Lời nói đầu.
Ngày nay, quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang là xu thế chung của nhân loại, không một quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà có thể đem lại sự phát triển cho đất nước mình. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay, trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, đó là một nền kinh tế mở cửa theo hướng hội nhập quốc tế .
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã xác định con đường phát t
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1364 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu bộ linh kiện xe máy tại Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất - CIRI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
riển nền kinh tế đất nước nhanh nhất đó là việc thực hiện CNH-HĐH thông qua xu hướng mở cửa và hội nhập quốc tế. Sau hơn 10 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đổi rõ rệt trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội... Trong quá trình phát triển đó có sự đóng góp đáng kể và quan trọng của hoạt động thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế là một lĩnh vực hoạt động đóng vai trò mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy những lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng tiềm năng về vốn khoa học kỹ thuật, kỹ năng quản lý tiên tiến từ nước ngoài.
Nói đến thương mại quốc tế ta có thể liên tưởng ngay tới hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Nhưng ở nước ta hiện nay còn nghèo, cơ sở vật chất nhất là cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ còn kém phát triển. Do đó năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh còn thấp. Vì vậy nhập khẩu là để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại để phục vụ cho sản xuất. Ngoài ra nhập khẩu còn tác động tích cực đến nền kinh tế quốc dân về nhiều mặt như: sức lao động, vốn, tài nguyên, tiết kiệm được chi phí và thời gian...
Tuy nhiên để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh quốc tế được thực hiện một cách thuận lợi và an toàn, một nghiệp vụ quan trọng đối với mọi thương nhân là việc xây dựng các hợp đồng. Như vậy, hợp đồng là cầu nối giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu trong hợp đồng mua bán hàng hoá và có ý nghĩa đặc biệt cả trong lợi ích kinh tế lẫn trong quan hệ ngoại giao đối với những nhu cầu đó. Thực tế cho thấy, việc thiếu những kiến thức pháp lý cần thiết trong việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu đã mang lại nhiều hậu quả khôn lường mà nhiều nhà kinh doanh phải gánh chịu. Đó là những thua thiệt về tài sản là tiền bạc mà còn cả những thiệt hại phi tài sản khác nữa như sự mất uy tín trong quan hệ làm ăn... của các doanh nghiệp Việt Nam do rất nhiều các nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng trong đó vấn đề chủ yếu là thiếu kiến thức, kinh nghiệm và chưa chú trọng đúng mức đến quá trình thực hiện hợp đồng. Ngày nay thông tin liên lạc, khoa học kỹ thuật đã phát triển một cách vượt bậc. Nó đã tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi cho quy trình thực hiện hợp đồng ngoại thương diễn ra nhanh chóng và kịp thời hơn. Để hoàn thiện hơn nữa về thực hiện hợp đồng ngoại thương trong từng doanh nghiệp là một đòi hỏi mang tính cấp bách, cần thiết đối với doanh nghiệp ngoại thương Việt Nam hiện nay.
Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất - CIRI là một công ty có hoạt động xuất nhập khẩu với nhiều nước trên thế giới nhưng hoạt động nhập khẩu là chiếm tỷ trọng lớn trong toàn công ty. Chính vì vậy trong đợt thực tập tốt nghiệp này cùng với những kiến thức được trang bị tại trường đại học và sự giúp đỡ của thầy giáo BÙI ĐỨC DŨNG, các cán bộ nhân viên trong công ty nên em xin chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu bộ linh kiện xe máy tại Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất - CIRI”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là: Nhằm hoàn thiện hơn công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu bộ linh kiện xe máy mà công ty đang áp dụng. Từ đó đưa ra một số giải pháp để công ty có thể áp dụng. Đồng thời rút ra kinh nghiệm cho bản thân trong việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu trên thực tế.
Giới hạn nội dung và phạm vi nghiên cứu: Dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu xe máy cùng với những kiến thức đã học.
Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp những kiến thức đã học ở trường và sự hướng dẫn tận tình của thầy cô giáo cùng với những kinh nghiệm thực tế khi tham gia thực tập tại công ty (CIRI). Đồng thời sử dụng nguồn số liệu của công ty để phân tích, đánh giá và đưa ra các biện pháp nhằm hoàn thiện công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại công ty (CIRI).
Kết cấu luận văn được chia làm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu bộ linh kiện xe máy tại công ty (CIRI).
Chương III: Giải pháp và những kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của công ty.
Chương I
Lý luận về hoạt động nhập khẩu và việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Nhập khẩu và vai trò của hoạt động nhập khẩu .
1. Khái niệm về nhập khẩu.
Nhập khẩu là hình thức kinh doanh quốc tế giữa các thương nhân có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia khác nhau. Trong đó người mua (Người nhập khẩu) yêu cầu người bán (Người xuất khẩu) cung ứng cho mình một lượng hàng hoá nhất định như đã thoả thuận và hợp pháp. Người nhập khẩu sẽ phải trả cho người xuất khẩu một lượng giá trị tương ứng với lượng hàng hoá đó.
2. Các hình thức nhập khẩu.
Hoạt động nhập khẩu trong thực tế rất đa dạng. Đó là do tác động của điều kiện kinh doanh cùng với sự năng động sáng tạo của các doanh nhân mà xuất hiện nhiều hình thức nhập khẩu khác nhau được pháp luật cho phép. Dưới đây là các hình thức nhập khẩu phổ biến đang được áp dụng cho các doanh nghiệp nước ta hiện nay:
- Nhập khẩu trực tiếp: là hoạt động mua bán trực tiếp giữa người mua và người bán không qua trung gian.
- Nhập khẩu gián tiếp: là nhập khẩu qua trung gian thương mại, điển hình của nhập khẩu gián tiếp là nhập khẩu uỷ thác.
Nhập khẩu uỷ thác là hình thức hoạt động giữa một doanh nghiệp có nhu cầu nhập một số mặt hàng uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương, tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác sẽ tiến hành đàm phán ký kết hợp đồng với nước ngoài và làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của khách hàng và được hưởng thù lao uỷ thác.
Trên đây là những hình thức nhập khẩu khá phổ biến ở nước ta và được các doanh nghiệp vận dụng. Tuy nhiên để vận dụng một cách có hiệu quả thì đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải dựa vào môi trường kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, điều kiện giao dịch cụ thể để đưa ra hình thức nhập khẩu phối hợp hoặc kết hợp các hình thức nhập khẩu. Ngoài ra, công ty còn phải dựa vào tiềm lực của mình để tiến hành nhập khẩu và lựa chọn hình thức nhập khẩu, tiến hành các cuộc đàm phán để xem xét nên áp dụng hình thức nhập khẩu nào đem lại lợi nhuận cao nhất.
3. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nên kinh tế quốc dân.
Việt Nam sau một thời gian dài thực hiện chính sách đóng cửa nền kinh tế đã gây ra biết bao vấn đề tiêu cực như nền kinh tế trì trệ, lạc hậu và trình độ thấp kém thua xa các nước trong khu vực và có lẽ là một trong những nước kém phát triển nhất thế giới. Nhận thức được vấn đề này, Đảng ta đã xác định con đường để đưa đất nước nhanh chóng tiến kịp thời đại là CNH-HĐH đất nước, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường nhập khẩu các loại máy móc công nghệ hiện đại phục vụ sản xuất trong nước. Như vậy, ta thấy nhập khẩu có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế xã hội trong thời đại ngày nay. Vai trò của hoạt động nhập khẩu được thể hiện ở mấy mặt cơ bản sau:
Đối với nền kinh tế quốc dân:
Nhập khẩu đem lại cho nền kinh tế những công nghệ hiện đại máy móc thiết bị tiên tiến, hoàn thiện và có năng lực sản xuất hơn những thứ đã có trong nước. Từ đó nó làm tăng hiệu quả sản xuất, tăng sản lượng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân.
Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Xã hội ngày càng phát triển và nhu cầu của con người ngày càng phong phú và đa dạng thông qua con đường nhập khẩu sẽ thoả mãn mọi nhu cầu đó của con người. Nhập khẩu làm đa dạng hoá về mặt hàng, về chủng loại.
Nhập khẩu góp phần đáng kể vào việc xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ nền kinh tế đóng, tự cung tự cấp. Ngoài ra, nó còn đưa tới việc xoá bỏ nhanh chóng các chủ thể kinh doanh các sản phẩm lạc hậu không thể chấp nhận được, góp phần hoàn thiện các cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của nhà nước.
Nhập khẩu là để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại cho sản xuất và các loại hàng hoá cho tiêu dùng mà trong nước không sản xuất hoặc trong nước có sản xuất nhưng không đáp ứng nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế sản xuất nghĩa là nhập khẩu những thứ mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Như vậy sẽ làm tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động, vốn cơ sở vật chất, tài nguyên và khoa học kỹ thuật.
Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu. Bởi vì, nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu...
b) Đối với các doanh nghiệp:
Nhập khẩu giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được cả vốn và chi phí cho quá trình nghên cứu cũng như thời gian và số lượng đội ngũ khoa học nghên cứu mà vẫn thu được kết quả tương đối về phát triển khoa học kỹ thuật.
Nhập khẩu giúp các doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt, đón đầu những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật, những công nghệ tiên tiến. Mà nếu không thực hiện nhập khẩu thì các doanh nghiệp sẽ ngày càng trở nên lạc hậu so với khu vực và thế giới.
Hàng hoá nhập khẩu không những mở rộng quá trình sản xuất của doanh nghiệp mà còn góp phần không nhỏ vào việc nâng cao đời sống tinh thần, nâng cao tầng hiểu biết về sự phát triển trên toàn cầu cũng như góp phần cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động thông qua việc nhập khẩu máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất mới an toàn hiệu quả...
Tuy nhập khẩu có vai trò to lớn như vậy nhưng nó cũng có những mặt hạn chế. Tức là nếu nhập khẩu tràn lan thì sẽ dẫn đến nền sản xuất trong nước sẽ bị suy yếu. Vì vậy cần có chính sách đúng đắn, có sự kiểm soát chặt chẽ, kịp thời, hợp lý để khai thác triệt để vai trò của nhập khẩu và hạn chế những hiện tượng xấu phát triển như: trốn thuế, tha hoá cán bộ...
Khái quát chung về hoạt động nhập khẩu :
1. Khái niệm:
Hợp đồng thương mại quốc tế hoặc hợp đồng mua bán ngoại thương hay hợp đồng xuất nhập khẩu là sự thoả thuận giữa các đương sự có trụ sở kinh doanh ở các quốc gia khác nhau, theo đó một bên gọi là bên bán (bên xuất khẩu) có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu cho một bên khác gọi là bên mua (bên nhập khẩu) một tài sản nhất định gọi là hàng hoá, bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng.
Như vậy thông qua khái niệm trên ta có thể rút ra một vài đặc điểm chính của hợp đồng xuất nhập khẩu như sau:
Chủ thể của hợp đồng này là bên bán (bên xuất khẩu) và bên mua (bên nhập khẩu) họ có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau. Bên bán giao hàng hoá cho bên mua, bên mua phải trả cho bên bán một đối giá cân xứng với giá trị hàng hoá đã được giao.
Đối tượng của hợp đồng này là tài sản: Do được đem ra mua bán, tài sản này biến thành hàng hoá. Hàng hoá này có thể là hàng hoá vật chất hay hàng hoá phi vật chất (dịch vụ).
Bản chất của hợp đồng này là sự thoả thuận giữa các bên ký kết hợp đồng. Điều cơ bản là hợp đồng phải thể hiện ý chí thực sự thoả thuận không được cưỡng bức, lừa dối lẫn nhau và có sự nhầm lẫn không chấp nhận được.
Khách thể của hợp đồng này là sự di chuyển quyền sở hữu hàng hoá (chuyển chủ hàng hoá). Đây là sự khác biệt so với hợp đồng thuê mướn vì hợp đồng thuê mướn không tạo ra sự chuyển chủ và so với hợp đồng tặng biếu không có sự cân xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi.
Hợp đồng nhập khẩu khác với hợp đồng mua bán trong nước ở những điểm sau đây:
Hàng hoá (đối tượng) của hợp đồng thường di chuyển ra khỏi biên giới quốc gia.
Đặc điểm này có thể có cũng có thể không. Ví dụ, hợp đồng mua bán ký kết giữa một xí nghiệp trong khu chế xuất với một xí nghiệp ngoài khu chế xuất được pháp luật coi là hợp đồng mua bán quốc tế , nhưng hàng hoá thuộc hợp đồng này không di chuyển khỏi biên giới quốc gia.
Đồng tiền thanh toán ít nhất là ngoại tệ của một nước
Đặc điểm này cũng không phải là điểm tất yếu. Ví dụ: Các khối trong nước cộng đồng chung Châu Âu khi buôn bán với nhau thì họ sử dụng đồng tiền thanh toán là đồng EURO hay hai nước buôn bán với nhau bằng hình thức hàng đổi hàng.
Các bên ký kết có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau.
Đây chính là đặc điểm quan trọng nhất để phân biệt yếu tố quốc tế hay nội địa trong một hợp đồng.
Điều kiện hiệu lực của hợp đồng xuất nhập khẩu:
Theo điều 81- Luật thương mại Việt Nam, hợp đồng xuất nhập khẩu có hiệu lực khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
Chủ thể của hợp đồng gồm: Bên mua và bên bán phải có tư cách pháp lý
Chủ thể bên nước ngoài là thương nhân và tư cách pháp lý của họ được xác nhận căn cứ theo pháp luật của họ.
Về phía Việt Nam: Chủ thể phải là thương nhân được phép hoạt động thương mại trực tiếp với nước ngoài. Theo nghị định 57 thì thương nhân phải có giấy đăng ký kinh doanh và mã doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu.
Hàng hoá theo hợp đồng: là hàng hoá được phép mua bán theo quy định pháp luật của nước bên mua và nước bên bán.
Doanh nghiệp không được phép xuất nhập khẩu những mặt hàng theo quyết định số 46/2001/QĐ- TTg. Đối với những mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện thì họ phải xin được hạn ngạch (trường hợp nhà nước quản lý bằng hạn ngạch) hoặc xin được giấy phép (trường hợp hàng thuộc diện nhà nước quản lý bằng giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu).
Đối tượng của hợp đồng phải là hàng được phép xuất nhập khẩu theo các văn bản pháp luật hiện hành của hai nước.
Hợp đồng thương mại quốc tế phải có nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá.
Theo điều 50 - luật thương mại Việt Nam thì nội dung của hợp đồng buộc phải có các điều khoản sau: Tên hàng, quy cách chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời gian giao nhận hàng.
Ngoài ra, các bên có thoả thuận thêm những nội dung, những điều khoản khác cho hợp đồng.
Hình thức của hợp đồng:
Theo luật Việt Nam, hợp đồng xuất nhập khẩu phải được lập thành văn bản mới có hiệu lực: Thư từ điện tín cũng được coi là văn bản, mọi hình thức thoả thuận bằng miệng đều không có giá trị, mọi sửa đổi bổ sung đều được làm bằng văn bản.
3. Nội dung chủ yếu của hợp đồng nhập khẩu.
Nội dung của hợp đồng xuất nhập khẩu có thể rất khác nhau. Nó tuỳ thuộc vào tính chất và đặc điểm của hàng hoá, hoặc tuỳ thuộc và tập quán buôn bán giữa các bên. Có những hợp đồng đưa ra rất nhiều điều khoản, hết sức chặt chẽ và chi tiết, nhưng có những hợp đồng chỉ đưa ra những điều khoản cơ bản và hết sức đơn giản. Nhưng thông thường một hợp đồng xuất nhập khẩu gồm có hai phần: Những điều trình bầy và các điều khoản.
Những điều khoản trình bày thường ghi:
Số hợp đồng (contract no).
Địa điểm và ngày tháng ký hợp đồng .
Tên và địa chỉ của các đương sự.
Những định nghĩa dùng trong hợp đồng.
Cơ sở pháp lý để ký kết hợp đồng (đây có thể là hiệp định chính phủ, nghị định thư, chí ít người ta cũng đưa ra sự tự nguyện của hai bên khi tham gia ký kết hợp đồng).
Các điều khoản (term) của hợp đồng bao gồm:
Điều khoản về tên hàng.
Đâylà điều khoản quan trọng của mọi đơn chào hàng, của thư hỏi hàng, của các hợp đồng hoặc nghị định thư. Nó nói lên chính xác đối tượng mua bán, trao đổi do đó người ta luôn tìm cách diễn đạt chính xác tên hàng. Nếu không đúng thì mua được cái không cần mua, không bán được cái cần bán. Để làm được điều đó người ta thường dùng các biện pháp:
Ghi tên chính thức của hàng hoá kèm theo tên khoa học, thương mại (áp dụng cho các loại hoá chất, giống cây). Ví dụ: Hàn the là Na3B4O7nH2O.
Ghi tên hàng kèm theo hãng sản xuất ra hàng đó. VD: xe máy HONDA, tủ lạnh HITACHI...
Ghi tên hàng kèm thao tên địa phương sản xuất ra hàng hoá đó. VD: rượu vang Bordeaux...
Ghi tên hàng kèm theo nhãn hiệu của nó. VD: bột giặt OMO...
Ghi tên hàng kèm theo quy cách của hàng đó. VD: xe tải 10 tấn...
Ghi tên hàng kèm theo công dụng của hàng hoá đó. VD: mực để in...
Ngoài ra người ta còn kết hợp các phương pháp trên đây với nhau. VD: màn hình siêu phẳng 29inches của hãng Panasonic...
Điều khoản chất lượng hàng hoá:
Điều khoản này nói lên mặt chất của hàng hoá mua bán. Tức là nói lên tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng của hàng hoá mua bán thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kịên tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng của hàng hoá bao gồm: Các chỉ tiêu cơ lý hoá, công suất, độ chính xác và các chỉ tiêu cảm quan như màu sắc, mùi vị của hàng hoá giao dịch mua bán.
Trong điều khoản này cần nêu rõ phương pháp xác định phẩm chất, chỉ tiêu đại khái quen dùng, quy cách hàng hoá, hàm lượng của chất chủ yếu trong hàng hoá, tài liệu kỹ thuật, số lượng thành phẩm thu được từ hàng hoá đó, hiện trạng của hàng hoá đó, mô tả của hàng hoá và tên của nơi sản xuất.
Điều khoản về số lượng:
Điều khoản này nói lên lượng hàng hoá được giao dịch. Nó xác định rõ đối tượng mua bán và liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ của bên mua và bên bán. Do vậy việc lựa chọn đơn vị đo lường số lượng nào vừa phải căn cứ vào bản thân sản phẩm, vừa căn cứ vào tập quán buôn bán quốc tế về đo lường.
Đơn vị tính số lượng: Do có nhiều đơn vị khác nhau như: cái, số, chiếc, kg, m... nhiều đơn vị có nhiều tên gọi nhưng ở mỗi nước lại có một nội dung khác. Ví dụ:
Một tấn hệ mét khác với một tấn hệ của Anh. Cho nên sử dụng điều khoản này khá phức tạp tuỳ thuộc vào từng loại sản phẩm.
Phương pháp quy định số lượng: trong thực tiễn Thương mại quốc tế người ta có thể quy định số lượng hàng hoá bằng hai cách:
Bên bán và bên mua quy định cụ thể số lượng hàng hoá giao dịch. Thường được áp dụng đối với hàng hoá có giá trị lớn với đơn vị đo là chiếc, cái ví dụ: 10 chiếc xe ô tô... ở đây không được dùng “khoảng”.
Bên bán và bên mua quy định số lượng phỏng chừng. Trong hợp đồng mua bán người ta thường dùng các thuật ngữ như: Khoảng, xấp xỉ, hơn kém, cộng trừ... Phương pháp này thường áp dụng đối với hàng hoá có khối lượng lớn. Ví dụ: Gạo quy định 5000 tấn gạo 5% (5% là sai số).
Sai số này có thể do người bán quyết định hoặc do người mua hay người vận tải quyết định. Nếu trong hợp đồng không thoả thuận thì do người bán hoặc do người vận tải quyết định.
Phương pháp xác định trọng lượng: Trong thương mại quốc tế, có rất nhiều loại hàng hoá được tính số lượng theo trọng lượng. Căn cứ vào tập quán buôn bán thông thường để xác định trọng lượng hàng hoá mua bán người ta dùng những phương pháp sau:
Trọng lượng cả bì (Gross weight - GW): Bao gồm trọng lượng thực tế của hàng hoá cộng với trọng lượng của bao bì.
Trọng lượng tịnh (Net weight - NW): Là trọng lượng cả bì trừ đi trọng lượng của bao bì.
Trọng lượng thương mại: Thường áp dụng đối với hàng hoá có khả năng hút ẩm.
Công thức:
Gtm: trọng lượng thương mại của hàng hoá.
Gtt: trọng lượng thực tế của hàng hoá.
Wtc: độ ẩm tiêu chuẩn của hàng hoá.
Wtt: độ ẩm thực tế của hàng hoá.
Trọng lượng lý thuyết: Thường áp dụng đối với hàng hoá có tính tiêu chuẩn cao. Ví dụ: Thép, tôn và các thiết bị đồng bộ. Theo phương pháp này người ta căn cứ vào thể tích, khối lượng riêng và số lượng hàng hoá để tính toán trọng lượng hàng, hoặc căn cứ vào thiết kế của nó (đối với thiết bị toàn bộ) để xác định hàng hoá cung cấp cho nhau.
Điều khoản về giá cả.
Trong hợp đồng thương mại quốc tế điều khoản giá cả bao gồm những nội dung như: Mức giá, đồng tiền tính giá, phương pháp quy định giá, phương pháp xác định giá, sử dụng các loại giảm giá (chiết giá), những quy định khác liên quan đến giá cả.
Mức giá: Để xác định chính xác mức giá cần phải nắm chắc nguyên tắc xác định giá, xu thế thay đổi của giá cả thị trường thế giới, xem xét đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả, hạch toán lỗ lãi đồng thời định rõ điều kiện cơ sở giao hàng liên quan đến giá đó.
Đồng tiền tính giá: có thể là đồng tiền của nước người bán, của nước người mua hay của một nước thứ ba mà hai bên đồng ý. Trên thực tế người ta thường sử dụng đồng tiền có khả năng chuyển đổi mạnh như đô la Mỹ (USD).
Phương pháp quy định giá: trong thương mại quốc tế tuỳ theo từng trường hợp người ta có thể áp dụng các phương pháp quy định giá như sau: giá cố định, giá quy định sau, giá linh hoạt và giá di động.
Phương pháp xác định giá: Gồm xác định giá hướng vào sản xuất và xác định giá hướng vào thị trường.
Các quy định khác liên quan đến giá cả: Thường là các điều kiện cơ sở giao hàng. Mỗi một điều kiện sẽ cho một mức giá khác nhau
Bao gồm các điều kiện được quy định trong Incoterms như: Giao tại xưởng (EXW), giao cho người vận tải (FCA), giao dọc mạn tàu (FAS), giao lên tàu (FOB), tiền hàng cộng cước phí (CFR), tiền hàng cộng bảo hiểm cộng cước phí (CIF), cước trả tới đích (CPT), cước và bảo hiểm trả tới đích (CIP), giao tại biên giới (DAF), giao lên tàu (DES), giao trên cầu cảng (DEQ), giao tại đích chưa nộp thuế (DDU), giao tại đích đã nộp thuế (DDP).
Điều khoản thanh toán.
Các điều kiện thanh toán quy định trong hợp đồng thương mại quốc tế bao gồm: đồng tiền thanh toán, địa điểm thanh toán, phương thức thanh toán và điều kiện đảm bảo hối đoái.
Địa diểm thanh toán: có thể ở nước người nhập khẩu, ở nước người xuất khẩu hoặc ở nước thứ ba do hai bên quy định. Trong thực tế việc xác định địa điểm thanh toán phụ thuộc quan trọng vào thế và lực của hai bên.
Đồng tiền thanh toán: có thể bằng đồng tiền nước xuất khẩu, đồng tiền nước nhập khẩu hoặc đồng tiền của nước thứ ba do hai bên quy định. Đồng tiền thanh toán có thể trùng hợp với đồng tiền tính giá và cũng có thể không trùng hợp. Nếu không trùng hợp với đồng tiền tính giá thì phải quy định mức tỷ giá quy đổi.
Thời hạn thanh toán thường có ba cách quy định sau: trả tiền trước, trả tiền ngay hoặc trả tiền sau.
Phương thức thanh toán gồm: phương thức trả tiền mặt (cash payment), phương thức chuyển tiền (transfer), phương thức ghi sổ (open account), phương thức nhờ thu (collection), phương thức tín dụng chứng từ (documentary credit).
Điều kiện đảm bảo hối đoái: đó có thể là điêu kiện đảm bảo vàng hoặc điều kiện đảm bảo ngoại hối.
Điều khoản giao hàng.
Điều khoản giao hàng của hợp đồng quy định một cách cụ thể những nội dung sau: thời hạn giao hàng, địa điểm giao hàng, phương thức giao hàng và việc thông báo giao hàng để tránh xảy ra tranh chấp khi thực hiện hợp đồng.
Thời hạn giao hàng: là thời hạn mà người bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Nếu các bên giao dịch không có thoả thuận gì khác thì lúc này cũng là lúc di chuyển rủi ro và tổn thất về hàng hoá từ người bán sang người mua. Trong buôn bán quốc tế có ba quy định thời hạn giao hàng: thời hạn giao hàng có định kỳ, không có định kỳ và giao hàng ngay.
Địa điểm giao hàng: Việc lựa chọn địa điểm giao hàng có liên quan chặt chẽ đến phương thức chuyên chở hàng hoá và điều kiện cơ sở giao hàng.
Phương thức giao hàng gồm các bước sau: Giao hàng sơ bộ, giao nhận về số lượng, giao nhận về chất lượng, giao nhận cuối cùng.
Thông báo giao hàng: Trước khi giao hàng thường có những thông báo của người bán về việc hàng đã sẵn sàng để giao hoặc đem ra cảng (ga) để giao. Người mua thông báo cho người bán những điều kiện cần thiết để gửi hàng hoặc về chi tiết của tàu đến nhận hàng. Sau khi giao hàng người bán vẫn tiếp tục thông báo về tình hình đã giao.
Điều kiện về bao bì ký mã hiệu.
Điều khoản về bao bì bao gồm các vấn đề như: chất lượng bao bì, phương pháp cung ứng và giá cả bao bì hàng hoá nhằm đảm bảo cho lộ trình vận chuyển và bảo quản hàng , đồng thời nâng cao tính hấp dẫn cho sản phẩm.
Quy định về ký mã hiệu: là điều kiện nhằm tạo thuận lợi cho việc bốc dỡ, giao nhận và bảo quản hàng hoá. Yêu cầu của mã hiệu là phải viết bằng sơn hoặc mực không phai, không nhoè, phải dễ đọc, có kích thước lớn hơn hoặc bằng 2 cm, không làm ảnh hưởng tới phẩm chất hàng hoá, viết theo thứ tự nhất định, màu sắc phù hợp với từng loại hàng hoá, phải được kẻ ít nhất trên hai mặt giáp nhau.
Điều khoản về bảo hành:
Đây là điều khoản quy định trách nhiệm của người bán đối với chất lượng của hàng hoá giao nhận trong một khoảng thời gian xác định. Thời gian này gọi là thời gian bảo hành, nó được coi là thời gian dành cho người mua phát hiện những khuyết tật của hàng hoá đó.
Trong điều kiện bảo hành người ta thường thoả thuận về phạm vi bảo đảm của hàng hoá, thời hạn bảo hành, những khuyết tật được bảo hành, địa điểm bảo hành, hình thức bảo hành và trách nhiệm của người bán trong thời hạn bảo hành.
Điều khoản khiếu nại:
Là việc một bên yêu cầu bên kia giải quyết những tổn thất hoặc thiệt hại mà bên kia đã gây ra hoặc về những sự vi phạm điều đã được cam kết giữa hai bên. Mục đích của điều khoản này là: Làm nhụt ý chí của các bên khi các bên có ý định không thực hiện một phần hay toàn bộ hợp đồng. Đồng thời không cần đưa ra trọng tài mà vẫn được hưởng đền bù do bên kia gây ra. Điều khoản quy định thời hạn khiếu nại, thể thức khiếu nại, nghĩa vụ các bên khiếu nại.
Điều khoản về trường hợp miễn trách (bất khả kháng):
Đây là điều khoản xảy ra bất thường ngoài sự kiểm soát của đương sự và ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng. Để miễn trách nhiệm người gây ra thiệt hại phải chứng minh được đó là bất khả kháng và mình đã làm hết trách nhiệm nhưng thiệt hại vẫn xảy ra.
Điều khoản về trọng tài.
Trong hoạt động thương mại quốc tế thường xuyên xảy ra các tranh chấp. Nếu các bên không tự giải quyết được với nhau thì có thể đưa ra trọng tài quốc tế hoặc toà án kinh tế của địa phương để giải quyết.
Quy định nội dung: Ai là người đứng ra phân xử, luật áp dụng vào việc xét xử, địa điểm tiến hành trọng tài, cam kết chấp hành tài quyết và phân định chi phí trọng tài. Quy định các trường hợp phạt và bồi thường, cách thức phạt và bồi thường, trị giá phạt và bồi thường.
Trên đây là các điều khoản chủ yếu cơ bản nhất của một hợp đồng. Tuy nhiên trong thực tế tuỳ từng trường hợp cụ thể mà có thể thêm một số điều khoản khác như điều khoản bảo hiểm, điều khoản vận tải...
4. Luật điều chỉnh hợp đồng nhập khẩu.
Luật điều chỉnh hợp đồng ngoại thương là một vấn đề mà các bên đều quan tâm bởi nó bảo vệ lợi ích của tất cả các bên trong hợp đồng và là cơ sở pháp lý đầu tiên để giải quyết tranh chấp xảy ra. Do có yếu tố nước ngoài, vì vậy hợp đồng nhập khẩu có nguồn luật điều chỉnh phức tạp hơn nhiều so với hợp đồng mua bán trong nước. Luật điều chỉnh hợp đồng nhập khẩu có thể là điều ước quốc tế, luật quốc gia, các tập quán thương mại quốc tế, án lệ.
a) Điều ước quốc tế:
Khi phát sinh tranh chấp từ hợp đồng nhập khẩu liên quan đến vấn đề không quy định hoặc quy định không đầy đủ trong hợp đồng, các bên có thể dựa vào điều ước quốc tế về ngoại thương. Ở Việt Nam điều ước đã ký kết hoặc thừa nhận thì chúng có giá trị bắt buộc đối với hợp đồng nhập khẩu có liên quan.Tức là, dù bên nào có dẫn chiếu hay không thì các điều ước quốc tế về ngoại thương mà công ty ký kết hoặc thừa nhận vẫn đương nhiên được áp dụng. Còn những điều ước quốc tế về ngoại thương mà Việt Nam không ký, chưa ký hoặc không thừa nhận thì không có giá trị bắt buộc đối với chủ thể Việt Nam trong hợp đồng nhập khẩu. Chúng chỉ trở thành nguồn luật điều chỉnh hợp đồng nhập khẩu nếu các bên thoả thuận dẫn chiếu tới trong hợp đồng.
Nếu trong các điều ước quốc tế về ngoại thương có những quy định khác với pháp luật Việt Nam thì có quyền bảo lưu, tức là chỉ áp dụng từng chương mục của công ước nếu không trái với pháp luật Việt Nam.
b) Luật quốc gia:
Luật quốc gia của một nước sẽ được lựa chọn để áp dụng cho hợp đồng nhập khẩu thì:
Các bên đã thoả thuận trong hợp đồng.
Các bên thỏa thuận, lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng sau khi hợp đồng nhập khẩu đã được ký kết. Trường hợp này thường được sử dụng khi trong hợp đồng ký kết trước đó vì lý do nào đó không có điều khoản luật áp dụng. Mặc dù lúc này thường là tranh chấp đã xảy ra nhưng các bên vẫn còn có thể đàm phán với nhau để chọn luật nào đó để giải quyết.
Khi luật đó đã được quy định trong các điều ước quốc tế mà nước đó đã tham gia ký kết hoặc thừa nhận có quy định về điều khoản luật áp dụng cho các hợp đồng nhập khẩu thì các điều khoản đó đương nhiên được áp dụng.
Trên thực tế lựa chọn nước nào phụ thuộc vào quá trình đàm phán, thế lực của người đàm phán và đặc biệt là sự hiểu biết của mỗi bên về luật pháp nước mình và nước của bạn hàng.
c) Tập quán thương mại quốc tế.
Đây là thói quen phổ biến được nhiều nước áp dụng và công nhận rộng rãi. Thông thường các tập quán thương mại quốc tế được chia làm 3 nhóm:
Tập quán có tính chất nguyên tắc.
Tập quán thương mại quốc tế chung.
Tập quán thương mại khu vực.
Tập quán thương mại quốc tế sẽ trở thành nguồn luật điều chỉnh hợp đồng nhập khẩu khi:
Chính hợp đồng đó quy định.
Các điều ước quốc tế liên quan quy định.
Luật quốc gia do các bên thoả thuận lựa chọn không có hoặc có nhưng không đầy đủ về vấn đề tranh chấp, vấn đề cần điều chỉnh.
Do tập quán thương mại quốc tế có nhiều loại nên khi sử dụng cần ghi rõ tên nguồn để tránh nhầm lẫn. Khi lập hợp đồng nhập khẩu cần chú ý bốn nguyên tắc về Incoterms:
Một là: Incoterms không có giá trị bắt buộc đối với chủ thể của hợp đồng xuất nhập khẩu vì nó chỉ là tập quán, không phải là luật. Tuy nhiên khi đã dẫn chiếu vào hợp đồng thì nó bắt buộc như là luật.
Hai là: Khi lập hợp đồng phải ghi rõ nguồn gốc của Incoterm. Ví dụ: Giao hàng theo điều kiện CIF Incoterms - 2000.
Ba là: Do Incoterms chỉ có giá trị tuỳ ý cho nên ngay cả khi hợp đồng đã có sự dẫn chiếu tới Incoterms, các bên vẫn có thể thoả thuận với nhau để có thể thay đổi một số nội dung cụ thể trong Incoterms sao cho phù hợp với hợp đồng của mình.
Bốn là: Incoterms giải quyết các vấn đề rủi ro vào thời điểm nào? Ai lo liệu các chứng từ hải quan? Ai phải trả các cước phí bảo hiểm? Ai chịu trách nhiệm về chi phí vận tải?
d) Án lệ và các nghị định.
Án lệ thường được áp dụng đối với các trường hợp:
Khi các bên thoả thuận trong hợp đồng sẽ áp dụng án lệ và phải quy định đối với từng trường hợp cụ thể.
Nếu trung tâm trọng tài được lựa chọn theo thoả thuận trong hợp đồng có áp dụng án lệ vào xét xử tranh chấp thì các bên đương sự cũng phải áp dụng.
Khi các nghị định đã được ký kết giữa các quốc gia thì nó sẽ trở thành nguồn luật đương nhiên đối với các bên quốc gia đó và có giá trị bắt buộc đối với hợp đồng nhập khẩu có liên quan. Các bên có thể dựa vào đó mà không cần có sự thoả thuận nào, tức là chỉ cần các bên có dẫn chiếu thì chúng đương nhiên được áp dụng và nhờ đó mà hoạt động buôn bán thương mại quốc tế được thuận lợi nhanh chóng hơn, tiết kiệm chi phí, thời gian cho các thương nhân.
III. Quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Sa._.u khi hợp đồng nhập khẩu được ký kết, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu với tư cách là một bên ký hợp đồng, phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là một chuỗi các công việc phức tạp và mang tính chất tự nguyện cao, đòi hỏi người làm công tác này phải đầy đủ kỹ năng, nghiệp vụ thương mại quốc tế. Việc thực hiện này đòi hỏi phải tuân thủ luật pháp quốc gia, quốc tế và giữ chữ tín cho đơn vị mình. Đồng thời đòi hỏi phải cố gắng tiết kiệm các chi phí lưu thông, nâng cao doanh lợi và hiệu quả công việc. Việc thực hiện hợp đồng phải tiến hành các công việc sau.
Xin giấy phép nhập khẩu:
Xin giấy phép nhập khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các bước tiếp theo. Vì thế sau khi ký hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy phép nhập khẩu. Có hai loại giấy phép nhập khẩu đó là giấy phép nhập khẩu năm và giấy phép nhập khẩu chuyến.
Nếu hàng hoá có trong nghị định thư thì không cần xin giấy phép.
Bộ thương mại cấp giấy phép xuất nhập khẩu từng chuyến hàng mậu dịch
Tổng cục hải quan cấp giấy phép cho hàng phi mậu dịch.
Đối với hàng hoá thông thường thì doanh nghiệp không cần xin giấy phép nhập khẩu mà chỉ phải làm tờ khai hải quan gửi Bộ Thương mại để theo dõi.
Khi đối tượng thuộc phạm vi phải xin giấy phép nhập khẩu, doanh nghiệp phải xuất trình bộ hồ sơ xin giấy phép gồm:
Đơn xin phép.
Phiếu hạn ngạch (nếu có).
Bản sao hợp đồng hoặc bản sao L/C.
Hợp đồng uỷ thác nhập khẩu (nếu là nhập khẩu uỷ thác).
Các giấy tờ có liên quan (nếu có).
Thuê phương tiện vận tải.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại quốc tế việc thuê phương tiện vận tải phải dựa vào các căn cứ sau
Căn cứ vào điều kiện cơ sở giao hàng: Nếu điều kiện là CFR, CIF, CPT, CIP, DES, DEQ, DDU, DDP thì người xuất khẩu phải tiến hành thuê phương tiện vận tải. Còn nếu điều kiện cơ sở giao hàng là EXW, FCA, FAS, FOB thì người nhập khẩu phải có nghĩa vụ thuê phương tiện vận tải.
Căn cứ vào khối lượng hàng và đặc điểm của hàng hoá: Căn cứ vào khối lượng hàng để tối ưu hoá trọng tải của phương tiện từ đó tối ưu hoá chi phí. Đồng thời căn cứ vào đặc điểm của hàng hoá là để lựa chọn phương tiện đảm bảo an toàn cho hàng hoá trong quá trình vận chuyển.
Căn cứ vào điều kiện vận tải: Đó là hàng hoá rời hay hàng hoá đóng trong Container, hàng hoá thông dụng hay hàng hoá đặc biệt. Vận chuyển trên tuyến đường bình thường hay đặc biệt, vận tải một chiều hay khứ hồi...
Ngoài ra còn phải căn cứ vào các điều kiện khác trong hợp đồng thương mại quốc tế: Quy định tải trọng tối đa của phương tiện, mức bốc dỡ, thưởng phạt bốc dỡ...
Việc thuê phương tiện vận tải phục vụ cho chuyên chở hàng hoá có ý nghĩa quan trọng đối với các tác nghiệp của quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Nó trực tiếp ảnh hưởng tới tiến độ giao hàng, đến sự an toàn của hàng hoá và có liên quan nhiều đến nội dung của hợp đồng. Chính vì vậy, khi thuê phương tiện vận tải cần phải hiểu và nắm chắc nghiệp vụ cũng như cần có kinh nghiệm thực tế, nhất là trong trường hợp thuê tàu biển (một lĩnh vực rất phức tạp).
1.3) Mua bảo hiểm.
Trong thương mại quốc tế thường phải vận chuyển đi xa, trong những điều kiện vận tải khá phức tạp, do đó hàng hoá dễ bị hư hỏng, mất mát tổn thất lớn trong quá trình vận chuyển. Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển cũng thường gặp rủi ro và tổn thất, bởi vậy trong thương mại quốc tế bảo hiểm đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất. Theo điều kiện CIF, CIP thì nghĩa vụ của người bán phải mua bảo hiểm vì lợi ích của người mua nhưng chỉ phải mua bảo hiểm ở một mức tối thiểu. Còn trong các điều kiện khác, các bên tự quyết định việc mua bảo hiểm nếu họ cảm thấy cần thiết tức là không bắt buộc phải mua bảo hiểm.Các đơn vị kinh doanh khi mua bảo hiểm phải xác lập nên một hợp đồng bảo hiểm. Để ký một hợp đồng bảo hiểm thì cần nắm vững điều kiện bảo hiểm. Có 3 điều kiện chính cần quan tâm khi ký kết hợp đồng bảo hiểm là:
Điều kiện bảo hiểm A: Bảo hiểm mọi rủi ro.
Điều kiện bảo hiểm B: Bảo hiểm có tổn thất riêng.
Điều kiện bảo hiểm C: Bảo hiểm miễn tổn thất riêng
Ngoài ra còn có điều kiện bảo hiểm như: Vỡ, rò rỉ, mất trộm..., bảo hiểm đặc biệt như bảo hiểm chiến tranh, bảo hiểm đình công, bạo động...
Cần dựa vào các đặc điểm sau để cân nhắc mua loại bảo hiểm nào:
Tính chất hàng hoá.
Tính trạng bao bì.
Vị trí xếp hàng lên tàu.
Loại tàu chuyên chở.
Tình hình chính trị, xã hội.
Làm thủ tục hải quan.
Thủ tục hải quan là một công cụ để quản lý các hoạt động buôn bán theo pháp luật của Nhà nước để ngăn chặn buôn lậu. Theo quyết định số 1494/2001/QĐ-TCHQ (Có hiệu lực ngày 1/10/2001, ban hành ngày 26/01/2001) thì thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu gồm 3 bước:
Bước 1: Tiếp nhận, đăng ký tờ khai hải quan và quyết định hình thức kiểm tra thực tế hàng hoá.
Ở bước này công chức hải quan sẽ kiểm tra các doanh nghiệp phải cưỡng chế làm thủ tục hải quan; Kiểm tra sự đồng bộ và đầy đủ của hồ sơ hải quan theo quy định ( Trường hợp không chấp nhận đăng ký hồ sơ hải quan thì phải thông báo lý do cho người khai hải quan biết); Kiểm tra việc kê khai theo nội dung yêu cầu trên tờ khai hải quan chứng từ thuộc hồ sơ hải quan, sự phù hợp của nội dung khai hải quan với chứng từ thuộc hồ sơ hải quan; Nếu có trường hợp vi phạm thì lập biên bản vi phạm. Sau đó lãnh đạo chi cục: Quyết định hình thức, tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hoá; Ký xác nhận đã làm thủ tục hải quan và thông quan đối với trường hợp lô hàng thuộc đối tượng miễn thuế, hàng có thuế suất 0% và được miễn kiểm tra thực tế, hoặc chuyển hồ sơ cho bước 2 đối với lô hàng phải kiểm tra thực tế, hoặc chuyển hồ sơ hải quan cho bước 3 đối với lô hàng miễn kiểm tra thực tế.
Bước 2: Kiểm tra thực tế hàng hoá.
Việc kiểm tra do ít nhất 2 công chức hải quan thực hiện và chịu trách nhiệm các công việc sau:
Kiểm tra thực tế hàng hoá.
Xác nhận kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá vào tờ khai hải quan.
Đối với lô hàng vi phạm thì lập biên bản vi phạm.
Bước 3: Kiểm tra tính thuế: Gồm các công đoạn sau:
Căn cứ vào các quy định hiện hành, kết quả tính thuế của người khai hải quan và kết quả kiểm tra tính thuế hàng hoá (nếu có) để kiểm tra xác định số thuế phải nộp của lô hàng.
Ra thông báo thuế hoặc viết biên lai thu thuế (nếu có), viết biên lai lệ phí hải quan.
Nhập số liệu vào máy vi tính và chuyển hồ sơ cho lãnh đạo đội trực tiếp điều hành khâu kiểm tra tính thuế để xác nhận đã làm thủ tục hải quan và trả tờ khai hải quan cho chủ hàng.
Nhận hàng nhập khẩu.
a) Nhận hàng từ tàu biển bao gồm các bước sau:
Chuẩn bị chứng từ nhận hàng.
Ký hợp đồng uỷ thác cho cơ quan ga, cảng về việc giao hàng từ nước ngoài về
Xác nhận với cảng về kế hoạch tiếp nhận hàng, lịch tàu, cơ cấu mặt hàng, điều kiện kỹ thuật khi bốc dỡ hàng hoá và bảo quản hàng hoá.
Cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc giao nhận hàng hoá như vận chuyển đơn, lệnh giao hàng.
Tiến hành nhận hàng: Nhận về số lượng, xem xét sự phù hợp với tên hàng, chủng loại thông số kỹ thuật, chất lượng bao bì, ký mã hiệu của hàng hoá so với yêu cầu đã thoả thuận trong hợp đồng.
Người nhập khẩu phải kiểm tra, giám sát việc giao nhận hàng, phát hiện các sai phạm và giải quyết các tình huống phát sinh.
Thanh toán chi phí giao nhận, bốc xếp bảo quản hàng hoá cho cảng.
Nếu công ty nhận hàng chuyên chở bằng Container bao gồm các bước:
Nhận vận đơn và các chứng từ khác.
Trình vận đơn và các chứng từ khác như : Hoá đơn thương mại, phiếu đóng gói cho hãng tàu để đổi lấy lệnh giao hàng (D/O).
Nhà nhập khẩu đến trạm hoặc bãi Container để nhận hàng. Nếu hàng nguyên Container và công ty muốn nhận Container về để kiểm tra tại kho riêng thì trước đó phải đề nghị với cơ quan hải quan, đồng thời đề nghị hãng tàu để mượn Container. Khi được chấp nhận chủ hàng kiểm tra, niêm phong, kẹp chì của Container, vận chuyển Container về kho riêng sau đó công ty trả Container rỗng cho hãng tàu.
Nếu nhận hàng chuyên chở bằng đường sắt:
Nếu hàng đầy toa xe, người nhập khẩu nhận cả toa xe, kiểm tra, niêm phong kẹp chì, làm thủ tục hải quan, dỡ hàng, kiểm tra hàng hoá, tổ chức vận chuyển hàng hoá về kho riêng.
Nếu hàng hoá không đủ toa xe, người nhập khẩu nhận hàng tại trạm giao hàng và ngành đường sắt, rồi tổ chức vận chuyển hàng hoá về kho riêng.
d) Nếu nhận hàng chuyên chở bằng đường hàng không: Người nhập khẩu nhận hàng tại trạm giao nhận hàng không, tổ chức hàng vận chuyển về kho riêng của mình.
e) Nếu nhận hàng chuyên chở bằng đường bộ:
Nếu nhận tại cơ sở người nhập khẩu thì người nhập khẩu phải chịu trách nhiệm dỡ hàng xuống và nhận hàng.
Nếu nhận hàng tại cơ sở của người vận tải thì người nhập khẩu phải kiểm tra hàng và tổ chức vận chuyển hàng về kho riêng.
1.6) Kiểm tra hàng.
Sau khi nhận hàng bên nhập khẩu làm thủ tục kiểm tra quy cách, phẩm chất và tình hình thực tại của hàng hoá. Thông thường bên mua sẽ mời một cơ quan giám định để giám định hàng hoá. Cơ quan này lấy mẫu, phân tích số lượng, chất lượng hàng xem có phù hợp với hợp đồng không.
Đối với ga hoặc cảng: Kiểm tra niêm phong kẹp chì trước khi bốc hàng, xem hàng có được xếp đúng theo sơ đồ không.
Nếu khi bốc hàng thấy thiếu hụt mất mát về số lượng thì phải lập biên bản kế toán nhận hàng trên tàu. Nếu hàng bị đổ vỡ hư hỏng thì lập biên bản hàng đổ vỡ hư hỏng và phải có chữ ký của thuyền trưởng.
Đối với chủ hàng là đơn vị nhập khẩu: Khi kiểm tra hàng hoá nếu có thấy tổn thất thì lập thư dự kháng và lập ngay một biên bản giám định và yêu cầu kho, cảng, công ty bảo hiểm, công ty giám định do hai bên chọn ký nhận.
Các cơ quan kiểm dịch động thực vật cũng phải kiểm dịch và cấp giấy chứng nhận an toàn về hàng hoá (nếu hàng hoá là động thực vật).
Làm thủ tục thanh toán:
Trong thương mại quốc tế hiện nay có nhiều phương thức thanh toán khác nhau nhưng chủ yếu dùng một trong các phương thức sau:
Phương thức chuyển tiền.
Phương thức nhờ thu.
Phương thức giao chứng từ trả tiền.
Phương thức tín dụng chứng từ (L/C).
Tuy nhiên, trong các phương thức đó thì thanh toán bằng L/C là có độ an toàn cao hơn cả, nó đảm bảo quyền lợi cho cả người mua và người bán. Ta có thể biểu diễn qua sơ đồ sau:
(7)
Người mua
(2)
Ngân hàng mở L/C
Ngân hàng thông báo
(6)
(5)
(7)
(9)
(8)
(1)
(3)
Người mua
Người bán
(4)
Trong đó:
Người nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gửi tới ngân hàng.
Ngân hàng chấp nhận mở L/C. Trong đó ngân hàng cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ trình một bộ chứng từ đầy đủ và phù hợp với những quy định trong L/C bao gồm: Hoá đơn thương mại, vận đơn, giấy chứng nhận xuất xứ, giấy chứng nhận số lượng, chất lượng, giấy chứng nhận bảo hiểm.
Ngân hàng thông báo chuyển L/C bản gốc cho người xuất khẩu.
Người xuất khẩu chấp nhận L/C và giao hàng. Nếu không chấp nhận thì phải có thông báo đề nghị sửa L/C cho phù hợp với hợp đồng mua bán.
Người xuất khẩu chuyển bộ chứng từ cho ngân hàng thông báo.
Ngân hàng thông báo chuyển chứng từ cho ngân hàng mở L/C.
Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ. Nếu thấy phù hợp thì trả tiền cho người xuất khẩu thông qua ngân hàng thông báo.
Ngân hàng mở L/C chuyển bộ chứng từ thanh toán cho người nhập khẩu với điều kiện phải trả tiền ngay hoặc chấp nhận trả tiền thì ngân hàng mới chuyển vận đơn cho người nhập khẩu.
(9) Người nhập khẩu trả tiền cho ngân hàng sau khi kiểm tra bộ chứng từ thấy phù hợp.
Trong thanh toán quốc tế việc sử dụng thanh toán bằng L/C khá rộng rãi nhưng trong số các phương thức thanh toán này thì loại thư tín dụng không huỷ ngang vẫn phổ biến nhất vì nó đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên. Như vậy, sau khi đã hoàn thành việc thanh toán thì coi như việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu đã xong. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng có thể có những vấn đề nảy sinh có thể dẫn tới vi phạm. Việc giải quyết vấn đề này như thế nào còn phụ thuộc vào sự thoả thuận và thiện chí của hai bên.
Khiếu nại và giải quyết khiếu nại (nếu có):
Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu nếu như chủ hàng nhập khẩu phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị thiếu, tổn thất, đổ nát, mất mát thì cần khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời hạn khiếu nại.
Đối tượng khiếu nại là người bán nếu hàng có chất lượng hoặc số lượng không phù hợp, có bao bì không thích đáng, thời hạn giao hàng bị vi phạm, hàng giao không đồng bộ, thanh toán nhầm lẫn...
Đối tượng khiếu nại là công ty bảo hiểm nếu hàng hoá (đối tượng của bảo hiểm) bị tổn thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ hoặc do lỗi của người thứ ba gây ra khi những rủi ro này được mua bảo hiểm.
Đơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất như biên bản giám định, vận đơn đường biển, đơn bảo hiểm (nếu khiếu nại tại công ty bảo hiểm). Việc giải quyết khiếu nại phải thận trọng kịp thời, tỉ mỉ, giải quyết khẩn trương. Nếu việc khiếu nại không giải quyết thoả đáng thì hai bên có thể kiện nhau ra Hội đồng trọng tài hoặc tại toà án (nếu có thoả thuận trong hợp đồng).
Trên đây là toàn bộ quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Khi tiến hành hoạt động kinh doanh của mình thì các bên phải nghiêm túc chấp hành và tuân thủ pháp luật một cách triệt để. Đó chính là toàn bộ cơ sở cho các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực xuất nhập khẩu có thể vận dụng vào hoạt động kinh doanh của mình.
2. Ý nghĩa của việc tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu:
Hợp đồng nhập khẩu là kết quả của việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu, lựa chọn đối tác, lập phương án kinh doanh, tiến hành giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu là tự nguyện thực hiện những điều mà các bên đã thoả thuận cam kết, có nghĩa là thực hiện các nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên. Việc tổ chức thực hiện tốt hợp đồng nhập khẩu có một ý nghĩa quan trọng đối với mỗi bên.
Từ quá trình nghiên cứu thị trường cho đến quá trình đàm phán ký kết hợp đồng chỉ được đánh giá là có kết quả theo đúng nghĩa của nó khi thực hiện hợp đồng có hiệu quả.
Thực hiện hợp đồng nhập khẩu là thực hiện một chuỗi các công việc kế tiếp được đan kết chặt chẽ với nhau. Thực hiện tốt một công việc làm cơ sở để thực hiện các công việc tiếp theo và thực hiện cả hợp đồng. Như vậy tổ chức tốt thực hiện hợp đồng là trên cơ sở tổ chức tốt từng mắt xích công việc của một hợp đồng, theo một trình tự logic kế tiếp nhau. Thực hiện tốt môt nghĩa vụ hợp đồng không những tạo điều kiện cho mình thực hiện tốt nghĩa vụ tiếp theo mà còn tạo điều kiện cho bên đối tác thực hiện tốt nghĩa vụ của họ. Mỗi bên thực hiện tốt từng nghĩa vụ của mình trong hợp đồng nhập khẩu sẽ tạo cho các bên khác thực hiện tốt nghĩa vụ của họ và có nghĩa là mình thực hiện tốt các quyền lợi của mình. Khi thực hiện tốt các nghĩa vụ của mình là cơ sở khiếu nại khi bên đối tác không thực hiện tốt nghĩa vụ của họ trong hợp đồng.
Ta thấy thực hiện hợp đồng là nột quá trình phức tạp. Do đó các bên đều phải có kế hoạch tổ chức thực hiện, đặc biệt là hệ thống giám sát điều hành chặt chẽ để tối ưu hoá quá trình thực hiện.
Chương II
Thực trạng của công tác thực hiện hợp đồng nhập khẩu bộ linh kiện xe máy tại Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất (CIRI).
Khái quát về công ty:
1. Quá trình hình thành và phát triển.
Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất (CIRI - Center of International Relation and Investment) được thành lập tháng 3/1997, giấy phép đăng ký kinh doanh số 306546 do Sở kế hoạch và đầu tư Thành Phố Hà Nội cấp ngày 20/03/1997, mã số thuế: 0100108247- 001 -1, trực thuộc tổng công ty công trình giao thông 8 - Bộ giao thông vận tải, vốn pháp định của tổng công ty là: 179 tỷ đồng. Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất có trụ sở chính tại 508 - Đường trường chinh - Quận Đống Đa - Thành phố Hà Nội.
Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất là một doanh nghiệp thành viên của tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8 - CIENCO 8, một tổng công ty mạnh của ngành giao thông vận tải có bề dày kinh nghiệm hơn 30 năm hoạt động với 22 đơn vị trực thuộc và trên 5000 cán bộ công nhân viên. Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8 - CIENCO8 thường xuyên thắng thầu các dự án quốc tế và đã thi công nhiều công trình có qui mô lớn trong nước và quốc tế .
Việt Nam hiện nay nằm trong nhóm các quốc gia đang phát triển, do đó việc chuyển giao công nghệ từ các nước công nghiệp phát triển vào Việt Nam có rất nhiều cơ hội và lợi thế tạo ra lợi nhuận. Công ty CIRI luôn đặt mục tiêu tìm kiếm các cơ hội đầu tư và chuyển giao công nghệ mới vào Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng, cơ hội thực hiện việc chuyển giao công nghệ mới vào Việt Nam được CIRI nghiên cứu một cách khoa học với phương châm: “Công nghệ để chuyển giao công nghệ”. Trên cơ sở thu thập đầy đủ dữ liệu tình hình về các mặt, phân tích tổng hợp ra quyết định chuyển giao công nghệ khi đảm bảo hiệu quả, lấp kín rủi ro trong kinh doanh.
CIRI không ngừng xây dựng và phát triển theo hướng trở thành một doanh nghiệp mạnh kinh doanh đa ngành. Với đội ngũ cán bộ trẻ có trình độ, năng động, sáng tạo. CIRI mong muốn và sẵn sàng hợp tác với tất cả các đối tác trong nước và quốc tế, luôn tìm ra tiếng nói chung với các đối tác trên cơ sở bình đẳng, đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho mỗi bên tham gia hợp tác sản xuất kinh doanh. Các đối tác nước ngoài mà CIRI thường quan hệ là ở các thị trường Đức, Nhật, Trung Quốc, ASEAN, Đài Loan, Hàn Quốc...
2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty:
Hoạt động sản xuất kinh doanh của CIRI gồm:
Tư vấn - Đầu tư - Chuyển giao công nghệ.
Xây dựng các công trình.
Kinh doanh bất động sản.
Sản xuất công nghiệp: Chủ yếu là sản xuất phụ tùng, lắp ráp xe mô tô 2 bánh.
Đào tạo và xuất khẩu lao động đi các nước.
Kinh doanh xuất nhập khẩu vật tư thiết bị.
Kinh doanh du lịch, dịch vụ, thể thao, vui chơi giải trí.
Trong đó một trong những thế mạnh của công ty CIRI là sản xuất lắp ráp xe gắn máy 2 bánh, cung cấp các thiết bị máy móc thi công, máy xây dựng... Đối với lĩnh vực kinh doanh lắp ráp và nội địa hoá xe gắn máy 2 bánh thì nó đã gắn liền với quá trình kinh doanh của doanh nghiệp ngay từ buổi đầu thành lập nên công ty đã rút cho mình nhiều bài học kinh nghiệm và ngày càng trở nên trưởng thành trong lĩnh vực kinh doanh mới mẻ và nhạy cảm này. Còn đối với lĩnh vực nhập khẩu thiết bị máy móc, phụ tùng và nguyên vật liệu phục vụ giao thông vận tải, CIRI đã tiếp nối hoạt động này của đơn vị chủ quản là CIENCO8, một đơn vị làm ăn rất hiệu quả của ngành giao thông vận tải.
3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty:
Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty được khái quát theo sơ đồ sau:
Ban Giám Đốc
Sơ đồ tổ chức
P. Tổ chức CB lao động
P. Tài chính kế toán tổng hợp
P. Kiểm toán nội bộ
P. Hành chính quản trị
Chi nhánh T.P Hồ Chí Minh
VP . Đại diện tại nước ngoài
P. Xây dựng
P.Kỹ thuật
P. Thị trường
P. Kinh doanh nhà đất
P. XK lao động
P. Vật tư thiết bị
P. Xe máy
P. Dự án
Xí nghiệp lắp ráp xe máy
Các đội xây dựng công trình
Xưởng đúc, gia công cơ khí điện lạnh, điện tử
Xưởng sản xuất lắp ráp đồng hồ, công tơ mát, bộ dây điện
Xưởng sản xuất lắp ráp giảm xóc, ly hợp
Xưởng sản xuất lắp ráp động cơ
Xưởng sản xuất các sản phẩm nhựa
Xưởng sản xuất khung xe máy
Trung tâm đào tạo
Bộ máy tổ chức của Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất được tổ chức theo cơ cấu phòng ban chuyên trách thống nhất quản lý từ Giám Đốc đến từng nhân viên của công ty. Quyền lực tập trung ở Giám Đốc và ban lãnh đạo. Chịu trách nhiệm chính và quản lý hoạt động của mỗi phòng ban là trưởng phòng. Các phòng ban của CIRI làm việc theo nguyên tắc độc lập, tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong phạm vi của mình. Tuy nhiên giữa các phòng ban có mối quan hệ chặt chẽ với nhau để giải quyết công việc chung của công ty và tạo điều kiện cho bộ phận chức năng hoạt động thuận lợi.
4. Khái quát tình hình kinh doanh của công ty:
Các nguồn lực của công ty:
Các nguồn lực về tài chính:
Bất cứ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào hoạt động kinh doanh cũng đều phải có một số lượng vốn nhất định đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Và việc phân bổ số vốn đó có hợp lý hay không phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm hoạt động kinh doanh của từng loại hình doanh nghiệp cũng như chính sách đầu tư tài chính của doanh nghiệp quyết định. Cụ thể: đối với các doanh nghiệp thương mại thì có vốn đầu tư vào tài sản lưu động (TSLĐ) và đầu tư ngắn hạn (ĐTNH) chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng tăng dần, vốn đầu tư vào tài sản cố định (TSCĐ) và đầu tư dài hạn (ĐTDH) chiếm tỷ trọng nhỏ và giảm dần là hợp lý. Ngược lại, ở doanh nghiệp sản xuất, dịch vụ thì vốn thuộc TSCĐ và ĐTDH thường chiếm tỷ trọng lớn, còn vốn đầu tư vào TSLĐ và ĐTNH chiếm tỷ trọng nhỏ.
Tình hình tài chính của công ty CIRI được thể hiện qua biểu sau:
Bảng 1: Tình hình tài chính của Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất (CIRI) trong 2 năm 2001-2002.
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm 2001
Năm 2002
Tỷ lệ (02/01)
1
Tổng vốn
Đồng
139187840887
212046783934
152 %
2
TSCĐ và ĐTDH
Đồng
17731967828
64955656776
366.32%
3
TSLĐ và ĐTNH
Đồng
121455873059
147091127158
121.11%
4
TSCĐ/Tổng vốn KD
%
12.74
30.63
17.89%
5
TSLĐ/Tổng vốn KD
%
87.26
69.37
-17.89%
(nguồn: Báo cáo thực hiện các chỉ tiêu tài chính 2001-2002).
Qua biểu trên ta thấy, trải qua hơn 6 năm hoạt động công ty đã có một số lượng vốn kinh doanh tương đối lớn trên 200 tỷ đồng. Và việc phân bổ số vốn này là tương đối hợp lý. Bởi vì, công ty CIRI vừa là doanh nghiệp thương mại (Kinh doanh xuất nhập khẩu) vừa là doanh nghiệp sản xuất (Lắp ráp xe máy, điện tử, điện lạnh...). Cho nên số vốn sử dụng cần phải đủ lớn và trong năm 2002 số vốn đầu tư vào kinh doanh đã tăng lên 52% so với năm 2001. Do những năm đầu cụ thể cho đến năm 2001 vẫn có thiên hướng là một doanh nghiệp thương mại bởi nhìn vào tỷ lệ phần trăm TSCĐ/Tổng vốn và TSLĐ/Tổng vốn lần lượt là 12.74% và 87.26%, ta thấy ngay số vốn đầu tư vào TSLĐ và ĐTNH chiếm tỷ trọng lớn (Gấp khoảng 7 lần so với số vốn đầu tư vào TSCĐ và ĐTDH). Điều này là do doanh nghiệp đang trong giai đoạn nghiên cứu, học hỏi để tăng cường việc sản xuất lắp ráp những đồ nội hoá của xe máy (Cụ thể năm 2001 mới chỉ khai báo đã đạt được 30% tỷ lệ nội địa hoá). Nhưng đến năm 2002 đã có sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu phân bổ vốn kinh doanh. Mặc dù số vốn đầu tư vào 2 loại tài sản này đều tăng vào năm 2002 nhưng số vốn đầu tư vào TSCĐ và ĐTDH tăng mạnh khoảng 266.32% còn số vốn đầu tư vào TSLĐ và ĐTNH chỉ tăng 21.11%. Vì vậy tỷ lệ TSCĐ/Tổng vốn và TSLĐ/ Tổng vốn có sự thay đổi đáng kể lần lượt là: 30.63% và 69.37% (Số vốn đầu tư vào TSLĐ và ĐTNH chỉ gấp hơn 2 lần so với số vốn đầu tư vào TSCĐ và ĐTDH và có xu hướng giảm ở những năm kế tiếp). Điều này đã chứng minh rằng doanh nghiệp đang đẩy mạnh việc sản xuất lắp ráp những đồ nội hoá nhằm mục đích là nâng cao tỷ lệ nội địa hoá bộ linh kiện xe máy (Cụ thể năm 2002 đã khai báo đạt được 53.08% tỷ lệ nội địa hoá và có xu hướng tăng tiếp) và mục đích thứ 2 là không phụ thuộc quá nhiều vào bộ linh kiện ngoại từ đó có thể tự chủ trong việc sản xuất lắp ráp xe gắn máy 2 bánh góp phần rút ngắn khoảng cách để trở thành một đất nước công nghiệp hoá vào năm 2020 mà Đảng ta đã đề ra.
Như vậy ta thấy công ty CIRI vừa là doanh nghiệp thương mại vừa là doanh nghiệp sản xuất nhưng có xu hướng trở thành doanh nghiệp sản xuất nhiều hơn trong tương lai. Đây là yếu tố giúp công ty trở thành doanh nghiệp Nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nguồn nhân lực:
Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất (CIRI) là một doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả. Sở dĩ có được kết quả như vậy là nhờ sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty. Hiện nay công ty có khoảng 500 người (Trong đó khoảng gần 200 người làm ở bộ phận kinh doanh và trên 300 người làm ở bộ phận sản xuất lắp ráp). Theo báo cáo mới nhất năm 2002 thì chất lượng lao động của CIRI là: Đại học và trên đại học là 29.15%; Cao đẳng và trung học là 6.02%; Công nhân kỹ thuật là 51.8%; Lao động phổ thông và lao động khác 13.03%.
Lực lượng lao động này của CIRI là một tập thể trẻ năng động, có tổ chức chặt chẽ đặc biệt coi trọng khai thác tiềm năng trí tuệ trong và ngoài nước. Điều đó đã tạo nên sức sống, sức phát triển của toàn công ty.
Kết quả hoạt động kinh doanh chung của toàn công ty CIRI:
Hiệu quả của công ty CIRI phản ánh rõ nét nhất ở chỉ tiêu lợi nhuận và điều này được thể hiện rõ qua bảng tổng hợp kết quả kinh doanh của công ty:
Bảng 2: Bảng tổng hợp kết quả kinh doanh của CIRI trong năm 2000-2002
Đơn vị: Triệu đồng.
STT
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
So sánh 2001/2000
So sánh 2002/2001
Số tiền
Tỷ lệ
Số tiền
Tỷ lệ
1
Tổng doan thu
958213
458666
213969
-499547
-52%
-244697
-53.35%
2
Các khoản giảm trừ
5261
8363
513
3102
58.96%
-7850
-93.87%
3
Doanh thu thuần
952952
450303
213456
-502649
-52.75%
-236847
-52.6%
4
Tổng chi phí
945656
444721
209260
-500935
-52.89%
-235461
-52.95%
5
LNTTT
7296
5582
4196
-1714
-23.5%
-1386
-24.83%
6
Tỷ suất LNTTT/DTT
0.77%
1.24%
1.97%
0.47%
0.73%
7
Thuế TNDN
2334.72
1786.24
1342.72
-548.48
-23.5%
-443.52
-24.83%
8
LNTST
4961.28
3795.76
2853.28
-1165.52
-23.5%
-942.48
-24.83%
9
Tỷ suất LNTST/DDT
0.52%
0.84%
1.34%
0.32%
0.5%
10
TNBQ/Người/Tháng
1.9
1.85
1.9
-0.05
-2.63%
0.05
2.7%
( Nguồn báo cáo kết quả kinh doanh năm 2000-2002).
Trong đó: LNTTT: Lợi nhuận thuần trước thuế.
LNTST: Lợi nhuận thuần sau thuế .
TNDN: Thu nhập doanh nghiệp.
TNBQ: Thu nhập bình quân.
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy tổng doanh thu, doanh thu thuần giảm đi trong 2 năm 2001, 2002. Cụ thể tổng doanh thu năm 2001 giảm 52% so với 2000 và giảm 53.35% năm 2002 so với năm 2001; Doanh thu thuần giảm 52.75% năm 2001 so với năm 2000 và giảm 52.6% năm 2002 so với năm 2001. Cùng với sự giảm đó đã kéo theo 2 khoản lợi nhuận thuần trước thuế (LNTTT) và lợi nhuận thuần sau thuế (LNTST) giảm cùng với một tỷ lệ là năm 2001 giảm 23.5% so với năm 2000 (Cả 2 khoản) và năm 2002 giảm 24.83% so với năm 2001 (Cả 2 khoản). Điều này là do doanh thu nhập khẩu bộ linh kiện xe gắn máy giảm mạnh ở 2 năm liên tiếp 2001 và 2002. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó sẽ được chỉ ra ở phần sau (Được phân tích ở bảng 3). Tuy nhiên, chúng ta không phải chỉ nhìn những chỉ tiêu đó mà chúng ta đánh giá là công ty làm ăn không có hiệu quả. Để xem xét thực chất hiệu quả kinh doanh của công ty ta cần phải xét đến 2 chỉ tiêu đó là Tỷ suất LNTTT/Doanh thu thuần và Tỷ suất LNTST/Doanh thu thuần. Qua bảng trên ta thấy hai chỉ tiêu này ở 2 năm liên tiếp đều tăng. Cụ thể: Tỷ suất LNTTT/DTT năm 2001 tăng 0.47% so với năm 2000 và năm 2002 là 0.73% so với năm 2001; Còn Tỷ suất LNTST/DTT năm 2001 tăng 0.32% so với năm 2000 và năm 2002 tăng 0.5% so với năm 2001. Chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của công ty đã tăng dần lên qua các năm. Để có được hiệu quả kinh doanh tăng như vậy là do có sự nỗ lực không ngừng của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty cùng với sự tích luỹ kinh nghiệm qua nhiều năm dẫn đến hiệu qủa công việc tăng dần lên ở các năm. Cùng với đó là sự đảm bảo ổn định mức thu nhập cho toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty để khuyến khích họ làm việc hăng say hơn với công việc và hoàn thành tốt các kế hoạch đặt ra. Cụ thể năm 2000 thu nhập bình quân là 1.9 triệu, 2001: 1.85 triệu, 2002: 1.9 triệu.
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty:
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty được thể hiện qua biểu sau:
Bảng 3: Tình hình hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất (CIRI) trong năm 2000-2002.
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
So sánh 01/00
So sánh 02/01
Số tiền
Tỷ lệ
Số tiền
Tỷ lệ
1
Nhập khẩu bộ linh kiện xe máy IKD
Nghìn tấn
125
70
31.5
Triệu VNĐ
362500
20300
91350
-159500
-44%
-111650
-55%
2
Nhập khẩu vật tư thiết bị
Triệu VNĐ
5000
10000
24000
5000
100%
14000
140%
3
Xuất khẩu lao động
Triệu VNĐ
0
750
1100
350
46.7%
(Nguồn báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2000-2002).
Qua bảng số liệu trên, ta thấy doanh thu của công ty được tạo ra chủ yếu là việc sản xuất lắp ráp xe gắn máy thông qua việc nhập khẩu bộ linh kiện xe máy IKD. Tuy nhiên, ta thấy việc nhập khẩu bộ linh kiện xe máy năm 2001 là giảm so với năm 2002 là 44% và doanh thu nhập khẩu giảm 159500 triệu đồng và năm 2002 giảm so với năm 2001 là 55% và doanh thu nhập khẩu giảm 111650 triệu đồng. Sở dĩ doanh thu nhập khẩu bộ linh kiện xe máy giảm mạnh ở 2 năm liên tiếp là do:
Thứ nhất: Năm 2001 và năm 2002 thì thị trường xe máy không còn nhộn nhịp như năm 2000. Đồng thời thị trường trong nước đã dần trở nên bão hoà. Cùng với đó là hàng trăm các công ty đủ mọi thành phần mở ra để kinh doanh xe máy. Điều này đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh xe máy của CIRI.
Thứ hai: Đây là lý do quan trọng ảnh hưởng lớn đến việc giảm doanh thu nhập khẩu bộ linh kiện xe máy của công ty. Đó chính là chính sách quản lý của Nhà nước về sản xuất lắp ráp xe máy luôn thay đổi, sự chậm trễ trong việc phân bổ hạn ngạch nhập khẩu bộ linh kiện xe máy của các Bộ ngành chủ quản đã gây ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh xe máy của các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp nói chung và đơn vị nói riêng. Đặc biệt 06 tháng đầu năm 2002 công ty không được nhập linh kiện để lắp ráp xe máy mà mãi đến tháng 9/2002 mới có quyết định giao hạn ngạch sản xuất năm 2002. Đồng thời trong 2 năm này Nhà nước đã ra nhiều chính sách quản lý chặt chẽ đối với những người điều khiển xe gắn máy 2 bánh (Nguyên nhân là do tệ ùn tắc giao thông thường xuyên xảy ra cùng với nạn ô nhiễm môi trường đang trở nên báo động). Cho nên đã giảm một cách đáng kể số người sử dụng phương tiện này.
Tuy là doanh thu nhập khẩu bộ linh kiện xe máy giảm vì những lý do nêu trên nhưng tổng doanh thu của 2 năm 2001-2002 vẫn đạt trên kế hoạch mặc dù vẫn thấp hơn so với năm trước. Điều này cũng có phần đáng kể của 2 hoạt động là: Nhập khẩu vật tư thiết bị và xuất khẩu lao động. Hoạt động nhập khẩu thiết bị vật tư năm 2001 so với năm 2000 tăng 100% (Với số tiền là 5000 triệu đồng), năm 2002 so với năm 2001 là 140% (Số tiền là 14000 triệu đồng). Còn hoạt động xuất khẩu lao động từ chỗ chưa có doanh thu năm 2000 thì đến năm 2001 đã có doanh thu là 750 triệu và năm 2002 tăng so với năm 2001 là 46.7% với số tiền chênh lệch là 350 triệu đồng.
Phân tích thực trạng c._. từ khác có liên quan như vận đơn, hoá đơn thương mại, hợp đồng nhập khẩu, bảng kê khai hàng hoá... Và bộ chứng từ phải hợp lệ, hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Khi xuất trình hàng hoá thì hàng hoá sẽ được đối chứng với chứng từ và bất cứ sự không ăn khớp nào trong bộ chứng từ hoặc giữa hàng hoá và bộ chứng từ công ty sẽ gặp rất nhiều khó khăn như mất thời gian và chi phí để hoàn thành lại thủ tục hải quan. Do vậy để giảm bớt những rắc rối có thể xảy ra trong khâu này công ty cần lưu ý những điểm sau đây:
Lập hồ sơ đúng với quy định hải quan về số lượng, số loại chứng từ cần thiết.
Kê khai nội dung trên chứng từ phải đúng, cần tham khảo cách viết cho đúng tránh tính trạng kê khai nhầm dẫn đến không ăn khớp với các chứng từ hoặc không giống với tình trạng thực tế hàng hoá.
Cần phải có người chuyên trách trong khâu tính thuế nếu không sẽ rất dẫn đến khai nhầm thuế làm mất thời gian tính lại. Và khi có thông báo nộp thuế thì phải chấp hành nghiêm chỉnh vì không nộp thuế đầy đủ thì các bước tiếp theo của quy trình nhận hàng sẽ không thực hiện được.
Nhận hàng:
Khi công ty nhận được thông báo hàng đến thì công ty cần phải sắp xếp các công việc chuẩn bị nhận hàng cho chính xác, đầy đủ và kịp thời như:
Trong việc uỷ thác cho cơ quan ga cảng về việc giao nhận hàng hoá thì công ty cần phải cung cấp cho cơ quan ga cảng những thông tin chính xác về chuyến hàng của công ty cụ thể như: Ngày đến, tên hàng, số lượng, tên con tàu... để tránh những nhầm lẫn đáng tiếc xảy ra bởi vì trong một ngày thì có rất nhiều tàu cập cảng. Nếu không ghi chính xác tên, mã hiệu... của con tàu đó thì sẽ dẫn đến nhận lầm hàng. Ngoài ra trong một con tàu lại chở rất nhiều hàng hoá khác nhau. Bởi vậy mà cần phải thông tin đúng tên hàng, số lượng... của hàng hoá.
Cán bộ đi làm thủ tục hải quan cần phải chuẩn bị đầy đủ giấy tờ để tránh mất thời gian, đi lại nhiều lần làm chậm tiến độ giao hàng trong khi làm thủ tục thông quan cho hàng hoá.
Khi nhận chứng từ của bên nước ngoài thì cần đối chiếu chứng từ mua hàng phải phù hợp với chứng từ mà hai bên đã nhận.
Trong quá trình tiếp nhận hàng công ty phải thường xuyên giám sát hàng hoá về mặt chất lượng cũng như số lượng.
Tuy nhiên, trong công tác nhận hàng nhiều khi hàng về đến cảng nhưng công ty vẫn chưa có đủ bộ chứng từ đi nhận hàng vì bộ chứng từ do phía nước ngoài đến chậm hay do thiếu. Vì vậy công ty nên kết hợp với nhiều bộ phận khác để giám sát điều hành thực hiện hợp đồng nhập khẩu sao cho có hiệu quả nhất. Hoạt động giám sát của công ty nên tập trung một số vấn đề sau: Giám sát ngày hàng dời cảng xếp hàng, thời gian vận chuyển, ngày hàng về đến cảng dỡ hàng thông qua thông báo gửi hàng của nhà xuất khẩu, thông báo ngày hàng nhập cảng. Giám sát việc làm thủ tục hải quan, làm thủ tục thanh toán, nhận hàng.
Để giám sát được các hoạt động này công ty cần phải lập bộ hồ sơ theo dõi hợp đồng và trên bộ hồ sơ theo dõi gồm các thông tin như tên nhà sản xuất, tên hàng, đơn giá, giá trị, số lượng, ngày xếp hàng.
Bộ hồ sơ theo dõi gồm có 4 cột: Cột 1 là liệt kê tất cả các chứng từ có liên quan đến quá trình thực hiện hợp đồng. Cột 2 là để theo dõi những chứng từ nào đã có và những chứng từ nào chưa có. Nếu có thì đánh dấu (*), không có thì không đánh dấu. Cột 3 là để xem mức độ quan trọng của chứng từ. Nó cho biết những việc nào cần làm trước, việc nào cần làm sau và cột thứ 4 dùng để ghi chú ngày nhận chứng từ và có những sửa đổi chứng từ hay không.
Thông qua hồ sơ theo dõi hợp đồng này các nhân viên chuyên trách luôn biết hoạt động giám sát nào cần làm trước, hoạt động nào cần làm sau thông qua mức độ quan trọng của từng chứng từ. Bộ phận giám sát nhập khẩu phải cố gắng giữ liên lạc thường xuyên với các bộ phận khác của công ty để đảm bảo mọi thông tin chính xác đến từng bộ phận, cùng nhau giải quyết những bất trắc có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Hầu hết các hợp đồng nhập khẩu của công ty đều sử dụng điều kiện giao hàng CIF (đường biển). Vì vậy, nó đã rút ngắn các công việc mà công ty cần phải làm ở phạm vi ngoài lãnh thổ như thuê tàu, mua bảo hiểm. Điều này cũng có nghĩa là công ty khó khăn trong việc theo dõi quan sát được các công việc như việc như việc chuẩn bị hàng hoá, việc thuê tàu xếp hàng lên tàu, cũng như hàng hoá trên đường vận chuyển.
Việc giám sát hợp đồng đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban để đưa ra các báo cáo chính xác tình hình thực hiện hợp đồng cho ban giám đốc. Từ đó, ban giám đốc trực tiếp chỉ đạo thống nhất cùng các phòng ban đưa ra các giải pháp tối ưu để đảm bảo thực hiện tốt hợp đồng.
Như vậy, giám sát hợp đồng là để đảm bảo thực hiện hợp đồng một cách trôi chảy và đúng tiến độ, nâng cao hiệu quả của những hợp đồng đã thực hiện.
Kiểm tra hàng hoá:
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì hàng nhập khẩu khi về qua cửa khẩu cần phải kiểm tra kỹ càng. Mỗi cơ quan tuỳ theo chức năng của mình phải tiến hành công việc kiểm tra đó. Mục đích của quá trình kiểm tra hàng hoá nhập khẩu là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người mua và là cơ sở khiếu nại. Nội dung cần kiểm tra là:
Kiểm tra về số lượng: Số lượng hàng thiếu, số lượng hàng đổ vỡ và nguyên nhân.
Kiểm tra về chất lượng.
Kiểm tra về chủng loại, kích thước, màu sắc, nhãn hiệu, quy cách.
Kiểm tra sự suy giảm về chất lượng, mức độ suy giảm, nguyên nhân.
Khi nhận hàng hoá nếu có sai sót về số lượng và chất lượng thì cần mời đại diện của cơ quan bảo hiểm, cảng, hãng vận tải, đại diện của người bán kịp thời làm thủ tục khiếu nại.
Công ty CIRI đã tuân thủ nghiêm chỉnh quy định đó của nhà nước và đôi lúc phát hiện có những sai sót về mặt số lượng tức bên bán giao không đúng hợp đồng cụ thể là giao hàng thiếu so với quy định do một lý do nào đó. Vậy để tránh tình trạng này công ty cần thoả thuận với bên bán và yêu cầu bên bán giám định hàng hoá cả về số lượng và chất lượng trước khi giao hàng đảm bảo giao hàng đủ số lượng và đúng chất lượng. Và khi nhận được bản Fax giám định hàng hoá là đúng trong hợp đồng thì công ty mới tiến hành mở L/C cùng lúc với bên bán giao hàng. Làm được như vậy công ty mới đảm bảo có được đúng số lượng trong chỉ một lần giao hàng.
Còn về mặt chất lượng thì chưa có lỗi gì xảy ra cho công ty. Nhưng không phải vì thế mà không quan tâm đến việc này. Đối với điều kiện chất lượng thì công ty cần nêu rõ cụ thể rõ ràng. Để tiện cho việc kiểm nghiệm và xác định trách nhiệm khi quy định điều kiện chất lượng cần đòi hỏi rõ ràng, cụ thể không nên sử dụng những từ ngữ mơ hồ như “ước khoảng”, “trên dưới”... đối với mặt hàng bộ linh kiện xe máy của công ty, để tránh dẫn đến những tranh chấp do chất lượng hàng hoá giao thì khi hàng về đến cảng phải đưa về nhập kho ngay nếu có thể. Vì nếu chậm trễ trong việc tiếp nhận hàng hoá có thể làm phát sinh chi phí lưu kho bãi và gây tác động xấu cho chất lượng hàng hoá. Làm được như vậy thì quá trình thực hiện hợp đồng mới đảm bảo an toàn và không gây nên những sự hiểu lầm do sự khác biệt về ngôn ngữ cũng như khoảng cách gây ra.
Khiếu nại và giải quyết khiếu nại:
Kinh doanh hàng hoá nhập khẩu là một hoạt động phức tạp và nó chứa đựng nhiều rủi ro bởi vì trong kinh doanh thương mại quốc tế giữa các nước với nhau thì luôn có sự khác nhau về ngôn ngữ, chính trị, luật pháp, tôn giáo, tập quán... dẫn đến có sự hiểu lầm về những thuật ngữ đã thống nhất trong hợp đồng. Điều này sẽ dẫn đến xảy ra các vụ tranh chấp. Tranh chấp là điều mà cả hai bên không muốn xảy ra bởi vì nó không chỉ gây tốn kém thời gian và tiền bạc mà còn ảnh hưởng tới mối quan hệ làm ăn lâu dài giữa họ. Muốn kinh doanh nhập khẩu an toàn và tránh tranh chấp xảy ra thì trước khi ký kết hợp đồng hoặc soạn thảo hợp đồng công ty nên tham khảo ý kiến của công ty tư vấn luật và các công ty dịch thuật. Các công ty này sẽ chỉ ra những chỗ chưa được rõ ràng trong ngôn ngữ của hợp đồng và sửa lại theo đúng ý đồ của 2 bên làm hợp đồng mà vẫn đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho cả hai bên.
Nếu như tranh chấp vẫn xảy ra thì nguyên tắc mà thương lượng thành công khi giải quyết tranh chấp là: Hãy tập trung vào vấn đề cần thương lượng, vào vấn đề lợi ích chứ không phải vào quan điểm để tạo ra sự lựa chọn mà cả hai bên cùng có lợi , kiên trì với mục tiêu trên phương châm: “Cách lựa chọn tốt nhất là đạt được sự thoả thuận”. Có được như vậy đòi hỏi người tham gia thương lượng phải có tính kiên trì, khéo léo, có những ứng xử lập luận vững vàng, hợp tình hợp lý và tốt nhất phải có kinh nghiệm học hỏi các nghiệp vụ giải quyết thành công của các công ty khác, nhằm vận dụng linh hoạt thì chắc chắn mọi việc sẽ được giải quyết êm đẹp, nhanh chóng mà không cần nhờ đến cơ quan trọng tài hay toà án.
Tổ chức huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Vốn là yếu tố hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp hiện nay. Nó cũng như là máu đối với cơ thể con người vậy. Nếu thiếu máu thì cơ thể con người sẽ bị suy nhược dẫn đến tử vong. Vì vậy nếu thiếu vốn doanh nghiệp sẽ trở nên khốn đốn trì trệ không phát triển được thậm chí còn bị phá sản do không có vốn để tiếp tục kinh doanh. Vốn ảnh hưởng tới quy mô của doanh nghiệp, tới mỗi lô hàng nhập của doanh nghiệp và nó ảnh hưởng đến cả thị trường mà doanh nghiệp tham gia. Vì vậy vấn đề huy động vốn và sử dụng hiệu quả nguồn vốn kinh doanh là việc hết sức cần thiết trong hoạt động của công ty. Để huy động thêm vào nguồn vốn kinh doanh của mình trong những năm tới công ty CIRI có thể thực hiện việc huy động vốn bằng các nguồn sau:
Công ty huy động vốn bằng chính lợi nhận tích luỹ được.
Vốn vay từ ngân hàng: Mặc dù có rất nhiều khó khăn để tiếp cận với nguồn vốn này nhưng công ty vẫn phải coi đây là nguồn vốn quan trọng nhất cần khai thác.
Công ty cần có những phương hướng và biện pháp cụ thể để huy động nguồn tiền nhàn rỗi của công nhân viên trong công ty. Tận dụng được nguồn vốn này thì mặc dù công ty phải trả lãi suất cao nhưng lại thu được lợi nhiều mặt như: Thời gian thanh toán cho cán bộ công nhân viên sẽ không bị khắt khe như ở ngân hàng và nhất là thời hạn thanh toán. Thứ hai là khi cán bộ công nhân viên bỏ vốn ra cho công ty vay thì họ sẽ nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình trong công việc hơn vì khi công ty làm ăn có lãi thì họ sẽ nhận được tiền lãi cao và đúng hạn.
Nguồn vốn chiếm dụng của bạn hàng: Tức là tận dụng nguồn vốn của bạn hàng thông qua thanh toán trả chậm khi nhập hàng.
Nguồn vốn từ liên doanh liên kết: Liên doanh hợp tác với các công ty nước ngoài và các công ty trong nước cùng chia sẻ lợi nhuận thu được.
Đồng thời công ty phải tìm kiếm các cơ hội kinh doanh trong mọi lĩnh vực để có được nhiều dự án đầu tư nhằm mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh và quy mô hoạt động của công ty.
Do đặc điểm của kinh doanh nhập khẩu là tính theo giá quốc tế và dùng ngoại tệ để thanh toán. Do vậy, các hợp đồng đều phải dựa trên các lợi ích và hiệu quả kinh tế để quyết định có nên thực hiện hợp đồng hay không. Vậy muốn có hiệu quả kinh tế thì đòi hỏi công ty phải sử dụng vốn có hiệu quả. Đây là yêu cầu rất cần thiết trong điều kiện hiện nay đối với một công ty kinh doanh xuất nhập khẩu như CIRI. Vậy để đạt được hiệu quả vốn cao thì công ty cần phải làm tốt công tác quản lý vốn bao gồm các công việc sau:
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động bằng cách:
Tăng tốc độ lưu chuyển hàng hoá để không cần tăng lượng vốn lưu động mà hiệu quả sử dụng lại tăng lên.
Cần lựa chọn phương thức thanh toán thuận lợi, an toàn tránh tình trạng ứ đọng vốn hay dây dưa công nợ trong thanh toán tiền hàng.
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động để tăng vốn lưu động phục vụ nhập khẩu.
Giảm tối thiểu các khoản nợ khó đòi để tránh tình trạng bị chiếm dụng vốn quá nhiều làm giảm vòng quay của vốn.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Như chúng ta biết đặc điểm của vốn cố định là tham gia nhiều lần vào quá trình sản xuất, kinh doanh và nó được chuyển dần vào giá trị của sản phẩm. Bởi vậy công ty cần:
Tăng mức lưu chuyển hàng hoá nhập khẩu vì như vậy sẽ khai thác được hết công suất của tài sản cố định và giảm chi phí tài sản cố định trên một đơn vị hàng hoá kinh doanh.
Tăng tỷ trọng tài sản cố định trong kinh doanh, giảm tỷ trọng cố định chờ thanh lý.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng vốn để kịp thời đề ra các phương án đối phó thích hợp.
Thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất đối với quá trình sử dụng vốn.
Ngoài ra công ty cần phải nghiêm chỉnh chấp hành chế độ quản lý tài chính, tín dụng của nhà nước mà trước tiên là hoàn thành các khoản thuế phải nộp. Đồng thời tính toán các khả năng lỗ, lãi, thời gian thu hồi vốn trong kinh doanh cũng như dự tính trước những rủi ro có thể xảy ra để có biện pháp phòng ngừa.
Đào tạo và nâng cao kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương cho các cán bộ công nhân viên trong công ty.
Trong cơ chế thị trường để đảm bảo hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao thì vai trò của con người càng trở nên quan trọng. Còn đối với hoạt động kinh doanh quốc tế với những thay đổi liên tục các tập quán, các thông lệ quốc tế, các điều khoản giao dịch... đã khiến vai trò của con người trở thành vị trí trung tâm và quan trọng bậc nhất đối với mọi doanh nghiệp. Do đó, yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ ngày càng cao, ngoài trình độ chuyên môn nghiệp vụ mỗi cán bộ nhân viên còn phải tự trau dồi cho mình những kiến thức khác như: Ngoại ngữ, tin học, am hiểu pháp luật, các chính sách của nhà nước đối với công việc đang thực hiện. Sự thành công của công ty ở hiện tại cũng như sau này phụ thuộc rất lớn vào họ. Vì vậy công ty cần có một chiến lược về con người cho phù hợp để thu hút được nhiều cán bộ có năng lực làm việc, công ty cần có những biện pháp sau:
Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, nhân viên về nghiệp vụ, kiến thức hiểu biết về chính sách, pháp luật có liên quan đến hoạt động nhập khẩu. Đây chính là việc tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ trong công ty.
Tạo động lực làm việc: Đây là công việc hết sức quan trọng. Đòi hỏi người lãnh đạo của công ty CIRI phải nắm bắt và hiểu rõ được mục đích, nguyên nhân làm việc của từng cá nhân vì mỗi một cá nhân thì động cơ làm việc và hiệu quả công việc là khác nhau. Do vậy, lãnh đạo phải hiểu được nhân viên, biết được mặt mạnh và mặt yếu của họ từ đó có thể giao đúng việc cho đúng người.
Công ty phải có những quy chế phù hợp trong kinh doanh sao cho có thể gắn bó trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn và lợi ích của cán bộ kinh doanh. Đó là mấu chốt để khơi dậy tinh thần sáng tạo, tích cực trong công việc của mỗi cá nhân. Công ty cần thực hiện quy chế khoán một cách triệt để. Từ đó mỗi phòng, mỗi cá nhân có mục tiêu phấn đấu rõ ràng, có cơ sở để đánh giá hoạt động kinh doanh cũng như căn cứ để thưởng phạt công minh.
Tạo môi trường làm việc tốt: Công ty cần tạo điều kiện làm việc thuận lợi, tạo không khí phấn khởi, thoải mái tại cơ quan. Tạo ra bầu không khí dân chủ, tương trợ, thân ái và hợp tác trong cơ quan. Xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa ban lãnh đạo và nhân viên, giữa nhân viên với nhau để ai cũng có thể phát huy hết mọi khả năng đóng góp cho công việc chung
Trả lương xứng đáng với công sức lao động của từng người. Đây là yếu tố rất quan trọng để tạo nên động cơ làm việc của từng cá nhân. Mức lương cao, thưởng đúng người đúng việc thì sẽ thu hút và tạo ra sự hứng thú, say mê trong công việc, thúc đẩy họ làm việc tốt hơn.
2. Một số kiến nghị.
Đối với nhà nước:
Chính sách về thuế:
Như chúng ta đã biết công cụ thuế là một công cụ quan trọng đóng góp vào nguồn thu ngân sách của nhà nước và một trong số đó là thuế nhập khẩu. Thuế nhập khẩu không chỉ là nguồn thu cho ngân sách mà nó còn là một công cụ để bảo vệ sản xuất trong nước. Tuy nhiên ở Việt Nam chính sách nhập khẩu hiện nay vẫn còn bất hợp lý trong việc đánh thuế nhập khẩu. Để khắc phục những bất hợp lý này nhà nước cần phải quy định cụ thể, chính xác tên hàng, mức thuế, nhà nước quản lý bằng hạn ngạch hay bằng giấy phép để công ty làm cơ sở ký kết hợp đồng và khai báo hải quan, tính thuế. Đồng thời nhà nước nên có chính sách ưu tiên về thuế, đầu tư định hướng phát triển đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng và yêu cầu mới của đất nước trong hiện tại và trong tương lai.
Còn đối với thuế giá trị gia tăng nhà nước cần có những hướng dẫn cụ thể và giám sát việc thực hiện một cách chặt chẽ. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp mức thuế suất còn quá cao. Do vậy nhà nước cần có biện pháp giảm mức thuế xuống để tạo điều kiện cho tất cả các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế nói riêng có thêm vốn đầu tư để phát triển theo chiều sâu hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Quản lý ngoại tệ và các chính sách về tỷ giá:
Khi tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu thì bất kỳ doanh nghiệp xuất nhập khẩu nào cũng phải mua bán ngoại tệ. Và chính sách hối đoái của nhà nước có quan hệ trực tiếp đấn việc tăng hay giảm lượng nhập khẩu của công ty. Công ty khi tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu nếu bán ngoại tệ cho ngân hàng thì sẽ bị thiệt do tỷ giá mua vào của các ngân hàng thường thấp hơn giá thị trường. Còn nếu công ty muốn mua ngoại tệ thì lại phải mua ở mức giá cao hơn mức giá thị trường . Do đó nhiều doanh nghiệp đã bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp khác có nhu cầu mà không qua ngân hàng trung gian làm cho việc quản lý ngoại tệ của nhà nước gặp nhiều khó khăn
Để khắc phục tình trạng này nhà nước cần có sự quản lý ngoại tệ phù hợp với một tỷ giá ngoại hối tương đối sát với thị trường và khoảng cách chênh lệch giữa mua và giá bán là tối thiểu nhất. Đồng thời nhà nước cần dành một số ngoại tệ cho ngân hàng ngoại thương vay để làm vốn kinh doanh và điều chỉnh tỷ giá thị trường ổn định. Có như vậy thì các doanh nghiệp mới thường xuyên thanh toán qua ngân hàng và hạn chế được tình trạng mua bán ngoại tệ với nhau.
Cải cách thủ tục hành chính và ban hành các chính sách văn bản hợp lý:
Thủ tục hành chính của Việt Nam hiện nay ở Việt Nam vẫn còn hạn chế đặc biệt là thủ tục về xuất nhập khẩu. Ví dụ như thủ tục hải quan: Công tác kiểm tra hồ sơ hải quan còn rườm rà do phải qua nhiều thủ tục kiểm tra giấy tờ cũng như kiểm tra hàng hoá. Cho nên nhà nước cần nghiên cứu giảm các thủ tục khi nhập khẩu để tránh phiền hà, tạo sự thông thoáng trong hoạt động xuất nhập khẩu, giảm thiểu thời gian và chi phí không cần thiết. Để làm được điều này, trước hết phải đẩy mạnh công tác giáo dục cán bộ công chức hành chính nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập khẩu về tinh thần, trách nhiệm trong công việc, về đạo đức và chuyên môn nghiệp vụ bởi thái độ cửa quyền gây khó khăn cho người làm công tác xuất nhập khẩu. Đồng thời nhà nước nên ban hành các chính sách văn bản pháp luật một cách nhất quán để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước hợp tác ký kết hợp đồng kinh doanh.
Tăng cường việc cung cấp thông tin thị trường cho các doanh nghiệp:
Đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề tìm kiếm và lựa chọn thông tin về thị trường, về bạn hàng. Mà đối với các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế thì việc này lại càng quan trọng hơn. Một trong những nguồn thông tin được các doanh nghiệp đặc biệt chú ý bởi nó có độ tin cậy cao đó chính là nguồn thông tin từ lãnh sự quán Việt Nam tại nước ngoài. Tuy nhiên nguồn thông tin này không phải ai cũng xin được và thường mất thời gian. Ngoài ra còn có một số nguồn thông tin khác như thông tin trên mạng Internet. Tuy nguồn này cũng có độ tin cậy cao nhưng chi phí cho nó không phải là nhỏ và không phải doanh nghiệp nào cũng có thể chấp nhận được. Các nguồn thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài, tivi, sách, báo... thì thường không cập nhật và nó sẽ bị chậm so với tình hình đang diễn ra dẫn đến việc dự đoán khó chính xác. Bởi vậy, nhà nước cần có sự hỗ trợ các doanh nghiệp về thông tin thị trường thông qua các tổ chức lãnh sự quán, các tổ chức xúc tiến thương mại từ nước ngoài hoặc bằng cách giảm cước thuê bao dịch vụ Internet...
Đối với bộ ngành chủ quản (Bộ giao thông vận tải):
Bộ giao thông vận tải cần tạo ra một hành lang pháp lý lành mạnh thông thoáng để tạo ra môi trường làm ăn bình đẳng cho các doanh nghiệp giao thông vận tải nói chung và Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8 nói riêng. Và chính sự hoạt động mạnh mẽ của Tổng công ty cũng chính là tiền đề để cho CIRI phát triển hơn nữa. Trong thời gian tới Bộ giao thông vận tải cần có những hỗ trợ về mọi mặt như về tài chính, đào tạo... để Tổng công ty có điều kiện vươn lên trở thành một tập đoàn kinh tế có sức mạnh cạnh tranh cao không chỉ ở trong nước mà còn ở cả ngoài nước. Từ đó các đơn vị thành viên của Tổng công ty trong đó có Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất (CIRI) sẽ có điều kiện phát triển và nâng cao uy tín của mình trên thị trường quốc tế hơn nữa.
Kết luận
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá có vai trò hết sức to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Bởi nó cho phép tận dụng được tối đa nguồn lực trong nước và tham gia tích cực vào quá trình chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế. Trong đó nhập khẩu mang một ý nghĩa quan trọng riêng. Thông qua hoạt động này chúng ta có thể tiếp cận được công nghệ khoa học kỹ thuật tiên tiến, phát triển hệ thống hạ tầng công nghiệp nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá trong nước và thúc đẩy xuất khẩu.Từ đó đẩy nhanh được quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước tiến nhanh tới quá trình hội nhập giữa nước ta với các nước trên khu vực và trên thế giới.
Hoà mình vào xu thế đó, Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất (CIRI) đã không ngừng cố gắng nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu hàng hoá. Trong thời gian thực tập tại công ty em đã đi sâu vào nghiên cứu công tác tổ chức và thực hiện hợp đồng nhập khẩu bộ linh kiện xe máy của công ty. Với những kiến thức đã được học ở trường cùng với sự nghiên cứu tình hình thực tế, với sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú, anh chị cán bộ công nhân viên trong công ty cùng với sự hướng dẫn chỉ bảo sát sao của thầy giáo BÙI ĐỨC DŨNG. Em đã rút ra được những kết quả những tồn tại và khó khăn từ đó xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm góp một phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện công tác tổ chức và thực hiện hợp đồng nhập khẩu của công ty. Tuy nhiên do thời gian có hạn, với vốn kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ đạo, góp ý của các thầy cô giáo các bạn và những người quan tâm đến vấn đề này nhằm hoàn thiện hơn nữa.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo BÙI ĐỨC DŨNG, người đã trực tiếp hướng dẫn em thực hiện tốt đề tài này và cùng toàn thể các cán bộ công nhân viên trong công ty đã tận tình tạo điều kiện và giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập tại công ty để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Hà Nội : Tháng 5 năm 2002. Sinh viên : Đặng Hoàng Nam. Mục lục
Lời nói đầu........................................................................................... 1
Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và thực hiện hợp đồng nhập khẩu......................................................................... ..4
I. Nhập khẩu và vai trò của hoạt động nhập khẩu........................................4
1. Khái niệm về nhập khẩu...........................................................................4
2. Các hình thức nhập khẩu..........................................................................4
3. Vai trò của hoạt động nhập khẩu..............................................................5
a) Đối với nền kinh tế quốc dân................................................................5
b) Đối với các doanh nghiệp.....................................................................6
II. Khái quát chung về hợp đồng xuất nhập khẩu.........................................6
1. Khái niệm.................................................................................................6
2. Điều kiện hiệu lực của hợp đồng xuất nhập khẩu....................................7
3. Nội dung chủ yếu của hợp đồng xuất nhập khẩu.....................................8
4. Luật điều chỉnh hợp đồng nhập khẩu.....................................................15
III. Quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu................................................17
1. Quy trình thực hiện hợp đồng.................................................................17
1.1. Xin giấy phép nhập khẩu................................................................18
1.2. Thuê phương tiện vận tải.......................................................... .....18
1.3. Mua bảo hiểm........................................................................... .....19
1.4. Làm thủ tục hải quan......................................................................20
1.5. Nhận hàng nhập khẩu.....................................................................21
1.6. Kiểm tra hàng.................................................................................22
1.7. Làm thủ tục thanh toán...................................................................23
1.8. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại (nếu có).....................................24
2. ý nghĩa của việc tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.......................25
Chương II: Thực trạng của công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu bộ linh kiện xe máy tại Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất (CIRI)...............................................................................26
I. Khái quát về công ty...................................................................................26
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty CIRI.............................26
2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty. .....................................................27
3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty........................................................27
4. Khái quát tình hình kinh doanh của công ty..........................................29
4.1. Các nguồn lực của công ty.............................................................29
4.2. Kết quả hoạt động kinh doanh chung của toàn công ty CIRI........31
4.3. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty.......................33
II. Phân tích thực trạng công tác tổ chức và thực hiện hợp đồng nhập khẩu bộ linh kiện xe máy tại CIRI.....................................................................36
1. Xin giấy phép nhập khẩu........................................................................37
2. Mở thư tín dụng (L/C)............................................................................37
3. Đôn đốc bên bán giao hàng....................................................................39
4. Mua bảo hiểm hàng hoá.........................................................................39
5. Làm thủ tục thanh toán...........................................................................41
6. Làm thủ tục hải quan..............................................................................41
7. Nhận hàng..............................................................................................43
8. Kiểm tra hàng nhập khẩu.......................................................................44
9. Khiếu nại và tiến hành giải quyết khiếu nại...........................................45
III. Những đánh giá chung về công tác tổ chức và thực hiện hợp đồng nhập khẩu bộ linh kiện xe máy của công ty CIRI............................................46
1. Đánh giá chung về kết quả đạt được. ....................................................46
2. Tình hình thực hiện hợp đồng nhập khẩu...............................................48
Những tồn tại và nguyên nhân...............................................................49
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại công ty CIRI...........53
I. Phương hướng và mục tiêu hoạt động của công ty..................................53
1. Phương hướng hoạt động của công ty CIRI trong thời gian tới (Cụ thể là giai đoạn 2003-2005).............................................................................53
2. Mục tiêu hoạt động của công ty. ...........................................................55
II. Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác tổ chức và thực hiện hợp đồng nhập khẩu bộ linh kiện xe máy tại công ty CIRI....................................56
1. Đối với công ty.......................................................................................57
a) Hoàn thiện các nghiệp vụ. ................................................................57
b) Tổ chức huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn...............................................................................64
c) Đào tạo và nâng cao kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương cho cán bộ công nhân viên trong công ty...........................................................67
2. Một số kiến nghị.....................................................................................68
a) Đối với nhà nước...............................................................................68
Đối với bộ ngành chủ quản (Bộ giao thông vận tải).........................71
Kết luận............................................................................................................72
Tài liệu tham khảo
Giáo trình “Kỹ thuật thương mại quốc tế” do TS. Đào Thị Bích Hoà, TS. Doãn Kế Bôn, TS. Nguyễn Thị Mão, TS. Nguyễn Quốc Thịnh biên soạn - Trường Đại học Thương Mại.
Giáo trình “Thanh toán quốc tế trong ngoại thương” do PGS. Đinh Xuân Trình- Trường Đại học ngoại thương biên soạn.
SYLVIE GRAUMANN: “Hướng dẫn thực hành thương mại quốc tế xuất khẩu - nhập khẩu”, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Quan Linh - Lê Thế Thọ: Kỹ thuật soạn thảo hợp đồng kinh tế, Nhà xuất bản thống kê.
PGS.TS Nguyễn Duy Bột: Thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Giáo dục và trường Đại học kinh tế quốc dân.
Các tạp chí thương mại, ngoại thương 2000-2002.
Báo cáo tổng kết hoạt động sản xuất kinh doanh 2000-2002 của Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất (CIRI).
Báo cáo tài chính kế toán 2001-2002 của Công ty quan hệ quốc tế và đầu tư sản xuất (CIRI).
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0089.doc