LỜI NÓI ĐẦU
Thực tiễn cho thấy sự tồn tại, phát triển của một tổ chức phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhiều điều kiện nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào con người và hiệu quả làm việc của con người. Những năm qua công ty may Chiến Thắng đã có sự lớn mạnh và phát triển về nhiều mặt. Có được sự phát triển này là do công ty đã dành sự quan tâm lớn đến lực lượng lao động. Để quá trình lao động của người công nhân diễn ra liên tục với năng suất và chất lượng cao đòi hỏi phải làm tốt công tác tổ
66 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5765 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác tổ chức và phục vụ nơi làm việc cho công nhân sản xuất tại Xí nghiệp may 2A Công ty cổ phần may Chiến Thắng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chức và phục vụ nơi làm việc cho họ.
Trong quá trình thực tập tại công ty cổ phần may Chiến Thắng, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này đối với hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và sự phát triển của công ty em đã chọn chuyên đề: "Hoàn thiện công tác tổ chức và phục vụ nơi làm việc cho công nhân sản xuất tại xí nghiệp may 2A công ty cổ phần may Chiến Thắng". Với mong muốn vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế sản xuất.
Phạm vi nghiên cứu: công tác tổ chức, phục vụ nơi làm việc tại xí nghiệp may 2A.
Nguồn thu thập số liệu: thu thập số liệu tại công ty cổ phần may Chiến Thắng và xí nghiệp may 2A.
Các phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu bao gồm: phương pháp thống kê, quy nạp, phân tích số liệu, chụp ảnh thời gian làm việc, phỏng vấn người lao động.
Kết cấu bài viết gồm 3 chương:
Chương I - Cơ sở lý luận của công tác tổ chức và phục vụ nơi làm việc.
Chương II - Phân tích thực trạng công tác tổ chức và phục vụ nơi làm việc cho công nhân sản xuất xí nghiệp 2A công ty cổ phần may Chiến Thắng.
Chương III - Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác tổ chức phục vụ nơi làm việc cho công nhân sản xuất xí nghiệp may 2A công ty cổ phần may Chiến Thắng.
Trong quá trình thực hiện chuyên đề, do kiến thức bản thân còn nhiều hạn chế, lần đầu tiên tiếp cận với công việc còn bỡ ngỡ do đó chuyên đề của em sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ýkiến đóng góp, bổ xung của các thầy cô, các cô, chú phòng Tổ chức - Lao động tiền lương công ty cổ phần may Chiến Thắng để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC TỔ CHỨC
PHỤC VỤ NƠI LÀM VIỆC
I. TỔNG QUAN VỀ NƠI LÀM VIỆC VÀ TỔ CHỨC PHỤC VỤ NƠI LÀM VIỆC
1. Khái niệm và phân loại nơi làm việc
1.1. Khái niệm nơi làm việc
Tổ chức nơi làm việc là một trong những hoạt động quan trọng của tổ chức lao động khoa học, đặc biệt ngày nay với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật và tiến bộ xã hội thì các doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến hoạt động kinh doanh của mình mà còn phải quan tâm đến người lao động, sức khoẻ, tâm tư, kỳ vọng, năng khiếu … của họ. Tuy nhiên để có thể tổ chức nơi làm việc là không dễ dàng bởi không có một khuôn mẫu nào cho công tác tổ chức nơi làm việc ở tất cả các doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mình mà tổ chức cho hợp lý. Mỗi doanh nghiệp lại có nhiều nơi làm việc khác nhau vì vậy cần quan tâm đến chính bản thân nơi làm việc để từ đó có cách tổ chứuc khác nhau cho các nơi làm việc khác nhau.
Nơi làm việc là một phần không gian diện tích của sản xuất mà trong đó được trang bị đầy đủ các phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết đảm bảo cho người lao động hoàn thành được chức năng nhiệm vụ của mình một cách tốt nhất theo yêu cầu của sản xuất.
1.2. Phân loại nơi làm việc
Trong thực tế nơi làm việc rất phong phú đa dạng và có thể phân chia nơi làm việc theo nhiều tiêu thức khác nhau. Mỗi tiêu thức là một giác độ để nhận thức về nơi làm việc từ đó giúp ta phân tích đánh giá một cách toàn diện về nơi làm việc và đề ra các biện pháp tốt nhất để hoàn thiện tổ chức và phục vụ nơi làm việc.
* Theo tiêu thức về trình độ kỹ thuật của nơi làm việc, người ta phân chia nơi làm việc thành 3 loại: nơi làm việc thủ công, nơi làm việc cơ khí hoá và nơi làm việc tự động hoá.
Tại nơi làm việc thủ công, các thao tác lao động được thực hiện bằng tay do đó khi nghiên cứu cải tiến điều kiện lao động thường tiến hành cơ khí hoá để có thể áp dụng các thao tác và phương pháp lao động tiên tiến, đồng thời phân chia quá trình lao động thành các bộ phận chức năng như: sản xuất, phân phối, phục vụ,… để không ngừng tăng năng suất và mở rộng quy mô.
Tại nơi làm việc cơ khí hoá được trang bị máy móc cơ giới, các thao tác được thực hiện kết hợp giữa tay và máy do đó cải tiến tổ chức nơi làm việc cần đặc biệt chú ý đến sự đồng bộ của máy móc thiết bị và của người lao động, chú ý đến mối quan hệ chặt chẽ giữa quá trình sản xuất và quá trình lao động.
Tại nơi làm việc tự động hoá được trang bị các tổ hợp máy tự động, hệ thống tự động hoá sản xuất. Quá trình công nghệ được thực hiện bằng máy và không có sự tham gia trực tiếp của người công nhân. Người công nhân chỉ có chức năng quan sát quá trình sản xuất, điều chỉnh hoặc hiệu chỉnh thiết bị. Khi tổ chức và phục vụ nơi làm việc này cần đặc biệt chú ý đến sự bố trí máy móc, bàn điều khiển cung cấp nguyên vật liệu, năng lượng kịp thời để đảm bảo cho công việc không bị gián đoạn.
* Theo mức độ chuyên môn hoá của nơi làm việc ta biết được 2 loại: nơi làm việc chuyên môn hoá và nơi làm việc tổng hợp.
Tại nơi làm việc chuyên môn hoá chỉ thực hiện một chức năng nào đó hay chỉ sản xuất một bộ phận nào đó của sản phẩm. Khi tổ chức nơi làm việc này cần chú ý đến tính đồng bộ về chức năng của máy móc và sự đồng đều về tay nghề của người công nhân.
Tại nơi làm việc tổng hợp có nhiều nơi làm việc cục bộ vì vậy khi tổ chức và phục vụ nơi làm việc này cần thực hiện nhiều nội dung và các chức năng đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục.
* Theo số lượng máy móc thiết bị: người ta phân chia thành: nơi làm việc có máy chuyên môn hoá và nơi làm việc có máy tổng hợp. Tại nơi làm việc có máy chuyên môn hoá cần chú ý đến khu vực chuyển động đảm bảo cho nơi làm việc có những trang thiết bị hợp lý, tiện dụng còn tại nơi làm việc có máy tổng hợp cần chú ý đến bố trí nơi làm việc và nghiên cứu lối đi lại hợp lý.
* Theo phương thức số lượng người làm việc, nơi làm việc được phân chia làm hai loại: nơi làm việc cá nhân và nơi làm việc tập thể. Nơi làm việc cá nhân thường đề cao tinh thần trách nhiệm, tính toán chính xác kết quả lao động về số lượng và chất lượng, tận dụng hợp lý thời gian làm việc. Nơi làm việc tập thể thường đề cao tính hợp tác và phân công lao động.
3. Khái niệm, yêu cầu và nhiệm vụ của tổ chức phục vụ nơi làm việc
3.1. Khái niệm
Tổ chức phục vụ nơi làm việc là một hệ thống các biện pháp nhằm cung cấp đầy đủ các phương tiện vật chất trong quá trình thực hiện nhiệm vụ sản xuất và đảm bảo sắp xếp bố trí chúng hợp lý nhất trong không gian nhà xưởng đã được thiết kế hợp lý để sử dụng một cách thuận tiện an toàn nhất với năng suất và chất lượng lao động cao.
3.2. Nhiệm vụ của tổ chức và phục vụ nơi làm việc
- Phải tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết để tiến hành các nhiệm vụ sản xuất với năng suất cao.
- Phải đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục và nhịp nhàng
- Phải đảm bảo những điều kiện thuận lợi nhất để tăng năng suất lao động và tạo hứng thú phát huy tính tích cực cho người lao động.
- Phải đảm bảo khả năng thực hiện các động tác lao động trong tư thế thoải mái, cho phép áp dụng các phương pháp và thao tác lao động tiên tiến.
3.3. Các yêu cầu đối với tổ chức và phục vụ nơi làm việc
- Về mặt tâm lý và vệ sinh lao động: Tổ chức và phục vụ nơi làm việc phải bảo đảm không gây lên những đòi hỏi quá cao về sinh lý so với cơ thể của con người, tạo ra các điều kiện thuận lợi cho quá trình lao động, tiết kiệm sức lực giảm mệt mỏi cho công nhân.
- Về mặt tâm lý xã hội: Tổ chức và phục vụ nơi làm việc phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiệncác mối quan hệ, trao đổi thông tin giữa nơi làm việc, phát huy khả năng sáng tạo, tạo hứng thú tích cực trong lao động và hình thành các tập thể lao động tốt.
- Về mặt thẩm mỹ trong sản xuất: Thông qua việc sử dụng màu sắc, hình thành bố trí sắp xếp để tạo ra những nơi làm việc đẹp đẽ, gọn gàng, sạch sẽ, trật tự.
- Về mặt kinh tế: Tổ chức và phục vụ nơi làm việc phải tạo điều kiện để giảm chi phí về thời gian lao động và giá thành sản phẩm đảm bảo chất lượng sản phẩm cao, sử dụng tiết kiệm diện tích sản xuất.
II. NỘI DUNG CỦA TỔ CHỨC NƠI LÀM VIỆC
Tổ chức nơi làm việc là một hệ thống các biện pháp nhằm thiết kế nơi làm việc, trang bị cho nơi làm việc những thiết bị dụng cụ cần thiết và sắp xếp bố trí chúng theo một trật tự nhất định. Tổ chức nơi làm việc gồm 3 nội dung chủ yếu là thiết kế nơi làm việc, trang bị nơi làm việc và bố trí nơi làm việc.
1. Thiết kế nơi làm việc
Thiết kế nơi làm việc là nội dung đầu tiên quan trọng của tổ chức nơi làm việc. Việc tổ chức nơi làm việc có phù hợp hay không phụ thuộc rất lớn vào khâu thiết kế ban đầu. Tuy nhiên để thiết kế nơi làm việc không hề dễ dàng bởi vì nó phải phù hợp với yêu cầu của quá trình sản xuất, quá trình lao động. Đặc biệt ngày nay trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi mẫu mã, chủng loại hàng hoá phải không ngừng thay đổi mới có thể đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng vì vậy thiết kế nơi làm việc cũng phải thay đổi liên tục cho phù hợp.
* Thông thường thiết kế nơi làm việc được tiến hành theo trình tự sau:
- Xác định tên các loại thiết bị chính và lựa chọn phương án sắp xếp cho phù hợp.
- Chọn các thiết bị phụ, các loại dụng cụ đồ gá công nghệ, các trang bị tổ chức phù hợp.
- Chọn phương án bố trí tối ưu cho từng nơi làm việc cụ thể.
- Thiết kế các phương pháp và thao tác lao động hợp lý, tạo các tư thế lao động thuận lợi trên cơ sở đó tính độ dài quá trình lao động đồng thời xác định mức thời gian cho từng bước công việc.
- Xây dựng hệ thống phục vụ theo chức năng.
- Tính các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật của nơi làm việc như: số lượng công nhân, lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một giờ định mức.
* Khi tiến hành thiết kế nơi làm việc cần tìm hiểu tất cả các loại tài liệu cần thiết về máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, tiêu chuẩn vệ sinh phòng bệnh, tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn lao động và các thiết kế mẫu cho nơi làm việc.
2. Trang bị nơi làm việc
Trang bị nơi làm việc là đảm bảo đầy đủ các loại máy móc, thiết bị, dụng cụ… cần thiết cho nơi làm việc theo yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất và chức năng lao động. Trang bị nơi làm việc chỉ có hiệu quả khi nó phù hợp với nội dung của quá trình sản xuất cả về số lượng và chất lượng.
2.1. Các thiết bị chính
Là những thiết bị mà người công nhân dùng trực tiếp để tác động lên đối tượng lao động tạo ra sản phẩm, các thiết bị chính này có thể khác nhau tuỳ theo nội dung lao động, cụ thể có thể là tổ hợp máy, các công cụ, các bảng điều khiển hay các bàn thợ.
Các thiết bị phụ là các thiết bị giúp cho người công nhân thực hiện quá trình lao động với hiệu quả cao hơn. Các thiết bị phụ có thể là các thiết bị bốc xếp, các thiết bị vận chuyển (cầu trục, xe đẩy, băng truyền…).
Yêu cầu chung đối với các loại thiết bị chính phụ là: phải phù hợp với công thái học và nhân chủng học, phải giải phóng con người ra khỏi lao động chân tăy nặng nhọc, tạo ra các tư thế làm việc tốt nhất, áp dụng được các các phương pháp và thao tác làm việc tiên tiến, tránh cho người công nhân khỏi phải lao động chân tay nặng nhọc, không phát sinh độc hại, đảm bảo an toàn khi sử dụng.
Khi trang bị các bộ phận điều khiển của máy móc thiết bị phải đơngiản, phù hợp về lực tác động, phù hợp với các giác quan của người sử dụng, phù hợp với tầm nhìn và được bố trí trong vùng làm việc tối ưu.
Việc trang bị các bị phận ra hiệu lệnh của thiết bị cần phải dễ nhận biết trong phạm vi không gian sản xuất của xí nghiệp.
Đối với các bộ phận an toàn của thiết bị như các phanh hãm, các lưới bảo vệ, các tấm chắn… yêu cầu của bộ phận này là phải chắc chắn, hoạt động có hiệu quả và đảm bảo độ tin cậy cao.
2.2. Các trang bị công nghệ
Các loại dụng cụ kẹp, đồ gá, các dụng cụ đo, kiểm tra, dụng cụ cắt… các trang bị này phải có cấu trúc phù hợp, đảm bảo tính chính xác, sử dụng lực tác động nhỏ, khi sử dụng không gây tiếng ồn và rung động đảm bảo năng suất lao động cao.
2.3. Các trang thiết bị tổ chức
Trang bị thông tin liên lạc gồm: điện thoại, điện tín… yêu cầu đối với các loại thiết bị này là: đảm bảo độ tin cậy cao, phù hợp với đặc điểm của tổ chức sản xuất tại nơi làm việc, những tín hiệu phát đi từ nơi làm việc phải được giữ cho tới khi người có trách nhiệm nhận được đầy đủ mới xoá đi đồng thời đảm bảo cho nhiều nơi làm việc có thể cùng liên hệ được với người phụ trách.
2.5. Các trang bị an toàn, vệ sinh công nghiệp và phục vụ sinh hoạt
Các trang bị này gồm: các loại lưới tấm chắn bảo vệ, các thiết bị thông gió, chiếu sáng, các phương tiện phục vụ sinh hoạt như nước uống.
Mức độ trang bị nơi làm việc về mặt công nghệ và tổ chức quyết định tới hiệu quả thực hiện công việc. Nếu trang bị không phù hợp sẽ gây tốn diện tích, làm phức tạp cho việc vận chuyển, do đó tạo ra những chuyển động thừa, làm tăng phế phẩm và làm giảm chất lượng sản phẩm.
3. Bố trí nơi làm việc
Trong hệ thống các biện pháp tổ chức nơi làm việc, việc bố trí nơi làm việc có ý nghĩa quan trọng. Bố trí nơi làm việc là sắp xếp một cách hợp lý trong không gian tất cả các phương tiện vật chất, các thiết bị, trang bị và đối tượng lao động cần thiết của sản xuất tại nơi làm việc.
3.1. Các dạng bố trí nơi làm việc
Bố trí nơi làm việc bao gồm 3 dạng:
* Bố trí chung: là sắp xếp về mặt không gian các nơi làm việc trong phạm vi một bộ phận hay một phân xưởng, sao cho phù hợp với chức năng nhiệm vụ của nơi làm việc, sự chuyên môn hoá của nơi làm việc và tính chất công việc, quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm.
* Bố trí bộ phận: là sắp xếp các yếu tố trang bị trong quá trình lao động ở từng nơi làm việc. Dạng bố trí này tạo ra sự phù hợp tạo ra sự phù hợp giữa những người công nhân với các loại thiết bị và sự phù hợp giữa các loại trang bị với nhau tạo điều kiện thuận lợi cho công nhân trong quá trình lao động.
* Bố trí riêng: là sự sắp xếp các loại dụng cụ, phụ tùng, đồ gá và các yếu tố khác trong từng loại trang bị sao cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất.
3.2. Yêu cầu đối với bố trí nơi làm việc
Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của bố trí nơi làm việc nên bố trí nơi làm việc cần đạt được những yêu cầu sau:
3.2.1. Xác định đúng diện tích và tạo ra chu kỳ sản xuất ngắn nhất
Diện tích nơi làm việc phải thoả mãn việc phân bố các trang thiết bị theo yêu cầu của sản xuất ngoài ra cần phải có diện tích dự phòng khi mở rộng sản xuất hoặc thay đổi.
3.2.2. Bố trí nơi làm việc phải phù hợp với thị lực của con người
Nguồn thông tin to lớn mà con người tiêp thu được là thông qua thị giác. Vì thế việc bố trí các đối tượng lao động, dụng cụ công nghệ… ở nơi làm việc phải lưu ý đến vùng nhìn của mắt. Vùng nhìn của mắt là khoảng không gian trong đó mắt có thể kiểm soát và nhận biết được.
Đáp ứng yêu cầu phù hợp với thị lực cần đặc biệt lưu ý đến việc bố trí các nguồn sáng. Các nguồn sáng phải được bố trí sao cho không tạo thành bóng đen tại vùng làm việc, không được chói loà trong phạm vi thường nhìn của mắt, ánh sáng phải phân bố đều trên bề mặt gia công.
3.2.3. Bố trí nơi làm việc phải tạo được tư thế làm việc hợp lý
Khi bố trí nơi làm việc vấn đề tạo tư thế làm việc hợp lý cho công nhân đóng một vai trò quan trọng. Tư thế làm việc hợp lý sẽ tạo điều kiện để giảm hao phí năng lượng trong quá trình lao động, thực hiện các thao tác một cách thuận lợi, chính xác, nâng cao năng suất lao động và giảm mệt mỏi cho công nhân. Trong thực tế có ba tư thế làm việc là ngồi, đứng và kết hợp đứng ngồi. Việc lựa chọn tư thế làm việc phụ thuộc vào hàng loạt yếu tố, đặc biệt là lực tác động phải bỏ ra trong quá trình lao động, nhịp độ lao động và phạm vi vùng hoạt động. Như vậy, tuỳ thuộc vào nhiệm vụ và nội dung sản xuất để ta lựa chọn tư thế làm việc cho người lao động.
3.2.4. Đảm bảo yêu cầu tiết kiệm động tác của công nhân
Khi bố trí các phương tiện vật chất kỹ thuật tai nơi làm việc cần chia chúng ra làm hai loại sử dụng thường xuyên và loại sử dụng trong một thời gian ngắn và bố trí chúng theo các nguyên tắc sau:
Những dụng cụ, phương tiện sử dụng thường xuyên phải được bố trí gần khoảng cách không quá 560 mm với tư thế ngồi và 750mm với tư thế đứng.
Những vật dùng tay phải thì đặt bên phải, vật dùng tay trái thì đặt bên trái.
Những vật dùng theo một trình tự nhất định thì đặt cạnh nhau để sử dụng động tác ngược lại.
Mỗi vật cần có vị trí cố định để đỡ mất thời gian tìm.
Người lao động được bố trí vào nơi làm việc mà ở đó mọi thứ cần thiết cho quá trình lao động đều được bố trí một cách khoa học thì họ sẽ làm việc với năng suất cao và tinh thần thoải mái.
3.2.5. Đảm bảo an toàn lao động và thẩm mỹ trong sản xuất
Khi bố trí nơi làm việc cần bảo đảm đường vận chuyển phải đủ rộng để đề phòng tai nạn xảy ra khi vận chuyển
Các đường vận chuyển nếu cắt nhau phải tạo thành góc 900 không có đường cụt. Bố trí chắc chắn, đẹp mắt tạo cảm xúc lành mạnh.
III. TỔ CHỨC PHỤC VỤ NƠI LÀM VIỆC
Phục vụ nơi làm việc là cung cấp cho nơi làm việc các phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết và tạo điều kiện thuận lợi để có thể tiến hành quá trình sản xuất được nhịp nhàng, liên tục, hiệu quả cao.
Nhu cầu phục vụ các nơi làm việc rất đa dạng, phong phú và được khái quát thành các chức năng phục vụ.
1. Các chức năng phục vụ
* Phục vụ chuẩn bị sản xuất: Đảm bảo đầy đủ tài liệu kỹ thuật, máy móc, phôi liệu, nguyên vật liệu, bán thành phẩm, cấu kiện theo yêu cầu của sản xuất.
* Phục vụ cung cấp dụng cụ: Đảm bảo cho nơi làm việc có đủ các loại dụng cụ cắt gọt, dụng cụ đo, dụng cụ công nghệ và đồ gá khi cần thiết. Cách thức phục vụ dụng cụ phụ thuộc vào từng loại hình sản xuất nhất định. Trong sản xuất đơn lẻ, dụng cụ nên đặt trước nơi làm việc theo yêu cầu và có thể do chính những người công nhân chính đảm nhận. Trong sản xuất hàng loạt việc giao dụng cụ phải do công nhân phụ đảm nhận.
* Phục vụ vận chuyển và bốc dỡ: Bao gồm việc nhận hàng, phân loại, sắp xếp, vào sổ, phát nguyên liệu, bán thành phẩm và dụng cụ cần thiết để đảm bảo quá trình sản xuất liên tục, cung cấp kịp thời mọi chi tiết và nguyên vật liệu cần thiết đến tận nơi làm việc, di chuyển các chi tiết máy và bán thành phẩm, chuyển các thành phẩm ra ngoài.
* Phục vụ năng lượng: Đảm bảo cung cấp cho nơi làm việc các nhu cầu về năng lượng như điện, hơi khí nén, xăng dầu, hơi nước… kịp thời và liên tục.
* Phục vụ điều chỉnh và sửa chữa thiết bị: bao gồm việc hiệu chỉnh, điều chỉnh, sửa chữa nhỏ và sửa chữa lớn nhằm khôi phục khả năng hoạt động của thiết bị. Trong sản xuất đơn lẻ, việc điều chỉnh thiết bị được thực hiện trên cơ sở nhiệm vụ và biểu đồ công việc theo yêu cầu khi cần thiết. Trong sản xuất hàng hoạt và hàng khối việc điều chỉnh thiết bị phải được tiến hành theo biểu đồ phân bổ sản xuất.
* Phục vụ kiểm tra: Là quá trình ngăn ngừa phế phẩm, kiểm tra chất lượng chi tiết máy, bộ phận máy và thành phẩm, kiểm tra việc thực hiện quy trình công nghệ. Trong sản xuất đơn lẻ việc kiểm tra chủ yếu thực hiện theo ca, theo ngày và theo điều kiện kỹ thuật đã quy định. Trong sản xuất hàng khối và sản xuất hàng loạt, việc kiểm tra được tiến hành trên cơ sở công nghệ tổng hợp của việc sản xuất. Đảm nhận chức năng phục vụ kiểm tra, ngoài các nhân viên phòng kiểm tra kỹ thuật, chức năng kiểm tra còn do đốc công, cán bộ công nghệ, tổ trưởng sản xuất và do cả công nhân trực tiếp đảm nhận.
* Phục vụ kho tàng: bao gồm việc kiểm kê phân loại, bảo quản nguyên vật liẹu, sản phẩm, phụ tùng, dụng cụ, làm các thủ tục giao nhận.
* Phục vụ xây dựng và sửa chữa nơi làm việc: sửa chữa theo kỳ hạn các công trình xây dựng, các phòng sản xuất, các nơi làm việc, đường đi lại trong khu vực sản xuất, các loại bàn ghế, tủ, bục đứng ở các nơi làm việc.
* Phục vụ sinh hoạt, văn hoá: bao gồm việc giữ gìn vệ sinh nơi làm việc, thu phế liệu phế phẩm, cung cấp nước uống, phục vụ y tế.
Trên đây là 9 chức năng phục vụ chính, các chức năng này sẽ đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục, đảm bảo hoàn thành kế hoạch về thời gian sản xuất và năng suất lao động. Tổ chức phục vụ nơi làm việc là điều kiện không thẻ thiếu của bất kỳ quá trình sản xuất nào. Nếu tổ chức phục vụ nơi làm việc chu đáo sẽ cho phép sử dụng tốt thời gian lao động của công nhân và công suất máy móc thiết bị, góp phần cải tiến các phương pháp và thao tác lao động, củng cố kỷ luật lao động.
2. Các nguyên tắc về tổ chức phục vụ nơi làm việc
Để có thể phục vụ nơi làm việc một cách đồng bộ và có hiệu quả cần tuân theo các nguyên tắc sau:
- Phục vụ theo chức năng nghĩa là việc xây dựng hệ thống phục vụ nơi làm việc phải theo các chức năng phục vụ riêng biệt, phải căn cứ vào nhu cầu của sản xuất về số lượng, chất lượng và tính quy luật của từng chức năng để tổ chức phục vụ được đầy đủ và chu đáo.
- Phục vụ theo kế hoạch nghĩa là phải căn cứ vào kế hoạch sản xuất để xây dựng kế hoạch phục vụ sao cho việc phục vụ phù hợp với tình hình sản xuất, sử dụng một cách có hiệu quả lao động và thiết bị, giảm bớt thời gian lãng phí do chờ đợi phục vụ.
- Phục vụ phải mang tính dự phòng nghĩa là hệ thống phục vụ phải chủ động đề phòng những hỏng hóc thiết bị để đảm bảo sản xuất được liên tục trong mọi tình huống.
- Phục vụ phải mang tính đồng bộ nghĩa là cần phải có sự phối hợp giữa các chức năng phục vụ khác nhau trên qui mô toàn xí nghiệp để đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu phục vụ, không để thiếu một nhu cầu nào.
- Phục vụ phải mang tính linh hoạt, nghĩa là hệ thống phục vụ phải nhanh chóng loại trừ các hỏng hóc thiếu sót không để sản xuất chính bị ngừng trệ.
- Đảm bảo chất lượng và độ tin cậy cao.
- Phục vụ phải mang tính kinh tế nghĩa là phục vụ tốt cho sản xuất với chi phí về lao động và tiền vốn ít nhất.
3. Các hình thức phục vụ
Công tác phục vụ trong tổ chức có thể tiến hành theo hình thức tập trung, phân tán hay phục vụ hỗn hợp.
* Với hình thức tập trung tất cả các nhu cầu phục vụ trong tổ chức đều do bộ phận chuyên trách đảm nhận. Hình thức này có ưu điểm là tạo những điều kiện tốt nhất để tận dụng hợp lí thời gian làm việc mở rộng việc chuyên môn hoá công việc, tuy nhiên hình thức phục vụ này cũng bộc lộ những khó khăn nhất định đặc biệt là khó khăn trong việc quản lý những chức năng phục vụ lớn.
Hình thức tập trung được sử dụng rộng rãi ở các doanh nghiệp không lớn lắm và ở những nơi mà tất cả các phân xưởng sản xuất không bị phân tán, nhu cầu phục vụ đủ lớn và có tính ổn định cần thiết.
* Hình thức phục vụ phân tán là hình thức phục vụ trong đó các chức năng phục vụ không tập trung cho một bộ phận chuyên trách mà bản thân các phân xưởng, bộ phận sản xuất, tổ sản xuất tự đảm nhận lấy việc phục vụ của mình. Hình thức này có ưu điểm là dễ quản lý và lãnh đạo, nhân viên phục vụ có thể nắm vững nơi làm việc của mình tốt hơn. Tuy nhiên phục vụ phân tán thường gặp khó khăn trong việc tận dụng hợp lý thời gian làm việc của người lao động bởi số lượng công nhân phục vụ lớn.
Hình thức phục vụ phân tán thường được sử dụng trong các doanh nghiệp lớn có nhiều phân xưởng phân tán trong một phạm vi rộng.
* Hình thức phục vụ phổ biến nhất trong các doanh nghiệp là hình thức hỗn hợp. Trong hình thức này, một phần chức năng phục vụ sẽ do bộ phận chuyên trách đảm nhận còn một phần khác sẽ do bộ phận sản xuất tự đảm nhận với hình thức phục vụ này sẽ phát huy được các ưu điểm và hạn chế những nhược điểm của hình thức tập trung và hình thức phân tán.
Như vậy, hình thức phục vụ mà mỗi doanh nghiệp lựa chọn cũng phản ánh quy mô của doanh nghiệp, trình độ phát triển của quá trình sản xuất và quá trình lao động tại đây và phản ánh sự phát triển của nền kinh tế.
4. Chế độ phục vụ nơi làm việc
Có 3 chế độ phục vụ nơi làm việc là: chế độ kế hoạch dự phòng, chế độ trực nhật, chế độ tiêu chuẩn..
Chế độ phục vụ theo tiêu chuẩn là chế độ phục vụ mà mọi chức năng phục vụ đã được tính toán và quy định thành tiêu chuẩn và tiến hành phục vụ theo tiêu chuẩn đó. Trong hệ thống này công nhân chính hoàn toàn cách ly khỏi chức năng phục vụ, việc này tạo điều kiện cần thiết để tận dụng thời gian làm việc.
Chế độ phục vụ theo kế hoạch dự phòng là chế độ phục vụ trong đó mọi công việc phục vụ được tiến hành theo một kế hoạch đã được vạch ra từ trước phù hợp với kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp. Chế độ này có đặc điểm là đảm bảo cho quá trình sản xuất được nhịp nhàng liên tục, hơn nữa nhờ có kế hoạch từ trước nen công tác phục vụ được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả.
Chế độ phục vụ trực nhật là chế độ phục vụ được tiến hành khi có nhu cầu phục vụ xuất hiện. Đây là chế độ phục vụ đơn giản nhất, tuy nhiên hiệu quả mà nó đem lại không cao vì lãng phí thời gian lao động và làm gián đoạn quá trình sản xuất.
Mặc dù có sự phân chia thành 3 chế độ như vậy nhưng trong thực tế do quá trình sản xuất không những đặc trưng bởi tính quy luật mà còn đặc trưng bởi các hiện tượng ngẫu nhiên không dự kiến được vì vậy không thể có một chế độ phục vụ nào tồn tại độc lập mà không cần phục vụ trực nhật do đó chế độ phục vụ hỗn hợp là chế độ mang lại hiệu quả nhất và việc sử dụng chế độ hỗn hợp nào là tuỳ thuộc vào từng loại hình sản xuất nhất định.
CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC VÀ PHỤC VỤ NƠI LÀM VIỆC CHO CÔNG NHÂN SẢN XUẤT TẠI XÍ NGHIỆP MAY 2A CÔNG TY CỔ PHẦN MAY CHIẾN THẮNG
I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG TY ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC TỔ CHỨC VÀ PHỤC VỤ NƠI LÀM VIỆC
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
1.1. Khái quát về Công ty cổ phần may Chiến Thắng
Công ty may Chiến Thắng là một doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành dệt may Việt Nam và trực thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ. Đầu năm 2005 công ty bắg đầu được cổ phần hoá theo quyết định 116/2004/QĐ-BCN ngày 29/10/2004 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp. Theo đó, nhà nước giữ 51% cổ phần còn lại công ty tự quản lý.
Công ty cổ phần may Chiến Thắng được thành lập từ năm 1968 khi đó mang tên xí nghiệp may Chiến Thắng có trụ sở tại số 8B phố Lê Trực - quận Ba Đình - Hà Nội và dưới sự quản lý của Cục Vải sợi may mặc Việt Nam. Đến ngày 25/08/1992 Xí nghiệp may Chiến Thắng được chuyển thành Công ty may Chiến Thắng theo quyết định số 730-CNN-TCLĐ của Bộ Công nghiệp nhẹ và trực thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ.
Công ty may Chiến Thắng có tên giao dịch đối ngoại là:
Chien Thang Garment Company
Viết tắt: CHGAMEX
Trụ sở chính hiện nay của Công ty may Chiến Thắng đặt tại 22 Thành Công - Ba Đình - Hà Nội có 7 xí nghiệp thành viên: XN1, XN2, XN3, XN4, XN5, XN may đo, XN thêu in. Cơ sở 2 đặt tại 178 Nguyễn Lương Bằng - Đống Đa - Hà Nội. Có XN 10, còn XN dệt thảm mới bị giải thể. Cơ sở 3 đặt tại phường Phú Xá thành phố Thái Nguyên có 01 xí nghiệp thành viên đó là XN9. Các cơ sở này đều hoạt động dưới hình thức hạch toán báo cáo và sản xuất theo đơn đặt hàng do công ty điều động theo kế hoạch.
Ngoài các cơ sở này công ty còn có một hệ thống các dại lý các cửa hàng giới thiệu sản phẩm của công ty trong và ngoài nước, phục vụ cho việc phân phối và quảng cáo sản phẩm cho công ty.
Ngành hàng:
- Sản xuất và kinh doanh hàng may mặc
- Sản xuất găng tay da, găng tay gol
- Thêu in
Thị trường:
- Xuất khẩu hàng sang EC, Đức, Italia, Pháp, Anh, Bỉ, Hà Lan, Châu Âu, Canada, Nga, Mỹ, Nhật.
Năng lực sản xuất/năm:
- 1.600.000 Jacket
- 3.000.000 đôi găng tay
- Ngoài ra còn có quần, áo sơ mi, váy…
Từ 01/01/2005 công ty bắt đầu hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Đây là một cơ hội to lớn để công ty phát triển đồng thời nó cũng là một thách thức to lớn đòi hỏi tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty phải cố gắng nhiều hơn nữa để tạo ra sức mạnh đưa công ty đến với những thành công trên thị trường.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty cổ phần may Chiến Thắng
Từ năm 1968 đến nay, trải qua gần 40 năm xây dựng và trưởng thành, sự phát triển của Công ty may Chiến Thắng gắn liền với sự kiện lớn lao của lịch sử đất nước. Mặc dù trải qua nhiều giai đoạn phát triển nhưng cái tên "Chiến thắng" luôn được giữ gìn và nâng niu, thể hiện ý chí và quyết tama phấn đấu của mỗi cán bộ công nhân trong công ty. Quá trình hình thành và phát triển có thể chia thành 3 giai đoạn:
* Giai đoạn 1: Từ năm 1969 đến 1975: ra đời và lớn lên trong khó khăn.
Xí nghiệp may Chiến Thắng ra đời trong điều kiện hết sức khó khăn, thiếu thốn mọi thứ. Thiết bị máy móc và hầu hết nhà xưởng đã cũ và bị dột nát. Với 250 máy đạp chân của Đức, Tiệp và Liên Xô, 300 lao động, diện tích nhà xưởng, mặt bằng 3000m2 tại 8B Lê Trực. Tuy nhiên với tinh thần khắc phục khó khăn, quyết tâm đưa xí nghiệp vào hoạt động, mọi khó khăn dần vượt qua.
Từ tháng 05/1971, xí nghiệp may Chiến Thắng chính thức được chuyển giao cho Bộ Công nghiệp nhẹ quản lý.
Năm 1975 mở rộng thêm diện tích 1000m2 nâng tổng diện tích nhà xưởng mặt bằng lên 4000m2 với 400 lao động việc làm.
Vượt lên những khó khăn xí nghiệp đã từng bước xây dựng thêm nhà xưởng, mua thêm máy móc thiết bị đưa sản xuất vào ổn định và đạt được nhiều kết quả khả quan, tạo điều kiện cho bước phát triển tiếp theo.
* Giai đoạn 2: Từ năm 1976 đến năm 1986: ổn định và từng bước phát triển sản xuất
Các cơ sở của xí nghiệp đã dần được củng cố, đặc biệt là cơ sở 8B Lê Trực. Nhiệm vụ sản xuất thời kỳ này là ngoài việc sản xuất theo chỉ tiêu cho quốc phòng, xí nghiệp còn tích cực sản xuất hàng xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu thị trường trong các nước Đông Âu và Liên Xô cũ.
Đến năm 1985 tăng tổng diện tích trên 5000 m2 (do mua thêm diện tích của Xí nghiệp Bánh mứt kẹo bị giải thể).
Tóm lại, trong giai đoạn 2, do nhiệm vụ của xí nghiệp tăng len gây nhiều khó khăn về mặt bằng sản xuất, về công tác quản lý, về việc cung cấp nguyên liệu… vì các cơ sở ở cách xa nhau. Để vượt qua khó khăn này, lãnh đạo xí nghiệp đã thực hiện nhiều biện pháp như: cải tiến công tác quản lý, hoàn thiện dây truyền sản xuất, tiếp tục mua sắm máy móc thiết bị và đặc biệt là phát động các phong trào thi đua lao động sản xuất. Chính các phong trào này là nguồn cổ vũ động viên tinh thần lớn cho tập thể cán bộ, lao động hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Kết thúc giai đoạn này sản xuất tương đối ổn định, đời sống của cán bộ công nhân viên từng bước được cải thiện.
* Giai đoạn 3: Từ năm 1987 đến nay: Đổi mới để phát triển bền vững
Đây là giai doạn Công ty may Chiến Thắng vẫn tiếp tục đổi mới công tác quản lý, chuẩn bị mọi điều kiện tiền đề để bước vào cơ chế kinh tế mới - cơ chế kinh tế thị trường.
Khi đối mặt với cơ chế kinh tế mới, Công ty may Chiến Thắng đã gặp phải rất nhiều khó khăn. Nhưng với tập thể lãnh đạo năng động, sức mạnh đoàn kết của cán bộ công nhân viên, công ty đã thực hiện nhiều biện pháp cụ thể nhằm thoát khỏi nề nếp làm ăn cũ, từng bước tìm kiếm mở rộng thị trường để duy trì và phát triển.
Đến năm 1992 mở rộng sản xuất khu vực số 10 Thành công (nay là 22 Thành Công) với 4 phân xưởng khép kín, thiết bị máy móc thiết bị hiện đại và nhà ._.xưởng mới đã tăng lao động làm việc lên 1.396 lao động. Quyết định chuyển xí nghiệp may Chiến Thắng thành Công ty may Chiến Thắng. Đây là sự kiện đánh dấu bước trưởng thành về chất của xí nghiệp. Tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh được thể hiện đầy đủ qua chức năng mới của Công ty. Từ đây cùng với nhiệm vụ sản xuất nhiệm vụ kinh doanh tuy còn mới mẻ nhưng đã được đặt lên đúng tầm quan trọng của nó trong nhiệm vụ mới của doanh nghiệp.
Năm 1997, công trình ở cơ sở số 10 Thành Công đã cơ bản được hoàn thành, tạo điều kiện cho công ty tập trung bộ phận quản lý về một điểm tạo thuận lợi cho giao dịch kinh doanh.
Đến 01/2000 bộ phận (cơ sở may 8B Lê Trực) tách ra thành công ty cổ phần theo chủ trương của nhà nước cổ phần hoá một phần doanh nghiệp nhà nước (chuyển 500 công nhân và máy móc thiết bị của 2 phân xưởng) sang công ty cổ phần. Từ đây cơ sở 8B Lê Trực sẽ hạch toán độc lập tách khỏi công ty may Chiến Thắng.
Năm 2001, công ty may Chiến Thắng lại đầu tư một cơ sở mới dưới sự chỉ đạo của Bộ Công nghiệp nhẹ và cơ sở này đặt tại thành phố Thái Nguyên. Việc xây dựng thêm cơ sở mới góp phần ổn định năng lực sản xuất của công ty khi cơ sở 8B Lê Trực tách ra.
Tóm lại, trong những năm qua công ty may Chiến Thắng đã phát triển từ một xí nghiệp may với quy mô nhỏ, sản xuất đơn thuần theo chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước trở thành công ty may Chiến Thắng ngày nay, lớn mạnh cả về quy mô, năng lực sản xuất kinh doanh, công ty đã trụ vững và ngày càng phát triển trong cơ chế thị trường.
Cơ sở vật chất của công ty đã được đổi mới toàn diện, theo hướng CNH-HĐH. Quy mô và năng lực sản xuất ngày càng phát triển theo hướng đa dạng công nghệ, tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đội ngũ cán bộ công nhân viên ban đầu từ 325 người khi mới thành lập đến nay lên tới gần 3000 người, trong đó nhân viên quản lý hơn 200 người, thu nhập bình quân mỗi lao động năm 2003 là 925.000đ, đời sống cán bộ ngày càng được cải thiện và ổn định.
1.3. Chức năng, nhiệm vụ của công ty
* Chức năng: là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tổng công ty Dệt may Việt Nam, công ty may Chiến Thắng có chức năng chủ yếu là sản xuất kinh doanh, xuất khẩu các loại sản phẩm may mặc như: sản xuất găng tay da, găng tay gol, các loại sản phẩm thêu.
* Nhiệm vụ: là một doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ, công ty may Chiến Thắng có đầy đủ tư cách pháp nhân trong sản xuất kinh doanh và hạch toán kinh tế độc lập.
Khi mới thành lập, công ty có nhiệm vụ sản xuất các loại quần áo, mũ vải, găng tay… theo chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước. Từ năm 1975 trở lại đây, nhiệm vụ sản xuất của công ty ngày càng nặng nề hơn, hàng năm ngoài phần trăm kế hoạch nhà nước giao, công ty còn phải tự chủ trong việc tìm kiếm nguồn hàng, tổ chức sản xuất, gia công các mặt hàng may mặc theo các hợp đồng kinh tế với các tổ chức nước ngoài cũng như trong nước, sản xuất hàng may mặc bán FOB, xuất khẩu các sản phẩm thảm len, da… Nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong nước và quốc tế. Công ty còn phải làm tròn nhiệm vụ do Tổng công ty Dệt may giao, phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty
2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động
Sau 37 năm xây dựng và trưởng thành công ty đã có được bộ máy tổ chức khoa học, hợp lý và khá ổn định. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty gồm có:
* Ban giám đốc gồm 5 người
- Một Tổng giám đốc
- Một phó tổng giám đốc
- Giám đốc điều hành 1
- Giám đốc điều hành 2
- Giám đốc điều hành 3
* Các phòng ban chức năng thuộc công ty
1- Phòng tổ chức cán bộ lao động tiền lương.
2 - Phòng tài vụ.
3 - Phòng kinh doanh tiếp thị.
4 - Phòng phục vụ sản xuất.
5 - Phòng kỹ thuật.
6 - Phòng hành chính.
7 - Phòng xuất nhập khẩu.
8 - Phòng bảo vệ quân sự.
9 - Phòng kinh doanh nội địa.
10 - Phòng quản lý hệ thống chất lượng.
11 - Phòng kỹ thuật cơ điện.
12 - Trạm y tế.
* Hiện nay công ty may Chiến Thắng có 9 đơn vị sản xuất và phục vụ sản xuất.
- Xí nghiệp may: bao gồm 7 xí nghiệp (1, 2, 3, 4, 5, 9, 10)
- Xí nghiệp da.
- Xí nghiệp thêu.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức công ty cổ phần may Chiến Thắng
Tổng giám đốc
Phó tổng giám đốc
G. đốc điều hành 1
G. đốc điều hành 2
G. đốc điều hành 3
XN 1, XN 2
XN 3, XN 4
XN 2A, XN 10
XN 2B, XN thêu
XN da
Phòng KTCN
May CN Bắc Kạn
Xí nghiệp 9
Một số phòng nghiệp vụ
2.2. Chức năng nhiệm vụ của phòng ban
* Văn phòng tổng hợp
- Quản lý công tác hành chính quản trị: văn thư, tiếp khách, điện thoại, phục vụ nước uống, đời sống, vệ sinh công cộng…
- Công tác kiến thiết cơ bản, sửa chữa cải tạo nhà xưởng, quản lý đất đai.
- Theo dõi tổng hợp phong trào thi đua.
* Phòng tổ chức cán bộ lao động tiền lương
- Công tác tổ chức nhân sự.
- Định mức lao động, đơn giá tiền lương, kế hoạch lao động tiền lương.
- Chế độ chính sách người lao động: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…
- Công tác đào tạo cán bộ, công nhân…
* Phòng xuất nhập khẩu
- Xây dựng kế hoạch tháng, quý, năm
- Theo dõi kế hoạch tiến độ sản xuất.
- Cân đối vật tư nguyên liệu, thanh quyết toán các đơn hàng
- Làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá, vật tư.
- Tìm khách hàng, lập các hợp đồng kinh tế.
* Phòng tài chính kế toán.
- Công tác hạch toán thống kê
- Quản lý vật tư, thiết bị, tiền vốn
- Cùng các phòng liên quan (kỹ thuật-văn phòng) làm dự án đầu tư xây dựng cơ bản.
* Phòng kỹ thuật công nghệ.
- Quản lý định mức kinh tế kỹ thuật.
- Công tác sáng kiến cải tiến.
- Nghiên cứu chế thử may mẫu.
- Quản lý chất lượng sản phẩm, chất lượng vật tư nguyên liệu.
- Xây dựng giáo trình đào tạo công nhân thi nâng bậc.
* Phòng kỹ thuật cơ điện.
- Quản lý thiết bị, cữ giá
- Quản lý hệ thống điện.
- Công tác an toàn lao động. (BHLĐ)
* Phòng phục vụ sản xuất.
- Cung ứng vật tư nguyên liệu
- Quản lý phương tiện vận tải.
- Quản lý kho tàng hàng hoá.
* Phòng kinh doanh tiếp thị.
- Theo dõi các hợp đồng bán FOB.
- Chuẩn bị các vật tư nguyên liệu cho các hợp đồng bán FOB.
* Kinh doanh nội địa.
- Chuẩn bị vật tư nguyên liệu cho hợp đồng nội địa.
- Chuẩn bị mẫu, tài liệu kỹ thuật cho các hàng nội địa.
- Thiết kế may mẫu hàng thời trang, hàng cho triển lãm.
- Tiêu thụ sản phẩm: quản lý các cửa hàng, đại lý.
* Phòng quản lý hệ thống chất lượng
- Công tác thiết kế chuyền, nghiên cứu cải tiến thao tác
- Định mức thời gian thao tác công nghệ
- Quản lý hệ thống chất lượng (ISO)
* Trạm y tế.
- Quản lý theo dõi sức khoẻ, khám chữa bệnh cho người lao động.
* Phòng bảo vệ quân sự.
- Bảo vệ cơ quan nhà máy, bảo vệ vật tư tài sản của công ty.
- Công tác an ninh trật tự công ty.
- Công tác phòng chống cháy nổ.
3. Đặc điểm quy trình công nghệ
Sơ đồ quy trình công nghệ may
Sản xuất mẫu đối (sản xuất thử)
Giao nhận nguyên phụ liệu (số lượng, chủng loại vật tư) cân đối nguyên phụ liệu
Quy trình công nghệ và giải mẫu sơ đồ
Cắt bán thành phẩm (cắt thô, cắt tinh)
Phối mẫu
May theo dây chuyền (may theo chi tiết và lắp ráp
Thu hoá sản xuất
Giặt, tẩy, là
KCS (kiểm tra chất lượng sản phẩm)
Nhập kho, đóng gói và xuất xưởng
Lỗi
Lỗi
* Nội dung các bước công việc trong quy trình công nghệ.
Khi công ty nhận được đơn đặt hàng và nguyên liệu do bên đặt hàng cung cấp cùng với các tài liệu và thông số kỹ thuật, nhóm kỹ thuật công ty sẽ tiến hành sản xuất mẫu đối (sản xuất thử) sau đó sản phẩm chế thử sẽ được gửi cho bộ phận duyệt mẫu gồm các chuyên gia và bên đặt hàng kiểm tra và đóng góp ý kiến về sản phẩm làm thử.
Sau khi sản phẩm làm thử được duyệt sẽ đưa đến phân xưởng để làm mẫu cứng, các nhân viên của phòng kỹ thuật sẽ giác mẫu sơ đồ trên máy, sao cho lượng nguyên liệu bỏ đi là nhỏ nhất, giác trên sơ đồ pha cắt vải giác mẫu và khớp mẫu rồi đưa đến tổ cắt, tổ cắt sẽ nhận nguyên liệu từ quản đốc phân xưởng, cắt theo mẫu gốc và đưa đến từng tổ may.
Tổ may cũng được chuyên môn hoá bằng cách mỗi người may một bộ phận của sản phẩm: may tay, may thân, may cổ, vào chun, vào khoá.
Trong quy trình cắt may, mỗi tổ sẽ có một thợ cả đi kiểm tra về mặt kỹ thuật và một thợ thu hoá làm nhiệm vụ thu thành phẩm cuối dây chuyền sản xuất và chuyển sang cho tổ giặt, tẩy, là.
Tổ là thực hiện giai đoạn cuối cùng của quy trình công nghệ, sau đó sản phẩm sẽ được đưa đến bộ phận KCS của phân xưởn để kiểm tra và đóng gói sản phẩm theo đơn đặt hàng, chuyển về nhập kho rồi chuyển đến người nhận hàng theo đơn đặt hàng đã ký.
4. Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần may Chiến Thắng
Với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh các loại quần áo, găng tay, mũ vải, các sản phẩm da… Trong những năm qua công ty đã nỗ lực phấn đấu phát triển sản xuất kinh doanh và có những đóng góp tích cực vào sự phát triển của Tổng công ty và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Năng lực sản xuất hàng năm của công ty là 5.000.000 sản phẩm may mặc (quy đổi theo sơ mi) bao gồm các chủng loại Jacket, áo váy nữ, quần đồng phục cho các cơ quan, cơ sở sản xuất, trường học và 2.000.000 sản phẩm may da, gồm găng tay da mùa đông và găng tay gol. Cho đến nay tổng sản lượng và doanh số của công ty ngày một tăng, giải quyết việc làm cho nhiều lao động. Điều đó được biểu hiện ở bảng sau:
Biểu số 1: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Thực hiện 2000
Thực hiện 2001
Thực hiện 2002
Thực hiện 2003
1
Tổng doanh thu
Tỷ đồng
58,107
68,8
80,034
152
2
Nộp NSNN
Tỷ đồng
0,57
0,6
0,607
0,68
3
Lợi nhuận
Tỷ đồng
1,301
1,3
1
1,1
4
Tiền lương bình quân
TĐ/người
0,81
0,86
0,925
1,087
5
Số lao động
Người
2467
2747
2864
3025
6
Năng suất lao động bình quân
TĐ/người
23,55
25,04
27,94
50,24
7
Tốc độ tăng NSLĐ với năm trước
%
-
6,33
11,58
79,84
8
Tốc độ tăng tiền lương bình quân so với năm trước
%
-
6,17
7,56
17,52
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty)
Nhận xét: Nhìn vào bảng số liệu ta thấy rằng kết quả sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần may Chiến Thắng đã tăng dần qua các năm. Riêng chỉ tiêu lợi nhuận năm 2002 giảm so với năm 2001 (1 tỷ so với 1,3 tỷ). Đặc biệt các chỉ tiêu năm 2003 tăng nhiều so với năm 2002 thể hiện công ty đang làm ăn phát đạt.
- Tốc độ tăng NSLĐ lớn hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân, kết quả này đảm bảo cho công ty ổn định sản xuất và từng bước nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên.
- Số lượng lao động làm việc đều tăng qua các năm như vậy công ty đã góp phần tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao động xã hội.
Đạt được kết quả như vậy là nhờ sự lãnh đạo và định hướng đúng đắn của Ban giám đốc công ty, sự đoàn kết nhất trí và quyết tâm cao của tập thể cán bộ đảng viên, cán bộ công nhân viên của công ty đã đưa công ty vượt ra khỏi khó khăn và đứng vững trên thị trường may mặc.
5. Đặc điểm nguồn nhân lực của công ty
Do đặc thù của ngành dệt - may nên lượng lao động luôn thay đổi qua các năm thể hiện ở biểu sau:
Biểu 2: Tình hình biến động công nhân sản xuất của Công ty
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Tổng số lao động
Cắt
May
Thêu
Thảm len
Lao động quản lý
2747
72
2365
30
170
110
2864
70
2448
30
167
149
3025
73
2611
32
165
144
(Nguồn: Phòng tổ chức lao động, công ty cổ phần may Chiến Thắng)
Qua biểu trên ta thấy rằng lượng lao động qua các năm liên tục tăng. Đặc biệt lượng lao động may - lao động trực tiếp sản xuất ra sản phẩm đều tăng nhiều qua các năm chứng tỏ công ty đang có một cơ cấu lao động tương đối hợp lý. Tuy nhiên số lượng lao động quản lý lại tăng nhiều so với năm 2001, điều này có thể được giải thích bằng khối lượng nhiệm vụ tăng dần qua các năm hoặc do công ty mở rộng quy mô sản xuất và có các cơ sở phân tán ở nhiều nơi như Thái Nguyên, cơ sở ở Nguyễn Lương Bằng, may Bắc Kạn.
Biểu 3. Cơ cấu lao động theo các tiêu thức.
2000
2001
2002
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
Tổng số lao động
2467
100
2981
100
2864
100
1. Theo giới tính
- LĐ nữ
2084
84
2352
79
2414
85
- LĐ nam
383
16
629
21
450
15
2. Theo trình đô, Chuyên môn
- LĐ có trình độ trên ĐH
0
0
0
0
0
0
- LĐ có trình độ ĐH, CĐ
87
3,5
89
2,9
95
3,3
- LĐ có trình độ trung học
202
8,2
205
6,9
210
7,3
- LĐ phổ thông
2187
88,3
2687
90,2
2559
89,4
3. Theo chức năng
- LĐ sản xuất chính
2230
90,4
2699
90,5
2586
90,3
- LĐ phục vụ
113
4,6
131
4,4
129
4,5
- LĐ quản lý
124
5
151
5,1
149
5,2
(Nguồn: Phòng tổ chức CB - Lao động tiền lương công ty cổ phần may Chiến Thắng)
Ta thấy rằng chất lượng lao động qua các năm có xu hướng tăng lên từ 1467 người năm 2000 lên 2864 người năm 2002, đây là một biểu hiện tốt thể hiện sự lớn mạnh của công ty.
Mặc dù số lượng lao động trong công ty tăng về mặt số lượng nhưng về mặt chất lượng không tăng đáng kể cụ thể:
- Năm 2000 lao động có trình độ đại học chiếm 3,5%, năm 2001 chiếm 2,9%, năm 2002 chiếm 3,3%. Như vậy tỷ lệ lao động có trình độ cao không những không được nâng lên mà ngày càng giảm đi và biến động không đều, lao động phổ thông cũng có xu hướng tăng qua các năm, tỷ lệ lao đông phổ thông năm 2000 là 88,3%, năm 2001 là 90,2%, năm 2002 là 89,4%.
- Do đặc thù của ngành dệt may nên lượng lao động nữ chiếm phần lớn, trung bình chiếm 82 - 83%. Lao động nam giới chủ yếu làm công việc thợ là, thợ cắt, thợ đóng hòm, thợ thùa khuy đính cúc, thợ vận chuyển hàng hoá, nguyên phụ liệu.
- Lao động sản xuất chính của công ty chiếm tỷ lệ tương đối cao khoảng 90% tổng số lao động. Lao động phục vụ chiếm tỷ lệ nhỏ 4,5%. Đặc biệt lao động quản lý ngày càng thu nhỏ chiếm khoảng 5%, đây là biểu hiện của việc sắp xếp và tinh giảm bộ máy quản lý sao cho nhỏ gọn nhất mà hiệu quả nhất.
Mục tiêu của công ty là làm sao lượng cán bộ quản lý gọn nhẹ nhất mà vẫn quản lý được lao động, điều hành sản xuất một cách có hiệu quả, tăng dần lượng công nhân sản xuất chính, giảm dần công nhân phục vụ và lao động quản lý.
6. Khái quát về Xí nghiệp may 2A
Xí nghiệp may 2A là một trong số 9 đơn vị thành viên của công ty. Nhiệm vụ chủ yếu của xí nghiệp là may các sản phẩm áo Jacket, ngoài ra khi công ty có nhiều hàng quần, váy, áo sơ mi… thì xí nghiệp cũng sẽ đảm nhiệm thêm nhiệm vụ. Tổng số lao động của xí nghiệp hiện nay là 217 người, trong đó có 22 nam còn lại là 195 lao động nữ. Lao động nữ chiếm 89,86 tương ứng với tỷ lệ của toàn công ty, lao động nam chủ yếu đứng là sản phẩm hoặc thợ sửa máy, nhân viên kho. Cơ cấu lao động của xí nghiệp cũng đơn giản: cơ cấu theo trình độ chuyên môn thì xí nghiệp có 8 lao động tốt nghiệp cao đẳng may và một lao động tốt nghiệp trung cấp may. Những lao động này chủ yếu làm tại tổ kỹ thuật và tổ giác mẫu của xí nghiệp, còn lại là lao động phổ thông. Xí nghiệp có một đội lao động trẻ, khả năng lao động tốt thể hiện 50% lao động ở độ tuổi 18 - 25, 35% lao động ở độ tuổi 25 - 40 còn lại 15% lao động ở độ tuổi 40-50. Để có thể sử dụng hiệu quả lực lượng lao động này công ty may Chiến Thắng cũng như xí nghiệp may 2A luôn có những biện pháp tổ chức và phục vụ nơi làm việc chu đáo đảm bảo cho quá trình sản xuất của công nhân được liên tục với NSLĐ cao nhất.
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC PHỤC VỤ NƠI LÀM VIỆC CHO CÔNG NHÂN SẢN XUẤT XÍ NGHIỆP 2A
1. Bố trí nơi làm việc
a. Tổng quan về bố trí xí nghiệp may 2A
Cơ sở một của công ty may Chiến Thắng tại số 22 Thành Công được bố trí theo hình chữ U ngược, đi từ cổng công ty vào ta sẽ thấy 3 nhà tương ứng với ba cạnh của chữ U. Trước mặt là nhà A - khu tập trung bộ máy quản lý của công ty. Bên trái và bên phải là nhà C và B nơi diễn ra các hoạt động sản xuất kinh doanh. Xí nghiệp may 2A nằm ở tầng 3 khu nhà C.
Sơ đồ bố trí nhà xưởng Xí nghiệp may 2A
Tổ may 4
Tổ may 3
Tổ may 2
Tổ may 1
Hệ thống
tủ để
đồ của công nhân
Văn phòng
Kho
xí nghiệp
Thang máy
Công tơ điện
WC
Cầu thang
Bình nước
Cửa chính
Cửa
1
Cửa
2
Khu nhà mới
(Nguồn: Quan sát và vẽ có tham khảo ý kiến của Ban giám đốc xí nghiệp)
Diện tích của xí nghiệp là 560 m2 chưa kể diện tích tổ cắt và tổ giác mẫu kỹ thuật được bố trí như sau: Dọc theo chiều dài của xí nghiệp được bố trí rất nhiều cửa kính tạo ra 2 mặt thoáng. Tuy nhiên hiện nay công ty đang xây khu nhà mới cạnh xí nghiệp vì thế xí nghiệp chỉ còn một mặt thoáng nhìn ra sân của công ty và nhìn sang nhà B.
Ngay lối vào phía tay trái là khu nhà vệ sinh của xí nghiệp với diện tích khoảng 20m2 được ngăn thành hai nhà cho lao động nam và lao động nữ.
Trước mặt sẽ là hệ thống các tủ ngăn để người lao động cất quần áo đồ dùng của mình trước khi đi đến nơi làm việc.
Kế đến là kho của xí nghiệp với diện tích 86m2 được bố trí một mặt thoáng với nhiều cửa kính nhìn ra sân của công ty.
Văn phòng của xí nghiệp với diện tích 8m2 và 3 mặt thoáng để ban giám đốc xí nghiệp dễ dàng quan sát các hoạt động của công nhân.
Khu sản xuất với diện tích 308m2 được bố trí thành 4 tổ may và được ngăn với khu văn phòng, kho… bởi bức tường kính (nhiều tấm kính ghép lại). Phần ở giữa khu sản xuất được mô tả bởi những nét đứt là nơi đặt các bàn thu hoá của các tổ và bố trí các máy móc được trang bị thêm.
Cửa chính là lối đi vào khu sản xuất, cửa 1 và cửa 2 là cửa thoát hiểm. Tuy nhiên chỉ có cửa 2 được mở còn cửa 1 hầu như được khoá cẩn thận.
Xí nghiệp được bố trí cầu thang máy để vận chuyển hàng hoá, máy móc. Thêm vào đó là các bình chữa cháy được đặt tại nhiều vị trí trong toàn xí nghiệp và gần lối đi lại trong xí nghiệp.
Việc bố trí nhà xưởng như vậy có rất nhiều ưu điểm:
Thứ nhất: Dãy tủ ngăn được bố trí dọc đường đi vào xí nghiệp tạo thuận lợi cho người lao động thay đồ bảo hộ lao động và cất giữ đồ dùng cá nhân của mình như mũ, túi, giầy dép trước khi vào làm việc. Cứ hai người lao động chung nhau 1 ngăn tủ có khoá đã bảo quản được tài sản của người lao động và khiến họ yên tâm làm việc. Hơn nữa, người lao động đến nơi làm việc với sự đồng bộ về cách ăn mặc tạo ra nét văn hoá cho toàn xí nghiệp đồng thời nó cũng góp phần tạo không khí làm việc khẩn trương và nghiêm túc.
Thứ hai: văn phòng là nơi làm việc của giám đốc và phó giám đốc xí nghiệp.
Người lao động theo lối cửa chính để đi vào khu sản xuất thì đều đi qua cửa phòng giám đốc. Sự bố trí này tạo điệu kiện để giám đốc và phó giám đốc xí nghiệp kiểm sát giờ giấc làm việc của người lao động, đồng thời thông qua các tấm kính trong giám đốc và phó giám đốc xí nghiệp có thể quan sát tình hình lao động sản xuất tại các tổ may mà không cần phải đến tận nơi khi không cần thiết.
Thứ ba: Cách bố trí các tổ may như trên đảm bảo tính độc lập trong sản xuất của mối tổ. Ở đây mỗi tổ là một chuyền may hoàn chỉnh, tạo ra sự gắn kết các thành viên của tổ với nhau và cổ vũ sự thi đua giữa các tổ trong quá trĩnh. Trong thời buổi kinh tế thị trường phát triển chuyên môn hoá trong sản xuất là rất cần thiết để nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất. Sự bố trí các yếu tố may như trên đảm bảo tính linh hoạt trong sản xuất khi cần sát nhập hai chuyền nhỏ thành một chuyền lớn để thực hiện chuyên môn hoá sâu trong sản xuất.
Ví dụ: ta có thể sát nhập tổ may 1 với tổ may 3 và tổ may 2 với tổ may 4 khi xí nghiệp nhận các mã hàng có nhiều bước công việc và các tiểu tiết.
Thứ tư: cửa 2 được bố trí để đi thông sang nhà A tạo điều kiện cho giám đốc, phó giám đốc hay thống kê của xí nghiệp… có thể đến các phòng ban khi cần. Ngoài ra các vị lãnh đạo công ty, nhân viên các phòng ban có thể đến thăm xí nghiệp một cách dễ dàng. Đối với xí nghiệp may 2A thì cửa thoát hiểm số 2 còn là nơi tổ phó của các tổ may đi lấy bản thành phẩm từ tổ giác mẫu kỹ thuật và tổ cắt của xí nghiệp được bố trí ở tầng 2 khu nhà B.
Tuy nhiên bên cạnh đó việc bố trí nhà xưởng như vậy vẫn còn một số điểm chưa hợp lý:
Kho của xí nghiệp là nơi kiểm tra, kiểm kê sản phẩm, phụ liệu và đóng gói thành phẩm vì vậy vấn đề đảm bảo số lượng sản phẩm của xí nghiệp tránh thất thoát là rất quan trọng. Do đó, giữa văn phòng và kho xí nghiệp nên bố trí cửa sổ hoặc một ô thoáng lớn giúp cho ban giám đốc dễ dàng giám sát các hoạt động tại kho.
Hơn nữa, toàn bộ xí nghiệp chỉ có một khu vệ sinh đặt cuối xí nghiệp là không tiện lợi vì người lao động sẽ phải đi một quãng đường rất xa khi có nhu cầu. Việc này vừa gây lãng phí thời gian, vừa làm gián đoạn công việc.
Việc bố trí tổ giác mẫu kỹ thuật và tổ cắt ở tầng 2 khu nhà B gây khó khăn cho quản lý xí nghiệp, đồng thời gây lãng phí thời gian và sức lao động của công nhân khi phải đi xa để lấy bán thành phẩm.
Ngoài ra, vị trí của cửa chính chưa hợp lý vì việc bố trí này không tiết kiệm được đường đi của công nhân trong xí nghiệp
b. Bố trí trong từng tổ sản xuất
Mỗi tổ sản xuất được bố trí các máy móc cần thiết cho một chuyền may, đảm bảo mọi bước công việc đều có thể thực hiện ngay trong tổ mà không cần phải đi đến các nơi khác. Bốn tổ may đều được bố trí tương tự nhau vì vậy nhiệm vụ của xí nghiệp luôn được chia đều cho bốn tổ cùng làm bảo đảm được yêu cầu về thời gian thực hiện.
Sơ đồ: Bố trí máy móc, thiết bị của một dây chuyền may
A
A
E
A
E
A
A
EE
A
E
C
A
A
A
A
A
A
A
A
H
A
A
A
A
A
C
A
A
A
G
B
D
C
A
C
A
A
C
B
F
(Nguồn: văn phòng xí nghiệp may 2A)
Trong đó:
A: máy 1 kim
B: máy 2 kim 5 chỉ
C: máy 2 kim 2 chỉ
D: máy vắt sổ
E: bàn thợ phụ
F: máy thùa khuyết
G: máy đính bọ
H: máy dập cúc.
Mỗi tổ may của xí nghiệp là một dây chuyền may hoàn chỉnh với diện tích khoảng 38m2 được bố trí 36 chiếc máy các loại. Vì vậy mà các máy được bố trí sát vào nhau theo các hàng như sơ đồ trên. Khoảng cách từ tường đến máy là 30cm, khoảng cách giữa các hàng máy cũng chỉ đạt 30cm. Sự bố trí máy móc với mật độ dày đặc sẽ làm giảm khả năng khai thác công suất máy móc và gây lãng phí nhiều thời gian đi lại trong chuyền.
Ngoài ra mỗi tổ còn được bố trí 3 chiếc bàn là cầu để là sản phẩm và bàn thu hoá sản phẩm ở vùng nét đứt trong khu sản xuất
Nhìn chung việc bố trí tại các tổ là tốt bởi tất cả các máy móc được bố trí theo dây truyền sản xuất và quy trình công nghệ đảm bảo được trình tự sản xuất.
* Bố trí tại kho của xí nghiệp
Với diện tích là 86m2 chủ yếu được bố trí như sau:
3
1
2
Toàn bộ khi chỉ có vài chiếc máy dự phòng của xưởng được xếp vào vị trí gọn gàng. Trong khi chỉ bố trí hệ thống bàn và tủ.
1. Bàn làm việc của thủ kho
2. Dãy bàn để nhân viên KCS của xí nghiệp kiểm tra sản phẩm, và gấp sản phẩm.
3. Ba chiếc tủ đứng để đựng phụ liệu (khoá, khuy, mex dính…)
Kho được trang bị rất nhiều giá treo hàng (40 chiếc giá treo) tạo thuận lợi cho việc kiểm tra dáng sản phẩm, phát hiện những bất hợp lý trên sản phẩm. Ngoài ra kho còn có một giàn treo sản phẩm được bố trí trên mặt trần cách mặt trần khoảng 40cm. Vì vậy, các sản phẩm đều được phân loại và treo lên giá để kiểm tra trước khi đóng gói.
Toàn kho được trang bị hệ thống đèn chiếu sáng, 5 chiếc quạt trần, hệ thống bình cứu hoả, các đồ dùng phục vụ cho việc bao gói sản phẩm như: băng dích, dập ghim, hộp cat tông. Thủ kho còn được trang bị bàn làm việc có tủ lưu giữ tài liệu, sổ sách, bút để ghi phiếu xuất nhập nguyên phụ liệu, bán thành phẩm…
Như vậy sự bố trí và trang bị tại kho tương đối đầy đủ và hợp lý. Tại đây sản phẩm được kiểm tra kỹ, được bao gói và đóng hộp trước khi giao cho kho của công ty.
* Bố trí tại tổ cắt của xí nghiệp
Sơ đồ: Bố trí nơi làm việc cắt
2
1
Bàn cắt 1
Bàn cắt 2
Máy ép mex
Máy cắt vòng
Trong đó: 1: bàn làm việc của thống kê xí nghiệp
2: Tủ để vải đầu tấm
Với diện tích 124m2 tổ cắt chủ yếu được bố trí các bàn cắt vải. Bàn cắt có chiều dài 7,5m, chiều rộng 2,1 m, chiều cao 1m được tạo bởi 5 chiếc bàn nhỏ kê sát vào nhau tạo điều kiện cho người lao động có thể ngồi trên bàn cắt để rải vải hoặc cắt từng lá vải hay đứng dưới sàn nhà để di chuyển dao cắt và cắt bán thành phẩm. Chiều cao của bàn cắt rất phù hợp với tầm vóc của người lao động Việt Nam. Máy cắt cố định là một máy cắt vòng được đặt cố định dùng để cắt các chi tiết bé yêu cầu độ chính xác cao.
Tại tổ cắt được trang bị công nghệ gồm: 4 chiếc máy cắt tay, 100 chiếc kẹp vải, 5 chiếc kéo cắt vải, hai máng cắt, suốt dải vải được gắn trên bàn cắt.
Các trang bị tổ chức gồm có: bàn làm việc của thống kê, sổ sách, bút để ghi chép phiếu xuất, nhập nguyên liệu, bán thành phẩm, ghế ngồi cho thợ cắt, tủ đựng vải đầu tấm.
Trang bị điều khiển: Khi cần điều khiển chế độ làm việc của máy người công nhân chỉ cần thực hiện bằng động tác đưa tay đến bàn điều khiển để điều khiển hoạt động của máy theo ý muốn. Như vậy, việc trang bị bộ phận điều khiển đã góp phần nâng cao trình độ cơ khí hoá trong sản xuất và tạo ra phương pháp lao động thuận lợi cho người lao động.
Trang bị dùng chung có hệ thống đèn chiếu sáng, 5 chiếc quạt trần và giàn lạnh làm mát nơi làm việc.
Trang bị an toàn bảo hộ lao động gồm có hệ thống phòng cháy chữa cháy, công nhân được trang bị găng tay sắt khi thực hiện công việc.
Nhìn chung sự bố trí và trang bị tại tổ cắt là tương đối đầy đủ, đảm bảo công việc không bị gián đoạn vì lý do máy móc, chật trội…
Đường đi chính theo hướng cửa vào bàn làm việc của thống kê rộng 1,2m, các lối đi khác trong tổ rộng khoảng 40 đến 60cm, hai chiếc máy cố định đều được đặt cách tường 50cm, đảm bảo mọi hoạt động diễn ra được dễ dàng, còn hai máy cắt tay có thể di chuyển trên bàn cắt dễ dàng đảm bảo cắt các chi tiết của sản phẩm nhanh và chính xác.
* Bố trí tại tổ giác mẫu kỹ thuật của xí nghiệp
2
6
4
5
7
6
4
3
1
1
1
1
3
Với diện tích 63m2 thì toàn bộ máy móc, bàn làm việc được bố trí như sau:
1- Máy may 1 kim
2 - Bàn giác mẫu
3 - Tủ đựng dụng cụ của công nhân kỹ thuật
4 - Máy đục
5 - Máy khoan
6 - Bàn tạo cữ của thợ làm cữ
7 - Tủ đựng đồ của thợ làm cữ.
Qua sơ đồ trên ta cũng thấy được sự bố trí phù hợp về máy móc và vị trí bàn làm việc, nơi để đồ cho nhân viên trong phòng. Việc bố trí này rất khoa học vì hai nhóm nhân viên kỹ thuật và nhân viên làm cữ sẽ không mất thời gian lục tìm đồ dụng, dụng cụ của mình. Khu vực máy và bàn (4,5,6,7,) là của thợ làm cữ, ta có thể nhìn thấy khu vực này được phân biệt với bên giác mẫu kỹ thuật bởi đường đi tạo điều kiện cho người lao động của hai nhóm trên làm việc tự chủ hơn.
Nơi làm việc của thợ giác mẫu kỹ thuật được trang bị 4 máy may 1 kim, bàn giác mẫu, hai tủ đứng dùng để cất các dụng cụ đồ dùng, một bàn là hơi nước, thước dây, thước kẻ, phấn, bút, ghim kéo.
Nơi làm việc của thợ làm cữ được trang bị: bàn làn cữ, máy khoan, máy đục, nhựa cứng, mêca, băng dính, keo, kéo, thước các loại, búa, giáy, tủ đựng đồ… đây là nơi làm việc được trang bị nhiều nhất và đầy đủ nhất.
c. Bố trí cục bộ tại từng nơi làm việc
Trong ngành may, công nhân ngồi máy 1 kim, máy 2 kim, máy 2 kim 5 chỉ… đều được bố trí nơi làm việc tương tự nhau. Ta có thể thấy được cách bố trí các nơi làm việc này như sau:
1
2
3
1: Vị trí người lao động ngồi
2: Vị trí bàn may
3: Thùng đựng sản phẩm
Trước mắt nơi làm việc là máy may công nghiệp có thíêt kế chuẩn phù hợp với sinh lý và tầm vóc của người lao động. Thùng đựng sản phẩm được móc ngay vào máy vì vậy khi sản phẩm được may xong, người lao động chỉ cần đưa sản phẩm qua bàn may và bỏ vào thùng đựng. Bề rộng của máy may là 55cm tương ứng với độ dài của cánh tay.
Trong quá trình thực hện nhiệm vụ người lao động thực hiện công việc của mình trong tư thế ngồi, ghế ngồi được thiết kế dài 1m vừa là chỗ ngồi của công nhân, vừa là chỗ để nguyên vật liệu, bán thành phẩm chuẩn bị cho quá trình làm việc. Nếu người lao động ở trong chuyền thì khi hết bán thành phẩm phải quay nghiêng người về phía sau để lấy và đặt lên ghế của mình sau đó mới tiếp tục may sản phẩm vì trong chuyền vị trí các nơi làm việc của công nhân được bố trí liền kề nhau.
Như vậy bố trí cục bộ tại nơi làm việc trên còn một số điểm chưa hợp lý.
Thứ nhất là diện tích nơi làm việc tương đối chật hẹp diện tích này vào khoảng 1,65m2 chưa đạt được tiêu chuẩn là 2,5m2 do ngành may quốc tế quy định cho từng nơi làm việc.
Thứ hai: do thùng đựng sản phẩm có chiều cao 50-60cm so với mặt sàn nên khi lấy sản phẩm , bán sản phẩm người lao động không những phải xoay một góc lớn hơn 900 mà còn phải cúi xuống để lấy bán sản phẩm vì vậy đã gây ra lãng phí thời gian lao động
- Nơi làm việc của thợ phụ
Công việc của thợ phụ rất đơn giản, tuy nhiên những việc này là rất cần thiết để quá trình sản xuất của công nhân chính diễn ra liên tục.
3
1
2
Nơi làm việc này được bố trí:
1: Vị trí người lao động ngồi
2: Bàn làm việc
3: Bàn là hơi nước
Công nhân phụ cũng làm việc trong tư thế ngồi, đây là tư thế ít mệt mỏi và dễ thực hiện công việc. Ghế ngồi được thiết kế rời so với bàn làm việc giống như công nhân sản xuất vì vậy trong quá trình lao động công nhân có thể di chuyển ghế sao cho phù hợp với ý thích.
Bên tay phải cách vị trí người lao động 40 - 45cm là một chiếc bàn là hơi nước. Khi là các chi tiết nhỏ của sản phẩm người lao động chỉ cần đưa tay phải ra để lấy bàn là và thực hiện công việc của mình
Ta thấy rằng nơi làm việc này được bố trí hợp lý đảm bảo tiết kiệm động tác cho người lao động.
- Nơi làm việc này được bố trí như sau:
1
2
4
3
5
1: Vị trí người lao động
2: Bàn làm việc
3: Cầu là
4: Vị trí của bàn là hơi nước
5: Nồi hơi
Phía trước bên tay trái là vị trí của cầu là khi thực hiện nhiệm vụ người lao động lấy sản phẩm để lên cầu rồi đưa bàn là đến và là các đường cong trên sản phẩm hoặc những vị trí mà nếu để sản phẩm trên bàn làm việc thì không thực hiện được, đối với các bộ phận đơn giản người lao động chỉ cần để trên bàn và là đến khi đạt yêu cầu thì dừng.
Trong quá trình làm việc người thực hiện công việc trên ở cả hai tư thế đứng và ngồi, lực tác động bỏ ra không lớn, phạm vi hoạt động 500 - 600cm. Ta có thể kết luận sự bố trí nơi làm việc của thợ là cần là rất hợp lý từ những lý do trên.
Ngoài các nơi làm việc chính trên, tại xí nghiệp còn có nhiều nơi làm việc khác như nơi làm việc của nhân viên giác mẫu kỹ thuật, nơi làm việc của thợ làm cữ, nơi làm việc thùa khuy, thùa khuyết… Tuy nhiên các nơi làm việc này được bố trí rất linh hoạt giữa người lao động và máy móc và nó không phải là nơi làm việc cố định trong một thời gian dài của người lao động.
Ví dụ: Nhân viên giác mẫu kỹ thuật sau khi giác mẫu và may sản phẩm mẫu xong sẽ xuống xưởng để hướng dẫn về mặt kỹ thuật và kiểm tra chất lượng sản phẩm.
2. Thiết kế nơi làm việ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3602.doc