Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cao su Sao Vàng Chi nhánh Thái Bình

Lời mở đầu Trong nền kinh tế thị trường tồn tại sự cạnh tranh gay gắt như cạnh tranh giữa các loại hình Doanh nghiệp, cạnh tranh giữa các Công ty, cạnh tranh giữa các công nghệ sản xuất sản phẩm cùng loại với nhau. Chính sự cạnh tranh này mà đòi hỏi các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trên thị trường với tiềm lực sẵn có của mình phải biết sử dụng công cụ quản lý tài chính có hiệu quả. Kế toán là một công cụ quan trọng, đắc lực trong việc quản lý, điều hành các hoạt động kinh tế, tính

doc108 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cao su Sao Vàng Chi nhánh Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
toán kinh tế, kiểm tra việc sử dụng tài sản, tiền vốn nhằm đảm bảo tài chính chủ động trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Mà mục đích của bất cứ doanh nghiệp nào đều là tối đa hoá lợi nhuận một cách hợp pháp nghĩa là hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Một trong các biện pháp đó là tiết kiệm chi phí, quản lý tốt ở mọi khâu, mọi quá trình. Bên cạnh đó, do sự phát triển ngày càng tinh vi, sự biến đổi ngày càng phức tạp của nền kinh tế thị trường, cùng với việc ban hành các chế độ mới của Bộ Tài chính nên hoạt động của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ. Vì vậy, lúc này kế toán thực sự trở thành cánh tay đắc lực để hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Đặc biệt kế toán tập hợp chi phí sản xuất - tính giá thành sản phẩm có ý nghĩa rất lớn đối với các doanh nghiệp. Xuất phát từ luận điểm đó, kế toán tập hợp chi phí sản xuất - tính giá thành sản phẩm ở Công ty Cao Su Sao vàng Chi nhánh Thái bình đã được coi trọng. Trong thời gian thực tập tại Chi nhánh, với sự hướng dẫn tận tình của TS. Phạm Quang, cùng sự giúp đỡ của các cô, các chú, các anh, chị phòng kế toán Chi nhánh và cùng với sự nỗ lực của bản thân em đã hoàn thành bản luận văn với đề tài "Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cao su Sao Vàng Chi nhánh Thái Bình". Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, kết cấu luận văn gồm 3 phần: Phần I: Khái quát chung về Công ty Cao su Sao Vàng Chi nhánh Tháí Bình. PhầnII: Thực trạng công tác hạch toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Chi nhánh Thái Bình. PhầnIII: Một số ý kiến, kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm. Hoàn thiện bản luận văn này một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của TS. Phạm Quang cùng sự giúp đỡ của cán bộ phòng tài chính kế toán Chi nhánh Thái Bình Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2003 phần I: lý luận chung về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm I. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 1. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất 1.1. Khái niệm về chi phí sản xuất Đối với các doanh nghiệp sản xuất thì hoạt động chính của họ là chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất nhằm đáp ứng các nhu cầu xã hội. Trong quá trình sản xuất đó họ phải bỏ ra những chi phí sản xuất (CPSX) nhất định. CPSX là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra để tiến hành các hoạt động sản xuất trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm). Trong đó: *Chi phí về lao động sống : Là các chi phí về tiền công và tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ vào chi phí theo tiền công phải trả đó. Khoản chi phí này bao gồm yếu tố sức lao động là một trong 3 yếu tố cơ bản của bất kỳ một nền kinh tế xã hội nào. * Chi phí về lao động vật hoá: Bao gồm chi phí khấu hao (khi sử dụng TSCĐ), chi phí nguyên vật liệu (khi sử dụng nguyên vật liệu)…Như vậy, trong chi phí về lao động vật hoá bao gồm 2 yếu tố cơ bản còn lại là: Tư liệu lao động (công cụ lao động, nhà xưởng…) và các đối tượng lao động (nguyên vật liệu, nhiên liệu…) của nền sản xuất xã hội. Sự phát sinh, phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Nền sản xuất của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác, quá trình sản xuất là quá trình kết hợp của 3 yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đồng thời, quá trình sản xuất cũng chính là quá trình tiêu hao của các yếu tố trên. Như vậy, để tiến hành sản xuất người sản xuất phải bỏ chi phí về thù lao lao động về tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vì thế, sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất. Tuy nhiên, một doanh nghiệp sản xuất thì ngoài hoạt động liện quan đến quá trình sản xuất ra còn có các hoạt động kinh doanh khác và các hoạt đông không có tính chất sản xuất như hoạt động bán hàng, hoạt động quản lý doanh nghiệp, các hoạt động có tính chất sự nghiệp…Chi phí của tất cả quá trình đố gọi là chi phí sản xuất kinh doanh, còn chi phí sản xuất chỉ bao gồm những chi phí chỉ liên quan đến hoạt động sản xuất. Như vậy, chi phí sản xuất là một bộ phận của chi phí sản xuất kinh doanh. Mỗi nước khác nhau thì chi phí sản xuất lại được hiểu khác nhau. Chẳng hạn: * Theo kế toán Pháp: CPSX là toàn bộ số tiền doanh nghiệp bỏ ra để mua các yếu tố cần thiết tạo ra sản phẩm và mang lại lợi ích cho doanh nghiệp như: - Chi phí mua NVL, dự trữ sản xuất khác. - Chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh: Chi phí tiền điện, tiền nước, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí nhân viên… - Không tính vào chi phí những số tiền bỏ ra như mua sắm TSCĐ hữu hình, vô hình, mua chứng khoán. Nhưng được tính vào chi phí những khoản doanh nghiệp không phải trả như chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí dự phòng. * Theo kế toán Mỹ: CPSX được định nghĩa như một khoản hao phí bỏ ra để thu được của cải vật chất và dịch vụ. Tiền này có thể là tiền mặt chi ra, là các khoản chuyển nhượng, dịch vụ hoàn thành được đánh giá trên căn cứ tiền mặt. Dù được định nghĩa theo cách nào đi chăng nữa thì thực chất CPSX vẫn được hiểu là sự chuyển dịch vốn, chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá thành (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ). Tuy nhiên, để hiểu kỹ về bản chất CPSX, chúng ta cần phải có sự phân biệt giữa chi phí và chi tiêu: * Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất và kinh doanh mà doanh nghiệp chi ra trong một kỳ kinh doanh. Như vậy, chỉ được tính vào chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. * Chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp (chi cho sản xuất, chế tạo sản phẩm, công tác quản lý…) chi tiêu cho quá trình tiêu thụ (chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo…). Chi phí và chi tiêu là 2 khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Tổng số chi phí của doanh nghiệp trong kỳ bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kỳ này. Chi phí và chi tiêu không những khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng chưa được tính vào chi phí (chi mua NVL về nhập kho nhưng chưa sử dụng) và có những khoản tính vào chi phí nhưng thực chất chưa chi tiêu (chi phí trích trước). Sở dĩ, có sự khác nhau là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá thành của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán của chúng. 1.2. Phân loại chi phí sản xuất Để phục vụ cho công tác quản lý và hạch toán, người ta tiến hành phân loại CPSX. Xuất phát từ những mục đích và yêu cầu khác nhau của quản lý mà CPSX được phân theo những tiêu thức khác nhau. 1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố chi phí Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu đồng nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh của chi phí, chi phí được phân theo yếu tố. Về thực chất chi phí chỉ có 3 yếu tố là: Chi phí về lao động sống, chi phí về đối tượng lao động và chi phí về tư liệu lao động. Tuy nhiên, để cung cấp thông tin về chi phí một cách cụ thể hơn nhằm phục vụ cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động, việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán chi phí, các yếu tố trên có thể được chi tiết hoá theo nội dung kinh tế của chúng. Tuỳ theo yêu cầu và trình độ quản lý ở mỗi nước, mỗi thời kỳ mà mức độ chi tiết của các yếu tố có sự khác nhau. Theo qui định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia làm 7 yếu tố cơ bản sau: - Yếu tố chi phí NVL: Bao gồm toàn bộ giá trị NVL chính, NVL phụ, phụ tùng thay thế,…sử dụng vào sản xuất kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi). - Yếu tố chi phí nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi). - Yếu tố chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương: Phản ánh tổng số tiền lương và các khoản phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho toàn bộ công nhân viên chức. - Yếu tố chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ: Phản ánh phần BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ qui định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho công nhân viên. - Yếu tố chi phí khấu hao TSCĐ: Phản ánh số khấu hao phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ. - Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh. - Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh ở các yếu tố trên dùng vào hoạt động kinh doanh trong kỳ. 1.2.2. Phân theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân theo khoản mục. Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Theo qui định của chế độ hiện hành, giá thành sản xuất của sản phẩm gồm 3 khoản mục chủ yếu: * Khoản mục chi phí NVL trực tiếp: Phản ánh toàn bộ chi phí nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu… tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ dịch vụ. * Khoản mục chi phí nhân công trực tiếp: Gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ qui định với tiền lương phát sinh. * Khoản mục chi phí sản xuất chung: Là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất (trừ chi phí vật liệu, nhân công trực tiếp). Ngoài ra khi tính giá thành toàn bộ ( giá thành đầy đủ) sản phẩm thì chỉ tiêu giá thành còn bao gồm khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp và khoản mục chi phí bán hàng. Cách phân loại này nhằm phục vụ cho yêu cầu quản lý theo định mức, cung cấp số liệu cho công tác giá thành sản phẩm, làm tài liệu tham khảo để lập định mức CPSX và lập kế hoạch giá thành cho kỳ sau. 1.2.3. Phân loại chi phí trong mối quan hệ CPSX với khối lượng sản phẩm hoàn thành Theo cách phân loại này, CPSX bao gồm 2 loại: * Biến phí (chi phí biến đổi hay chi phí khả biến): Là những CPSX thay đổi theo số lượng sản phẩm, công việc hoàn thành (như chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp). Tuy nhiên, chi phí biến đổi tính trên một đơn vị sản phẩm có tính chất cố định. * Định phí (chi phí cố định hay chi phí bất biến): Là những chi phí không thay đổi theo số lượng sản phẩm sản xuất như chi phí khấu hao TSCĐ. Tuy nhiên, chi phí tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại thay đổi nếu số lượng sản phẩm thay đổi. Cách phân loại này có tác dụng lớn đối với quản trị doanh nghiệp, phân tích điểm hoà vốn và phục vụ cho việc ra quyết định quản lý cần thiết để hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh (công tác kế toán quản trị nội bộ trong doanh nghiệp). 1.2.4. Phân loại CPSX theo nội dung cấu thành của chi phí Theo cách phân loại này, CPSX bao gồm 2 loại: * Chi phí đơn nhất: Chi phí này do một yếu tố duy nhất cấu thành, điển hình cho loại chi phí này là chi phí nhân công sản xuất. * Chi phí tổng hợp: Là chi phí do nhiều yếu tố khác nhau tập hợp lại theo cùng một công dụng như CPSX chung bao gồm nhiều yếu tố chi phí khác nhau phát sinh trong phạm vi phân xưởng: Chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài,… Cách phân loại này giúp cho cách nhận thức vị trí của từng loại CPSX trong việc hình thành giá thành sản phẩm để tổ chức tập hợp CPSX thích hợp với từng loại. 1.2.5. Phân loại chi phí theo phương pháp tập hợp CPSX và mối quan hệ với đối tượng chịu phí. Theo cách phân loại này, CPSX chia làm 2 loại: * Chi phí trực tiếp: Là chi phí có quan hệ trực tiếp với việc sản xuất ra một loại sản phẩm. Kế toán có thể căn cứ vào chứng từ gốc để ghi trực tiếp từng loại đối tượng chịu phí. Ví dụ: Vật liệu xuất cho sản xuất loại sản phẩm nào được ghi trực tiếp cho loại sản phẩm đó. * Chi phí gián tiếp: Trong CPSX, những chi phí có liên quan đến nhiều sản phẩm là chi phí gián tiếp. Với chi phí này kế toán phải tiến hành phân bổ cho từng đối tượng có liên quan theo tiêu thức chuẩn phù hợp. Ví dụ: Một TSCĐ được sử dụng để sản xuất nhiều loại sản phẩm thì khấu hao của nó được phân bổ cho từng loại sản phẩm một cách hợp lý. Cách phân loại này có ý nghĩa với việc xác định phương pháp kế toán tập hợp và phân bổ CPSX cho các đối tượng có liên quan một cách đúng đắn, hợp lý. 1.2.6. Phân loại CPSX theo mối quan hệ giữa khoản chi và chi phí Khoản chi : Là khái niệm có tính chất thời điểm, phản ánh sự ghi nhận của doanh nghiệp về các yếu tố chi ra trong quá trình sản xuất. Như vậy, theo cách phân loại này thì CPSX bao gồm 3 loại: Chi phí từ các khoản chi phát sinh trong kỳ. Chi phí được hình thành từ các khoản chi ghi nhận trước (chi phí trả trước) Chi phí được hình thành từ các khoản chi đã dự kiến trong tương lai (chi phí trích trước). Cách phân loại này nhằm mục đích quản lý sự phù hợp giữa chi phí và thời gian phát huy tác dụng của các khoản chi Ngoài các cách phân loại trên đây, dựa vào các tiêu thức khác nhau thì CPSX được phân thành các loại khác nhau. Do đó, phải tuỳ thuộc vào yêu cầu cụ thể mà lựa chọn các phương pháp phân loại CPSX phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu cụ thể đó. 2. Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm 2.1. Khái niệm giá thành sản phẩm Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm 2 mặt: Mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí phát sinh( phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang) và các chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo thành chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra ở bất kể kỳ nào có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành trong kỳ. Vậy, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hóa có liên quan đến khối lượng sản phẩm đã hoàn thành. Tuy nhiên, ở mỗi nước khác nhau thì lại có những quan điểm khác nhau. Chẳng hạn theo chế độ kế toán Pháp: GTSP bao gồm tất cả các khoản chi thuộc về đầu vào để tạo ra đầu ra tương ứng. Trong kế toán pháp có sự phân biệt giữa giá phí và giá thành. * Giá phí là khái niệm để xác định những khoản hao phí vật chất mà doanh nghiệp phải đầu tư để thực hiện các giai đoạn khác nhau trong quá trình sản xuất. Các giai đoạn này bao gồm: Giai đoạn cung cấp, giai đoạn sản xuất và giai đoạn tiêu thụ. Phù hợp với các giai đoạn như vậy có các loại giá phí: giá phí tiếp liệu, giá phí sản xuất và giá phí phân phối. GTSP là khái niệm được sử dụng để xác định những hao phí vật chất được dùng cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp phải bù đắp. Trong mối quan hệ với giá phí thì giá thành được xác định bao gồm: Giá thành = Giá phí sản xuất + Giá phí phân phối. Theo chế độ kế toán Mỹ: Khái niệm giá thành được sử dụng như là một chỉ tiêu đo lường các khoản hao phí vật chất mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, được tiếp cận thông qua khái niệm giá phí: Giá phí của doanh nghiệp khi đi vào sản xuất kinh doanh là toàn bộ các chi phí để tạo ra chất lượng sản phẩm đem đi tiêu thụ trên thị trường. GTSP là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng của hoạt động sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng của các loại tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất cũng như các giải pháp kinh tế – kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện nhằm mục đích sản xuất tiết kiệm và hạ giá thành. GTSP là căn cứ để tính toán, xác định hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất trong các doanh nghiệp. Để đáp ứng các yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Nói cách khác chúng ta cần phải nghiên cứu qua việc phân loại giá thành. 2.2. Phân loại giá thành 2.2.1.Phân theo thời điểm và nguồn số liệu để tính giá thành Theo cách phân loại này, giá thành được chia làm 3 loại: Giá thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế. * Giá thành kế hoạch: Được xác định trước khi bước vào kỳ kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí. * Giá thành định mức: Được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng). Khác với giá thành kế hoạch không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức luôn luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất sản phẩm. * Giá thành thực tế: Là chỉ tiêu được xác định sau khi sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý vầ giám sát chi phí, xác định các nguyên nhân vượt (hụt) định mức chi phí cho phù hợp. 2.2.2. Phân loại giá thành theo phạm vi phát sinh chi phí Theo cách phân loại này gía thành được chia làm 2 loại : * Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng): Là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng (chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí SXC). Bởi vậy, giá thành sản xuất còn có tên gọi là giá thành công xưởng. * Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ): Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (CPSX, chi phí quản lý và chi phí bán hàng). Giá thành tiêu thụ được gọi là giá thành đầy đủ và được tính theo công thức: Giá thành toàn bộ của SP = Giá thành sản xuất của SP + Chi phí quản lý doanh nghiệp + Chi phí bán hàng Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kết quả kinh doanh (lãi, lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. 3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. CPSX phản ánh mặt hao phí sản xuất còn GTSP phản ánh mặt kết quả sản xuất. Số liệu tập hợp CPSX là cơ sở cho việc tính giá thành, hay nói cách khác tính GTSP phải dựa trên các thông tin thu thập được về CPSX. CPSX và GTSP đều bao gồm các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình chế tạo sản phẩm. Tuy nhiên, giữa chúng lại có sự khác biệt nhất định: - Chi phí sản xuất luôn gắn liền với từng thời kỳ đã phát sinh chi phí còn giá thành sản phẩm lại gắn với khối lượng sản phẩm hoàn thành. - CPSX không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Còn GTSP không liên quan đến những sản phẩm này, nhưng lại liên quan đến CPSX của sản phẩm dở dang cuối kỳ trước chuyển sang. Tổng GTSP thường không trùng với tổng chi phí phát sinh trong kỳ. Có thể phản ánh mối quan hệ giữa CPSX và GTSP qua sơ đồ: Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ Tổng giá thành sản phẩm Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ Tổng giá thành SP, DV, hoàn thành = Chi phí sản xuất DD Đ.kỳ + Chi phí sản xuất PS T.kỳ - Chi phí sản xuất DD C.kỳ Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở dang) cuối kỳ và đầu kỳ bằng nhau hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm, dịch vụ bằng tổng chi phí phát sinh trong kỳ. 4. Sự cần thiết phải hạch toán CPSX và tính GTSP Trong các doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh nói chung, kế toán đóng vai trò quan trọng trong quản trị doanh nghiệp vì kế toán là công cụ có hiệu lực nhất để điều hành quản lý, kiểm tra, tính toán hiệu quả của các hoạt động trong doanh nghiệp. Mặt khác, đối với một doanh nghiệp sản xuất thì chỉ tiêu CPSX và GTSP là những chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn được các nhà quản lý quan tâm vì nó phản ánh chất lượng của hoạt động sản xuất của doanh nghệp. Thông qua việc hạch toán CPSX và tính GTSP những nhà quản lý doanh nghiệp nắm được CPSX và GTSP thực tế của từng loại hoạt động của từng loại sản phẩm cũng như kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để phân tích đánh giá tình hình thực hiện các định mức chi phí và dự toán chi phí, tình hình sử dụng tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm. Để từ đó có quyết định quản lý cho phù hợp, phấn đấu hạ GTSP và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nâng cao thu nhập cho người lao động. Từ đó, khẳng định điều cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp sản xuất là phải tổ chức hạch toán CPSX một cách chính xác và tính đúng, tính đủ GTSP của mình. II. Hạch toán chi phí sản xuất (CPSX) 1. Đối tượng, phương pháp hạch toán CPSX Để hạch toán CPSX và tính GTSP được chính xác, đòi hỏi công việc đầu tiên mà nhà quản lý phải làm là xác định đúng đối tượng hạch toán CPSX. Xác định đối tượng hạch toán CPSX chính là việc xác định phạm vi, giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là việc xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Xác định được đúng đắn đối tượng hạch toán CPSX giúp cho việc tổ chức hạch toán CPSX từ khâu ghi chép ban đầu, tổng hợp số liệu, đến tổ chức tài khoản và hệ thống sổ… được thống nhất, liền mạch vì tất cả các khâu đó đều phải theo đúng đối tượng hạch toán CPSX đã xác định trên cơ sở hạch toán CPSX, kế toán lựa chọn phương pháp hạch toán CPSX thích ứng. Phương pháp hạch toán CPSX là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các CPSX trong phạm vi, giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Về cơ bản, phương pháp hạch toán CPSX bao gồm các phương pháp hạch toán theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân xưởng… Nội dung chủ yếu của các phương pháp hạch toán CPSX là kế toán mở thẻ (mở sổ) chi tiết hạch toán CPSX theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh các chi phí phát sinh có liên quan đến đối tượng đã xác định, hàng tháng tổng hợp chi phí theo từng đối tượng. Mỗi phương pháp hạch toán chi phí ứng với một loại đối tượng hạch toán chi phí nên tên gọi phương pháp này là biểu hiện đối tượng mà nó cần tập hợp và phân bổ chi phí. Chi phí sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại với tính chất và nội dung khác nhau, phương pháp hạch toán và tính nhập chi phí vào giá thành sản phẩm cũng khác nhau. Khi phát sinh chi phí, trước hết CPSX được biểu hiện theo yếu tố chi phí rồi mới biểu hiện thành khoản mục giá thành. Việc tập hợp CPSX phải được tiến hành theo trình tự hợp lý, khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời được. Trình tự hạch toán phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành nghề, từng doanh nghiệp, vào mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, vào trình độ công tác quản lý và hạch toán …Tuy nhiên có thể khái quát chung việc tập hợp CPSX qua các bước: Bước1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng sử dụng. Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của các ngành sản xuất – kinh doanh cho từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ. Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phi sản xuất chung cho các loại sản phẩm có liên quan. Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ, tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm. Tuỳ theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho áp dụng trong doanh nghiệp mà nội dung, cách thức hạch toán CPSX có những đặc điểm khác nhau. 2. Hạch toán chi phí NVL trực tiếp 2.1. Khái niệm Chi phí NVL trực tiếp (CPNVLTT) bao gồm toàn bộ giá trị NVL chính, NVL phụ nhiên liệu … được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất hoặc sản phẩm, loại sản phẩm, lao vụ…) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ cho các đối tượng có liên quan. Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng, số lượng sản phẩm. Công thức phân bổ như sau : Chi phí vật liệu phân bổ cho từng đối tượng, SP = Tổng tiêu thức phân bổ của từng đối tượng, SP x Tỷ lệ phân bổ Tỷ lệ phân bổ = Tổng chi phí vật liệu cần phân bổ Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng 2.2. Tài khoản sử dụng Để theo dõi các khoản chi phí NVL trực tiếp, kế toán sử dụng TK 621 – Chi phí NVL trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết cho từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất). Nội dung của tài khoản: Bên nợ: Tập hợp chi phí nguyên, vật liệu xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ. Bên có: - Giá trị vật liệu xuất dùng không hết - Kết chuyển chi phí NVL trực tiếp Tài khoản 621 không có số dư cuối kỳ 2.3. Phương pháp hạch toán 2.3.1. Hạch toán theo phương pháp kê khai thường xuyên - Xuất kho NVL sử dụng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm hay thực hện các lao vụ, dịch vụ, kế toán ghi: Nợ TK 621 – Chi tiết theo đối tượng Có TK 152 – Giá trị thực tế xuất dùng - Trường hợp nhận vật liệu về không nhập kho mà xuất dùng ngay cho việc sản xuất sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ, căn cứ giá trị thực tế xuất dùng: Nợ TK 621 – Chi tiết theo đối tượng Nợ TK 1331 – Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ Có TK 311, 111, 112 – Vật liệu mua ngoài Có TK 411 – Nhận cấp phát, nhận liên doanh Có TK 311, 336, 338, 154… - Giá trị vật liệu xuất dùng không hết Nợ TK 152 – Chi tiết vật liệu Có TK 621 – Chi tiết vật liệu - Cuối kỳ kết chuyển chi phí NVL trực tiếp vào TK tính giá thành Nợ TK 154 – Chi tiết theo đối tượng Có TK 621 – Chi tiết theo đối tượng Lưu ý: + Nếu doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp trực tiếp thì giá trị vật liệu thực tế xuất dùng bao gồm cả thuế GTGT đầu vào. + Giá trị NVL còn lại không nhập kho mà để lại sử dụng được kế toán ghi vào đầu kỳ sau bằng bút toán: Nợ TK 621 – Chi tiết theo đối tượng Có TK 152 – Ghi theo giá thực tế xuất dùng 2.3.2. Hạch toán chi phí theo phương pháp kiểm kê định kỳ Khác với các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên để hạch toán hàng tồn kho, trong các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ, các nghiệp vụ phát sinh có liên quan đến hàng tồn kho không được ghi sổ liên tục. Bởi vậy, cuối kỳ doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê tất cả các loại NVL, thành phẩm trong kho và tại các phân xưởng cùng với bộ phận sản xuất để xác định chi phí của sản phẩm hoàn thành và của sản phẩm đã bán. Do đặc điểm của phương pháp kiểm kê định kỳ nên chi phí NVL xuất dùng rất khó phân định được là xuất cho mục đích sản xuất hay quản lý hay tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, để phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ, kế toán cần theo dõi chi tiết các chi phí phát sinh liên quan đến từng đối tượng( phân xưởng, bộ phận sản xuất, sản phẩm…) hoặc dựa vào mục đích sử dụng hay tỷ lệ định mức để phân bổ vật liệu xuất dùng cho từng mục đích. Cụ thể: - Đầu kỳ kết chuyển giá trị vật liệu chưa sử dụng Nợ TK 6111 Có TK 152 – Giá trị vật liệu tồn kho Có TK 151 – Giá trị vật liệu đang đi đường - Trong kỳ phản ánh các nghiệp vụ làm tăng vật liệu (mua ngoài, nhận cấp phát…) Nợ TK 6111 – Giá chưa có thuế Nợ TK 1331 – Thuế GTGT được khấu trừ Có TK 331, 311, 111, 112 - Cuối kỳ căn cứ vào kết quả kiểm kê hàng tồn kho, phản ánh giá trị vật liệu chưa sử dụng: Nợ TK 152, 151 Có TK 6111 - Xác định và kết chuyển giá trị vật liệu sử dụng cho các mục đích như sản xuất, quản lý: Nợ TK 621, 627, 641 Có TK 6111 Đồng thời kết chuyển chi phí NVL trực tiếp theo từng đối tượng: Nợ TK 631 – Giá thành sản xuất Có TK 621 – Chi phí NVLTT trực tiếp 3. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp 3.1. Khái niệm Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản thù lao phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như tiền lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương (phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ,…). Ngoài ra, chi phí nhân công trực tiếp còn bao gồm các khoản đóng góp cho quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ do chủ sử dụng lao động chịu và được tính vào chi phí kinh doanh theo tỷ lệ nhất định với số tiền lương phát sinh của công nhân trực tiếp sản xuất. 3.2. Tài khoản sử dụng Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK 622 – chi phí nhân công trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí như TK 621. Nội dung tài khoản: Bên nợ: Tập hợp chi phí nhân công trực tiếp sản xuất, thực hiện lao vụ, dịch vụ. Bên có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản giá thành TK 622 cũng không có số dư cuối kỳ 3.3. Phương pháp hạch toán 3.3.1. Hạch toán theo phương pháp kê khai thường xuyên -Tính ra tổng số tiền công, tiền lương và phụ cấp phải trả trực tiếp cho công nhân sản xuất sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ trong kỳ Nợ TK 622 – Chi tiết theo đối tượng Có TK 334 – Tổng tiền lương phải trả cho công nhân - Trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định, kế toán ghi: Nợ TK 622 – Chi tiết theo đối tượng Có TK 338 – Tổng các khoản trích là 19% lương vào chi phí Chi tiết TK 3382 trích KPCĐ là 2%lương vào chi phí TK 3383 trích BHXH là 15% lương vào chi phí TK3384 trích BHYT là 2% lương vào chi phí - Tiền lương trích trước vào chi phí và các khoản tiền lương tính trước khác như ngừng sản xuất theo kế hoạch với những doanh nghiệp sản xuất mang tính chất thời vụ: Nợ TK 622 - Chi tiế._.t theo đối tượng Có TK 335 – Tiền lương trích trước - Cuối kỳ kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản tính giá thành: Nợ TK 154 – Chi tiết đối tượng Có TK 622 – Chi tiết theo đối tượng 3.3.2.Hạch toán theo phương pháp kiểm kê định kỳ Về chi phí nhân công trực tiếp, tài khoản sử dụng và các tập hợp chi phí trong kỳ giống như phương pháp kê khai thường xuyên. Cuối kỳ, tính giá thành sản phảm, lao vụ, dịch vụ, kế toán tiến hành kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản 631 theo từng đối tượng sử dụng. Nợ TK 631 – Chi tiết theo đối tượng sử dụng Có TK 622 – Chi tiết theo đối tượng sử dụng 4.Hạch toán chi phí sản xuất chung 4.1. Khái niệm Chi phí sản xuất chung là những khoản chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo chuẩn mực số 02 – Hàng tồn kho ban hành và công bố theo QĐ số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính có hướng dẫn phân loại chi phí sản xuất chung thành 2 loại là chi phí sản xuất chung cố định và chi phí sản xuất chung biến đổi. - Chi phí sản xuất cố định là những chi phí sản xuất gián tiếp, thường không thay đổi theo số lượng sản phẩm sản xuất như chi phí khấu hao, chi phí bảo dưỡng máy móc… - Chi phí sản xuất biến đổi là những chi phí sản xuất gián tiếp thướng thay đổi thực tiếp hoặc gần như trực tiếp theo số lượng sản phẩm sản xuất như chi phí NVLTT gián tiếp, chi phí nhân công gián tiếp. Việc phân bổ chi phí các chi phí này tuỳ theo công suất bình thường của máy móc (đã có hướng dẫn) 4.2.Tài khoản sử dụng Để theo dõi các khoản chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng tài khoản 627 – chi phí sản xuất chung, mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. Nội dung tài khoản: Bên nợ: Phản ánh chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kỳ Bên có: - Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung - Kết chuyển hay phân bổ chi phí sản xuất chung vào chi phí sản phẩm hay lao vụ dịch vụ. Tài khoản 627 không có số dư cuối kỳ do đã kết chuyển hay phân bổ hết cho các loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ và tài khoản này được chi tiết thành 6 tài khoản cấp 2: * TK 6271 – Chi phí nhân viên phân xưởng: Phản ánh chi phí về lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên phân xưởng (quản đốc, phó quản đốc, nhân viên kinh tế phân xưởng…) và các khoản đóng góp cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ tiền lương phát sinh. * TK 6272 – Chi phí NVL: Bao gồm các khoản chi phí về vật liệu sản xuất chung cho phân xưởng như xuất sửa chữa, bảo dưỡng máy móc… * TK 6273 – Chi phí dụng cụ sản xuất : Là những chi phí về công cụ sản xuất dùng trong phân xưởng. * TK 6274 – Chi phí khấu hao TSCĐ: Phản ánh khấu hao TSCĐ thuộc các phân xưởng sản xuất – kinh doanh chính, phụ như máy móc, thiết bị, nhà cửa… * TK 6277 – Chi phí dịch vụ mua ngoài: Bao gồm các khoản chi phí dịch vụ thuê ngoài phục vụ cho sản xuất – kinh doanh của các phân xưởng, bộ phận sản xuất như chi phí sửa chữa TSCĐ, nước, điện… * TK 6278 – Chi phí bằng tiền khác: Là những chi phí còn lại ngoài các chi phí kể trên như chi phí hội nghị, lễ tân… Ngoài ra, tuỳ yêu cầu quản lý của từng doanh nghiệp, từng ngành, tài khoản 627 có thể mở thêm một số tiểu khoản khác để phản ánh một số nội dung hoặc yếu tố chi phí. 4.3. Phương pháp hạch toán 4.3.1. Hạch toán theo phương pháp kê khai thường xuyên - Căn cứ vào các khoản chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ Nợ TK 627 – Chi tiết theo từng tiểu khoản Có TK334 – Tiền lương nhân viên phân xưởng Có TK 338 – Các khoản trích theo lương nhân viên Có TK 152, 153 – Vật liệu, công cụ dụng cụ xuất dùng. Có TK 214, 111, 112, 331… - Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung Nợ TK 111, 112, 152, 138 Có TK 627 – Chi tiết theo tiểu khoản - Cuối kỳ phân bổ chi phí sản xuất chung theo các đối tượng chịu phí Nợ TK 154 – Chi tiết theo từng đối tượng Có TK 627 – Chi tiết theo tiểu khoản Do chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều sản phẩm trong phân xưởng nên cần thiết phải phân bổ khoản chi phí này cho từng đối tượng theo tiêu thức phù hợp. Tỉêu thức phân bổ có thể là định mức hoặc giờ làm việc thực tế của công nhân trực tiếp sản xuất, tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất. Ta có công thức phân bổ như sau: Mức phân bổ cho từng đối tượng = Tổng mức chi phí SXC cần phân bổ X Tổng tiêu thức phân bổ của từng đối tượng Tổng tiêu thức phân bổ 4.3.2. Hạch toán theo phương pháp kiểm kê định kỳ Việc hạch toán chi phí sản xuất chung theo phương pháp này cũng tương tự như trường hợp doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên, trừ yếu tố vật liệu, công cụ dụng cụ xuất cho nhu cầu chung của phân xưởng thì mỗi lần xuất sẽ không phản ánh mà chỉ phản ánh một lần tổng cộng vào cuối kỳ sau khi đã kiểm kê và xác định giá trị vật liệu, công cụ, dụng cụ tồn kho cuối kỳ, kế toán ghi: Nợ TK 627 – Chi tiết theo đối tượng sử dụng Có TK 6111 – Giá trị vật liệu, công cụ dụng cụ xuất dùng Cuối kỳ, kế toán kết chuyển chi phí sản xuất chung vào TK 631 theo từng đối tượng: Nợ TK 631 – Chi tiết theo đối tượng Có TK 627 – Chi tiết theo đối tượng 4.3.2. Hạch toán chi phí sản xuất chung cố định Theo hướng dẫn Thông tư số 89năm 2002 của Bộ Tài chính thì chi phí sản xuất chung cố định được hạch toán như sau: Khi phát sinh chi phí sản xuất chung cố định, ghi Nợ TK 627 – Chi tiết chi phí sản xuất chung cố định Có TK 152, 153, 214, 331, 334,… Cuối kỳ, phân bổ và kết chuyển chi phí sản xuất chung cố định vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị sản phẩm theo mức công suất bình thường, ghi: Nợ TK 154 – Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang Có TK 627 – Chi tiết chi phí sản xuất chung cố định Trường hợp mức sản phẩm thực tế sản xuất ra thấp hơn công suất bình thường thì kế toán phải tính và xác định chi phí sản xuất chung cố định phân bổ vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị sản phẩm theo mức công suất bình thường. Khoản chi phí sản xuất chung cố định không phân bổ (không tính vào giá thành sản phẩm số chênh lệch giữa tổng chi phí sản xuất chung cố định thực tế phát sinh lớn hơn chi phí sản xuất chung cố định được tính vào giá thành sản phẩm) được ghi nhận vào giá vốn hàng bán trong kỳ: Nợ TK 632 – Chi tiết chi phí sản xuất chung cố định không phân bổ Có TK 627 – Chi phí sản xuất chung. 5. Hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất 5.1. Hạch toán thiệt hại về sản phảm hỏng 5.1.1. Khái niệm Sản phẩm hỏng là các sản phẩm không thoả mãn các tiêu chuẩn chất lượng và đặc điểm kỹ thuật của sản xuất về màu sắc, kích cỡ, trọng lượng, cách thức lắp ráp. Tùy theo mức độ hư hỏng mà sản phẩm hỏng có thể được chia làm 2 loại: * Sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được: Là những sản phẩm hỏng mà về mặt kỹ thuật có thể sửa chữa được và việc sửa chữa đó có lợi về mặt kinh tế. * Sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được: Là những sản phẩm mà về mặt kỹ thuật không thể sửa chữađược hoặc có thể sửa chữa nhưng không có lợi về mặt kinh tế. Tuy nhiên, trong quan hệ với công tác kế hoạch, cả 2 loại sản phẩm nói trên lại được chi tiết thành sản phẩm hỏng trong định mức và sản phẩm hỏng ngoài định mức: * Sản phẩm hỏng trong định mức là những sản phẩm mà doanh nghiệp dự kiến sẽ xảy ra trong quá trình sản xuất sản phẩm. Đây là những sản phẩm được xem là khó tránh khỏi trong quá trính sản xuất nên phần chi phí cho những sản phẩm này được coi là chi phí sản xuất chính phẩm. * Sản phẩm hỏng ngoài định mức là những sản phẩm nằm ngoài dự kiến của nhà sản xuất do các nguyên nhân bất thường như máy hỏng, hoả hoạn … Do bất chợt xảy ra, không được chấp nhận nên chi phí của chúng không được cộng vào chi phí sản xuất chính phẩm mà được xem là khoản phí tổn bất thường, phải trừ vào thu nhập. 5.1.2. Phương pháp hạch toán Sản phẩm hỏng trong định mức : Khoản thiệt hại này bao gồm giá trị sản phẩm hỏng không sửa chữa được và phần chi phí sửa chữa sản phẩm tái chể trừ đi giá trị thu hồi (nếu có). Toàn bộ phần thiệt hại này tính vào chi phí sản xuất sản phẩm và được hạch toán như đối với chính phẩm. Sản phẩm hỏng ngoài định mức: Khoản thiệt hại của những sản phẩm này được kế toán theo dõi riêng. Đồng thời xem xét từng nguyên nhân gây ra sản phẩm hỏng để có biện pháp xử lý. Toàn bộ giá trị thiệt hại có thể theo dõi trên một số tài khoản 1381, 154, 627, 1421…sau khi trừ đi phế liệu thu hồi và bồi thường (nếu có) số thiệt hại thực sẽ được tính vào chi phí khác. - Tập hợp các khoản thiệt hại Nợ TK 1381 – Thiệt hại về sản phẩm hỏng ngoài định mức Có TK154, 155, 632 – Sản phẩm hỏng không thể sửa chữa Có TK 152, 334, 338, 214… - Xử lý sản phẩm hỏng ngoài định mức Nợ TK 152, 1388, 334, 111… Nợ TK 811, 415… Có TK 1381 – Thiệt hại về sản phẩm hỏng ngoài định mức 5.2. Thiệt hại về ngừng sản xuất Trong thời gian ngừng sản xuất vì những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan (thiên tai, địch hoạ, thiếu nguyên vật liệu…), các doanh nghiệp vẫn phải bỏ ra một số khoản chi phí để duy trì hoạt động như tiền công lao động, khấu hao TSCĐ, chi phí bảo dưỡng…Những khoản chi phí chi ra trong thời gian này được coi là khoản thiệt hại về ngừng sản xuất. Với những khoản chi phí về ngừng sản xuất theo kế hoạch dự kiến, kế toán theo dõi ở TK 335 – chi phí phải trả. Trường hợp ngừng sản xuất bất thường, các chi phí bỏ ra trong thời gian này do không được chấp nhận nên được theo dõi trên một số các tài khoản như 154, 627, 1421, 1381. Cuối kỳ, sau khi trừ phần thu hồi, giá trị thiệt hại thực tế sẽ trừ vào thu nhập như khoản chi phí thời kỳ. III. Tổng hợp chi phí sản xuất và xác định giá trị sản phẩm dở dang 1. Tổng hợp chi phí sản xuất 1.1. Theo phương pháp kê khai thường xuyên 1.1.1.Tài khoản sử dụng Sau khi đã hạch toán và phân bổ các loại CPSX các chi phí đó phải được tổng hợp lại để tính GTSP. Tài khoản được kế toán sử dụng để tổng hợp CPSX là TK 154 – Chi phí sản xuất – kinh doanh dở dang. TK 154 được mở chi tiết cho từng ngành sản xuất, từng nơi phát sinh chi phí, từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm… của các bộ phận sản xuất – kinh doanh chính, phụ (kể cả thuê ngoài gia công chế biến). Nội dung của tài khoản: Bên nợ: Tập hợp chi phí sản xuất trong kỳ Bên có: - Các khoản ghi giảm chi phí - Tổng giá thành thực tế hay chi phí thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành. Dư nợ: Chi phí thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành. 1.1.2. Phương pháp hạch toán - Cuối kỳ, kết chuyển chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung, chi tiết theo từng đối tượng sử dụng, kế toán ghi: Nợ TK 154 – Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang Có TK 621, 622, 627 - Giá trị ghi giảm chi phí + Phế liệu thu hồi (nếu chưa ghi giảm trên TK 621, 627) Nợ TK 152 – Chi tiêt phế liệu Có TK 154 – Chi tiết sản phẩm, lao vụ, dịch vụ +Giá trị sản phẩm hỏng không sửa chữa được Nợ TK1381 – Giá trị thiếu chờ sử lý Có TK 154 – Chi tiết từng loại sản phẩm +Giá trị vật liệu thiếu hụt bất thường trong sản xuất. Nợ TK 138, 334, 811 Có TK 154 – Chi tiết sản phẩm + Vật liệu xuất dùng không hết nhập kho (nếu chưa phản ánh ở TK 621) Nợ TK 152 – Giá trị NVL Có TK 154 – Chi tiết sản phẩm - Giá thành thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành. Nợ TK 155 – Nhập kho thành phẩm Nợ TK 157 – Gửi bán Nợ TK 632 – Tiêu thụ ngay Có TK 154 – Chi tiết sản phẩm, lao vụ, dịch vụ Đối với giá trị sản phẩm, lao vụ của sản xuất – kinh doanh phục vụ cho các đối tượng ghi: Nợ TK 627 – Phục vụ cho SX sản phẩm và các nhu cầu khác ở PX Nợ TK 641, 642 – Phục vụ cho bán hàng cho quản lý doanh nghiệp Nợ TK 152, 153, 155 – Nhập kho vật tư, thành phẩm Nợ TK 632 – Tiêu thụ trực tiếp ra ngoài Có TK 154 – Chi tiết hoạt động sản xuất – kinh doanh 1.2. Hạch toán theo phương pháp kiểm kê định kỳ 1.2.1. Tài khoản sử dụng Để phục vụ cho việc tổng hợp chi phí sản xuất và tình giá thành sản phẩm, kế toán sử dụng tài khoản 631 – Giá thành sản xuất. Tài khoản này được hạch toán chi tiết theo địa điểm phát sinh chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất …) và theo loại, nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm… của cả bộ phận sản xuất – kinh doanh chính, phụ, chi phí thuê ngoài gia công chế biến. Được hạch toán vào TK 631 bao gồm 3 loại chi phí sau: + Chi phí NVL trực tiếp + Chi phí nhân công trực tiếp + Chi phí sản xuất chung Nội dung phản ánh của tài khoản 631 Bên nợ: Phản ánh trị giá sản phẩm dở dang đầu kỳ và các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ liên quan tới chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ Bên có: - Kết chuyển giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ vào TK 154 - Tổng giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành Tài khoản 631 không có số dư cuối kỳ. 1.2.2.Phương pháp hạch toán - Đầu kỳ kết chuyển giá trị sản phảm dở dang Nợ TK 631 – Giá thành sản xuất Có TK 154 – Chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang - Cuối kỳ kết chuyển chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ theo từng loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ. Nợ TK 631 – Giá thành sản xuất Có TK 621, 622, 627 - Căn cứ vào kết quả kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang, ghi bút toán: Nợ TK 154 – Chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang Có TK 631 – Giá thành sản xuất Tổng giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành Nợ TK 632 – Giá vốn hàng bán Có TK 631 – Giá thành sản xuất 2. Kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm, doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang. Tuỳ theo đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ và tính chất của sản phẩm mà doanh nghiệp áp dụng một trong các phương pháp sau để đánh giá sản phẩm dở dang. * Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương: Dựa vào mức độ hoàn thành và số lượng sản phẩm dở dang để quy đổi sản phẩm dở dang thành sản phẩm hoàn thành. Tiêu chuẩn quy đổi thường dựa vào ngày công hoặc tiền lương định mức. Để bảo đảm tính chính xác của việc đánh giá, phương pháp này chỉ nên áp dụng để tính các chi phí chế biến, còn các chi phí NVL chính phải xác định theo số thực tế đã dùng. Xác địnhgiá trị sản phẩm dở dang theo 50% chi phí chế biến: Để đơn giản cho việc tính toán, đối với những loại sản phẩm mà chi phí chế biến chiếm tỷ trọng thấp trong tổng chi phí, kế toán thường sử dụng phương pháp này. Thực chất đây là một dạng của phương pháp ước tính theo sản lượng tương đương. Trong đó giả định sản phẩm dở dang đã hoàn thành ở mức độ 50% so với thành phẩm. Giá trị sản phẩm dở dang = Giá trị NVL chính nằm trong sản phẩm dở dang + 50% chi phí chế biến * Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí NVL trực tiếp hoặc theo chi phí NVL chính: Theo phương pháp này, trong giá trị sản phẩm dở dang chỉ bao gồm chi phí NVL trực tiếp hoặc chi phí vật liệu chính mà không tính đến các chi phí khác. *Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí định mức hoặc kế hoạch: Căn cứ vào định mức tiêu hao hoặc định mức kế hoạch cho các khâu, các bước công việc trong quá trình chế tạo sản phẩm để xác định giá trị sản phẩm dở dang. Ngoài ra, trên thực tế người ta còn áp dụng các phương pháp khác để xác định giá trị sản phẩm dở dang như phương pháp thống kê kinh nghiệm, phương pháp tính theo chi phí NVL chính và vật liệu phụ nằm trong sản phẩm dở dang. IV. Tính giá thành sản phẩm 1. Đối tượng tính giá thành Đối tượng tính giá thành là các sản phẩm, bán sản phẩm, công vụ, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành đơn vị. Đối tượng này có thể là sản phẩm cuối cùng của quy trình sản xuất hay đang trên dây chuyền sản xuất tuỳ theo yêu cầu của hạch toán kinh tế nội bộ và tiêu thụ sản phẩm. Những sản phẩm, công vụ, lao vụ nhất định đã hoàn thành đáp ứng nhu cầu của xã hội được gọi chung là thành phẩm và đều là thành phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Trong mối quan hệ giữa đối tượng tính giá thành và đối tượng hạch toán chi phí sản xuất thì: - Về bản chất chúng đều là phạm vi, giới hạn tập hợp chi phí và cùng phục vụ cho việc quản lý, phân tích, kiểm tra CPSX và tính GTSP. - Về việc xác định đối tượng hạch toán CPSX là căn cứ để kế toán tổ chức ghi sổ chi tiết, sổ tổng hợp, phân bổ chi phí sản xuất hợp lý và là cơ sở cho việc tính giá thành còn việc xác đối tượng tính giá thành lại là căn cứ để tập hợp chi phí đã bỏ ra để hoàn thành các đối tượng tính giá thành. - Đối tượng tiánh giá thành và đối tượng hạch toán chi phí sản xuất không phải là một: + Một đối tượng tính giá thành có thể liên quan đến nhiều đối tượng tính giá thành và một đối tượng hạch toán CPSX cũng có thể liên quan đến nhiều đối tượng tính giá thành. + Có trường hợp đối tượng hạch toán CPSX tương ứng hoàn toàn với đối tượng tính giá thành (ví dụ trường hợp doanh nghiệp có quy trình công nghệ đơn giản và sản xuất một loại sản phẩm). 2. Kỳ tính giá thành Là khoảng thời gian kể từ khi kế toán mở sổ CPSX đến thời điểm khoá sổ CPSX liên quan đến đối tượng tính giá thành để xác định GTSP. Kỳ tính giá thành được xác định tuỳ thuộc vào quy trình công nghệ cũng như chu kỳ sản xuất ra sản phẩm đó. Trong những doanh nghiệp sản xuất với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm hoàn thành nhập kho như doanh nghiệp may mặc, cao su, nhuộm,…thì kỳ tính giá thành thích hợp là hàng tháng và thời điểm cuối tháng. Đối với các xí nghiệp sản xuất đơn chiếc hoặc hàng loạt, chu kỳ sản xuất dài, sản phẩm hoàn thành khi kết thúc chu kỳ sản xuất như sản xuất theo đơn đặt hàng hoặc những doanh nghiệp xây dựng công trình, thì kỳ tính giá thành thích hợp là khi sản phẩm đã hoàn thành và khi đó kỳ tính giá thành phù hợp với chu kỳ sản xuất nhưng không phù hợp với chu kỳ báo cáo. Xác định kỳ tính giá thành cho từng đối tượng tính giá thành thích hợp sẽ giúp cho tổ chức công việc tính giá thành được khoa học, hợp lý hơn. Đảm bảo cung cấp thông tin về giá thành thực tế kịp thời, trung thực, phát huy được vai trò kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm của kế toán 3. Phương pháp hạch toán Phương pháp tính GTSP là một phương pháp hoặc hệ thống phương pháp được sử dụng để tính giá thành của đơn vị sản phẩm, nó mang tính chất thuần tuý kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Về cơ bản: Phương pháp tính giá thành bao gồm phương pháp trực tiếp, phương pháp tổng cộng chi phí, phương pháp tỷ lệ…Việc tính giá thành trong từng doanh nghiệp cụ thể tuỳ thuộc vào đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành mà có thể áp dụng một trong các phương pháp trên hoặc kết hợp các phương pháp đó với nhau. 3.1. Phương pháp trực tiếp (phương pháp giản đơn) Phương pháp này áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, chu kỳ sản xuất ngắn như nhà máy điện, nước, các doanh nghiệp khai thác than, quặng… Theo phương pháp này GTSP được tính như sau: Tổng giá thành sản phẩm = Giá trị SPDD Đ. Kỳ + Tổng chi phí phát sinh trong kỳ - Giá trị SPDD cuối kỳ 3.2. Phương pháp tổng cộng chi phí Phương pháp này áp dụng với các doanh nghiệp mà quá trình sản phẩm được thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ như doanh nghiệp dệt nhuộm, cơ khí, chế tạo máy… GTSP bằng tổng cộng chi phí giá thành của các giai đoạn công nghệ… 3.3.Phương pháp hệ số Phương pháp này được áp dụng trong những doanh nghiệp mà trong cùng một quy trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên vật liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm mà phải tập hợp chung cho cả quá trình sản xuất. Trình tự tính GTSP như sau: Quy đổi các sản phẩm khác nhau về sản phẩm gốc Tổng số lượng sản phẩm gốc = S Số lượng sản phẩm từng loại x Hệ số quy đổi của từng loại sản phẩm Xác định tổng giá thành các loậi sản phẩm Tổng giá thành sản xuất của các loại SP = Giá trị SPDD Đ. kỳ + Tổng chi phí phát sinh T. kỳ - Giá trị SPDD C.kỳ Xác định giá thành đơn vị sản phẩm gốc Giá thành đơn vị sản phẩm từng loại = Tổng giá thánh các loại sản phẩm Tổng số lượng sản phẩm gốc Xác định giá thành sản phẩm từng loại Giá thành đơn vị từng loại = Giá thành đơn vị sản phẩm gốc x Hệ số quy đổi sản phẩm từng loại 3.4. Phương pháp tỷ lệ Phương pháp này áp dụng với các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách, phẩm chất khác nhau như may mặc, dệt kim, đòng giầy …để giảm bớt khối lượng hạch toán, kế toán tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ lệ chi phí giữa CPSX thực tế với CPSX kế hoạch (định mức), kế toán tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị. Trình tự tính giá thành theo phương pháp này như sau: Trước hết căn cứ vào kết quả sản xuất hoàn thành cuối kỳ trước để tính giá thành kế hoạch Tổng giá thành Kế hoạch = S Số lượng sản phẩm hoàn thành x Giá thành kế hoạch đơn vị từng loại sản phẩm Cuối kỳ, kế toán xác định tổng chi phí thực tế Tổng giá thành thực tế các loại SP = Chi phí sản xuất DD Đ. kỳ + Tổng chi phí phát sinh T.kỳ - Chi phí sản xuất DD C.kỳ Từ đó so sánh để tính tỷ lệ giữa giá thành thực tế và giá thành kế hoạch Tỷ lệ Giá thành = Tổng giá thành thực tế các loại sản phẩm x 100% Tổng giá thành thực tế các loại sản phẩm Dựa vào tỷ lệ giá thành để tình giá thành thực tế của từng loại sản phẩm Tổng giá thành thực tế của từng loại sản phẩm = Giá thành kế hoạch của từng loại sản phẩm X Tỷ lệ giá thành Giá thành đơn vị thực tế của từng loại sản phẩm = Tổng giá thành thực tế của từng loại sản phẩm Tổng số lượng sản phẩm hoàn thành 3.5. Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ Phương pháp này áp dụng với các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trìng sản xuất, bên cạnh các sản phẩm chính thu được còn có thể thu được các sản phẩm phụ như các doanh nghiệp chế biến đường, rượu,…. để tính giá trị sản phẩm chính, kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ khỏi tổng CPSX. Giá trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo nhiều phương pháp khác nhau như phương pháp giá có thể sử dụng, phương pháp giá trị ước tính, giá kế hoạch,… Tổng GTSP chính = GTSP chính DD Đ. kỳ + Tổng CPSX PS T . kỳ - GTSP phụ thu hồi - GTSP chính DD C. kỳ 3.6. Phương pháp liên hợp Phương pháp này áp dụng với các doanh nghiệp có tính chất sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các doanh nghiệp sản xuất hoá chất, dệt kim, đóng giầy,…Trên thực tế, kế toán có thể kết hợp phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ, hệ số với loại trừ sản phẩm phụ. V. Hệ thống sổ sách . Sổ sách là một phương tiện vận chuyển cơ bản, cần thiết để người làm kế toán ghi chép, phản ánh một cách có hệ thống các thông tin kế toán theo thời gian cũng như theo đối tượng. Mặt khác việc hạch toán CPSX và tính GTSP bao gồm nhiều công việc phức tạp. Vì vậy, đơn vị hạch toán cần phải sử dụng nhiều loại sổ sách khác nhau kể cả về kết cấu, nội dung, phương pháp ghi chép .. tạo thành một hệ thống sổ kế toán. Hệ thống sổ sử dụng gồm có: sổ chi tiết và sổ tổng hợp 1.Sổ chi tiết Xây dựng sổ chi tiết các loại chi phí sản xuất và phục vụ cho việc tính giá thành bao gồm các sổ chi tiết cho các TK: TK 621 – chi phí NVL trực tiếp TK 622 – chi phí nhân công trực tiếp TK 627 – Chi phi sản xuất chung TK 154 – Chi phí sản xuất – kinh doanh dở dang TK 631 – Giá thành sản phẩm hoàn thành Các sổ này được chi tiết cho từng đối tượng hạch toán, có thể chi tiết theo từng phân xưởng, từng dây chuyền công nghệ sản phẩm hoặc chi tiết sản phẩm. Kết cấu và phương pháp ghi chép các loại sổ này phẩi đảm bảo: + Phù hợp với chế độ hiện hành + Phù hợp với đặc điểm riêng của đơn vị Lập bảng tổng hợp chi tiết sản xuất sản phẩm, tổng hợp về CPSX đã ghi trên các sổ chi tiết về chi phí sản xuất. Lập thẻ tính giá thành sản phẩm theo phương pháp đã lựa chọn Ngoài ra, đơn vị có thể mở các loại sổ chi tiết khác cho phù hợp với yêu cầu quản lý và hạch toán CPSX và tính giá thành sản xuất của đơn vị mình. 2. Hệ thống sổ tổng hợp Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp khác nhau mà có các loại sổ tổng hợp khác nhau 2.1. Hình thức sổ Nhật ký – Sổ cái Các sổ sách sử dụng: Sổ chi tiết các tài khoản: 621, 622, 623, 627, 154. Nhật ký Sổ cái các tài khoản: 621, 622, 623, 627, 154. 2.2. Hình thức nhật ký chung Các sổ sách sử dụng Nhật ký chung Sổ chi tiết các TK 621, 622, 627 Sổ cái các TK 621, 622, 627 2.3. Hình thức chứng từ ghi sổ Khái niệm: + Chứng từ ghi sổ là hình thức sổ kế toán tổng hợp theo kết cấu hai bên Nợ, Có của nghiệp vụ kinh tế phát sinh. + Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ là sổ dùng để ghi chép các nghiệp vụ kinh tề phát sinh theo trình tự thời gian. Sổ này vừa dùng để đăng ký các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo thời gian, quản lý chứng từ, vừa dùng để kiểm tra đối chiếu số lượng với bảng cân đối số phát sinh. Điều kiện vận dụng: Trong điều kiện kế toán thủ công thì Chứng từ ghi sổ chỉ phù hợp với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa loại hình kinh doanh đơn giản, có nhu cầu phân công lao động kế toán. Trong điều kiện kế toán máy thì chứng từ ghi sổ phù hợp với mọi loại hình doanh nghiệp. Ưu điểm: Rõ ràng, dễ hiểu, dễ phát hiện sai sót để điều chỉnh Nhược điểm: Việc ghi chép còn trùng lặp, khối lượng ghi chép còn nhiều, việc đối chiếu, kiểm tra số liệu dồn vào cuối tháng nên không đảm bảo tính kịp thời của thông tin kế toán Chứng từ gốc về chi phí hoặc các bảng phân bổ Sổ chi phí SXKD C. Từ ghi sổ Sổ đăng ký CTGS Sổ cái TK 621, 622, 627, 154 Báo cáo tài chính Bảng cân đối số PS Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng Đối chiếu, kiểm tra Sơ đồ trình tự ghi sổ theo hình thức Chứng từ ghi sổ 2.4. Hình thức Nhật ký- Chứng từ Các sổ sách sử dụng: Bảng kê số 4, 5, 6. Thẻ tính giá thành. Nhật ký chứng từ số 7. Sổ cái các tài khoản: 621, 622, 623, 627, 154. Phần II Thực trạng công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Chi nhánh Cao su Sao Vàng Thái Bình I. Khái quát chung về Chi nhánh Cao su Sao Vàng Thái Bình 1. Lịch sử hình thành và phát triển, chức năng , nhiệm vụ 1.1. Công ty Cao su Sao Vàng (CSSV) Công ty CSSV (tiền thân là nhà máy CSSV) được xây dựng ngày 22/12/1958 tại khu Công Nghiệp Thượng Đình do Nhà nước Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa giúp đỡ. Sau gần 2 năm kể từ ngày thi công, ngày 22/05/1960, nhà máy chính thức hoàn thành. Những ngày mới thành lập Nhà máy CSSV chỉ có 262 cán bộ công nhân viên và sản xuất một số sản phẩm như: Săm, lốp, xe đạp, dây cua roa, ống sát gạo, phao công binh. Ngày 03/05/1993 theo QĐ215-QĐ/TCNSDT của Bộ Công nghiệp nặng, nhà máy CSSV được đổi tên thành Công ty Cao su Sao Vàng. Tháng 3/1994 theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, xí nghiệp CSSV được sáp nhập vào Công ty CSSV. Tháng 8/1995, Nhà máy pin Xuân Hoà được sát nhập vào công ty. Công ty còn liên doanh với hãng INOUSE- Nhật Bản, thành lập công ty liên doanh cao su INOUSE - VN chuyên sản xuất săm, lốp xe máy, xe đạp và các sản phẩm cao su kỹ thuật cao đã chính thức đi vào sản xuất tháng 04/1998. Ngày nay, Công ty CSSV đã trở nên ngày càng lớn mạnh về mọi mặt, số lượng cán bộ công nhân viên lên tới 2850 người. Sản phẩm của Công ty đã được tặng nhiều huy chương vàng tại hội chợ quốc tế hàng công nghiệp và hội chợ thương mại Quốc tế. Trong 4 năm liên tiếp 1995, 1996, 1997, 1998 thông qua cuộc bình chọn " 10 sản phẩm trong nước được người tiêu dùng ưa chuộng nhất" Săm, lốp Sao vàng luôn được đạt danh hiệu "TOP TEN 95", "TOP TEN 96", "TOP TEN 97", "TOP TEN 98" - mặt hàng chất lượng cao được người tiêu dùng ưa thích. Hai năm liền 1996, 1997 được Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường tặng "Giải Bạc - Giải thưởng chất lượng Việt Nam". Với quy mô lớn cùng với những thành tích đạt được, đến nay Công ty chủ yếu sản xuất các loại sản phẩm chính sau: Săm, lốp xe đạp, xe máy, ô tô, xe thồ, máy nông nghiệp,... Các loại jont sản phẩm cao su kỹ thuật. Các loại pin nhãn hiệu "Con Sóc". Để đạt được một loạt sản phẩm như trên, hàng năm, Công ty cần phải có một khối lượng nguyên vật liệu rất lớn. Cụ thể: Cao su thiên nhiên sản xuất trong nước, cao su tổng hợp ngoại nhập, tanh các loại nhập ngoại,… Công ty coi chất lượng sản phẩm quyết định chất lượng cuộc sống của mọi thành viên trong cộng đồng CSSV. 1.2. Chi nhánh Cao su Thái Bình Chi nhánh Cao su Thái Bình trước đây là một phân xưởng của nhà máy Cơ khí Thái Bình. Năm 1987 được tách ra thành Xí nghiệp Cao su Thái Bình. Năm 1994 theo QĐ của Thủ tướng Chính phủ, Xí nghiệp Cao su Thái Bình được sát nhập vào Công ty CSSV hình thành nên Chi nhánh Công ty CSSV Thái Bình (được gọi là Chi nhánh Cao su Thái Bình). Công ty CSSV Chi nhánh Thái Bình chuyên sản xuất Săm, Lốp xe đạp các loại và được đặt ở xã Tiền Phong- Thị xã Thái Bình . Đó là một vị trí thuận lợi cho giao thông phát triển, rất thuận lợi cho quá trình lưu thông và vận chuyển hàng hoá đến các đại lý tiêu thụ của Chi nhánh trong và ngoài tỉnh. Để phù hợp với cơ cấu tổ chức và đảm bảo hiệu quả kinh tế cao, Chi nhánh Cao su Thái Bình đã có bộ máy quản lý thích hợp thống nhất trong toàn Chi nhánh và được sự đồng ý của Công ty CSSV. Toàn Chi nhánh Cao su Thái Bình có 456 cán bộ, công nhân viên trong số đó có hơn 330 công nhân trực tiếp sản xuất, quản lý là 18 người, còn lại là khối phụ trợ. Chi nhánh Cao su Thái Bình đã phấn đấu mở rộng sản xuất, bố trí đủ việc làm cho cán bộ công nhân viên, đồng thời giữ vững thu nhập năm sau cao hơn năm trước. Đây là nền tảng cho sự phát triển và ổn định. Chi nhánh Cao su Thái Bình đã giải quyết tốt vấn đề này bằng nhiều biện pháp lớn như: Tăng cường khai thác thị trường, chuyển đổi cơ cấu, mẫu mã mặt hàng, đầu tư thêm máy móc thiết bị hiện đại để tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Chi nhánh Cao su Thái Bình rất coi trọng kỷ cương nề nếp công nghiệp và công bằng xã hội, đây là vấn đề cơ bản để Chi nhánh phát triển. Bên cạnh đó, Chi nhánh cũng tăng cường kiểm tra chất lượng sản phẩm bảo vệ uy tín hàng hoá cho doanh nghiệp trước nạn hàng giả kém phẩm ch._. tác hoá để cung cấp các thông tin hữu ích cho quản lý, giúp quản lý đưa ra được các quyết định kinh doanh phù hợp. 2.1.3. Về công tác hạch toán Về hình thức ghi sổ kế toán Chi nhánh Cao su Sao Vàng Thái Bình đã áp dụng ghi sổ theo hình thức "Chứng từ ghi sổ", xây dựng hệ thống sổ sách theo đúng chế độ với cách ghi chép rõ ràng, thuận tiện cho việc đối chiếu theo dõi. Cùng với hệ thống chứng từ, sổ sách tương đối đầy đủ so với quy định chế độ kế toán hiện hành của Bộ tài chính, đồng thời phù hợp với đặc điểm riêng của Chi nhánh. Hệ thống chứng từ này được tổ chức luân chuyển khoa học, chặt chẽ, đáp ứng được các nhu cầu cung cấp thông tin cho công tác quản lý. Qua đó tăng cường hiệu quả làm việc, lập báo cáo tài chính được chính xác, hợp lý. Các số liệu, thông tin đáp ứng đúng nhu cầu, kịp thời cho công tác quản lý. Về phương pháp hạch toán Phương pháp hạch toán của Chi nhánh Cao su Sao Vàng Thái Bình nhìn chung theo đúng chế độ kế toán ban hành, các số liệu kế toán được luân chuyển qua các chứng từ sổ sách rõ ràng và chính xác. Do đó, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra của lãnh đạo Chi nhánh cũng như việc giải trình với các cơ quan nhà nước khi có yêu cầu (cơ quan thuế, kiểm toán,…). Chi nhánh áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên để tập hợp chi phí sản xuất là thích hợp, phản ánh kịp thời các khoản chi phí phát sinh thường xuyên liên tục, đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Chi nhánh. Về việc xây dựng định mức chi phí: Căn cứ vào định mức kinh tế kỹ thuật Chi nhánh đã xây dựng hệ thống đơn giá kế hoạch, định mức chi phí cho từng loại sản phẩm khá đầy đủ. Chi nhánh đã có những biện pháp đúng đắn trong việc lập định mức nguyên vật liệu, giao định mức cho các phân xưởng sản xuất (phân xưởng Săm, phân xưởng Lốp), quản lý chặt chẽ khâu xuất vật tư, đã nâng cao được trách nhiệm quản lý cho các phân xưởng. Việc xây dựng định mức nguyên vật liệu tương đối hợp lý góp phần giảm đáng kể về chi phí sản xuất, đặc biệt là chi phí nguyên vật liệu. Các chi phí sản xuất phát sinh được kế toán phần hành theo dõi và tập hợp một cách chính xác và đầy đủ Hiện nay Chi nhánh đang sử dụng hệ thống định mức này làm tiêu thức phân bổ những chi phí tập hợp chung cho nhóm sản phẩm và cho các phân xưởng. Đồng thời, nó còn là cơ sở để Chi nhánh đánh giá, kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm, nhanh chóng phát hiện nguyên nhân tăng giảm giá thành để có các biện pháp điều chỉnh kịp thời. Hệ thống này còn là cơ sở để Chi nhánh xác định giá bán sản phẩm hoàn thành tiêu thụ trước khi nhận được các hoá đơn do bên ngoài cung cấp như tiền điện, tiền nước... Về phương pháp tính giá thành Phương pháp tính giá thành của Chi nhánh đơn giản và rõ ràng, khoản mục chi phí được mở theo yêu cầu của ngành, do đó cho phép tập hợp chi phí một cách chính xác, đầy đủ. Nhìn chung, công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Chi nhánh Cao su Sao Vàng Thái Bình được tổ chức tương đối chặt chẽ, kịp thời, chi phí phát sinh tháng nào được tập hợp ngay vào tháng đó. Kế toán đã đánh giá đúng mức tầm quan trọng ccủa CPSX và GTSP , từ đó mà việc tổ chức hạch toán CPSX và tính GTSP được tiến hành đều đận hanhgf tháng và sát với thực tế . Việc xác định đối tượng tính giá thành theo từng loại sản phẩm theo từng phân xưởng là hoàn toàn phù hợp với đối tượng hạch toán CPSX. điều này làm giảm nhẹ khối lượng công việc tính GTSP mà vẫn đảm bảo tính chính xác, đầy đủ của thông tin. 2.2. Nhược điểm Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên, Chi nhánh vẫn còn một số nhược điểm trong công tác kế toán cần được khắc phục và bổ sung nhằm thực hiện đúng chính sách, chế độ của Nhà nước, vừa để đảm bảo tính chất hợp lý của các khoản chi phí phát sinh. 2.2.1.Về sổ sách sử dụng Tuy rằng đã thực hiện ghi chép vào sổ sách theo đúng chế độ quy định. Nhưng trong hệ thống số sách vẫn thiếu bộ “ Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ". Đây là quyển sổ tổng hợp dùng để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo trình tự thời gian. Sổ này vừa dùng để đăng ký các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, quản lý chứng từ, vừa dùng để kiểm tra đối chiếu số liệu với bảng cân đối số phát sinh. 2.2.2.Về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm - Về chi phí NVLTT trực tiếp Chi phí BTP nằm trong chi phí NVL trực tiếp. Để sản xuất bán thành phẩm phục vụ cho giai đoạn chế biến tiếp theo của quá trình sản xuất và cung cấp dịch vụ ra bên ngoài Chi nhánh phải bỏ ra chi phí NVL chính, NVL phụ, chi phí nhân công, chi phí sản xuất chung, chi phí khấu hao... Song để đơn giản Chi nhánh chỉ tính vào chi phí BTP chi phí NVL chính. Điều này đã làm ảnh hưởng đến giá thành BTP không phản ánh chính xác. Nếu bán ra bên ngoài sẽ khó xác định được gía bán thực tế. - Về chi phí sản xuất chung Tại Chi nhánh Cao Su Sao Vàng Thái Bình, ngoài 2 phân xưởng sản xuất chính còn có các tổ sản xuất phụ trợ phục vụ cho các phân xưởng sản xuất chính. Ngoài ra các tổ này còn cung cấp sản phẩm, lao vụ, dịch vụ ra bên ngoài và phục vụ lẫn nhau. Để sản xuất các sản phẩm này các tổ cũng phải bỏ ra các chi phí về NVLTT trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung như các phân xưởng sản xuất chính. Song để đơn giản, Chi nhánh đã theo dõi các khoản chi phí này trên cùng một tài khoỉan 627 - Chi phí sản xuất chung chi tiết cho từng tổ mà không hạch toán theo khoản mục chi phí. Việc hạch toán như thế này làm cho việc quản lý chi phí ở các tổ phụ không chặt chẽ, nhà quản trị rất khó kiểm soát, phát hiện những nguyên nhân tăng giảm chi phí để có các biện pháp sử lý kịp thời. 2.2.3. Hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất Theo như phần I – cơ sở lý luận chung đã trình bày, mọi khoản thiệt hại trong sản xuất phải được theo dõi chặt chẽ về nơi phát sinh cũng như nguyên nhân dẫn đến các khoản thiệt hại này để quy kết trách nhiệm và có biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh. Thực tế tại Chi nhánh, phòng kế toán không theo dõi những khoản thiệt hại này mà được theo dõi riêng tại các phân xưởng sản xuất, nơi trực tiếp phát sinh các khoản thiệt hại về sản phẩm hỏng. Do đó không tính được những khoản thiệt hại này vào giá thành sản phẩm. Tại Chi nhánh không phân biệt sản phẩm hỏng trong định mức và sản phẩm hỏng ngoài định mức. Tại các phân xưởng sản xuất chính có theo dõi sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được và cuối kỳ coi đó là sản phẩm dở dang để kỳ sau sửa chữa. Các sản phẩm hỏng nhiều được coi là phế liệu. Như vậy, toàn bộ giá thành sản phẩm hỏng không sửa chữa được đều hạch toán vào CPSX và được chuyển vào tổng giá thành sản phẩm. Hạch toán sản phẩm như vậy làm cho giá thành hàng tồn kho cao, ảnh hưởng đến nhiều kỳ sản xuất kinh doanh của Chi nhánh và là một vấn đề không hợp lý trong việc phấn đấu hạ giá thành sản phẩm. 2.2.4. Hạch toán chi phí trả trước và chi phí phải trả - Đối với chi phí trả trước – TK 142 TK này dùng để phân bổ dần chi phí thực tế liên quan đến nhiều kỳ đã phát sinh vào chi phí sản xuất – kinh doanh trong kỳ, hạn chế sự biến động mạnh của giá thành sản phẩm. Hiện nay, Chi nhánh chỉ sử dụng tài khoản này để phân bổ dần những công cụ dụng cụ mua ngoài có giá trị lớn vào chi phí sản xuất kinh doanh. Còn những công cụ dụng cụ có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài do các tổ phụ trợ cung cấp thì không thực hiện phân bổ dần vào chi phí sản xuất kinh doanh làm cho giá thành sản phẩm tăng mạnh, hạch toán lãi, lỗ cuối kỳ thiếu chính xác. - Đối với chi phí phải trả - TK 335 TK này dùng để trích trước theo kế hoạch các khoản chi phí lớn thực tế phát sinh nhằm tạo nguồn bù đắp chi phí khi nó thực tế phát sinh, bảo đảm ổn định giá thành sản phẩm. Nhưng thực tế Chi nhánh đã không thực hiện trích trước chi phí sửa chữa lớn, lương nghỉ phép cho cán bộ công nhân viên. Chỉ khi nào có các khoản chi phí này thực tế phát sinh thì Chi nhánh mới chịu hạch toán vào chi phí sản xuất. Điều này làm cho giá thành sản phẩm tăng lên một cách đột biến. Ngoài ra, cách hạch toán này còn làm cho Chi nhánh bị động về nguồn bù đắp khi chi phí thực tế phát sinh. 2.2.5. Về phương pháp xác định sản phẩm dở dang Hiện nay, tại Chi nhánh, khi xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ chỉ bao gồm chi phí nguyên vật liệu chính trực tiếp mà không bao gồm chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung vì hai khoản chi phí này đã được tập hợp khi sản phẩm hoàn thành nhập kho. Tuy nhiên, việc đánh giá sản phẩm dở dang như trên là không hợp lý. Bởi trong giá trị sản phẩm dở dang, chi phí NVL chính trực tiếp đã kết tinh tất cả vào giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ nhưng các chi phí chế biến còn lại mới chỉ kết tinh một phần giá trị vào trong đó. Việc xác định như đang áp dụng làm cho giá trị sản phẩm dở dang không còn chính xác so với giá trị thực có. Vì vậy, dẫn đến việc tính GTSP trong kỳ bị sai lệch đáng kể. 3. Một số ý kiến, kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Chi nhánh Cao su Sao Vàng Thái Bình 3.1. Đối với Chi nhánh Có thể nói giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh và đo lường hiệu quả sản xuất của Chi nhánh. Đồng thời, chỉ tiêu giá thành còn giữ chức năng thông tin và kiểm tra chi phí, giúp cho nhà quản lý có cơ sở để ra các quyết định đúng đắn, kịp thời. Muốn tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm thì phải nâng cao chất lượng công tác kế toán. Để làm được điều đó thì phải quán triệt trên các phương diện sau: Thứ nhất: Về tổ chức công tác kế toán – phân công lao động kế toán: Để đảm bảo nguyên tắc bất kiêm nhiệm trong kế toán, bộ máy kế toán của Chi nhánh nên phân công một cách hợp lý hơn đối với các phần hành kế toán. Tránh để tình trạng kế toán lao động tiền lương kiêm kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm,…việc một kế toán kiêm nhiệm nhiều phần hành kế toán có thể làm mất tính khách quan của việc phản ánh chi phí sản xuất. Vì vậy, Chi nhánh có thể áp dụng phần mềm kế toán để giảm bớt khối lượng công việc kế toán. Thứ hai: Về tổ chức công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm: Để không xảy ra tình trạng đột biến về giá thành sản phẩm nếu tại một thời điểm nào đó phát sinh các khoản chi phí sửa chữa lớn TSCĐ, công nhân nghỉ phép qúa nhiều, số lượng sản phẩm sản xuất ít. Kế toán nên tính trước các khoản chi phí này (vào TK 335) * Đối với các khoản chi phí sửa chữa lớn TSCĐ Mức trích trước chi phí sửa chữa TSCĐ = GTCL x Tỷ lệ trích trước * Đối với lương nghỉ phép: Căn cứ để tính lương nghỉ phép là tiền lương cơ bản và số người được nghỉ phép theo chế độ quy định một năm: Mức trích trước tiền lương nghỉ phép của CNSX = Tiền lương cơ bản của CNSX x Tỷ lệ trích trước Thứ ba: Về sổ sách kế toán: Chi nhánh ghi sổ theo hình thức: Chứng từ ghi sổ, nhưng trong hệ thống sổ sách sử dụng của Chi nhánh đã thiếu bộ sổ đăng ký chứng từ ghi sổ. Do vậy, để quản lý chứng từ ghi sổ, Chi nhánh nên lập Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ theo mẫu: Bộ (sổ)…… Đơn vị:…… sổ đăng ký chứng từ ghi sổ Năm…… Chứng từ ghi sổ Số tiền Số hiệu Ngày tháng (1) (2) (3) Cộng Ngày…..tháng…..năm….. Người ghi sổ Kế toán trưởng (ký, họ tên) (ký, họ tên) Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ là sổ kế toán tổng hợp dùng để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo trình tự thời gian. Sổ này vừa dùng để đăng ký các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, quản lý chứng từ ghi sổ, vừa để kiểm tra, đối chiếu số liệu với Bảng cân đối số phát sinh. Thứ tư: Về vấn đề hạ giá thành sản phẩm Chi nhánh Cao Su Sao Vàng Thái Bình là doanh nghiệp chuyên sản xuất các sản phẩm từ cao su phục vụ đời sống và trong công nghiệp. Như bất kỳ mọt doanh nghiệp sản xuất nào, chất lượng sản phẩm và việc hạ giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình là vấn đề được Chi nhánh đặc biệt quan tâm. Qua nghiên cứu và tìm hiểu thực tế, em thấy Chi nhánh có thể vận dụng một số các biện pháp tiết kiệm chi phí sản xuất sau đây: - Đối với các khoản chi phí nguyên vật liệu: Chi nhánh đề ra định mức tiêu hao hợp lý, triệt để giảm phế liệu, tăng cường một số biện pháp quản lý có thể tránh lãng phí về chi phí nguyên vật liệu, đặc biệt là nguyên vật liệu chính chiếm tỷ trọng rất lớn trong khoản mục chi phí nguyện vât liệu trực tiếp. Đồng thời, Chi nhánh không ngừng tìm nguồn cung cấp nguyên vật liệu với giá cả hợp lý đảm bảo chất lượng. Ngoài ra, cần giảm tối đa chi phí vận chuyển cũng như hao hụt để khoản chi phí nguyên vật liệu trong giá thành là nhỏ nhất. - Đối với các khoản chi phí nhân công sản xuất Trả lương là một trong những biện pháp quan trọng khuyến khích người lao động yên tâm sản xuất. Những sáng kiến cải tiến kỹ thuật cần được đặc biệt chú ý để người lao động phát huy hết khả năng của mình. Chế độ thưởng phạt nghiêm minh góp phần nâng cao cường độ và năng xuất lao động Tuy nhiên, quan tâm đến đời sống lao động đồng thời với việc phải tiết kiệm trong chi phí nhân công trả cho người lao động. Đối với tiền lương của công nhân sản xuất, phải xây dựng một định mức kinh tế kỹ thuật hợp lý, chính xác, đảm bảo tính đúng, tính đủ lao động mà người công nhân đã bỏ ra. Bởi vì tiền lương là đòn bẩy quan trọng tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm và là một trong những nguyên nhân chính nhằm hạ giá thành sản phẩm. - Đối với chi phí quản lý Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, doanh nghiệp nào cũng cần phải tinh giản tối đa bộ máy gián tiếp. Chi phí quản lý là khoản chi phí trả cho bộ phận không trực tiếp sản xuất nên việc giảm được càng nhiều càng tốt. Điều này đòi hỏi Chi nhánh phải nâng cao trình độ của bộ máy quản lý, nhất là quản lý trong các xưởng sản xuất, để có bộ máy quản lý được sắp xếp khoa học, làm việc hiệu quả. Khi tiết kiệm được khoản chi phí này sẽ làm giảm được nhiều khoản trích theo, góp phần làm giảm tổng chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. - Đối với chi phí khấu hao TSCĐ Ngày nay trong sản xuất, máy móc thiết bị là nhân tố quyết định đến chất lượng cũng như giá thành sản phẩm. Máy móc hiện đại góp phần làm cho sản phẩm tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Nhưng chi phí để tái đầu tư các loại máy móc này không phải là nhỏ. Vì vậy, Chi nhánh phải tính toán để cân đối giữa chi phí bỏ ra để mua sắm và các khoản trích khấu hao hàng tháng (chọn tỷ lệ trích cho phù hợp). Nếu trích chi phí khấu hao quá nhỏ có thể làm CPSX giảm nhiều song lại rất lâu mới có đủ kinh phí để tái đầu tư mua sắm máy móc thiết bị mới. Do đó, Chi nhánh tính trích một khoản khấu hao theo tỷ lệ phù hợp. Và để hạ giá thành sản phẩm, biện pháp hợp lý là tận dụng tối đa công suất máy móc thiết bị, nâng cao trình độ sử dụng và ý thức của công nhân trong việc bảo quản và vận hành. Thứ năm: Về các khoản thiệt hại trong sản xuất Trong việc phấn đấu hạ GTSP thì mọi khoản chi phí đều cần được tiết kiệm tối đa. Do đó, việc tính tất cả chi phí sản phẩm hỏng cũng như các khoản thiệt hại do ngừng sản xuất vào GTSP là một vấn đề chưa hợp lý. Chi nhánh không quy trách nhiệm bồi thường với những sản phẩm hỏng ngoài định mức mà thực tế theo như báo cáo số lượng sản phẩm hỏng cũng là một con số đáng kể. Điều này gây nên một vấn đề không chặt chẽ trong công tác quản lý. Vì những lý do này, trước hết phòng kế hoạch Chi nhánh nên quy định định mức sản phẩm hỏng để phù hợp với thực tế. Tại các phân xưởng sản xuất nên hạch toán riêng chi phí các sản phẩm hỏng, sau đó so sánh với định mức cho phép để biết được sự phù hợp. Các sản phẩm hỏng trong định mức được tính vào chi phí sản xuất chính phẩm để làm cơ sở tính giá thành, còn các sản phẩm hỏng ngoài định mức được xem xét rõ ràng để có căn cứ quy kết trách nhiệm. Việc hạch toán tương tự như chế độ kế toán quy định. Hàng tháng các phân xưởng gửi các báo cáo sản phẩm hỏng cùng giá trị phế liệu thu hồi để kế toán tiến hành đánh giá sản phẩm hỏng, tuỳ theo cách xử lý để xem có thể đưa vào tính trong giá thành hay không. Với các khoản thiệt hại về ngừng sản xuất tại các phân xưởng phải tiến hành lập biên bản xác định nguyên nhân, quy kết trách nhiệm và tìm biện pháp xử lý. Sau khi làm các biện pháp như trên, chi phí thiệt hại trong sản xuất cũng như giá trị các sản phẩm hỏng được xác định chính xác hơn. Thứ sáu: Về việc đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ: Theo như cách đánh giá hiện nay của Chi nhánh là chưa hợp lý. Vì vậy, Chi nhánh có thể dùng một phương pháp tính chi phí sản phẩm dở dang mà kết hợp được sự chính xác và không gây quá khó khăn cho công tác kế toán. Đó là dùng phương pháp tính theo mức độ sản phẩm hoàn thành tương đương. Chi nhánh có thể quy định thống nhất một tỷ lệ sản phẩm tương đương, sản phẩm dở dang (chọn là 70%). Để đánh giá được sản phẩm dở dang cuối kỳ, kế toán tính theo hai khoản chính là chi phí BTP và chi phí sản xuất giai đoạn sau. Chi phí sản xuất giai đoạn sau gồm: chi phí NVL chính và các chi phí khác như chi phí NVL phụ, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Với chi phí NVL chính tính bình thường, với các chi phí khác thì được xác định theo tỷ lệ hoàn thành: Chi phí khác cho SPDD C.kỳ = Chi phí khác phát sinh trong kỳ x Số SPDD C.kỳ đã quy đổi Số SP NK trong kỳ + Số SPDD C.kỳ đã quy đổi Thứ bảy: Về công tác phân tích chi phí và giá thành sản phẩm Chi phí và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu quan trọng trong mỗi doanh nghiệp sản xuất. Mỗi sự thay đổi của hai chỉ tiêu này đều tác động rất lớn đến các chỉ tiêu kinh tế tài chính cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Khi nghiên cứu một cách chính xác và khoa học về các chỉ tiêu này sẽ đưa đến rất nhiều thông tin có ích cho sự hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ biết được xu hướng biến động của tình hình chi phí và giá thành. Qua đó nắm được khuynh hướng tiêu dùng của khách hàng. Từ đó, có thể đưa ra các kế hoạch sản xuất, kế hoạch chi phí, giá thành phù hợp. Tuy việc phân tích chi phí và giá thành quan trọng như vậy song hiện nay, tại Chi nhánh chưa áp dụng công việc này. Đây là một phần công việc rất cần thiết của công tác kế toán tài chính của Chi nhánh. Thực hiện công việc này không quá khó khăn với thực trạng kế toán hiện nay của Chi nhánh. Định kỳ, có thể là hàng tháng, hoặc quý, kế toán chi phí, giá thành tại Chi nhánh đưa các chỉ tiêu đã có lên xử lý trên máy tính, tính ra các tỷ lệ thay đổi, tính các tỷ suất của từng khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. Qua đó sẽ thông tin đầy đủ và chính xác về chi phí, giá thành của Chi nhánh. Khi kết hợp các thông tin trong nhiều lần phân tích sẽ thấy được xu hướng biến động của các chỉ tiêu. Và từ đó thấy được mức độ tiết kiệm hay lãng phí chi phí, mức độ hoàn thành kế hoạch của từng phân xưởng sản xuất. Thứ tám: Về công tác lập báo cáo chi phí sản xuất: Nếu như kế toán tài chính cung cấp thông tin cho những đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như các nhà đầu tư, khách hàng, các cơ quan quản lý của nhà nước, ngân hàng, các thông tin phục vụ điều hành, quản lý nội bộ doanh nghiệp phải được cung cấp bởi một bộ phận kế toán khác, đó là kế toán quản trị. Để quản lý tốt chi phí sản xuất đã chia ra trong kỳ và giá thành sản phẩm để xác định giá bán hợp lý, kế toán Chi nhánh nên lập báo cáo kế toán quản trị về chi phí để giúp cho Giám đốc cũng như các phòng ban liên quan nắm rõ được khối lượng sản phẩm hoàn thành trong tháng, chi phí chi ra để có sản phẩm hoàn thành là bao nhiêu. Công việc lập báo cáo này hết sức đơn giản mà nhìn vào đó nhà quản trị có thể biết được chính xác chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất tính chi tiết cho một đơn vị sản phẩm. Từ đó, lãnh đạo Chi nhánh có kế hoạch điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh như thế nào cho phù hợp với điều kiện thị trường. 3.2. Đối với chuẩn mực chế độ chung Trên đây là toàn bộ những khó khăn hạn chế mà Chi nhánh còn gặp phải. Tuy nhiên để Chi nhánh có cơ sở hoàn thiện hơn trong công tác hạch toán kế toán nói chung và hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm thì về phía các cơ quan ban ngành ban hành các chế độ, chuẩn mực phải có các biện pháp gì để giúp các đơn vị, các doanh nghiệp có cơ sở để hoàn thiện hơn. Vấn đề thứ nhất: Về chuẩn mực kế toán Chuẩn mực kế toán là những quy định, quy chế,… mà không phải cơ quan hành chính nào cũng có quyền ban hành mà nó thuộc quyền hành của Chính phủ, của Bộ tài chính, cơ sở là chuẩn mực kế toán quốc tế. Do vậy, khi ban hành chuẩn mực kế toán các nhà chức năng cần phải chú ý: Chuẩn mực ban hành phải dễ hiểu, dễ làm, phù hợp, tin cậy, công khai và dễ kiểm tra. Cần phải xem xét ban hành chuẩn mực cho ai, tức là xét đến đối tượng sử dụng chuẩn mực. Phải hài hoà với chuẩn mực kế toán quốc tế. Trước khi ban hành phải tham khảo ý kiến của tất cả các đối tượng, các chuyên gia trong nước và quốc tế. Tất cả các kiến nghị này xuất phát từ một luận điểm nhỏ: Việt Nam là một nước với đủ các thành phần kinh tế như nhà nước, tư nhân,…với trình độ nhận thức khác nhau. Tức là sự đa dạng trong đối tượng đón nhận chuẩn mực chế độ kế toán, và cũng gặp khó khăn trong việc ban hành chuẩn mực kế toán bởi cơ sở của nó. Cơ sở để các nhà chức năng ban hành chuẩn mực kế toán là chuẩn mực quốc tế. Cụ thể: Trước hết là sự chuyển đổi nhận thức của nhiều lớp người đã quen với cách thức quản lý doanh nghiệp nhà nước. Chuẩn mực kế toán Quốc tế do Hiệp hội kế toán, tổ chức doanh nghiệp của những người làm kế toán công bố nên nó rất linh hoạt vừa quy định có tính chất bắt buộc vừa chỉ là khuyên răn. Trong khi đó chuẩn mực kế toán Việt Nam do Bộ tài chính là cơ quan hành chính Nhà nước ban hành nên thường thiên về yêu cầu quản lý của người kinh doanh. Nội dung của chuẩn mực kế toán quốc tế hàm chứa các chính sách tài chính, trong khi Việt Nam đến nay vẫn chi phối doanh nghiệp bằng các quy định về tài chính coi công tác kế toán là công cụ phản ánh cơ chế tài chính. Nếu công bố chuẩn mực kế toán theo cách của chuẩn mực kế toán quốc tế thì sẽ nảy sinh những bất cập so với chính sách tài chính và thuế. Chuẩn mực kế toán quốc tế thiên về kinh tế tư nhân trong khi nhận thức của người xây dựng chuẩn mực kế toán vẫn thiên về kinh tế nhà nước. Tập quán, thói quen, cách nói, cách viết giữa chế độ kế toán, chính sách tài chính và Chuẩn mực kế toán dễ xảy ra xung đột có tính chất pháp lý mà không thể thay đổi ngay được trong một tháng, một năm. Vấn đề thứ hai: về hệ thống tài khoản: Để đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của nền kinh tế, đảm đương được nhiệm vụ được giao, yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp là phải hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý, trong đó có hoàn thiện hạch toán kế toán. Hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh gắn liền với việc xây dựng hệ thống thông tin cung cấp cho quản lý là một trong những công việc có tính cấp thiết và quan trọng trong nội dung hoàn thiện hạch toán kế toán. Theo quyết định 1141TC/QĐ ngày 1/11/1995 và quyết định 1177TC/CĐKT ngày 23/12/1996, hệ thống tài khoản đã được ban hành và áp dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các hệ thống tài khoản đã được sửa đổi, bổ sung trong quá trình sử dụng từ đó đến nay. Qua nghiên cứu hệ thống tài khoản kế toán nói chung và hệ thống tài khoản hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh hiện hành thấy rằng những tài khoản này đã đáp ứng được ở một mức độ nhất định về nhu cầu thông tin cho quản lý. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc ghi chép, phản ánh của kế toán cũng như công tác kiểm tra. Hệ thống tài khoản kế toán này cũng cho thấy sự phù hợp và thích ứng với yêu cầu và đặc điểm của nền kinh tế thị trường, thể hiện được sự vận dụng có tính chọn lọc các chuẩn mực, nguyên tắc và thông lệ kế toán Quốc tế vào Việt Nam. Bên cạnh những ưu điểm nói trên, hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại cần phải khắc phục và hoàn thiện. Trước hết, có thể kể đến những hướng dẫn về nội dung và phương pháp vận dụng chưa thật cụ thể, chưa thật gắn với đặc điểm của các đơn vị sản xuất kinh doanh có quy mô và đặc điểm khác nhau. Thứ nữa, thiếu sự thống nhất trong hướng dẫn: có nhiều điểm hướng dẫn thiếu chính xác, mâu thuẫn với nhau dẫn đến việc vận dụng vào thực tế hết sức khó khăn và thiếu thống nhất giữa các doanh nghiệp. Do vậy, để phù hợp với định hướng phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta và thực hiện chính sách kinh tế mở cửa, đưa kế toán hội nhập quốc tế, tài khoản hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh cần hoàn thiện theo các hướng sau: Thứ nhất: Thay đổi nội dung phản ánh hoặc mở thêm chi tiết của tài khoản 621. Theo chế độ hiện hành, tài khoản 621 – Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp dùng để phản ánh toàn bộ chi phí nguyên vật liệu chính, phụ được sử dụng trực tiếp để sản xuất sản phẩm, thực hiện dịch vụ trong kỳ sản xuất kinh doanh. Với nội dung này, cuối kỳ kế toán sẽ rất khó khăn trong việc xác định giá trị sản phẩm dở dang bởi vì nguyên vật liệu chính là đối tượng chế biến còn các vật liệu khác lại là chi phí chế biến. Do đó, khi tính giá trị sản phẩm dở dang, bắt buộc kế toán phải tách rời giá trị vật liệu chính ra khỏi chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ, tiết kiệm công sức của kế toán thì: * Nên mở thêm tài khoản cấp 2 cho tài khoản 621, tức là: TK 6211 – Chi phí nguyên vật liệu chính trực tiếp TK 6212 – Chi phí nguyên vật liệu phụ trực tiếp Theo cách này, kế toán sẽ không mất thời gian vào việc tách đối tượng chế biến (nguyên vật liệu chính) và chi phí chế biến (nguyên vật liệu khác) ra khỏi chi phí NVLTT nữa. Từ đó, việc xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ sẽ nhanh chóng và chính xác, tạo điềukiện cho việc xác định giá thành sản phẩm được kịp thời. * Thay đổi nội dung phản ánh của tài khoản 621: Tài khoản 621 – Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chỉ phản ánh giá trị nguyên vật liệu chính trực tiếp tiêu hao liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ dịch vụ mà không bao gồm giá trị các loại vật liệu khác. Giá trị các loại vật liệu khác được tập hợp vào chi phí sản xuất chung. Thứ hai: Phải có sự thống nhất hệ thống tài khoản hạch toán chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp. Xuất phát từ thực trạng tài khoản hạch toán chi phí sản xuất áp dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho thấy toàn bộ các chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất từ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp đến chi phí sản xuất chung đều được tập hợp vào một tài khoản. Điều này đã gây khó khăn cho kế toán trong việc phân biệt chi phí sản xuất và thu thập thông tin chi phí từng loại. Thứ ba: Theo chế độ tài khoản kế toán hiện hành, toàn bộ chi phí khấu hao TSCĐ dùng ở các phân xưởng, bộ phận sản xuất được tập hợp vào TK 627 – Chi phí sản xuất chung. Cuối kỳ mới phân bổ cho các đối tượng liên quan. Cách làm này mặc dầu giảm được việc ghi chép, tính toán và đơn giản trong phản ánh nhưng lại giảm tính chính xác chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Bởi vậy, nên mở thêm một tài khoản mới với tên gọi: Chi phí khấu hao máy móc thiết bị, chuyên dùng để phản ánh khoản chi phí này. Thứ tư: Nên phân loại chi phí ngay trong quá trình (phát sinh) hạch toán: Theo cách hạch toán hiện nay, toàn bộ chi phí kinh doanh (bao gồm định phí và biến phí) được tập hợp theo từng đối tượng liên quan mà không phân loại ngay từ khi phát sinh. Vì thế, để có cơ sở đề ra các quyết định kinh doanh đúng đắn, nhất là các quyết định liên quan đến sản lượng hoà vốn, các quyết định định giá bán trong môi trường cạnh tranh gay gắt,…kế toán phải tiến hành phân loại lại chi phí. Việc làm này vừa mất thời gian, công sức, vừa không chính xác. Bởi vậy, kế toán cần và nên phân loại từng khoản chi phí thành định phí và biến phí ngay từ khi phát sinh. Việc làm này hết sức dễ dàng, đơn giản, tốn ít công sức, vừa cung cấp thông tin kịp thời lại vừa đảm bảo độ tin cậy của thông tin. Kết luận Trong bất kỳ doanh nghiệp nào, dù là sản xuất hay kinh doanh đều mong muốn một đồng chi phí bỏ ra cho hoạt động sản xuất hay hoạt động khác ngày hôm naysẽ mang lại nhiều đồng lơị nhuận trong tương lai. Để đạt được mục đích đó, nhiều doanh nghiệp, nhiều công ty đã phải phá sản bởi sự quản lý sản xuất tổ chức hạch toán chưa hợp lý nhất là trong sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Xuất phát từ thực tế của Công ty Cao su Sao vàng Chi nhánh Thái bình có thể thấy rõ việc điều hành sản xuất qua việc nghiên cứu công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Một đồng chi phí ngày hôm nay - không chỉ là chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công, chi phí sản xuất chung... mà còn phải tiết kiệm chi phí này sao cho hợp lý và đảm bảo được chất lượng sản phẩm sao cho phù hợp với người tiêu dùng Trong mấy năm gần đây, sản phẩm của Chi nhánh đang được nhiều người tín nhiệm, khẳng định được sự nỗ lựccố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên trong Chi nhánh. Đặc biệt là sự cố gắng phấn đấu của cán bộ nhân viên kế toán Chi nhánh Qua quá trình thực tế tại Chi nhánh Cao su Sao Vàng Thái Bình, luận văn này chỉ có thể đưa ra một phần nhỏ trong việc quản lý và điều hành sản xuất ở Chi nhánh nhằm phản ánh một cách thực tế về cách tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo trong khoa, trong trường và các cô chú, anh chị phòng kế toán Chi nhánh. Em xin chân thành cảm ơn Mục lục Tài liệu tham khảo Giáo trình kế toán tài chính khoa kế toán – Khoa Kế toán - Trường ĐH KTQD Giáo trình kế toán quản trị - Khoa Kế toán - Trường ĐH KTQD Giáo trình phân tích kinh doanh - Khoa kế toán – Trường ĐH KTQD Tạp chí kế toán các số 36, 37, 38 …năm 2002 và năm 2003 Tạp chí tài chính Tạp chí kiểm toán Luận văn tốt nghiệp khoá 39, khoá 40 Trường đại học KTQD Quyết định, Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính Chuẩn mực kế toán Việt Nam Chuẩn mực kế toán Quốc tế Chữ viết tắt trong luận văn TSCĐ Tài sản cố định CPSX Chi phí sản xuất GTSP Giá thành sản phẩm TK Tài khoản BHXH Bảo hiểm xã hội BHYT Bảo hiểm y tế KPCĐ Kinh phí công đoàn GTGT Giá trị gia tăng VAT Thuế giá trị gia tăng NVL Nguyên vật liệu SP Sản phẩm DD Dở dang CCDC Công cụ dụng cụ CP Chi phí GT Giá thành LV,DV Lao vụ, dịch vụ CSSV Cao su Sao Vàng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0750.doc
Tài liệu liên quan