Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội

Tài liệu Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội: Lời nói đầu Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Cùng với tiến trình đổi mới kinh tế và đặc biệt khi nước ta lại vừa gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO), hệ thống tài chính- tiền tệ của Việt Nam đã và đang phát triển rất mạnh mẽ. Và trong hệ thông tài chính-tiền tệ đó thì NHTM là một mắt xích quan trọng với tư cách là kênh dẫn vốn cho nền kinh tế. NHTM đã có những đóng góp rất to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế thông qua việc tài trợ c... Ebook Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội

doc108 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1458 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ho các dự án, trong đó có những dự án rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Đối với ngân hàng tài trợ dự án là hoạt động mang lại lợi nhuận cao song cũng chứa đựng nhiều rủi ro (do quy mô lớn, thời gian dài…). Để hạn chế rủi ro, hướng tới mục tiêu an toàn và sinh lời, các NHTM tiến hành việc thẩm định các dự án thông qua hoạt động thực tiễn của mình, họ ngày càng ý thức được tầm quan trọng của việc thẩm định dự án trước khi ra quyết định tài trợ. Thẩm định dự án có rất nhiều nội dung (thẩm định về phương diện thị trường, thẩm định về phương diện tài chính…) trong đó thẩm định dự án về mặt tài chính luôn được coi là trọng tâm, có lẽ bởi nó gần với lĩnh vực chuyên môn của Ngân hàng nhất và nó cũng trả lời câu hỏi mà Ngân hàng quan tâm nhất là khả năng trả nợ của khách hàng. Qua thời gian thực tập tại chi nhánh NHNT Hà Nội, em nhận thấy hoạt động thẩm định tài chính của ngân hàng đã có nhiều cải tiến, song nếu được bổ sung hoàn thiện thêm 1 số biện pháp hợp lý thì hiệu quả đạt được càng cao góp phần giảm thiểu đáng kể rủi ro trong hoạt động đầu tư dự án. Vì vậy em đã quyết định chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại NHNT Hà Nội” làm đề tài tốt nghiệp của mình. Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo khoá luận gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại các NHTM Chương 2: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án tại Chi nhánh NHNT Hà Nội Chương 3: Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại NHNT Hà Nội Em xin chân thành cám ơn cô giáo hướng dẫn Ths Phan Thị Hạnh và các cán bộ phòng Quan hệ khách hàng, tổ Thẩm định dự án Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Em mong sẽ nhận được các ý kiến đóng góp để bài viết được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI CÁC NHTM 1.1. Khái niệm chung về dự án 1.1.1. Dự án và vai trò của dự án Đầu tư là một nhu cầu thiết yếu đối với mỗi nền kinh tế. Đầu tư là hoạt động hy sinh các nguồn lực (tiền, tài sản có sẵn, thời gian, công sức…) vào một hoạt động nào đấy, trong một thời gian nhất định để đạt được lợi ích (tiền, lợi ích xã hội…). Đặc điểm của hoạt động đầu tư là: quyết định đầu tư là một quyết định tài chính, phải được cân nhắc về tính khả thi của nó, cân nhắc giữa những gì phải bỏ ra và những kết quả kỳ vọng, và một đặc điểm rất quan trọng nữa là đầu tư mang tính rủi ro. Tính rủi ro của đầu tư bắt nguồn từ bản chất của hoạt động đầu tư là hy sinh nguồn lực ở hiện tại để kỳ vọng những lợi ích ở tương lai dài hạn. Vì thế để thực hiện đầu tư và đầu tư có hiệu quả cao nhất đòi hỏi phải có sự chuẩn bị chu đáo, dự tính và lên kế hoạch cho các giai đoạn đầu tư cụ thể. Sự chuẩn bị này được thực hiện thông qua việc soạn thảo các dự án. Vậy dự án là gì? Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau trong cách định nghĩa dự án, đó là: - Dự án là một hệ thống các thuyết minh, được trình bày một cách chi tiết, có luận cứ về các giải pháp sử dụng nguồn lực để đạt mục tiêu cao nhất trong chủ trương đầu tư. - Dự án là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực nhất định. - Dự án là một tập hợp những đề xuất về nhu cầu vốn, cách thức sử dụng vốn, kết quả thu được trong một khoảng thời gian xác định đối với hoạt động cụ thể để sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển hoặc phục vụ đời sống Trong chuyên đề này, khái niệm về dự án sẽ được hiểu như sau: "dự án là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch của một công cuộc đầu tư phát triển kinh tế xã hội hoặc phát triển sản xuất kinh doanh nhằm đạt được những kết quả nhất định và thực hiện được những mục tiêu xác định trong tương lai lâu dài" Dự án có vai trò rất quan trọng đối với chủ đầu tư, các nhà quản lý và tác động trực tiếp tới tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Nếu không có dự án, nền kinh tế sẽ khó nắm bắt được cơ hội phát triển. Những công trình thế kỷ của nhân loại trên thế giới luôn là những minh chứng về tầm quan trọng của dự án. Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định bỏ vốn đầu tư, xây dựng kế hoạch đầu tư và theo dõi quá trình thực hiện đầu tư. Dự án là căn cứ để các tổ chức tài chính đưa ra quyết định tài trợ, các cơ quan chức năng của Nhà nước phê duyệt và cấp giấy phép đầu tư. Do vậy, hiểu được những đặc điểm của dự án là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của dự án. 1.1.2. Đặc điểm của dự án Xuất phát từ khái niệm dự án, có thể nhận biết những đặc điểm cơ bản sau đây của dự án: Dự án không chỉ là một ý tưởng hay phác thảo mà còn hàm ý hành động với mục tiêu cụ thể. Nếu không có hành động thì dự án chỉ vĩnh viễn tồn tại ở trạng thái tiềm năng. Dự án không phải là một nghiên cứu trừu tượng hay ứng dụng mà phải nhằm đáp ứng một nhu cầu cụ thể đã được đặt ra, tạo nên một thực tế mới. Dự án tồn tại trong một môi trường không chắc chắn. Môi trường triển khai dự án thường xuyên thay đổi, chứa đựng nhiều yếu tố bất định nên trong quá trình thực hiện dự án rủi ro thường là có thể xảy ra. Đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ thành công của dự án và là mối quan tâm đặc biệt của các nhà quản lý dự án. Dự án bị khống chế bởi thời hạn. Là một tập hợp các hoạt động đặc thù phải có thời hạn kết thúc. Mọi sự chậm trễ trong thực hiện dự án sẽ làm mất cơ hội phát triển, kéo theo những bất lợi, tổn thất cho nhà đầu tư và cho nền kinh tế. Dự án chịu sự ràng buộc về nguồn lực. Thông thường, các dự án bị ràng buộc về vốn, vật tư, lao động. Đối với dự án quy mô càng lớn, mức độ ràng buộc về nguồn lực càng cao và càng phức tạp; mọi quyết định liên quan đến các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án đều bị chi phối nhiều mối quan hệ, chẳng hạn: chủ đầu tư, nhà tư vấn, nhà thầu, các nhà tài trợ, nhân công, các nhà kỹ thuật …Xử lý tốt các ràng buộc này là yếu tố quan trọng góp phần đạt tới mục tiêu của dự án. Một dự án sẽ thành công nếu các đặc điểm của dự án được các nhà quản lý dự án nhận biết và đánh giá một cách đúng đắn. 1.1.3. Phân loại dự án đầu tư Trên thực tế, các dự án rất đa dạng về cấp độ, loại hình, quy mô thời hạn và được phân loại theo các tiêu thức khác nhau. Chẳng hạn có thể phân loại các dự án đầu tư theo các tiêu thức sau: Theo cơ cấu tái sản xuất: Dự án đầu tư được phân thành dự án đầu tư theo chiều rộng và dự án đầu tư theo chiều sâu. Trong đó dự án đầu tư chiều rộng thường đòi hỏi khối lượng vốn lớn, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi đủ vốn lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn dự án đầu tư theo chiều sâu thường đòi hỏi khối lượng mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng. Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội: Dự án đầu tư có thể phân chia thành dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (kỹ thuật và xã hội)…, hoạt động của các dự án đầu tư này có quan hệ tương hỗ tương hỗ với nhau. Chẳng hạn các dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao; còn các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đến lượt mình lại tạo tiềm lực cho các dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các dự án đầu tư khác. Theo các giai đoạn hoạt động của các dự án đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội: Có thể phân loại các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thành dự án đấu tư thương mại và dự án đầu tư sản xuất. Dự án đầu tư thương mại là loại dự án đầu tư có thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn, tính chất bất định không cao lại dễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ chính xác cao. Dự án đầu tư sản xuất là loại dự án đầu tư có thời hạn hoạt động dài hạn (5, 10, 20 năm hoặc lâu hơn), vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, thời gian thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, tính chất kỹ thuật phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố bất động trong tương lai không thể dự đoán hết và dự đoán chính xác được (về nhu cầu, giá cả đầu vào và đầu ra, cơ chế chính sách, tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật, thiên tai, sự ổn định về chính trị…) Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra: Ta có thể phân chia các dự án đầu tư thành dự án đầu tư ngắn hạn và dự án đầu tư dài hạn. Theo sự phân cấp quản lý dự án: tuỳ theo tầm quan trọng và quy mô của dự án, dự án đầu tư được chia thành 4 nhóm: Dự án quan trọng quốc gia (do Quôc hội quyết định chủ trương đầu tư), dự án nhóm A, dự án nhóm B, dự án nhóm C. Đối với các dự án đầu tư nước ngoài được chia thành 3 nhóm: dự án nhóm A, dự án nhóm B và các dự án phân cấp cho các địa phương. Theo cấp độ nghiên cứu gồm 2 loại dự án tiền khả thi và dự án khả thi. Dự án tiền khả thi là kết quả của giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi (giai đoạn sơ bộ lựa chọn dự án). Nội dung của dự án tiền khả thi còn sơ bộ chưa chi tiết. Kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức độ đánh giá lại cơ hội đầu tư để lựa chọn quyết định có nên chuyển sang giai đoạn tiếp theo không. Dự án khả thi là kết quả của giai đoạn nghiên cứu khả thi. Nội dung của dự án khả thi chi tiết, mức độ chính xác cao. Nó là căn cứ để chủ đầu tư, các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ra quyết định đầu tư hoặc cho phép đầu tư. Theo nguồn vốn: dự án đầu tư bằng nguồn ngân sách Nhà nước, dự án đầu tư bằng nguồn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn tín dụng cho nhà nước bảo lãnh, dự án đầu tư bằng nguồn vốn huy động của doanh nghiệp và các nguồn vốn khác, dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗn hợp. 1.2. Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM 1.2.1. Khái niệm thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM Như ta đã biết dự án là tài liệu do chủ đầu tư chịu trách nhiệm soạn thảo trong bước nghiên cứu khả thi. Mặc dù trong dự án đã đề cập tất cả các khía cạnh liên quan đến hoạt động đầu tư một cách khá đầy đủ và chi tiết nhưng dẫu sao nó cũng không tránh khỏi tính chủ quan của người lập dự án và những khiếm khuyết, lệch lạc còn tồn tại trong quá trình lập dự án là lẽ đương nhiên. Để khẳng định được một cách chắc chắn hơn mức độ hợp lý và hiệu quả, tính khả thi của dự án cũng như quyết định đầu tư thực hiện dự án, cần xem xét, kiểm tra lại dự án một cách độc lập với quá trình chuẩn bị, soạn thảo dự án, hay nói cách khác cần thẩm định dự án. Thẩm định dự án được tiến hành chủ yếu đối với giai đoạn xác định dự án, phân tích và lập dự án, duyệt dự án. Nội dung thẩm định dự án thường bao gồm: thẩm định kỹ thuật, thẩm định kinh tế xã hội và thẩm định tài chính. Trên phương diện tài trợ vốn cho các dự án, các ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tài chính-tín dụng đặc biệt quan tâm đến vấn đề này, qua thẩm định dự án sẽ khẳng định được tính hiệu quả và an toàn của việc đầu tư. Nhờ đó mà tổ chức tài chính -tín dụng có được cơ sở vững chắc trong quá trình quyết định tài trợ vốn. Là người tài trợ cho dự án, NHTM đặc biệt quan tâm nhiều đến khả năng hoàn trả vốn và sinh lời của dự án, chính vì thế thẩm định dự án về mặt tài chính luôn được Ngân hàng đặt lên hàng đầu trong danh sách các nội dung cần thẩm định. Như vậy thẩm định tài chính là một nội dung lớn và quan trọng trong thẩm định dự án. Thẩm định tài chính dự án là rà soát lại, đánh giá một cách khoa học và toàn diện mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư: doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế , các cá nhân. Nếu như Chính phủ, các cơ quan quản lý vĩ mô quan tâm nhiều tới hiệu quả kinh tế xã hội của dự án thì các nhà đầu tư lại quan tâm nhiều hơn tới khả năng sinh lãi của dự án. Cùng với thẩm định kinh tế, thẩm định tài chính giúp các nhà đầu tư có những thông tin cần thiết để đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn. 1.2.2. Sự cần thiết của thẩm định tài chính dự án đối với NHTM Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - một lĩnh vực rất nhạy cảm của nền kinh tế. Ngân hàng dùng tiền của người khác để kinh doanh bằng cách cung cấp các khoản tín dụng cho những người có nhu cầu. Một trong những hoạt động tín dụng của Ngân hàng là tài trợ cho các dự án. Cho vay theo dự án là một xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển, đổi mới hoạt của các NHTM. Rủi ro của loại hình tín dụng này nói chung là cao song lợi nhuận lại rất lớn. Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của công tác thẩm định dự án đầu tư nên các NHTM cần phải tiến hành thẩm định dự án. Thẩm định dự án là công việc hết sức quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Bởi lẽ một dự án đầu tư thường đòi hỏi nhu cầu vốn lớn, thời gian dài, quá trình thực hiện đầu tư phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn, nhiều công việc theo một trình tự nhất định và cũng đòi hỏi công tác quản lý phức tạp. Hơn nữa dự án đầu tư là tài liệu do chủ đầu tư chịu trách nhiệm soạn thảo trong bước nghiên cứu khả thi nên còn mang nhiều tính chủ quan.Chính những điều này đòi hỏi dự án đầu tư nhất thiết phải trải qua một quá trình thẩm định kỹ càng. Thẩm định dự án không chỉ quan trọng đối với bản thân ngân hàng, các tổ chức tài chính-tín dụng mà nó còn có ý nghĩa to lớn đối với các chủ đầu tư và các cơ quan quản lý Nhà nước. Đối với chủ đầu tư, với tư cách người lập dự án thì đương nhiên chủ đầu tư sẽ biết rất rõ và tỷ mỷ về dự án đã trình. Tuy nhiên trên thực tế chủ đầu tư có rất nhiều dự án khác nhau trong cùng một giai đoạn và họ sẽ gặp khó khăn trong việc lựa chọn dự án. Doanh nghiệp tuy nắm vững được những vấn đề cụ thể thuộc phạm vi dự án nhưng đôi khi khả năng thu thập, nắm bắt thông tin mới của chủ đầu tư lại bị hạn chế, nhất là tình hình khu vực và quốc tế, những xu hướng kinh tế ,chính trị xã hội…Bên cạnh đó, một dự án dù được tiến hành soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu cũng vẫn mang tính chủ quan của người soạn thảo mà họ thường đứng trên góc độ hẹp để nhìn nhận vấn đề của dự án… Những điều này làm tăng rủi ro, giảm tính chính xác trong phán đoán của người soạn thảo. Việc thẩm định dự án được tiến hành độc lập với quá trình soạn thảo dự án cho phép chủ đầu tư nhìn nhận lại dự án của mình một cách khách quan hơn để phát hiện được những thiếu sót trong quá trình sọan thảo và bổ sung kịp thời, từ đó giúp chủ đầu tư chọn được phương án tối ưu nhất, xác định các mặt lợi, mặt hại khi đưa dự án vào vận hành. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng, mục đích thẩm định dự án là nhằm đánh giá được tính phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển chung của ngành, của địa phương và của cả nước trên các mặt : mục tiêu, quy mô, quy hoạch và hiệu quả. Tất cả các dự án đầu tư thuộc mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế đều phải đóng góp vào lợi ích chung của đất nước, bởi vậy, trước khi ra quyết định đầu tư hay cho phép đầu tư, các Cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cần biết xem dự án đó có góp phần đạt được mục tiêu của Quốc gia hay không, nếu có thì bằng cách nào và đến mức độ nào…Đồng thời việc thẩm định giúp xác định tính lợi hại và sự tác động của dự án khi đi vào hoạt động trên các khía cạnh như: ứng dụng công nghệ mới, trình độ sử dụng vốn, ô nhiễm môi trường cũng như các lợi ích kinh tế xã hội mà dự án đem lại. Đối với bản thân ngân hàng và các tổ chức tài chính – tín dụng thì thẩm định đóng vai trò then chốt trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của tín dụng là có nên cho vay hay không và cho vay như thế nào.Thông qua kết quả thẩm định cán bộ thẩm định có thể rút ra các kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra đối với dự án để ra quyết định đồng ý hay từ chối cho vay. Thẩm định dự án còn góp phần nâng cao tính khả thi của dự án, bởi lẽ thông qua những thông tin và kinh nghiệm đã đúc kết được trong quá trình thẩm định nhiều dự án khác nhau, ngân hàng thương mại chủ động tham gia góp ý với chủ đầu tư nhằm bổ sung điều chỉnh những nội dung còn thiếu sót trong dự án giúp cho chủ đầu tư giảm thiểu rủi ro đảm bảo hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án. Thông qua quá trình thẩm định ngân hàng sẽ có cơ sở để kiểm tra việc sử dụng vốn đúng mục đích và tiết kiệm vốn.Thẩm định cũng tạo ra cơ sở tương đối vững chắc để ngân hàng xác định số tiền vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý, đảm bảo vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, vừa có khả năng thu hồi vốn đúng hạn. Thẩm định một dự án có rất nhiều nội dung, tuy nhiên mối quan tâm của Ngân hàng là khả năng trả nợ đầy đủ và đúng hạn của khách hàng, đồng thời Ngân hàng có thế mạnh chuyên sâu về lĩnh vực tài chính cho nền thẩm định dự án về mặt tài chính được Ngân hàng chú trọng hơn cả. Việc thẩm định tài chính dự án sẽ giúp cho Ngân hàng đánh giá được mức độ khả thi của các dự án và ra quyết định: có tài trợ không? tài trợ dự án nào? quy mô tài trợ bao nhiêu, thời gian, lãi suất, quá trình giải ngân, quản lý và thu hồi nợ như thế nào. Như vậy thẩm định nhất là thẩm định tài chính dự án là cần thiết, nó là một bộ phận của công tác quản lý nhằm đảm bảo hoạt động cho vay có hiệu quả, mặt khác cũng không bỏ mất các cơ hội đầu tư. Tóm lại, để đảm bảo mục tiêu an toàn và sinh lời, NHTM nhất thiết phải thực hiện thẩm định tài chính dự án trước khi ra quyết định tài trợ. 1.2.3. Nội dung của thẩm định tài chính dự án 1.2.3.1. Dự toán vốn đầu tư Đây là nội dung quan trọng đầu tiên cần xem xét khi tiến hành thẩm định tài chính dự án. Tính toán chính xác tổng mức vốn đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng đối với tính khả thi của dự án : nếu vốn đầu tư dự tính quá thấp thì dự án có thể bị đổ vỡ do công trình không thể đưa vào thực hiện được, ngược lại nếu dự tính quá cao thì không phản ánh được chính xác hiệu quả tài chính của dự án. Tổng mức vốn đầu tư là toàn bộ chi phí đầu tư và xây dựng (kể cả vốn sản xuất ban đầu) và là giới hạn chi phí tối đa của dự án được xác định trong quyết định đầu tư. Tổng mức vốn đầu tư được xác định dựa trên cơ sở năng lực sản xuất theo thiết kế, khối lượng các công tác chủ yếu và sản xuất đầu tư, giá chuẩn hay đơn giá tổng hợp do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Hiện nay tổng mức vốn đầu tư được chia ra thành ba loại: Vốn cố định , vốn lưu động ban đầu và vốn đầu tư dự phòng. Tính toán về vốn cố định: Vốn cố định bao gồm toàn bộ chi phí có liên quan đến việc hình thành tài sản cố định từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến giai đoạn thực hiện đầu tư và giai đoạn kết thúc xây dựng dự án vào sử dụng cụ thể: chi phí chuẩn bị, giá trị nhà xưởng và kết cấu hạ tầng sẵn có được sử dụng cho dự án, chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo nhà xưởng cũng như kết cấu hạ tầng, chi phí mua máy móc thiết bị ,dụng cụ sản xuất phương tiện vận tải, chi phí chuyển giao công nghệ, chi phí đào tạo cán bộ và các chi phí khác. Tính toán về vốn lưu động: Vốn lưu động là số vốn tối thiểu cần thiết để đảm bảo cho việc dự trữ các tài sản lưu động nhằm đáp ứng cho nhu cầu hoạt động của dự án. Chỉ có vốn lưu động ban đầu (cho chu kỳ sản xuất đầu tiên của doanh nghiệp) mới được tính vào vốn đầu tư bao gồm: Vốn sản xuất: Chi phí nguyên liệu, điện nước, phụ tùng, bao bì, tiền lương… Vốn lưu thông: Sản phẩm dở dang, tồn kho, thành phẩm tồn kho, hàng hóa bán chịu, vốn bằng tiền, chi phí tiếp thị… Dự phòng vốn đầu tư: Do trong nền kinh tế giá cả nguyên vật liệu luôn biến động bên cạnh đó trong quá trình thi công công trình có thể gặp phải những rủi ro về kỹ thuật hoặc nảy sinh các chi phí bất thường nên cần phải dự trù một khoản dự phòng để sẵn sàng ứng phó với những bất trắc có thể xảy ra. Ngoài ra trong việc thẩm định, ngân hàng cần phải quan tâm đến cơ cấu vốn đầu tư bằng ngoại tệ, nội tệ để từ đó xác định nguồn ngoại tệ nào sẽ đảm bảo cho dự án được thực hiện. Tùy theo từng dự án chỉ có vốn lưu động (dự án ngắn hạn), song các dự án phức tạp thường bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu động, sai lầm hay mắc phải của các chủ đầu tư khi xây dựng dự án làchủ dự án không tính toán đầy đủ vốn lưu động hoặc không được tính . Căn cứ vào bảng dự trừ vốn, ngân hàng kiểm tra mức vốn đầu tư cho các hạng mục, tính toán tổng vốn đầu tư sát với nhu cầu thực tế. Điều đặc biệt có ý nghĩa quan trong thẩm định toàn bộ nội dung về tài chính là cán bộ thẩm định phải đảm bảo tính chính xác, hợp lý và độ tin cậy của các số liệu đưa vào tính toán chứ không nên căn cứ vào số liệu sẵn có trong dự án một cách máy móc rập khuôn như tính toán lại các phép tính mà chủ đầu tư đã làm. Sau khi thẩm định vốn đầu tư cuả dự án, Ngân hàng tiến hàng so sánh với dự tính ban đầu khi phê duyệt dự án, giải thích chênh lệch nếu có. Phương pháp dự toán bao gồm phương pháp dự báo theo tỷ phần doanh thu và phương pháp dự toán tổng thể. Phương pháp dự báo theo tỷ phần doanh thu thường được áp dụng đối với các dự án nhỏ, gắn kết trực tiếp với hoạt động thường ngày của doanh nghiệp còn phương pháp dự toán tổng thể áp dụng đối với các dự án lớn có thể được xem như doanh nghiệp có tính “độc lập cao”. Các phương thức tài trợ cho dự án thông thường bao gồm tài trợ bằng vốn chủ sở hữu, tài trợ bằng nợ, tài trợ bằng leasing và tài trợ kết hợp. Tài trợ dự án bằng vốn tự có: Phát hành cổ phiếu: doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu để tài trợ cho dự án. Có 2 loại là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường chính là những người sở hữu công ty, do đó họ có quyền đối với tài sản và sự phân chia tài sản hoặc thu nhập của công ty. Cổ tức của cổ phiếu thường phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của dự án. Cổ phiếu ưu tiên thường chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có cổ tức cố định. Người chủ của cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nhận cổ tức của kỳ đó. Thặng dư vốn: Thặng dư vốn là khái niệm chỉ chênh lệch giữa giá thị trường của cổ phiếu thường và mệnh giá của nó ở thời điểm phát hành Thu nhập giữ lại: trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để gia tăng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ thu nhập giữ lại để tái đầu tư, tài trợ cho các dự án mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là phương thức tài trợ có nhiều ưu điểm, giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài nên được nhiều doanh nghiệp rất coi trọng. Tài trợ cho dự án bằng nợ: Tín dụng ngân hàng: Ngân hàng là một nguồn vay quan trọng đối với các chủ đầu tư. Ngân hàng cung cấp các khoản tài chính rất đa dạng như ngắn hạn, trung hạn, dài hạn với lãi suất cố định hay biến đổi. Tuy nhiên, nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, điều kiện đảm bảo tiền vay, sự kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn. - Tín dụng thương mại: Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Đây là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh đồng thời tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Tuy nhiên nếu quy mô tài trợ quá lớn thì mức độ rủi ro cũng rất cao. - Phát hành trái phiếu: các doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu để tài trợ cho các dự án mới. Việc phát hành trái phiếu mang lại cho dự án nguồn tài chính dài hạn tuy nhiên không phải dự án nào cũng có thể sử dụng phương thức tài trợ này vì đòi hỏi chi phí phát hành lớn và uy tín của chủ thể phát hành. Tài trợ thông qua đi thuê: Thay vì vay vốn cũng có thể thuê thiết bị nhà máy hoặc thậm chí các đơn vị sản xuất hoàn chỉnh, nói cách khác các tài sản sinh lợi được mượn. Đổi lại, người thuê có nghĩa vụ trả một số tiền cho chủ tài sản tương xứng với quyền sử dụng và quyền hưởng dụng đó. Mỗi phương thức tài trợ đều có những đặc trưng riêng và có ảnh hưởng chi phối tới việc xác định dòng tiền phù hợp và lựa chọn lãi suất chiết khấu. 1.2.3.2. Dự tính các dòng tiền của dự án Sau khi thẩm định tổng mức vốn đầu tư, bước tiếp theo của quá trình thẩm định là thẩm định dòng tiền cuả dự án để tính toán các chỉ tiêu kinh tế tài chính của dự án.Dòng tiền của một dự án được hiểu là các khoản chi và thu được kỳ vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án. Dòng tiền ròng của dự án là mức chênh lệch giữa khoản thu và chi. Đây là vấn đề các ngân hàng thương mại đặc biệt quan tâm vì khả năng trả nợ vay của dự án phụ thuộc rất lớn vào kết quả kinh doanh hàng năm của chủ đầu tư. Chính vì vậy việc thẩm định về chi phí sản xuất, doanh thu, và lợi nhuận hàng năm của dự án là việc làm không thể thiếu trong thẩm định tài chính của dự án . Việc tính dòng tiền được thực hiện thông qua các báo cáo tài chính dự tính cho từng năm hay từng giai đoạn của đời dự án. Qua báo cáo tài chính nhà thẩm định sẽ thấy được tình hình hoạt động của dự án, nhưng trước hết phải lập được dự trù chi phí, doanh thu, lợi nhuận của dự án. Dự trù chi phí: bao gồm tất cả các khoản chi phí bỏ ra trong suốt quá trình kể từ khi bắt đầu bỏ vốn cho đến khi kết thúc dự án. Chi phí gồm có: - Chi phí vốn của dự án (vốn cố định và vốn lưu động): chi phí này diễn ra trong những năm của quá trình thực hiện xây dựng công trình và những chi phí để tạo ra tài sản lưu động ban đầu, các khoản chi phí thay thế hoặc mua sắm máy móc, thiết bị. - Thay đổi vốn lưu động ròng của dự án: Do trong các năm vận hành khai thác của dự án vốn lưu động có thể tăng hoặc giảm do thay đổi quy mô hoạt động… - Chi phí vận hành hàng năm: Dòng này bao gồm tất cả các khoản chi phí xảy ra trong những năm vận hành khai thác dự án: chi phí nguyên vật liệu, năng lượng, tiền lương công nhân, chi phí bảo dưỡng máy móc, thiết bị… Dự trù doanh thu: doanh thu từ hoạt động của dự án bao gồm doanh thu do bán sản phẩm chính, sản phẩm phụ, phế liệu…Doanh thu của dự án được dự tính cho từng năm hoạt động và dựa vào kế hoạch sản xuất và tiêu thụ hằng năm của dự án để xác định .Cần tính toán đầy đủ các nguồn thu như: Doanh thu từ sản phẩm chính, từ sản phẩm phụ... Do tiền có giá trị về thời gian nên chúng ta không thể so sánh các dòng tiền xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau mà phải quy chúng về một mốc để so sánh. Các nguyên tắc đánh giá dòng tiền của dự án bao gồm: Luồng tiền phù hợp: nghĩa là một sự thay đổi trong tổng luồng tiền trong tương lai của doanh nghiệp phải là hậu quả trực tiếp của việc thực hiện dự án. Nguyên tắc này đòi hỏi khi tính toán dòng tiền của dự án ta phải xem xét dự án đơn thuần với các giá trị độc lập với hoạt động khác hoặc dự án khác. Nguyên tắc này cũng dẫn đến một yêu cầu quan trọng là phải loại bỏ được chi phí chìm khi phân tích. Chi phí chìm là những chi phí đã trả hay phải trả mà việc chấp nhận hay không chấp nhận dự án không có ảnh hưởng tới các chi phí đó. Đưa chi phí cơ hội vào phân tích: Chi phí cơ hội là cơ hội thu nhập bị bỏ qua do chấp nhận dự án này mà không chấp nhận dự án khác. Ví dụ, khi thực hiện dự án doanh nghiệp phải sử dụng một diện tích đất 1.000 m2 để xây dựng nhà xưởng nghĩa là doanh nghiệp đã mất đi khoản thu nhập có thể thu được do cho thuê mảnh đất đó nếu dự án không được thực hiện. Chi phí cơ hội phải được cho vào khi tính toán dòng tiền của dự án. Tác dụng phụ: Khi dự án được thực hiện có thể có những tác động đến thu nhập hiện tại của doanh nghiệp như việc doanh nghiệp bị giảm doanh thu hiện tại do khách hàng chuyển sang sử dụng sản phẩm do dự án sản xuất ra. Tài sản lưu động ròng: Ngoài tài sản cố định, dự án còn đòi hỏi một lượng vốn dài hạn để đầu tư và tài sản lưu động ròng và lượng đầu tư này sẽ được thu hồi khi dự án kết thúc. Phân bổ chi phí quản trị chung: Chi phí quản trị chung là những chi phí hoạt động không liên quan trực tiếp tới bất cứ sản phẩm hay dịch vụ cụ thể nào của doanh nghiệp. Do đó các chi phí này cần được phân bổ cho các bộ phận và sản phẩm theo một tiêu thức nhất định. 1.2.3.3. Dự tính lãi suất chiết khấu Lãi suất chiết khấu chính là tỷ lệ sinh lời cần thiết mà nhà đầu tư yêu cầu đối với một dự án, là cơ sở để chiết khấu các dòng tiền trong việc xác định giá trị hiện tại ròng của dự án. Việc xác định chính xác lãi suất chiết khấu có ý nghĩa quyết định khi tính toán hiệu quả tài chính của dự án. Những nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất chiết khấu bao gồm: Cơ cấu vốn và chi phí của mỗi loại vốn Mức lãi suất tính toán còn chịu ảnh hưởng của độ rủi ro của dự án. Dự án có độ rủi ro lớn thì giá trị của lãi suất chiết khấu của dự án phải lớn. Khả năng và phương pháp huy động vốn: Khi nguồn vốn bị hạn chế, cần phải tăng lãi suất chiết khấu Mức lãi suất tối thiểu được sử dụng ở các công ty khác. Khi lãi suất chiết khấu sử dụng ở các dự án khác tăng lên, ngân hàng cũng có thể tăng lãi suất chiết khấu của dự án cần xem xét lên Lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp thực hiện dự án: nếu lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp cao thì mức thu lợi tối thiểu của dự án được chọn sẽ cao hơn và ngược lại. Tỉ lệ lạm phát cũng ảnh hưởng đến lãi suất tính toán. Nếu tỉ lệ lạm phát cao ngân hàng phải tăng mức lãi suất tính toán để đảm bảo mức lãi suất tính toán thực tế trong tương lai và ngược lại. Phương pháp xác định lãi suất chiết khấu: - Khi vốn đầu tư là nợ Khi vốn đầu tư là vốn đi vay thì chủ đầu tư phải trả một lãi suất là Kd, Kd chính là chi phí của nợ vay khi chưa tính tới tác động của thuế. Do chi phí trả lãi vay được coi là chi phí hợp lý khi tính thuế nên doanh nghiệp tiết kiệm được một khoản thuế là Kd* T (T là thuế suất) vì vậy chi phí nợ vay sau thuế là: Chi phí nợ vay sau thuế = Kd*(1-T) Ví dụ: nếu doanh nghiệp A vay tiền với lãi suất 10% và thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 40% thì chi phí nợ vay sau thuế là: 10%*(1-0.4) = 6% Nói tóm lại, đối với những dự án mới, nếu vốn tài trợ cho dự án hoàn toàn là nợ thỉ lãi suất chiết khấu được sử dụng để chiết khấu các dòng tiền có thể được xem là chi phí nợ sau thuế bằng Kd*(1-T) - Khi vốn đầu tư là vốn chủ sở hữu: Chi phí cổ phiếu ưu tiên: Chi phí của cổ phiếu ưu tiên (Kp) được._. xác định bằng cách lấy cổ tức ưu tiên (DP) chia cho giá phát hành thuần của cổ phiếu (Pn) – là giá mà doanh nghiệp nhận được sau khi đã trừ chi phí phát hành: Chi phí của lợi nhuận không chia: Chi phí của lợi nhuận không chia là tỉ lệ cổ tức mà người nắm giữ cổ phiếu thường yêu cầu đối với dự án mà doanh nghiệp đầu tư bằng lợi nhuận không chia. Thực tế có ba phương pháp thường được sử dụng để xác định chi phí lợi nhuận không chia: phương pháp CAPM, phương pháp luồng tiền chiết khấu, phương pháp lấy lãi suất trái phiếu cộng với phần thưởng rủi ro Phương pháp CAPM: Sử dụng phương trình CAPM để xác định tỷ lệ lợi tức mong đợi đối với cổ phiếu đang xét: Ks = KRS + (KRM + KRF)*βi Trong đó: KRS: Lợi tức của tài sản phi rủi ro KRM: Lợi tức của cổ phiếu có độ rủi ro trung bình β:Hệ số bêta của cổ phiếu Ks:Lợi tức mong đợi đối với cổ phiếu đang xét Phương pháp luồng tiền chiết khấu: Theo phương pháp này tỷ lệ cổ tức yêu cầu đối với cổ phiếu thường được xác định bởi phương trình sau: Trong đó: D1: Cổ tức mong đợi được trả vào cuối năm thứ nhất P0: Giá hiện tại của cổ phiếu G : tỉ lệ tăng trưởng của cổ tức mong đợi Phương pháp lãi suất trái phiếu cộng với mức bù rủi ro: theo phương pháp này Ks được xác định bằng việc cộng một mức bù rủi ro khoảng từ 3-5% vào lãi suất nợ dài hạn của doanh nghiệp. Ks = Lãi suất trái phiếu + Phần thưởng rủi ro Chi phí cổ phiếu thường mới: Việc phát hành cổ phiếu mới cần phải tính đến các chi phí phát hành do đó chi phí của cổ phiếu mới sẽ là: Ke = D1 + g P0(1-F) Trong đó: P0: Giá của cổ phiếu Ke: Chi phí của cổ phiếu mới F: Chi phí phát hành - Khi vốn đầu tư gồm nợ và vốn chủ sở hữu thì lãi suất chiết khấu là chí phí vốn bình quân: WACC = Wd x Kd + Wc x Ks Trong đó : Wd là tỷ trọng của vốn vay trong tổng mức vốn đầu tư Wc là tỷ trọng của vốn tự có của doanh nghiệp Kd là chi phí của nợ vay ngân hàng Ks là chi phí vốn tự có 1.2.2.4. Phân tích rủi ro dự án Các dự án đầu tư được sọa thảo và tính toán hiệu quả kinh tế dựa trên cơ sở dự kiến quá trình kinh doanh, thu lợi nhuận sẽ diễn ra trong tương lai. Trong nền kinh tế thị trường, các số liệu dự báo thường xuyên có sự biến đổi đặc biệt là trong tương lai xa do đó khả năng dự án gặp phải rủi ro là không tránh khỏi. Chính vì vậy cần có những phương pháp và công cụ dự báo rủi ro dự án. Qua các công cụ này, các nhân tố gây rủi ro và ảnh hưởng của chúng đến dự án sẽ được lượng hóa, nhờ vậy chủ đầu tư có cơ sở đánh giá và đề ra những biện pháp hạn chế rủi ro cho dự án. Có nhiều phương pháp phân tích rủi ro dự án .Phổ biến và đơn giản nhất là phân tích độ nhạy và phân tích tình huống. Phân tích độ nhạy: là phương pháp nhằm phân tích sự biến động của NPV và IRR khi các biến đầu vào thay đổi. Người phân tích có thể cho một biến thay đổi trong khi cố định các biến còn lại hoặc đồng thời cho nhiều biến thay đổi. Trong khi phân tích độ nhạy, người ta đặc biệt quan tâm đến giới hạn của sự thay đổi để từ đó có thể ký hợp đồng để sự thay đổi không vượt qua mức giới hạn cho phép. Khi NPV rất nhạy cảm với một thay đổi nhỏ của một yếu tố, ta nói rủi ro dự tính đối với yếu tố đó là cao. Phân tích tình huống: được sử dụng trong phân tích đánh giá dự án trong trường hợp có nhiều khả năng và rủi ro bằng việc tính kỳ vọng toán của các biến cố. Trong phân tích tình huống, người ta thường xem xét tới tình huống xấu nhất, tình huống tốt nhất và tình huống trung gian giữa tốt và xấu gọi là tình huống cơ sở. Trong tình huống xấu nhất, ta cho các khoản mục có giá trị bất lợi nhất như: giá bán thấp nhất, lượng bán thấp nhất hay chi phí cao nhất. Ngược lại, trong tình huống tốt nhất ta cho các khoản mục có giá trị có lợi nhất. Từ đó phân tích mức độ biến thiên của NPV và IRR để đánh giá rủi ro của dự án. 1.2.2.5. Các chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án Các chỉ tiêu tài chính chủ yếu để đánh giá hiệu quả của dự án bao gồm: Giá trị hiện tại ròng (NPV), tỷ suất nội hoàn (IRR), tỷ suất nội hoàn điều chỉnh (MIRR), thời gian hoàn vốn (PP), chỉ số doanh lợi (PI), chỉ tiêu cân đối Lợi ích- Chi phí (B/C), lợi nhuận kế toán bình quân (APP), điểm hoà vốn (BP). a/ Giá trị hiện tại ròng (NPV) Giá trị hiện tại ròng của dự án là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu tư bỏ ra được hiện tại hoá ở mốc 0. NPV phản ánh kết quả lỗ, lãi của dự án theo giá trị hiện tại (tại thời điểm 0) sau khi đã tính đến chi phí cơ hội của vốn đầu tư. Công thức tính: Trong đó: CF0: Vốn đầu tư bỏ ra ban đầu, giả định vốn đầu tư được bỏ ra một lần, vào đầu năm thứ nhất của dự án CFt: Dòng tiền xuất hiện tại năm thứ t của dự án, t chạy từ 1 đến n n: Số năm thực hiện dự án k: Lãi suất chiết khấu, giả định là không thay đổi trong các năm Từ công thức trên có thể thấy NPV nhạy cảm với lãi suất chiết khấu. Khi r thay đổi thì NPV thay đổi, đây chính là nhược điểm của phương pháp hiện tại hoá. Dự án thường phải chịu những khoản chi phí lớn trong những năm đầu, khi vốn đầu tư đi vào hoạt động. Bởi vậy, khi lãi suất tăng giá trị hiện tại của dòng thu nhập sẽ giảm nhanh hơn giá trị của chi phí, do đó NPV sẽ giảm xuống. Khi r vượt qua một mức nào đó, NPV sẽ chuyển từ dương sang âm. Từ những nội dung trên, chúng ta thấy NPV có ưu nhược điểm sau: Ưu điểm: + NPV đo lường trực tiếp phần lợi nhuận mà dự án đóng góp vào tài sản của chủ doanh nghiệp + Sử dụng chi phí cơ hội về sử dụng vốn làm tỷ lệ chiết khấu + NPV giả định rằng những khoản thu nhập tạm thời được tái đầu tư với tỷ lệ sinh lời bằng tỷ lệ chi phí sử dụng vốn + Quyết định chấp nhận hay từ chối và xếp hạng các dự án phù hợp với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của chủ doanh nghiệp Nhược điểm: + Phương pháp NPV chỉ cho biết lợi nhuận tuyệt đối, không cho biết lợi nhuận tương đối do đó việc đánh giá không được toàn diện. + Độ tin cậy của NPV phụ thuộc vào khả năng lựa chọn lãi suất chiết khấu. b/ Tỉ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) Tỷ suất hoàn vốn nội bộ là trường hợp đặc biệt của lãi suất chiết khấu, ở đó giá trị hiện tại ròng (NPV) của dự án bằng 0 (tức là mức lãi suất chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại của dòng lợi ích bằng giá trị hiện tại của dòng chi phí. Ý nghĩa: IRR phản ánh tỷ suất hoàn vốn của dự án, dựa trên giả định các dòng tiền thu được trong các năm được tái đầu tư với lãi suất bằng lãi suất chiết khấu. Trong đó: NPV: giá trị hiện tại ròng của dự án CFt: Dòng tiền xuất hiện tại năm thứ t của dự án CF0: Vốn đầu tư bỏ ra ban đầu Khác với NPV, việc tính trực tiếp IRR là một việc hết sức khó khăn phức tạp. Vì vậy, IRR được tính bằng phương pháp nội suy. Theo phương pháp này cần tìm 2 lãi suất r1 và r2 sao cho ứng với lãi suất nhỏ hơn (giả sử r1) ta có NPV >0 còn lãi suất kia (r2) sẽ làm NPV <0, r* cần tính ứng với NPV = 0 sẽ nằm giữa 2 lãi suất r1 và r2. r* được nội suy theo công thức: IRR = R1 + NPV1(r2 - r1) ÷NPV1÷ +÷NPV2÷ Nếu khoảng cách giữa các giá trị r* với r1 và r2 còn lớn, chúng ta có thể tiếp tục nội suy với cặp r* và r1 hay với cặp r* và r2 để xác định đúng hơn IRR. Khi sử dụng phương pháp nội suy, không nên nội suy quá rộng, cụ thể là khoảng cách giữa hai lãi suất được chọn không nên vượt mức 5%. Ngoài ra, cần thận trọng khi xác định lãi suất ban đầu Chỉ tiêu IRR có những ưu nhược điểm sau Ưu điểm: + Không gặp phải khó khăn đối với việc lựa chọn lãi suất chiết khấu như khi tính NPV + Quyết định chấp thuận hay từ chối đối với các dự án độc lập phù hợp với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của chủ doanh nghiệp. + Đo lường bằng tỷ lệ phần trăm nên dễ dàng so sánh với chi phí sử dụng vốn. Nhược điểm: + Không đo lường trực tiếp ảnh hưởng của một dự án đối với lợi nhuận của chủ doanh nghiệp. + Dễ tạo ra sự ngộ nhận rằng thu nhập của dự án có thể được tái đầu tư với tỷ lệ sinh lời bằng IRR. + Có thể dẫn đến quyết định không đúng trong việc so sánh, lựa chọn cac dự án loại trừ nhau. c/ Chỉ số doanh lợi (PI) Chỉ số doanh lợi là chỉ số phản ánh khả năng sinh lợi của dự án, tính bằng tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền trong tương lai chia cho vốn đầu tư bỏ ra ban đầu. Ý nghĩa: PI cho biết một đồng vốn bỏ ra sẽ tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập. Thu nhập này chưa tính đến chi phí vốn đầu tư đã bỏ ra. PI càng cao thì dự án càng dễ được chấp nhận, nhưng tối thiểu phải bằng lãi suất chiết khấu. PI khắc phục được nhược điểm của những dự án có thời hạn khác nhau hay vốn đầu tư khác nhau vì nó phản ánh khả năng sinh lời của 1 đồng vốn đầu tư của cả vòng đời dự án. Tuy nhiên, vì là số tương đối nên nó không phản ánh được quy mô gia tăng giá trị cho chủ đầu tư như NPV. d / Thời gian hoàn vốn (PP) Thời gian hoàn vốn đầu tư thời gian để chủ đầu tư thu hồi được số vốn đã đầu tư vào dự án. Ý nghĩa: PP phản ánh thời gian thu hồi vốn đầu tư vào dự án; nó cho biết sau bao lâu thì dự án thu hồi đủ vốn đầu tư; do vậy PP cho biết khả năng tạo thu nhập của dự án từ khi thực hiện cho đến khi thu hồi đủ vốn. Tiêu chuẩn thời gian thu hồi vốn đầu tư được sử dụng vào việc lựa chọn dự án đầu tư và được thực hiện như sau: Trước hết loại bỏ các dự án đầu tư có thời gian thi công kéo dài không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Xếp các dự án có thời gian thi công như nhau vào một loại Xác định thời gian thu hồi vốn đầu tư của mỗi dự án. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ chọn dự án có thời gian thu hồi vốn đầu tư phù hợp với thời gian thu hồi vốn mà doanh nghiệp dự tính Thông thường doanh nghiệp đề ra khoảng thời gian tối đa thu hồi vốn đầu tư. Như vậy, những dự án có thời gian thu hồi vốn dài hơn thời gian tối đa dự định sẽ bị loại bỏ. Nếu 2 dự án thuộc loại loại trừ nhau thì dự án có thời gian thu hồi vốn ngắn hơn thường được chọn. Những ưu nhược điểm của chỉ tiêu này là: Ưu điểm: + Đơn giản, dễ tính, cho phép nhìn nhận dự án một cách trực quan hơn. + Phù hợp với việc xem xét các dự án quy mô vừa và nhỏ hoặc với doanh nghiệp kinh doanh với chiến lược thu hồi vốn nhanh tăng vòng quay vốn. Nhược điểm: + Chú trọng xem xét lợi ích ngắn hạn hơn là lợi ích lâu dài, ít chú trọng đến việc xem xét các khoản thu sau thời gian thu hồi vốn, do đó những dự án đầu tư có mức sinh lợi chậm như sản xuất ra sản phẩm mới hay xâm nhập vào thị trường mới…không thích hợp khi dùng chỉ tiêu này. + Việc lựa chọn dự án đầu tư theo tiêu chuẩn thời gian thu hồi vốn đầu tư cũng không chú trọng đến yếu tố thời gian của tiền tệ hay nói cách khác nó không chú ý đến thời điểm phát sinh của các khoản thu, các đồng tiền thu được ở thời điểm khác nhau được đánh giá như nhau. e/ Lợi nhuận kế toán bình quân (AAP) AAP là lợi nhuận kế toán thuần tuý bình quân trong các năm của dự án. Đây là chỉ tiêu được sự dụng kết hợp với NPV. Ý nghĩa: AAP phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận về mặt kế toán, trong các năm thực hiện dự án. APP cho biết dự án tạo ra bao nhiêu lợi nhuận bình quân trong các năm của dự án. AAP chỉ xem xét lợi nhuận thuần tuý về mặt kế toán chứ không tính đến giá trị thời gian của tiền. Do vậy, nó không phản ánh chính xác khả năng sinh lời của dự án AAP càng cao thì dự án càng mang lại nhiều thu nhập cho chủ đầu tư. Nếu có nhiều dự án thì dự án có AAP dương cao nhất sẽ được chấp nhận. f / Điểm hoà vốn (BP) Điểm hoà vốn là mức sản lượng mà tại đó nhà đầu tư thu hồi vốn đầu tư. Mục đích của phân tích điểm hoà vốn là nhằm xác định điểm cân bằng tại đó doanh thu bán hàng bằng với chi phí của sản phẩm bán ra. Khi bán hàng (và sản xuất tương ứng) nằm dưới điểm này công ty sẽ bị lỗ. Doanh thu tại điểm hoà vốn biểu thị giá trị doanh thu hoà vốn và đơn giá cho một sản phẩm trong điều kiện này được gọi là giá bán hoà vốn. Công thức tính: Qhv = FC/(P-AVC) Trong đó: Qhv: Sản lượng hoà vốn FC: Tổng chi phí cố định – là chi phí không thay đổi khi sản lượng sản xuất thay đổi. AVC: Chi phí biến đổi tính trên một đơn vị sản phẩm, AVC thay đổi khi sản lượng thay đổi. P: Giá bán BP không quan tâm đến giá trị thời gian của tiền và khả năng tiêu thụ sản phẩm sau khi thu hồi vốn đầu tư, do vậy, khó có thể so sánh những dự án có thời gian khác nhau và vốn đầu tư khác nhau bằng chỉ tiêu này. 1.2.4 Chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án mục đích cuối cùng vẫn là để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính cũng như chất lượng thẩm định nói chung. Vì vậy cần phải hiểu chất lượng thẩm định tài chính là gì. Chất lượng của thẩm định tài chính dự án được hiểu là mức độ đạt yêu cầu của tập hợp các tiêu chí bao gồm quy trình thẩm định, nội dung thẩm định, phương pháp thẩm định. Yêu cầu ở đây là bao gồm cả yêu cầu từ phía ngân hàng và yêu cầu của khách hàng. Đứng ở vị trí người cho vay ngân hàng phải đảm bảo khoản vay sẽ thu được cả gốc và lãi đúng thời hạn do đó yêu cầu đặt ra là phải đánh giá được chính xác hiệu quả tài chính của các dự án trong thời gian ngắn nhất và chi phí thẩm định là thấp nhất. Đứng vị trí của người cung cấp dịch vụ, ngân hàng phải cố gắng để những dịch vụ của mình đáp ứng yêu cầu khách hàng bao gồm yêu cầu về lượng vốn được vay, lãi suất, thời hạn vay và thời gian nhận được câu trả lời từ ngân hàng để tránh bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Để đánh giá một cách chính xác chất lượng thẩm định tài chính dự án không phải việc đơn gian, đôi khi phải đến khi dự án kết thúc thì mới có câu trả lời cuối cùng về chất lượng của cuộc thẩm định đó. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể xây dựng được các tiêu chuẩn cần thiết để có thể quản lý được chất lượng thẩm định tài chính trong các ngân hàng thương mại như: thời gian thẩm định, chi phí thẩm định, chất lượng các báo cáo thẩm định… 1.2.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay tại NHTM. Công tác thẩm định tài chính dự án ở ngân hàng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, do đó để có được kết quả tốt nhất về thẩm định tài chính thì việc trước tiên là cần phải xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định tài chính nhằm tìm ra các hướng giải pháp hiệu quả. Thông thường công tác thẩm định tài chính chịu sự tác động của hai nhóm nhân tố, đó là nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. 1.2.5.1 Nhân tố chủ quan. * Kiến thức chuyên môn, năng lực thẩm định, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ thẩm định của ngân hàng : Đây là nhân tố quan trọng nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến công tác thẩm định dự án. Cán bộ thẩm định là những người trực tiếp tiến hành thẩm định, trình độ của cán bộ thẩm định có ảnh hưởng đến quy trình nghiệp vụ thẩm định có được thực hiện đúng và đạt chất lượng cao hay không. Thẩm định tài chính dự án là việc đưa ra quyết định đầu tư trên quan điểm cá nhân nhưng chất lượng thẩm định lại ảnh hưởng đến hoạt động của cả ngân hàng. Số liệu mà doanh nghiệp cung cấp, thông tin trên thị trường, áp dụng phương pháp, chỉ tiêu, kỹ thuật thẩm định như thế nào để phân tích, đánh giá nhằm đưa ra quyết định cuối cùng là đầu tư hay không đầu tư hoàn toàn phụ thuộc vào kinh nghiệm và trình độ của người thẩm định. Hơn nữa, thẩm định tài chính dự án không phải là nghiệp vụ đơn giản, đòi hỏi cán bộ thẩm định không những phải có kiến thức chuyên sâu về nghiệp vụ, am hiểu các lĩnh vực cho vay, đầu tư của ngân hàng mà còn phải hiểu biết các vấn đề có liên quan như thị trường, khoa học công nghệ, thuế…Sự hiểu biết, những kiến thức về khoa học, kinh tế, xã hội mà cán bộ thẩm định có được phải thông qua đào tạo, tự bồi dưỡng hay tích luỹ kinh nghiệm thông qua hoạt động thực tiễn mà có. Nhưng thực tế cho thấy, một số cán bộ lại khá lúng túng khi phải phân tích, đánh giá dự án trên các lĩnh vực mà mình phụ trách, điều này khiến cán bộ thẩm định chưa đưa ra được những nhận xét, đánh giá sắc bén về hiệu quả của dự án. Bên cạnh trình độ, kinh nghiệm của cán bộ thẩm định, tính kỷ luật và phẩm chất đạo đức cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ công việc, đến sự an toàn trong hoạt động cho vay và mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Những sai lầm trong thẩm định dự án do con người gây ra dù vô tình hay cố ý đều dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng. Như vậy, có thể nói rằng năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ thẩm định là nhân tố quyết định chất lượng của công tác thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng. * Phương pháp và các tiêu chuẩn thẩm định: Phương pháp thẩm định là một yếu tố có ảnh hưởng lớn đến công tác thẩm định tài chính dự án. Với nguồn thông tin có được, cán bộ thẩm định phải lựa chọn phương pháp thẩm định nào cho thích hợp vì mỗi một dự án có các đặc trưng nhất định, không phải bất cứ dự án nào cũng có thể áp dụng được tất cả chỉ tiêu trong hệ thống. Một quy trình, nội dung và phương pháp phù hợp, khách quan, khoa học và đầy đủ là cơ sở đảm bảo chất lượng thẩm định tài chính dự án, ngược lại, một nội dung, quy trình và phương pháp bất hợp lý chắc chắn sẽ dẫn tới kết quả thẩm định tài chính không cao và khi dựa vào kết quả đó để đưa ra kết luận tài trợ, ngân hàng có thể sẽ gặp rủi ro. * Thông tin sử dụng trong quá trình thẩm định: Trong quá trình thẩm định dự án, ngân hàng phải tiến hành thu thập các tài liệu, thông tin cần thiết để cho phân tích đánh giá doanh nghiệp, dự án. Cán bộ thẩm định phải thưòng dùng các số liệu mà doanh nghiệp cung cấp như: báo cáo tài chính của doanh nghiệp, hồ sơ dự án… làm căn cứ để từ đó phân tích, tổng hợp đánh giá để đưa ra quyết định cuối cùng. Tuy nhiên, để được vay vốn, các doanh nghiệp thường đưa ra những số liệu không chính xác như: tình hình tài chính lành mạnh, một dự án khả thi với chi phí đầu vào thấp, doanh thu cao, tạo ra hiệu quả kinh tế cao… nhằm che lấp những rủi ro của dự án. Các nguồn số liệu này đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thẩm định, dẫn đến quyết định thiếu chính xác. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, các tiến bộ về khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, quan hệ cung cầu trên thị trường luôn biến động nên nếu các nguồn số liệu này phản ánh đúng tình hình tài chính của doanh nghiệp và dự án thì cán bộ thẩm định cũng không thể dựa hoàn toàn vào số liệu đó để tiến hành công việc. * Trang thiết bị, công nghệ phục vụ cho hoạt động thẩm định: Bên cạnh trình độ năng lực của cán bộ thẩm định thì cơ sở vật chất của ngân hàng cũng là một yêú tố ảnh hưởng đến chất lượng của công tác thẩm định. Cơ sở vật chất của ngân hàng bao gồm: các phương tiện, trang thiết bị, máy vi tính, được kết nối mạng thông tin toàn cầu Internet...khi được trang bị đầy đủ, cán bộ thẩm định sẽ tính toán các hệ số, chỉ tiêu kinh tế của dự án nhanh hơn, chính xác hơn. Nếu có hệ thống máy tính hiện đại, được nối mạng, cán bộ thẩm định sẽ thu thập được nhiều nguồn thông tin của khách hàng một cách nhanh nhất, tin cậy nhất…từ đó người thẩm định sẽ rút ra được những nhận xét, đánh giá được sự thích ứng của dự án đối với các điều kiện biến động của thị trường, tính khả thi của dự án…nhằm giúp cán bộ thẩm định đưa ra quyết định cuối cùng là cho vay hay không cho vay một cách chính xác nhất. * Tổ chức điều hành, kiểm tra, giám sát thẩm định của ngân hàng: Thẩm định tài chính dự án là tập hợp nhiều hành động, liên quan chặt chẽ với nhau nên việc phân cấp điều hành là rất cần thiết để từ đó có thể đưa thẩm định trở thành một quy trình kép kín, tránh tình trạng làm việc không khoa học, tận dụng được mặt mạnh và hạn chế được những điểm yếu của mỗi cá nhân, làm giảm bớt chi phí và rút ngắn thời gian tiến hành thẩm định nhưng để làm được điều này, cần có sự phân công chặt chẽ nhiệm vụ của mỗi cá nhân, tận dụng tối đa năng lực sáng tạo và sức mạnh tập thể, đồng thời tạo ra được cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ thì những rủi ro trong công tác thẩm định sẽ được hạn chế, góp phần nâng cao chất lượng thẩm định. 1.2.5.2 Nhân tố khách quan. * Sự trung thực, hợp tác của chủ đầu tư: Chủ đầu tư là một nhân tố không thể không xét tới bởi thái độ trung thực hay không trung thực sẽ quyết định một phần không nhỏ tới chất lượng thẩm định tài chính dự án. Rõ ràng thông tin phục vụ cho quá trình thẩm định phần lớn là do chủ đầu tư cung cấp, đó là nguồn chủ yếu để ngân hàng thực hiện việc phân tích, đánh giá. Một thực tế đang tồn tại lâu nay các doanh nghiệp không cung cấp các số liệu chính xác nhằm tăng sự hấp dẫn cho các dự án. Điều này gây không ít khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như tăng tính rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Vì vậy tính trung thực, kịp thời của thông tin do chủ dự án cung cấp - đặc biệt là thông tin tài chính sẽ tác động không nhỏ đến kết quả thẩm định tài chính của ngân hàng. * Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước: Những yếu tố thuộc sự quản lý vĩ mô của Nhà nước như cơ chế, chính sách về các vấn đề kinh tế, xã hội sẽ có ảnh hưởng nhất định tới công tác thẩm định nói chung và thẩm định tài chính nói riêng. Chỉ có sự ổn định của nền kinh tế cũng như các chính sách vĩ mô mới là cơ sở tốt nhất và quan trọng nhất cho các nhà đầu tư ra quyết định bỏ vốn và tính hiệu quả của dự án được phản ánh chính xác vì sự đảm bảo của thẩm định tài chính dự án. Với ngân hàng đó là điều kiện thuận lợi và an toàn khi đưa ra quyết định chấp nhận hay bác bỏ dự án. * Nhân tố khác: Vòng đời của dự án, tình hình kinh tế, sức ép cạnh tranh trong ngành, những rủi ro bất khả kháng như thiên tai, chiến tranh…làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới dự án, doanh nghiệp không thể chống đỡ nổi. Những nhân tố này luôn thay đổi và nằm ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng và gây ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Các nhân tố khác nhau có ảnh hưởng khác nhau tới công tác thẩm định. Về cơ bản, tuỳ vào điều kiện kinh tế xã hội, sự hoàn thiện môi trường vĩ mô cũng như khả năng quản lý, cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ của đội ngũ cán bộ của từng ngân hàng mà vận dụng một cách sáng tạo các ảnh hưởng của những nhân tố này vào tình hình thực tế để tìm ra biện pháp quản lý có hiệu quả để củng cố, hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án nói riêng và nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng nói chung. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI 2.1. Tổng quan về Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. 2.1.1. Lịch sử hình thành của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội được thành lập ngày 01/03/1985 theo quyết định số 177/NH của Tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Đây là thành viên thứ 6 của gia đình VCB. Chi nhánh ra đời trong điều kiện đất nước chuẩn bị chuyển sang bước ngoặt mới – thực hiện nghị quyết Đại hội VI của Đảng, mở cửa phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Trải qua hơn 20 năm hoạt động chi nhánh đã từng bước trưỏng thành và phát triển vững mạnh là một trong những thành viên chủ chốt của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam và đã được nhà nước công nhận là doanh nghiệp hạng một. Năm 2004 Ngân hàng ngoại thương Hà Nội vinh dự được chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huân Chương Lao Động Hạng Ba. Cùng với sự phát triển của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, chi nhánh có truyền thống kinh doanh đối ngoại, thanh toán quốc tế, các dịch vụ tài chính, ngân hàng quốc tế khác. Đến cuối năm 2007, chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã có mạng lưới rộng khắp thủ đô với: - 4 chi nhánh cấp hai - 8 phòng giao dịch - 1 quầy thu đổi ngoại tệ Đây là một trong những chi nhánh hàng đầu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, với hệ thống công nghệ thông tin hiện đại cung cấp các dịch vụ tự động hóa cao: VCB online, thanh toán điện tử liên ngân hàng, VCB money, i-banking, SMS banking, hệ thống máy rút tiền tự động ATM, thẻ Vietcombank Connect 24, Vietcombank MTV, Vietcombank MTV, Vietcombank SG24… hệ thống thanh toán SWIFT toàn cầu và mạng lưới đại lý trên 1400 Ngân hàng tại 85 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đảm bảo phục vụ tốt các yêu cầu của khách hàng. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của các phòng ban tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội Về cơ cấu tổ chức của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội gồm có 1 Giám đốc và 3 Phó Giám đốc phụ trách các phòng ban. Với sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, hợp lý đã tạo cho bộ máy của ngân hàng hoạt động linh hoạt và hiệu quả. Sau đây là sơ đồ tổ chức của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội: 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. 2.1.3.1 Huy động vốn Công tác huy động vốn của Chi nhánh năm 2007 đã được duy trì và phát triển tốt. Phát huy thế mạnh về uy tín, thương hiệu gần 45 năm của Vietcombank và với các phương pháp huy động hiệu quả, thực hiện thành công việc đưa các sản phẩm mới về huy động vào thị trường theo chủ trương của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, tổng nguồn vốn của chi nhánh tính đến 31/12/2007 đạt 7.088 tỷ đồng đạt kế hoạch Ngân hàng ngoại thương Việt Nam giao cho chi nhánh. - Huy động VNĐ đạt 3.433 tỷ đồng chiếm 54,47% tổng nguồn vốn huy động - Huy động ngoại tệ đạt 2.837 tỷ đồng chiếm 45,53 % tổng nguồn vốn huy động Biểu 2.1 Vốn huy động của Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội qua các năm ( không bao gồm VCSH) (đơn vị: tỷ đồng) ( Nguồn : Báo cáo thường niên các năm ) Sở dĩ có sự biến động giảm về nguồn vốn huy động như trên là do trong năm 2007 có 2 chi nhánh là Thành Công và Ba Đình đã được tách ra chuyển thành chi nhánh cấp I. Tuy nhiên, theo đánh giá khách quan thì nguồn vốn huy động của ngân hàng vẫn đang trên đà tăng trưởng tốt. Cơ cấu vốn huy động giữa tiền đồng và ngoại tệ có sự chuyển dịch theo hướng vốn huy động ngoại tệ giảm dần, đây cũng là xu hướng chung của các ngân hàng thương mại trong thời gian gần đây. Nguyên nhân dẫn đến sự chuyển dịch đó một phần là do việc giảm lãi suất cơ bản USD của Cục dự trữ liên bang Mỹ(Fed) trong tháng 9/2007 từ 5,25% xuống còn 4,75% và 4,25% vào tháng 12/2007 đã khiến lãi suất huy động USD của các ngân hàng thương mại trong nước giảm theo. Mặt khác do xu hướng cạnh tranh về huy động vốn giữa các ngân hàng đặc biệt là sự xuất hiện ngày càng nhiều các ngân hàng thương mại cổ phần mới. Huy động từ Tổ chức kinh tế đạt: 2.134 tỷ đồng, chiếm 34% tổng huy động vốn. Huy động từ Dân cư đạt: 4.136 tỷ đồng, chiếm 66% tổng vốn huy động. Đến 31/12/2007 thị phần huy động VND trên địa bàn Hà Nội tương ứng 1.41%; 2.92%; 1.84% so với mạng lưới 209 tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn. 2.1.3.2 Công tác tín dụng Công tác tín dụng của chi nhánh trong năm 2007 tiếp tục thực hiện với phương châm Hiệu quả & An toàn. Với nỗ lực của các cán bộ Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, dư nợ tính đến 31/12/2007 đạt 2.553 tỷ đồng đạt 88% kế hoạch năm 2007, chiếm 1.49% thị phần trên địa bàn Hà Nội. Số lượng khách hàng là các doanh nghiệp có vay vốn tại chi nhánh hiện là 133 khách hàng. Đến 31/12/2007, dư nợ quá hạn chiếm 0,87% tổng dư nợ. Biểu 2.2 Tổng dư nợ tại Ngân hàng Ngoại thương Hà nội qua các năm (đơn vị: tỷ đồng) ( Nguồn : Báo cáo thường niên các năm ) Cho vay trung dài hạn : chiếm 22,3% tổng dư nợ. Cho vay ngắn hạn: chiếm 77,7% tổng dư nợ. Bên cạnh đội ngũ khách hàng truyền thống về xuất nhập khẩu, mở các chương trình hỗ trợ về vốn cho khách hàng vừa và nhỏ để phát triển kinh doanh, Chi nhánh đang mở rộng thêm một loại hình cho vay thể nhân với nhiều hình thức cho vay ưu đãi, hấp dẫn: mua ôtô mới, sửa chữa nhà, phát triển kinh tế tư nhân, hộ gia đình, du học, mua biệt thự tại khu biệt thự, đầu tư xây dựng văn phòng ... Đến 31/12/2007, dư nợ tại bộ tín dụng thể nhân đạt 145 tỷ đồng, chiếm 5,7% tổng dư nợ. Nhìn chung, các khoản vay cá nhân có chất lượng tốt, đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng. 2.1.3.3 Thanh toán XNK và bảo lãnh : Từ đầu năm 2007 đến nay, hoạt động XNK có những thách thức mới do môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, các quy định rào cản về xuất khẩu ngày càng chặt chẽ, giá một số vật tư và dịch vụ đầu vào tăng làm hạn chế sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, tại VCB HN, doanh số thanh toán XNK vẫn đạt cao, có chất lượng tốt với tổng doanh số XNK đạt 435 triệu USD. Nhập khẩu đạt 246 triệu USD, vượt 8% kế hoạch đặt ra trong năm 2007, chủ yếu là các mặt hàng nhập khẩu nguyên vật liệu, may móc. Xuất khẩu đạt 189 triệu USD, vượt 69% kế hoạch đặt ra từ đầu năm, chủ yếu là các sản phẩm nông, lâm sản. Dư nợ bảo lãnh đến 31/12/2007 đạt 113 tỷ đồng. 2.2. Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. 2.2.1. Quy trình thẩm định tài chính dự án tại Chi nhánh Công tác thẩm định dự án tại Chi nhánh được thực hiện theo trình tự sau: Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn, cán bộ tín dụng yêu cầu khách hàng cung cấp các loại hồ sơ và thông tin cần thiết theo quy định, lập báo cáo thẩm định sơ bộ về khoản vay, nêu rõ ý kiến của mình về việc cho vay hay không cho vay, có ý kiến chỉ đạo của Trưởng phòng tín dụng và chịu trách nhiệm về ý kiến của mình trước cấp trên và trước pháp luật, chuyển cho tổ thẩm định. Nhận được báo cáo thẩm định về món vay cùng các loại hồ sơ do phòng Tín dụng chuyển sang, tổ trưởng tổ thẩm định rà soát, nếu thấy đầy đủ thì ký nhận hồ sơ, nếu thiếu thì đề nghị bổ sung. Tổ trưởng tổ thẩm định vào sổ theo dõi và phân công cán bộ thẩm định. Cán bộ thẩm định tiến hành thẩm định theo quy định, lập báo cáo thẩm định, có ý kiến cụ thể trong báo cáo thẩm định và chịu trách nhiệm trước cấp trên và trước pháp luật về các ý kiến đó. Nếu cho vay đề xuất mức cho vay, thời hạn lãi suất và các nội dung có liên quan khác, nếu không cho vay phải nêu rõ lý do vì sao không cho vay. Tổ trưởng tổ thẩm định kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp và tính chính xác của báo cáo thẩm định, tính hợp pháp của hồ sơ vay vốn, có ý kiến cụ thể trong báo cáo thẩm định và chịu trách nhiệm về ý kiến đó trước cấp trên và trước pháp luật. Sau khi báo cáo thẩm định được Giám đốc hoặc Phó Giám đốc phụ trách của Chi nhánh phê duyệt, tổ Thẩm định chuyển một bản báo cáo thẩm định cho Phòng tín dụng để hoàn tất các thủ tục còn lại, trình lãnh đạo nơi trực tiếp cho vay quyết định như: ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm nợ vay, các thông báo có liên quan…Hoặc phối hợp với phòng Tín dụng chuyển hồ sơ món vay kèm báo cáo thẩm định lên Ngân hàng cấp trên (nếu món vay vượt mức phán quyết cho vay của Chi nhánh) Thời hạn thẩm định món vay của phòng Thẩm định kể từ ngày nhậ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10657.doc