liên quan đến việc sử dụng xe, máy thi công để hoàn thành sản phẩm xây lắp. Bao gồm: tiền khấu hao máy móc thiết bị, tiền thuê máy, tiền lương công nhân điều khiển máy, chi phí về nhiên liệu động lực dùng cho máy thi công…
Chi phí chung: Bao gồm ba loại:
+ Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phục vụ cho sản xuất chung của đội nhưng không trực tiếp tính cho từng đối tượng cụ thể. Chi phí này bao gồm: tiền lương của công nhân quản lý đội, các khoản trích theo lương của công nhân trực tiếp sản xuất, công nhân vận hành máy và nhân viên quản lý đội, khấu hao TSCĐ, chi phí công cụ dụng cụ dùng cho quản lý đội, chi phí bằng tiền khác…
+ Chi phí bán hàng: Là toàn bộ các khoản chi phí phát sinh trong kỳ liên quan đến quá trình tiêu thụ sản phẩm xây lắp và các sản phẩm khác bao gồm chi phí chào hàng, chi phí giới thiệu sản phẩm, chi phí bảo hành.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: Gồm toàn bộ chi phí chung trong toàn bộ doanh nghiệp xây lắp có liên quan đến việc tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh và quản lý hành chính.
Việc phân loại chi phí theo khoản mục có tác động phục vụ cho yêu cầu quản lý chi phí sản xuất theo định mức, cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành sản phẩm, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, làm tài liệu tham khảo để lập định mức chi phí sản xuất và lập kế hoạch giá thành sản phẩm cho kỳ sau.
2. Giá thành sản phẩm trong đơn vị kinh doanh xây lắp.
2.1 Khái niệm.
Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền của lao động sống, lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất có liên quan tới khối lượng xây lắp đã hoàn thành. Sản phẩm xây lắp có thể là kết cấu công việc hoặc giai đoạn công việc có thiết kế và sự tính toán riêng, có thể là công trình, HMCT hoàn thành toàn bộ. Giá thành của công trình, HMCT hoàn thành toàn bộ là giá thành sản phẩm cuối cùng của sản xuất xây lắp.
Giá thành sản phẩm xây lắp là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, quản lý của doanh nghiệp, kết quả việc sử dụng các loại vật tư, tài sản trong quá trình sản xuất cũng như các giải pháp thiết kế kỹ thuật mà doanh nghiệp thực hiện nhằm mục đích sản xuất ra khối lượng sản phẩm nhiều nhất với mức chi phí thấp nhất. Giá thành sản phẩm còn là căn cứ để tính toán, xác định hiệu quả kinh tế các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
2.2 Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp.
Trong sản xuất xây lắp, chúng ta có thể phân biệt các loại giá thành theo các tiêu thức sau:
Căn cứ vào cơ sở tính số liệu và thời điểm tính giá thành: theo cách phân loại này giá thành sản phẩm xây lắp được chia thành:
* Giá thành dự toán (Zdt): là tổng số các chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây lắp công trình. Giá thành này được xác định trên cơ sở định mức quy định của Nhà Nước với khung giá quy định áp dụng theo từng lãnh thổ, từng địa phương do cấp thẩm quyền ban hành. Zdt nhỏ hơn giá trị dự toán ở phần định mức.
Zdt = Giá trị dự toán của công trình – Lợi nhuận định mức
Trong đó:
Giá trị dự toán công trình là chỉ tiêu dùng làm căn cứ cho các doanh nghiệp xây lắp xây dựng kế hoạch sản xuất của đơn vị đồng thời là căn cứ để các cơ quan quản lý Nhà Nước giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp. Đó là toàn bộ chi phí cho công tác xây dựng, lắp ráp các cấu kiện, lắp đặt các máy móc thiết bị, nó bao gồm các chi phí trực tiếp, chi phí chung và lợi nhuận định mức.
Lợi nhuận định mức là chỉ tiêu Nhà Nước quy định để tích luỹ cho xã hội do ngành xây dựng cơ bản tạo ra.
* Giá thành kế hoạch (Zkh): là giá thành được xác định xuất phát từ những điều kiện cụ thể ở mỗi đơn vị xây lắp trên cơ sở biện pháp thi công, các định mức, đơn giá áp dụng trong đơn vị. Nó là cơ sở để phấn đấu hạ thấp giá thành sản phẩm xây lắp, tăng thu nhập cho doanh nghiệp trong giai đoạn kế hoạch, phản ánh trình độ quản lý giá thành của doanh nghiệp. Giữa giá thành kế hoạch và giá thành dự toán có mối quan hệ khăng khít với nhau qua công thức:
Zkh = Zdt – Mức hạ Zdt ± Chênh lệch vượt định mức (nếu có).
Giá thành kế hoạch cho phép ta thấy được chính xác những chi phí phát sinh trong giai đoạn kế hoạch cũng như hiệu quả của các biện pháp kỹ thuật làm hạ giá thành dự toán. Giá thành kế hoạch còn được coi là gốc so sánh với thực tế để tính mức độ hoàn thành giá thành kế hoạch, tìm nguyên nhân chủ quan, khách quan tác động đến việc thực hiện giá thành và kế hoạch giá thành.
* Giá thành thực tế xây lắp (Ztt): là biểu hiện bằng tiền của tất cả chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để hình thành một khối lượng xây lắp nhất định và được xác định theo số liệu kế toán tập hợp được. Giá thành thực tế không chỉ bao gồm những chi phí trong định mức mà bao gồm những chi phí vượt định mức như: chi phí về thiệt hại phá đi làm lại, chi phí thiệt hại do ngừng sản xuất, mất mát, hao hụt vật tư, các khoản bội chi về nhân công, tiền vốn trong quá trình sản xuất.
Về nguyên tắc mối quan hệ giữa ba loại giá thành trên phải đảm bảo như sau:
Ztt Ê Zkh Ê Zdt
Việc so sánh giá thành thực tế với giá thành dự toán cho phép ta đánh giá trình độ quản lý của doanh nghiệp trong mối quan hệ với các doanh nghiệp xây lắp khác. Việc so sánh giá thành thực tế với giá thành kế hoạch cho phép ta đánh giá sự tiến bộ hay sự non yếu của doanh nghiệp trong điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất, trình độ tổ chức quản lý của bản thân doanh nghiệp.
Căn cứ vào phạm vi của chỉ tiêu tính giá thành.
Theo cách phân loại này, giá thành được chia thành hai loại:
* Giá thành sản xuất của sản phẩm xây lắp chỉ bao gồm những chi phí liên quan đến xây dựng và lắp đặt sản phẩm xây lắp (chi phí NVLTT, chi phí NCTT, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung)
* Giá thành toàn bộ của sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm xây lắp, bao gồm giá thành sản xuất và chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho sản phẩm đó.
3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp.
Hoạt động kinh doanh xây lắp là sự thống nhất hai mặt khác nhau của một quá trình, trong đó chi phí thể hiện mặt hao phí sản xuất và giá thành thể hiện mặt kết quả sản xuất. Chúng đều là biểu hiện bằng tiền của lao động sống và lao động vật hoá. Tuy nhiên, xét về bản chất chi phí và giá thành có sự khác nhau. Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ mà còn liên quan đến cả sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Ngược lại, giá thành sản phẩm không bao gồm chi phí sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng nhưng lại chứa đựng chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang. Chi phí sản xuất không liên quan đến khối lượng, chủng loại sản phẩm hoàn thành trong kỳ, còn giá thành lại phụ thuộc vào những yếu tố đó dẫn đến đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành sản phẩm là khác nhau.
Có thể nói, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm riêng biệt và có những mặt khác nhau, đồng thời lại có mối quan hệ mật thiết với nhau, sự tiết kiệm hay lãng phí về chi phí sản xuất sẽ tác động trực tiếp tới giá thành sản phẩm thấp hay cao. Quản lý giá thành bao giờ cũng gắn liền với quản lý chi phí sản xuất, cácbiện pháp mà doanh nghiệp sử dụng nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất cũng chính là mục tiêu hạ giá thành sản phẩm.
Có thể phản ánh mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm qua công thức sau:
Tổng giá thành sản phẩm xây lắp
=
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
+
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
-
Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
4. Vai trò, nhiệm vụ của việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
4.1 Vai trò.
Trong XDCB, việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp có những ý nghĩa cơ bản sau:
Cung cấp lượng thông tin đầy đủ, chính xác cho các nhà quản lý về hiệu quả của một hoạt động sản xuất hàng ngày, hàng kỳ, hàng năm để từ đó có những phản ứng, giải pháp kịp thời nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và tối đa mức lợi nhuận.
Giúp cho việc xem xét trước khi quyết định tham dự thầu, tiến hành đấu thầu các công trình, xây dựng giá cả cho ký kết hợp đồng xây dựng công trình. Và giúp Nhà Nước thực hiện sự giám sát và kiểm tra việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính của các doanh nghiệp.
Do đặc điểm của ngành XDCB nên các doanh nghiệp xây lắp luôn gặp khó khăn trong công tác hạch toán kế toán. Điều này khiến cho việc hạch toán chi phí và tính giá thành phải đầy đủ, chính xác mới phục vụ tốt cho việc phân tích, đánh giá kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sự sáng tạo, tìm tòi phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
4.2 Nhiệm vụ.
Để đạt được hiệu quả, việc tổ chức hạch toán kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải đạt được những yêu cầu sau:
Phản ánh kịp thời, chính xác toàn bộ chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất. Tính toán chính xác, phân bổ kịp thời giá thành xây lắp theo đối tượng tập hợp tính giá thành.
Phân bổ hợp lý các chi phí sản xuất theo từng khoản mục vào các đối tượng tập hợp chi phí. Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất và quy trình công nghệ mà áp dụng phương pháp tính giá thành thích hợp.
Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức về chi phí vật tư, lao động, sử dụng máy thi công, kiểm tra dự toán chi phí gián tiếp, phát hiện kịp thời các khoản mục chi phí chênh lệch ngoài định mức (kế hoạch) đề ra các biện pháp ngăn ngừa kịp thời. Kiểm tra việc thực hiện giá thành theo từng khoản mục chi phí, theo từng HMCT, vạch ra các khả năng tiềm tàng và đề xuất các biện pháp hạ giá thành.
Thông qua ghi chép, phản ánh, tính toán để đánh giá đúng hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, kịp thời lập báo cáo kế toán về chi phí sản xuất và tính giá thành theo quy định của cơ quan chủ quản cấp trên.
Với các yêu cầu trên, nhiệm vụ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là:
Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, lựa chọn phương pháp tập hợp chi phí sản xuất thích hợp với đặc điểm của doanh nghiệp, tổ chức để thực hiện tốt việc tập hợp chi phí sản xuất.
Xác định đúng đối tượng tính giá thành và lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp. Tổ chức thực hiện tốt việc tính giá thành sản phẩm.
Xây dựng quy tắc tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, quy định trình tự từng công việc, phân bỏ các chi phí cho từng đối tượng, từng sản phẩm chi tiết.
III. Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
1. Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi giới hạn mà chi phí cần tập hợp nhằm phục vụ cho việc thông tin kiểm tra chi phí và tính giá thành sản phẩm.
Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phải căn cứ vào đặc điểm phát sinh chi phí và công dụng của chi phí trong sản xuất. Tuỳ theo cơ cấu tổ chức sản xuất, yêu cầu và trình độ quản lý kinh tế, yêu cầu hạch toán kinh tế nội bộ của doanh nghiệp mà đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là toàn bộ quy trình công nghệ hay từng giai đoạn, từng quy trình công nghệ riêng biệt. Tuỳ theo quy trình công nghệ sản xuất của sản phẩm, đặc điểm của sản phẩm, yêu cầu của công tác tính giá thành sản phẩm mà đối tượng tập hợp chi phí có thể là từng nhóm sản phẩm, từng sản phẩm, từng bộ phận, cụm chi tiết hoặc chi tiết sản phẩm.
Trong sản xuất xây lắp, do đặc điểm sản phẩm có tính đơn chiếc nên đối tượng hạch toán chi phí sản xuất thường là theo từng đơn đặt hàng hoặc có thể là một HMCT, một bộ phận của một HMCT, nhóm HMCT.
Tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng có tác dụng phục vụ tốt cho việc tăng cường quản lý sản xuất và chi phí sản xuất, cho công tác hạch toán kinh tế nội bộ và hạch toán kinh tế toàn doanh nghiệp, phục vụ cho công tác tính giá thành được kịp thời và chính xác.
Trên cơ sở đối tượng tập hợp chi phí, kế toán sẽ lựa chọn phương pháp tập hợp chi phí thích ứng. Trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp, người ta thường sử dụng các phương pháp tập hợp chi phí sản xuất như sau:
Tập hợp chi phí sản xuất theo công trình hoặc HMCT: hàng tháng chi phí sản xuất phát sinh liên quan đến công trình, HMCT nào thì tập hợp cho công trình hay HMCT đó. Các khoản chi phí đó được phân chia theo tổng số khoản mục tính giá thành. Giá thành thực tế của đối tượng đó chính là tổng số chi phí được tập hợp cho từng đối tượng kể từ khi khởi công đến hoàn thành.
Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo từng đơn dặt hàng: chi phí phát sinh hàng tháng sẽ được phân loại theo đơn đặt hàng riêng biệt. Khi đơn đặt hàng hoàn thành thì tổng chi phí được tập hợp theo đơn đặt hàng đó chính là giá thành thực tế. Phương pháp này được sử dụng trong trường hợp doanh nghiệp xác định đối tượng tập hợp chi phí là từng đơn đặt hàng riêng biệt.
Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo đơn vị thi công: theo phương pháp này các chi phí phát sinh được tập hợp theo từng đơn vị thi công công trình. Trong từng đơn vị đó, chi phí lại được tập hợp theo từng đối tượng chịu phí như HMCT, nhóm HMCT. Trên thực tế có nhiều chi phí phát sinh liên quan đến nhiều công trình, HMCT do vậy phải phân bổ theo tiêu thức thích hợp.
Phương pháp tập hợp theo khối lượng công việc hoàn thành: theo phương pháp này toàn bộ chi phí phát sinh trong thời kỳ nhất định được tập hợp cho từng đối tượng chịu phí. Giá thành thực tế của khối lượng xây lắp hoàn thành là toàn bộ chi phí bỏ ra trong giai đoạn thi công khối lượng xây lắp đó.
2. Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên của toàn bộ công tác tính giá thành trong đơn vị xây lắp và nó có ý nghĩa quan trọng trong việc tính chính xác giá thành sản phẩm xây lắp. Do đặc điểm riêng biệt của sản phẩm XDCB mang tính đơn chiếc và sản phẩm xây dựng phải lập dự toán nên đối tượng tính giá thành trong XDCB là các hạng mục công trình đã hoàn thành, các giai đoạn công việc đã hoàn thành, các khối lượng xây lắp có dự toán thiết kế đã hoàn thành.
Cùng với việc xác định đối tượng tính giá thành, kế toán phải xác định kỳ tính giá thành sản phẩm xây lắp. Đây là mốc thời gian bộ phận kế toán giá thành phải tổng hợp số liệu để tính giá thành thực tế cho các đối tượng tính giá thành. Kỳ tính giá thành phụ thuộc vào đặc điểm tổ chức sản xuất, chu kỳ sản xuất và hình thức nghiệm thu bàn giao khối lượng sản phẩm hoàn thành. Xác định kỳ tính giá thành đúng sẽ giúp cho việc tổ chức công tác tính giá thành được khoa học, hợp lý, đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời số liệu về giá thành thực tế của sản phẩm, lao vụ, phát huy được đầy đủ chức năng kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành của kế toán.
Ngoài ra, để đánh giá sản phẩm xây lắp được chính xác, cần phải lựa chọn phương pháp tính giá thành phù hợp. Trong các doanh nghiệp xây lắp, đối tượng tính giá thành thường là các công trình,hạng mục công trình, dó đó có thể sử dụng các phương pháp tính giá thành sau:
Phương pháp tính giá thành trực tiếp (phương pháp giản đơn):
Phương pháp này được sử dụng trong trường hợp đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với đối tượng tính giá thành là công trình, hạng mục công trình, kỳ tính giá thành phù hợp với kỳ báo cáo. Theo phương pháp này, chi phí sản xuất trực tiếp tập hợp cho một công trình, hạng mục công trình từ khi khởi công đến khi hoàn thành chính là giá thành của công trình, hạng mục công trình đó.
Trong trường hợp công trình, hạng mục công trình chưa hoàn thành toàn bộ mà có khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao thì:
Giá thành thực tế của khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao
=
Chi phí sản xuất dở ._.dang đầu kỳ
+
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
-
Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
Trong trường hợp chi phí sản xuất tập hợp theo công trình, nhưng giá thực tế phải tính riêng cho từng công tình, hạng mục công trình thì kế toán có thể căn cứ vào chi phí sản xuất của cả nhóm và hệ số kỹ thuật đã quy định cho từng hạng mục công trình để tính giá thành thực tế cho từng hạng mục công trình đó. Nếu các hạng mục công trình có thiết kế khác nhau, dự toán khác nhau nhưng thi công trên cùng một địa điểm do cùng một công trường đảm nhiệm, kế toán không có điều kiện theo dõi, quản lý riêng các loại chi phí khác nhau thì chi phí sản xuất đã tập hợp được phân bổ cho từng hạng mục công trình theo những tiêu thức thích hợp.
Phương pháp tổng cộng chi phí:
Phương pháp này được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp phải thi công những công trình lớn, quá trình sản xuất được thể hiện ở nhiều đội sản xuất khác nhau, trải qua nhiều giai đoạn công nghệ khác nhau. Đối tượng tập hợp chi phí là từng đội, từng giai đoạn còn đối tượng tính giá thành là toàn bộ công trình hoàn thành đến giai đoạn cuối cùng. Khi đó, giá thành thực tế của công trình hoàn thành sẽ được tính theo công thức:
Z = Dđk+ C1 + C2 +… + Cn – Dck
Trong đó: Z: giá thành sản phẩm.
C1, C1,…Cn :chi phí sản xuất phát sinh tại từng đội hay từng giai đoạn công nghệ.
Dđk, Dck: chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ, cuối kỳ.
Ngoài các phương pháp trên, các doanh nghiệp xây lắp có thể sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp hệ số, phương pháp tỷ lệ, phương pháp liên hợp…Tuy nhiên, xu hướng chung của các doanh nghiệp xây lắp là sử dụng kết hợp các phương pháp tính giá thành nêu trên tuỳ thuộc vào đối tượng tính giá và điều kiện tổ chức quản lý và sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp.
3. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành.
Chi phí sản xuất của đơn vị xây lắp bao gồm nhiều loại có nội dụng khác nhau, phương pháp hạch toán chi phí cũng khác nhau. Do đó, việc tập hợp chi phí sản xuất xây lắp phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý, khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác và kịp thời.
Trình tự hạch toán chi phí sản xuất là thứ tự các công việc nhằm tập hợp chi phí sản xuất để phục vụ cho việc tính giá thành một cách kịp thời theo tính chất và đặc điểm của ngành.
Có thể khái quát chung việc tập hợp chi phí sản xuất được thực hiện qua các bước sau:
Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng công trình, hạng mục công trình.
Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của ngành sản xuất kinh doanh phụ có liên quan trực tiếp đến công trình, HMCT trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ.
Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các công trình có liên quan theo tiêu thức thích hợp.
Bước 4: Xác định chi phí dở dang cuối kỳ và tính giá thành sản phẩm hoàn thành.
IV. phương pháp Hạch toán chi phí sản xuất trong các đơn vị kinh doanh xây lắp.
1 Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp. Nó bao gồm giá thực tế (giá mua + chi phí thu mua) của toàn bộ vật liệu chính, vật liệu phụ, các cấu kiện, bộ phận rời lẻ dùng cho việc xây dựng, lắp đặt các công trình, không bao gồm giá trị nguyên vật liệu dùng cho máy thi công và quản lý đội.
Nguyên vật liệu sử dụng cho công trình, hạng mục công trình nào thì tập hợp trực tiếp cho công trình, hạng mục công trình đó. Trường hợp không tính riêng được thì phải phân bổ cho từng công trình, hạng mục công trình, theo các tiêu thức phù hợp như: định mức tiêu hao nguyên vật liệu, theo khối lượng thực hiện…
Công thức phân bổ như sau:
Chi phí nguyên vật liệu phân bổ cho từng đối tượng
=
Tổng chi phí nguyên vật liệu cần phân bổ
x
Tổng tiêu thức phân bổ của từng đối tượng
Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng
Để tập hợp được chính xác chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán cần chú ý kiểm tra số vật liệu đã lĩnh nhưng cuối kỳ chưa sử dụng hết, giá trị thu hồi nếu có để loại khỏi chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong kỳ.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp sử dụng trong kỳ
=
Giá trị nguyên vật liệu đưa vào sản xuất
-
Giá trị nguyên vật liệu chưa sử dụng
-
Giá trị phế liệu thu hồi
Khi có nhu cầu sử dụng nguyên vật liệu, bộ phận thi công viết phiếu xin lĩnh vật tư. Sau khi được xét duyệt bởi kế toán trưởng, phiếu xin lĩnh vật tư được chuyển đến bộ phận cung ứng để lập phiếu xuất kho. Sau khi lập xong, phụ trách bộ phận sử dụng và bộ phận cung ứng ký vào phiếu. Người nhận vật tư sẽ đem phiếu này xuống kho. Thủ kho ghi số lượng vật tư thực xuất và cùng người nhận vật tư ký vào phiếu. Định kỳ, kế toán xuống lấy phiếu xuất kho và số tiền ghi vào phiếu.
Căn cứ vào phiếu xuất kho, phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ… kế toán tiến hành hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Để hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp kế toán sử dụng TK621 - Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp. Tài khoản này không có số dư và được mở chi tiết cho từng đối tượng (công trình, hạng mục công trình, các giai đoạn công việc, khối lượng xây lắp có dự toán riêng). TK 621 có kết cấu như sau:
Bên Nợ: - Trị giá thực tế nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp.
Bên Có: - Trị giá thực tế nguyên vật liệu sử dụng không hết được nhập lại kho.
- Kết chuyển trị giá nguyên vật liệu trực tiếp
Trình tự hạch toán được thể hiện qua sơ đồ sau:
TK 154(1541)
TK 111, 112, 331…
Mua NVL sử dụng trực tiếp không qua kho
Xuất kho NVL sử dụng cho sản xuất
Quyết toán tạm ứng cho đơn vị nhận khoán về khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao
TK 152
Thuế GTGT đầu
vào (nếu có)
TK133(1331)
TK1413
TK 621
TK 152
NVL sử dụng không hết nhập lại kho
K/C NVL trực tiếp
Sơ đồ 1.1 : Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp.
Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm: tiền lương chính, lương phụ, tiền thưởng, trích trước lương phép… cho công nhân trực tiếp sản xuất. Chi phí nhân công trực tiếp được tính vào giá thành công trình, hạng mục công trình theo phương pháp trực tiếp. Trong trường hợp chi phí nhân công trực tiếp liên quan đến nhiều công trình, hạng mục công trình phải lựa chọn tiêu thức phân bổ thích hợp như: định mức tiền lương, khối lượng công việc…
Trong các doanh nghiệp xây lắp, hình thức trả lương thường áp dụng đối với công nhân trực tiếp là hình thức trả lương theo ngày, lương công nhật hoặc tiền lương theo khối lượng giao khoán.
- Lương ngày: là tiền lương trả cho người lao động theo mức lương ngày và số ngày làm việc trong tháng.
- Lương công nhật: là tiền lương phải trả cho người làm việc tạm thời, chưa được xếp vào thang bậc lương.
- Lương khoán: Là hình thức trả lương cho người lao động theo khối lượng, chất lượng công việc hoàn thành.
Hàng ngày, tổ trưởng tổ sản xuất có trách nhiệm theo dõi tình hình lao động thực tế của từng công nhân trong tổ thông qua bảng chấm công và phiếu làm thêm giờ. Cuối tháng, tổ trưởng tổ sản xuất và phụ trách bộ phận thi công ký nhận vào bảng chấm công và phiếu báo làm thêm giờ và chuyển lên kế toán làm bảng tính lương. Căn cứ vào bảng chấm công, phiếu làm thêm giờ, bảng thanh toán lương và BHXH… kế toán tiến hành hạch toán chi phí nhân công trực tiếp. Đồng thời, kế toán trích trước tiền lương nghỉ phép cho công nhân nếu việc nghỉ phép của công nhân không đều giữa các kỳ trong năm.
Để phản ánh chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK 622 - Chi phí nhân công trực tiếp. Tài khoản này không có số dư và được mở chi tiết cho từng đối tượng (công trình, hạng mục công trình, các giai đoạn công việc, khối lượng xây lắp có dự toán riêng) và có kết cấu như sau:
Bên Nợ: Chi phí nhân công trực tiếp tham gia vào hoạt động xây lắp trong kỳ.
Bên Có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp.
Trình tự hạch toán được thể hiện qua sơ đồ sau:
TK621
TK334,111…
TK154(1541)
Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp
Lương và phụ cấp phải trả cho CNTTSX (cả thuê ngoài)
TK335
Trích trước tiền lương phép kế hoạch
Quyết toán lương đội nhận khoán về khối lượng xây lắp hoàn thành
TK1413
Sơ đồ 1.2 : Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp
3. Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công.
Máy thi công là những máy móc thiết bị trực tiếp phục vụ sản xuất thi công như: máy đầm, máy ủi, máy xúc, máy trộn bê tông, … Việc đầu tư đầy đủ các loại máy móc sẽ cần lượng vốn rất lớn, do đó, dễ dẫn tới tình trạng lãng phí do không sử dụng hết công suất của máy. Vì thế, trong các doanh nghiệp xây lắp thường chỉ đầu tư cho những loại máy cần thiết, sử dụng có hiệu quả, còn lại đi thuê của các đơn vị hoặc tổ chức cho thuê để tiết kiệm vốn, tăng lợi nhuận cho đơn vị.
Chi phí sử dụng máy thi công gồm hai loại sau:
- Chi phí tạm thời: là những chi phí liên quan đến việc lắp đặt, chạy thử, vận chuyển…máy thi công.
- Chi phí thường xuyên: là những chi phí cần thiết cho việc sử dụng máy thi công, bao gồm: lương công nhân điều khiển máy, nhiên liệu, động lực dùng chạy máy, khấu hao máy thi công, chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác…
Để tập hợp và phân bổ chi phí sử dụng xe, máy thi công phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây lắp công trình theo phương thức thi công hỗn hợp vừa thủ công vừa kết hợp bằng máy, kế toán sử dụng TK 623 - Chi phí sử dụng máy thi công. Trường hợp doanh nghiệp thực hiện xây lắp công trình hoàn toàn bằng máy thì không sử dụng TK 623 mà kế toán phản ánh trực tiếp vào các TK 621, 622, 627. Kết cấu của TK 623 như sau:
Bên Nợ: Tập hợp chi phí sử dụng máy thi công thực tế phát sinh.
Bên Có: - Các khoản ghi giảm chi phí sử dụng máy thi công.
Kết chuyển hoặc phân bổ chi phí sử dụng máy thi công.
TK 623 cuối kỳ không có số dư và chi tiết thành 6 tiểu khoản.
Việc hạch toán chi phí sử dụng máy thi công phụ thuộc vào hình thức sử dụng máy thi công. Cụ thể:
- Trường hợp máy thi công thuê ngoài: toàn bộ chi phí thuê máy được tập hợp vào TK623, cuối kỳ kết chuyển vào TK154 để tính giá thành cho từng đối tượng.
TK331,111, 112
Sơ đồ 1.3 : Hạch toán máy thi công thuê ngoài
TK623
TK154
TK133
Giá thuê không có VAT
K/C chi phí sử dụng MTC theo từng công trình
VAT đầu vào được khấu trừ
- Trường hợp từng đội xây lắp có máy thi công riêng: Các chi phí liên quan đến máy thi công được tập hợp riêng, cuối kỳ kết chuyển hoặc phân bổ theo từng đối tượng. Quy trình hạch toán được thể hiện qua sơ đồ sau:
TK152, 153
TK1413
TK334,111…
TK331,111…
TK154 (1541)
TK111, 112, 152…
TK214
TK623
Tiền lương phải trả cho công nhân điều khiển máy
Chi phí VL, CCDC xuất dùng cho máy thi công
Chi phí khấu hao máy thi công
Các khoản ghi giảm chi phí sử dụng máy thi công
Chi phí của đơn vị nhận khoán nội bộ khi duyệt quyết toán
Phân bổ hoặc K/C chi phí sử dụng máy thi công.
Chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác
Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ (nếu có)
TK133
Sơ đồ 1.4 : Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công trong trường hợp đội xây lắp có máy thi công riêng.
- Trường hợp công ty có tổ chức đội máy thi công riêng: Quy trình hạch toán được thể hiện như sau:
TK154 (1543)
TK 152, 111…
TK 621
Các khoản ghi giảm chi phí sử dụng MTC
NVLTT sử dụng cho máy thi công
TK623
Giá trị đội MTC phục vụ cho các đối tượng (trường hợp doanh nghiệp thực hiện phương thức cung cấp lao vụ máy lẫn nhau)
TK 622
Chi phí NCTT điều khiển máy thi công
TK 512
Giá bán nội bộ về chi phí sử dụng MTC (trường hợp doanh nghiệp thực hiện phương thức bán lao vụ máy lẫn nhau)
TK 627
Chi phí SXC của đội máy thi công
TK 632
Giá trị phục vụ lẫn nhau trong nội bộ (trường hợp doanh nghiệp thực hiện phương thức bán lao vụ máy lẫn nhau).
Sơ đồ 1.5: Sơ đồ hạch toán chi phí sử dụng máy thi công trong trường hợp công ty có tổ chức đội máy thi công riêng.
Trong trường hợp đội máy thi công phục vụ bên ngoài thì hạch toán tương tự như việc bán lao vụ, dịch vụ. Kế toán ghi hai bút toán sau:
BT1): Phản ánh giá vốn dịch vụ bán ra bên ngoài:
Nợ TK 632: Giá vốn phục vụ bên ngoài.
Có TK 154 (1543. Chi tiết đội máy thi công).
BT2): Phản ánh giá bán cho các đối tượng bên ngoài:
Nợ TK liên quan (111,112,131…): Tổng giá thanh toán.
Có TK 511: Doanh thu bán hàng.
Có TK 3331 (33311): Thuế GTGT đầu ra phải nộp.
4. Hạch toán chi phí chung.
a. Hạch toán chi phí sản xuất chung.
Chi phí sản xuất chung là các chi phí liên quan đến việc quản lý công trình trong phạm vi tổ đội sản xuất nhưng không được tính trực tiếp cho từng đối tượng cụ thể. Chi phí sản xuất chung trong các đơn vị xây lắp bao gồm:
- Chi phí nhân viên quản lý đội: là những khoản chi phí tiền lương chính, lương phụ của nhân viên quản lý đội, các khoản trích KPCĐ, BHXH, BHYT theo lương của công nhân trực tiếp và nhân viên quản lý đội.
- Chi phí nguyên vật liệu: là giá trị nguyên vật liệu xuất dùng cho quản lý đội hoặc sử dụng cho sửa chữa tài sản cố định.
- Chi phí công cụ, dụng cụ: là giá trị công cụ, dụng cụ sử dụng cho thi công, quản lý đội như: cây chống gỗ, xà gồ, côp pha, bảo hộ lao động…
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: là những hao phí về thiết bị, máy móc cho quản lý đội, kho tàng, bến bãi… phục vụ thi công công trình.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: chi phí về điện, điện thoại, nước… phục vụ cho thi công và quản lý đội.
- Chi phí khác bằng tiền: chi phí hội họp, tiếp khách…
Chi phí sản xuất chung liên quan trực tiếp đến công trình, hạng mục công trình thì hạch toán trực tiếp vào công trình, hạng mục công trình đó. Nếu liên quan đến nhiều công trình, hạng mục công trình phải tiến hành phân bổ cho từng đối tượng theo các tiêu thức thích hợp. Để tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất phát sinh trong phạm vi toàn tổ, đội kế toán sử dụng TK 627 - Chi phí sản xuất chung, mở chi tiết theo từng bộ phận xây lắp (xí nghiệp, đội xây lắp…) và có kết cấu như sau:
Bên Nợ: - Tập hợp chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ.
Bên Có: - Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung
- Kết chuyển hay phân bổ chi phí sản xuất chung.
TK 627 không có số dư cuối kỳ và được mở chi tiết thành 6 tiểu khoản.
Quy trình hạch toán chi phí sản xuất chung được thực hiện qua sơ đồ sau:
TK111, 112, 152…
Các khoản ghi giảm chi phí SXC (phế liệu thu hồi, vật tư xuất dùng không hết…)
TK152, 153
Chi phí VL, CCDC xuất dùng cho đội xây lắp
Phân bổ hoặc K/C chi phí SXC cho các công trình ,hạng mục công trình có liên quan.
TK1413
TK133
Tiền lương phải trả NVQL đội và các khoản trích theo lương phải trả CNTT sản xuất , nhân viên SDMTC & NVQL đội
TK334, 338
TK627
TK154 (1541)
TK214
Chi phí khấu hao TSCĐ của đội xây lắp
TK1421, 242,335
Phân bổ dần chi phí trả trước và trích trước chi phí phải trả
Chi phí của đơn vị nhận khoán nội bộ khi duyệt quyết toán
Chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác
TK331,111…
Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ (nếu có)
Sơ đồ 1.6: Hạch toán chi phí sản xuất chung
b. Hạch toán chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Hạch toán chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp trong kinh doanh xây lắp cũng tương tự như trong các doanh nghiệp khác.
Việc hạch toán cụ thể như sau:
Nợ TK 641 (chi tiết tiểu khoản): Tập hợp chi phí bán hàng.
Nợ TK 642 (chi tiết tiểu khoản): Tập hợp chi phí quản lý doanh nghiệp.
Nợ TK 133 (1331): Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ (nếu có).
Có TK liên quan (152, 334, 214, 242, 335, 111, 112, 331…)
Tuy nhiên, do đặc điểm của hoạt động xây lắp, các chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp liên quan đến hoạt động xây lắp cuối kỳ sẽ được phân bổ cho từng đối tượng (công trình, hạng mục công trình xây lắp…) để tính giá thành toàn bộ sản phẩm xây lắp. Công thức phân bổ như sau:
Chi phí bán hàng (hoặc chi phí quản lý doanh nghiệp ) phân bổ cho sản phẩm xây lắp hoàn thành trong kỳ
=
Chi phí nhân công trực tiếp của sản phẩm xây lắp hoàn thành trong kỳ
x
Tổng chi phí bán hàng (hoặc chi phí quản lý DN) chờ kết chuyển đầu kỳ và phát sinh trong kỳ
Tổng chi phí nhân công trực tiếp của sản phẩm xây lắp hoàn thành trong kỳ và dở dang cuối kỳ
Chi phí bán hàng (hoặc chi phí QLDN chờ kết chuyển cuối kỳ)
=
Chi phí bán hàng (hoặc chi phí QLDN) chờ kết chuyển đầu kỳ
+
Chi phí bán hàng thực tế (hoặc chi phí QLDN) phát sinh trong kỳ
-
Chi phí bán hàng (hoặc chi phí QLDN) phân bổ cho sản phẩm xây lắp hoàn thành trong kỳ
Tổng chi phí nhân công trực tiếp của sản phẩm xây lắp hoàn thành trong kỳ và dở dang cuối kỳ
=
Chi phí nhân công trực tiếp của sản phẩm xây lắp dở dang đầu kỳ
+
Chi phí nhân công trực tiếp của sản phẩm xây lắp phát sinh trong kỳ
5. Tổng hợp chi phí sản xuất, đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ.
a. Tổng hợp chi phí sản xuất.
Kế toán sử dụng TK 154 để tổng hợp chi phí sản xuất phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm xây lắp, sản phẩm công nghiệp, dịch vụ, lao vụ khác trong các doanh nghiệp kinh doanh xây lắp. Tài khoản này mở cho từng công trình, hạng mục công trình xây lắp, các giai đoạn của hạng mục công trình hay nhóm các hạng mục công trình và theo từng nơi phát sinh chi phí.
Bên Nợ: - Tổng hợp các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Bên Có: - Các khoản ghi giảm chi phí sản phẩm.
- Tổng giá thành sản xuất thực tế hoàn thành.
TK 154 có số dư nợ và được chi tiết thành 4 tiểu khoản.
Quy trình hạch toán được thực hiện như sau:TK621
K/c chi phí NVL trực tiếp
TK154 TK152,153
Các khoản ghi giảm chi phí (phế liệu thu hồi
TK622
hoặc sản phẩm hỏng không sửa chữa được)
TK155
K/c chi phí nhân công trực tiếp Giá thành thực tế chờ tiêu thụ hoặc chờ
bàn giao cho bên A
K/c chi phí sử dụng MTC
TK623 TK 632
Giá thành thực tế sản phẩm bàn giao
TK 627
cho bên A
K/c (phân bổ) chi phí sản xuất chung
Sơ đồ 1.7 : Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất
b. Đánh giá sản phẩm dở dang.
Sản phẩm dở dang ở doanh nghiệp xây lắp có thể là công trình, hạng mục công trình dở dang chưa hoàn thành hay khối lượng xây lắp dở dang trong kỳ chưa được chủ đầu tư nghiệm thu và chấp nhận thanh toán. Đánh giá sản phẩm dở dang tức là tính toán, xác định chi phí sản xuất đã phát sinh liên quan đến khối lượng sản phẩm chưa hoàn thành cuối kỳ theo một nguyên tắc nhất định. Việc đánh giá sản phẩm dở dang hợp lý là một trong những yếu tố quyết định đến tính trung thực hợp lý của giá thành sản phẩm xây lắp trong kỳ.
Muốn đánh giá sản phẩm dở dang hợp lý trước hết phải tổ chức kiểm kê chính xác khối lượng xây lắp chưa hoàn thành trong kỳ, đồng thời xác định đúng đắn mức độ hoàn thành của khối lượng xây lắp dở dang so với khối lượng hoàn thành theo quy ước của từng gia đoạn thi công trong kỳ. Khi đánh giá sản phẩm dở dang cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các bộ phân kỹ thuật với tổ chức lao động để xác định mức độ hoàn thành của khối lượng xây lắp dở dang.
Nhìn chung, việc tính giá sản phẩm dở dang trong xây lắp phụ thuộc vào phương thức thanh toán, khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao giữa người nhận thầu và người giao thầu. Nếu quy định thanh toán sản phẩm xây lắp sau khi hoàn thành toàn bộ thì sản phẩm dở dang là phần chi phí phát sinh từ lúc khởi công đến cuối kỳ đó. Nếu quy định thanh toán sản phẩm xây lắp theo điểm dừng kỹ thuật hợp lý (xác định được giá dự toán) thì sản phẩm dở dang là khối lượng xây lắp chưa đạt tới điểm dừng kỹ thuật hợp lý đã quy định và được tính giá theo chi phí thực tế của hạng mục công trình đó cho các giai đoạn, tổ hợp công việc đã hoàn thành và giai đoạn còn dở dang theo giá dự toán của chúng. Trên cơ sở tài liệu kiểm kê cuối kỳ, giá trị xây lắp dở dang sẽ được tính như sau:
Giá trị của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ
=
Chi phí thực tế khối lượng xây lắp dở dang đầu kỳ
+
Chi phí thực tế khối lượng thực hiện trong kỳ
x
Giá trị của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ theo dự toán
Giá trị của khối lượng xây lắp hoàn thành theo dự toán
+
Giá trị của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ theo dự toán
V. Đặc điểm hạch toán chi phí sản xuất theo phương thức khoán gọn trong xây lắp.
Khoán gọn là một hình thức quản lý mới trong các doanh nghiệp xây lắp ở nước ta. Các đơn vị nhận khoán (xí nghiệp, đội, tổ…) có thể nhận khoán gọn khối lượng công việc hoặc hạng mục công trình. Giá nhận khoán gọn bao gồm cả chi phí tiền lương, vật liệu, công cụ thi công, chi phí chung.
Phương thức khoán sản phẩm xây lắp cho các đơn vị cơ sở, các tổ, đội thi công là phương thức quản lý thích hợp với cơ chế thị trường. Nó gắn với lợi ích vật chất của người lao động với khối lượng, chất lượng sản phẩm cũng như tiến độ thi công công trình. Đồng thời mở rộng quyền tự chủ hạch toán kinh doanh, lựa chọn phương thức tổ chức lao động, tổ chức thi công, phát huy khả năng tiềm tàng của tổ, đội…
Trong các doanh nghiệp áp dụng phương thức khoán gọn công trình, hạng mục công trình, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp được tiến hành như sau:
1. Hạch toán tại đơn vị giao khoán.
a. Trường hợp đơn vị nhận khoán nội bộ không tổ chức bộ máy kế toán riêng.
TK621, 622, 623, 627
TK152,153, 111,112,33888
Đơn vị giao khoán sử dụng TK141 (1413)- được mở chi tiết cho từng đơn vị nhận khoán để phán ánh quan hệ nội bộ với đơn vị nhận khoán, đồng thời phải mở sổ theo dõi khối lượng xây lắp giao khoán gọn theo từng công trình, hạng mục công trình trong đó phản ánh theo cả giá thầu và giá giao khoán, chi tiết theo từng khoản mục chi phí.
TK141 (1413)
Quyết toán tạm ứng về giá trị khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao
Tạm ứng vật tư, vốn và bổ sung số thiếu cho đơn vị nhận khoán
TK1331
Thuế GTGT được khấu trừ
TK111,112 , 1388
Thu hồi số đã tạm ứng lớn hơn giá trị giao khoán
Sơ đồ 1.8 : Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại đơn vị giao khoán
b. Trường hợp đơn vị nhận khoán có tổ chức bộ máy kế toán riêng và được phân cấp quản lý tài chính.
Kế toán tại đơn vị giao khoán sử dụng TK136 (1362 – phải thu về khối lượng giao khoán nội bộ) để phản ánh toàn bộ giá trị mà đơn vị ứng về vật tư, tiền, khấu hao tài sản cố định… cho các đơn vị nhận khoán nội bộ, chi tiết theo từng đơn vị. Đồng thưòi tài khoản này cũng sử dụng để phản ánh giá trị xây lắp hoàn thành nhận bàn giao từ các đơn vị nhận khoán nội bộ có phân cấp quản lý riêng. Tài khoản này chỉ sử dụng ở đơn vị giao khoán.
TK1541
TK136 (1362)
TK111, 112, 153,331,214
Giá trị giao khoán nội bộ
Tạm ứng và bổ sung số thiếu cho đơn vị nhận khoán nội bộ
Nhận khối lượng xây lắp giao khoán hoàn thành
TK1331
Thuế GTGT được khấu trừ (nếu có)
TK111,112, 334,1388
Thu hồi số đã tạm ứng lớn hơn giá trị giao khoán
Sơ đồ 1.9 : Trường hợp đơn vị nhận khoán có tổ chức bộ máy kế toán riêng
2. Hạch toán tại đơn vị nhận khoán
Đơn vị nhận khoán nội bộ nếu không tổ chức bộ máy kế toán riêng và không được phân cấp quản lý tài chính thì cần phải mở sổ theo dõi khối lượng xây lắp nhận khoán cả về giá trị nhận khoán và chi phí thực tế theo từng khoản mục.
Trường hợp đơn vị nhận khoán có tổ chức bộ máy kế toán riêng thì sử dụng TK336 (3362- phải trả về khối lượng xây lắp nội bộ) để phản ánh tình hình nhận tạm ứng và quyết toán khối lượng xây lắp nội bộ với đơn vị giao khoán. Kế toán tại đơn vị nhận khoán có trách nhiệm tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp qua các TK621, 622, 623, 627 và TK154.
TK627
Sơ đồ 1.10: Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại đơn vị nhận khoán
TK621
TK622
TK623
TK1541
TK512
TK3331
TK632
TK3362
K/C chi phí NVLTT
K/C chi phí NCTT
K/C chi phí sử dụng MTC
K/C chi phí sản xuất chung
K/C giá thành sản phẩm xây lắp (đơn vị cấp dưới hạch toán kết quả riêng)
Doanh thu nội bộ
Thuế GTGT đầu ra (nếu có)
Nhận tạm ứng
Giá trị xây lắp nhận khoán nội bộ bàn giao (đơn vị cấp dưới không hạch toán kết quả riêng)
TK111, 112, 152, 153
VI. Tổ chức hệ thống sổ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Tổ chức hệ thống sổ kế toán là biểu hiện sự tổ chức trong ghi chép, thực hiện các công việc kế toán trong doanh nghiệp. Tuỳ theo yêu cầu và trình độ quản lý nói chung, trình độ của bộ máy kế toán nói riêng, trang thiết bị làm việc…mà lựa chọn hình thức sổ phù hợp. Có 4 hình thức ghi sổ: Nhật ký chung, Nhật ký sổ cái, Chứng từ ghi sổ và Nhật ký chứng từ.
Nếu doanh nghiệp xây lắp áp dụng hình thức Nhật ký chứng từ thì để tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm kế toán sử dụng bảng kê số 4, 5, 6 và Nhật ký chứng từ số 7.
Hàng ngày, căn cứ vào chứng từ gốc của các nghiệp vụ kính tế phát sinh, kế toán kiểm tra lấy số liệu ghi vào Nhật ký chứng từ có liên quan như Nhật ký chứng từ số 1, 2, 5, 6…Đồng thời ghi vào các bảng phân bổ sau: bảng phân bổ nguyên vật liệu và công cụ dụng cụ, bảng phân bổ tiền lương và BHXH, bảng tính và phân bổ khấu hao tài sản cố định. Cuối kỳ, lấy số liệu trên các bảng phân bổ để ghi vào bảng kê số 4, 5, 6. Số liệu của bảng kê số 4 được dùng để lập thẻ tính giá thành. Số liệu của các bảng kê 4, 5, 6 được sử dụng để ghi vào Nhật ký chứng từ 7 (phần I), sau đó lấy số liệu từ Nhật ký chứng từ số 7 để vào các sổ cái có liên quan.
Có thể khái quát trình tự ghi sổ các nghiệp vụ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo hình thức Nhật ký chứng từ qua sơ đồ sau:
Chứng từ gốc về chi phí và các bảng phân bổ
Bảng kê 4
Bảng kê 5
Bảng kê 6
Thẻ tính giá thành sản phẩm
NKCT 7
Sổ cái TK 621, 622, 623, 627, 154
Báo cáo tài chính
Ghi chú: Ghi hàng ngày
Ghi cuối kỳ
Sơ đồ 1.11 : Trình tự tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo hình thức Nhật ký chứng từ.
VII. Đặc điểm hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại một số nước trên thế giới.
Trong cách phân loại chi phí sản xuất theo chức năng của chế độ kế toán Việt Nam có sự trùng hợp với kế toán Anh, Mỹ, Canada. Trong kế toán Anh, Mỹ, sản phẩm xây dựng được quan niệm là sản phẩm đơn chiếc do mỗi dự án thi công có thiết kế riêng, nên các công ty thường áp dụng phương pháp hạch toán chi phí theo công việc. Về cơ bản, cơ sở của hạch toán chi phí sản xuất là các đơn đặt hàng hoặc hệ thống đơn đặt hàng. Do đó, hạch toán chi phí sản xuất nhấn mạnh tới kiểm soát chi phí từng đơn đặt hàng thông qua tài khoản “kiểm soát sản phẩm dở dang” (mở cho từng đơn đặt hàng) và theo dõi trong các sổ tổng hợp và sổ chi tiết sản phẩm dở dang. Chi phí sản xuất tập hợp vào giá thành gồm ba khoản mục sau:
- Nguyên vật liệu trực tiếp: là những yếu tố vật chất tạo nên thành phần chính của sản phẩm được sản xuất ra, dễ nhận diện trong sản phẩm vì nó đặc trưng cho tính dễ thấy lớn nhất của thành phẩm được sản xuất ra.
- Chi phí lao động trực tiếp: là chi phí tiền lương của những lao động trực tiếp biến đổi nguyên vật liệu trực tiếp thành sản phẩm có thể tiêu thụ được.
- Chi phí sản xuất chung: là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm, sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và lao động trực tiếp, sản xuất chung chủ yếu bao gồm ba loại chi phí, đó là: chi phí nguyên liệu gián tiếp, lao động gián tiếp và chi phí phân xưởng khác.
Để tính giá thành sản phẩm thì căn cứ vào thẻ kho, phiếu yêu cầu nguyên vật liệu, thẻ chi phí sản xuất theo từng công việc.
Trong ngành xây dựng cơ bản, các bước tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của kế toán Anh, Mỹ cũng tương tự Việt Nam. Tuy nhiên, nếu đem so sánh với kế toán Pháp thì có điểm khác. Bởi vì, theo kế toán Pháp chi phí sản xuất được định nghĩa là số tiền bỏ ra để mua các yếu tố cần thiết cho hoạt động kinh doanh. Do đó, giá thành sản phẩm gồm các khoản chi phí không mang tính chất sản xuất.
Cụ thể trình tự hạch toán như sau:
Bước 1: Tính giá phí nguyên vật liệu mua vào:
Giá nguyên vật liệu mua vào = Giá mua + Chi phí thu mua
Bước 2: Tính giá phí sản xuất:
Giá phí sản xuất
=
+
Chi phí sản xuất (chi phí nhân công, động lực)
Giá phí nguyên vật liệu đưa vào sản xuất
Bước 3: Tính giá phí tiêu thụ.
Bước 4: Tính giá thành sản phẩm:
Giá thành sản phẩm = Giá phí sản xuất + Giá phí tiêu thụ
Nhìn chung, trình tự hạch toán chi phí sản xuất về cơ bản là không có sự khác biệt đáng kể giữa các nước. Về nội dung, do quan niệm khác nhau về bản chất và chức năng của chỉ tiêu giá thành mà dẫn tới khác biệt trong việc tính toán, xác định phạm vi của giá thành.
Có thể khái quát sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành theo công việc trong hệ thống kế toán Anh, Mỹ như sau:
TK “ Kiểm soát thành phẩm”
Kết chuyển chi phí lao động trực tiếp
Kết chuyển số nguyên vật liệu sử dụng
Kết chuyển (phân bổ) chi phí QLPX
Giá trị sản phẩm hoàn thành trong kỳ
Lao động trực tiếp
Kiểm soát tồn kho
Chi phí QLPX
TK “Kiểm soát”
Sơ đồ 1.12: Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
theo công việc
Phần II
thực trạng công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng công trình Hà Nội.
I. Những vấn đề chung về Công ty Xây dựng công trình Hà Nội.
1. Lịch sử hình thành và phát triển.
Công ty xây dựng công trình Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà Nước được thành lập vào ngày 29 tháng 2 năm 1992 theo quyết định số 384QĐ/TCCB - LĐ của Tổng Giám Đốc liên hiệp đường sắt Việt Nam, ban đầu lấy tên là Công ty vật liệu xây dựng. Công ty được thành lập trên cơ sở sáp nhập hai đơn vị là Xí nghiệp 418 thuộc Liên hiệp đường sắt Việt Nam và Xí nghiệp cung ứng vật liệu xây dựng thuộc công ty kiến trúc I.
Khi mới thành lập công ty chỉ sản xuất đơn thuần mặt hàng vật liệu xây dựng là tà vẹt bê tông các loại. Nhưng với chủ trương mang tính chiến lược là: đa dạng hoá ngành nghề, đa dạng hoá sản phẩm, công ty đã không ngừng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Để phù hợp với ngành nghề kinh doanh ngày 1/ 3/ 1996 công ty được đổi tên từ Công ty vật liệu xây dựng thành Công ty vật liệu và xây lắp thuộc Liên hiệp đường sắt Việt Nam theo quyết định số 124QĐ/TCCB – LĐ của Bộ Giao thông vận tải. Và đến ngày 9/ 4/ 2002 công ty một lần nữa được đổi tên từ Công ty vật liệu và xây lắp thành Công ty Xây dựng công trình Hà Nội. Hiện nay trụ sở chính của Công ty được đặt tại Thịnh Liệt – Thanh Trì - Hà Nội.
Tên giao dịch của Công ty :
Trong nước: Công ty Xây dựng công trình Hà Nội.
Quốc tế: Ha Noi Construction Company (HCC)
Công ty xây dựng công trình Hà Nội là công ty có tư cách pháp nhân và hoạt động theo phương thức tự hạch toán kinh doanh. Công ty có quyền chủ động tổ chức các bộ phận sả._.ch theo. Chi phí vật tư sẽ giảm đi và sẽ gây nên sự thiếu chính xác trong việc tính giá thành cũng như việc phân tích các khoản mục chi phí phục vụ cho công tác quản trị. Vì vậy, để có thể cung cấp số liệu chính xác hơn cho công tác kế toán của Công ty thì khi hạch toán nguyên vật liệu mua vào, kế toán phải tính cả chi phí thu mua vào giá thực tế của nguyên vật liệu.
Thực trạng Kiến nghị
TK 111,112,331.. TK 152,621 TK 111,112,331 TK 152,621
Mua NVL nhập kho hoặc Mua NVL nhập kho
xuất ngay cho công trình hoặc xuất ngay
cho công trình
TK 133 Thuế TK 133
Thuế GTGT đầu vào GTGT đầu vào
Thuế GTGT đầu vào
Thuế GTGT
TK 627 đầu vào
Chi phí thu mua NVL
Chi phí thu mua NVL
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ hạch toán mua nguyên vật liệu.
* Về việc hạch toán công cụ dụng cụ
Theo quy định hiện hành, các công cụ dụng cụ có giá trị lớn sử dụng cho quá trình thi công cần được phân bổ hợp lý vào chi phí sản xuất. Tuy nhiên, tại Công ty xây dựng công trình Hà Nội, kế toán tiến hành phân bổ luôn chi phí công cụ dụng cụ một lần vào chi phí sản xuất chung tại kỳ có nghiệp vụ phát sinh mà không quan tâm CCDC có giá trị lớn hay nhỏ. Cách thức hạch toán như vậy là chưa hợp lý, khiến cho chi phí trong kỳ hạch toán có sự biến động bất thường nếu công cụ dụng cụ xuất dùng có giá trị lớn. Bên cạnh đó, việc hạch toán như vậy đã tạo ra sự quản lý lỏng lẻo trong việc bảo quản, sử dụng công cụ dụng cụ. Khi công trình hoàn thành, do các công cụ dụng cụ đã phân bổ hết nên kế toán thường không tiến hành thu hồi mặc dù các công cụ đó vẫn còn sử dụng được, điều này đã gây ra một sự lãng phí lớn nhất là đối với các công cụ dụng cụ có giá trị lớn.
Vì vậy, để phù hợp với quy dịnh hiện hành và đảm bảo việc quản lý chặt chẽ, sử dụng, tiết kiệm, hiệu quả công cụ dụng cụ thì đối với các công cụ dụng cụ có giá trị lớn như máy hàn, máy tời, máy khoan, máy bơm nước...công ty nên tiến hành phân bổ cho nhiều kỳ. Số lần phân bổ tuỳ thuộc vào mục đích và thời gian sử dụng.
Thực trạng Kiến nghị
TK 153 TK 627 TK 153 TK 627
Toàn bộ giá trị Giá trị CCDC phân bổ 1 lần
CCDC xuất dùng TK 142
Xuất CCDC có giá
trị lớn phân bổ dần Phân bổ giá
vào chi phí (trong 1 trị xuất dùng
niên độ kế toán )
TK 242
Xuất CCDC có giá
trị lớn phân bổ dần Phân bổ giá
vào chi phí (trên 1 trị xuất dùng
niên độ kế toán)
Sơ đồ 3.2: Sơ đồ hạch toán chi phí công cụ dụng cụ xuất dùng.
2. Hoàn thiện hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
* Về cách tính lương trả cho công nhân trực tiếp sản xuất.
Hiện nay Công ty đang áp dụng phương thức trả lương theo sản phẩm khoán đối với công nhân trực tiếp sản xuất và tiến hành chia lương cho từng công nhân theo công thức.
Đơn giá tiền công
=
Tổng số tiền được thanh toán
Tổng số công thực hiện
Việc tính lương cho từng công nhân theo phương pháp này không tính đến bậc thợ và trình độ tay nghề của người lao động. Điều này sẽ dẫn đến những người lao động giỏi, tay nghề cao chưa được trả lương thích đáng với tay nghề của mình và không khuyến khích người lao động nâng cao năng suất lao động. Vì vậy, công ty nên thay đổi cách tính lương cho người lao động tại các tổ, đội, cách tính như sau:
Việc tính lương cho từng công nhân không chỉ căn cứ vào số ngày làm việc trong tháng mà hàng tháng, căn cứ vào tinh thần, thái độ làm việc và hiệu quả công việc, Công ty tiến hành phân loại lao động thành các loại A, B, C với hệ số phân loại A = 1,2; B = 1; C = 0,8 và dựa vào hệ số này cùng với số công thực hiện trong tháng và hệ số cấp bậc của từng người để tính lương. Theo cách này tiền công được tính theo công thức sau:
li= ĐG x Ci x Ki x Pi
Trong đó:
ĐG: Đơn giá tiền công
L : tổng số tiền được thanh toán trong kỳ
Ci: Số công làm việc của công nhân thứ i
Ki: Hệ số xếp loại của công nhân thứ i
Pi: Hệ số cấp bậc của công nhân thứ i
li: Tiền công của công nhân thứ i
Phân phối lương theo cách này sẽ khuyến khích người lao động nhiệt tình hơn trong công việc và làm việc có hiệu quả hơn góp phần nâng cao năng suất lao động.
* Về việc hạch toán tiền lương tạm ứng cho công nhân viên.
Theo quy định của chế độ kế toán hiện hành thì tất cả những nghiệp vụ liên quan đến việc tăng, giảm khoản phải trả cho công nhân viên đều phải thực hiện thông qua TK 334”phải trả công nhân viên”. Nhưng tại Công ty khi quyết toán tạm ứng lương cho người lao động thì kế toán định khoản trực tiếp vào tài khoản chi phí nhân công. Hạch toán như vậy vừa không phù hợp với quy định hiện hành vừa gây khó khăn trong việc theo dõi quỹ lương của công ty và khó khăn trong trong việc tính các khoản trích theo lương vì các khoản này được trích trên tiền lương phải trả công nhân viên. Vì vậy, khi hạch toán khoản mục này kế toán nên hạch toán qua TK 334.
Thực trạng Kiến nghị
TK 111, 112 TK1411 TK622, 6271,.. TK 111, 112 TK1411 TK334
Tạm ứng lương Quyết toán tạm Tạm ứng lương Quyết toán tạm
cho CNV ứng cho CNV cho CNV ứng cho CNV
Sơ đồ 3.3: Sơ đồ hạch toán tiền lương tạm ứng cho công nhân viên.
* Về việc hạch toán các khoản trích theo lương.
Theo Quyết định 1864/1998/ QĐ - BTC, các khoản trích theo lương của công nhân được hạch toán vào TK 627. Việc trích BHXH, BHYT, KPCĐ có ý nghĩa quan trọng đối với người lao động. Thực hiên tốt việc trích các khoản này sẽ đảm bảo được quyền lợi của công nhân viên trong công ty. Tuy nhiên, việc trích các khoản theo lương cần phải trích trên cơ sở tiền lương thực tế mà người lao động nhận được chứ không chỉ trích trên phần tiền lương cơ bản. Ngoài ra, trên thực tế công ty đã hạch toán toàn bộ những khoản trích theo lương vào TK642 “chi phí quản lý doanh nghiệp”. Việc hạch toán như vậy đã làm cho cơ cấu chi phí thuộc chỉ tiêu giá thành bị sai lệch, giá thành không phản ánh đúng bản chất của nó từ đó sẽ ảnh hưởng đến việc phân tích chi phí sản xuất và độ tin cậy của thông tin đưa ra. Vì vậy, để đảm bảo cho việc tính đúng, tính đủ giá thành và tuôn thủ đúng các quy định chế độ kế toán hiện hành thì các khoản trích BHYT, BHXH, KPCĐ của công nhân xây lắp, nhân viên sử dụng máy và nhân viên quản lý đội phải được hạch toán vào TK627 (6271- chi phí nhân viên quản lý đội).
Quy trình hạch toán các khoản trích theo lương được thể hiện qua sơ đồ sau:
Thực trạng Kiến nghị
TK 338 TK 642 TK 338 TK 6271
( 3382, 3382, 3384) ( 3382, 3382, 3384)
Các khoản trích theo Khoản trích theo lương
lương của CBCNV của công nhân xây lắp,
trong công ty công nhân sử dụng máy,
nhân viên quản lý đội
TK 642
Khoản trích theo lương
của nhân viên QLDN
Sơ đồ 3.4: Sơ đồ hạch toán các khoản trích theo lương.
3. Hoàn thiện việc hạch toán chi phí sử dụng máy thi công.
* Chi phí máy thi công thuê ngoài.
Có thể nói chi phí máy móc thi công là một bộ phận tài sản không thể thiếu được trong các doanh nghiệp xây lắp. Việc sử dụng máy móc thi công giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm xây lắp, đồng thời đảm bảo chất lượng cũng như tiến độ thi công các công trình. Theo Quyết định số 1864/1998/QĐ- BTC của Bộ Tài chính thì đối với các doanh nghiệp xây lắp thực hiện thi công theo phương thức hỗn hợp vừa thủ công vừa kết hợp bằng máy và không có đội máy thi công riêng thì được hạch toán vào TK623 “chi phí sử dụng máy thi công”. Qua khoản mục chi phí sử dụng máy thi công này các nhà quản lý có thể thấy được mối quan hệ giữa chi phí máy thi công với các chi phí khác, với việc nâng cao năng suất lao động và khả năng cơ giới hoá của công ty.
Thực tế, tại công ty xây dựng công trình Hà Nội chi phí máy thi công thuê ngoài vẫn chiếm một giá trị khá lớn trong giá thành sản phẩm do phần lớn các máy đi thuê thường có công suất cao, giá trị lớn. Tuy nhiên, chi phí máy thi công thuê ngoài không được kế toán công ty hạch toán vào TK 623 mà lại hạch toán vào TK 627 (6277 – chi phí dịch vụ mua ngoài). Điều này dã làm cho các khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm không được phản ánh chính xác, làm thay đổi cơ cấu chi phí trong giá thành sản phẩm và từ đó sẽ dẫn đến sự sai lệch trong việc phân tích chi phí và tìm ra các giải pháp cho quản lý chi phí – giá thành.
Vì vậy, để phục vụ tốt hơn cho công tác phân tích chi phí - giá thành và đảm bảo cung cấp những thông tin xác thực cho quản lý, công ty nên hạch toán khoản chi phí này vào TK 623 (6237 – chi phí dịch vụ mua ngoài).
Việc hạch toán được thực hiện như sau:
Thực trạng Kiến nghị
TK111,112,331 TK627 TK111,112,331 TK 623
Tập hợp chi phí thuê máy Tập hợp chi phí thuê máy
TK 133 TK 133
Thuế GTGT
được khấu trừ Thuế GTGT được
khấu trừ
Sơ đồ 3.5: Sơ đồ kiến nghị hạch toán chi phí máy thi công thuê ngoài.
* Về việc phân bổ chi phí sử dụng máy thi công.
Hiện nay tại Công ty chi phí sử dụng máy thi công được tập hợp chung vào TK 623 (chi tiết cho từng loại máy) rồi sau đó tiến hành phân bổ theo tiêu thức nhân công trực tiếp. Tiêu thức phân bổ mà Công ty sử dụng là chưa hợp lý. Bởi vì có những công trình thi công bằng máy nên chi phí nhân công chiếm một tỷ lệ thấp nhưng cũng có công trình lao động thủ công là chủ yếu. Trong trường hợp này chi phí nhân công lại chiếm một tỷ lệ lớn. Vì thế, nếu phân bổ theo tiêu thức chi phí nhân công trực tiếp sẽ dẫn đến hiện trạng là có những công trình sử dụng máy thi công nhiều nhưng chi phí sử dụng máy lại được phân bổ ít và ngược lại. Điều này sẽ làm cho chi phí sử dụng máy thi công trong giá thành từng công trình không được xác định đúng theo chi phí thực tế phát sinh. Vì vậy, để chi phí sử dụng máy thi công phân bổ cho các công trình được chính xác và hợp lý, Công ty nên thay đổi tiêu thức phân bổ, không sử dụng chi phí nhân công trực tiếp mà lấy số số giờ (ca) máy hoạt động làm tiêu thức phân bổ.
Trên thực tế, một chiếc máy trong một ca làm việc có thể tham gia 2 đến 3 công trình khác nhau hoặc 2 đến 3 hợp đồng giao khoán nội bộ khác nhau. Chính vì thế, Công ty nên bố trí thêm nhân viên làm nhiệm vụ theo dõi ca (giờ) máy sử dụng và trong phiếu theo dõi lịch trình hoạt động của máy Công ty nên bổ sung thêm cột “số giờ (ca) máy hoạt động” để đảm bảo việc theo dõi và quản lý máy được chặt chẽ hơn. Mẫu phiếu được sửa lại như sau:
Bảng 3.2:
Công ty XDCTHN
Phiếu theo dõi hoạt động máy thi công
Tên máy:
Tháng.... năm....
Ngày tháng
Người điều khiển
Địa điểm hoạt động ( công trình)
Số giờ (ca) hoạt động
Xác nhận
Cộng
Cuối tháng, kế toán sẽ tổng hợp số giờ máy hoạt động và số giờ máy phục vụ cho từng công trình, sau đó tiến hành phân bổ chi phí sử dụng máy thi công cho các công trình theo số giờ (ca) máy hoạt động.
Theo cách này, chi phí sử dụng máy thi công phân bổ cho từng công trình được tính như sau:
Chi phí sử dụng máy thi công A phân bổ cho công trình i
=
Tổng chi phí sử dụng máy thi công A
x
Số giờ máy thi công A phục vụ công trình i
Tổng số giờ máy thi công A hoạt động trong tháng
Với cách phân bổ này, công trình nào thì công trình nào sử dụng nhiều ca (giờ) máy thì sẽ phải chịu nhiều chi phí sử dụng máy thi công. Như thế việc phân bổ sẽ hợp lý hơn và phản ánh đúng thực tế chi phí phát sinh.
4.Hoàn thiện hạch toán tài sản cố định.
* Về việc trích khấu hao TSCĐ.
Hiện nay, Công ty đang thực hiện việc trích khấu hao TSCĐ theo tháng. Việc tính khấu hao TSCĐ theo tháng đã phần nào phản ánh được thực tế vận động của tài sản trong Công ty. Tuy nhiên, tại Công ty việc trích khấu hao TSCĐ tính vào chi phí không phải tháng nào cũng được thực hiện đầy đủ. Cụ thể là trong những tháng mà công việc ít hoặc chi phí phát sinh quá lớn, doanh thu không thể bù đắp thì Công ty thường giảm chi phí bằng cách không trích khấu hao TSCĐ cho tháng đó (trong năm 2002 vừa qua đã có tới 2 tháng công ty không tiến hành trích khấu hao TSCĐ). Cách làm này, trước hết làm ảnh hưởng tới kế hoạch thu hồi vốn đầu tư đối với TSCĐ từ đó ảnh hưởng tới kế hoạch đầu tư, sắm mới TSCĐ. Và đặc biệt, làm như vậy đã làm cho chi phí không được hạch toán chính xác, gây nên hiện tượng lãi giả, lỗ thật, làm cho thông tin kế toán bị sai lệch, không còn phản ánh trung thực tình hình tài chính của công ty. Và từ đây sẽ kéo theo làm sai lệch hàng loạt các quyết định quản trị khác. Vì vậy, hàng tháng Công ty nên tiến hành trích đầy đủ khấu hao TSCĐ cho các đối tượng sử dụng.
Một hạn chế trong việc hạch toán khấu hao TSCĐ tại công ty nữa là khi khấu hao TSCĐ, máy thi công công ty không sử dụng TK 009 – nguồn vốn khấu hao, do đó công ty không thể theo dõi một cách chặt chẽ được nguồn hình thành và sử dụng nguồn vốn khấu hao cơ bản để tái sản xuất TSCĐ hay để nộp cấp trên. Vì thế, công ty nên mở thêm TK 009 để theo dõi nguồn vốn khấu hao của công ty khi tiến hành trích khấu hao cho TSCĐ, máy thi công. Kết cấu của TK 009 như sau:
Bên Nợ: phản ánh các nghiệp vụ phát sinh làm tăng nguồn vốn khấu hao cơ bản.
Bên Có: phản ánh các nghiệp vụ phát sinh làm tăng nguồn vốn khấu hao cơ bản (nộp cấp trên, cho vay, đầu tư, mua sắm TSCĐ…)
Dư Nợ: vốn khấu hao cơ bản hiện còn trong doanh nghiệp.
* Trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ.
Tại công ty máy móc sử dụng thường có dung tích và khối lượng lớn như máy trộn bê tông, máy đầm, máy xúc, cần cẩu…Thế nhưng do đặc điểm của ngành xây dựng là có mặt bằng sản xuất không ổn định, trải rộng và phân tán nên toàn bộ lực lượng lao động , máy móc thiết bị, vật tư kỹ thuật phải di cư theo công trình. Mặt khác, thi công xây dựng là công tác chủ yếu nằm ở ngoài trời, chịu ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện tự nhiên, khí hậu nên rất dễ bị hư hỏng. Vì vậy công ty phải thường xuyên bảo dưỡng, tu sửa và đổi mới trang thiết bị kỹ thuật sao cho đáp ứng kịp thời nhu cầu của sản xuất. Nhưng trên thực tế, công ty không tiến hành trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh, mà tháng nào có nghiệp vụ phát sinh thì khoản chi phí này được tính luôn vào chi phí sản xuất của tháng đó. Điều này là không hợp lý vì một chi phí bỏ ra có tác dụng trong nhiều kỳ nhưng chi phí chỉ được tính trong một kỳ.
Do vậy, Công ty nên có kế hoạch trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo cho chi phí sản xuất không tăng đột biến trong kỳ khi phát sinh khoản chi phí này.
Để trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ thì cuối mỗi năm công ty cần xem xét tình hình, khả năng hoạt động của TSCĐ hiện có từ đó lập kế hoạch sửa chữa lớn TSCĐ cho cả năm bằng cách đề ra một tỷ lệ trích đối với từng loại tài sản. Dựa vào kế hoạch chi phí sửa chữa lớn TSCĐ trong năm, kế toán tính và trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ theo tháng và phân bổ đều cho các công trình.
Mức trích trong tháng được tính như sau:
Số chi phí sửa chữa lớn TSCĐ trích trong tháng
=
Nguyên giá TSCĐ x Tỷ lệ trích năm
12
Sau khi đã tính số chi phí sửa chữa lớn trong tháng của từng TSCĐ, kế toán lập bảng trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ. Bảng này có mẫu như sau:
Bảng 3.3
bảng trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ
Tháng.... năm....
STT
Tên TSCĐ
Nguyên giá
Tỷ lệ trích
Mức trích
Trong đó chia ra
TK 623
TK 627 – chi tiết cho từng công trình
TK 642
Cộng
Quy trình hạch toán trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ được thể hiện qua sơ đồ sau:
TK111,112,331 TK 2413 TK335 TK623, 627,642
Chi phí thuê ngoài sửa Kết chuyển giá trị sửa Trích trước chi phí sửa
TK711
chữa lớn TSCĐ chữa lớn TSCĐ lớn TSCĐ theo kế hoạch
Kết chuyển số trích thừa
TK 133
Thuế GTGT
được khấu trừ
Giá trị SCL TSCĐ lớn hơn số đã trích trước
Ghi chú : Công ty luôn thuê ngoài sửa chữa lớn TSCĐ.
Sơ đồ 3.6: Sơ đồ hạch toán trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ.
5. Hoàn thiện hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất.
Do đặc điểm của ngành xây lắp, hoạt động sản xuất phụ thuộc lớn vào nhiều yếu tố ngoại cảnh như thời tiết, các điều kiện về giao thông, cấp thoát nước…Do vậy, các thiệt hại phát sinh trong quá trình sản xuất là điều không thể tránh khỏi. Các thiệt hại phát sinh có thể do những nguyên nhân khách quan như khi trời mưa sẽ phát sinh công việc tát nước, vét bùn khi thi công móng các công trình hoặc cung ứng vật tư không kịp thời khiến công việc phải đình trệ…Và cũng có thể do những nguyên nhân chủ quan như làm sai, làm ẩu phải phá đi làm lại. Khi đó chi phí vật tư, nhân công và sử dụng máy thi công cũng tăng lên so với dự toán. Tuy nhiên. tại công ty các khoản thiệt hại này lại không được theo dõi và phản ánh đầy đủ. Cụ thể, chi phí vật liệu, nhân công, sử dụng máy cho các khoản thiệt hại vẫn được tính vào giá thành công trình. Theo quy định thì những khoản thiệt hại này do xảy ra bất thường, không được chấp nhận nên chi phí của chúng không được cộng vào chi phí sản xuất sản phẩm mà thường xem là khoản phí tổn thời kỳ và tuỳ thuộc vào nguyên nhân gây ra để xử lý.
Trường hợp thiệt hại do nguyên nhân khách quan thì những chi phí phải bỏ ra để khắc phục thiệt hại được hạch toán vào TK 811 ”chi phí khác”.
Nếu thiệt hại do nguyên nhân chủ quan gây ra thì yêu cầu cá nhân làm sai phải bồi thường vật chất nhằm nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công nhân viên tham gia sản xuất.
Quy trình hạch toán được thể hiện qua sơ đồ sau:
TK 111,112,152,214,334… TK1381 TK811
Chi phí thiệt hại trong sản xuất Thiệt hại do những nguyên nhân
phải chi ra khách quan
TK 111,112,152,1388,334
Thiệt hại do nguyên nhân
chủ quan
Sơ đồ 3.7: Sơ đồ kiến nghị hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất.
Ngoài ra, cũng giống như các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xây lắp khác, Công ty xây dựng công trình Hà Nội hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vay ngắn hạn của ngân hàng với lãi suất 0,7% đến 0,75% một tháng. Trong khi đó, việc chủ đầu tư thanh toán chậm và nợ đọng kéo dài lại thường xuyên diễn ra ( tính đến ngày 31/12/2002 các khoản phải thu của công ty lên đến 29.411.755.073 đồng chiếm tới gần 60% tổng tài sản). Như vậy, tính trung bình mỗi tháng Công ty phải chịu thiệt hại một khoản không nhỏ (200 đến 220 triệu đồng). Bên cạnh đó, việc không thu hồi được nợ còn làm giảm tốc dộ quay của vốn, giảm khả năng thanh toán và giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Để giảm thiệt hại này, công ty nên thành lập một bộ phận chuyên làm nhiệm vụ thu hồi công nợ. Bộ phận này do phòng kế toán thành lập và chỉ đạo, có trách nhiệm hoàn chỉnh hố sơ đòi nợ, hồ sơ quyết toán, thanh lý hợp đồng kinh tế của từng công trình và thường xuyên quan hệ với chủ đầu tư để giải quyết thanh toán. Đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
6. Hoàn thiện phương thức giao khoán.
ở Công ty Xây dựng công trình Hà Nội hiện nay thực hiện phương thức khoán gọn các công trình, hạng mục công trình cho các xí nghiệp, đội trực thuộc. Công ty chỉ cấp phát số tiền vốn theo tỷ lệ đã quy định, từ số tiền được cấp phát này các đơn vị sẽ chủ động mua vật tư, thanh toán lương, thanh toán các dịch vụ mua ngoài và chi phí khác bằng tiền để trang trải cho hoạt động của mình. Tuy nhiên, tại công ty việc hạch toán chi phí sản xuất vẫn chưa được thực hiện theo đúng hình thức khoán gọn. Kế toán công ty vẫn sử dụng các TK1411 và TK1412 để phản ánh các khoản tạm ứng về lương và vật tư mà không sử dụng TK1413. Vì vậy, để phù hợp với quy định hiện hành và giúp cho việc theo dõi việc giao vốn cho các đơn vị nhận khoán được rõ ràng hơn kế toán nên sử dụng TK1413 “tạm ứng chi phí giao khoán nội bộ” để phản ánh quan hệ nội bộ với đơn vị nhận khoán. Tài khoản này phải được mở chi tiết cho từng đơn vị nhận khoán. Khi sử dụng TK1413 thì quy trình hạch toán chi phí sản xuất được thực hiện như sau:
TK111,112 , 1388
Sơ đồ 3.8 : Hạch toán chi phí sản xuất theo phương thức khoán gọn (tại đơn vị giao khoán).
TK152,153, 111,112,33888
TK141 (1413)
TK621, 622, 623, 627
TK1331
Tạm ứng vật tư, vốn và bổ sung số thiếu cho đơn vị nhận khoán
Quyết toán tạm ứng về giá trị khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao
Thuế GTGT được khấu trừ
Thu hồi số đã tạm ứng lớn hơn giá trị giao khoán
7. Về việc phân tích giá thành.
Phân tích giá thành sản phẩm là cách tốt nhất để biết nguyên nhân và nhân tố làm chi phí biến động, ảnh hưởng tới giá thành. Từ đó người sử dụng thông tin sẽ có quyết định quản lý tối ưu hơn.
Tại Công ty xây dựng công trình Hà Nội, với mỗi công trình Công ty đều lập dự toán về các khoản mục chi phí và giá thành. Các công trình thi công thường có quy mô lớn, thời gian thi công kéo dài nhiều năm, có khi do nhiều bộ phận cùng đảm nhiệm. Công ty thường chỉ phân tích chỉ tiêu giá thành sau khi công trình đã hoàn thành. Điều đó làm ảnh hưởng đến yêu cầu quản lý trong việc khắc phục những nhân tố tiêu cực và phát huy những nhân tố tích cực để làm giảm giá thành. Vì vậy, Công ty cần phân tích chỉ tiêu giá thành các công trình, hạng mục công trình một cách thường xuyên theo kỳ bất kể công trình đã hoàn thành hay chưa để có thể nắm bắt được kịp thời giá thành phát sinh ở từng công trình, hạng mục công trình để từ đó có kế hoạch quản lý giá thành hợp lý hơn.
8. Hoàn thiện việc luân chuyển chứng từ.
Chứng từ là căn cứ để kế toán quản lý chi phí và ghi sổ kế toán cho nên việc luôn chuyển chứng từ kịp thời là rất cần thiết. Tuy nhiên, tại công ty vì nhiều lý do khách quan và chủ quan mà chứng từ không được tập hợp kịp thời.
Việc hoàn chứng từ chậm trước hết là do địa bàn hoạt động rộng, phân tán, có nhiều công trình thi công ở xa, điều kiện đi lại khó khăn, chi phí đi lại tốn kém. Song cũng còn do một số chủ công trình chưa thực sự quan tâm đến sự cần thiết của vấn đề này.
Việc hoàn chứng từ chậm dẫn đến công việc dồn vào cuối kỳ và nhiều khi việc hạch toán chưa được chính xác so với thực tế ví dụ như : trên thực tế vật tư đã mua về, xuất dùng cho công trình nhưng các chứng từ chưa được tập hợp về phòng kế toán để ghi sổ sách làm cho chi phí thực tế lớn hơn nhiều so với số liệu tập hợp trên sổ sách. Điều này đã làm ảnh hưởng đến việc cung cấp thông tin cho lãnh đạo và ảnh hưởng phần nào đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Như vậy, để giảm tình trạng luôn chuyển chứng từ chậm và giảm bớt công việc cho kế toán lúc cuối kỳ, công ty có thể đưa ra một số biện pháp như: quy định các đội xây dựng phải hoàn chứng từ lần này thì mới được tạm ứng lần tiếp theo, hay có thể quy định rõ ràng chế độ thưởng phạt đối với việc hoàn nhập chứng từ. Đối với những công trình lớn thì phòng tài vụ có thể trực tiếp cử nhân viên của phòng tới công trình để hỗ trợ trong việc ghi chép, cập nhật sổ sách chi tiết...Có như vậy thì mới có thể tạo điều kiện cho việc hoàn chứng từ được kịp thời, đầy đủ theo đúng thời hạn.
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và đứng vững khi biết sử dụng đúng đắn, hiệu quả các yếu tố đầu vào, đảm bảo chất lượng đầu ra và tự cân đối hạch toán kinh tế. Để đạt được điều này, thông tin kinh tế giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chi phối quyết định quản trị. Những thông tin kinh tế này không chỉ được xác định bằng phương pháp trực quan căn cứ vào sự tồn tại hình thái vật chất mà còn bằng phương pháp ghi chép, tính toán dựa trên sự phản ánh tình hình chi phí thực tế trên sổ sách. Xét trên góc độ này hạch toán kế toán với chức năng cơ bản là cung cấp thông tin cho quản lý đã khẳng định vai trò không thể thiếu được trong quản lý doanh nghiệp. Trong phần hệ thống thông tin chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, kế toán phản ánh toàn bộ các yếu tố chi phí phát sinh thể hiện trên các mặt quy mô và hiệu quả. Những số liệu kế toán này là cơ sở để doanh nghiệp đưa ra các quyết định quản trị.
Như vậy, có thể thấy rằng, chất lượng thông tin kế toán có ảnh hưởng rất lớn tới tính chính xác của những phản ứng của doanh nghiệp đối với luồng thông tin này. Hoàn thiện kế toán nói chung và phần hành kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng nhằm cung cấp thông tin chính xác cho quản lý luôn là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược trong sự phát triển của mỗi doanh nghiệp.
Việc hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm không những cần phải xây dựng phương pháp kế toán thích hợp để tính toán và phản ánh chính xác các khoản chi phí phát sinh và giá thành sản phẩm hoàn thành mà còn cần phải đạt được những yêu cầu, chuẩn mực về chế độ chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản và tổ chức hệ thống sổ sách, báo cáo, trình bầy số liệu khoa học đảm bảo cung cấp thông tin cho nhà quản lý nhanh chóng, kịp thời và dễ sử dụng. Để làm được điều này doanh nghiệp phải có một đội ngũ kế toán và nhà quản trị nắm vững chế độ, nguyên tắc có chuyên môn, nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp, có sự phối kết hợp chặt chẽ thường xuyên của các bộ phận nhằm kiểm tra, giám sát việc thực hiện để công việc đạt hiệu quả cao nhất.
Sau 3 tháng thực tập tại Công ty xây dựng công trình Hà Nội, được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú trong phòng kế toán, em đã có cơ hội tiếp cận với thực tế hạch toán tại doanh nghiệp cụ thể, vận dụng những kiến thức đã được trang bị ở nhà trường và hoàn thành chuyên đề với đề tài: “ Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng công trình Hà Nội”. Trong chuyên đề này, em xin đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng công trình Hà Nội.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do trình độ cũng như nhận thức của bản thân còn hạn chế nên trong bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô để luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy Trần Quý Liên cùng các cô chú trong phòng tài vụ Công ty xây dựng công trình Hà Nội đã giúp em hoàn thành luận văn này.
Tài liệu tham khảo
Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính VAT – Chủ biên PGS.TS.Nguyễn Văn Công – Nhà xuất bản Tài chính 2003.
Lý thuyết hạch toán kế toán – Chủ biên TS. Nguyễn Thị Đông.
Kế toán doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường của trường đại học Kinh tế Quốc dân.
Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong xây dựng – Nhà xuất bản Lao Động.
Kế toán trong doanh nghiệp sản xuất – Chủ biên PGS.TS.Vương Đình Huệ, TS. Nguyễn Đình Đỗ Trường đại học Tài chính kế toán - Nhà xuất bản Tài chính 2003.
Hệ thống kế toán doanh nghiệp xây lắp – Nhà xuất bản Thống kê 1999.
Phân tích hoạt động kinh doanh – Chủ biên PGS.TS Nguyễn Quang Quynh
Kế toán Anh thực hành.
Kế toán chi phí (theo hệ thống kế toán Mỹ).
Kế toán Pháp.
Tạp chí kế toán, tạp chí tài chính, thời báo kinh tế.
Các tài liệu của Công ty xây dựng công trình Hà Nội.
mục lục
Lời nói đầu.
Phần I. Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp………………………………...1
I. Đặc điểm hoạt động xây lắp có ảnh hưởng đến hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. 1
1. Đặc điểm sản phẩm xây lắp 1
2.Đặc điểm tổ chức sản xuất xây lắp 1
3. Đặc điểm công tác kế toán trong đơn vị kinh doanh xây lắp 2
II. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp. 3
1. Chi phí sản xuất trong đơn vị kinh doanh xây lắp. 3
2. Giá thành sản phẩm trong đơn vị kinh doanh xây lắp. 6
3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp. 7
4. Vai trò, nhiệm vụ của việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp 8
III. Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. 9
1. Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất 9
2. Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm. 10
3. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 12
IV. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất trong các đơn vị kinh doanh xây lắp 12
1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 12
2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp 14
3. Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công 15
4. Hạch toán chi phí chung 17
5. Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang 19
V. Đặc điểm hạch toán chi phí sản xuất theo phương thức khoán gọn trong xây lắp 21
1. Hạch toán tại đơn vị giao khoán 21
2. Hạch toán tại đơn vị nhận khoán 22
VI. Tổ chức hệ thống sổ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 23
VII. Đặc điểm hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại một số nước trên thế giới 24
Phần II. Thực trạng công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Xây dựng công trình Hà Nội 26
I. Những vấn đề chung về Công ty xây dựng công trình Hà Nội 26
1. Lịch sử hình thành và phát triển 26
2. Đặc điểm sản xuất kinh doanh 28
3. Tổ chức bộ máy kế toán 30
II. Hạch toán chi phí sản xuất tại Công ty Xây dựng công trình Hà Nội 34
1. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất tại công ty 34
2. Đặc điểm chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng công trình Hà Nội 34
3 Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng công trình Hà Nội 35
III. Tổ chức đánh giá thành phẩm tại công ty xây dựng công trình Hà Nội 54
1. Tổng hợp chi phí sản xuất, đánh giá sản phẩm dở dang và tính giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp hoàn thành 54
2. Chi phí quản lý doanh nghiệp và tính giá thành toàn bộ công trình xây lắp hoàn thành 60
IV. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành theo khoản mục 62
Phần III. Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Xây dựng công trình Hà Nội 64
I. Sự cần thiết phải hạch toán chính xác chi phí sản xuất và tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm. 64
II. Đánh giá khái quát tình hình hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Xây dựng công trình Hà Nội 64
1. Những thành tựu đạt được 64
2. Những tồn tại, hạn chế 66
II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Xây dựng công trình Hà Nội 67
1. Hoàn thiện việc hạch toán yếu tố NVL, CCDC 67
2. Hoàn thiện hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương.................... 70
3. Hoàn thiện hạch toán chi phí sử dụng máy thi công 72
4. Hoàn thiện hạch toán tài sản cố định 74
5. Hoàn thiện hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất 76
6. Hoàn thiện phương thức giao khoán 78
7.Về việc phân tích giá thành 78
8. Hoàn thiện việc luân chuyển chứng từ 79
Kết luận.
Tài liệu tham khảo
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0089.doc