Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Đống Đa

MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta ngày càng giữ vị trị quan trọng trong nền kinh tế. Chiếm trên 96% số doanh nghiệp đăng ký hoạt động, các Doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc huy động nguồn lực đầu tư phát triển và có ý nghĩa then chốt trong quá trình giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, phát triển đồng đều giữa các khu vực… Tuy nhiên các Doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay vẫn ở tình trạng quy mô sản xu

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất nhỏ, công nghệ thấp… Để để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao độ như hiện nay, các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương pháp, bí quyết sản xuất. Do vậy, Doanh nghiệp vừa và nhỏ cần rất nhiều vốn, mà lượng vốn tự có không thể đáp ứng được nên các doanh nghiệp tìm đến ngân hàng và vay trung và dài hạn nhiều hơn. Mặt khác, ngoài Ngân hàng Đầu tư và phát triển thì tín dụng trung và dài hạn chỉ mới được các Ngân hàng khác chú ý và kết quả ở lĩnh vực này còn rất khiêm tốn. Trước thực tế đó, đòi hỏi các Ngân hàng không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng mà trọng tâm là chất lượng thẩm định dự án. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng mà còn góp phần tiết kiệm vốn cho toàn xã hội, thúc đẩy mở rộng, phát triển hiệu quả cho nền kinh tế. Tuy nhiên, công tác thẩm định dự án ở các Ngân hàng hiện nay chưa được thống nhất đầy đủ về lý luận lẫn thực hành. Chí vì lẽ đó, trong thời gian thực tập ở Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa, tôi đã chọn để tài: “Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Đống Đa” Chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại Chương II: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và tại Ngân hàng Công thương Đống Đa Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tai Ngân hàng Công thương Đống Đa Chuyên đề này được hoàn thành với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy PGS.TS Vũ Duy Hào và các cô chú tại Ngân hàng Công thương Đống Đa. Tôi xin chân thành cảm ơn và kính mong sự góp ý để chuyên đề được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế 1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ Nói đến doanh nghiệp vừa và nhỏ là nói đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy mô của các doanh nghiệp. Việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) phụ thuộc vào tiêu thức sử dụng quy định giới hạn các tiêu thức phân loại quy mô doanh nghiệp. Khái niệm chung nhất về DNVVN có thể phát biểu như sau: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất – kinh doanh có tư cách pháp nhân vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia. Như vậy có thể nhận thấy một số tiêu thức chung, phổ biến nhất thường xuyên được sử dụng để phân loại là: Số lao động thường xuyên Vốn sản xuất Doanh thu Lợi nhuận Giá trị gia tăng Tiêu thức về số lao động và vốn phản ánh quy mô sử dụng các yếu tố đầu vào, còn tiêu thức về doanh thu, lợi nhuận và giá trị gia tăng lại đánh giá quy mô theo kết quả đầu ra. Mỗi tiêu thức có những mặt tích cực và hạn chế riêng. Như vậy, để phân loại DNVVN có thể dùng các yếu tố đầu vào hoặc các yếu tố đầu ra của doanh nghiệp, hoặc là sự kết hợp của cả hai loại yếu tố đó. Việc sử dụng các tiêu thức để phân loại DNVVN ở các nước trên thế giới có những đặc điểm chủ yếu sau: Các nước dùng tiêu thức khác nhau. Trong số các tiêu thức đó, hai tiêu thức được sử dụng nhiều nhất ở phần lớn các nước là quy mô vốn và lao động. Tiêu thức đầu ra được ít nước sử dụng hơn. Số lượng tiêu thức sử dụng để phân loại cũng không giống nhau. Có nước chỉ dùng một tiêu thức nhưng cũng có nhiều nước sử dụng đồng thời hai hoặc nhiều tiêu thức để phân loại DNVVN. Lượng hóa các tiêu thức này thành các tiêu chuẩn giới hạn cụ thể ở các nước khác nhau không giống nhau. Độ lớn của các tiêu chuẩn giới hạn phụ thuộc vào trình độ, hoàn cảnh, điều kiện phát triển kinh tế, định hướng chính sách và khả năng trợ giúp cho các DNVVN của mỗi nước. Điều này làm cho số lượng các DNVVN có thể rất lớn hoặc nhỏ tùy theo giới hạn độ lớn khối lượng vốn và lao động sử dụng ở mỗi nước. Khái niệm DNVVN mang tính tương đối, nó thay đổi theo từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội nhất định và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng nước; từng thời kỳ cụ thể; từng ngành nghề khác nhau… Từng thời kỳ, các tiêu thức và tiêu chuẩn giới hạn lại có sự thay đổi cho phù hợp với đường lối, chính sách, chiến lược và khả năng hỗ trợ của mối quốc gia. Những tiêu thức phân loại DNVVN được dùng làm căn cứ thiết lập những chính sách phát triển, hỗ trợ DNVVN của các Chính phủ. Từ những phân tích khái niệm chung về DNVVN, các tiêu thức và giới hạn tiêu chuẩn, tiêu thức được sử dụng trong phân loại DNVVN trên thế giới kết hợp với điều kiện cụ thể, những đặc điểm riêng biệt về quan điểm phát triển kinh tế nhiều thành phần và các chính sách, quy định phát triển kinh tế của nước ta. Chúng ta có thể nêu ra khái niệm như sau: Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất – kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao động thỏa mãn các quy định của Chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Theo Nghị định 90 ngày 23/11/2001: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.” (Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong chỉ tiêu nói trên). 1.1.2 Các đặc điểm của Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam Chiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp hiện có trên cả nước, các DNVVN đang hoạt động trong môi trường kinh tế chưa hoàn toàn thuận lợi cả tầm vĩ mô và vi mô. Trong đó gặp nhiều khó khăn về công nghệ sản xuất kinh doanh, mô hình quản lý, tiến độ, kỹ năng của đội ngũ lãnh đạo và tay nghề của người lao động, phương thức tiếp thị sản phẩm, đặc biệt là sự hạn chế về tiếp cận thông tin và dịch vụ tài chính, vốn đầu tư... Có thể nhận thấy đặc điểm của DNVVN ở Việt Nam như sau: Thứ nhất, năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và quản lý ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam còn yếu. Để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao độ như hiện nay, các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương pháp, bí quyết sản xuất. Thế nhưng hầu hết công nghệ đang được sử dụng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam hiện được đánh giá là lạc hậu. Công nghệ lạc hậu chếm tỷ trọng rất lớn là đặc điểm khác biệt của DNVVN so với các DNVVN ở các nước phát triển. Đối với các DNVVN trên thế giới, công nghệ trang bị và sử dụng thường rất hiện đại. Chúng chỉ khác so với doanh nghiệp lớn về quy mô vốn đầu tư, số lao động. Do đó, khả năng sản xuất, năng suất và chất lượng sản phẩm do các DNVVN của nước ngoài tạo ra khá cao và là một bộ phận không thể tách rời của các doanh nghiệp lớn, có liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp lớn dưới dạng vệ tinh cung cấp các bộ phận, linh kiện vật tư. Một số khác tồn tại độc lập thì lại có chất lượng cao và tập hợp thành một quần thể như những liên hiệp sản xuất khu vực có chất lượng sản phẩm cao, có thể tham gia cạnh tranh trên thị trường. Thứ hai, nói đến doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trước tiên và chủ yếu là nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Do tính lịch sử của quá trình hình thành và phát triển các thành phần kinh tế ở nước ta, đại bộ phận các DNVVN, theo quy định hiện hành của Thủ tướng Chính phủ, đều thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Bởi vậy, đặc điểm và tính chất của các doanh nghiệp thuộc khu vực này mang tính đại diện cho DNVVN ở Việt Nam. Chẳng hạn, các con số thống kê về tỷ trọng GDP đóng góp trong cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm, số lao động, vốn, đặc điểm về công nghệ, máy móc sử dụng, trình độ quản lý, khả năng về vốn cho đến nay chủ yếu tổng kết cho khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chứ chưa có số liệu điều tra chính thức riêng biệt cho toàn bộ các DNVVN Việt Nam. Các DNVVN chủ yếu bao gồm các loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Vị trí, vai trò và tốc độ, xu hướng phát triển của những doanh nghiệp này rất khác nhau. Thứ ba, Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam khó tiếp cận dịch vụ ngân hàng. Có thể nói hầu hết các dịch vụ ngân hàng (huy động vốn, dịch vụ cho vay, đầu tư, thanh toán, bảo lãnh, cho thuê tài chính, tư vấn, quản lý tài sản...) đã đến với cộng đồng các doanh nghiệp. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất, bức xúc nhất của các DNVVN hiện nay vẫn là thiếu vốn bởi năng lực vốn nội tại của các doanh nghiệp này hạn chế trong khi tiếp cận vốn ngân hàng còn gặp rất nhiều rào cản. Các DNVVN có tính tự chủ cao nhưng quy mô vốn thấp. Ở các doanh nghiệp này, chủ sở hữu cũng thường là người quản lý. Họ phải tự bươn chải để duy trì và phát triển đồng vốn của mình. Do vậy, người quản lý doanh nghiệp thường rất nỗ lực trong kinh doanh. Doanh nghiệp đói vốn, muốn vay vốn nhưng không có điểm tựa tài chính là Nhà nước để dễ dàng được Ngân hàng chấp nhận cho vay như các doanh nghiệp trong khu vực quốc doanh. DNVVN luôn chỉ được vay khi có tài sản đảm bảo. Hơn nữa, đúng kiểu đã nghèo lại gặp cái eo, giá trị tài sản thấp, chủ yếu là đất ở của chủ doanh nghiệp, nên lượng vốn được phép vay cũng nằm trong giới hạn rất khiêm tốn so với nhu cầu vốn. Thứ tư, lĩnh vực hoạt động của các DNVVN rất đa dạng và phong phú. Các doanh nghiệp này thâm nhập hoạt động vào rất nhiều ngành nghề kinh tế như thương mại dịch vụ, sản xuất, gia công chế biến…. Nhờ vậy, việc mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp này sẽ giúp Ngân hàng phân tán được rủi ro hoặc rủi ro gây biến động không lớn đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Do quy mô nhỏ bé, nên khi diễn biến thị trường bất lợi, một chủ doanh nghiệp nhanh nhậy sẽ dễ dàng chuyển hướng kinh doanh mới có lợi. Tuy nhiên, nhìn dưới giác độ khác, tính chất “đa dạng, phong phú” lại trở thành “nhỏ lẻ manh mún”. Có những doanh nghiệp mà danh mục các hoạt động đăng ký kinh doanh gồm đến hàng chục khoản mục từ xuất nhập khẩu, cung cấp dịch vụ thiết kế, tư vấn,…nên tính chuyên nghiệp không cao. Không ít các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có định hướng lâu dài trong hoạt động kinh doanh mà hoạt động chạy theo thương vụ, thường xuyên thay đổi cơ cấu mặt hàng, sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp nhiều về chủng loại nhưng không lớn về số lượng. 1.1.3 Vị trí, vai trò của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế mỗi nước, kể cả các nước có trình độ phát triển cao. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt như hiện nay, các nước đều chú ý hỗ trợ các DNVVN nhằm huy động tối đa các nguồn lực và hỗ trợ cho công nghiệp lớn, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Vị trí, vai trò của các DNVVN đã được khẳng định thể hiện qua các điểm chủ yếu sau: Về số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm ưu thế tuyệt đối Doanh nghiệp vừa và nhỏ có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực và tồn tại như một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế mỗi nước. Nó là một bộ phận hữu cơ gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, có tác dụng hỗ trợ, bổ sung, thúc đẩy các doanh nghiệp lớn phát triển. Sự phát triển của các DNVVN góp phần quan trọng trong việc giải quyết những mục tiêu kinh tế - xã hội sau đây: Một là, đóng góp đáng kể vào sự phát triển và ổn định kinh tế của đất nước. Việc phát triển DNVVN đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, ổn định xã hội và tăng trưởng GDP. Hai là, cung cấp cho xã hội khối lượng hàng hóa đáng kể Ba là, thu hút lao động, tạo ra nhiều việc làm với chi phí đầu tư thấp, giảm thất nghiệp. Bốn là, tạo ra nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho dân cư, góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập các bộ phận dân cư, tạo ra sự phát triển tương đối đồng đều giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Khả năng sản xuất phân tán, sử dụng lao động tại chỗ vừa tạo việc làm vừa tạo nguồn thu nhập ổn định cho dân cư trong các vùng góp phần quan trọng trong việc giảm bớt khoảng cách thu nhập và mức sống giữa các vùng trong nước. Năm là, khai thác, phát huy các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của các địa phương, các nguồn tài chín của dân cư trong vùng. Sáu là, hình thành, phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động. Cùng với phát triển các DNVVN là sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các nhà kinh doanh sáng lập. Đây là lực lượng rất cần thiết để góp phần thúc đẩy sản xuất – kinh doanh ở Việt Nam phát triển. Đội ngũ các nhà kinh doanh ở nước ta còn rất khiêm tốn cả về số lượng và chất lượng do ảnh hưởng của cơ chế cũ để lại. Trong những năm đổi mới đã xuất hiện nhiều gương măt trẻ, điển hình, năng động trong quản lý các DNVVN. Bảy là, tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sản xuất – kinh doanh phát triển có hiệu quả hơn. Sự tham gia của rất nhiều các DNVVN vào sản xuất kinh doanh làm cho số lượng và chủng loại sản phẩm tăng lên rất nhanh. Kết quả là làm tăng tính chất cạnh tranh trên thị trường, tạo ra sức ép lớn buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới mặt hàng, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường mới. Những yếu tố đó có tác động lớn làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn. Đối với Việt Nam thì vị trí, vai trò của DNVVN lại càng quan trọng, do những đặc điểm, tình hình và bối cảnh phát triển kinh tế nước ta quy định. Bức tranh thực tế trong phát triển kinh tế nước ta hiện nay cho thấy DNVVN đã và đang chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Toàn bộ khu vực DNVVN tạo khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp hàng năm, 25%- 26% GDP trong toàn quốc. Nếu căn cứ vào tốc độ tăng trưởng GDP của các DNVVN như hiện nay có thể thấy rằng tốc độ tăng trưởng, tiềm năng phát triển để đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra trong giai đoạn tới phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của các DNVVN chứ không phải chỉ có phụ thuộc vào các công trình dự án lớn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút rất nhiều lao động ở Việt Nam. Hàng năm nước ta có khoảng 1 triệu người đến tuổi lao động. Phần lớn DNVVN thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Khu vực này giải quyết khá lớn lượng lao động. Hiện chiếm tới 42,7% chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh là lao động từ khu vực nhà nước chuyển sang trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, góp phần giải quyết việc làm, thu nhập và ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Ước tính của một nghiên cứu cho thấy DNVVN giải quyết khoảng 26% lao động cả nước (không kể lao động trong hộ gia đình, một lực lượng đông đảo nhất Việt Nam hiện nay). Con số này cho thấy vai trò quan trọng của DNVVN lớn hơn 2,5 lần so với các doanh nghiệp nhà nước về số lao động (7,8 triệu so với 3 triệu). Ở Việt Nam theo ước tính có khoảng 7,8 triệu lao động được thu hút vào làm việc trong các DNVVN. Đây là một cách phát triển góp phần giải quyết tốt sức ép thất nghiệp đang ngày càng gia tăng do dân số đông. Vị trí, vai trò của DNVVN càng tăng lên khi chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm việc trong các DNVVN ở Việt Nam vào khoảng 740.000 đồng chỉ bằng 3% trong các doanh nghiệp lớn (trung bình tạo ra một việc làm ở Việt Nam cần 5-10 triệu đồng). Hơn nữa nguồn vốn huy động chủ yếu trong dân cư, trong điều kiện thiếu vốn thì đây là giải pháp rất quan trọng phát huy nội lực. Các DNVVN hoạt động nhờ vay vốn ngân hàng rất nhỏ. Nguồn vốn chủ yếu huy động từ những người thân quen, họ hàng. Trong tình hình đó DNVVN là người tiếp xúc trực tiếp với người cho vay, huy động vốn từ khu vực tư nhân nhanh và có hiệu quả. Với những lợi ích to lớn đó, việc khuyến khích, hỗ trợ phát triển các DNVVN là một giải pháp quan trọng để thực hiện Chiến lượng phát triển kinh tế - xã hội đến 2010, đặc biệt là thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Đây cũng là một trong các giải pháp bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế nước ta. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và tự do thưong mại như hiện nay, phát triển các DNVVN có nhiều lợi thế như: Khả năng linh hoạt cao, dễ thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu thị trường thể hiện qua khả năng chuyển đổi mặt hàng nhanh, phù hợp với xu hướng thay đổi nhanh chóng của nhu cầu trên thị trường. Đầu tư ít vốn vẫn có khả năng trang bị công nghệ mới và tương đối hiện đại. Hơn nữa khả năng đổi mới sản phẩm nhanh. Nhờ sự phát triển tiến bọ khoa học và công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin tạo ra khả năng to lớn cho việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào trong hoạt động của các DNVVN. Trong điều kiện trang thiết bi công nghệ hiện đại các DNVVN thường đạt được năng suất và chất lượng cao. Cần ít diện tích sản xuất tập trung, có khả năng sản xuất phân tán. Khả năng này phát huy được lợi thế về giảm đầu tư ban đầu cho cơ sở vật chất, tạn dụng các nguồn lực phân tán, đồng thời cũng tạo ra tính linh hoạt cao trong tổ chức sản xuất. Ngoài những lợi thế trên, các DNVVN cũng có những hạn chế nhất định như: Khả năng cạnh tranh thấp do tiềm lực tài chính nhỏ Vị thế trên thị trường thấp Ít có khả năng huy động vốn để đầu tư đổi mới công nghệ giá trị cao. Khả năng hạn hẹp trong việc đào tạo công nhân, đầu tư cho thiết kế cải tiến công nghệ, đổi mới sản phẩm. Trong nhiều trường hợp thường bị động vì phụ thuộc vào hướng phát triển của các doanh nghiệp lớn và tồn tại như một bộ phận của doanh nghiệp lớn. 1.3 Nhu cầu vốn của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ Năm 1995, khu vực kinh tế tư nhân chỉ mới nhận được vốn từ hệ thống ngân hàng là 18.198 tỉ đồng; đến năm 1999 lưu lượng vốn đạt được 44.873 tỉ đồng, tăng 146% so với năm 1995; trong khi đó, tín dụng cho doanh nghiệp Nhà nước chỉ tăng 73%. Đến năm 1997, 1998, 1999 tỉ trọng vốn tín dụng cho khu vực KTTN trong tổng số vốn tín dụng cho các khu vực kinh tế khoảng 46% và từ năm 2000 - 2003 tỉ trọng này đã tăng lên đáng kể (năm 2000: 55,7%; năm 2001: 57,8%; năm 2002: 61,3%; năm 2003: 64,5%). Tuy nhiên, hiện nay các DNVVN đang gặp phải một cản trở rất lớn đến sự phát triển sản xuất kinh doanh và là hiện tượng phổ biến, đó là tình trạng thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất. Quy mô của doanh nghiệp hầu hết là nhỏ, một số ít có quy mô vừa, số có quy mô lớn rất ít (theo Nghị định của Chính phủ số 90/2001/NĐ- CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 thì DNVVN có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hằng năm không quá 300 người). Thực tế những năm gần đây, số doanh nghiệp có vốn sử dụng dưới 10 tỷ đồng chiếm 94,93%, bình quân vốn thực tế sử dụng một doanh nghiệp là 3,7 tỷ đồng, lao động bình quân là 26 người. Mức trang bị tài sản cố định trên 1 lao động của doanh nghiệp tư nhân chỉ có 34,7 triệu đồng. Chỉ tiêu hiệu quả của DNVVN rất thấp, tỷ suất lợi nhuận/vốn rất thấp quá xa so với lãi suất ngân hàng. Điều này chứng tỏ khả năng tích tụ và huy động vốn của các DNVVN trong toàn xã hội còn thấp. Lượng vốn tự có của các doanh nghiệp chỉ đáp ứng từ 20% đến 30% yêu cầu. Các doanh nghiệp thiếu vốn dẫn đến việc họ không có điều kiện đầu tư khoa học công nghệ hiện đại. Nhiều nhà doanh nghiệp ban đầu có ý định phát triển sản xuất nhưng do thiếu vốn nên đã gặp nhiều khó khăn lúng túng trong việc triển khai và nhiều khi họ phải hủy bỏ hợp đồng đã ký với đối tác. Điều đó giải thích tại sao các DNVVN thường là các doanh nghiệp trên lĩnh vực thương mại dịch vụ, những ngành nghề đòi hỏi vốn ít, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu lãi ngay chứ chưa đủ sức đầu tư vào những ngành nghề, lĩnh vực quan trọng đòi hỏi nhiều vốn, có công nghệ tiên tiến. Còn với các nhà sản xuất, trong ba hình thức tổ chức kinh doanh (doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần) thì loại hình doanh nghiệp tư nhân được họ ưa chuộng, phổ biến hơn cả. Tính chất sản xuất nhỏ vẫn tồn tại trong khu vực này. Mặc dù khu vực các DNVVN vay vốn ngân hàng ngày càng tăng, nhưng nhìn chung việc tiếp cận vốn từ khu vực ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn còn không ít khó khăn. Hầu hết các DNVVN đều phàn nàn muốn vay vốn ngân hàng không phải là chuyện dễ, phải hội tụ đầy đủ các điều kiện “chặt chẽ” cần và đủ. Nhưng khi có được mốt số các điều kiện đó rồi chưa chắc doanh nghiệp đã nhận được vốn ngay còn phải thông qua các thủ tục hành chính, tổn thất về thời gian đi lại với ngân hàng. Ngoài ra, để tiếp cận được với nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ các ngân hàng cũng như từ các tổ chức tín dụng khác, các khoản vay có bảo lãnh các doanh nghiệp cũng gặp không ít khó khăn và nguôn vốn thường khó đến nhanh được với các doanh nghiệp. Nguyên nhân chính của tình trạng này là từ những đòi hỏi bắt buộc phải có tài sản thế chấp nếu như muốn vay vốn. Trong khi đó, phần lớn các DVVN có vốn chủ sở hữu thấp, ít có tài sản thế chấp. Cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh của các ngân hàng thương mại quốc doanh tập trung chủ yếu ở 2 ngân hàng: Ngân hàng Công thương Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và gần đây là Ngân hàng Phục vụ người nghèo (nay là Ngân hàng Chính sách xã hội), bởi các ngân hàng này có chi nhánh xuống tận đơn vị cấp huyện, cấp xã. 1.2 Thẩm định tài chính dự án trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.2.1 Khái niệm thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.2.1.1 Khái niệm và phân loại dự án Dự án là một kế hoạch chi tiết bao gồm các hoạt động sử dụng các nguồn lực để đạt được các mục tiêu trong tương lai. Dự án xuất phát từ ý tưởng nhưng gắn với hành động để tạo nên một hiện thực kinh tế mới. Đối với ngân hàng có thể coi dự án là hồ sơ vay. Dự án được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: Theo tính chất của dự án, gồm có: Dự án sản xuất kinh doanh, dự án phát triển kinh tế xã hội, dự án nhân đạo… Theo ngành mà dự án đầu tư, gồm có: Dự án công nghiệp, nông nghiệp, giáo dục đào tạo… Theo thời gian, gồm có: Dự án ngắn hạn, dự án dài hạn. Theo người khởi xướng: Dự án được phân loại thành dự án cá nhân; dự án tập thể; dự án quốc gia; dự án quốc tế. Theo cấp độ: Dự án được phân loại thành dự án lớn và dự án nhỏ ….. 1.2.1.2 Khái niệm thẩm định tài chính dự án Một dự án được lập ra không thể tránh khỏi việc mang nặng tính chủ quan của chủ đầu tư. Do đó, Ngân hàng cần thẩm định dự án và các yếu tố liên quan tới dự án trước lúc cho vay. Như vậy, thẩm định dự án trong cho vay của ngân hàng là rà soát, kiểm tra lại một cách khoa học, khách quan và toàn diện mọi nôi dung của dự án và liên quan đến dự án nhằm khẳng định tính hiệu quả cũng như tính khả thi, khả năng hoàn trả vốn vay của dự án trước khi quyết định đầu tư.Việc thẩm định dự án thường thẩm định trên các mặt: xã hội, tài chính, kỹ thuật, kinh tế. Thẩm định tài chính dự án là nghiên cứu tính hiệu quả tài chính của dự án, đây là một nội dung quan trọng trong thẩm định dự án. Thẩm định tài chính dự án bao gồm nhiều nội dung liên quan chặt chẽ với nhau, bao gồm: * Vòng đời của dự án (Thời gian tồn tại của một dự án) Để thẩm định thời gian tồn tại của một dự án người ta dựa trên cơ sở: Thứ nhất, tính chất kỹ thuật của dự án: vòng đời của dự án sẽ phụ thuộc vào thời gian sử dụng của tài sản cố định hay phụ thuộc vào công nghệ sản xuất ra tài sản này. Thông thường đời sống kỹ thuật thường lớn hơn thời gian sử dụng tài sản. Thứ hai, vòng đời của sản phẩm do dự án sản xuất ra hay còn gọi là chu kỳ sống của sản phẩm, từ khi tung sản phẩm vào thị trường đến khi suy thoái. Đối với Ngân hàng thì thời hạn tín dụng thường bé hơn vòng đời của dự án. * Tổng vốn đầu tư, cơ cấu sử dụng vốn và nguồn vốn: Đây là một nội dung quan trọng của thẩm dịnh tài chính dự án, Ngân hàng cần xem xét tổng vốn đầu tư và phân tích cơ cấu nguồn vốn, tiến độ bỏ vốn để có quyết định cho vay và lịch trình cho vay hợp lý. Tổng vốn đầu tư cho một dự án là tổng số tiền cần để trang trải toàn bộ chi phí của dự án từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến khi kết thúc dự án. Tổng vốn đầu tư gồm các khoản mục sau: Vốn cố định, bao gồm: +) Chi phí chuẩn bị (chi phí trước khi vận hành): là các chi phí không trực tiếp tạo ra các tài sản cố định mà liên quan gián tiếp đến việc tạo ra và vận hành khai thác các sản đó để đạt mục tiêu đầu tư như: Chi phí điều tra, khảo sát để lập, trình duyệt dự án Chi phí tư vấn, thiết kế dự án Chi phí đào tạo, huấn luyện, chuyển giao công nghệ +) Chi phí xây lắp và mua sắm thiết bị Chi phí ban đầu về mặt đất, mặt nước Chi phí chuẩn bi mặt bằng xây dựng Giá trị nhà xưởng hoặc kết cấu hạ tầng sẵn có Chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng Giá trị máy móc thiết bị, phương tiện vận tải sẵn có Chi phí mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải mới (gồm cả chi phí vận chuyển, lắp đặt, chạy thử) Chi phí khác Vốn lưu động ban đầu (vốn lưu động ròng): là giá trị các tài sản lưu động ban đầu cần thiết để đảm bảo cho dự án có thể đi vào hoạt động bình thường theo các điều kiện kinh tế - kỹ thuật của dự án, bao gồm: Dự trữ tiền mặt Các khoản phải thu và trả trước Dự trữ hàng hóa, nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm tồn kho Vốn dự phòng: Do dự án hoạt động trong nhiều năm và những con số đưa ra chỉ là dự tính nên cần có một lượng vốn nhất định bù đắp trong trường hợp phát sinh thêm chi phí. Khi đó vốn dự phòng sẽ được dùng để đáp ứng nhanh chóng nhu cầu cần chi, đảm bảo tiến độ thực hiện dự án. Bên cạnh việc phân tích cơ cấu vốn đầu tư theo các khoản mục chi phí, cần xem xét vốn đầu tư dưới hình thái tiền và hiện vật, đặc biệt với các loại tài sản có sẵn để xác định chính xác giá trị sử dụng tốt nhất của chúng đối với dự án. Khái niệm chi phí cơ hội có thể được vận dụng để đánh giá tài sản trong trường hợp này. Một khía cạnh nữa cần phải quan tâm là khả năng đảm bảo nguồn vốn về số lượng và tiến độ từ các nguồn khác nhau. Để có đủ vốn đầu tư cho dự án, ngoài phần vốn tự có (tự tích lũy), chủ đầu tư có thể nhận được vốn ngân sách cấp phát hoặc cho vay, vốn vay của ngân hàng, huy động vốn liên doanh hoặc gọi thêm vốn cổ phần từ các nhà đầu tư khác. Bên cạnh đó, cần có kế hoạch huy động vốn cụ thể, trong đó chỉ rõ tiến độ và số lượng cần thiết để đáp ứng nhu cầu trong từng giai đoạn thực hiện dự án vì dù thừa hay thiếu đều làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. * Doanh thu và chi phí của dự án và xác định dòng tiền của dự án +) Doanh thu: Doanh thu được tính hàng năm và bao gồm các khỏan phát sinh từ khi việc vận hành TSCĐ được đầu tư bởi dự án: Doanh thu từ sản phẩm chính Doanh thu từ sản phẩm phụ Dịch vụ cung cấp cho bên ngoài Để đảm bảo tính hợp lý và chính xác của doanh thu, cần kiểm tra lại hai yếu tố: giá bán và sản lượng sản xuất hàng năm. Ngân hàng phải nghiên cứu thị trường, đối thủ cạnh tranh, thị phần mà doanh nghiệp có khả năng chiếm giữ để dự tính được số lượng hàng hóa có khả năng tiêu thụ và dự kiến doanh thu. DT = P x Q Trong đó: P : đơn giá được xác định thông qua chi phí sản xuất và tiêu thụ, lợi nhuận trên một sản phẩm và thuế gián thu. Q : sản lượng được xác định thông qua công suất của TSCĐ (máy móc thiết bị) và hiệu suất sử dụng máy. Q = Hiệu suất sử dụng x Công suất thiết kế Công suất của máy được lựa chọn dựa vào nhu cầu của thị trường, khả năng tài chính, nguyên vật liệu… Ngoài ra, vào năm cuối cùng của dự án còn có thể có khoản thu hồi từ thanh lý tài sản (TSCĐ và TSLĐ). Khi kiểm tra việc tính giá thành sản phẩm cán bộ thẩm định cần so sánh với giá của sản phẩm cùng loại của các cơ sở sản xuất trong và ngoài nước để đánh giá. Nguyên tắc chung là giá thành sản phẩm của dự án cần thấp hơn hoặc ngang bằng với giá thành sản phẩm cùng loại. Hơn nữa doanh thu và chi phí là các yếu tố chịu ảnh hưởng của sự biến động trên thị trường, môi trường pháp lý… nên đòi hỏi cán bộ thẩm dịnh phải tính đến độ biến động của các nhân tố này khi thẩm định doanh thu chi phí +) Chi phí: Chi phí của dự án có thể được phân thành chi phí cố định và chi phí biến đổi, chi phí xuất quỹ (chi bằng tiền) và không xuất quỹ. Việc lựa chọn công suất thiết kế không chỉ tác động đến doanh thu mà còn ảnh hưởng đến chi phí hoạt động hàng năm của dự án. Căn cứ vào kế hoạch sản xuất, kế hoạch khấu hao, kế hoạch trả nợ, chi phí hoạt động bao gồm các khoản mục sau: Nguyên vật liệu chính Vật liệu bao bì Nửa thành phần và dịch vụ mua ngoài Nhiên liệu Năng lượng Nước Tiền lương Bảo hiểm xã hội Chi phí bảo dưỡng máy móc thiêt bị, nhà xưởng Khấu hao, bao gồm: Khấu hao chi phí chuẩn bị Khấu hao máy móc thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận tải Khấu hao nhà xưởng và cấu trúc hạ tầng Khấu hao chi phí ban đầu về quyền sử dụng đất (trường hợp công ty liên doanh) Chi phí quản lý phân xưởng Chi phí quản lý doanh nghiệp Chi phí bảo hiểm tài sản Chí phí tiêu thụ sản phẩm Lãi vay Chi phí khác Trong khi thẩm định về chi phí cần lưu ý một số điểm: Các chi phí biến đổi như nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng… được tính theo sản lượng sản xuất và định mức tiêu hao. Do đó cần kiểm tra lại định mức tiêu hao qua tình hình thực tế của các dự án cùng loại hoặc tiêu chuẩn của ngành. Các chi phí quản lý được tính trên % doanh thu. Tuy nhiên một số chi phí có thể được tính theo sản lượng như chi phí tiêu thụ… Khấu hao tài sản à một yếu tố của chi phí, nhưng không phải là khoản chi phí xuất quỹ. Việc khấu hao được tiến hành theo quy định của Bộ tài chính cho các doanh nghiệp. Phương pháp khấu hao phổ biến được sử dụng hiện nay là phương pháp khấu hao đều hay khấu hao tuyến tính. Mkh = NG x P% = NG/n Trong đó: Mkh là mức khấu hao hàng năm NG là nguyên giá hay giá trị ban đầu của TSCĐ n là thời ký khấu hao Đối với các tài sản cần nhanh chóng thu hồi do hao mòn nhanh, có thể áp dụng phương pháp khấu hao giảm dần theo giá trị còn lại của tài sản. Mkh(t) = P x GTCL(t-1) Trong đó: Mkh(t) là mức khấu hao năm t GTCL(t-1) là giá trị còn lại năm thứ t-1 P là tỷ lệ khấu hao Chi phí lãi vay được tính dựa trên kế hoạch vay và trả nợ đối với các nguồn vốn huy động từ bên ngoài. +) Dòng tiền Dòng tiền của một dự án là các khoản thu chi và thu được kỳ vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án. Dòng tiền ròng của dự ._.án tại các mốc thời gian khác nhau là toàn bộ khoản tiền thu được trừ đi khoản tiền chi ra. Do dòng tiền có giá trị thời gian nên cần phải xác định thời điểm xuất hiện dòng tiền. Để so sánh các dòng tiền xuất hiện tại các thời điểm khác nhau mà phải quy chúng về một mốc để so sánh. Dòng tiền hàng ngày là chính xác nhất, nhưng ước tính chúng rất tốn kém chi phí, ít khi được sử dụng và có thể không chính xác vì người ta không đủ khả năng dự báo chính xác. Do vậy, dòng tiền được giả định là xuất hiện cuối hàng năm. Nguyên tắc xác định dòng tiền: Dòng tiền phù hợp: là sự thay đổi trong tổng dòng tiền trong tương lai của doanh nghiệp mà là hệ quả trực tiếp của của việc thực hiện dự án. Chi phí chìm: Chi phí chìm là một khoản đầu tư đã được thực hiện (hoặc cam kết) trước đó mà không thể bù đắp dù cho dự án có được chấp nhận hay không. Chi phí chìm không phải là chi phí tăng thêm nên không được đưa vào phân tích. Ví dụ như chi phí nghiên cứu và phát triển về một sản phẩm mới trước khi ra quyết định sản xuất sản phẩm đó. Khi bỏ ra chi phí đó công ty chưa chắc chắn là có thể cho ra sản phẩm hay không. Nếu như kết quả nghiên cứu cho thấy sản phẩm không phù hợp và công ty quyết định không sản xuất sản phẩm thì dự án đã kết thúc ngay khi nó bắt đầu. Như vậy chi phí nghiên cứu và phát triển thị trường đó công ty đều phải chi ra bất luận dự án có được chấp nhận hay không. Chi phí cơ hội: là cơ hội bị mất đi hoặc một chuỗi thu nhập bị mất đi nếu sử dụng những tài sản sẵn có vào dự án đang xem xét. Ví dụ như doanh nghiệp sử hữu một khu đất trị giá 10 tỷ đồng nếu bán đi. Nhưng nếu như sử dụng mảnh đất đó vào dự án thì coi như doanh nghiệp bỏ qua 10 tỷ đồng đó. Có nhiếu quan điểm về việc có nên đưa chi phí cơ hội vào chi phí đầu tư hay không. Nói chung, chi phí cơ hội này phải được đưa vào trong chi phí đầu tư. Tác động đến dự án khác: Trong một số trường hợp việc thực hiện dự án có thể gây ra những tác động phụ đối với dòng tiền của doanh nghiệp. Ví dụ: việc doanh nghiệp chấp nhận một dự án sản xuất sản phẩm mới có thể làm cho dòng tiền từ doanh thu hiện tại giảm do khách hàng chuyển sang dùng sản phẩm mới thay vì sản phẩm cũ. Trong trường hợp này, xác định dòng tiền mới của dự án phải tính đến sự sụt giảm của dòng tiền bán sản phẩm hiện tại này. Tác động của thuế: Khi đánh giá dự án, điều quan trọng là dòng tiền phải phát sinh từ dự án và được dành cho chủ đầu tư. Nói cách khác, dự án phải đánh giá trên cơ sở dòng tiến sau thuế. Thuế có tác động rát lớn đến dòng tiền, do vậy cần đánh giá đúng tác động của thuế. Thông thường một chế độ thuế có thể tác động đến dự án theo ba mặt sau: Giảm thuế đối với vốn đầu tư vào tài sản cố định thông qua chi phí khấu hao Tăng hoặc giảm thuế đối với một khoản lợi nhuận hoặc lỗ được tạo ra bởi dự án Giảm chi phí lãi tiền vay do lãi vay được đưa vào chi phí trước thuế, từ đó ảnh hưởng đến cách thức tìm nguồn vốn đầu tư cho dự án. Khấu hao: Khoản tiền đầu tư vào tài sản cố định của dự án thường được phân bổ trong các năm hoạt động của dự án, gọi là chi phí khấu hao, và sau đó tài sản có thể được thanh lý. Do khấu hao được đưa vào chi phí của doanh nghiệp nên làm giảm lợi nhuận. Tuy nhiên, khấu hao không phải là khoản chi tiền, nên mức khấu hao cao không làm giảm dòng tiền, mà ngược lại còn làm tăng vì số thuế phải nộp xuống. Trong hoặc cuối đời hoạt động, tài sản cố định có thể được thanh lý. Khi đó, dự án có thể có thêm một khoản thu nhập (hoặc lỗ) ròng bằng giá bán trừ đi chi phí thanh lý. Khoản thu nhập (hoặc lỗ) này có thể làm tăng (hoặc giảm) thuế phải nộp tương ứng với mức thuế suất của doanh nghiệp. Thay đổi vốn lưu động ròng: Thông thường, một dự án mới sẽ đòi hỏi phải có thêm hàng dự trữ, và doanh thu từ dự án cũng tạo nên khoản phải thu mới. Vì cả hàng dự trữ và khoản phải thu đều là kết quả của việc đầu tư nên cần phải đưa lượng vốn lưu động ròng vào trong vốn đầu tư, tương tự như tài sản cố định. Tuy nhiên, ki sản xuất mở rộng thì những khoản phải trả cũng tăng lên, làm giảm nhu cầu tài trợ cho dự án. Phân chênh lệch giữa lượng tăng thêm về tài sản lưu động và nợ ngắn hạn thường là dương nên đòi hỏi phải có thêm tiền đầu tư vào phần này, ngoài tiền đầu tư vào tài sản cố định. Phần chênh lệch này gọi là vốn lưu động ròng. VLĐ ròng = rTSLĐ - rNợ ngắn hạn Khi kết thúc dự án, lượng tài sản lưu động dự trữ này cũng được thanh lý để thu tiền về. Do tính chất của tài sản lưu động là tương đối dễ bán, nên để thuận tiện trong quá trình phân tích, giá trị thu hồi thường được giả thiết là bằng đúng số tiền đã chi ra. * Xác định hiệu quả tài chính dự án Mục tiêu của thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng là giúp ngân hàng đưa ra quyết định có nên cho vay hay không. Để đưa ra quyết định thì người thẩm định phải dựa trên một số chỉ tiêu. Các chỉ tiêu thẩm định thường dùng là giá trị hiện tại ròng (NPV), tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR), tỷ lệ hoàn vốn nội bộ có điều chỉnh (MIRR), chỉ số doanh lợi (PI), thời gian hoàn vốn (PP). * Đánh giá rủi ro trong dự án: Rủi ro của dự án có thể xem là khả năng lợi tức của dự án tạo ra trên thực tế khác với lợi tức dự kiến. Kết quả của một dự án sẽ phụ thuộc vào những sự kiện bất định trong tương lai. Những yếu tố cơ bản trong thu nhập và chi phí của dự án, như giá và chất lượng đầu vào, đầu ra ít khi là các con số chắc chắn. Vì vậy khi đánh giá phân tích dự án, cán bộ thẩm định phải xem xét nhiều khả năng dự án có thể gặp phải, phân tích rủi ro để nhìn thấu đáo hơn về khả năng thu lợi nhuận của dự án, đảm bảo khả năng dự án có khả năng trả nợ. Để đánh giá rủi ro của dự án người ta sử dụng phưong các phương pháp: +) Phương pháp phân tích độ nhạy: Đây là phương pháp dùng để chỉ ra sự thay đổi với các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của dự án (NPV, IRR) khi cho một biến số thay đổi với một lượng nhất định còn các biến số khác thì giữ nguyên. Trong phương pháp này người ta chọn những biến có khả năng thay đổi và sẽ có tác động đến dòng tiền như số lượng bán, chi phí biến đổi … còn các yếu tố khác giữ nguyên để xem xét tác động của nó đối với NPV hoặc IRR. +) Phương pháp phân tích tình huống: Mặc dù phương pháp phân tích độ nhạy được sử dụng nhiều nhưng vẫn còn một số hạn chế sau: Thứ nhất, với một yếu tố nhất định như giá bán biến đổi, còn các yếu tố khác giữ nguyên thì ta có thể thấy độ dốc của NPV và IRR trên đồ thị là lớn nhưng trên thực tế lại có thể không đúng như vậy vì thông thường người ta sẽ cố định các yếu tố đó bằng các hợp đồng cung cấp. Thứ hai, các biến thay đổi trong một phạm vi có thể nhưng không được tính toán trên sự phân bố xác suất nên khó lượng hóa được cơ bản các chỉ tiêu hiệu quả tài chính trong trường hợp tốt nhất và xấu nhất để sau đó so với cơ sở. Trong hương pháp phân tích tình huống người ta chia làm 3 tình huống như sau: Tình huống tốt nhất với xác suất xảy ra là P1 và tính được NPV1 (IRR1) Tình huống trung bình với xác suất xảy ra là P2 và tính được NPV2 (IRR2) Tình huống xấu nhất với xác suất xảy ra là P3 và tính được NPV3 (IRR3) Lúc đó: NPV(kỳ vọng toán) = NPV1 x P1 + NPV2 x P2 + NPV3 x P3 Độ lệch chuẩn: dNPV = Hệ số biến thiên: CVNPV = Sau đó so sánh hệ số này với hệ số biên thiên của dự án trung bình của doanh nghiệp để xác định mức độ rủi ro tương đối của dự án đang xem xét và hệ số biến thiên càng lớn thì rủi ro của dự án càng lớn. 1.2.2 Các chỉ tiêu sử dụng để thẩm định tài chính trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.2.2.1 Giá trị hiện tại ròng (NPV) * Khái niệm, công thức tính NPV (Net present value) là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu tư bỏ ra được hiện tạ hóa ở mốc 0. Đây là một chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất trong thẩm định tài chính dự án. Công thức tính NPV được xác định như sau: NPV = - CF0 Trong đó: CF0 : là vốn đầu tư bỏ ra ban đầu, giả định vốn bỏ ra một lần vào năm thứ nhất của dự án CFt : là dòng tiền xuất hiện tại năm thứ t của dự án, t chạy từ 1 đến n n : là số năm thực hiện dự án k : là tỷ lệ chiết khấu, giả định là không đổi qua các năm * Ý nghĩa NPV chỉ ra số lợi nhuận tuyệt đối của dự án mang lại. Chỉ số này đã tính đến giá trị thời gian của tiền thông qua tỷ lệ chiết khấu. Tuy nhiên chỉ tiêu này không tính đến sự khác biệt về thời gian hoạt động của dự án. Hơn nữa tỷ lệ chiết khấu để tính NPV được giả định là không thay đổi trong thời gian thực hiện dự án nên có thể NPV phản ánh chưa chính xác giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư. Giá trị của NPV phụ thuộc vào việc xác định dòng tiền, cách lựa chọn tỷ lệ chiết khấu, mà đây không phải là vấn đề dễ dàng. Chỉ tiêu này tính theo số tuyệt đối, chưa nói lên hiệu quả sử dụng đồng vốn. Khi có hai dự án khác nhau về thời hạn và số vốn đầu tư khác nhau, việc dùng chỉ tiêu này khó so sánh để lựa chọn. * Tiêu chuẩn lựa chọn dự án Dựa vào chỉ tiêu này một dự án chỉ được đầu tư nếu khoản tiền thu nhận được từ đầu tư phải ít nhất là bằng, nếu không nói là lớn hơn khoản tiền đã bỏ vào. Trường hợp chỉ có một dự án thì lựa chọn dự án có NPV dương, tức là đầu tư vào dự án tạo ra giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư. Trường hợp có nhiều dự án nhưng phải lựa chọn 1, thì chọn dự án có NPV dương và lớn nhất. 1.2.2.2 Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR * Khái niệm, cách xác định Tỷ suất hoàn vốn nội bộ là trường hợp đặc biệt của tỷ lệ chiết khấu ở đó NPV bằng không hay nói cách kháctổng dòng thu bằng tổng dòng chi khi quy về hiện tại. Có thể tính IRR theo công thức sau: IRR = k1 + Trong đó: k1 là tỷ lệ chiết khấu cho NPV1 > 0 k2 là tỷ lệ chiết khấu cho NPV2 < 0 k2 > k1 * Ý nghĩa Chỉ tiêu IRR phản ánh tỷ suất hoàn vốn của dự án dựa trên giả định các dòng tiền thu được hàng năm được tái đầu tư với lãi suất bằng lãi suất chiết khấu. Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ sinh lời trên một đồng vốn và có tính đến giá trị thời gian của tiền nên có thể giúp chủ đầu tư chọn ra những dự án có tỷ lệ sinh lời cao. IRR thể hiện tỷ suất sinh lời bình quân hàng năm của dự án nên có thể dùng để so sánh được các dự án có thời gian khác nhau. Nhược điểm của chỉ tiêu này là ở chỗ IRR chỉ cho biết lợi nhuận tương đối nên có thể đưa ra việc lựa chọn những dự án có khả năng sinh lời cao nhưng lợi nhuận tạo ra thấp. Việc tính toán chỉ tiêu tương đối phức tạp và chưa đề cập đến quy mô và độ lớn của dự án. Trong trường hợp có sự biến dạng của dòng tiền thay đổi nhiều lần từ âm sang dương và ngược lại thì IRR sẽ có nhiều giá trị và không xác định được một tỷ suất hoàn vốn nội. Lúc này phải dùng chỉ tiêu NPV. Tuy nhiên, IRR được tính toán trên cơ sở giả định rằng các dòng tiền sẽ được tái đầu tư với lãi suất chiết khấu không thay đổi qua các năm. Giả định này là không hợp lý vì lãi suất chiết khấu có thay đổi. Vì vậy chỉ tiêu MIRR (tỷ suất hoàn vốn nội bộ có điều chỉnh) được dùng để khắc phục nhược điểm trên. * Tiêu chuẩn lựa chọn dự án Đối với các dự án độc lập thì chọn các dự án có IRR ³ tỷ lệ chiết khấu. Với các dự án loại trừ thì chọn dự án có IRR ³ tỷ suất chiết khấu và IRR max. Trong trường hợp IRR đa trị hoặc đánh giá dự án bằng chỉ tiêu NPV và IRR cho kết luận khác nhau thì chỉ tiêu NPV là sự lựa chọn tốt hơn để đánh giá. 1.2.2.3 Chỉ số doanh lợi (PI) * Khái niệm, cách xác định Chỉ số doanh lợi là chỉ số phản ánh khả năng sinh lợi của một dự án, được tính như sau: PI = Trong đó: CF0 : là vốn đầu tư bỏ ra ban đầu, giả định vốn bỏ ra một lần vào năm thứ nhất của dự án CFt : là dòng tiền xuất hiện tại năm thứ t của dự án, t chạy từ 1 đến n n : là số năm thực hiện dự án k : là tỷ lệ chiết khấu, giả định là không đổi qua các năm * Ý nghĩa Chỉ tiêu này đo lường tỷ lệ sinh lời của dự án thông qua việc tìm giá trị hiện tại của các khoản thu nhâp trong các năm hoạt động trước khi tính tỷ lệ sinh lời. Vì PI đo khả năng sinh lời của một đồng vốn nên chỉ tiêu này cũng cho biết thông tin về độ toàn của dự án, giúp chủ đầu tư chọn được những dự án có mức sinh lời cao, có thể dùng để so sánh dự án có thời hạn khác nhau. Tuy nhiên, đây là số tương đối nên chi tiêu này không phản ánh được giá trị gia tăng cho chủ đầu tư như NPV. * Tiêu chuẩn lựa chọn dự án PI càng cao thì dự án càng dễ chấp nhận nhưng tối thiếu phải bằng tỷ lệ chiết khấu. Trong trường hợp chỉ tiêu PI và NPV cho kết luận mâu thuẫn nhau về lựa chọn thì thường người ta sẽ chọn theo chỉ tiêu NPV, vì NPV phản ánh giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư. 1.2.2.4 Thời gian hoàn vốn (PP) * Khái niệm, cách xác định Thời gian hoàn vốn là thời gian cần thiết để khoản thu nhập tăng thêm từ dự án hoàn trả lượng vốn đầu tư ban đầu. PP được xác định như sau: PP = Số năm ngay trước năm thu hồi đủ vốn đầu tư + * Ý nghĩa Chỉ tiêu PP phản ánh thời gian thu hồi vốn đầu tư vào dự án, cho biết khả năng tạo thu nhập của dự án từ khi thực hiện đến khi thu hồi đủ vốn. Đây là chỉ tiêu dễ tính, đơn giản, dễ hiểu, không phải dự tính dòng tiền trong suốt thời gian thực hiện của dự án. Tuy nhiên chỉ tiêu này đã không tính đến khả năng tạo thu nhập sau khi đã thu hồi vốn đầu tư, chưa tính đến giá trị thời gian của tiền. Hơn nữa thời điểm để xác định thời gian hoàn vốn là rất mơ hồ. * Tiêu chuẩn lựa chọn dự án Theo chỉ tiêu này, dự án được chấp nhận khi thời gian hoàn vốn nằm trong khoảng thời gian hoàn vốn tiêu chuẩn. Tuy nhiên, việc xác định một thời gian hoàn vốn tiêu chuẩn là rất khó vì mỗi dự án có thời gian hoàn vốn khác nhau, mức độ rủi ro khác nhau. Do đó, chỉ tiêu này thường được sử dụng như một chỉ tiêu bổ sung trong thẩm định tài chính dự án. 1.2.3 Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác thẩm định tài chính trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ Nghiệp vụ cho vay mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, cho vay để thu lợi nhuận là cơ sở để ngân hàng tiến hành hoạt động huy động vốn. Tuy nhiên, tất cả các ngân hàng đều sợ một rủi ro là khách hàng không có khả năng hoàn trả vốn vay do làm ăn thua lỗ. Biểu hiện của tình trạng này là nợ quá hạn ngày càng nhiểu. Để phòng ngừa rủi ro này các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng khi vay vốn phải có tài sản đảm bảo. Nhưng biện pháp này chỉ là biện pháp “chữa cháy” có tính đối phó, không phải là biện pháp lâu dài. Trong khi đó các DNVVN với vốn chủ sở hữu thấp, ít có tài sản thế chấp cầm cố. Nếu tài sản đảm bảo thì việc xác định tài sản thế chấp và thủ tục còn rờm rà, gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Như vậy, ngân hàng có thể bỏ qua nhiều dự án của doanh nghiệp mà có hiệu quả kinh tế cao. Hơn nữa, trong các ngân hàng thương mại nhà nước hiện nay ngoại trừ Ngân hàng đầu tư phát triển, còn lại lâu nay hoạt động chủ yếu là kinh doanh tín dụng ngắn hạn. Những năm gần đây, do dự thúc bách của yếu tố hội nhập, cạnh tranh nên mới bắt đầu quan tâm đến tín dụng trung và dài hạn. Thế nhưng kết quả của lĩnh vực này nhìn chung là rất khiêm tốn. Do vậy, công tác thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng còn nhiều hạn chế, chưa phổ biến áp dụng, còn đơn giản, sơ sài về nội dung và phương pháp. Không ít doanh nghiệp bức xúc về trình độ nghiệp vụ Ngân hàng trong thẩm định các dự án của doanh nghiệp vẫn còn thấp, thiếu tính khách quan, có những dự án rất khả thi lại cho là kém khả thi, dự án mạo hiểm lại ngại…thủ tục để vay vốn vẫn còn nhiều rờm rà, mất nhiều chi phí về thời gian dẫn đến chậm cơ hội đầu tư vốn của doanh nghiệp. Chính vì những lý do trên việc hoàn thiện công tác thẩm định dự án nói chung và công tác thẩm định tài chính dự án nói riêng là rất cần thiết. Việc hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án sẽ giúp ngân hàng lựa chọn chính xác các dự án để cho vay, đẩy mạnh họat động tài trợ dự án một cách có hiệu quả, giảm thiểu các rủi ro. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, sự phát triển của DNVVN mà còn góp phần tiết kiệm vốn cho toàn xã hội, thúc đẩy mở rộng, phát triển, hiệu quả cho nền kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động thẩm định là vấn đề không chỉ giới hạn trong phạm vi một ngân hàng mà nó gắn liền với các yếu tố khách quan khác. 1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thẩm định tài chính trong cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.2.4.1 Nhân tố chủ quan * Đội ngũ cán bộ Việc thẩm định dự án là do con người làm dựa theo các phương pháp, kỹ thuật, kinh nghiệm của họ. Do vậy kết quả thẩm định thường mang tính chủ quan và con người là nhân tố quyết định nhiều nhất đến chất lượng thẩm định. Đội ngũ cán bộ ở đây bao gồm người quản lý và cán bộ trực tiếp thực hiện việc thẩm định tài chính dự án. Nhận thức của nhà quản lý về thẩm định tài chính dự án, trình độ chuyên môn của cán bộ thẩm định ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng thẩm định. Mặt khác, do tính chất phức tạp và phạm vi liên quan của dự án, cán bộ thẩm định nói chung không những phải vững chuyên môn mà còn phải, phải hiểu biết rộng và có đạo đức nghề nghiệp. * Thông tin Việc thẩm định tài chính dự án được tiến hành trên cơ sở phân tích các thông tin trực tiếp và các thông tin gián tiếp khác tìm hiểu được có liêu quan đến dự án. Nếu những thông tin này không đảm bảo tính tin cậy, chính xác, đầy đủ thì kết quả việc thẩm định sẽ bị hạn chế và có thể dẫn đến quyết định đầu tư sai. * Trang thiết bị công nghệ Trang thiết bị công nghệ là để bổ trợ cho việc thẩm định tài chính dự án, ví dụ như việc thu thập thông tin, xử lý thông tin, tính toán các chỉ số… Do đó, nó ảnh hưởng đến thời gian thẩm định, độ chính xác của kết quả thẩm định. * Tổ chức công tác thẩm định Thẩm định tài chính dự án được tiến hành theo một quy trình gồm nhiều giai đoạn nên việc tổ chức công tác thẩm định cũng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định. Nếu công tác thẩm định tài chính dự án được tổ chức một cách khoa học, hợp lý, phối hợp chăt chẽ, phân công phân nhiêm rõ ràng thì kết quản thẩm định sẽ tốt. 1.2.4.2 Nhân tố khách quan * Môi trường vĩ mô Môi trường vĩ mô ở đây bao gồm môi trường kinh tế, chính trị, pháp luật… Môi trường kinh tế ổn định và lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định, lúc đó dự án sẽ không có những biến động bất thường và việc dự báo dễ chính xác và kết quả thẩm định tài chính dự án cao hơn. Môi trường pháp luật bao gồm những chính sách, chế độ của Nhà nước về hoạt động cho vay của Ngân hàng; về thẩm định dự án nói chung và thẩm tài chính dự án nói riêng; những quy định và chính sách đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiến lược phát triển kinh tế…Các chính sách, chế độ quản lý của Nhà nước đầy đủ, rõ ràng là căn cứ pháp lý cho công tác thẩm định, là thước đo để so sánh đối chiếu, đánh giá. * Khách hàng Công tác thẩm định phụ thuộc rất vào hồ sơ về dự án mà khách hàng trình lên. Tính đầy đủ, hợp lệ, trung thực, chính xác của thông tin tài chính doanh nghiệp và thông tin về dự án là rất cần thiết để đảm bảo kết quả việc thẩm định dự án. Ngân hàng sau khi nhận được hồ sơ phải kiểm định lại tất cả các thông tin và dựa vào đó để tiến hành phân tích, tính toán. Tuy nhiên đây là một việc làm không dễ, phụ thuộc phần lớn vào thiện ý của khách hàng. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐỐNG ĐA 2.1 Tổng quan về Ngân hàng Công thương Đống Đa 2.1.1 Quá trình hình thành phát triển Chi nhánh NHCT Đống Đa là đơn vị thành viên phụ thuộc NHCT VN, là chi nhánh hoạt động lớn trong hệ thống NHCT và trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tên giao dịch : Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa Địa chỉ : 187 Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội Tiền thân là phòng doanh nghiệp ô chợ dừa của chi nhánh nghiệp vụ ngân hàng nhà nước thành phố Hà Nội, do ông Phan Văn Quảng làm trưởng phòng, trụ sở đóng tại 289 Phố Hàng Bột (nay là phố Tôn Đức Thắng). Trước năm 1987, NHCT Đống Đa có tên gọi là Ngân hàng Nhà nước quận Đống Đa trực thuộc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hà Nội. Năm 1987, thực hiện NĐ 53/HĐBT này là Thủ tướng Chính phủ, chuyển Ngân hàng Nhà nước quận Đống Đa thành NHCT Đống Đa trực thuộc Chi nhánh NHCT thành phố Hà Nội. Đến năm 1990, theo quyết định 402/CT ngày 14/11/1990 của Thủ tướng Chính phủ giải thể chi nhánh NHCT thành phố Hà Nội, chuyển 6 chi nhánh NHCT quận, khu vực thuộc chi nhánh NHCT thành phố Hà Nội thành các chi nhánh NHCT khu vực trực thuộc NHCT VN trong đó có chi nhánh NHCT Đống Đa. Kể từ ngày 1/4/1993 NHCT Đống Đa chính thức được quyền hạch toán độc lập và trở thành chi nhánh cấp một của NHCT VN. Số cán bộ nhân việc của Chi nhánh hiện nay là 350 người; trong đó cán bộ nam có 110 chiếm 31,4%, cán bộ nữ có 240 người chiếm 68,6%. Về trình độ chuyên môn: Thạc sỹ kinh tế : 10 người Cao học : 10 người Đại học : 230 người Trung cấp, sơ cấp : 100 người Từ đó đến nay, Ngân hàng đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những chi nhánh hiện đại, có hiệu quả trong hệ thống NHCT VN. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức Giám đốc Phòng PGĐ Phòng PGĐ Phòng PGĐ Phòng TC-HC Phòng KH I Phòng KT nội bộ Phg TT - ĐT Phg Kế toán Phg KH2 Phg kho quỹ Phg TT- TM Phg TH - Tiếp thị Phg GD Cát Linh Phg GD Kim Liên Phg KH cá nhân Tổ DNQN Tổ DN ngoài QD Cho va cá nhânvay c¸ nh©n Huy động vốn Phòng PGĐ 2.1.3 Tình hình hoạt động trong những năm gần đây Trong những năm qua mặc dù có những khó khăn trong cạnh tranh về lãi suất giữa các Ngân hàng trên địa bàn, sự mở rộng mạng lưới ồ ạt của các Ngân hàng thương mại, song bằng nỗ lực của mình, hoạt động kinh doanh dịch vụ tiền tệ của Chi nhánh vẫn ổn định, an toàn và phát triển. Về tình hình huy động vốn Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại – đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Với chủ trương tăng cường nguồn vốn tạo tiền đề cho mọi thăng lợi trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, Chi nhánh NHCT Đống Đa đã tổ chức mạng lưới các quỹ tiết kiệm rộng khắp, làm tốt chính sách phục vụ khách hàng, nguồn vốn của Chi nhánh đã tăng trưởng liên tục. Bảng 1: Nguồn vốn của NHCT ĐĐ Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 Stiền % Stiền % Stiền % Stiền % 1. Tiền gửi dân cư 1520 66 1700 65 1743 55,5 1950 57,9 +) Tiền gửi tiết kiệm 1360 59 1700 65 1543 49,1 1700 50,4 - Không kỳ hạn 20 1 25 1 12 0,4 10 0,3 - Có kỳ hạn 1340 58 1675 64 1531 48,7 1690 50,1 Dưới 6 tháng 734 32 871 34 842 26,8 790 23,4 Dưới 12 tháng 606 26 804 1 689 21,9 900 26,7 +) Kỳ phiếu 160 7 0 0 200 6,4 250 7,4 2. T.Gửi của các TCKT 800 34 900 35 1400 44,5 1420 42,1 - Không kỳ hạn 570 25 600 23 800 25,5 980 29,1 - Có kỳ hạn (12tháng) 230 10 300 12 600 19,1 440 13,1 Tổng 2320 100 2600 100 3143 100 3370 100 - VND 1750 75 2100 81 2633 93,8 2840 84,3 - Ngoại tệ quy đổi 570 25 500 19 510 16,2 530 15,7 (Nguồn: Báo cáo tổng kết của các năm của phòng tổng hợp tiếp thị) Tổng nguồn vốn huy động được năm 2002 là 2320 tỷ đồng, đến năm 2005 đã lên tới 3370 tỷ đồng. Năm 2004 Chi nhánh đã huy động được 3443 tỷ đồng, tăng 543 tỷ so với năm 2003 (tức tăng 20,9%), chỉ bằng 99,43% so với kế hoạch. Tuy nhiên, đến năm 2005, tổng nguồn vốn huy động được là 3370 tỷ đồng, bằng 104% so với kế hoạch, tăng hơn so với năm trước là 227 tỷ đồng. Đó là do Chi nhánh đã làm tốt các chính sách phục vụ khác hàng, cải tiến phong cách phục vụ thuận lợi, nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu gửi tiền của dân cư và các tổ chức kinh tế. Chi nhánh đã triển khai đa dạng hóa các hình thức huy động như: Huy động tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm lãi suất bậc thang… Chủ động tìm kiếm nguồn vốn và phối hợp với Ban quản lý các dự án để thu hút nguồn tiền đền bù, giải phóng mặt bằng như: Nút giao thông Kim Liên – Ô chợ Dừa, Ngã Tư Sở. Ngoài ra, Chi nhánh còn tích cực thu hút khách hàng mở tài khoản tiền gửi và thu hút nguồn tiền gửi của các tổ chức. Chi nhánh vẫn duy trì tổ chức thu tiền tại các đơn vị như: Thu tiền tại trên 50 điểm bán lẻ của Xí nghiệp bán lẻ xằng dầu, thu tại Chi nhánh điện lực Đống Đa, đã tổ chức tận thu cả những ngày nghỉ thứ 7 và Chủ Nhật. Qua số liệu cơ cấu nguồn vốn của NHCT Đống Đa ta thấy xu hướng chung là vốn huy động từ dân cư ổn định, tăng trưởng qua các năm và luôn chiếm tỷ trọng khá cao, trung bình trên 56%. Bên cạnh đó, tỷ trọng nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế ngày càng lớn, đây là nguồn vốn có chi phí thấp nên đã tạo nhiều thuận lợi cho Ngân hàng trong hoạt động kinh doanh. Vốn huy động ngoại tệ tăng ít, năm 2003 giảm đi so với năm 2002 là 12,3%, đến năm 2004 là 510 chỉ tăng 2% so với năm 2003, năm 2005 cũng chỉ tăng hơn 3% so với năm 2004. Nguồn huy động VND vẫn là nguồn chính, chiếm tỷ lệ cao, trung bình trên 80%. Riêng về kỳ phiếu trái phiếu, mức độ tăng giảm không ổn định vì đây chỉ là công cụ huy động khi ngân hàng có nhu cầu đột xuất về vốn. Cơ cấu nguồn vốn Về tình hình sử dụng vốn Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là huy động vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất. Với chủ trương chọn lọc khách hàng, chỉ đầu tư cho vay đối với khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có khả năng trả nợ Ngân hàng, doanh số cho vay và thu nợ của chi nhánh NHCT Đống Đa đều tăng qua các năm. Nhìn chung khách hàng chủ yếu của Chi nhánh là các doanh nghiệp quốc doanh. Tuy nhiên, đến năm 2005 thì Ngân hàng đã đa dạng hóa khách hàng. Một phần là do quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, một phần vì trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hơn, Ngân hàng cũng muốn cho hoạt động kinh doanh của mình an toàn và hiệu quả, tăng khả năng cạnh tranh đối với các Ngân hàng khác. Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn tại NHCT Đống Đa Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 S.tiền % S.tiền % S.tiền % S.tiền % 1. Doanh số cho vay 1763 100 2200 100 2243 100 2280 100 - Quốc doanh 1568 89 1800 82 1865 83 1100 48 - Ngoài quốc doanh 195 11 400 18 380 17 1180 52 2. Doanh số thu nợ 1583 100 1829 100 2134 10 2230 100 - Quốc doanh 1418 91 1772 97 1568 74 1476 66 - Ngoài quốc doanh 165 10 57 3 548 26 754 34 3. Dư nợ 1670 100 2041 100 2150 100 2200 100 - Quốc doanh 1495 90 1525 75 1800 84 1210 55 - Ngoài quốc doanh 175 10 518 25 350 16 990 45 Phân theo thời gian 1. Doanh số cho vay 1763 100 2200 100 2243 10 2280 100 - Ngắn hạn 1560 88 1970 90 1993 89 2080 91 - Dài hạn 203 12 230 10 250 11 200 9 2. Doanh số thu nợ 1583 100 1829 100 2154 100 2230 100 - Ngắn hạn 1546 98 1658 91 1858 86 1830 82 - Trung và dài hạn 37 2 171 9 270 13 400 18 3. Dư nợ 1670 100 2041 100 2150 100 2200 100 - Ngắn hạn 919 55 1231 60 1250 58 1500 68 - Trung và dài hạn 751 45 810 40 900 42 700 32 Nợ quá hạn 10 8 12 16 1. Quốc doanh 2 4 7 10 2. Ngoài quốc doanh 8 4 5 6 (Nguồn: Báo cáo tổng kết của các năm của phòng tổng hợp tiếp thị) Qua số liệu cho thấy, khách hàng chủ yếu của Ngân hàng trong giai đoạn trước 2005 vẫn là doanh nghiệp quốc doanh. Lượng tín dụng cung cấp cho các doanh nghiệp này liên tục tăng và chiếm tỷ lệ khá cao trong giai đoạn từ 2002 đến 2004, doanh số cho vay năm 2002 là 1568 tỷ đồng chiếm 89%, đến năm 2003 là 1800 tỷ đồng chiếm 82%, năm 2004 là 1685 tỷ đồng chiếm 83%. Tuy nhiên đến năm 2005, doanh số cho vay đối với khu vực này giảm còn 1100 tỷ đồng, chỉ chiếm chưa đầy 50% tổng doanh số cho vay. Ngược lại, tín dụng đối với khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong giai đoạn đầu còn hạn chế, chiếm tỷ lệ rất ít trong doanh số cho vay, tính trung bình từ năm 2002 đến 2004 tỷ trọng chưa đầy 16%, một con số khá khiêm tốn. Nhưng đến năm 2005, doanh số cho vay đối với khu vực này tăng lên một cách đáng kể, chiếm trên 50%. Điều này chứng tỏ một sự chuyển biến trong chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Cơ cấu doanh số cho vay Tổng doanh số thu nợ tăng qua các năm, năm 2002 là 1583 tỷ đồng nhưng đến năm 2005 đã tăng đến 2230, tăng 647 tỷ đồng. Đối với khu vực quốc doanh doanh số thu nợ năm 2002là 1418 tỷ đồng, đến năm 2003 là 1772 tỷ đồng, tăng 354 tỷ đồng. Năm 2004 giảm còn 1568 tỷ đồng và năm 2005 chỉ còn 1476. Đó là do Ngân hàng đã tăng cường cho vay đối với khu vực ngoài quốc doanh. Tổng dư nợ qua các năm tăng đều, năm 2002 là 1670 tỷ đồng, đến năm 2003 đã tăng 22,2% tức tăng 371 tỷ đồng. Đến năm 2004, dư nợ là 2150, đạt 100% kế hoạch được giao, tuy nhiên đến năm 2005 dư nợ là 2200 tỷ đồng, tăng so với năm 2004 nhưng chỉ đạt 93% so với kế hoạch. Điều này là do Chi nhánh chủ trương chọn lọc khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có khả năng trả nợ Ngân hàng. Mặt khác, do dư nợ trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, khối giao thông hiện đang có nhiều khó khăn do việc nghiệm thu, quyết toán, cấp vốn chậm, nên chi nhánh chủ trường thận trọng cho vay ở khối này mà tập trung thu hồi nợ. Về công tác thu hồi nợ quá hạn và nợ tồn đọng, Chi nhánh đã tích cực đôn đốc, chủ động, phối hợp với các cơ quan chức năng để xử lý thu hồi. Kết quả cũng khá khả quan. Năm 2004 nợ quá hạn thu hồi được 8 tỷ 23 triệu đồng, nợ tồn đọng thu hồi được 1 tỷ 345 triệu đồng. Năm 2005 thu hồi được 39 tỷ 909 triệu đồng, trong đó: nợ quá hạn là 39 tỷ 222 triệu đồng, nợ tồn đọng là 687 triệu đồng. Về hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ Do khách hàng của Chi nhánh chủ yếu là những đơn vị sản xuất, thường xuyên nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất kinh doanh. Vì vậy nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại Chi nhánh chủ yếu để phục vụ cho mở L/C nhập khẩu, thanh toán chuyển tiền và nhờ thu nhập khẩu. Để nâng cao tỷ trọng dịch vụ thu phí nhằm cung cấp dịch vụ đa dạng cho khách hàng, nâng cao sức cạnh tranh, Chi nhánh thường xuyên khai thác ngoại tệ của các doanh nghiêp và các tổ chức tín dụng khác cùng với sự hỗ trợ của Trung ương để đảm bảo nhu cầu thanh toán và nhập khẩu cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, phát triển các hoạt động mua bán ngoại tệ, phát hành và thanh toán L/C. +) Vể thanh toán quốc tế: Năm 2004: - Mở L/C nhập khẩu : 351 món trị giá 41._.hẩm định tài chính dự án. Một điều đáng nói khác nữa là trình độ tin học của các cán bộ nhìn chung còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu. Thứ hai, việc tổ chức công tác thẩm định còn chưa tốt. Theo cách thức tổ chức hiện nay của ngân hàng thì chưa có sự chuyên môn hóa, chưa có phòng thẩm định riêng, hầu hết cán bộ tín dụng thường kiêm nhiệm luôn cán bộ thẩm định, tính chuyên nghiệp chưa cao. Điều này phần nào ảnh hưởng đến chất lượng công tác thẩm định, nhất là đối với các dự án lớn, có nhiều dặc điểm kỹ thuật phức tạp, nhiều lúc dẫn đến sai lầm trong cho vay hoặc bỏ qua dự án hiệu quả. Thứ ba, Ngân hàng còn thiếu máy móc, thiết bị phục vụ cho công tác thẩm định, lượng máy vi tính có chất lượng cao còn thiếu gây khó khăn cho việc tra cứu thông tin và tính toán các chỉ tiêu. Thứ tư, nguồn thông tin phục vụ cho công tác thẩm định dự án, nhất là thẩm định tài chính dự án là chưa đầy đủ, thiếu tính chính xác và chưa được thẩm định kỹ càng. Thứ năm, Ngân hàng còn quá chú ý đến tài sản đảm bảo cho món vay mà đánh giá chưa đúng tình hình tài chính của doanh nghiệp và hiệu quả của dự án. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐỐNG ĐA 3.1 Định hướng hoạt động cho vay của Ngân hàng Công thương Đống Đa Cùng với nền kinh tế chuyển sang giai đoạn phát triển mới 2006-2010, giai đoạn hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam sẽ gia nhập WTO trong tương lai rất gần, hiệp định thương mại Việt - Mỹ được thực thi đầy đủ, điều đó đồng nghĩa với mở cửa thị trường tài chính và cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế sẽ trở nên gay gắt hơn. NHCT đã xây dựng Chiến lược phát triển đến năm 2010 với mục tiêu xây dựng NHCT thành một Ngân hàng thương mại chủ lực và hiện đại, hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao, an toàn, bền vững, tài chính lành mạnh, có kỹ thuật công nghệ cao, kinh doanh đa năng, mở rộng và phát triển mạnh các dịch vụ, nghiệp vụ Ngân hàng bán lẻ, chất lượng nguồn nhân lực và quản trị của Ngân hàng đạt mức tiên tiến, có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ tại Việt Nam. Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa là đơn vị có doanh số hoạt động lớn trong hệ thống NHCT Việt Nam. Tự hào về thành tích của mình nhưng trên cơ sở chiến lược chung của NHCT VN, nhiệm vụ, chỉ tiêu được giao, NHCT Đống Đa đặt ra mục tiêu hoạt động của mình trong những năm tới, xứng đáng là “Đơn vị anh dùng lao động thời kỳ đổi mới” Cụ thể Ngân hàng công thương Đống Đa đặt chỉ tiêu cho hoạt động kinh doanh năm 2006 như sau: Tổng nguồn vốn huy động đạt : 3.550 tỷ đồng Tổng dư nợ đạt : 2.200 tỷ đồng Dư nợ trung và dài hạn đạt : 38% Tỷ lệ nợ quá hạn không quá : 2% Lợi nhuận (chưa trích DFRR) : 80 tỷ đồng 3.1.1 Định hướng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Hoạt động cho vay đối với DNVVN trong thời gian tới sẽ được tăng cường. Chủ trương của Chi nhánh là tiếp tục củng cố nâng cao chất lượng tín dụng, nâng cao trình độ nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm của cán bộ tín dụng, đảm bảo cho vay an toàn và hiệu quả, mở rộng đối tượng cho vay, tăng tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhằm đa dạng hóa khách hàng và phân tán rủi ro. Chi nhánh sẽ phân tích tài chính doanh nghiệp, phân loại khách hàng và giảm dần dư nợ đối với những khách hàng sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Theo NHCT cho biết, Ngân hàng có ưu đãi về lãi suất cho DNVVN, mức hiện nay là 0,85%/tháng, thấp hơn mức trung bình là 1%/tháng. Thực tế DN không tiếp cận được vốn do không đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng là có phương án kinh doanh khả thi và tài sản thế chấp. Ngân hàng Công thương Đống Đa luôn sẵn lòng phục vụ các DNVVN đến vay vốn miễn là các doanh nghiệp làm cho Ngân hàng thấy được khả năng hoàn trả vốn vay của mình. 3.1.2 Định hướng công tác thẩm định tài chính trong cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ Doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung thường chỉ vay ngắn hạn hoặc trung hạn, ít khi vay dài hạn. Trước đây, chỉ có những doanh nghiệp mới thành lập mới vay trung và dài hạn vì vốn tự có thấp, chưa có máy móc, cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, những năm gần đây, để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao độ như hiện nay, các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương pháp, bí quyết sản xuất. Do vậy, DNVVN cần rất nhiều vốn, mà lượng vốn tự có không thể đáp ứng được nên các doanh nghiệp tìm đến ngân hàng và vay trung và dài hạn nhiều hơn. Điều này cũng đặt ra nhiều thách thức cho công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay DNVVN. Thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng đối với Ngân hàng mới chỉ là bước đầu. Ngân hàng Công thương Đống Đa cũng đã nhận thức được vấn đề này và luôn cố gắng để hoàn thiện công tác thẩm định dự án. Định hướng của Ngân hàng là vẫn tiếp tục tăng cường tín dụng trung và dài hạn đối với khu vực doanh nghiệp Nhà nước và cả DNVVN. Đi đôi với điều này, Ngân hàng sẽ tăng cường số lượng cán bộ thẩm định, chú ý đào tạo họ về chuyên môn nghiệp vụ, hoàn thiện hơn nữa quy trình, nội dung và phương pháp thẩm định. Ngân hàng Công thương cũng sẽ đầu tư phát triển mạnh công nghệ thông tin, ứng dụng công nghệ mới, hiện đại trong lĩnh vực ngân hàng, đẩy nhanh tốc độ hiện đại hóa công nghệ, tự động hóa, tin học hóa tất cả các giao dịch và nghiệp vụ bằng các phần mềm ứng dụng tiên tiến, hiện đại. 3.2 Một số giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính trong cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Đống Đa Để hoàn thiện công tác thẩm định thì nỗ lực, cố gắng của bản thân ngân hàng là điều quan trọng và cốt yếu. Sau khi nghiên cứu công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay của các ngân hàng và chi nhánh NHCT Đống Đa cũng như tham khảo các bài viết có nội dung liên quan, tôi xin đề xuất một số giải pháp sau: Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên gia về thẩm định dự án Con người luôn là trung tâm của mọi quá trình hoạt động, vì vậy việc hoàn thiện công tác thẩm định của Ngân hàng phụ thuộc vào quá trình chuyển biến của đội ngũ này. Mỗi ngân hàng tùy thuộc vào nhu cầu, khối lượng công tác thẩm định và yêu cầu về tiến độ công việc để bố trí số lượng cán bộ thẩm định. Nhưng sẽ là vô ích khi chỉ đề cập đến biên chế, số lượng cán bộ mà không chú ý đến chất lượng, năng lực thẩm định. Trong thời gian qua, đội ngũ cán bộ thẩm định tại các Ngân hàng có phát triển nhưng chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của công tác thẩm định dự án. Một phần là do chưa được đào tạo căn bản ngay từ đầu và cũng không thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo lại. Để khắc phục nhược điểm này, trước mắt Ngân hàng cần thực hiện một số giải pháp sau: Bổ sung đủ số lượng, nâng cao chất lượng, đồng thời có chính sách động viên, khuyến khích cũng như chế tài xử lý vi phạm nghiêm khắc đối với đội ngũ cán bộ thẩm định. Quy hoạch, kiện toàn, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ thẩm định theo yêu cầu công việc; Thực hiện tốt hơn nữa công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định; Tăng cường các khóa đào tạo hoặc thực tập nâng cao trình độ, học tập kinh nghiệm tại các ngân hàng bạn và ngân hàng nước ngoài hoặc mời các chuyên gia ngoài nước về giảng dạy và phổ biến kinh nghiệm. Hằng năm tổ chức các cuộc thi kiểm tra trình độ, kết hợp với chất lượng xử lý công việc để làm cơ sở đánh giá, phân loại cán bộ. Hoàn thiện quy trình thẩm định dự án Trong giai đoạn 2004-2005, được sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, các NHTM đã cố gắng tích cực nghiên cứu và ban hành cho mình cuốn sổ tay tín dụng, đây được coi như cẩm nang cho cán bộ làm công tác tín dụng nói chung và cán bộ làm công tác thẩm định nói riêng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến chất lượng của cuốn sổ tay tín dụng chưa được như mong muốn của các nhà lãnh đạo ngân hàng. Nhiều nội dung hướng dẫn còn chung chung, dàn trải vì phải chi tiết, khiến cán bộ thẩm định lúng túng trong quá trình tra cứu, áp dụng thậm chí còn tạo ra những kẽ hở để những cán bộ thoái hóa biến chất cấu kết thông đồng với khách hàng chiếm dụng vốn của Ngân hàng. Để hạn chế những rủi ro mà các NHTM thưòng xuyên gặp phải thì việc thường xuyên cập nhật, hoàn thiện quy trình thẩm định dự án là một công việc không thể thiếu được của mỗi ngân hàng. Việc cải tiến quy trình thẩm định dự án phải cụ thể hóa cao cho phù hợp với năng lực cán bộ và hoạt động của Ngân hàng. Hoàn thiện công tác tổ chức thẩm định dự án Dưới giác độ Ngân hàng, công tác thẩm định dự án trong hoạt động tín dụng trước hết phải là vì lợi ích của chính bản thân Ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả của đồng vốn tín dụng và phòng ngừa các rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng. Khi thẩm định dự án đòi hỏi cán bộ thẩm định phải nắm vững chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước, của ngành và địa phương. Xác định và kiểm tra toàn diện tất cả các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật trong dự án, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn để có ý kiến đánh giá xác đáng. Theo cách thức tổ chức hiện nay của ngân hàng thì chưa có sự chuyên môn hóa, cán bộ tín dụng thường kiêm nhiệm luôn thẩm định. Ngân hàng cần phải có phòng chuyên trách về thẩm định dự án đầu tư, vừa tách biệt với phòng tín dụng vừa phối hợp chặt chẽ với phòng tín dụng. Kèm theo đó, Ngân hàng cần bố trí số lưọng cán bộ thẩm định vừa đủ, phân công, phân nhiệm rõ ràng. Hoàn thiện phương pháp thẩm định Các phương pháp thẩm định mà Ngân hàng hiện nay đang áp dụng là NPV, IRR, thời gian hoàn vốn, một số dự án có tiến hành đánh giá độ nhạy một chiều, rất ít dự án được đánh giá độ nhạy nhiều chiều hay phân tích tình huống nhằm đánh giá toàn diện những rủi ro mà dự án có thể gặp phải. Nhiều dự án phức tạp, hiệu quả tài chính chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố có khả năng biến động lớn nhưng chỉ đánh giá độ nhạy với mức độ biến động thấp hơn nhiều so với khả năng xảy ra. Ngân hàng cần có quy định cụ thể, thống nhất trong toàn hệ thống về nội dung và phương pháp thẩm định. Quy định này cũng nên linh hoạt, nghĩa là tùy theo tính chất, quy mô, mức độ phức tạp của dự án để lựa chọn các phương pháp thẩm định thích hợp. Đối với những dự án có quy mô lớn, phức tạp cần tiến hành phân tích độ nhạy nhiều chiều. Với những dự án chịu ảnh hưỏng của nhiều yếu tố có khả năng biến động bất thường nên tiến hành cả phân tích tình huống và mô phỏng. Hoàn thiện nội dung thẩm định Khi tiến hành thẩm định một dự án có hai nội dung chính cần hết sức quan tâm: Thứ nhất, thẩm định khách hàng vay vốn: Trước khi tiến hành thẩm định ngân hàng cần xác minh tính trung thực của các số liệu do khách hàng cung cấp. Chẳng hạn, khoản phải thu trong báo cáo tài chính của khách hàng thì có bao nhiêu phần trăm là khó đòi; Trong hàng tồn kho thì có bao nhiêu phần trăm hàng kém phẩm chất, bi ứ đọng; Vốn cố định biểu hiện dưới dạng máy móc, thiết bị lạc hậu hay hiện đại; Trong công nợ có bao nhiêu phần trăm nợ quá hạn… Khi tính toán các chỉ tiêu tài chính, Ngân hàng nên đánh giá, kết hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh của lĩnh vực ngành liên quan. Ngoài ra, cần phân tích đánh giá Báo cáo lưu chuyển tiền tệ để đánh giá chính xác năng lực quản lý ngân quỹ cũng như khả năng thanh toán hiện tại và trong tương lai của khách hàng. Bên cạnh những biện pháp định tính được coi như “kỹ thuật” thẩm định, nên áp dụng các phương pháp định lượng, hay “nghệ thuật” thẩm định. Đây là một biện pháp hữu hiệu giúp Ngân hàng đánh giá một cách khách quan nhất về khách hàng. Nghĩa là, chỉ cần qua tiếp xúc trực tiếp Doanh nghiệp cán bộ tín dụng có thể thu thập được nhiều thông tin hơn so với những gì thể hiện trên giấy tờ. Tuy nhiên, làm thế nào để không gây khó dễ cho khách hàng mà ngân hàng vẫn có đủ thông tin để đánh giá khách hàng. Sau đây là một số yếu tố có thể giúp ngân hàng có thể đánh giá định tính về khách hàng: Năng lực lãnh đạo quản lý doanh nghiệp của ban giám đốc điều hành là yếu tố năng động nhất. Thông thường nói đến khả năng quản lý là nói đến các chính sách và bộ máy quản lý được biểu hiện ở chất lượng quản lý, hiệu quả kinh doanh. Hình ảnh, vị trí của doanh nghiệp trên thương trường được khẳng định qua dư luận xã hội trên các phương diện thông tin đại chúng, trong quan hệ với khách hàng, với nhà cung cấp. Thứ hai, dự án vay vốn Một dự án vay vốn đòi hỏi phải được xem xét đầy đủ các nội dung cần thiết để đảm bảo khả năng đánh giá một cách toàn diện và giúp cho việc ra quyết định đầu tư một cách chính xác. Cần nhận thức rằng mọi nội dung của dự án đều có mối quan hệ mật thiết với nhau: Kết quả thẩm định phương diện thị trường là cơ sở để đánh giá việc lựa chọn kỹ thuật, quy mô, công suất của dự án; Kết quả thẩm định phương diện kỹ thuật lại là cơ sở để tính toán các dòng thu nhập, chi phí, xác định nên hiệu quả tài chính của dự án. Trong khi hiệu quả tài chính dự án lại là cơ sở để quyết định phương án cho vay, thu nợ của ngân hàng. Khi thẩm định phương diện thị trường, cần thu thập thông tin về: số lượng doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm trong cùng một khu vực thị trường (kể cả những doanh nghiệp bắt đầu thành lập); Mức cầu sản phẩm cùng loại sản phẩm cùng loại trong năm qua (ít nhất là 5 năm) để thấy được tốc độ tăng trưởng tời gian qua, làm cơ sở cho việc dự báo tốc độ tăng trưởng trong thời gian tới; Mức độ tăng trưởng trong thời gian tới… Ngoài ra, còn phải nắm được quy hoạch phát triển do Bộ, ngành công bố để đảm bảo dự án là các công trình được tiến hành theo đúng quy hoạch của Nhà nước. Khi tiến hành thẩm định phương diện kỹ thuật; với những dự án phức tạp, vượt ra ngoài khả năng của cán bộ thẩm định thì việc thuê chuyên gia là hết sức cần thiết. Đồng thời ngân hàng cũng phải nghiên cứu, tìm hiểu về những ngành nghề, sản phẩm của dự án mà mình phụ trách. Thẩm định phương diện tài chính của dự án luôn được coi là khâu quan trọng nhất, quyết định đến việc ngân hàng có đầu tư cho vay hay không. Khi xem xét phương diện tài chính của dự án cần chú ý các điểm: Dự toán vốn đầu tư của dự án: Kiểm tra tính hợp lý về chi phí đầu tư dựa trên cơ sở tham khảo những dự án tương tự điển hình (không nên chỉ dựa vào kế hoạch dự trù chi phí do chủ đầu tư đưa ra như hiện nay nhằm tránh tình trạng tính thừa hoặc thiếu). Vấn đề xác định dòng tiền của dự án: Dòng tiền ròng của dự án cần được tính toán nhất quán theo quan điểm tổng mức vốn đầu tư bao gồm cả vốn chủ sở hữu và vốn vay. Về tỷ tỷ lệ chiết khấu: Tỷ lệ chiết khấu, về bản chất là chi phí cơ hội của việc đầu tư vào dự án. Các nhà đầu tư sẽ chỉ thực hiện dự án khi khi lợi nhuận mà họ kỳ vọng thu được sẽ lớn hơn hoặc bằng chi phí cơ hội của việc thực hiện dự án. Ngân hàng thẩm định tài chính dự án trên cơ sở tổng vốn đầu tư nhằm đánh giá khả năng trả nợ của dự án. Chính vì vậy, tỷ lệ chiết khấu đối với dự án được ngân hàng sử dụng phản ánh mức lợi nhuận trung bình tối thiểu mà ngân hàng và doanh nghiệp kỳ vọng nhận được khi thực hiện dự án. Về nguyên tắc, tỷ lệ chiết khấu chính là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn để đầu tư theo dự án, thể hiện thông qua chi phí vốn cận biên. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay ở Việt Nam, do thị trường tài chính chưa phát triển mạnh nên việc xác định chi phí vốn cận biên là rất khó khăn, có thể lựa chọn chi phí vốn trung bình để thay thế, tuy nhiên ngân hàng hiện vẫn thường lấy lãi suất cho vay làm tỷ lệ chiết khấu. Đánh giá dự án trong điều kiện có lạm phát: Việc thẩm định dự án đầu tư chủ yếu là trong dài hạn mà trong dài hạn luôn có sự thay đổi giá cả tức là ảnh hưởng của lạm phát đối với dự án. Lạm phát dự tính có ảnh hưởng nhất định tới giá trị hiện tại ròng (NPV) của dự án bởi vì nó làm biến đổi dòng tiền kỳ vọng và tỷ lệ chiết khấu. Do vậy, trong khi đánh giá dự án luôn tuân thủ nguyên tắc: tỷ lệ lãi suất danh nghĩa chỉ áp dụng đối với những khoản thu nhập danh nghĩa và tỷ lệ lãi suất thực tế chỉ áp dụng đối với những khoản thu nhập thực tế. Nếu điều chỉnh lãi suất danh nghĩa theo lạm phát thì các khoản thu nhập và chi phí của dự án thay đổi với cùng một tỷ lệ (thấp hoặc cao hơn tỷ lệ lạm phát), trừ những khoản dựa trên những chi phí quá khứ là không đổi, vì giá trị tiết kiệm do khấu hao mang lại thể hiện sự ổn định về tiền tệ. Đảm bảo tính độc lập trong công tác thẩm định Công tác thẩm dịnh, xem xét cho vay dự án trong thời gian qua tại các NHTM còn bị động về mặt thời gian, nguồn tài liệu và đôi khi chịu sự chi phối của chính quyền địa phương. Điều đó có ảnh hưởng đến tính độc lập của ngân hàng trong việc thẩm định dự án. Muốn phát huy tính chủ động và độc lập của ngân hàng trong quá trình thẩm định dự án cần thực hiện một số vấn đề sau: Bản thân lãnh đạo Ngân hàng phải kiên định, giữ vững vai trò độc lập khi xem xét thẩm định dự án đầu tư. Nêu cao vai trò tham mưu của Ngân hàng cho cấp Ủy, chính quyền địa phương trong quá trình xây dựng, thẩm định và lựa chọn dự án. Phát huy vai trò tư vấn của Ngân hàng đối với chủ đầu tư Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó là thiếu vốn, thiết bị, công nghệ lạc hậu, thiếu kinh nghiệm quản lý kinh trong nền kinh tế thị trường. Để tồn tại và vươn lên, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành, tăng cường khả năng cạnh tranh. Do đó, vai trò tư vấn của Ngân hàng đối với chủ đầu tư là rất cần thiết, thể hiện ở chỗ: Giúp chủ đầu tư xây dựng một dự án, lựa chọn việc sản xuất sản phẩm gì, cung cấp thông tin về thị trường sản phẩm đó, các phương án kỹ thuật, nhập các thiết bị công nghệ, tính toán nguồn tài trợ cho dự án với lãi suất như thế nào. Bên cạnh đó, cán bộ thẩm định cũng cần giúp chủ đầu tư tính toán hiệu quả kinh tế trên cơ sở dự kiến quá trình kinh doanh, thu lợi nhuận, đồng thời có cảnh báo đối với chủ đầu tư về những rủi ro mà dự án có thể gặp để chủ đầu tư để ra những biện pháp hạn chế rủi ro, đảm bảo dự án hoạt động hiệu quả, trả nợ cho Ngân hàng đầy đủ cả gốc và lãi. Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát đối với công tác thẩm định dự án Để đảm bảo các quy trình, quy chế thẩm định được tuân thủ đúng đắn, đầy đủ, Ngân hàng cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ. Mục tiêu của việc này là phát hiện ra những hiện tượng bất thường, đảm bảo tính đúng đắn trước khi ra quyết định cho vay. Hiện đại hóa máy móc phục vụ cho công tác thẩm định Trong năm qua, phòng Thông tin điện toán đã trang bị, sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị, làm mới và nâng cấp đường truyền, cải tạo hệ thống mạng của Chi nhánh … để thực hiện việc làm sạch dữ liệu và chuyển đổi thành công từ hệ thống OSFA sang chương trình hiện đại hóa INCAS. Tuy nhiên, Ngân hàng cần phải đầu tư trang bị mới, mua thêm máy tính có chất lượng tốt để đảm bảo các cán bộ thẩm định đều có máy để làm việc. Ngoài ra, Ngân hàng cũng cần thiết kế thêm các phần mềm để ứng dụng vào việc phân tích thẩm định dự án, tính toán được nhiều chỉ tiêu hơn, chính xác hơn, nhanh chóng hơn. Bên cạnh đó, phải chú ý đến tính hiện đại của công nghệ và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của chi nhánh, vừa đầu tư hiện đại hóa, tin học hóa vừa phải đào tạo con người để sử dụng, ứng dụng được. 3.3 Kiến nghị 3.3.1 Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam Ngân hàng Công thương Việt Nam cần tăng cường hơn nữa vai trò điều hành, quản lý của mình. Thực hiện tốt vai trò tham mưu quản lý, điều hành thông qua việc xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, quy định, hướng dẫn rõ ràng thay vì thực hiện chức năng xử lý từng trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó, NHCT Việt Nam cần phải tích cực phối hợp, trao đổi với các Chi nhánh nói chung và Chi nhánh NHCT Đống Đa nói riêng. Đặc biệt là việc thẩm định các dự án vay vốn vượt quá thẩm quyền phán quyết của Chi nhánh để đẩy nhanh thời gian thẩm định dự án, tránh tình trạng dự án được thông qua ở chi nhánh nhưng khi trình lên Trung ương thì bị chậm trong khâu tái thẩm định. Để đảm bảo quy trình, quy chế thẩm định được tuân thủ đúng đắn thì NHCT Việt Nam cũng cần phải kiểm soát đối với Hội sở chính cũng như các chi nhánh về nghiệp vụ này, bao gồm 3 giai đoạn: Kiểm soát trước: Giai đoạn này dựa vào sự thành thạo về quy chế mà tiến hành kiểm tra, mục đích phát hiện ra những điểm bất hợp lý của nghiệp vụ thẩm định trước khi thực hiện, cụ thể: Các điều kiện vay vốn Ngân hàng theo cơ chế tín dụng hiện hành đã đầy đủ chưa? Hồ sơ khách hàng, hồ sơ vay vốn đã đầy đủ và hợp lệ chưa: đã thu thập đầy đủ thông tin cần thiết liên quan đến dự án chưa? Kiểm soát trong: có tác dụng giám sát quá trình thực hiện, hạn chế những thiếu sót, thực hiện không đúng trình tự nghiệp vụ, sai sót về thủ tục… nhằm ngăn chặn kịp thời những thiệt hại sau này. Kiểm soát sau: được thực hiện khi nghiệp vụ thẩm định về cơ bản đã được hoàn thành, kiểm tra hồ sơ, chứng từ hợp lệ của nghiệp vụ ở giai đoạn trước. Ngân hàng Công thương Việt Nam với tư cách là Ngân hàng cấp trên của NHCT Đống Đa cần tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác trong nước cũng như quốc tế để có thể cung cấp được nguồn thông tin cho công tác thẩm định, đảm bảo thông tin được cập nhật nhanh chóng, thường xuyên, chính xác; đồng thời thu thập, học hỏi kinh nghiệm cần thiết phục vụ cho công tác thẩm định của chi nhánh. Bên cạnh đó, NHCT cũng cần coi trọng công tác cán bộ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, áp dụng các hình thức đào tạo cán bộ phù hợp gắn với phát triển nghiệp vụ. Dự kiến trong năm 2006 Ngân hàng sẽ khởi công xây dựng Trường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của mình tại Hà Nội, việc này cần được xúc tiến nhanh chóng. Một điều quan trọng nữa là NHCT Việt Nam cũng cần tạo điều kiện cho các chi nhánh đầu tư trang thiết bị máy móc, hiện đại hóa, tin học hóa các giao dịch và nghiệp vụ. NHCT cũng phải xây dựng phong cách văn hóa kinh doanh, lề lối làm việc kỷ cương trong toàn hệ thống. 3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Nhà nước với chức năng quản lý lưu thông tiền tệ, là cơ quan thực hiện các chính sách của Nhà nước về kinh tế. Vì vậy, bất cứ một sự điều chỉnh nào của Ngân hàng Nhà nước trong chính sách tiền tệ đều có ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường vai trò chỉ đạo của mình trong hoạt động của hệ thống ngân hàng, ban hành các văn bản, quy định hướng dẫn rõ ràng cụ thể và thống nhất đối với các vấn đề liên quan đến hoạt động thẩm định dự án tại Ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước trên địa bàn cần nắm vững phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế, quy hoạch phát triển tổng thể để có thể tư vấn cho Ngân hàng đầu tư vốn cho các dự án đúng hướng. Ngân hàng Nhà nước cũng cần tổ chức những hội nghị toàn ngành để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, tăng cường sự hợp tác giữa các ngân hàng về các hoạt động nói chung và công tác thẩm định dự án nói riêng. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đã có trung tâm thông tin tín dụng (CIC) là công cụ trợ giúp thông tin cho các Ngân hàng rất nhiều. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước cũng cần phải có biện pháp để trung tâm này hoạt động có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước có thể thành lập thêm các công ty chuyên mua bán thông tin, chuyên môn hóa trong việc cung cấp thông tin về tín dụng, thị trường và thông tin về các doanh nghiệp một cách cập nhất và chính xác. Ngân hàng Nhà nước cung cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với các Ngân hàng để phát hiện những sai sót trong hoạt động của Ngân hàng nói chung và công tác thẩm định tài chính dự án nói riêng, đồng thời có thể hoàn thiện hơn nữa nội dung hướng dẫn nghệp vụ cho Ngân hàng. 3.3.3 Đối với Nhà nước Nhà nước sớm ban hành văn bản hướng dẫn thẩm định nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng, trên cơ sở đó các Ngân hàng có hướng dẫn cụ thể cho việc thẩm định dự án trong hoạt động tín dụng của mình. Nhà nước cần quy định rõ ràng các biện pháp xử lý trường hợp doanh nghiệp cung cấp thông tin không trung thực; buộc doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán thống kê và thông tin báo cáo. Ngân hàng thường chỉ dựa vào nguồn tin từ phía doanh nghiệp là chính, mà nguồn thông tin này mang nhiều tính chủ quan của doanh nghiệp và chưa qua kiểm toán theo một chế độ bắt buộc. Vì vậy Nhà nước cần ban hành quy chế kiểm toán bắt buộc và công khai tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện giúp cho Ngân hàng trong công tác thẩm định. Nhà nước cũng cần có những biện pháp nhằm tạo một môi trường kinh tế ổn định, đặc biệt là phát triển thị trường tài chính để giúp cho việc dự báo của Ngân hàng về các nội dung cần thẩm định được dễ dàng, chính xác. Hơn nữa Nhà nước cũng cần củng cố các cơ quan làm công việc thống kê thông tin kinh tế xã hội để có được một địa chỉ tin cậy cung cấp thông tin cho Ngân hàng. Điều này nhằm tránh tình trạng vì không có đủ thông tin mà dẫn tới đơn giản hóa trong thẩm định. Nhà nước cần phát huy tính chủ động và độc lập của Ngân hàng trong thẩm định dự án, phân biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước với quản lý hành chính về kinh tế để tránh sự can thiệp quá sâu của các cơ quan quản lý Nhà nước vào hoạt động chuyên môn của Ngân hàng. 3.3.4 Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Một số DNVVN chưa có khả năng đưa ra được một dự án đầy đủ, hoàn chỉnh và có căn cứ khoa học. Nội dung của phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư đôi khi được thiết lập sơ sài, bởi vậy thiếu thuyết phục ngân hàng khi xem xét thẩm định cho vay. Do vậy các doanh nghiệp này cần nâng cao kỹ năng lập dự án cũng như quản lý thực hiện dự án. Việc lập dự án cần đảm bảo được tính khoa học, thực tế. Các doanh nghiệp cần phối hợp thiện chí với Ngân hàng, cung cấp thông tin trung thực, chính xác và cùng Ngân hàng kiểm soát vốn vay. Doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm túc chế độ tài chính kế toán và kiểm toán, thực hiện công khai tình hình tài chính của mình. Trong quan hệ với ngân hàng, nhiều doanh nghiệp còn thiếu kinh nghiệm, việc bố trí cán bộ quan hệ giao dịch với ngân hàng không hợp lý, cán bộ có tư tưởng e ngại, thiếu tự tin trong quan hệ, khả năng thuyết trình, đàm phán với ngân hàng. Do vậy, doanh nghiệp cũng cần chủ động tìm hiểu, nghiên cứu kỹ để nắm và hiểu rõ tính năng, tiện ích của các sản phẩm dịch vụ cũng như cách thức tiếp cận và sử dụng các dịch vụ mà các ngân hàng cung ứng, đặc biệt là thủ tục xin vay vốn của Ngân hàng. KẾT LUẬN Để thực sự tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, vấn đề nâng cao chất lương tín dụng đối với khu vực này đã trở thành mối quan tâm của hệ thống Ngân hàng thương mại nói chung và của Ngân hàng Công thương Đống Đa nói riêng, trong đó công tác thẩm định dự án được coi là trọng tâm. Thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng ở Việt Nam chưa có một bề dày kinh nghiệm, nhất là khi vận dụng vào một nền kinh tế đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Do vậy, để hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của Ngân hàng là vấn đề không dễ, cần nỗ lực không chỉ của bản thân Ngân hàng mà còn cần có sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan hữu quan. Qua thực tập thực tế tại Ngân hàng cũng như nghiên cứu, phân tích, tôi đã đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Đống Đa. Tuy nhiên, chuyên đề của tôi không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự góp ý của Thầy cô. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài chính doanh nghiệp – PGS.TS Lưu Thị Hương – Giáo trình Trường Đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản thống kê (2005) 2. Quản trị tài chính doanh nghiệp – PGS.TS Vũ Duy Hào – Giáo trình Trường Đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản thống kê (1998) 3. Ngân hàng thương mại – TS Phan Thị Thu Hà – Giáo trình Trường Đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản thống kê (2004) 4. Thẩm định tài chính dự án – PGS.TS Lưu Thị Hương – Giáo trình Trường Đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản thống kê (2004) 5. Phân tích & thẩm định dự án đầu tư – TS Phước Minh Hiệp – Nhà xuất bản thống kê (1999) 6. Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam – GS.TS Nguyễn Đình Hương – Nhà xuất bản chính trị quốc gia (2002) 7. Sổ tay tín dụng – Ngân hàng Công thương Việt Nam (2004) 8. Tạp chí Kinh tế và Dự báo - Số 12/2005 9. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ (1/2/2006) 10. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp - Số 10,11/2005 11. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2004 phương hướng kinh doanh dịch vụ Ngân hàng năm 2005 – Ngân hàng Công thương Đống Đa 12. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2005 phương hướng kinh doanh dịch vụ Ngân hàng năm 2006 – Ngân hàng Công thương Đống Đa 13. Chuyên đề Thẩm định tín dụng – Trung tâm bồi dưỡng và tư vấn về tài chính vi mô - Đại học kinh tế quốc dân 2003. 14. Nghị định 90 – CP ngày 233/11/2001 15. Chỉ thị Thủ tường chính phủ số 28/2001/CT - TTg Chỉ tiêu Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 I. Doanh thu - Thu từ dịch vụ cho thuê máy và thiết bị 729 729 729 729 729 729 729 729 - Thu từ dịch vụ cho thuê văn phòng 0 5.616 5.616 5.616 5.616 5.616 5.616 II. Chi phí - Khấu hao TSCĐ 818 818 818 818 818 818 818 818 - Chi phí quản lý doanh nghiệp 51 51 444 444 444 444 444 444 - Chi phí lãi vay 468 590 501 412 323 234 144 55 - Thuê văn phòng trong thời gian chờ xây dựng 270 270 0 0 0 0 0 0 - Chi phí khác 36 36 317 317 317 317 317 317 III. Lợi nhuận trước thuế - 924 - 1046 4255 4344 4433 4522 4612 4701 Thuế TNDN IV. Lợi nhuận sau thuế - 924 - 1046 2894 2954 3015 3075 3137 3197 Lợi nhuận + khấu hao - 106 - 288 3712 3772 3833 3893 3955 4015 V. Chỉ tiêu của dự án Tỷ lệ chiết khấu 0,1 Hệ số chiết khấu 1000 Giá trị hiện tại NPV 1.019 IRR 11,95 Thời gian hoàn vốn 8 Bảng tính dòng tiền của dự án Kế hoạch trả nợ Chỉ tiêu Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 I. Cho vay 1. Lãi suất 9,6% 2. Giải ngân vốn vay 3500 3000 0 0 0 0 0 0 II. Thu nợ 1. Kế hoạch trả nợ gốc trong năm 690 928 928 928 928 928 1164 Lợi nhuận sau thuế 390 528 528 528 528 528 764 Khấu hao 300 400 400 400 400 400 400 2. Thu lãi 624 567 478 411 323 234 143 55 Dư nợ gốc cuối năm 6500 5804 4876 3948 3020 2092 1164 0 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36459.doc
Tài liệu liên quan