Hoàn thiện công tác thanh tra của chi nhánh ngân hàng Ngân hàng Nhà nước Bắc giang

Lời nói đầu Cùng với hệ thống Ngân hàng trong cả nước, Ngân hàng Nhà nước tỉnh Bắc giang trong thời gian từ khi thực hiện pháp lệnh Ngân hàng đến nay đã và đang ngày càng củng cố và nâng cao được vị trí, vai trò to lớn của mình trong công tác quản lý Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng trên địa bàn, góp phần vào sự ổn định, an toàn và kinh doanh có hiệu quả của các tổ chức tín dụng và phục vụ vào sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Song bên cạnh đó, công tác quản lý Nhà nước của N

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1484 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác thanh tra của chi nhánh ngân hàng Ngân hàng Nhà nước Bắc giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HNN Bắc giang đối với các tổ chức tín dung trên địa bàn vẫn còn có vấn đề chưa được hoàn thiện, mà một trong những tồn tại yếu kém cần phải được khắc phục để hoàn thiện trước tiên là công tác thanh tra của chi nhánh. Để có thể đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm Hoàn thiện công tác thanh tra của chi nhánh NHNN Bắc giang, phục vụ cho việc thực hiện chức năng quản lý của Ngân hàng Nhà nước thì cần phải có sự phân tích, đánh giá một cách đầy đủ thực trạng công tác thanh tra và tìm ra được những tồn tại nguyên nhân của nó trong thời gian qua. Phần 1: Thực trạng công tác thanh tra của chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh Bắc giang Thực trạng công tác thanh tra của chi nhánh NHNN Bắc giang có thể được chia ra ở 2 thời kỳ: - Thời kỳ từ khi thực hiện pháp lệnh Ngân hàng ( 1990 ) đến khi có luật Ngân hàng ( 1998 ) - Thời kỳ từ khi thực hiện luật Ngân hàng ( 1998 ) đến nay Để đánh giá được công tác thanh tra của chi nhánh NHNN Bắc giang qua các thời kỳ này, trước hết cần phân tích đánh giá một cách khái quát tình hình hoạt động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn - Đối tượng thanh tra của chi nhánh NHNN Bắc giang. 1.1 – Khái quát tình hình hoạt động của TCTD trên địa bàn Bắc giang. 1.1.1 – Thời kỳ từ khi có pháp lệnh ngân hàng ( 1990 ) đến khi có luật ngân hàng ( 1998 ). Hoạt động ngân hàng theo pháp lệnh ngân hàng được bắt đầu thực hiện từ tháng 10/1990. Theo hai pháp lệnh ngân hàng, hệ thống ngân hàng Bắc giang tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức hệ thống ngân hàng 2 cấp trên địa bàn: - Chi nhánh NHNN ngày càng thể hiện được vị trí và vai trò to lớn của mình trong việc thực hiện chức năng quản lý Nhà về hoạt động tiền tệ-tín dụng và Ngân hàng trên địa bàn và thực hiện tốt các nhiệm vụ khác của NHNN Việt Nam. - Hệ thống các TCTD từng bước được củng cố và phát triển với nhiều hình thức sở hữu khác nhau, màng lưới rộng khắp, hoạt động đa năng Mô hình tổ chức của ngân hàng và các TCTD trên địa bàn tỉnh Bắc giang thời kỳ này đã khẳng định phù hợp với hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Các Ngân hàng đã hoạt động đa năng hơn. Chú trọng đến công tác huy động vốn tại chỗ, tăng cường đẩy mạnh cho vay các tổ chức kinh tế và cá nhân, đáp ứng nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh. Thực hiện xoá bỏ dần bao cấp chuyển sang lãi suất dương. Tuy nhiên, hoạt động của các TCTD trên địa bàn cũng còn bộc lộ những tồn tại: - Hoạt động kinh doanh tiền tệ của các TCTD còn rất đơn điệu, chủ yếu là tín dụng, thậm chí chỉ là tín dụng nhỏ và ngắn hạn. - Chất lượng hiệu quả kinh doanh chưa cao, tập trung chủ yếu vẫn là công tác tín dụng. Hoạt động tín dụng còn chạy theo số lượng, chưa chú ý nâng cao chất lượng nên đã dẫn đến nợ quá hạn lớn, tích luỹ thấp. - Tính chất bao cấp qua tín dụng còn phổ biến ở các ngân hàng do sự can thiệp của các cấp chính quyền và sự chưa rõ ràng trong chính sách. Điều đó vừa gây lỗ cho ngân hàng và rất dễ gây tâm lý ỷ lại cho người vay. - Chính sách khách hàng của riêng từng ngân hàng là công cụ của sự cạnh tranh nhưng cũng chưa được coi trọng, vẫn còn mang dáng dấp của ngân hàng thời kinh tế chỉ huy vv... 1.1.2 - Thời kỳ từ khi có luật ngân hàng ( 1998 ) đến nay. Hai bộ luật ngân hàng bắt đầu có hiệu lực thực thi từ tháng 10/1998. Nó là cơ sở pháp lý cao nhất để định hướng xây dựng, tổ chức hoạt động hệ thống các TCTD ở Việt Nam. Thời kỳ này, tỉnh Bắc giang đã được tách ra từ tỉnh Hà bắc, hệ thống TCTD trên địa bàn cũng được hoàn chỉnh theo địa giới hành chính và nhanh chóng đổi mới hoạt động gắn với kinh tế thị trường gồm có: Chi nhánh NHCT, Chi nhánh NHĐT&PT, Chi nhánh NHNo&PTNT, Chi nhánh NHNg, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Bám sát mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế địa phương và định hướng của ngành, các TCTD trên địa bàn đã không ngừng củng cố, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Các TCTD đã không ngừng mở rộng về phạm vi cũng như doanh số hoạt động, góp phần đáng kể trong việc tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi, đáp ứng nhu cầu vay vốn của đơn vị, tổ chức kinh tế và dân cư trên địa bàn, đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển .... đồng thời tự khẳng định và đứng vũng trong nền kinh tế thị trường. Kết quả hoạt động của các TCTD trên địa bàn được biểu hiện qua một số chỉ tiêu sau: Với các số liệu phản ánh một số chỉ tiêu chính trên đây, có thể nhận thấy các TCTD đã có nhiều cố gắng nỗ lực trong hoạt động kinh doanh. Tăng cường đẩy mạnh công tác cho vay, dư nợ năm sau đều cao hơn năm trước ( Dư nợ năm năm 1998 là 725 tỷ đ; năm 1999 là 854 tỷ đ; năm 2000 là 1223 tỷ đ ); kinh doanh đều có lãi vv .... Bên cạnh những thành tích mà các TCTD đã đạt được, nó còn bộc lộ những khó khăn, yếu kém nhất định, nguy cơ không an toàn tiềm ẩn mà các TCTD phải lường. Đó là cùng với việc tăng dư nợ cho vay, thì nợ quá hạn của các TCTD cũng có chiều hướng tăng lên cả số tuyệt đối và số tương đối ( Năm 1998 là 23,6 tỷ đ bằng 3,26% dư nợ; Năm 1999 là 29,3 tỷ đ bằng 3,43% dư nợ; Năm 2000 là 41,3 tỷ đ bằng 3,67% dư nợ ). Đặc biệt là nợ quá hạn trung và dài hạn, bình quân từ năm 1991 đến 1998 là 3,975% thì năm 1999 là 4,85% và năm 2000 là 4,89%. Điều này cho chúng ta thấy sự cần thiết và vai trò quan trọng của công tác thanh tra, giám sát đối với hoạt động của các TCTD trên địa bàn như thế nào, vừa bảo đảm thực hiện được mục đích của mình, vùa góp phần cho chính các TCTD hoạt động kinh doanh có hiệu quả. 1.2 - Thực trạng công tác thanh tra của chi nhánh NHNN tỉnh Bắc giang. 1.2.1 - Thời kỳ từ khi có pháp lệnh ngân hàng ( 1990 ) đến khi có luật ngân hàng ( 1998 ). Ngay sau khi pháp lệnh NH có hiệu lực, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định 85/NH-QĐ ngày 10/10/1990 quy định về Tổ chức và hoạt động của Thanh tra NHNN. Cùng với hệ thống thanh tra NHNN, thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh Bắc giang đang từng bước được củng cố hoàn thiện về mọi mặt. Hoạt động thanh tra của chi nhánh NHNN Bắc giang thể hiện trên một số nét chính sau: 1.2.1.1 - Về cơ chế điều hành đối với thanh tra chi nhánh. Theo cơ chế này, hoạt động thanh tra của chi nhánh có thuận lợi là: - Hàng năm, việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra đều do thanh tra NHNN thực hiện. Thanh tra chi nhánh căn cứ vào nội dung kế hoạch chương trình của thanh tra NHNN và tổ chức thực hiện hoàn thành đúng nôị dung kế hoạch chương trình đã vạch ra. - Trong quá trình tổ chức hoạt động, thanh tra chi nhánh được sự chỉ đạo điều hành trực tiếp của Giám đốc nên mọi vấn đề phát sịnh vướng mắc trong quá trình tổ chức hoạt động thanh tra đối với các TCTD trên địa bàn đều được xử lý giải quyết kịp thời Bên cạnh thuận lợi, thanh tra chi nhánh cũng gặp những khó khăn nhất định trong công tác của mình: - Do sự chỉ đạo của thanh tra NHNN là bao quát nhiều lĩnh vực, nhiều mặt nghiệp vụ phải quan tâm và trên phạm vi rộng lớn, nên khi chương trình được áp dụng cho từng tỉnh thì đương nhiên là quá rộng cả nội dung cũng như đối tượng. Nếu thực hiện đúng theo chương trình của thanh tra NHNN đặt ra thì không đủ thời gian cũng như lực lượng để tiến hành thanh tra, Còn nếu khi thực hiện chương trình của thanh tra NHNN mà thanh tra chi nhánh cắt bớt những nội dung hay đối tượng chưa cần thiết phải thanh tra thì dẫn đến việc thực hiện chương trình của thanh tra NHNN không hoàn chỉnh đầy đủ. Như vậy tạo nên hiện tượng vừa thừa, vừa thiếu trong việc thanh tra đối với các TCTD trên địa bàn. - Mối quan hệ trong chỉ đạo, điều hành đối với tổ chức và hoạt động giữa Thanh tra NHNN ở trung ương và Thanh tra chi nhánh không rõ, nên chưa đề cập được trách nhiệm của mỗi cấp 1.2.1.2 - Về tổ chức, bộ máy và cán bộ Thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh Bắc giang đã được kiện toàn, củng cố bộ máy, tăng cường cả về số lượng cũng như chất lượng của cán bộ thanh tra. Thời kỳ này, số cán bộ của thanh tra chi nhánh luôn được biên chế từ 8 đến 10 người, trong đó có 1 chánh thanh tra và 1 phó chánh thanh tra. Hầu hết cán bộ đều có trình độ cao đẳng và đại học. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy của thanh tra chi nhánh vẫn còn nhiều điều phải trăn trở. Đó là các cán bộ thanh tra hầu hết chưa qua đào tạo nghiệp vụ thanh tra, có trình độ chuyên môn song kinh nghiệm thanh tra còn ít, kiến thức pháp luật, quản lý Nhà nước chưa sâu. Vì vậy mà đã ảnh hưởng ít nhiều tới chất lượng công tác thanh tra của chi nhánh trong thời gian qua. 1.2.1.3 - Về nghiệp vụ thanh tra. a - Phương thức giám sát từ xa Tại chi nhánh NHNN Bắc giang, việc triển khai thực hiện phương thức giám sát từ xa được đưa vào sử dụng trong hoạt động thanh tra từ 1991 theo quyết định số 17/NH-QĐ ngày 28/2/1991 của Thống đốc NHNN. Tiếp sau đó là quyết định số 137/QĐ-NH3 ngày 24/5/1997 của Thống đốc NHNN. Đối tượng thực hiện giám sát từ xa là các NHTM quốc doanh và quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Nội dung giám sát tập trung chủ yếu là: Vốn; Chất lượng tài sản có; Thu nhập - Chi phí; Khả năng thanh toán; quy chế an toàn trong kinh doanh. Phương thức giám sát từ xa là phương thức còn mới mẻ trong hoạt động thanh tra, nên trong thời gian đầu chưa phát huy được tác dụng của nó. Kết quả giám sát từ xa còn hạn chế. b - Phương thức thanh tra tại chỗ Trong thời kỳ này, số lượng các đơn vị thuộc đối tượng của Thanh tra chi nhánh Bắc giang có sự biến động qua các năm. Tháng 7/1997, Công ty vàng bạc đá quý được giao cho bộ phận kiểm soát của chi nhánh thực hiện kiểm tra. Hệ thống QTDND cơ sở được thành lập và hoạt động từ năm 1995 và đến cuối năm 1997 là 21 quỹ đã đi vào hoạt động. Cùng với việc tăng số lượng, các TCTD đã không ngừng mở rộng màng lưới và nội dung hoạt động, đòi hỏi Thanh tra chi nhánh Bắc giang phải tăng số cuộc thanh tra trong năm, nội dung thanh tra phong phú hơn. Hàng năm, Thanh tra chi nhánh Bắc giang đã tiến hành từ 5 đến 6 cuộc. Nội dung thanh tra được tiến hành theo yêu cầu quản lý trong từng thời gian phù hợp với chương trình của Thanh tra NHNN Qua thanh tra tại chỗ hoạt động các TCTD trên địa bàn có thể nhận xét một trên một số điểm chính sau: - Hoạt động của các TCTD đã mở rộng cả về số lượng cũng như chất lượng, bước đầu khẳng định vị trí của mình trong kinh doanh theo cơ chế mới. Đầu tư tín dụng theo ngành nghề, vùng hay đối tượng đã căn cứ trên cơ sở các văn bản của ngành và đường lối phát triển kinh tế của tỉnh từng thời kỳ. - Những công trình, những sản phẩm hay lợi nhuận do đồng vốn tín dụng của các TCTD đầu tư đã mang lại cho các cấp, các ngành, các tổ chức kinh tế và cá nhân ngày càng rõ nét. Song bên cạnh đó, các TCTD vẫn không thể tránh được những tồn tại phát sinh trong quá trình kinh doanh. Đó là: - Việc xác định và phân loại nợ chưa chính xác (Theo thời gian, theo khả năng và nguyên nhân ) - Chưa chấp hành nguyên tắc thể lệ vay vốn - Không tổ chức kiểm tra sau khi cho vay nên để xảy ra hiện tượng phần lớn khách hàng sử dụng vốn sai mục đích; hoặc các đơn vị vay để trả nợ đơn vị khác, vay để trả lãi chính ngân hàng cho vay. - Công tác lưu trữ, bảo quản vật cầm cố thế chấp bảo đảm tiền vay chưa khoa học - Hạch toán tài khoản kế toán chưa đúng tính chất - Yếu tố hợp lệ, hợp pháp chứng từ chưa dảm bảo. - Tính thu trả lãi chưa chính xác. - Sự phối kết hợp giữa các phòng ban, bộ phận nhằm thực hiện chế độ báo cáo, chỉnh sửa sai phạm phát hiện sau thanh tra chưa tốt. Tất cả những tồn tại trên đều được Thanh tra chi nhánh NHNN yêu cầu chỉnh sửa kịp thời qua các đợt thanh tra. Phần lớn các đối tượng được thanh tra tiếp thu sửa chữa một cách nghiêm túc. 1.2.2 - Thời kỳ từ khi thực hiện luật NHNN ( 1998 ) đến nay. Tháng 10/1998, 2 bộ luật ngân hàng được ban hành thực hiện. Tổ chức hoạt động thanh tra chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Bắc giang được củng cố, đổi mới thể hiện trên các mặt: 1.2.2.1 - Về cơ chế điều hành đối với thanh tra chi nhánh Luật ngân hàng được ban hành và có hiệu lực từ 1/10/1998, song lại chưa có văn bản quy định về tổ chức hoạt động thanh tra ngân hàng theo luật ngân hàng, cho nên tổ chức hoạt động của Thanh tra NHNN vẫn được thực hiện theo quyết định 85/QĐ-NH ngày 10/10/1990 của Thống đốc NHNN Tháng 9/1999, Chính phủ đã ban hành nghị định số 91/1999/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động thanh tra ngân hàng và tiếp theo đó ngân hàng Nhà nước ban hành thông tư số 04/2000/TT-NHNN3 ngày 28/3/2000 hướng dẫn thực hiện nghị định 91 nói trên của Chính phủ. Theo quy định của các văn bản này thì Thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh thành phố nằm trong hệ thống tổ chức Thanh tra ngân hàng, là đơn vị thuộc tổ chức bộ máy của chi nhánh NHNN tỉnh thành phố. Như vậy Thanh tra chi nhánh có thể được coi là song trùng lãnh đạo, nhưng nó lại phù hợp với mô hình của NHNN ta hiện nay bởi vì: - Do tính hệ thống trong tổ chức bộ máy của NHNN được tổ chức từ trung ương đến các tỉnh, thành phố và có vai trò quản lý bao trùm trong cả nước. Các chi nhánh NHNN tỉnh thành phố chỉ là cánh tay kéo dài của NHNN trung ương. - Do sự thống nhất về mục đích thanh tra là bảo đảm an toàn cho cả hệ thống các TCTD, cho dù Thanh tra được tổ chức ở các địa bàn khác nhau nhưng đều nhằm mục đích này - Xuất phát từ sự thống nhất về cơ sở pháp lý hoạt động Thanh tra : hoạt động thanh tra dựa vào quy định của pháp luật về hoạt động thanh tra; chịu sự chỉ đạo hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Nhà nước; dựa vào các quy định của pháp luật trong hoạt đông ngân hàng để tổ chức, triển khai và thực hiện các phương thức hoạt động. Điều quan trọng là phải phân rõ quyền hạn và trách nhiệm của cả hệ thống và mỗi cấp thanh tra để bảo đảm có cơ chế tập trung, thông thoáng trong toàn hệ thống. Điều này cò có những vấn đề cần phải hoàn thiện : - Hiện tại, Chánh thanh tra NHNN không trực tiếp quản lý về tổ chức, nhân sự của Thanh tra NH tỉnh, Thanh tra NHNN chưa có được quyền phối hợp tham gia khi tuyển chọn cán bộ thanh tra ở chi nhánh. Vì vậy khó có thể nói có được quan điểm thống nhất về chuẩn hoá đội nghũ cán bộ thanh tra theo yêu cầu. - Đối với việc điều động, bổ nhiệm cán bộ thanh tra chi nhánh, mà cụ thể là đối với phó chánh thanh tra NH tỉnh là người giúp việc trực tiếp cho Chánh thanh tra chi nhánh, thanh tra NHNN chưa được quyền quản lý điều động. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm phó chánh thanh tra chi nhánh vẫn do Giám đốc chi nhánh quyết định. - Theo thông tư 04/2000/TT-NHNN3 ngày 28/3/2000 hướng dẫn thực hiện nghị định 91/1999/NĐ-CP thì Thanh tra NHNN chịu trách nhiệm thanh tra các TCTD Nhà nước, còn các chi nhánh của TCTD Nhà nước tại các tỉnh, thành phố do Thanh tra chi nhánh chịu trách nhiệm thanh tra, Thanh tra NHNN chỉ tiến hành thanh tra những đơn vị này khi thấy cần thiết. Như vậy thì chưa thể nói Chánh thanh tra NHNN phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động thanh tra ngân hàng trong cả nước. Còn nếu nói Giám đốc và Chánh thanh tra chi nhánh chịu trách nhiệm về hoạt động thanh tra chi nhánh tại địa phương thì cũng không đúng, vì Thanh tra chi nhánh hoạt động theo chương trình của Thanh tra NHNN. Nhiều khi, chương trình thanh tra của NHNN còn dàn trải, chưa bảo đảm tính trọng tâm, trọng điểm phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương. Rõ ràng, cơ chế “ đồng trách nhiệm” như vậy thật sự chưa hiệu quả. Kết cục cuối cùng là năng lực thanh tra bị hạn chế và dễ phát sinh lỗ hổng. - Theo pháp lệnh thanh tra, tổ chức thanh tra ngân hàng được coi là thanh tra bộ, nhưng theo luật ngân hàng thì Thanh tra ngân hàng là tổ chức thanh tra chuyên ngành về ngân hàng. Vấn đề này còn có sự không đồng bộ trong các văn bản luật cũng như trong thực tế. Bên cạnh Thanh tra ngân hàng là tổ chức thanh tra chuyên ngành, nhưng vẫn thực hiện cả chức năng thanh tra bộ như : Việc xét và giải quyết đơn thư khiếu tố có liên quan đến ngành ngân hàng, hoặc trong hoạt động chống tham nhũng. - Một vấn đề nữa là theo luật ngân hàng quy định thì NHNN có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật. Nhưng trong một thời gian gần 2 năm từ khi 2 bộ luật ngân hàng có hiệu lực vẫn chưa xây dựng được văn bản quy định về xử phạt vi phạm hành chính về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Đến 15/6/2000, chính phủ mới ban hành được nghị định số 20/2000/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng và NHNN có thông tư 09/2000/TT-NHNN3 ngày 29/8/2000 hướng dẫn thực hiện nghị định này, song cũng chưa có những hướng dẫn cụ thể của NHNN trong việc xử lý vi phạm, sự phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và bảo vệ pháp luật với NHNN chưa được thông suốt. vì vậy đã hạn chế không nhỏ đến hiệu lực, hiệu quả của thanh tra chi nhánh. 1.2.2.2 - Về tổ chức bộ máy và cán bộ Tổ chức bộ máy và cán bộ thanh tra chi nhánh được thể hiện qua số liệu sau ( thời điểm 31/12/2000 ): - Biên chế của thanh tra chi nhánh có 8 người, chiếm 15% tổng cán bộ công chức của chi nhánh. Trong đó có 1 Chánh thanh tra, 1 phó chánh thanh tra. - Về độ tuổi: - Dưới 35 tuổi : 2 - Từ 35 - 45 tuổi: 3 - Trên 45 tuổi : 3 - Về trình độ : + Cả 8 cán bộ thanh tra đều có trình độ đại học và tương đương đại học + Có 6 đ/c là thanh tra viên cấp 1, không có thanh tra viên cấp 2. + Có 2 đ/c sử dụng được ngoại ngữ tiếng Anh trình độ B + 100% số cán bộ sử dụng máy vi tính chương trình tin học cơ bản. + Có 2 đ/c đã qua lớp quản lý hành chính Nhà nước cấp chuyên viên. Để công tác thanh tra đạt hiệu quả thì trình độ của mỗi cán bộ thanh tra mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. ở đây chúng tôi muốn đề cấp tới phương pháp làm việc của mỗi cán bộ thanh tra của chi nhánh NHNN Bắc giang chưa thực sự khoa học ( Từ cách đặt vấn đề; lấy và khai thác số liệu những thông tin liên quan để chọn lọc, phân tích, đánh giá, đưa ra nhận định đúng và chính xác nhất ), nên hiệu quả của các cuộc thanh tra còn ở mức độ nhất định. Bên cạnh việc nâng cao trình độ qua các khoá đào tạo, cán bộ thanh tra còn phải tự học hỏi, nắm bắt kịp thời chế độ, thể lệ của ngành, đúc rút học tập kinh nghiệm qua thực tiễn. Hiện nay, việc vận dụng và phát huy sau mỗi khoá học của cán bộ thanh tra chi nhánh còn hạn chế, nhất là trình độ ngoại ngữ gần như bị lãng quên. Vấn đề có nhiều nguyên nhân, ngoài nguyên nhân chủ quan thuộc về bản thân cán bộ thanh tra, còn do không có điều kiện vận dụng tại địa phương. 1.2.2.3 - Vê nghiệp vụ thanh tra a - Nghiệp vụ giám sát từ xa Hoạt động nghiệp vụ giám sát từ xa đang được Thanh tra NHNN áp dụng thực hiện là quyết định số 398/1999/QĐ-NHNN3 ngày 9/11/1999 của Thống đốc NHNN đã ra về việc ban hành quy chế giám sát từ xa đối với các TCTD hoạt động tại Việt Nam, thay thế quyết định 137/QĐ-NH3 của ngân hàng Nhà nước trước đây. Theo quy chế này, nội dung giám sát từ xa đối với hoạt động của các TCTD là: Diễn biến về cơ cấu tài sản Nợ và tài sản Có; Chất lượng tài sản Có; Vốn tự có; Tình hình thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh; Việc thực hiện quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD và các quy định khác của pháp luật; Các vấn đề khác có liên quan. Với sô lượng và loại hình các TCTD trên địa bàn, đối tượng giám sát từ xa của Thanh tra chi nhánh NHNN Bắc giang bao gồm: - Chi nhánh ngân hàng thương mại Nhà nước tỉnh : Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng công thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển. - Ngân hàng phục vụ người nghèo. - Các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Việc phân tích, giám sát đối với hoạt động của các TCTD được thực hiện theo quý. Hàng tháng, Thanh tra chi nhánh chỉ cần thông báo kết quả giám sát từ xa kèm nhận xét, kiến nghị những vấn đề phải chấn chỉnh đến chi nhánh TCTD. Tại chi nhánh NHNN Bắc giang, thực trạng hoạt động giám sát từ xa được thể hiện trên một số nội dung cụ thể sau: a.1 - Đánh giá cơ cấu tài sản Nợ và tài sản Có Để thực hiện nội dung này dựa vào các báo biểu kế toán của các TCTD gửi đến, Thanh tra chi nhánh NHNN Bắc giang đã tiến hành phân tổ tài sản Nợ và tài sản Có của TCTD, từ đó đánh giá cơ cấu tài sản Nợ và tài sản Có của TCTD: - Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động của TCTD, được huy động trên địa bàn nếu có chiều hướng tăng ổn định thì trong hoạt động có thuận lợi. Nguồn vốn huy động luôn chiếm từ 55 đến 60% tổng nguồn vốn. Trong vốn huy động của các chi nhánh TCTD trên địa bàn thì nguốn vốn có kỳ hạn thường chiếm gần 90%, Trong giám sát đối với các TCTD thường so sánh với số liệu quý trước hoặc cùng kỳ năm trước để đưa ra nhận xét đánh giá đúng về diễn biến cơ cấu tài sản Nợ, khả năng huy động vốn hiện tại và tương lai, uy tín của chi nhánh trên thị trường. Đối với các QTDND, việc huy động vốn thường ở mức từ 7 - 8 lần vốn tự có. - Việc đánh giá diễn biến cơ cấu tài sản Có đối với các TCTD tại Bắc giang thì chủ yếu vẫn là xem xét đến tài sản Có sinh lời bao gồm: Dư nợ cho vay có khả năng thu được lãi, tiền gửi ở TCTD khác, các khoản hùn vốn và các khoản đầu tư khác. Giá trị tà sản Có sinh lời so với tổng tài sản có ở Bắc giang năm 1999 là 79%, năm 2000 là 85%. Để đánh giá cơ cấu tài sản Có của mỗi TCTD có hợp lý và đem lại hiệu quả hay không, có thể hạn chế được rủi ro thì cần xem xét một cách toàn diện đến các yếu tố ảnh hưởng tới thị trường đầu tư như : chính sách lãi suất, cơ cấu nguồn vốn của TCTD theo khu vực cũng như theo sự chỉ đạo của lãnh đạo TCTD... Khi đánh giá đều phải chú ý tới tài sản Nợ và tài sản Có khác, hai chỉ tiêu này chỉ được giới hạn ở một tỷ lệ nhất định, thông thường ở mức 10% trở xuống a.2 - Giám sát chất lượng tín dụng Để đánh giá chất lượng tín dụng của các TCTD, Thanh tra chi nhánh tiến hành tính toán phân tích nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng. Khi đánh giá các tỷ lệ của chỉ tiêu nợ quá hạn, thanh tra chi nhánh đã chú ý tới nhiều các vấn đề liên quan như : Diễn biến và mức độ biến động ở các kỳ trước so hiện nay, nguyên nhân biến động, tỷ lệ tăng giảm do tử số hay mẫu số, mối quan hệ giữa dự phòng phải thu khó đòi so với tổng tài sản có phải trích dự phòng, tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi trong tổng nợ quá hạn ... Việc đánh giá chất lượng tín dụng còn được xem xét cơ cấu đầu tư tín dụng trên cơ sở phân loại chất lượng tài sản có để lập dự phòng rủi ro và việc xoá nợ bằng quỹ dự phòng; Lĩnh vực đầu tư ;Phân tán rủi ro; Giới hạn cho vay đối với 1 khách hàng... Qua kết quả giám sát từ xa của thanh tra chi nhánh tại thời điểm 31/12/2000 cho thấy: - Tỷ lệ nợ quá hạn của chi nhánh NHCT và NHNo đều ở mức dưới 5%, Song ở đây còn có điều đáng phải quan tâm là tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi lại chiếm tỷ lệ cao trong tổng nợ quá hạn ( của NHCT là 100%; NHNo là 76%). Đối với NHĐT và NHNg thì tỷ lệ nợ quá hạn thường xuyên vượt trên 5% ( đặc biệt là của NHĐT trên dưới 9%) và nợ quá hạn khó đòi cũng chiểm tỷ trọng trên trên 50% nợ quá hạn. Thanh tra chi nhánh đã tổ chức đi thanh tra tại chỗ các đơn vị trên cho thấy là các khoản nợ quá hạn khó đòi chủ yếu là của dư nợ trung và dài hạn của các năm trước đến nay chưa trả được, thậm chí còn đã gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ từ 2 đến 3 lần mà vẫn không trả được nợ. Điều đó đã phản ánh chất lượng tín dụng ở các TCTD còn có vấn đề cần xem xét - Đối với quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, kết quả giám sát từ xa thông qua các báo cáo của các quỹ gửi đến thì tỷ lệ nợ quá hạn của tòan hệ thống QTD cơ sở trên địa bàn ở mức dưới 3% và tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi là 32,5%. Song có một vấn đề đáng quan tâm là có một QTD, có thời điểm tỷ lệ nợ quá hạn là 47% và nợ quá hạn khó đòi chiếm trên dưới 66% tổng nợ quá hạn. Các khoản nợ quá hạn khó đòi chủ yếu là nguyên nhân chủ quan của các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, cho vay không quản lý chặt chẽ, không thu được nợ dẫn đến mất vốn ... Qua việc thực hiện giám sát từ xa thường xuyên hàng tháng mà chi nhánh NHNN Bắc giang đã nắm bắt được kịp thời diễn biến hoạt động kinh doanh của quỹ này, đồng thời có biện pháp uốn nắn, chấn chỉnh và có biện pháp tháo gỡ, do đó đã giúp cho quỹ này tránh khỏi bị đổ vỡ. a.3 - Đánh giá việc đảm bảo khả năng thanh toán Đối với các chi nhánh của các TCTD trên địa bàn, việc đánh giá chỉ tiêu này tuỳ thuộc vào sự chỉ đạo của từng TCTD. Trong một số trường hợp, để đảm bảo khả năng thanh toán, chi nhánh TCTD được cấp trên điều hoà vốn để đảm bảo chi trả bình thường. Do vậy khi đánh giá khả năng thanh toán của chi nhánh TCTD cần phải xem xét đến sự điều hoà vốn của cấp trên. Đối với các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, qua kết quả giám sát từ xa quý III và quý IV năm 2000 cho thấy một số quỹ không đảm bảo khả năng thanh toán, tỷ lệ chỉ ở mức dưới 2%. Điều này cho thấy hoạt động của các quỹ tín dụng này rất nguy hiểm, cho vay nhiều mà không thu được nợ, có thể dẫn đến nguy cơ đổ bể. Chi nhánh NHNN Bắc giang đã phải cử cán bộ thường xuyên theo dõi và có biện pháp giúp các quỹ tín dụng khắc phục, đảm bảo hoạt động bình thường. Ngoài ra, các TCTD cần phải duy trì tỷ lệ giữa Ngân quỹ so với các khoản tiền gửi dễ biến động ở mức 10% trở lên a.4 - Đánh giá tình hình thu nhập, chi phí, kết quả kinh doanh Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của TCTD, Thanh tra cần đánh giá trên một số các chỉ tiêu: - Lợi nhuận ròng trước thuế so với tổng tài sản “Có” - Thu nhập lãi ròng ( Thu nhập lãi trừ chi trả lãi ) so với bình quân tài sản “Có” - Lợi nhuận ròng trước thuế so với vốn điều lệ hoặc so với vốn tự có - Lợi nhuận ròng trước thuế so với vốn cổ phần - Dự phòng phải thu khó đòi thực tế so với số phải dự phòng Tuy nhiên, việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của các chi nhánh NHTM Nhà nước trên địa bàn rất khó chính xác, do thiếu các thông tin đầu vào như vốn điều lệ, vốn tự có ... cho nên chủ yếu là dựa vào chênh lệch thu nhập và chi phí để đánh giá. Mặt khác còn phải xem xét đến các yếu tố liên quan đến kết quả kinh doanh như việc điều hành của cấp trên trong việc sử dụng vốn, trích lập quỹ dự phòng rủi ro , hạn mức tín dụng ... Kết quả giám sát từ xa của Thanh tra chi nhánh đối với các TCTD trên địa bàn trong năm 2000 cho thấy Chi nhánh NHCT, NHNo&PTNT, NHĐT&PT và hệ thống quỹ tín dụng nhân dân đều có thu nhập lớn hơn chi phí, chỉ có NHNg là bị lỗ ( Thu nhập nhỏ hơn chi phí ). Tuy nhiên qua việc phân tích một số hoạt động có liên quan đến thu nhập, chi phí, kết hợp với thanh tra tại chỗ thì kết quả lãi của chi nhánh NHCT và NHĐT&PT là chưa chính xác, do các đơn vị này chưa trích lập đủ quỹ dự phòng rủi ro, đặc biệt là chi nhánh NHĐT&PT không trích lập quỹ này. Nếu chi nhánh NHĐT mà trích đủ theo quy định thì đơn vị sẽ lỗ khoảng 400 triệu đồng. a.5 - Đánh giá việc thực hiện các quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD và các quy định khác của pháp luật Đối với các NHTM trên địa bàn là các chi nhánh phụ thuộc, nên công tác giám sát từ xa nội dung này chưa được Thanh tra chi nhánh quan tâm chú ý, không đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động đối với các đơn vị này. Đối với hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, Thanh tra chi nhánh đã phát hiện một số quỹ còn vi phạm về giới hạn cho vay đối với 1 khách hàng - Cho vay vượt quá 15% vốn tự có của TCTD; không đảm bảo tỷ lệ khả năng chi trả. Thanh tra chi nhánh đã có văn bản thông báo, nhắc nhở, đồng thời yêu cầu các quỹ này chấn chỉnh và thực hiện nghiêm túc theo các quy định đã ban hành. b - Nghiệp vụ thanh tra tại chỗ: Trên địa bàn tỉnh Bắc giang, đối tượng thanh tra không có sự biến động lớn. Các TCTD ngày càng được mở rộng màng lưới hoạt động, tìm kiếm khách hàng, nhất là NHNo&PTNT hiện nay có 10 chi nhánh ngân hàng huyện và 23 chi nhánh ngân hàng cấp 4. Thanh tra chi nhánh đã tiến hành thanh tra tại chỗ các NHTM trên địa bàn năm 1999 là 6 cuộc, năm 2000 là.8 cuộc. Đồng thời tiến hành thanh tra 9/9 QTDND cơ sở. Thanh tra tại chỗ các TCTD trên địa bàn Bắc giang được tập trung vào những nội dung chủ yếu sau: b.1 - Thanh tra công tác tín dụng Khi thanh tra hoạt động tín dụng, Thanh tra chi nhánh thường tập trung đi sâu kiểm tra những vấn đề liên quan đến công tác cho vay khách hàng: - Thanh tra các nguyên tắc, điều kiện và quy trình cho vay vốn của TCTD. Để thực hiện vấn đề này, Thanh tra chi nhánh thông qua việc kiểm tra trực tiếp hồ sơ cho vay, chú trọng tập trung vào các món vay lớn, các món vay đã phát sinh nợ quá hạn, phải gia hạn nợ hoặc có vấn đề để đánh giá cụ thể tình hình chấp hành chế độ trong cho vay của TCTD. Thanh tra việc thực hiện quy trình cho vay của TCTD cũng là một vấn đề mang tính nguyên tắc khi cho vay , nó bao gồm các khâu: Kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Hay nói cách khác là việc thẩm định, giám sát, kiểm tra, quản lý các món vay của cán bộ tín dụng. - Thanh tra việc định thời hạn cho vay, việc gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, chuyển nợ quá hạn; việc áp dụng lãi suất và thu lãi; chất lượng, giá trị và công tác bảo quản tài sản thế chấp cùng các giấy tờ liên quan tài sản thế chấp; việc bảo lãnh các khoản vay; kiểm tra đảm bảo nợ vay, xử lý các trường hợp vi phạm thể lệ tín dụng và những điều cam kết. - Xác định tính đúng đắn của việc phân loại nợ, nhất là nợ quá hạn một cách chính xác; loại ra khỏi nợ đủ tiêu chuẩn những khoản nợ đã quá hạn nhưng chưa chuyển, những khoản đảo nợ, gia hạn nợ không đúng.... để phản ánh đúng thực trạng chất lượng tín dụng. Muốn vậy phải kiểm tra việc các TCTD tự phân loại nợ cũng như nợ quá hạn có đảm bảo theo quy đinh của NHNN hay không. Mặt khác thông qua kiểm tra trực tiếp hồ sơ phát hiện những khoản đảo nợ, gia hạn nợ không đúng, đối chiếu với số liệu hạch toán theo dõi taị ngân hàng để đánh giá đúng thực trạng tín dụng. Qua thực tế thanh tra tại các TCTD trên địa bàn cho thấy nổi lên một số vấn đề: - Việc chấp hành quy chế tín dụng khi xem xét cho vay chưa nghiêm túc, còn chạy theo yêu cầu mở rộng cho vay một cách thuần tuý; Nhiều món vay không đủ thủ tục giấy tờ; Tình hình và số liệu trong hồ sơ vay chưa chặt chẽ, lô gích, chưa đầy đủ tính pháp lý, nhất là về giấy tở tài sản thế chấp. Một số TCTD còn cho vay ngoài địa bàn nên có nhiều khó khăn trong xử lý khi nợ quá hạn. - Công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay chưa thật đầy đủ, chưa sâu sát, chủ yếu chỉ kiểm tra một lần trước khi cho vay. Do đó nhiều món vay sử dụng vốn sai mục đích - Có TCTD chưa chấp hành nghiêm túc chế độ lãi suất vượt trần lãi suất quy định của NHNN - Việc định kỳ hạn nợ chưa sát; phân loại dư nợ không chính xác; cho gia hạn nợ tràn lan, đặc biệt có nhiều món vay cho gia hạn nợ nhiều lần mà vẫn không trả được nợ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33961.doc
Tài liệu liên quan