Hoàn thiện công tác Xếp hạng tín dụng Doanh nghiệp tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Ba Đình

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Cho vay là một trong những hoạt động kinh doanh chủ yếu và thường xuyên của NHTM. Đây là hoạt động được xem là mang lại nhiều rủi ro nhất cho Ngân hàng. Đặc biệt trong thời gian vừa qua nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng cao với sự bùng nổ của TTCK, TTBĐS và hàng loạt các định chế Tài chính được thành lập và tham gia vào thị trường tài chính như: Các NHTM, các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư tạo nên môi trường cạnh tranh gay gắt và góp phần không nhỏ vào việc t

doc108 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1230 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác Xếp hạng tín dụng Doanh nghiệp tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
húc đẩy tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nóng, rủi ro tiềm ẩn lớn nhưng chưa được quan tâm một cách thích đáng. Do đó, một trong những yêu cầu đặt ra hiện nay đối với các ngân hàng là việc quản lý rủi ro ngay cả trước, trong và sau quá trình cho vay mà một trong những nội dung trọng tâm của công tác đó là nâng cao hiệu quả công tác Xếp hạng tín dụng khách hàng. Đây là chiến lược phát triển lâu dài và bền vững mà các NHTM nên triển khai. Tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Ba Đình, công tác xếp hạng tín dụng khách hàng nói chung và xếp hạng tín dụng doanh nghiệp nói riêng đã được triển khai trong mấy năm gần đây nhưng vẫn còn nhiều mặt hạn chế trong quá trình triển khai và ứng dụng thực tế. Do đó, em chọn đề tài “ Hoàn thiện công tác Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Chi nhánh ngân hàng công thương Ba Đình” nhằm mục đích giảm thiểu những hạn chế còn tồn tại và ngày càng hoàn thiện hơn công tác này tại Chi nhánh NHCT Ba Đình. Chương 1: Lý luận cơ bản về XHTD doanh nghiệp tại các Ngân hàng thương mại 1.1. Hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng của NHTM 1.1.1. Tín dụng của NHTM Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian tài chính, hoạt động chủ yếu là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ với nội dung chủ yếu là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ ngân hàng. Như vậy, hoạt động tín dụng được xem là một mảng hoạt động quan trọng của ngân hàng. Theo đó, tín dụng ngân hàng được hiểu là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, tín dụng ngân hàng ngày càng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng. Đặc biệt khi mà môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải nỗ lực phát triển sản xuất theo cả chiều rộng và chiều sâu. Đi đôi với chiến lược đó, nhu cầu về vốn là vấn đề chung đối với các doanh nghiệp. Trong điều kiện vốn tự có là có hạn thì một trong những nguồn tài trợ dễ tiếp cận với chi phí thấp là tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng giúp cho doanh nghiệp có thể thực hiện chiến lược kinh doanh của mình, hoạt động hiệu quả và góp phần đưa nền kinh tế nước nhà phát triển hơn. Tuy nhiên hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro nhất cho ngân hàng, do đó vấn đề rủi ro tín dụng? những nhân tố tác động gây rủi ro tín dụng? là một khâu quan trọng mà ngân hàng cần tìm hiểu trước khi quyết định cấp tín dụng. 1.1.2. Rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM 1.1.3.1. Khái niệm rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của Tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. 1.1.3.2. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng Nhìn chung rủi ro tín dụng do nhiều nguyên nhân gây ra nhưng tựu chung lại rủi ro tín dụng có thể do bốn nhóm chính là: nhóm yếu tố từ phía ngân hàng, nhóm yếu tố từ phía khách hàng, nhóm yếu tố thị trường, nhóm yếu tố khác. a. Nhóm yếu tố thuộc về phía ngân hàng - Chính sách quản trị tín dụng của ngân hàng: Hầu hết chưa có NHTM nhà nước nào ban hành chiến lược, chính sách phát triển và quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng một cách hợp lý đầy đủ bằng văn bản. Các Ngân hàng trung ương chưa làm tốt công tác dự báo và định hướng cho các chi nhánh trong từng giai đoạn phát triển kinh tế. Tầm nhìn chiến lược không tốt của các ngân hàng cũng là nguyên nhân của tình trạng cạnh tranh thu hút khách hàng bằng cách giảm lãi suất bất chấp rủi ro là yếu tố tác động đến tính rủi ro trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng. - Quy trình cấp tín dụng và mô hình quản trị rủi ro tín dụng: Quy trình cấp tín dụng hiện tại đang tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao do các khoản vay chưa được thực hiện rà soát một cách độc lập với bộ phận bán hàng. Việc để một bộ phận thực hiện toàn bộ chức năng cho vay, thu nợ, thẩm định và quản lý rủi ro sẽ gây ra tình trạng quá tải và làm tăng nguy cơ rủi ro đạo đức, gây rủi ro tín dụng. - Năng lực của cán bộ tín dụng: Năng lực dự báo, phân tích ngành, phân tích tài chính,phát hiện và xử lý khoản vay có vấn đề của cán bộ còn rất yếu nhất là những ngành hàng đòi hỏi chuyên môn cao. Nhiều quyết định cho vay mang tính cảm tính chỉ dựa vào tài sản thế chấp hay bản thân phương án kinh doanh mà bỏ qua năng lực tài chính của bản thân doanh nghiệp. - Giám sát kiểm tra sau khi cho vay: Công tác giám sát món vay, đánh giá lại định kỳ về doanh nghiệp, khoản vay và tài sản thế chấp bị buông lỏng, đặc biệt đối với doanh nghiệp có quan hệ tín dụng lâu dài, cán bộ tín dụng thường có tâm lý cả nể, tin khách hàng, bỏ qua kiểm tra định kỳ, phương pháp kiểm tra không khoa học nên không phát hiện được những dấu hiệu bất thường trong hoạt động của doanh nghiệp. b. Nhóm các yếu tố thị trường - Chu kỳ kinh tế: Trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng, các ngành nghề nói chung đều hoạt động kinh doanh thuận lợi hơn, tỷ lệ thu hồi nợ vì thế tăng đồng thời dư nợ đối với nền kinh tế tăng làm giảm các khoản nợ xấu. Nhưng trong thời kỳ kém tăng trưởng, các ngành kinh doanh sản phẩm tiêu dùng bền vững, hàng cao cấp, các ngành dịch vụ, các ngành sản xuất vật liệu xây dựng đặc biệt kinh doanh bất động sản…sẽ gặp nhiều khó khăn hơn các ngành hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm…Các món vay trung và dài hạn được quyết định dễ dãi trong thời kỳ tăng trưởng sẽ trở thành khó đòi vài năm sau đó. Ngân hàng cần lưu ý vấn đề này trước khi quyết định cho vay. - Lãi suất, lạm phát: Lãi suất cơ bản phản ánh chính sách can thiệp của NHTW khi lạm phát vượt qua mức độ nào đó. Khi lãi suất tăng, nguồn vốn của các ngân hàng khan hiếm hơn đồng thời hoạt động tín dụng cũng phải đối mặt với rủi ro cao hơn. - Rủi ro chính sách: rủi ro tín dụng chịu nhiều tác động của rủi ro chính sách. Nếu chính sách điều hành của Nhà nước liên tục thay đổi sẽ khiến các doanh nghiệp khó có thể chủ động trong chiến lược kinh doanh của mình. Môi trường kinh doanh không ổn định thường xuyên sẽ gián tiếp làm suy yều điều kiện tài chính của người vay. c. Nhóm yếu tố thuộc về khách hàng - Năng lực tài chính: hầu hết các trường hợp phát sinh rủi ro tín dụng thì yều tố đầu tiên và cốt lõi tác động đến khả năng trả nợ của khách hàng đó là yếu tố tài chính. Nếu doanh nghiệp có tiềm lực tài chính thì việc một giao dịch không thành công sẽ không làm doanh nghiệp mất đi khả năng trả nợ, còn khi điều kiện tài chính suy yếu sẽ có ảnh hưởng đến tất cả các giao dịch…khả năng trả nợ suy giảm là điều khó tránh khỏi. - Đạo đức, uy tín của chủ doanh nghiệp: Đây là yếu tố quan trọng có tác động đến khả năng hoàn trả nợ. tuy nhiên yếu tố này rất khó đánh giá, nguồn cung cấp thông tin hiện nay ở Việt Nam hiện nay còn quá thiếu, Ngân hàng đưa ra quyết định chỉ dựa vào yếu tố cảm tính. - Tính khả thi và hiệu quả của bản thân dự án vay vốn: Thẩm định tính khả thi của dự án phải xem xét công nghệ, thị trường tiêu thụ, nhiên liệu, hàng hoá, vật tư đầu vào, công nghệ thị trường tiêu thụ. Liệu dự án có đủ tạo ra giá trị gia tăng để bù đắp chi phí, trả lãi ngân hàng và tạo ra suất sinh lời cao hơn chi phí cơ hội không? - Tài sản đảm bảo, cầm cố thế chấp của khoản vay: Tài sản thế chấp, cầm cố nếu đảm bảo các yêu cầu giá trị, tính pháp lý, tính dễ chuyển nhượng, không có tranh chấp sẽ làm tăng đáng kể khả năng phục hồi nợ cho ngân hàng và có thể được xem xét giảm lãi suất, do đó khả năng hoàn trả nợ và lãi sẽ cao hơn. d. Các yếu tố khác - Tính chính xác và sẵn có của thông tin: Thông tin tài chính của các DN không đủ độ tin cậy gây khó khăn cho công tác đánh giá khách hàng của NH. Bản thân NH chưa xây dựng được cho mình hệ thống thông tin DN, thông tin ngành hay các rủi ro cần thiết cho cán bộ tín dụng. - Hành lang pháp lý: Hệ thống luật, văn bản dưới luật tuy ngày càng được sửa đổi cho phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị trường nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc, chồng chéo và quá rườm rà trong việc vận dụng của các Ngân hàng. Hành lang pháp lý nói chung chưa ủng hộ công tác phục hồi nợ của Ngân hàng và gián tiếp làm tăng mức độ tổn thất tín dụng. - Vai trò giám sát của Ngân hàng nhà nước: NHNN chưa phát huy hết vai trò giám sát, nhận dạng và đánh giá về chiến lược, chính sách, quy trình cấp tín dụng và quản trị danh mục của các NHTM. Thanh tra NHNN mới chỉ xem xét các NHTM đã thực hiện đúng quy chế, quy định của NHNN, đánh giá hoạt động tín dụng dựa trên tỷ lệ nợ quá hạn chứ chưa đánh giá mức độ rủi ro của các giao dịch và cũng chỉ có kiến nghị hay can thiệp khi đã xảy ra trường hợp rủi ro về tín dụng. 1.2. Hệ thống XHTD doanh nghiệp tại các NHTM 1.2.1. Khái niệm XHTD DN Hệ thống xếp hạng tín dụng là một quy trình đánh giá xác suất một khách hàng của ngân hàng không thực hiện được nghĩa vụ tài chính của mình đối với NHCV như không trả được lãi và gốc nợ vay khi đến hạn hoặc vi phạm các điều kiện tín dụng khác. 1.2.2. Sự cần thiết của XHTD DN tại các NHTM Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro được xem là yếu tố không thể tách rời với quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, doanh nhân trên thị trường. Tuy nhiên, với vai trò to lớn được xem như ‘xương sống của nền kinh tế’, sức khoẻ của hệ thống ngân hàng không chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia mà còn gây hiệu ứng lan truyền đến nền kinh tế của toàn thế giới. Theo đó, hơn mọi doanh nghiệp khác, ngân hàng phải đối phó với các loại rủi ro từ mọi nguồn gốc. Hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu và thường xuyên của các Ngân hàng, mà cho vay bao giờ cũng bao gồm rủi ro và xảy ra mất mát. Do đó, việc nhận thức, đánh giá, phòng ngừa và loại trừ rủi ro là vấn đề làm đau đầu các nhà quản lý cũng như CBTD trực tiếp thực hiện khoản vay. Các NH luôn luôn tìm cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm những lợi tức cao nhất có thể có ở các món vay và chứng khoán, đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến các hoạt động cho vay như: sàng lọc và giám sát khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài, quy định các hạn mức tín dụng, vật thế chấp, số dư bù và hạn chế tín dụng. Tuy nhiên một ngân hàng không thể lường trước được những những bẩt ngờ có thể xảy ra khi đưa ra những quy trình tín dụng, những quy định hạn chế trong một hợp đồng cho vay, sẽ luôn có những rủi ro của người vay tiền, chưa có một quy định nào hạn chế được chúng cả. Do đó, đòi hỏi công tác quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng đối với mỗi NH phải được đặc biệt chú trọng. Việc phòng ngừa rủi ro tín dụng phải được thực hiện trước, trong và cả sau quá trình cho vay. Một trong những biện pháp được coi rất hiệu quả, được hầu hết các NH áp dụng trước khi quyết định cho vay đó là công tác XHTD. XHTD nhằm mục đích: - Ra quyết định cấp tín dụng Ngân hàng thực hiện Xếp hạng khách hàng vay, đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp có diễn biến bình thường hay không, đánh giá tình hình thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi của Doanh nghiệp đối với NH. Từ đó, NH sẽ đưa ra chính sách tín dụng hợp lý như: xác định hạn mức tín dụng, số tiền cho vay bảo lãnh, thời hạn, mức lãi suất, phí, biện pháp bảo đảm cho khoản tín dụng…nhằm thu hồi đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi khi đến hạn. Hoặc cũng có thể loại trừ các khách hàng yếu kém nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng có thể xảy ra. - Giám sát và đánh giá khách hàng tín dụng khi khoản tín dụng đang có dư nợ: XHTD có thể cho phép NHCV lường trước được những dấu hiệu xấu về chất lượng khoản vay và có những biện pháp đối phó kịp thời - Phát triển chiến lược marketing nhằm hưóng tới khách hàng có ít rủi ro hơn. - Ước lượng mức vốn đã cho vay không thu hồi được để trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. 1.2.3. Phương pháp XHTD Để XHTD khách hàng, các NHTM có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó phổ biến là các phương pháp sau: a. Phương pháp chuyên gia - Nội dung: Phương pháp này thu thập ý kiến của các chuyên gia trong hoặc ngoài doanh nghiệp theo những mẫu câu hỏi được soạn trước trong phiếu điều tra - Quy trình: Gồm 5 bước như sau Bước 1: Lập các nhóm phân tích, soạn thảo các câu hỏi để hình thành phiếu điều tra đồng thời tiến hành phân tích, tổng hợp những ý kiến thu nhập được và nhóm chuyên gia đánh giá, đưa ra ý kiến xếp hạng, cung cấp thông tin dự báo thay đổi xếp hạng trong tương lai. Bước 2: Xây dựng bảng hỏi Bước 3: Phát phiếu điều tra cho chuyên gia trả lời Bước 4: Thu thập các câu trả lời, sắp xếp chọn lọc, tóm tắt lại ý kiến của các chuyên gia và tiến hành phân tích, tổng hợp, rút ra kết luận. Trên cơ sở những kết quả trả lời lần thứ nhất, người đánh giá tiến hành điều chỉnh bảng hỏi theo hướng thu hẹp phạm vi và đưa ra nội dung cụ thể hơn. Bảng hỏi được tiếp tục gửi đến các chuyên gia đã tham vấn lần thứ nhất. Trong lần này, nếu thấy cần thiết các chuyên gia có thể điều chỉnh ý kiến ban đầu của mình Bước 5: Tổng hợp lại các ý kiến đánh giá lần hai của các chuyên gia, nếu thấy chưa thoả mãn thì có thể lặp lại quy trình như trên cho đến khi đạt yêu cầu. - Ưu điểm: Phương pháp chuyên gia tận dụng được kinh nghiệm kiến thức chuyên sâu của các chuyên gia trong chuyên ngành của họ. Đồng thời, kết quả đánh giá được tập hợp từ nhiều chuyên gia nên mức độ tin cậy cao, có thể tránh được ảnh hưởng của những người có ưu thế trong số người được hỏi ý kiến - Hạn chế: Chi phí đánh giá có thể rất cao khi số người tham gia đông và số lần thu thập ý kiến nhiều. Mặt khác, do thời gian tiến hành đánh giá dài nên thường dẫn đến thay đổi nhân sự trong nhóm chuyên gia, điều này gây khó khăn cho việc tổng hợp phân tích. Hơn nữa việc sử dụng phương pháp này không thể loại bỏ hoàn toàn khía cạnh chủ quan trong kết quả đánh giá. b. Phương pháp cho điểm theo tiêu chuẩn - Nội dung: Phương pháp cho điểm theo tiêu chuẩn là phương pháp mà chuyên gia xếp hạng tiến hành cho điểm trên cơ sở thang điểm được ấn định trước. - Quy trình: Bước 1: Bước chuẩn bị nhằm xác định những nội dung, tiêu thức cần đánh giá và xác định điểm chuẩn cho từng tiêu thức. Bước 2: Tiến hành đánh giá Trên cơ sở thang điểm đã xác định, người đánh giá tiến hành phân tích dữ liệu , thông tin về doanh nghiệp. Tuỳ theo kết quả thu được, người đánh giá cho điểm phù hợp với thang điểm đã đề ra. Sau đó, tổng hợp số điểm và xếp hạng doanh nghiệp. Từ đó, đưa ra biện pháp khắc phục hoặc đưa ra kiến nghị, đề xuất thiết thực phù hợp với mục tiêu đánh giá. -Ưu điểm: Phương pháp cho điểm theo tiêu chuẩn có ưu điểm đơn giản, dễ áp dụng. Việc đánh giá xếp hạng dựa trên cơ sở định lượng và chi phí thực hiện thấp, thời gian tiến hành ngắn. - Nhược điểm: Kết quả đánh giá có thể mang tính chủ quan cao do chỉ có một hoặc một vài người thực hiện. c. Phương pháp so sánh - Nội dung: phương pháp này dựa trên việc so sánh đối chiếu các chỉ tiêu của các doanh nghiệp khác hoặc so với các giá trị trung bình ngành. -Quy trình: Bước 1: Thu thập thông tin. Đánh giá thu thập thông tin về các chỉ tiêu chủ yếu được sử dụng để làm chuẩn so sánh. Bước 2: Tiến hành so sánh. Sau khi thu thập thông tin, người đánh giá tiến hành phân tích, xử lý thông tin rồi rút ra những kết luận cho mục tiêu đánh giá của mình. - Ưu điểm: Phương pháp này khá đơn giản bởi có thể lấy tiêu thức của một doanh nghiệp khác có đặc điểm tương tự như doanh nghiệp cần đánh giá hoặc cũng có thể lấy chỉ tiêu trung bình ngành làm cơ sở cho đánh giá của mình. Đồng thời, phương pháp này cũng có ưu điểm tiết kiệm thời gian do có thể hoàn thành quy trình trong thời gian ngắn. - Nhược điểm: Khi lấy một doanh nghiệp khác có đặc điểm tương tự hoặc chỉ số trung bình ngành để làm cơ sở đánh giá sẽ đem lại kết quả có độ chính xác không cao. d. Phương pháp chấm điểm - Nội dung: Phương pháp chấm điểm là phương pháp CBTD tiến hành sắp xếp thứ hạng cho khách hành trên cơ sở chấm điểm các chỉ tiêu tài chính và các chỉ tiêu phi tài chính dựa vào thang điểm, trọng số cho trước. - Quy trình: Bước 1: Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích gồm các chỉ tiêu định lượng và định tính. Bước 2: Xây dựng thang điểm, tỷ trọng các chỉ tiêu trong hệ thống các chỉ tiêu phân tích. Bước 3: Thu thập thông tin về môi trường kinh doanh, môi trường ngành và doanh nghiệp. Bước 4: Phân tích và tính điểm XHTD. Căn cứ vào các thông tin thu thập được, người đánh giá phân tích các thông tin và chấm điểm các chỉ tiêu của doanh nghiệp theo bảng điểm đã xây dựng. Căn cứ tổng điểm Doanh nghiệp đạt được, đưa ra kết luận XHTD DN. - Ưu điểm: Phương pháp chấm điểm có ưu điểm triển khai thực hiện đơn giản, dễ hiểu, tiết kiệm thời gian và có thể thực hiện trên diện rộng. - Hạn chế: Không đưa ra được những yếu tố bất thường vào mô hình tính toán và kết quả đánh giá có thể mang tính chủ quan cao của bộ phận CBTD. e. Phương pháp kết hợp Mỗi phương pháp xếp hạng nêu trên đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, có phạm vi áp dụng hữu hiệu nhất định. Do vậy, để tận dụng các ưu điểm và tránh được những nhược điểm của từng phương pháp, người ta có thể áp dụng phương pháp kết hợp. Theo đó, đối với mỗi nội dung cần đánh giá có thể áp dụng từng phương pháp đánh giá và thực hiện theo một quy trình phù hợp. Nhận xét Để XHTD khách hàng có nhiều phương pháp khác nhau như trên, tuy nhiên phương pháp chuẩn được các tổ chức xếp hạng trên thế giới (Moody, Standard & Poor) và các ngân hàng trên thế giới áp dụng là phương pháp chấm điểm tín dụng khách hàng. 1.2.4. Nội dung của hệ thống XHTD Doanh nghiệp Dù có thể áp dụng phương pháp và quy trình khác nhau nhưng nội dụng của nghiệp vụ XHTD doanh nghiệp gồm bốn vấn đề cơ bản sau: a. Đối tượng được xếp hạng Toàn bộ khách hàng là doanh nghiệp/HTX đang vay vốn hoặc có nhu cầu thiết lập quan hệ vay vốn với ngân hàng cho vay. b. Cơ chế xếp hạng khách hàng của hệ thống Cơ chế xếp hạng căn cứ vào số điểm có được sau khi đánh giá và chấm điểm cho bộ chỉ tiêu tiêu chuẩn. Bộ chỉ tiêu do mỗi ngân hàng tự thiết kế và xây dựng dựa trên các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng và các đặc điểm riêng phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của từng ngân hàng đồng thời có cân nhắc mức chi phí - lợi ích mang lại cho ngân hàng từ công tác này. Bộ chỉ tiêu gồm: chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính. Trong đó, xây dựng dựa trên các tiêu chí: Số lượng các chỉ tiêu, tính chất các chỉ tiêu và số điểm phân bổ cho mỗi chỉ tiêu và mức trọng số áp dụng cho mỗi chỉ tiêu cần đánh giá c. Căn cứ và cách thức XHTD khách hàng XHTD được thực hiện căn cứ trên việc chấm điểm các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính đã được xây dựng tiêu chuẩn hóa. Cán bộ chấm điểm sẽ thu thập các thông tin về khách hàng, các thông tin này được điền vào một biểu mẫu theo các chỉ tiêu định trước. Theo đó, Cán bộ chấm điểm sẽ cho điểm theo từng chỉ tiêu. Tổng số điểm khách hàng được đối chiếu với thang điểm có sẵn của ngân hàng để xác định nhóm tín dụng. Dựa vào kết quả xếp hạng mà cán bộ chấm điểm quyết định đồng ý hay từ chối cấp tín dụng. d. Kiểm soát và đánh giá kết quả xếp hạng Để đảm bảo kết quả xếp hạng khách hàng phản ánh kịp thời, thực tế và hợp lý mức độ rủi ro, hệ thống xếp hạng sẽ được thường xuyên kiểm tra định kỳ, xem xét, đánh giá bằng các thủ tục sau: Ngân hàng phải có phương pháp phân công đánh giá, cũng như xếp hạng các chính sách thưởng phạt hợp lý đối với những người tham gia đánh giá để có thể hạn chế ý kiến chủ quan của người đánh giá do nảy sinh những mâu thuẫn về lợi ích. Rà soát việc thực hiện xếp hạng khách hàng của Cán bộ chấm điểm đối với các khách hàng phải thẩm định rủi ro tín dụng độc lập bởi lãnh đạo phòng Xếp hạng và cán bộ phòng quản lý rủi ro. Định kỳ đánh giá lại kết quả xếp hạng tùy vào thời gian quy định của mỗi ngân hàng để đảm bảo độ chính xác và công bằng. Nếu đánh giá và chấm điểm lại khách hàng ở hạng khác so với ban đầu thì ngân hàng có thể điều chỉnh theo kết quả đánh giá lại, phù hợp với mức độ rủi ro hiện tại của khách hàng. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác XHTD 1.3.1.Các nhân tố bên trong ngân hàng Thứ nhất: phương pháp và quy trình XHTD Như đã biết, có nhiều phương pháp khác nhau trong việc XHTD, do đó mỗi ngân hàng có thể lựa chọn cho mình một hoặc kết hợp nhiều phương pháp XHTD sao cho phù hợp với hệ thống các chỉ tiêu XHTD, cụ thể như: Đối với các chỉ tiêu tài chính, ngân hàng có thể lựa chọn phương pháp cho điểm theo tiêu chuẩn kết hợp với phương pháp so sánh; đối với các chỉ tiêu phi tài chính có thể lựa chọn phương pháp chấm điểm kết hợp với phương pháp chuyên gia. Việc áp dụng các phương pháp khác nhau có thể dẫn tới kết quả đánh giá, xếp hạng khách hàng khác nhau. Bên cạnh phương pháp được lựa chọn đánh giá thì quy trình XHTD trong phương pháp đó cũng ảnh hưởng quan trọng đến kết quả XHTD. Một quy trình XHTD chung khoa học, hợp lý với sự sáng tạo và vận dụng linh hoạt của mỗi ngân hàng sẽ mang lại kết quả XHTD có độ chính xác càng cao. Thứ hai: Hệ thống chỉ tiêu XHTD Hệ thống chỉ tiêu XHTD có ảnh hưởng đến chi phí, thời gian, chiều sâu và đặc tính rủi ro của doanh nghiệp xin vay vốn mà ngân hàng muốn đánh giá. Trong xây dựng và lựa chọn hệ thống chỉ tiêu XHTD, các ngân hàng luôn nỗ lực tìm cách hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá đồng thời luôn cân nhắc giữa chi phí về thời gian, nguồn lực, nguồn thông tin với mức độ ảnh hưởng của các chỉ tiêu này đến kết quả XHTD. Việc lựa chọn hệ thống chỉ tiêu quá ít sẽ không phản ảnh hết được vấn đề cần đánh giá nhiều khi còn đưa ra những quyết định mang tính chủ quan, tuy nhiên hệ thống chỉ tiêu XHTD quá nhiều sẽ có thể mang lại các kết quả đối lập nhau, gây khó khăn trong việc tổng hợp đánh giá các chỉ tiêu và đôi khi tốn nhiều công sức, tiền bạc không cần thiết. Do đó, việc lựa chọn hệ thống các chỉ tiêu cần phải đầy đủ, tránh thiếu sót mà vẫn đảm bảo tính hiệu quả trong việc sử dụng chúng để phân tích, chấm điểm và xếp hạng khách hàng. Thứ ba: Các tiêu chuẩn hướng dẫn đánh giá XHTD Các ngân hàng thường theo quy trình XHTD chuẩn quốc tế nhưng nội dung cũng như các tiêu chuẩn hướng dẫn thực hiện các tiêu chuẩn đó ở mỗi ngân hàng lại khác nhau. Cùng với các chỉ tiêu được lựa chọn, một ngân hàng có các tiêu chuẩn hướng dẫn đánh giá, thực hiện càng chi tiết , rõ ràng, cụ thể thì càng giúp cho CBTD cũng như các bộ phận quản lý dễ dàng thực thi và kiểm soát được tính chính xác của công tác XHTD, tránh sai sót và rủi ro đạo đức có thể xảy ra. Từ đó mang lại kết quả XHTD có tính chính xác và khả năng so sánh cao. Tuy nhiên khi xác định các tiêu chuẩn đánh giá, ngân hàng luôn cân nhắc với chiến lược mà ngân hàng theo đuổi trong từng thời kỳ như: khi trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng, ngân hàng muốn mở rộng quy mô tín dụng thì có thể đưa ra các tiêu chuẩn hướng dẫn thông thoáng hơn, dễ dàng giúp cho các doanh nghiệp được chấm điểm cao hơn từ đó dễ dàng tiếp cận với vốn ngân hàng hơn. Thứ tư: Cơ sở vật chất và pháp lý Một ngân hàng có máy móc, thiết bị hiện đại sẽ phục vụ đắc lực cho đội ngũ cán bộ XHTD hơn trong việc xử lý các thông tin, chấm điểm các chỉ tiêu và rà soát kết quả hoàn toàn theo lập trình trên máy. Điều đó sẽ tiết kiệm tối đa chi phí về thời gian và sự sai sót không đáng có. Ngoài ra, cơ sở pháp lý vững chắc, tuân thủ đúng theo quy định của Nhà Nước sẽ tránh được những rắc rối từ phía pháp luật và bảo đảm cho công tác XHTD được thi hành đúng luật định. Thứ năm: Trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ XHTD Cán bộ tín dụng chính là người thực hiện toàn bộ công tác chấm điểm và Xếp hạng khách hàng cho mỗi khoản vay vì vậy có thể nói yếu tố con người là yếu tố tác động lớn nhất đến công tác XHTD của Ngân hàng. Nếu ngân hàng có đội ngũ cán bộ có trình độ năng lực cao sẽ mang lai hiệu quả cao cho ngân hàng trong việc thực thi các quy định đưa ra và dễ dàng linh hoạt với những thay đổi ngoài dự tính do điều kiện môi trường tác động. Trình độ năng lực của yếu tố con người được thể hiện trên một vài tiêu chí: + Năng lực dự báo, phân tích ngành, phân tích tài chính. + Kỹ năng thương lượng với khách hàng, tính chủ động, linh hoạt trong công việc, khả năng kiểm soát chứng từ vay và nắm vững kiến thức pháp luật. + Đạo đức nghề nghiệp để tránh rủi ro đạo đức có thể xảy ra. Thứ sáu: Chính sách quản trị nguồn nhân lực của ngân hàng Cán bộ tín dụng là người trực tiếp tham gia vào toàn bộ quá trình XHTD KH. Do đó chính sách tuyển dụng, sử dụng đãi ngộ và đề bạt cán bộ tín dụng của các NH có tác động trực tiếp đến hiệu quả thực thi chiến lược, chính sách tín dụng nói chung và công tác XHTD Khách hàng nói riêng của Ngân hàng. Một chiến lược, chính sách quản trị tín dụng tốt mà không đi kèm chính sách đúng đắn về nguồn nhân lực sẽ không mang lại kết quả mong muốn và gia tăng nguy cơ rủi ro đạo đức ở cán bộ tín dụng. 1.3.2. Các nhân tố bên ngoài ngân hàng Thứ nhất: Chất lượng thông tin về khách hàng Đây là nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến công tác chấm điểm và Xếp hạng khách hàng của ngân hàng. Nguồn thông tin có thể lấy từ nhiều nguồn, kịp thời, minh bạch và bản thân ngân hàng có thể xây dựng được cho mình hệ thống thống thông tin ngành, thông tin doanh nghiệp, đó sẽ là công cụ đắc lực giúp cho việc phân tích và XHTD DN được thuận lợi, cho kết quả chính xác. Thứ hai: Môi trường hành lang pháp lý Môi trường hành lang pháp lý ảnh hưởng trực tiếp đến công tác XHTD DN tại NHTM. Hệ thống luật và văn bản dưới luật chi phối hoạt động của NH, một mặt thể hiện quy định bắt buộc của NHNN đối với việc sử dụng công tác XHTD để giảm thiểu rủi ro cho hoạt động tại các NHTM, mặt khác cũng mang tác dụng hỗ trợ về kỹ thuật đối với phân tích XHDN có quan hệ tín dụng tại NHTM. Hành lang pháp lý ngày càng được sửa đổi phù hợp với các quy luật của nền kinh tế thị trường đồng nghĩa với việc công tác XHDN ngày càng được chú trọng và có xu hướng ngày càng theo chuẩn mực quốc tế hơn->mang lại hiệu quả XHTD ngày càng cao hơn. Thứ ba: Chuẩn mực và phương pháp kế toán áp dụng Thực chất của việc XHDN là dựa trên việc chấm điểm các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính. Do đó, độ chính xác của kết quả xếp hạng phụ thuộc rất nhiều vào cách hạch toán của doanh nghiệp đối với các chỉ tiêu tài chính. Chuẩn mực kế toán là tiêu chuẩn để doanh nghiệp hạch toán kế toán. Do đó, chuẩn mực kế toán có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả XHTD. Việc hệ thống ngân hàng các nước cùng áp dụng phương pháp phân tích và XHTD thì kết quả đánh giá vẫn không thể thống nhất nếu các doanh nghiệp áp dụng chuẩn mực kế toán khác nhau như: cùng một DN áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế sẽ cho kết quả khác với áp dụng chuẩn mực kế toán quốc gia. Ngoài ra, phương pháp hạch toán các khoản mục trên báo cáo tài chính khác nhau cũng mang lại kết quả XHDN khác nhau, cụ thể như: khi áp dụng hạch toán hàng tồn kho theo các phương pháp Lifo, Fifo sẽ mang lại giá trị hàng tồn kho khác nhau; hay khi áp dụng các phương pháp khấu hao khác nhau cũng làm thay đổi giá trị khấu hao trên BCĐKT…Những điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả XHDN. Chương 2: Thực trạng XHTD DN tại chi nhánh NHCT Ba Đình 2.1. Tổng quan về chi nhánh NHCT Ba Đình 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình có tên giao dịch quốc tế là VietinBank Ba Đình (Vietnam Industrial and commercial Bank Ba Đinh) ra đời từ năm 1959 với tên gọi lúc được thành lập là “Chi điểm Ngân hàng Ba Đình trực thuộc ngân hàng Hà Nội”, địa điểm đặt trụ sở tại phố Đội Cấn – Hà Nội (nay là 142 phố Đội Cấn). Chi nhánh được thành lập với nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất, củng cố tổ chức và hoạt động ngân hàng dưới hình thức cung ứng, cấp phát theo chỉ tiêu, kế hoạch được giao. Mục tiêu hoạt động của chi nhánh mang tính bao cấp, không lấy lợi nhuận làm mục tiêu, hoạt động theo mô hình quản lý một cấp (Ngân hàng Nhà nước) và mô hình này được duy trì từ khi thành lập cho đến tháng 7/1988 thì kết thúc. Số lượng cán bộ Ngân hàng lúc đó có trên 10 người. Ngày 1/7/1988, thực hiện Nghị định 53 của Hội đồng Bộ trưởng (Nay là Chính phủ), ngành Ngân hàng chuyển hoạt động từ cơ chế quản lý hành chính, kế hoạch hóa sang hạch toán kinh tế kinh doanh theo mô hình quản lý Ngân hàng hai cấp (Ngân hàng Nhà nước – Ngân hàng thương mại), lấy lợi nhuận làm mục tiêu trong hoạt động kinh doanh, theo đó các Ngân hàng thương mại quốc doanh lần lượt ra đời (Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Trong bối cảnh chuyển đổi đó, Ngân hàng Ba Đình cũng được chuyển đổi thành một chi nhánh NHTMQD với tên gọi Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình trực thuộc Ngân hàng Công thương thành phố Hà Nội, hoạt động theo mô hình quản lý ba cấp( Trung ương- Thành phố- Quận). Với mô hình quản lý này, trong những năm đầu thành lập (7/1988 – 3/1993) hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình kém hiệu quả, không phát huy được thế mạnh và ưu thế của một chi nhánh NHTM trên địa bàn thủ đô, do hoạt động kinh doanh phụ thuộc hoàn toàn vào NHCT Thành phố Hà Nội, cùng với những khó khăn thử thách của những năm đầu chuyển đổi mô hình kinh tế theo đường lối đổi mới của Đảng. Trước những khó khăn vướng mắc của từ mô hình tổ chức quản lý cũng như cơ chế, bắt đầu từ ngày 1/4/1993, NHCT Việt Nam thực hiện thí điểm mô hính tổ chức NHCT hai cấp (Cấp Trung ương - Quận), xóa bỏ cấp trung gian là NHCT Thành phố Hà Nội, cùng với việc đổi mới và tăng cường công tác cán bộ. Do vậy, ngay sau khi nâng cấp quản lý cùng với việc đổi mới cơ chế hoạt động, tăng cường đội ngũ trẻ có năng lực thì hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình đã có sức bật mới, hoạt động kinh doanh theo mô hình một NHTM đa năng, có đầy đủ năng lực, uy tín để tham gia cạnh tranh một cách tích cực trên thị trường. Nhanh chóng tiếp cận được thị trường và không ngừng tự đổi mới, hoàn thiện mình để thích nghi với các môi trường kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường. Kể từ khi chuyển đổi mô hình quản lý mới cho đến nay, hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình không ngừng phát triển theo định hướng “Ổn định - An toàn - Hiệu quả - phát triển” cả về quy mô, tốc độ tăng trưởng, địa bàn hoạt động, cũng như về cơ cấu, mạng lưới, tổ chức bộ máy. Cho đến nay, bộ máy hoạt động của Chi nhánh NHCT Ba Đình có trên 300 cán bộ nhân viên (trong đó có trên 85% có trình độ._. Đại học và trên Đại học, 10% có trình độ trung cấp và đang đào tạo Đại học, còn lại là lao động giản đơn), với 12 phòng nghiệp vụ, 1 phòng giao dịch, 12 Quỹ tiết kiệm, hoạt động trên một địa bàn rộng lớn bao gồm các quận Ba Đình - Hoàn Kiếm - Tây Hồ. Từ năm 1995 đến nay, hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình liên tục được NHCT Việt Nam công nhận là một trong những chi nhánh xuất sắc nhất trong hệ thống NHCT Việt Nam, năm 1998 được Thủ tướng tặng bằng khen, năm 1999 được Chủ tịch nước tặng huân chương Lao động hạng Ba, liên tục trong các năm từ năm 2000 - 2005 được nhiều cấp khen thưởng : Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội tặng bằng khen, Thống đốc NHNN Việt Nam tặng bằng khen. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban Bảng 1: Sơ đồ Bộ máy hoạt động của chi nhánh NHCT Ba Đình GĐ & PGĐ Khối Dịch vụ Khối Dịch vụ Khối quản lý rủi ro Khối quản lý rủi ro Khối hỗ trợ Khối hỗ trợ Khối CNTT Khối CNTT PGD Tây Hồ Phòng KH DN lớn Phòng KH DN lớn Phòng DNVVN Phòng DNVVN Phòng KH cá nhân Phòng KH cá nhân Phòng Quản lí rủi ro PhòngKhối Kinh doanh Quản lí rủi ro Phòng Thông tin & Điện toán Phòng Thông tin & Điện toán Phòng Thanh toán XNK Phòng Thanh toán XNK Phòng Thẻ Phòng Thẻ Phòng Kế Toán Phòng Kế Toán Phòng Tổ chức Hành chính Phòng Tổ chức Hành chính Phòng Tổng hợp Phòng Tổng hợp Phòng Tiền Tệ & Kho quỹ Theo quyết định số 704/QĐ-NHCT ngày 06/04/2006 của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam về việc “Ban hành chức năng nhiệm vụ của các phòng ban tại chi nhánh NHCT”. Tính đến 1/2007, chi nhánh đã có 11 phòng ban, mỗi phòng ban đảm nhiệm chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Điều này có tác dụng giới hạn nghĩa vụ quyền hạn của từng phòng ban, trên cơ sở đó thực hiện chuyên môn hoá sâu trong một lĩnh vực hoạt động cuả chi nhánh. Tuy nhiên sự phân chia này cũng chỉ mang tính chất tương đối, các phòng vẫn có quan hệ hữu cơ với nhau trong một tập thể thống nhất, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. -Các phòng nghiệp vụ tín dụng Các phòng nghiệp vụ tín dụng bao gồm có phòng khách hàng 1 (Doanh nghiệp lớn), phòng khách hàng 2 (Doanh nghiệp vừa và nhỏ), phòng khách hàng cá nhân. Chức năng: Đây là những phòng trực tiếp giao dịch với khách hàng để khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tệ, thực hiện các nghiệp vụ có liên quan đến tín dụng, quản lý các nghiệp vụ tín dụng. Nhiệm vụ: Khai thác nguồn vốn từ đối tượng khách hàng, thực hiện hỗ trợ, tư vấn và chăm sóc khách hàng, thẩm định, chấm điểm và xếp hạng khách hàng, quản lý hạn mức tín dụng. Thực hiện các nghiệp vụ tín dụng và quản lý theo dõi các khoản tín dụng đã cấp. - Phòng kế toán Chức năng: Thực hiện giao dịch với khách hàng, quản lý tài chính, chi tiêu nội bộ, cung cấp các dịch vụ liên quan đến hạch toán, quản lý tiền mặt. Nhiệm vụ: Thực hiện các giao dịch với khách hàng, thực hiện kiểm soát sau thanh toán bù trừ, thanh toán liên ngân hàng, quản lý thông tin, lập kế hoạch báo cáo tài chính, tính trích nộp các khoản cho ngân sách, quản lý chứng từ và phối hợp với các phòng ban khác. - Phòng thẩm định và quản lý rủi ro Chức năng: Phòng thẩm định và quản lý rủi ro có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc Chi nhánh về công tác quản lý rủi ro, quản lý giám sát thực hiện danh mục cho vay, đầu tư và quản lý rủi ro trong toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Nhiệm vụ: Nghiên cứu chủ trương chính sách của nhà nước, thẩm định và tái thẩm định các dự án - phương án vay vốn, đánh giá rủi ro và phân loại nợ, tính toán trích lập dự phòng rủi ro, kiểm tra và rà soát kết quả chấm điểm, xếp hạng khách hàng đồng thời nghiên cứu danh mục tài sản đảm bảo nhằm phòng ngừa và hạn chế tổn thất rủi ro có thể xảy ra. - Phòng thẻ Chức năng: Phòng thẻ trực tiếp tham mưu cho ban Giám đốc chi nhánh trong việc triển khai mọi hoạt động liên quan đến các dịch vụ thẻ điện tử theo định hướng của NHCT VN. Nhiệm vụ: Thực hiện công tác Marketing, tư vấn và hỗ trợ khách hàng về dịch vụ thẻ, dịch vụ ngân hàng điện tử của NHCT VN trên địa bàn. Quản lý công việc phát hành và các công việc khác nhằm triển khai mở rộng dịch vụ thẻ. - Phòng thanh toán Xuất nhập khẩu Chức năng: Tổ chức thực hiện nghiệp vụ về thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh theo quy định của NHCT VN. Nhiệm vụ: Thực hiện nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu theo hạn mức được cấp, thực hiện nghiệp vụ mua bán ngoại tệ. Hỗ trợ phòng kế toán và phối hợp với bộ phận kiểm soát, đồng thời tư vấn cho khách hàng sử dụng các sản phẩm tài trợ thương mại, bảo hiểm tỷ giá. - Phòng tiền tệ kho quỹ Chức năng: Thực hiện nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt theo quy định của NHNN và NHCT VN. Ứng và thu tiền cho các quỹ tiết kiệm, các điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiền mặt cho các doanh nghiệp có thu chi tiền mặt lớn. Nhiệm vụ: Thực hiện thu chi tiền mặt, quản lý kho quỹ, phối hợp với các phòng kế toán, thường xuyên kiểm tra các hiện tượng sự cố ảnh hưởng tới kho quỹ. - Phòng tổ chức hành chính Chức năng: Thực hiện công tác tổ chức cán bộ và đào tạo tại chi nhánh, quản trị phục vụ hoạt động kinh doanh tại chi nhánh, thực hiện công tác bảo vệ, an ninh an toàn Chi nhánh. Nhiệm vụ: Thực hiện các quy định của nhà nước, quản lý lao động, bồi dưỡng cán bộ, xây dựng kế hoạch đào tạo, quản lý sử dụng các trang thiết bị, tổ chức công tác văn thư, công tác bảo vệ an toàn cho cơ quan và phối hợp với các phòng ban khác. - Phòng thông tin điện toán Chức năng: Thực hiện công tác quản lý, duy trì hệ thống thông tin điện toán tại chi nhánh. Bảo trì bảo dưỡng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống, máy tính của chi nhánh. Nhiệm vụ: Thực hiện quản lý về mặt công nghệ, quản lý các giao dịch trên máy, bảo dưỡng bảo trì hệ thống, triển khai các chương trình phần mềm mới, xây dựng các tiện ích và phối hợp các phòng ban nghiệp vụ. - Phòng tổng hợp Chức năng: Phòng tổng hợp là phòng nghiệp vụ tham mưu cho Giám đốc Chi nhánh, dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện báo cáo hàng năm của chi nhánh. Nhiệm vụ: Dự kiến kế hoạch kinh doanh, phân tích tài chính, đánh giá và tổng hợp tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh của Chi nhánh làm đầu mối các báo cáo nghiên cứu và đề xuất phương án mở rộng. 2.1.3. Hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Ba Đình Trong những năm vừa qua, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đó là thiên tai xảy ra liên tục, sự bất ổn định của kinh tế, chính trị thế giới (khủng bố, chiến tranh…) cùng với việc cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường đã gây ra những ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Chính phủ đã thực thi nhiều chính sách và giải pháp để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô cũng như kích cầu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng trong một số ngành, lĩnh vực vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn. Vốn là một lĩnh vực kinh doanh hết sức nhạy cảm với sự biến động của cơ chế thị trường, trước tình hình kinh tế như vậy, hoạt động Ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thử thách và chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình cũng không nằm ngoài ảnh hưởng chung đó Năm 2006 hoạt động kinh doanh của NHTM diễn ra rất sôi động. Nhiều chi nhánh, điểm giao dịch của NHTM được mở ra, Giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán liên tục tăng trên cả thị trường niêm yết chính thức và thị trường chứng khoán phi tập trung. Trong bối cảnh đó hoạt động kinh doanh của các NHTM trên địa bàn thủ đô vẫn tiếp tục ổn định, phát triển đạt được kết quả cao. Tuy nhiên, do quan hệ cung cầu vốn trên thị trường nên mặt bằng lãi suất huy động của các NHTMCP biến động mạnh, hầu hết đều áp dụng vượt các mức lãi suất đã thỏa thuận của Hiệp hội ngân hàng, tạo ra sự cạnh tranh, dịch chuyển vốn từ Ngân hàng này sang Ngân hàng khác. Tình hình đó đã làm cho lãi suất huy động vốn VND luôn không ổn định, cạnh tranh giữa các Ngân hàng ngày càng trở nên mạnh mẽ và gay gắt hơn. Năm 2007 là năm có nhiểu diển biến bất lợi, giá dầu mỏ và giá vàng liên tục tăng cao đạt mức kỷ lục. Nền kinh tế Việt Nam cũng phải đối mặt với những khó khăn thách thức mới, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và đời sống nhân dân. Cùng với sự xuất hiện thêm nhiều tổ chức định chế tài chính, các tổ chức tín dụng trong nước, thị trường nhà đất sốt trở lại làm gia tăng áp lực cạnh tranh trong lĩnh vực Ngân hàng nhất là trong lĩnh vực huy động vốn, phát triển các dịch vụ Ngân hàng. Năm 2008, nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng phải đối mặt với những khó khăn thách thức lớn nhất trong hơn một thập kỷ qua do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Với những biểu hiện cụ thể như: Đầu năm lạm phát tăng cao làm cho lãi suất huy động và cho vay bị đẩy lên rất cao, nhưng đến cuối năm khi NHNN thực hiện đồng bộ các gói giải pháp để kích cầu thì nước ta lại rơi vào tình trạng giảm phát, tuy nhiên cuộc chạy đua lãi suất giữa các Ngân hàng cũng giảm, tình hình thanh khoản tốt hơn. Đứng trước những khó khăn đó, cùng với những định hướng phát triển của đất nước, của ngành và với sự chỉ đạo sát sao của Ban lãnh đạo NHCT VN nói chung và Ban Giám đốc chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng cùng với sự nỗ lực quyết tâm phấn đấu của các đội ngũ cán bộ nhân viên, Chi nhánh NHCT Ba Đình đã đạt nhiều thành tích, kết quả to lớn đáng khích lệ, duy trì và đưa hoạt động kinh doanh của chi nhánh không ngừng phát triển về mọi mặt và có uy tín đối với doanh nghiệp và nhiều khách hàng xa gần, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển kinh tế trên địa bàn thành phố. Ta có thể xem xét tình hình hoạt động của Ngân hàng thông qua một số nghiệp vụ cơ bản sau: Thứ nhất: Về công tác huy động vốn Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ một trong những đặc trưng cơ bản là “ đi vay để cho vay” do đó nguồn vốn huy động hay còn gọi là đầu vào của Ngân hàng có ý nghĩa rất quan trọng, là điều kiện tiên quyết cho hoạt động của Ngân hàng. Nhận thức được tầm quan trọng đó, chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình đã luôn coi trọng công tác huy động vốn tiếp tục tăng trưởng nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ta có thể thấy rõ ở bảng sau: Bảng 2: Tình hình huy động vốn tại chi nhánh NHCT Ba Đình từ năm 2006 - 2008 Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2006 2007 2008 Số tiền Số tiền Mức tăng (giảm) % Tăng (giảm) Số tiền Mức tăng (giảm) % Tăng (giảm) Tổng nguồn vốn 4350 5141 791 18.18% 4493 -648 -12.60% 1. Theo đối tượng khách hàng - Tiền gửi của Tổ chức kinh tế 1962 2817 855 43.58% 2188 -629 -22.33% - Tiền gửi của dân cư 2388 2324 -64 -2.68% 2305 -19 -0.82% 2. Theo loại tiền gửi - VNĐ 3497 4040 543 15.53% 3410 -630 -15.59% - Ngoại tệ 853 1101 248 29.07% 1083 -18 -1.63% Nguồn: Phòng tổng hợp tiếp thị - NHCT Ba Đình Nhận xét Nhìn vào bảng số liệu trên cho thấy: Tình hình huy động vốn của chi nhánh NHCT Ba Đình nói chung có xu hướng tăng từ năm 2006 -2007 nhưng đến năm 2008 lại suy giảm. Cụ thể là: Năm 2006: Tổng nguồn vốn huy động đạt 4350 tỷ đồng Năm 2007: Tổng nguồn vốn huy động đến ngày 31/12/2007 đạt 5141 tỷ đồng, tăng 791 tỷ đồng tương ứng tăng 18,18% so với năm 2006. Năm 2008: Tổng nguồn vốn huy động đạt 4493 tỷ đồng, giảm 648 tỷ tương ứng giảm 12,6% so với năm 2007. Xét về cơ cấu nguồn vốn có sự biến động khá lớn, cụ thể là: Nguồn tiền gửi từ các Tổ chức kinh tế năm 2007 tăng 855 tỷ đồng (tương ứng tăng 43,58%) so với năm 2006 nhưng đến 31/12/2008 thì nguồn tiền gửi này lại sụt giảm mạnh đạt 629 tỷ (tương ứng giảm 22,33%). Nguồn tiền gửi VNĐ vào năm 2007: Tăng 543 tỷ đồng (tăng 15,53%) so với năm 2006 nhưng giảm mạnh khoảng 630 tỷ (tương ứng 15,59%) so với năm 2008. Nguồn tiền gửi bằng ngoại tệ năm 2007: Tăng 248 tỷ (tương ứng tăng 29,07%) so với năm 2006 nhưng lại giảm 18 tỷ (tương ứng 1,63%) vào cuối năm 2008. Nguồn tiền gửi bằng ngoại tệ: có xu hướng giảm qua các năm nhưng tốc độ chậm dần, cụ thể là: giảm 64 tỷ (tương ứng 2,68%) so với năm 2007 và giảm 19 tỷ (0,82%) vào cuối năm 2008. Nguyên nhân của những biến động bất thường trong ba năm qua do: Năm 2007 Tổng nguồn vốn huy động nói chung hay cơ cấu các nguồn tiền huy động nói riêng cuối năm 2007 tăng so với năm 2006, là do: - Tình hình kinh tế - chính trị trên thế giới bất ổn xong kinh tế - chính trị Việt Nam vẫn diễn biến theo tình huống tích cực, các thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. - Chính sách tiền tệ của NHNN cho phép thực hiên cơ chế lãi suất thỏa thuận trong cho vay VND, nới lỏng biên độ tỷ giá +/- 2% tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng mở rộng quyền tự chủ. - Sự nỗ lực và quyết tâm lớn của toàn thể CBCNV chi nhánh NHCT Ba Đình tìm kiếm, khai thác có chọn lọc với lãi suất hấp dẫn từ nhiều nguồn khác nhau. Năm 2008 Tổng nguồn vốn huy động có xu hướng giảm mạnh trong năm 2008, nguyên nhân chủ yếu do: - Năm 2008 có nhiều sự biến động về lãi suất huy động, sự cạnh tranh của các ngân hàng hết sức gay gắt nên nguồn vốn huy động giảm sút so với năm 2007. - Do tác động của cuộc cạnh tranh lãi suất giữa các Tổ chức tín dụng, sự biến động phức tạp của giá vàng và ngoại tệ trong năm 2008 nên nguồn vốn huy động tiết kiệm từ dân cư vẫn sụt giảm so với năm 2007. Thứ hai: Về hoạt động tín dụng Song song với việc huy động vốn thì nghiệp vụ sử dụng vốn có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nếu như huy động vốn được coi là điều kiện cần thì sử dụng vốn được coi là điều kiện đủ, quyết định đến sự sống còn của Ngân hàng Nhận thức đúng đắn vấn đề này, NHCT Ba Đình luôn coi trọng nghiệp vụ sử dụng vốn, đặt công tác tín dụng lên hàng đầu theo đúng chủ trương, chính sách của NHCT Việt Nam với phương châm “phát triển- an toàn- hiệu quả”. Trong những năm qua, công tác tín dụng của Ngân hàng đã đạt được nhiều kết quả rất khả quan. Ta có thể thấy được điều đó qua bảng số liệu sau: Bảng 3: Tình hình sử dụng vốn tại NHCT Ba Đình từ 2006 - 2008. Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2006 2007 2008 Số tiền Số tiền Mức tăng (giảm) % Tăng (giảm) Số tiền Mức tăng (giảm) % Tăng (giảm) Tổng dư nợ 2360 2643 283 111.99% 3201 558 21.11% 1. Dư nợ theo loại tiền Du nợ cho vay VNĐ 1710 1844 134 107.84% 2213 369 20.01% Dư nợ cho vay bằng ngoại tệ 650 799 149 122.92% 988 189 23.65% 2.Dư nợ theo thời gian Dư nợ ngắn hạn 1861 2195 334 117.95% 2087 -108 -4.92% Dư nợ dài hạn 499 448 -51 89.78% 1114 666 148.66% 3. Dư nợ theo thành phần kinh tế Doanh nghiệp nhà nước 986 1120.6 134.6 113.65% 1250.6 130 11.60% DN ngoài quốc doanh 1374 2522.4 1148.4 183.58% 1950.4 -572 -22.68% Nguồn: Phòng tổng hợp tiếp thị- NHCT Ba Đình Nhận xét Nhìn chung dư nợ cho vay nền kinh tế có xu hướng tăng dần qua các năm, cụ thể là: Tổng dư nợ đến 31/12/2007 đạt 2643 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 283 tỷ (+12%), vượt kế hoạch năm 4,9% . Đến cuối năm 2008 tăng 558 tỷ đồng so với cuối năm 2007, vượt 2,6% kế hoạch giao năm 2008. Trong đó: Về dư nợ theo loại tiền: Dư nợ cho vay VNĐ cuối năm 2007 đạt 1844 tỷ, so với kế hoạch năm đạt 104,8%, so với cuối năm 2006 tăng 7,8%. Đến 31/12/2008 đạt 103,6% kế hoạch giao và so với cuối năm 2007 tăng 369 tỷ đồng (+20%). Dư nợ cho vay ngoại tệ đến 31/12/2007 đạt 799 tỷ, so với kế hoạch đề ra trong năm đạt 105,1%, so với cuối năm trước tăng 22,9% và tăng 189 tỷ đồng (+23,7%) vào cuối năm 2008. Về dư nợ theo thời gian: Dư nợ cho vay ngắn hạn năm 2007 đạt 2195 tỷ đồng, so với cuối năm 2006 tăng 17,9% nhưng đến 31/12/2008 giảm 108 tỷ đồng, chiếm 65,2% tổng dư nợ giảm 17,8%. Dư nợ cho vay trung và dài hạn năm 2007 đạt 448 tỷ, so với cuối năm 2006 đạt 89,8%. Tuy nhiên đến thời điểm 31/12/2008 tăng 666 tỷ đồng tương đương 148,7% so với cuối năm 2007, chiếm 34,8% tổng dư nợ tăng 17,8%. Về cơ cấu dư nợ: Tỷ lệ cho vay DNNN cuối năm 2007 đạt 1250,6 tỷ, so với kế hoạch giảm 2,6%, so với cuối năm 2006 tăng 13,65% và tăng 11,6% vào cuối năm 2008. Tỷ lệ cho vay doanh nghiệp ngoài Quốc doanh cuối năm 2007 đạt 2522,4 tỷ, tăng 83,58% so với năm 2006 nhưng lại giảm mạnh 22,68% vào cuối năm 2008. -Chất lượng tín dụng Trong năm 2008, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung gặp rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Trong khi đó, khối các doanh nghiệp xây dựng trong lĩnh vực giao thông vận tải có dư nợ tại Chi nhánh vốn đã khó khăn từ những năm trước nay tiếp tục bộc lộ nhiều yếu kém, tình hình mất khả năng thanh toán còn trầm trọng, nợ xấu không có dấu hiệu được cải thiện. Mặt khác, khối các doanh nghiệp liên quan đến vận tải biển rơi vào tình trạng hết sức khó khăn do doanh thu giảm mạnh, chi phí đầu vào tăng, lợi nhuận giảm ảnh hưởng đến cam kết trả nợ của Ngân hàng. Mặc dù Ban Giám đốc Chi nhánh đã chỉ đạo sát sao, nắm bắt kịp thời hoạt động sản suất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp để đưa ra biện pháp xử lý, Ban xử lý nợ họp hàng tháng và có kiểm điểm thường xuyên nên tuy nợ nhóm II giảm nhưng nợ xấu vẫn gia tăng và khả năng thu hồi chậm. Cụ thể như sau: Bảng4: Chất lượng tín dụng theo nhóm nợ qua các năm của Chi nhánh Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2006 2007 2008 Số tiền Số tiền Mức tăng (giảm) % Tăng (giảm) Số tiền Mức tăng (giảm) % Tăng (giảm) Tổng nợ 2360 2643 283 11.99% 3201 558 21.11% Nợ nhóm I 2176.073 2642.845 466.772 21.45% 3200.86 558.0156 21.11% Nợ nhóm II 183 0.114 -182.886 -99.94% 0.038 -0.076 -66.67% Nợ xấu (III - V) 0.927 0.041 -0.886 -95.58% 0.1014 0.0604 147.32% Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh 2006-2008 · Nợ nhóm II : dư nợ nhóm II giảm dần qua các năm. Năm 2006 dư nợ nhóm II đạt 183 tỷ chiếm 7,75% tổng dư nợ phát sinh chủ yếu ở doanh nghiệp xây dựng giao thông. Tuy nhiên từ năm 2007-2008, nợ nhóm II có xu hướng giảm mạnh và đến cuối năm 2008 thì nợ nhóm I chỉ còn 38.329 triệu đồng, chủ yếu nằm ở các công ty như: Doanh nghiệp Hoàng Hải, công ty TNHH 1 thành viên VT Viễn Dương Vinashin… · Dư nợ xấu: Tình hình tồn đọng nợ xấu vẫn chưa được cải thiện trong năm 2008. Mặc dù tỷ trọng nợ xấu đã giảm 95,58% vào năm 2007 nhưng đến năm 2008, nợ xấu vẫn tăng 60.458 triệu đồng tương đương tăng 147% so với cuối năm 2007, so với kế hoạch năm 2008 tăng 238%. Tuy nhiên nợ xấu cũng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ. Thứ ba: Về các hoạt động khác - Nghiệp vụ bảo lãnh Hoạt động bảo lãnh luôn gắn liền với các công tác cho vay, trong nhiều năm qua nghiệp vụ này của Chi nhánh luôn được khách hàng tín nhiệm: Năm 2006, Chi nhánh đã bảo lãnh được 1907 món với giá trị 491,85 tỷ đồng. Trong năm này, phí thu được từ dịch vụ bảo lãnh là 5,25 tỷ đồng, góp phần đáng kể vào khối lượng thu dịch vụ chung của chi nhánh. Số dư bảo lãnh đến 31/12/2006 là 611,34 tỷ đồng. Đến năm 2007, bảo lãnh phát hành được 1687 món, doanh số 645,51 tỷ đồng, so với cuối năm 2006 doanh số tăng 136,71 tỷ đồng (tương đương 26,87%). Giá trị bảo lãnh đến ngày 31/12/2007 đạt 650,84 tỷ đồng, tăng 39,5 tỷ đồng so với cuối năm trước (tương đương với 6,46%). Đặc biệt trong năm 2008, do được khách hàng tín nhiệm nên khối lượng dịch vụ bảo lãnh tại Chi nhánh Ba Đình rất lớn, đạt 1,455 tỷ đồng, tăng hơn 2 lần so với năm 2007. - Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ Năm 2006, tổng doanh số mua bán ngoại tệ đạt 878,730 triệu USD, lãi gộp từ hoạt động này thu được 3122 triệu đồng. Đến năm 2007, doanh số mua bán ngoại tệ cả năm đạt 833,37 triệu USD giảm 45,36 triệu USD so với cuối năm 2006. Đặc biệt năm 2008 là năm đầy khó khăn kinh doanh đối ngoại do khủng hoảng kinh tế cộng với tình trạng nhập siêu nên gây hiện tượng khan hiếm ngoại tệ kéo dài, bên cạnh đó có sự thay đổi trong chính sách điều hành tỷ giá của NHNN và NHCT VN đã dẫn đến biến động rất lớn về kinh doanh ngoại tệ, do đó tổng doanh số mua bán ngoại tệ của cả năm 2008 đạt 640,972 triệu USD, giảm 192,65 triệu USD so với năm 2007. - Nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu Trong năm 2006, doanh số thanh toán đạt 175 triệu USD, tương đương 2815 tỷ đồng. Sang năm 2007, doanh số thanh toán cả năm là 311,61 triệu USD, tăng 78% so với năm 2006. Tuy nhiên đến năm 2008, doanh số thanh toán xuất nhập khẩu chỉ bằng 88% so với năm 2007, nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế và sự thay đổi mô hình tổ chức của NHCT VN với việc thành lập Sở Giao Dịch III. - Công tác Quản lý kho quỹ Nói chung công tác tiền tệ kho quỹ khá ổn định và an toàn, cụ thể là: Năm 2006, khối lượng tiền mặt thu chi qua quỹ Ngân hàng đạt 14610 tỷ VND, trong đó ngoại tệ đạt 390 triệu USD, đạt 15931 tỷ VND và 294 triệu USD vào cuối năm 2007, tăng hơn năm 2006 là 1321 tỷ đồng. Đến năm 2008, khối lượng thu chi tiền mặt qua quỹ Ngân hàng đạt 17880 tỷ VNĐ và 90 triệu USD, chấp hành các quy chế về thu chi tiền mặt, đảm bảo an toàn tuyệt đối. - Công tác phát triển thẻ Năm 2006 đã phát hành được 2908 thẻ này, tổng số thẻ ATM chi nhánh đang quản lý lên tới 5831 thẻ, lắp đặt được tổng số 13 máy ATM, phát hành 60 thẻ tín dụng quốc tế, đạt 100% kế hoạch thiết lập và lắp đặt 20 máy thanh toán EDC. Năm 2007 đã phát hành 3509 thẻ ATM, so với khách hàng đạt 43,8%, tăng 601 thẻ(20,7%) so với năm trước. Phát hành 108 thẻ tín dụng quốc tế, đạt 90% kế hoạch, tăng 48 thẻ (80%) so với năm 2006. Ký được 22 hợp đồng đối với cơ sở chấp nhận thẻ, đạt 88% kế hoạch, tăng 14 cơ sở chấp nhận thẻ (175%) so với năm 2006. Tính đến 31/12/2007, chi nhánh hiện đang quản lý 9340 thẻ ATM, 136 thẻ tín dụng quốc tế và được thiết lập được 22 đơn vị chấp nhận thẻ. Năm 2008, Chi nhánh đã triển khai rất nghiêm túc và có hiệu quả công tác phát triển thẻ đến toàn bộ các phòng ban, tổ nghiệp vụ. Năm 2008, Chi nhánh phát hành được: 18657 thẻ ATM đạt 93,3% kế hoạch; 89 thẻ tín dụng quốc tế đạt 111,3%; 10 cơ sở chấp nhận thẻ đạt 50%. Công tác thẻ và dịch vụ Ngân hàng điện tử được Chi nhánh xác định là một mảng nghiệp vụ mang tính chất dịch vụ cần phải phát huy trong giai đoạn tiếp theo. Thứ tư: Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Ba Đình Trong 3 năm qua nền kinh tế liên tục có những biến động không ngừng đặc biệt trong năm 2008 việc thực hiện các chỉ tiêu kinh doanh của Chi nhánh gặp không ít những khó khăn. Tuy nhiên với sự chỉ đạo sát sao của Ban lãnh đạo cùng với sự cố gắng nỗ lực của tập thể cán bộ, nhân viên kết quả kinh doanh của chi nhánh đã đạt được những thành tựu đáng kể: Lợi nhuận (chưa trích dự phòng) của chi nhánh liên tục tăng mạnh qua các năm đặc biệt năm 2008 đạt 210,3 tỷ đồng, lợi nhuận sau trích dự phòng rủi ro đạt 156 tỷ đồng tăng 266% so với năm trước vượt 4,01% kế hoạch giao, thu nhập của cán bộ được ổn định và từng bước cải thiện. 2.2.Thực trạng công tác XHTD DN tại chi nhánh NHCT Ba Đình 2.2.1. Quá trình hình thành, phát triển của hệ thống XHTD DN tại NHCTVN và NHCT Ba Đình Quá trình thực hiện XHTD DN tại NHCTVN có thể chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Từ năm 2005 trở về trước Sau khi NHNN có công văn số 538/CV-CLPT ngày 16/09/2004 chấp thuận và cho phép NHCTVN ban hành chính thức sổ tay tín dụng. Hội đồng quản trị NHCTVN đã có quyết định số 163/QĐ-NHCT về việc ban hành sổ tay tín dụng áp dụng trong toàn hệ thống NHCT, trong đó chương “Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng” là một chương cơ bản, đánh dấu điểm khởi đầu cho việc triển khai chẩm điểm tín dụng và XHKH tại NHCTVN nói chung và tại chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng. XHTD DN được thực hiện dựa trên phương pháp chấm điểm hai nhóm chỉ tiêu chính là: nhóm chỉ tiêu tài chính và nhóm chỉ tiêu phi tài chính. Khách hàng được phân chia theo bốn nhóm ngành nghề chính: Ngành nông, lâm, ngư nghiệp; ngành thương mại và dịch vụ; ngành công nghiệp; ngành xây dựng. Việc phân chia này phù hợp với quyết định số 57/2001/QĐ-NHNN ngày 24/01/2002 của NHNN về việc thí điểm triển khai đề án phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp. Sau khi thực hiện chấm điểm, khách hàng được xếp thành 10 loại theo mức độ rủi ro từ thấp đến cao. Từ đó, đưa ra quyết định đồng ý hay từ chối cấp tín dụng cho khách hàng, đồng thời có biện pháp kiểm soát những khoản tín dụng sau khi cho vay. Giai đoạn 2: Từ năm 2006 đến 2008 Theo quy định tại Điều 4 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN, trong vòng tối đa 03 năm kể từ ngày quyết định có hiệu lực thì các tổ chức tín dụng phải xây dựng Hệ thống XHTD nội bộ để hỗ trợ cho việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế. Mặt khác, theo yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế, đặc biệt là các cam kết mở cửa thị trường tài chính ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO thì hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và của NHCTVN nói riêng phải tuân thủ theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Do vậy, hệ thống XHTD nội bộ của NHCTVN phải đảm bảo việc XHTD khách hàng phù hợp với thông lệ quốc tế và đặc thù của NHCT VN. Qua đó, việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro của NHCT VN sẽ đảm bảo tuân thủ theo thông lệ quốc tế. Sau nhiều lần khảo sát áp dụng Hệ thống XHTD khách hàng trong thực tế, kết hợp nghiên cứu lý thuyết, thực tiễn chấm điểm, xếp hạng trong nước và nước ngoài. NHCT đã có những định hướng sửa đổi, hoàn thiện quy trình chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng hơn bằng việc ra đời Quy trình chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng mã số QT.35.02 ngày 30/10/2006 (Áp dụng cho các khách hàng doanh nghiệp và cá nhân) ban hành kèm theo Quyết định số 1880/QĐ-NHCT 35 với nội dung sửa đổi tập trung vào việc tăng cường quy trình kiểm tra và kiểm soát kết quả xếp hạng. Giai đoạn 3: Từ 2008 đến nay Sau một thời gian áp dụng Quy trình QT 35.02, xuất hiện một số vấn đề không hợp lý và chưa thật cụ thể trong việc hướng dẫn xếp hạng. Do đó, NHCTVN lại tiếp tục nghiên cứu và Sửa đổi quy trình QT.35.02 nói trên bằng việc ra đời Quy trình chấm điểm tín dụng và XHKH mã số QT.35.02 với nội dung thay thế các chỉ tiêu không phù hợp, hướng dẫn chấm điểm các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính cụ thể hơn. 2.2.2. Phương pháp XHTD DN tại chi nhánh NHCT Ba Đình NHCTVN ban hành phương pháp và quy trình XHTD doanh nghiệp thống nhất từ trụ sở đến toàn Chi nhánh. Theo đó, chi nhánh NHCT Ba Đình áp dụng phương pháp XHTD doanh nghiệp dựa trên việc chấm điểm các nhóm chỉ tiêu tài chính và phi tài chính của từng khách hàng. XHTD doanh nghiệp tại chi nhánh NHCT Ba Đình có những đặc điểm cơ bản sau: - Khách hàng vay vốn được phân loại theo loại hình, lĩnh vực mà doanh nghiệp hoạt động. Từ đó, tiến hành đánh giá quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Ứng với mỗi loại hình và quy mô khác nhau, chấm điểm áp dụng thang điểm và trọng số khác nhau đối với mỗi chỉ tiêu. - Các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính được phân thành 5 khoảng giá trị tương ứng với 5 mức điểm ban đầu khác nhau là 100,80,60,40,20 đối với các chỉ tiêu tài chính và 20,16,12,8,4 đối với các chỉ tiêu phi tài chính. Tuỳ vào mức độ trọng yếu của từng chỉ tiêu mà áp dụng trọng số khác nhau. Do đó, điểm cuối cùng mà khách hàng nhận được là điểm tổng hợp giữa tích số của điểm ban đầu và trọng số tương ứng của chúng. Ngoài ra có kể đến các yếu tố như: báo cáo tài chính đã được kiểm toán hay chưa? Doanh nghiệp có báo cáo lưu chuyển tiền tệ hay không?... - Việc chấm điểm dựa trên hệ thống lớn các chỉ tiêu, chúng có mối quan hệ tương hỗ và cùng có tác dụng hỗ trợ nhau trong việc đưa ra quyết định cuối cùng của cán bộ tín dụng, tuy nhiên việc sai sót một hoặc một vài chỉ tiêu cũng không gây ảnh hưởng trọng yếu đến kết quả đánh giá và XHTD khách hàng. - Sau khi việc chấm điểm và XHTD doanh nghiệp được thực hiện xong, kết quả phải được lãnh đạo phòng và Giám đốc Chi nhánh kiểm tra để đảm bảo tính trung thực, khách quan, hạn chế sai sót trong quá trình đánh giá. - Thực tế hiện nay tại chi nhánh NHCT Ba Đình, toàn bộ quá trình thu thập thông tin, chấm điểm và XHTD doanh nghiệp đều do cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Họ chính là người trực tiếp chịu trách nhiệm đến quá trình XHTD doanh nghiệp. 2.2.3. Quy trình XHTD doanh nghiệp tại chi nhánh NHCT Ba Đình Một Quy trình XHTD luôn được thiết lập sao cho phù hợp với phương pháp XHTD khách hàng mà ngân hàng áp dụng. Theo đó, cùng với phương pháp chấm điểm, NHCT VN đã ban hành quy trình XHTD doanh nghiệp theo trình tự gồm 5 bước, được áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống NHCT. Do đó, quy trình XHTD doanh nghiệp của NHCT VN nói chung và Chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng được mô tả khái quát qua sơ đồ như sau: Bảng 5: Quy trình xếp hạng khách hàng doanh nghiệp Thu thập thông tin về khách hàng Xác định ngành nghề KD của KH Xác định quy mô của doanh nghiệp Chấm điểm các chỉ tiêu phi tài chính Chấm điểm các chỉ tiêu tài chính Tổng hợp điểm và xếp hạng KH Theo quy trình trên, việc chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng do phòng chấm điểm tín dụng thực hiện. Việc rà soát đối với khách hàng được thẩm định rủi ro do phòng QLRR thực hiện. Cụ thể trách nhiệm và quyền hạn của mỗi bên như sau: - Cán bộ tín dụng: + Thu thập hồ sơ, thông tin khách hàng, thẩm định lại thông tin, thực hiện chấm điểm tín dụng và XHKH. + Chuyển kết quả CĐTD và XHKH (đã được lãnh đạo phòng CĐTD kiểm soát) của những khách hàng phải thẩm định rủi ro tín dụng độc lập cho phòng quản lý rủi ro. - Lãnh đạo phòng CĐTD: + Kiểm soát kết quả CĐTD và XHKH của cán bộ CĐTD. + Báo cáo lãnh đạo NHCV kết quả CĐTD và XHKH. - Cán bộ phòng quản lý rủi ro: + Rà soát việc thực hiện CĐTD và XHKH của cán bộ CĐTD đối với các khách hàng phải thẩm định rủi ro tín dụng độc lập, đảm bảo tuân thủ theo đúng quy trình này + Dự thảo báo cáo rà soát kết quả CĐTD, nêu rõ các nội dung chưa chính xác, không phù hợp, đề nghị sửa đổi. - Lãnh đạo phòng quản lý rủi ro: Kiểm tra lại kết quả rà soát CĐTD và XHKH, đồng thời kiểm tra các đề xuất của cán bộ phòng QLRR. 2.2.4. Nội dung quy trình xếp hạng khách hàng Bước 1: Thu thập thông tin về khách hàng Thông tin sử dụng để chấm điểm và xếp hạng khách hàng là thông tin tài chính được cập nhật đến thời điểm lập báo cáo năm tài chính gần nhất và thông tin phi tài chính cập nhật đến thời điểm chấm điểm và xếp hạng. Sau khi nhận được hồ sơ thông tin khách hàn._.ào kinh nghiệm của người phân tích và tập hợp số liệu của các doanh nghiệp từng ngành mà ngân hàng đang quản lý. Chương 3: Hoàn thiện hệ thống XHTD doanh nghiệp tại chi nhánh NHCT Ba Đình 3.1. Định hướng phát triển của Chi nhánh NHCT Ba Đình 3.1.1. Định hướng chung Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng về chiến lược phát triển kinh tế xã hội và phát triển Đất Nước đến năm 2010 và 2020, yêu cầu phát triển ngành ngân hàng Việt Nam theo chỉ thị 275/BSCĐ của Ban cán sự Đảng Ngân hàng nhà nước Việt Nam về đề án cơ cấu lại NHCT VN giai đoạn 2001-2010 đã được Chính phủ phê duyệt mục tiêu là: “Xây dựng NHCT VN thành tập đoàn tài chính – Ngân hàng với hai trụ cột chính là NHTM và ngân hàng đầu tư trên cơ sở áp dụng các thông lệ quốc tế tốt nhất, tiêu chuẩn hóa các dịch vụ, giá trị ngân hàng và giá trị nguồn nhân lực, hướng tới mục tiêu trở thành tập đoàn tài chính hàng đầu tại Việt Nam, ngang tầm với khu vực và vươn xa tầm thế giới”. Để đạt được mục tiêu như định hướng đã đề ra, với những thời cơ thách thức nhu hiện nay, Ban lãnh đạo NHCT Việt Nam đã đưa ra những định hướng chiến lược cụ thể như sau: Một là: Chiến lược tăng cường năng lực tài chính, phát triển mạng lưới, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ và nâng cao hiệu quả kinh doanh, cụ thể là: Tập trung nguồn lực củng cố và mở rộng hệ thống mạng lưới kinh doanh tăng cường năng lực tài chính, nâng cao chất lượng hoạt động và hiệu quả kinh doanh. Duy trì vị thế thị phần phát triển, mở rộng hoạt động hiện tại trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ và đẩy mạnh ngân hàng bán buôn. Bảo đảm đạt các chỉ số đánh giá hiệu quả kinh doanh và an toàn hoạt động, phát triển bền vững của NHCT VN như: phấn đấu đến năm 2010, tỷ lệ nợ xấu dưới 3% tổng dư nợ cho vay, chỉ số tỷ lệ an toàn tối thiểu (COOK) đạt từ 8% trở lên, ROA đạt mức 1%, ROE đạt mức 13-15%. Hai là: Chiến lược về chuẩn hóa mô hình tổ chức, quản trị điều hành và minh bạch hóa tài chính: Chuẩn hóa mô hình tổ chức, cơ chế quản trị, điều hành hệ thống phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường và chuẩn mực quốc tế. Phát triển Vietinbank thành tập đoàn Tài chính – Ngân hàng mạnh, hoạt động theo mô hình công ty mẹ con, đa sở hữu, kinh doanh đa ngành nghề, trong đó cốt lõi là NHTM, ngân hàng đầu tư và các dịch vụ tài chính. Lựa chọn và áp dụng các thông lệ Quốc tế tốt nhất vào mô hình tổ chức, quản trị, điều hành, quản lý và kiểm soát rủi ro. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về quản trị, điều hành kinh doanh, quản lý kiểm soát rủi ro, quy trình kỹ thuật nghiệp vụ, đánh giá hiệu quả kinh doanh theo thông lệ quản trị hiện đại trong lĩnh vực Tài chính -Ngân hàng trên thế giới. Ba là: Chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cải thiện căn bản chất lượng nguồn nhân lực. Từ năm 2009-2015 sẽ tiếp tục cơ cấu lại nguồn nhân lực một cách mạnh mẽ, không tăng mà giảm số lượng, tăng chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ năng lực chuyên môn cao, đào tạo nhiều hơn các kiến thức nghiệp vụ của ngân hàng Quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế động lực tiền lương, tiền thưởng theo nguyên tắc gắn lợi ích với trách nhiệm, kết quả, năng suất, hiệu quả công việc của từng cán bộ Vietinbank. Bốn là: Chiến lược đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, cụ thể là tập trung đầu tư phát triển mạnh công nghệ thông tin ngân hàng, xây dựng công nghệ thông tin đồng bộ, hiện đại, an toàn và hiệu quả. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới, hiện đại trong lĩnh vực quản trị ngân hàng, kiểm soát rủi ro, phát triển sản phẩm dịch vụ mới. Coi công nghệ ngân hàng là yếu tố then chốt, là cơ sở nền tảng để phát triển, hội nhập tích cực với khu vực và quốc tế. 3.1.2. Định hướng cụ thể 3.1.2.1. Định hướng hoạt động tín dụng Tiếp tục phục vụ tốt các khách hàng truyền thống, các Tổng công ty với các dự án lớn, các khách hàng hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, từng bước đa dạng hóa đối tượng khách hàng theo hướng an toàn, bền vững và có hiệu quả. Phát triển tín dụng dịch vụ đối với khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, đặc biệt là các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp mà sản phẩm được thị trường chấp nhận. Giảm dư nợ theo lộ trình khả thi, an toàn đối với doanh nghiệp xây lắp tiểm ẩn rủi ro; tiếp tục duy trì tín dụng có đảm bảo đối với các doanh nghiệp xây lắp hoạt động có hiệu quả, có tình hình tài chính lành mạnh,có định hướng tốt đặc biệt là các Tổng công ty có định hướng rõ ràng khả thi, có hiệu quả trong việc tái cơ cấu lại sau những khó khăn của khối xây lắp. Tiếp tục thực hiện các biện pháp nhằm tận thu nợ xấu, nợ ngoại bảng đối với các công ty có dư nợ xấu tại chi nhánh trong thời gian qua. Đồng thời, tiếp tục thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đối với các khách hàng. Rà soát, đánh giá tình hình giải ngân, thu nợ đảm bảo kiểm soát việc thực hiện giới hạn và cơ cấu tín dụng theo kế hoạch từng năm. Một số chỉ tiêu chủ yếu của chi nhánh phấn đấu trong năm 2009 là: Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 4.500 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là 2%, phấn đấu thu 100% số nợ ngoại bảng của năm 2008. 3.1.2.2. Định hướng xây dựng hệ thống XHTD nội bộ Trong thời gian tới, thực hiện chỉ đạo của Ban lãnh đạo NHCT Việt Nam, phòng Chế độ tín dụng, đầu tư tại trụ sở chính đang nghiên cứu việc xây dựng hệ thống XHTD nội bộ (trong đó Hệ thống chấm điểm và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp sẽ là một cấu phần) theo tiêu chuẩn Quốc tế (Basel II). Nếu được triển khai, hệ thống XHTD nội bộ nói chung và hệ thống xếp hạng doanh nghiệp nói riêng sẽ là bước tiến lớn so với hệ thống hiện nay. Tuy nhiên thời gian nghiên cứu và triển khai hệ thống XHTD nội bộ sẽ kéo dài tối thiểu 03 năm nên trong thời gian quá độ, việc hoàn chỉnh hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng vẫn cần phải thực hiện để hỗ trợ quá trình ra quyết định và quản lý tín dụng tại Chi nhánh NHCT Ba Đình. Ngoài ra, NHCT sẽ tiếp tục kết hợp với Trung tâm thông tin tín dụng NHNN (CIC) xây dựng đề án khai thác các thông tin tín dụng thông qua Trụ sở chính. NHCT lắp đặt đường truyền có tốc độ cao và ổn định, kết nối trực tiếp với CIC, thông qua đường truyền này tất cả Chi nhánh NHCT có thể tra cứu thông tin qua mạng nội bộ. Với những hạn chế và định hướng như trên, NHCT VN nói chung và Chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng cần có những giải pháp thích hợp để hoàn thiện XHTD doanh nghiệp trong thời gian tới. 3.2. Giải pháp hoàn thiện XHTD doanh nghiệp 3.2.1.Xây dựng hệ thống thông tin là cơ sở cho phân tích và XHTD doanh nghiệp Mức độ chính xác của kết quả XHTD phụ thuộc vào phần lớn nguồn thông tin hiện có. Nguồn thông tin chủ yếu mà ngân hàng có chủ yếu từ: Báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp, Từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC), từ Ngân hàng khác, từ báo chí…Tuy nhiên, quá trình thu thập và xử lý thông tin của ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, cần phải tìm cách khắc phục trong thời gian tới. Một trong những giải pháp có thể như sau: - Đối với Nguồn thông tin từ Báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp Để đảm bảo độ chính xác của các con số hay thông tin trên báo cáo, Cán bộ tín dụng có thể yêu cầu báo cáo tài chính phải được kiểm toán. Trong đó, chỉ xác định thông tin được kiểm toán khi ý kiến kiểm toán là: ý kiến chấp nhận toàn phần hoặc ý kiến chấp nhận từng phần, ngoài ra phải đánh giá yếu tố tùy thuộc (hoặc ngoại trừ) mà kiểm toán viên đã nêu ra trong báo cáo kiểm toán là không ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Trưòng hợp báo cáo tài chính được kiểm toán song ý kiến kiểm toán là : ý kiến từ chối; không thể đưa ra ý kiến; ý kiến không chấp nhận hoặc ý kiến trái ngược thì báo cáo tài chính đwocj xem là chưa kiểm toán. Từ thông tin được xác định ở trên, ta có thể áp dụng mức trọng số thích hợp đối với loại báo cáo được kiểm toán hay chưa được kiểm toán. Ngoài ra, Cán bộ tín dụng cũng cần kiểm tra độ chính xác của các khoản mục quan trọng như (các khoản phải thu, hàng tồn kho, tài sản cố đinh, công nợ phải trả…), rồi đánh giá tính chất của các khoản mục đó dựa trên kiến thức và kinh nghiệm thực tế. Mặt khác, ngân hàng có thể thiết kế hệ thống câu hỏi cần trả lời để tìm hiểu các thông tin phi tài chính của chủ doanh nghiệp, từ đó cho điểm phi tài chính của khách hàng được chính xác hơn. - Đối với nguồn thông tin từ NHNN Chi nhánh cần xây dựng , cập nhật thông tin từ NHNN. Điều này giúp ngân hàng có được các thông tin cần thiết về các NHTM, tình hình khách hàng quan hệ tín dụng với các ngân hàng ra sao? từ đó giúp các NHTM tránh được tình trạng cho vay mà không hiểu rõ về khách hàng, hay tránh xảy ra hiện tượng một hồ sơ khoản vay của một khách hàng lại được vay tại nhiều NHTM. Ngoài ra, việc cập nhật thông tin từ CIC là điều hết sức cần thiết đối với các Ngân hàng đặc biệt trong trường hợp khách hàng lớn, khó đánh giá xếp hạng, Ngân hàng cần tham khảo kết quả đánh giá xếp hạng của CIC để từ đó đưa ra quyết định hay chính sách khách hàng hợp lý đối với từng ngân hàng. 3.2.2. Hoàn thiện quy trình xếp hạng tín dụng doanh nghiệp Quy trình XHTD doanh nghiệp tại Chi nhánh tỏ ra khá chi tiết và khoa học, tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn quy trình xếp hạng như sau: - Đối với việc xác định quy mô doanh nghiệp Việc xác định quy mô doanh nghiệp là việc làm cần thiết để từ đó cùng với ngành nghề/ lĩnh vực hoạt động, CBTD lựa chọn bộ chỉ tiêu chấm điểm cho phù hợp. Hiện nay, Chi nhánh xác định quy mô doanh nghiệp dựa trên bốn tiêu chí chính: Nguồn vốn kinh doanh, doanh thu thuần, số lượng lao động, giá trị nộp ngân sách mà không nói đến quy mô về tổng tài sản. Do đó, việc xác định quy mô doanh nghiệp nên bổ sung thêm chỉ tiêu tổng tài sản (tổng nguồn vốn) để công việc xác định quy mô được cụ thể, chính xác hơn. Ngoài ra, mỗi loại hình doanh nghiệp khác nhau có thể có đặc thù về quy mô khác nhau như: Đặc thù về quy mô vốn điều lệ. đặc thù về nguồn vốn kinh doanh…Vì vậy, cần cụ thể hóa tiêu chí chấm điểm quy mô doanh nghiệp cho từng ngành nghề kinh doanh có tính đặc thù để đảm bảo tính hợp lý và chính xác trong chấm điểm và XHTD khách hàng. - Đối với việc xác định ngành nghề/lĩnh vực kinh doanh Để kết quả XHTD được chính xác thì đòi hỏi công việc đầu tiên cần làm là phải xác định ngành nghề/lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp được chính xác. Việc phân loại ngành nghề càng chi tiết thì mang lại kết quả xếp hạng có độ chính xác càng cao. Mà hiện nay, NHCT VN nói chung và Chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng chỉ phân loại ngành nghề theo 4 lĩnh vực hoạt động chính, do đó để đảm bảo độ chính xác cho kêt quả chấm điểm và XHDN cần phân tách các ngành nghề thành nhiều nhóm ngành chi tiết và cụ thể hơn nữa, ví dụ có thể phân loại doanh nghiệp thành 8 nhóm ngành khác nhau như: Trồng trọt, chăn nuôi; Chế biến các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp; Xây dựng và bất động sản; Thương mại, hàng hóa; Dịch vụ; Công nghiệp khai thác năng lượng; Công nghiệp chế tạo; Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Mặt khác, đối với những doanh nghiệp hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau mà có hai hay vài ngành nghề đều mang lại tỷ lệ doanh thu lớn và đều nằm trong chiến lược phát triển đồng đều các ngành nghề đó của doanh nghiệp. Khi đó, ta có thể phân tách các ngành nghề đó, rồi thực hiện XHTD doanh nghiệp đó trên cơ sở: Chấm điểm tài chính giống nhau và chấm điểm phi tài chính khác nhau đối với từng ngành. Điểm tổng hợp của doanh nghiệp là tổng điểm tài chính và phi tài chính có tính trọng số theo doanh thu từng ngành. - Đối với một số trường hợp đặc biệt + Đối với các doanh nghiệp mới thành lập hay mới chia tách, sát nhập Hầu hết khách hàng muốn vay vốn của Chi nhánh đều được chấm điểm và xếp hạng theo quy trình chung mà NHCT VN ban hành. Tuy nhiên đối với những đơn vị mới thành lập, hay chia tách sát nhập là các đối tượng chưa có đầy đủ thông tin tài chính, vì vậy cần có quy định riêng đối với các đối tượng này, cụ thể là: Đối với các doanh nghiệp mới thành lập: Do chưa có báo cáo tài chính đầy đủ, việc chấm điểm các chỉ tiêu tài chính nên được kết hợp với việc đánh giá phương án kinh doanh, tính toán các chỉ tài chính theo năm vừa hoạt động và các chỉ tiêu kế hoạch của phương án để có cái nhìn khái quát về doanh nghiệp. Còn đối với các chỉ tiêu phi tài chính thì chỉ nên chấm một số tiêu chí điển hình. Tuy nhiên, để xếp hạng đối với những đối tượng này, Cán bộ chấm điểm nên chú trọng đánh giá thang điểm phi tài chính hơn. Đối với doanh nghiệp mới chia tách, sát nhập, hợp nhất: Nếu công việc này không làm ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất, tài chính của khách hàng thì việc chấm điểm và xếp hạng như những khách hàng bình thường. Trường hợp có những thay đối lớn thì àp dụng chấm điểm và xếp hạng như doanh nghiệp vừa mới thành lập. + Đối với các doanh nghiệp mới có quan hệ vay vốn với NHCT: NHCV chấm điểm các tiêu chí phi tài chính như bình thường nhưng riêng với tiêu chí quan hệ tín dụng có thể chấm tối đa ở mức điểm nào đó (<10). Nếu khách hàng phát sinh nợ quá hạn, nợ cơ cấu hoặc trả thay…NHCV cũng có thể chấm điểm các tiêu chí này ở thang điểm thấp hơn. Tuy nhiên, trường hợp mà doanh nghiệp có cam kết ngoại bảng với NHCT, mới phát sinh quan hệ vay vốn lần đầu, NHCV có thể xem xét chấm điểm các tiêu chí quan hệ tín dụng và phi tín dụng tối đa ở mức điểm nào đó nhưng bốn tiêu chí: NHCT phải trả thay; Thời gian quan hệ tín dụng với NHCT; Mức độ sử dụng các dịch vụ; Tình hình quan hệ tín dụng với các TCTD khác được chấm điểm theo số liệu thực tế. 3.2.3. Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích Thứ nhất: Đối với các chỉ tiêu tài chính Hệ thống chỉ tiêu tài chính được áp dụng tại Chi nhánh NHCT Ba Đình còn chưa đầy đủ , chưa phản ánh được cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ngoài ra, còn nhiều chỉ tiêu không rõ ràng. Do đó, cần bổ sung các chỉ tiêu quan trọng sau: - Đối với nhóm chỉ tiêu thanh khoản: Cần bổ sung thêm chỉ tiêu khả năng thanh toán tức thời, khả năng thanh toán dài hạn. - Đối với chỉ tiêu hoạt động: Cần bổ sung thêm vòng quay vốn lưu động - Đối với nhóm chỉ tiêu cân nợ: Cần phải bóc tách hệ số nợ sâu hơn, cụ thể là: cần phải phân biệt nợ ngắn hạn và nợ dài hạn theo từng nhóm ngành như: Tỷ trọng nợ dài hạn cao hơn nợ ngắn hạn là điều hợp lý đối với ngành xây dựng nhưng sẽ là không hợp lý đối với ngành thương mại- dịch vụ ...Việc phân loại như vậy mới xác định được mức độ hợp lý và an toàn của các hệ số nợ. Ngoài ra, chỉ tiêu “nợ quá hạn” cần phải quy định thống nhất trong toàn hệ thống ngân hàng, nên áp dụng theo hướng phù hợp với xu hướng chung trên thế giới hiện nay bằng cách xác định nợ quá hạn theo điều 7/QĐ493. Tuy nhiên để làm được điều đó, đòi hỏi Chi nhánh NHCT Ba Đình phải xây dựng cho mình một hệ thỗng XHTD nội bộ từ đó ứng dụng kết quả xếp hạng vào phân loại nợ theo mức độ rủi ro của xếp hạng. - Đối với nhóm chỉ tiêu thu nhập: Việc tính toán các chỉ tiêu dựa trên Tổng thu nhập trước thuế là không chính xác vì Lợi nhuận sau thuế mới thực chất phản ánh chính xác kết quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp. Do đó, cần phải thay thế bằng các chỉ tiêu tính trên lợi nhuận sau thuế để xác định chính xác hơn kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, cụ thể như: Lợi nhuận sau thuế/Doanh thu thuần (ROS); Lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản (ROA); Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu (ROE). Mặt khác, trong điều kiện khủng hoảng hiện nay, tình hình sản xuất kinh doanh giảm sút hay thua lỗ là điều khó tránh khỏi. Trong khi đó, nhiều thang điểm giá trị chuẩn để so sánh, chấm điểm còn quá cao so với thực tế của các doanh nghiệp mới thành lập, hay mới chia tách, sát nhập. Vì vậy, việc xếp hạng các đối tượng này không nên quá chú trọng vào các chỉ tiêu tài chính mà nên đánh giá có chiều sâu về các chỉ tiêu phi tài chính, đặc biệt là khả năng kinh nghiệm của Ban lãnh đạo doanh nghiệp. Thứ hai: Đối với các chỉ tiêu phi tài chính Đây là những chỉ tiêu mang tính định tính rất cao nên độ chính xác của kết quả chấm điểm chủ yếu phụ thuộc vào nhận định, đánh giá chủ quan của Cán bộ chấm điểm. Do đó, cần hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phi tài chính này theo hướng tập trung vào chiều sâu của mỗi tiêu chí hơn. - Hoàn thiện các chỉ tiêu lưu chuyển tiền tệ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo được xem là quan trọng nhất trong các báo cáo tài chính, nó mang lại nguồn thông tin quan trọng phục vụ đắc lực cho việc đánh giá và nhận định của Cán bộ chấm điểm trong công tác xếp hạng khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay Chi nhánh mới áp dụng 5 chỉ tiêu theo tiêu chí lưu chuyển tiền tệ mà trong số đó nên bỏ hai chỉ tiêu không mang tính chất phi tài chính, do đó để tận dụng được nguồn thông tin do Báo cáo lưu chuyển tiền tệ mang lại nên bổ sung thêm ba chỉ tiêu sau: + Chỉ tiêu: Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh/ Tổng lưu chuyển thuần Chỉ tiêu này cho biết khả năng tạo tiền từ hoạt động kinh doanh của chính doanh nghiệp. Đây là nguồn tiền được dùng để trang trải chủ yếu cho hoạt động đầu tư dài hạn và trả nợ vay của doanh nghiệp. + Chỉ tiêu: Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư/Tổng lưu chuyển tiền thuần Đây là chỉ tiêu cho thấy khả năng tạo tiền từ từ các khoản đầu tư của doanh nghiệp (Đầu tư chứng khoán, đầu tư bất động sản, cho thuê dài hạn tài sản cố định…). Khi hệ số này cao tức dòng tiền vào từ hoạt động đầu tư chiểm tỷ trọng cao. Nếu chưa có kế hoạch tái đầu tư, doanh nghiệp sẽ dùng nguồn tiền này để ưu tiên thanh toán các khoản nợ đến hạn, nợ dài hạn …Sau đó, doanh nghiệp sẽ điều tiết vốn cho hoạt động kinh doanh chính để giảm các khoản vay ngắn hạn. Nhìn chung chỉ tiêu này, đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp khá tốt. + Chỉ tiêu: Dòng tiền ra để trả cổ tức/ Dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh Chỉ tiêu này nên được tính đối với các công ty cổ phần. Nó cho biết việc sử dụng dòng tiền thu được từ hoạt động kinh doanh để trả cổ tức cho các cổ đông của doanh nghiệp. Điều này đáng quan tâm trong trường hợp một số công ty có chính sách duy trì đều đặn mức trả cổ tức mặc dù phải đi vay trong điều kiện dòng tiền tạo ra từ hoạt động kinh doanh không đủ. Do đó, hệ số này luôn phải cân nhắc trong việc tính toán nhu cầu vốn thực sự của doanh nghiệp trong từng giai đoạn chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. 3.2.4. Hoàn thiện công tác tổ chức triển khai XHTD doanh nghiệp - Định kỳ XHTD doanh nghiệp Hiện nay, sau khi thực hiện xếp hạng tín dụng xong, Chi nhánh NHCT Ba Đình tiến hành đánh giá định kỳ lại khách hàng hàng năm, điều này giúp ngân hàng có cái nhìn khách quan hơn về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trong cả năm hoạt động để từ đó, xếp hạng lại doanh nghiệp vào mức phù hợp. Tuy nhiên, việc định kỳ đánh giá lại như vậy là hơi dài và không nên quy định chung đối với tất cả các khách hàng. Do đó, để nâng cao chất lượng đánh giá hơn nữa, ngân hàng cần rút ngắn thòi gian đánh giá định kỳ theo quý hoặc theo nửa năm hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, việc định kỳ đánh giá lại khách hàng nên tùy thuộc vào từng đối tượng khách hàng, căn cứ vào chỉ các chỉ tiêu như: quy mô dư nợ, kết quả phân loại nợ…Cụ thể là: Đối với các doanh nghiệp có quy mô dư nợ lớn, khi xảy ra rủi ro ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng, do đó đối với khách hàng có dư nợ tại Chi nhánh từ 5 tỷ đồng trở lên thì thực hiện đánh giá định kỳ 3 tháng/lần, những trường hợp còn lại nên đánh giá định kỳ 6 tháng/lần để đảm bảo cập nhật thông tin nhanh chóng về khách hàng và độ chính xác trước, trong và sau khi cho vay. - Thành lập bộ phận chuyên trách về công tác chấm điểm và XHTD doanh nghiệp Hiện nay ở Chi nhánh NHCT Ba Đình, Cán bộ tín dụng là người thực hiện tất cả các khâu trong quá trình cho vay (bao gồm cả chấm điểm và XHTD). Số lượng công việc nhiều, kiến thức hạn chế nên kết quả xếp hạng chưa cao. Do đó, đòi hỏi Chi nhánh cần phải sớm xây dựng một bộ phận có trình độ chuyên môn cao về chấm điểm và xếp hạng tín dụng doanh nghiệp. Điều này, sẽ giúp cho ngân hàng thực hiện công tác này chuyên nghiệp hơn, hạn chế rủi ro phát sinh trong quá trình đánh giá. - Đào tạo và nâng cao đội ngũ cán bộ phân tích và XHTD doanh nghiệp Con người luôn được xem là nhân tố quan trọng nhất trong tất cả mọi công việc. Một ngân hàng dù có áp dụng phương pháp và quy trình hoàn hảo, khoa học nhưng nếu đội ngũ cán bộ triển khai không hiệu quả thì công tác XHTD đó bị xem là chưa thành công. Do đó, việc nâng cao trình độ kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ xếp hạng được coi là vấn đề hết sức cần thiết, nó quyết định phần lớn đến mức độ chính xác của các kết quả phân tích và xếp hạng doanh nghiệp. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ chấm điểm và xếp hạng không chỉ có kiến thức sâu về nghiệp vụ mà còn phải là người giàu kinh nghiệm thực tế, hiểu biết sâu về ngành nghề/lĩnh vực khách hàng của mình. Nói chung là cần có sự phân tích, tổng hợp về nhiều mặt, nhiều khía cạnh của vấn đề. Để nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, ngân hàng cần tổ chức các khóa học đào tạo trong nội bộ ngân hàng, cử một số cán bộ ưu tú tham gia các khoá học nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm các nước bạn nhằm đào tạo được đội ngũ giỏi chuyên môn nghiệp vụ, giàu kinh nghiệm thực tế. Bên cạnh đó, ngân hàng cần có chính sách đãi ngộ nhân viên hợp lý. Đồng thời cần đưa ra mức thưởng phạt nghiêm minh đối với những cán bộ đạt thành tích cao hay đối với nhứng đối tượng cố tình làm sai quy định, tạo môi trường thi đua trong nội bộ ngân hàng, tránh tình trạng rủi ro đạo đức có thể xảy ra, ảnh hưởng đến kết quả xếp hạng tín dụng doanh nghiệp. - Ứng dụng công nghệ ngân hàng để phân loại tín dụng Việc triển khai XHTD doanh nghiệp mà Cán bộ xếp hạng áp dụng hiện nay chủ yếu theo phương pháp thủ công, mất khá nhiều thời gian mà hiệu quả chưa cao. Do đó, theo xu hướng trên thế giới, cần vận dụng công nghệ tự động hóa việc phân loại tín dụng trong thời gian tới: Công nghệ quản trị cần được quan tâm và áp dụng nhiều công cụ để thực hiện xếp hạng. Theo đó, khi khách hàng cần sử dụng dịch vụ chỉ cần cung cấp thông tin theo mẫu đã định sẵn cho nhân viên tín dụng. Căn cứ vào những thông tin này, chương trình phần mềm sẽ tự động phân loại khách hàng vào nhóm tín dụng phù hợp nhất. Sau đó kết quả xếp hạng sẽ được trả lại cho khách hàng, đi kèm với kết quả này là thông báo của ngân hàng về chấp nhận hay từ chối yêu cầu của khách hàng, chính sách khách hàng…Công tác xếp hạng tín dụng dựa trên ứng dụng công nghệ như vậy sẽ giảm rủi ro phát sinh từ sai sót và thiên vị cá nhân được loại bỏ tối đa trong hệ thống xếp hạng tự động, việc phân loại giúp ngân hàng rút ngắn thời gian, độ tin cậy tăng cao. Ngoài ra, NHCT VN đang mua phần mềm phân tích thông tin doanh nghiệp và tiến hành xếp hạng dựa trên những chỉ tiêu, cách làm của tổ chức xếp hạng Standard & Poor và Moody’s. Do đó, thời gian tới NHCT VN nói chung và Chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng cần tập trung nghiên cứu để hoàn thiện chương trình này một cách nhanh nhất, để sớm đưa vào vận dụng thông suốt trong toàn hệ thống NHCT từ Trụ sở đến các Chi nhánh. 3.2.5. Ứng dụng kết quả Xếp hạng doanh nghiệp để phân loại nợ Hiện nay hầu hết các NHTM (Trừ Ngân hàng đầu tư) đã xây dựng cho mình quy trình xếp hạng riêng, tuy nhiên việc ứng dụng kết quả xếp hạng này mới chỉ dừng lại ở việc quyết định cấp tín dụng và áp dụng chính sách khách hàng. Do đó, theo Điều 7/QĐ493-NHNN, trong thời gian tới các ngân hàng nên sử dụng kết quả chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp để phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Theo đó các khoản nợ của khách hàng đã được xếp hạng sẽ được phân loại vào các nhóm nợ tương ứng, cụ thể như sau: Bảng 12: Bảng phân loại nợ theo kết quả XHTD Kết quả XHTD Phân loại nhóm nợ Đánh giá của Ngân hàng AA+ Nợ nhóm I Nợ có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn AA AA- BB+ Nợ nhóm II Nợ có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ BB BB- Nợ nhóm III Nợ có khả năng tổn thất một phần nợ gốc va lãi CC+ CC CC- Nợ nhóm IV Nợ có khả năng tổn thất cao C Nợ nhóm V Nợ không còn khả năng thu hồi, mất vốn Nguồn: Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ - Ngân hàng đầu tư và phát triển VN Trên cơ sở phân loại nợ như trên, ngân hàng thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tùy theo các nhóm nợ và mức độ rủi ro của từng nhóm. Chỉ có như vậy, hệ thống XHTD nội bộ mới có thể phát huy hết tác dụng trong việc xác định chính xác tỷ lệ nợ xấu tại mỗi thời điểm, trợ giúp cho Chi nhánh NHCT Ba Đình trong việc kiếm soát toàn bộ tín dụng cũng như đánh giá khách hàng vay một cách tổng quát. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị với NHCT VN - NHCT VN nên thiết lập cho mình một hệ thống thông tin tín dụng nội bộ. Đây sẽ là nơi cất trữ những kho dữ liệu riêng, đặc biệt là những khách hàng đã có quan hệ tín dụng hoặc những khách hàng bị từ chối quan hệ tín dụng với các Chi nhánh thuộc hệ thống NHCT. Khi đó, đối với khách hàng có quan hệ tín dụng tốt, cần tạo thêm nguồn thông tin để xây dựng và thực hiện chính sách khách hàng chiến lược, áp dụng các mức phí ưu đãi để thu hút nguồn vốn. Mặt khác, đối với khách hàng được đánh giá là trung bình và yếu kém cần xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu cảnh báo trong hệ thống khi các khách hàng này tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng. Việc xây dựng hệ thống thông tin nội bộ, sẽ giúp cho nguồn thông tin lưu hành thông suốt trong toàn hệ thống từ Trụ sở chính đến các Chi nhánh, các điểm giao dịch và giữa các Chi nhánh với nhau. Điều đó, phục vụ đắc lực cho việc phân tích, xử lý thông tin và xếp hạng doanh nghiệp tại các Chi nhánh trong hệ thống. - Đối với bộ phận xây dựng quy trình và hệ thống các chỉ tiêu xếp hạng doanh nghiệp Đề nghị NHCT VN hoàn thiện quy trình và hệ thống chỉ tiêu xếp hạng đầy đủ, hợp lý hơn theo xu hướng quốc tế trong thời gian tới. Trong đó, việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu phải được cân nhắc mức chỉ phí phải bỏ ra và tính khả thi của việc vận dụng chúng vào trong thực tế xếp hạng tín dụng đối với khách hàng là doanh nghiệp. 3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước và Chính phủ - Theo Quyết định 1253, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã cho phép Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) chính thức thực hiện nghiệp vụ phân tích và XHTD doanh nghiệp nhằm mục đích tăng cường công tác quản lý rủi ro trong hệ thống Ngân hàng và đánh giá năng lực của các doanh nghiệp. Đây là địa chỉ, đầu mối đầu tiên của Việt Nam thực hiện nghiệp vụ phân tích, XHTD doanh nghiệp. Tuy nhiên, các thông tin mà CIC cung cấp chủ yếu mới chỉ là tình hình quan hệ tín dụng (danh sách tổ chức tín dụng quan hệ, diễn biến dư nợ trong kỳ, tình hình vay nợ và nợ không đủ tiêu chuẩn của doanh nghiệp) và tên người đại diện chứ chưa cụ thể hóa và chưa đánh giá các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính khác. Do đó, đề nghị CIC thu thập chi tiết hơn và đầy đủ hơn nữa về các thông tin tài chính (báo cáo tài chính năm…), Các thông tin phi tài chính (Các vấn đề về ngành nghề, thị phần doanh nghiệp, đối thủ cạnh tranh…). Bên cạnh đó, thời gian qua CIC cũng đã hoàn thành được một số sản phẩm về XHTD các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường, XHTD các doanh nghiệp hoạt động trong ngành dệt may. Đây là nguồn thông tin rất quan trọng, giúp ngân hàng có thể đối chiếu so sánh. Trong thời gian tới, đề nghị CIC sớm nghiên cứu và đưa ra thêm nhiều sản phẩm đa dạng hơn theo các ngành nghề/lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Để làm được điều đó, NHNN cần làm đầu mối để CIC phối hợp với các NHTM trong việc chia sẻ dữ liệu, cập nhật thông tin định tính về khách hàng một cách nhanh chóng và có hiệu quả hơn. - Hiện nay, chưa có cơ quan nào đảm nhận nhiệm vụ nghiên cứu và công bố các chỉ số trung bình ngành. Do đó, đề nghị trong thời gian tới Tổng cục thống kê cần sớm xây dựng, ban hành và công bố hệ số trung bình từng ngành, từng nhóm ngành để phục vụ cho quá trình phân tích và xếp hạng doanh nghiệp của các ngân hàng. - Báo cáo tài chính là nguồn tài liệu hết sức quan trọng để đánh giá tình trạng sức khỏe của doanh nghiệp. Do đó, đề nghị NHNN cần đưa ra các mức chuẩn thống nhất về phương pháp lập, cũng như cách thức hạch toán các khoản mục quan trọng…Ngoài ra, việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ nên là quy định bắt buộc đối với các doanh nghiệp trong thời gian tới. - Từ kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trên thế giới và từ thực tế nền kinh tế nước ta hiện nay khi mà thị trường tài chính, thị trường chứng khoán mới hình thành và còn sơ khai, đề nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định cho phép thành lập công ty chuyên nghiệp XHTD doanh nghiệp, đặt dưới sự quản lý của NHNN và khi thị trường chứng khoán phát triển sẽ chuyển giao vai trò này cho Ủy ban chứng khoán nhà nước. Mô hình hoạt động này là công ty cổ phần, trong đó có vốn góp của các NHTM, các Ủy ban chứng khoán nhà nước, của các Tổ chức xếp hạng trên thế giới. Việc lựa chọn mô hình này sẽ tận dụng tốt các lợi thế như có cơ hội tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm, đảm bảo tính chuyên nghiệp khi đánh giá. Thông tin về XHTD doanh nghiệp là tài liệu quan trọng để các NHTM tham khảo. KẾT LUẬN Cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay đã và đang đặt ra cho nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam những khó khăn và thách thức không nhỏ. Mặt khác nó cũng buộc chúng ta phải nhìn nhận và đánh giá nghiêm túc hơn hoạt động của thị trường mà nhất là hệ thống thị trường tài chính với lực lượng nòng cốt là các tổ chức tài chính và ngân hàng thương mại. Hơn bao giờ hết, vấn đề quản trị rủi ro ngân hàng mà trọng tâm là Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp là nhiệm vụ cấp thiết hàng đầu đối với các ngân hàng thương mại để bước đầu hạn chế được những rủi ro tiềm ẩn đồng thời tìm ra hướng đi riêng cho mình trong tương lai. Đề tài nghiên cứu xin được đề cập đến một số khía cạnh cơ bản nhất của công tác hoàn thiện công tác XHTD Doanh nghiệp để làm cơ sở lý luận cho việc giải quyết những yếu kém và hạn chế của hệ thống XHTD doanh nghiệp tại NHCT VN nói chung và Chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng. Trên cơ sở tìm hiểu về thực tiễn vấn đề này tại Việt Nam và Quốc tế, em xin được đề xuất một vài giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn công tác XHTD doanh nghiệp tại Chi nhánh, từ đó góp phần giảm thiểu rủi ro và nầng cao chất lượng cho vay của Chi nhánh hơn nữa trong thời gian tới. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22471.doc
Tài liệu liên quan