MỤC LỤC
PHỤ LỤC
LỜI CÁM ƠN
Bốn năm sinh viên dưới mái trường Đại học Kinh tế Quốc dân là khoảng thời gian vô cùng quý báu, bởi vì tại đây em được tiếp cận với nhiều kiến thức mới, nhiều thông tin quý báu về kinh tế, xã hội, chính trị và đặc biệt là kiến thức chuyên ngành Ngân hàng - Tài chính qua các bài giảng của các thầy cô và bạn bè .Cho em gửi tới thầy cô, và các bạn lời cảm ơn chân trọng nhất.
Trong thời gian thực tập vừa qua, được tiếp xúc với thực tế, được kiểm nghiệm giữa lý thuyế
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1515 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t và thực hành, em nhận thấy kiến thức cùng kinh nghiệm bản thân còn hạn chế, cần được bổ sung và định hướng. Em xin chân thành cảm ơn TS-Cao Ý Nhi đã tận tình hướng dẫn, chỉnh sửa giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Em cũng xin cảm ơn các anh chị Phòng khách hàng doanh nghiệp, và các phòng ban khác của Ngân Hàng TMCP Quân Đội đã tạo điều kiện cho em tiếp xúc với đơn vị và cung cấp nhiều tài liệu quý báu để em hoàn thành bài viết này. Bài viết của em không thể hoàn thiện nếu thiếu sự giúp đỡ đóng góp ý kiến nhiệt tình của các bạn sinh viên cùng lớp. Một lần nữa em xin chân trọng cảm ơn!
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nhiều năm qua cùng với sự phát triển của kinh tế khu vực, nền kinh tế nước ta cũng đã đạt được nhiều bước tiến đáng kể (GDP đạt khoảng 7-9%). Một trong những lĩnh vực thành công nhất là lĩnh vực Ngân hàng-Tài chính. Các hoạt động Ngân hàng phát triển mạnh mẽ, nổi bật là hoạt động bảo lãnh có số dư liên tục tăng qua các năm, hứa hẹn là một dịch vụ có lợi nhuận tiềm năng. Tuy nhiên, để bảo lãnh thực sự phát huy ưu điểm thì trước khi thực hiện bảo lãnh không thể xem nhẹ công tác phân tích tài chính của doanh nghiệp. Công tác này không chỉ quan trọng trong hoạt động bảo lãnh mà còn quan trọng trong nhiều hoạt dộng ngân hàng khác.
Mặc dù được soạn thảo về quy trình khá chặt chẽ song phân tích tài chính doanh nghiệp trước khi thực hiện bảo lãnh ở ngân hàng không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Chính vì vậy em lựa chọn đề tài : “Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong bảo lãnh tại Ngân hàng TMCP Quân Đội
Bố cục chuyên đề gồm 3 phần :
Chương I : Thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng thương mại.
Chương II : Thực trạng công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động bảo lãnh tại Ngân Hàng TMCP Quân Đội
Chương III : Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động bảo lãnh tại Ngân Hàng TMCP Quân Đội
Do kiến thức còn hạn chế nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được ý kiến nhận xét và đóng góp sửa chữa của thầy cô, cùng các bạn sinh viên để bài viết được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I
THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ngay từ những ngày đầu tiên ra đời, các nhà kinh doanh ngân hàng thương mại đã mang đến cho khách hàng của mình nhiều dịch vụ tài chính phong phú, đáp ứng hầu hết các nhu cầu tài chính tiêu dùng cá nhân cũng như tài chính doanh nghiệp.Trong đó phải kể tới bảo lãnh ngân hàng, một loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại, xuất hiện lần đầu tiên vào những năm 60 tại một thị trường nội địa nước Mỹ nhưng chỉ 10 năm sau đó nghĩa là vào đầu những năm 70, bảo lãnh bắt đầu được sử dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế và đến ngày nay dịch vụ bảo lãnh đã phát triển mạnh mẽ ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Không đứng ngoài xu thế đó, dịch vụ này trong những năm gần đây đã phát triển không ngừng và mang lại cho các ngân hàng thương mại Việt Nam nhiều lợi ích. Chúng ta sẽ cùng nghiên cứu bảo lãnh ngân hàng là gì và tính ưu việt nào của dịch vụ bảo lãnh khiến vị trí của nó ngày càng được củng cố một cách chắc chắn trong các loại giao dịch. Và vì sao trước khi cung ứng một gói dịch vụ bảo lãnh cho khách hàng, các cán bộ tín dụng ngân hàng phải thẩm định tài chính doanh nghiệp? Những thắc mắc trên đây sẽ được lý giải trong chương này.
1.1 Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm về hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Về cơ bản, quan hệ bảo lãnh ngân hàng gồm các bên như sau:
Bên bảo lãnh là các tổ chức tín dụng, bao gồm: ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng hợp tác, và các tổ chức tín dụng khác thành lập và hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng (gọi chung là các tổ chức tín dụng).
Bên được bảo lãnh là các tổ chức bao gồm:
Các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam như doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể.
Các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng.
Hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94 của Bộ luật Dân sự.
Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và tham gia đấu thầu các dự án đầu tư tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam.
Bên nhận bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng các cam kết bảo lãnh của các tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh. Trong đó, cam kết bảo lãnh là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín dụng hoặc văn bản thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng, khách hàng được bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động bảo lãnh
Nhìn chung, bảo lãnh ngân hàng có các đặc điểm sau đây:
Ngân hàng dựa trên chính uy tín của mình để cung ứng dịch vụ bảo lãnh cho khách hang: Ngân hàng đứng ra bảo đảm với bên nhận bảo lãnh rằng khách hàng của mình sẽ thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Nếu khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay thế. Nhờ đó, ngân hàng đã tạo được sự tin tưởng cho bên nhận bảo lãnh và góp phần làm cho các hoạt động thương mại giữa các bên được tiến hành nhanh chóng hơn, thuận tiện hơn.
Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ ngoại bảng: Do ngân hàng dùng uy tín của mình để cung cấp dịch vụ và ngay tại thời điểm phát hành bảo lãnh, ngân hàng chưa phải chịu trách nhiệm tài chính thay cho khách hàng nên bảo lãnh được theo dõi ngoại bảng. Vì thế trong thời gian bảo lãnh, tạm thời nghiệp vụ tín dụng này chưa tác động làm thay đổi nguồn vốn hay tài sản của ngân hàng phát hành. Nó sẽ được theo dõi nội bảng khi hết thời hạn bảo lãnh, nếu khách hàng không thực hiện được cam kết của mình với bên đối tác buộc ngân hàng phải chịu trách nhiệm thay thế. Có nghĩa là việc này tương đương với việc ngân hàng cấp cho khách hàng một món vay mà khách hàng phải có nghĩa vụ nhận nợ và hoàn trả nợ cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Bảo lãnh là mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau: Đối với một gói dịch vụ bảo lãnh thường có sự kết hợp giữa 3 hợp đồng độc lập. Một là hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh (hợp đồng gốc – hợp đồng giao dịch các loại), hai là hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh, cuối cùng là hợp đồng giữa bên nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh.
Bảo lãnh ngân hàng có tính độc lập so với hợp đồng: Mặc dù mục đích của bảo lãnh ngân hàng là bồi hoàn cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh trong quan hệ hợp đồng, nhưng việc thanh toán một bảo lãnh chỉ hoàn toàn căn cứ vào các điều khoản và điều kiện được quy định trong bảo lãnh.
Tính phù hợp của bảo lãnh: Khi người thụ hưởng bảo lãnh đến yêu cầu tổ chức tín dụng thanh toán thì tổ chức tín dụng có trách nhiệm kiểm tra các chứng từ do người thụ hưởng xuất trình. Tổ chức tín dụng bảo lãnh có quyền từ chối thanh toán nếu như chứng từ có dấu hiệu không hợp lệ hay những điều kiện của bảo lãnh không được đáp ứng.
1.1.3 Các loại Bảo lãnh Ngân hàng
Có nhiếu tiêu thức khác nhau để phân loại Bảo lãnh Ngân hàng như: căn cứ vào bản chất của bảo lãnh, căn cứ vào phương thức phát hành, vào điều kiện và quy trình…Nhưng đa phần các ngân hàng thương mại tại Việt Nam căn cứ vào theo mục đích bảo lãnh để phân loại.Và theo mục đích của bảo lãnh, bảo lãnh có thể được chia ra các loại sau:
Bảo lãnh vay vốn: là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh, về việc cam kết trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả nợ hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn. Bảo lãnh vay vốn gồm: bảo lãnh vay vốn trong nước và bảo lãnh vay vốn nước ngoài (chủ yếu dưới hình thức bảo lãnh mở L/C trả chậm)
Bảo lãnh thanh toán: là một bảo lãnh do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình khi đến hạn.
Bảo lãnh dự thầu: là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên mời thầu để bảo đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trong trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là bảo lãnh do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm việc thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trường hợp khách hàng không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng, ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm: là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên thụ hưởng bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thỏa thuận về chất lượng sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thỏa thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Bảo lãnh hoàn thanh toán: là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì tổ chức tín dụng sẽ hoàn trả số tiền ứng trước cho bên thụ hưởng bảo lãnh.
Bảo lãnh đối ứng: là một bảo lãnh do một tổ chức tín dụng (bên phát hành bảo lãnh đối ứng) phát hành cho một tổ chức tín dụng khác (bên bảo lãnh) về việc đề nghị bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh cho các nghĩa vụ của khách hàng của bên phát hành bảo lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh, bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên phát hành bảo lãnh đối ứng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng cho bên bảo lãnh.
Xác nhận bảo lãnh: là bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng (bên xác nhận bảo lãnh) phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng được xác nhận bảo lãnh (bên được xác nhận bảo lãnh) đối với khách hàng. Trường hợp bên được xác nhận bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình đã cam kết với bên nhận bảo lãnh thì bên xác nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được xác nhận bảo lãnh.
Đồng bảo lãnh: là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ của khách hàng thông qua một tổ chức làm đầu mối. Trong một số trường hợp, để giảm thiểu rủi ro các ngân hàng có thể thực hiện đồng bảo lãnh. Trường hợp này, một ngân hàng đứng ra đóng vai trò là ngân hàng đầu mối phát hành bảo lãnh và có sự tham gia của các ngân hàng thành viên khác. Nếu phải chi trả cho người thụ hưởng theo bảo lãnh đã lập, ngân hàng đầu mối có thể đòi bồi hoàn theo tỷ lệ tham gia của họ, dựa trên các bảo lãnh đối ứng do các ngân hàng này phát hành. Đến lượt mình, các ngân hàng này lại tiến hành truy đòi từ bên được bảo lãnh.
1.1.4 Tầm quan trọng của hoạt động bảo lãnh
Một nền kinh tế phát triển luôn tồn tại trong nó nhiều loại hình giao dịch đa dạng, bao gồm giao dịch tài chính lẫn phi tài chính, giao dịch thương mại lẫn phi thương mại. Sự an toàn trong các giao dịch luôn được coi là vấn đề của các doanh nghiệp. Với ra sụ đời của bảo lãnh đã góp phần như một chất xúc tác, giúp các bên đối tác tham gia bảo lãnh có thể tiến hành giao dịch một cách thuận lợi an toàn hơn, giúp cho nền kinh tế có đà phát triẻn nhanh hơn và vững chắc hơn .
Trong các giao dịch, bảo lãnh góp phần là một công cụ bảo đảm. Ngân hàng khi phát hành bảo lãnh đã đồng thời cam kết chi trả bồi thường khi xảy ra sự cố vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh, tạo một sự đảm bảo chắc chắn cho người nhận bảo lãnh. Với sự đảm bảo chắc chắn này khiến cho các hợp đồng được ký kết một cách dễ dàng thuận lợi và an toàn. Ngày nay khi giao thương phát triển vượt ra phạm vi một quốc gia, các đối tác có thể hoàn toàn không biết nhau, hoặc mối quan hệ làm ăn mới được hình thành lần đầu, hoặc họ xa xôi về địa lý… thì bảo lãnh gần như là một dịch vụ hoàn hảo đã khắc phục được những bất lợi này.
Ngoài công cụ bảo đảm, bảo lãnh còn là công cụ tài trợ cho người được bảo lãnh. Thông qua bảo lãnh, người được bảo lãnh không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh, được vay nợ hoặc được kéo dài thời gian thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ… Chính vì thế, mặc dù không trực tiếp cấp vốn như trong cho vay nhưng bảo lãnh ngân hàng giúp cho khách hàng được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như trong cho vay.
Tóm lại sự xuất hiện của nghiệp vụ bảo lãnh vừa mang lại lợi ích cho khách hàng, vừa mang lại một khoản thu phí cho ngân hàng vì vậy nghiệp vụ này ngày càng phát triển trong các ngân hàng thương mại.
1.1.5 Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh
Là một trong bốn nghiệp vụ tín dụng cơ bản của ngân hàng thương mại. Cũng giống như nghiệp vụ cho vay, trình tự và thủ tục của bảo lãnh bao gồm các khâu sau: tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng, quyết định bảo lãnh, ký hợp đồng, xử lý nợ quá hạn phát sinh khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Bước 1: Khách hàng lập và gửi hồ sơ đề nghị bảo lãnh.
Trong hồ sơ gồm có: Hồ sơ pháp lý, Giấy đề nghị bảo lãnh, Báo cáo tài chính, Báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh và các thông tin khác, Hồ sơ tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định.
Bước 2: Ngân hàng thẩm định hồ sơ và ra quyết định bảo lãnh.
Sau khi nhận được hồ sơ xin bảo lãnh của khách hàng, cán bộ tín dụng ngân hàng tiến hành thẩm định hồ sơ đó, chủ yếu là thẩm định các điều kiện bảo lãnh của khách hàng, tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh đã đủ tiêu chuẩn chưa. Tiếp đó, ngân hàng đưa ra quyết định bảo lãnh hay từ chối. Nếu không chấp nhận bảo lãnh, ngân hàng phải trả lời bằng văn bản cho khách hàng và nói rõ lý do. Nếu chấp thuận bảo lãnh, ngân hàng phải cân nhắc lựa chọn hình thức và nội dung bảo lãnh thích hợp nhất với yêu cầu của khách hàng cũng như khả năng, kinh nghiệm nghiệp vụ của ngân hàng.
Bước 3: Ngân hàng ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng và phát hành thư bảo lãnh.
Ngân hàng phát hành một bản cam kết bảo lãnh và gửi tới cho khach hàng. Ngân hàng kiểm tra theo dõi chặt chẽ tiến trình bảo lãnh nhằm phòng vệ rủi ro, đôn đốc khách hàng thực hiện các nghĩa vụ được bảo lãnh.
Bước 4: Khách hàng thanh toán phí bảo lãnh và các khoản phí khác (nếu có) theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo lãnh.
Phí bảo lãnh được tính cho mỗi khoản bảo lãnh theo công thức sau:
Phí bảo lãnh = Số dư bảo lãnh × Mức phí bảo lãnh × Thời gian bảo lãnh
Trong đó:
- Số dư bảo lãnh là số tiền đang còn được bảo lãnh.
- Thời gian bảo lãnh là thời gian ngân hàng chịu trách nhiệm bảo lãnh về số dư bảo lãnh và có nghĩa vụ thanh toán theo bảo lãnh đã cấp.
- Mức phí bảo lãnh do các bên thỏa thuận, không vượt quá 2%/năm tính trên số tiền còn đang được bảo lãnh. Ngoài ra khách hàng còn phải thanh toán cho ngân hàng bảo lãnh các chi phí hợp lý khác phát sinh liên quan đến giao dịch bảo lãnh khi các bên có thỏa thuận bằng văn bản.
Bước 5: Tất toán bảo lãnh.
Khi thư bảo lãnh hết thời hạn hiệu lực hoặc khi có thông báo hoặc xác nhận của bên nhận bảo lãnh về việc hoàn thành nghĩa vụ liên quan đến bảo lãnh, ngân hàng tiến hành tất toán bảo lãnh. Trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ đã được bảo lãnh, bên bảo lãnh phải trả thay và tự động hạch toán nợ vay bắt buộc đối với số tiền trả nợ thay theo lãi suất nợ quá hạn của bên được bảo lãnh đối với bên bảo lãnh và áp dụng các biện pháp cần thiết để thu nợ như phát mại tài sản bảo đảm, trích tài khoản của bên được bảo lãnh (nếu có thỏa thuận), khởi kiện ra cơ quan pháp luật và các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm khác theo quy định của pháp luật.
Bên được bảo lãnh có trách nhiệm phối hợp thực hiện và chấp hành các biện pháp xử lý của tổ chức tín dụng bảo lãnh, thực hiện bồi hoàn cho tổ chức tín dụng trong trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo lãnh.
1.2 Thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm và sự cần thiết của công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp
Trong một nền kinh tế, doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường với mục tiêu rõ ràng là tăng giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Và trong một doanh nghiệp, tình hình tài chính bao giờ cũng đóng vai trò quan trọng nhất, là xương sống, là cốt lõi cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp vể nguyên tắc được phản ánh trong các báo cáo tài chính như: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ ,thuyết minh báo cáo tài chính.Trong đó:
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh một cách tổng quát tài sản của doanh nghiệp theo hai cách đánh giá: quy mô và kết cấu tài sản và nguồn hình thành nên tài sản (cơ cấu tài trợ) của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Bảng cân đối kế toán mô tả tình hình tài chính của doanh nghiệp bằng cách thể hiện những thứ mà nó có và nợ tại một thời điểm, chình vì thế nó được lập vào thời điểm cuối niên độ kế toán.
Báo cáo kết quả kinh doanh là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh một cách tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong một niên độ kế toán. Báo cáo này cung cấp những thông tin tổng hợp nhất về phương thức kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ và chỉ ra rằng các hoạt động kinh doanh đó đem lại lợi nhuận hay gây ra tình trạng lỗ vốn. Đồng thời, nó còn thể hiện tình hình sử dụng vốn, lao động, kỹ thuật, và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh khái quát tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp, khả năng chi trả được hay không của doanh nghiệp, thường được xác định trong thời hạn ngắn (từng tháng). Tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp được phản ánh gồm dòng tiền thực nhập quỹ và dòng tiền thực xuất quỹ. Nhờ vào báo cáo này nhà phân tích có thể thực hiện cân đối ngân quỹ, xác định được dự phòng ngân quỹ tối thiểu đảm bảo khả năng thanh toán cho doanh nghiệp
Tuy các báo cáo tài chính này phản ánh khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp nhưng chúng chỉ đơn thuần bao hàm những con số nếu như không được các nhà phân tích tài chính bằng những phương pháp của mình phân tích, nhận xét, đánh giá. Vì vậyta rút ra được:
Thẩm định tài chính (hay phân tích tài chính) doanh nghiệp là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.
1.2.2 Phương pháp thẩm định tài chính doanh nghiệp
Có nhiều phương pháp được áp dụng để tiến hành thẩm định tài chính doanh nghiệp, nhưng phương pháp chủ yếu được dùng trong hầu hết các ngân hàng trên thế giới và tại Việt Nam là phương pháp “ So sánh ”, trong phương pháp này có nhiều loại hình so sánh khác nhau:
So sánh giữa số thực hiện trong kỳ với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính của doanh nghiệp, thấy được tình hình tài chính được cải thiện hay xấu đi như thế nào.
So sánh giữa số kế hoạch với số thực hiện để thấy rõ mức độ phấn đấu của doanh nghiệp.
So sánh số thực hiện kỳ này với mức trung bình ngành để thấy vị trí của doanh nghiệp, thấy tình hình tài chính doanh nghiệp đang ở tình trạng xấu hay tốt, được hay chưa so với các doanh nghiệp trong ngành.
So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của từng loại trong tổng số, các tỷ số quan trọng, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới doanh thu… So sánh theo chiều ngang để thấy được sự thay đổi cả về số tương đối và số tuyệt đối của một khoản mục nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
1.2.3 Nội dung thẩm định tài chính doanh nghiệp
1.2.3.1 Thẩm định các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp
Để đánh giá tình hình hoạt động một doanh nghiệp tính tới thời điểm hiện tại và dự đoán xu hướng phát triển trong tương lai thì phương pháp phân tích chỉ số các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp thường được sử dụng cho dù nó vẫn có những hạn chế nhất định. Phân tích chỉ số đòi hỏi người phân tích phải đánh giá được sự rằng buộc giữa các khoản mục trên bảng cân đối kế toán cũng như trên báo cáo kết quả kinh doanh và phải chỉ ra được sự thay đổi theo thời gian của các chỉ số đã tính. Thêm vào đó, người phân tích phải căn cứ vào chuẩn mực là những chỉ tiêu trung bình ngành để có thể đưa ra nhận xét cũng như đánh giá một cách chính xác hoặc có thể đưa ra những chỉ tiêu tài chính được đánh giá là chuẩn mực để so sánh, hay chọn một doanh nghiệp cùng loại hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có tình hình tài chính tốt để so sánh.
Ta có nhóm chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệplà :
a.Các chỉ số phản ánh khả năng thanh khoản, bao gồm :
Khả năng thanh toán tạm thời: là khả năng chi trả của doanh nghiệp đối với những khoản nợ tới hạn trong kỳ. Nợ tới hạn bao gồm các khoản vay ngắn hạn, nợ dài hạn tới hạn trả, phải trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp… Khả năng thanh toán tạm thời được xác định như sau:
Khả năng thanh toán tạm thời = Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán nhanh: là khả năng thanh toán ngay được các khoản nợ tới hạn theo yêu cầu của các nhà đầu tư hoặc của chủ nợ mà doanh nghiệp có thể đáp ứng. Được xác định bằng công thức sau:
Khả năng thanh toán nhanh = Tài sản lưu động – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
b.Các chỉ tiêu phản ánh hoạt dộng của doanh nghiệp: đo lường mức độ hiệu quả của việc quản lý tài sản và việc quản lý này ảnh hưởng như thế nào tới các hoạt động được đo lường bởi doanh số bán. Bao gồm:
Chỉ số vòng quay hàng tồn kho: hàng tồn kho là một loại tài sản dự trữ với mục đích đảm bảo cho sản xuất được tiến hành một cách bình thường, liên tục và đáp ứng nhu cầu thị trường. Phương pháp thường được sử dụng để xác định mức tồn kho hợp lý là so sánh mức tồn kho với giá vốn hàng bán trong năm.
Vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho
Kỳ thu tiền bình quân là chỉ tiêu dùng để đánh giá các khoản phải thu. Chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân được xác định như sau:
Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu
Doanh thu bình quân ngày
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản trong kỳ, nó phản ánh một đồng tài sản được đầu tư mang lại mấy đồng doanh thu. Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu
Tổng tài sản
c.Các chỉ tiêu phải ánh cơ cấu tài chính ( hay đòn cân nợ ): thể hiện chính sách sử dụng vốn nợ và vốn chủ hợp lý như thế nào trong doanh nghiệp.. Các chỉ tiêu bao gồm:
Tỷ số nợ: đo lường sự góp vốn của chủ doanh nghiệp so với số nợ vay. Với tỷ số nợ càng thấp, hệ số an toàn càng cao thì các món nợ càng được bảo đảm. Ngược lại khi tỷ số nợ cao thì sự rủi ro trong kinh doanh sẽ càng cao. Tỷ số nợ được xác định như sau
Tỷ số nợ = Tổng số nợ
Tổng số vốn
Hệ số đảm bảo khả năng thanh toán lãi vay cho biết doanh nghiệp sẵn sàng trả tiền lãi vay tới mức nào. Hệ số này được xác định như sau:
Hệ số đảm bảo = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
khả năng thanh toán lãi vay Lãi vay phải trả
d.Các chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời: là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của một đồng vốn bỏ ra mang lại bao nhiêu đồng lãi. Chỉ tiêu này bao gồm: doanh lợi doanh thu, hệ số đo lường khả năng tạo thu nhập cơ bản, ROA (tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản) và ROE (tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu).
Doanh lợi doanh thu: dùng để đánh giá hoạt động sản xuất – kinh doanh thịnh vượng hay suy thoái, được tính bằng lấy thu nhập sau thuế chia cho doanh thu.
Doanh lợi = Lợi nhuận sau thuế
doanh thu Doanh thu
Hệ số đo lường khả năng tạo thu nhập cơ bản: đo lường sức mạnh tạo thu nhập cơ bản của tổng tài sản của doanh nghiệp trước ảnh hưởng của thuế và lãi vay. Chỉ tiêu này được xác định
Hệ số đo lường = Thu nhập trước thuế và lãi vay
khả năng tạo thu nhập cơ bản Tổng tài sản
ROA: phản ánh sức mạnh tạo thu nhập của tài sản sau thuế và đòn bẩy, được xác định bằng cách lấy thu nhập sau thuế và lãi vay chia cho tổng tài sản:
ROA = Lợi nhuận ròng
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp càng cao.
ROE (tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu): chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn chủ bỏ ra thu được mấy đồng lợi nhuận ròng. Phương pháp xác định ROE như sau:
ROE = Lợi nhuận ròng
Vốn chủ sở hữu
1.2.3.2 Thẩm định các chỉ tiêu phi tài chính
Bên cạnh các chỉ tiêu tài chính phản ánh tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và năng lực trả nợ của doanh nghiệp qua các năm thì những chỉ tiêu phi tài chính giúp cán bộ tín dụng đánh giá được liệu doanh nghiệp này có đáng tin cậy không và nó có hoạt động tốt trong tương lai không. Để góp phần hoàn thiện hơn công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp chúng ta cùng xem xét các chỉ tiêu phi tài chính sau :
Tư cách pháp lý của doanh nghiệp
Là một tiêu chí quan trọng mà các cán bộ tín dụng phải đặc biệt lưu tâm khi tiến hành thẩm định khách hàng của mình, vì Ngân hàng không thể có quan hệ tín dụng với một doanh nghiệp mà sự tồn tại và mọi hoạt động của nó không được Pháp luật công nhận. Nếu đặt quan hệ tín dụng nói chung hay cấp bảo lãnh nói riêng đối với những doanh nghiệp không có tư cách pháp lý thì rủi ro tín dụng rất dễ xảy ra, nguy cơ mất vốn của ngân hàng là khó tránh khỏi, thậm chí còn ảnh hưởng tới uy tín của Ngân hàng.
Trình độ, kinh nghiệm và năng lực quản trị của Ban lãnh đạo doanh nghiệp
Ban lãnh đạo là đại diện cho doanh nghiệp, có ảnh hưởng mang tinh quyết định tới thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Họ là những người đề ra phương hướng phát triển, chiến lược phát triển, chỉ đạo và điều hành nguồn lực con người, công nghệ, vốn…trong doanh nghiệp. Do đó, trình độ và kinh nghiệm của Ban lãnh đạo doanh nghiệp phải được các cán bộ tín dụng quan tâm và lưu ý.
Ngành nghề kinh doanh, thị trường tiêu thụ, mức độ cạnh tranh
- Về ngành nghề kinh doanh: Trong một nền kinh tế, các doanh nghiệp khác nhau kinh doanh ở các lĩnh vực ngành nghề khác nhau, cho ra các sản phẩm khác nhau để phục vụ những đối tượng khách hàng khác nhau. Nếu doanh nghiệp thuộc ngành nghề kinh doanh được Chính phủ ưu tiên phát triển thì hiển nhiên trong tương lai họ sẽ có nhiều hỗ trợ ưu đãi, nhiều cơ hội kinh doanh hứa hẹn. Tiềm năng phát triển của những doanh nghiệp này là rất lớn, khiến Ngân hàng tin tưởng hơn vào khả năng tài chính của doanh nghiệp, do đó có thể Ngân hàng mạnh dạn hơn khi cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho họ.
- Về thị trường tiêu thụ: Thị trường tiêu thụ là một nơi duy trì hoạt động cho công ty, mang lại lợi nhuận cho công ty, quyết định sự phát triển của công ty. Khi thẩm định về thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp, chúng ta nên nghiên cứu về quy mô và xu thế phát triển của thị trường tiêu thụ trong thời gian tới.
- Về mức độ cạnh tranh: Có thể đánh giá doanh nghiệp khi nhìn vào mức độ cạnh tranh của giai đoạn thị trường mà doanh nghiệp đang duy trì hoạt động. Mức độ cạnh tranh mà doanh nghiệp đang đối mặt là khốc liệt hay dễ dàng? Các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp là ai, so với toàn thị trường thì doanh nghiệp đứng ở vị trí nào? Nguy cơ doanh nghiệp bị thôn tính ra sao? Phương pháp cạnh tranh của doanh nghiệp là gì (cạnh tranh theo chất lượng sản phẩm, mẫu mã hay giá cả của sản phẩm)?..v.v…Tất cả các tiêu chí này giúp chúng ta nhận xét được liệu trong tương lai doanh nghiệp có thể phát triển được không hay sẽ đi vào ngõ cụt và vị thế của doanh nghiệp quá thấp trên thị trường hay mức độ cạnh tranh trên thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động quá cao.
Uy tín doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng
Một doanh nghiệp khi xây dựng cho mình một “chữ tín” thật tốt cũng có nghĩa là họ đã đạt được một bước thành công trong sự phát triển của mình. Chữ tín bao gồm : Quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp với Ngân hàng ,quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp, với người tiêu thụ, với khách hàng, với các cơ quan quản lý…
Các chỉ tiêu thể hiện uy tìn của doanh nghiệp: nợ quá hạn trong quá khứ, số lần gia hạn nợ, số lần chậm trả lãi vay, số lần mất khả năng thanh toán với các chủ nợ khác…
Tài sản bảo đảm
Tài sản bảo đảm là tài sản dùng để tăng sự rằng buộc về thực hiện nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp đối với Ngân hàng. Điều này có nghĩa là trước khi cấp tín dụng cho khách hàng, Ngân hàng sẽ nắm giữ tài sản bảo đảm của họ. Nếu doanh nghiệp không thực hiện hoặc không thể thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ phát mại tài sản bảo đảm để bù đắp vào nghĩa vụ tài chính đó. Chính vì thế tài sản bảo đảm là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để Ngân hàng quyết định có nên cấp bảo lãnh hay không.
Thông thường, tài sản bảo đảm được các Ngân hàng định giá thấp hơn nhiều so với giá thị trường và chỉ cấp bảo lãnh với một tỷ lệ thấp hơn giá trị tài sản đã định giá đó, nhưng cũng có thể thay đổi tuỳ vào khách hang đó là khách hàng ._.như thế nào ( bạn hàng lâu dài có uy tín với Ngân hàng thi tỷ lệ cấp bảo lãnh đó có thể rất cao ) Sở dĩ có điều này là vì Ngân hàng muốn giảm rủi ro tài sản bảo đảm bị xuống giá trong quá trình cấp tín dụng nói chung và bảo lãnh nói riêng. Hơn thế nữa, Ngân hàng tránh rủi ro phi đạo đức, tăng trách nhiệm của khách hàng với khoản tín dụng.
Tóm lại, khi đánh giá các chỉ tiêu tài chính và các chỉ tiêu phi tài chính, cán bộ Ngân hàng cần kết hợp cả hai chỉ tiêu trên để có được một đánh giá toàn diện nhất .Và nếu cả hai loại chỉ tiêu trên được đánh giá kỹ lưỡng dựa trên cơ sở nguồn thông tin đáng tin cậy thì Ngân hàng tránh được phần lớn rủi ro trước khi ra quyết định tài trợ.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cấp bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
1.3.1 Các nhân tố thuộc về ngân hàng
Quan điểm chỉ đạo của Ban lãnh đạo ngân hàng và các chính sách liên quan đến thẩm định tài chính doanh nghiệp
Quan điểm chỉ đạo của Ban lãnh đạo ngân hàng trong thẩm định tài chính rất quan trọng và có ảnh hưởng đến toàn bộ quy trình thẩm định cũng như chất lượng thẩm định tài chính của doanh nghiệp. Nếu Ban lãnh đạo ngân hàng không coi trọng thẩm định tài chính thì chất lượng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp sẽ thấp. Ngân hàng có thể coi trọng tiêu chí khác hơn là thẩm định tài chính nhưng chưa hẳn đã phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp một cách hiệu quả và chính xác. Ngược lại, Ban lãnh đạo ngân hàng chú trọng thẩm định tài chính thì sẽ xây dựng được quy trình thẩm định chặt chẽ và kèm theo ban hành các chính sách hợp lý để nâng cao chất lượng thẩm định.
Quy trình thẩm định
Quy trình thẩm định là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của Ngân hàng trong việc đánh giá, phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Việc xây dựng một quy trình nghiêm ngặt, chặt chẽ, cụ thể từng giai đoạn và đảm bảo tính liên hoàn, tính khoa học theo một trình tự nhất định giữa các giai đoạn đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Thêm vào đó, quy trình thẩm định phải được xây dựng sao cho phù hợp với từng nhóm khách hàng, tiết kiệm thời gian cho các bên nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng thẩm định.
Chất lượng thông tin thu thập
Ngân hàng là trung gian tài chính quan trọng, đối tượng kinh doanh của nó là tiền tệ, nó hoạt động trong thị trường tài chính đầy sôi động và đầy biến động. Vì thế, thông tin thu thập về khách hàng được xem là yếu tố hàng đầu không thể thiếu. Thông tin là yếu tố đầu vào quan trọng trong hoạt động thẩm định tài chính khách hàng để xét cấp tín dụng Ngân hàng nói chung và cấp bảo lãnh nói riêng. Chất lượng thẩm định phụ thuộc vào sự đa dạng, phong phú, độ chính xác của thông tin.
Cán bộ thẩm định
Kết quả thẩm định chịu ảnh hưởng của yếu tố chủ quan từ cán bộ thẩm định, thể hiện ở:
- Số lượng cán bộ thẩm định: Số lượng cán bộ thẩm định có ảnh hưởng trực tiếp đến áp lực về mặt công việc, do đó ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định. Vì vậy duy trì số lượng cán bộ thẩm định hợp lý sẽ giúp công tác thẩm định nhanh chóng chính xác và dảm bảo hơn.
- Trình độ và kinh nghiệm của cán bộ thẩm định: Nếu cán bộ thẩm định trình độ và nhận thức hạn chế cũng như kinh nghiệm thiếu về các ngành kinh tế đặc thù thì kết luận đưa ra sẽ không chính xác, dễ dẫn đến những phán quyết sai lầm trong tương lai của Ngân hàng.
- Đạo đức của cán bộ thẩm định: Kết quả thẩm định tài chính doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào yếu tố chủ quan của người thẩm định. Cán bộ thẩm định dù có trình độ chuyên môn cao đến đâu nhưng bóp méo thông tin hay cố tình hướng những kết quả đánh giá theo ý chí chủ quan, phục vụ cho lợi ích riêng thì không thể có một kết quả thẩm định tốt, công bằng, minh bạch được. Do đó, vấn đề đạo đức của cán bộ tín dụng luôn phải đặt lên hàng đầu.
Cơ sở vật chất phục vụ thẩm định
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, đồng thời rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngày càng đa dạng, khó dự đoán, cơ sở vật chất phục vụ thẩm định đòi hỏi được thường xuyên đổi mới, cải tiến và cập nhật để tiết kiệm thời gian, tăng tiến độ công việc, tạo thuận lợi thoải mái khi phục vụ khách hàng
1.3.2 Các nhân tố thuộc về khách hàng doanh nghiệp
Tiểu sử tín dụng của khách hang:
Tiểu sử tín dụng của khách hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá tính chính trực của khách hàng đó. Sự chính trực của doanh nghiệp được đánh giá căn cứ vào các tiêu thức như:
- Trong quá khứ, doanh nghiệp đã từng xin cấp tín dụng chưa? Xin của ai (ngân hàng hay đối tác)? Có trả nợ đúng hạn không?
- Doanh nghiệp đã từng bị phá sản chưa?
- Quan hệ của doanh nghiệp với đối tác có tốt không? Có tạo được uy tín trong môi trường hoạt động của mình không.
Chất lượng thông tin mà khách hàng cung cấp:
Chất lượng thông tin tài chính mà khách hàng cung cấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nguồn thông tin, thời gian cung cấp và đối tượng cung cấp thông tin. Chất lượng thông tin phụ thuộc trình độ quản trị tài chính trong doanh nghiệp, trình độ chuyên môn của cán bộ tài chính trong việc tập hợp, lập, thuyết minh các báo cáo tài chính, đặc biệt là đạo đức của người cung cấp thông tin tài
Thiện chí của khách hàng khi cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định
Với những thông tin cán bộ tín dụng nhận được từ phía khách hàng, họ cần phải kiểm tra lại, xác minh tính đúng đắn, tính trung thực, tính chính xác của chúng. Để tiến hành công tác này thì cán bộ tín dụng ngoài việc căn cứ vào tính hợp pháp của các loại giấy tờ, có thể là đi thực tế để thẩm định, xác minh thông tin. Trong các chuyến đi thực tế này, thái độ thiện chí của khách hàng khi tạo mọi điều kiện, cung cấp đầy đủ các hồ sơ giấy tờ theo yêu cầu của cán bộ tín dụng thì khách hàng càng dễ dàng chiếm được thiện cảm, xây dựng được lòng tin từ phía Ngân hàng. Thêm vào đó chất lượng thẩm định tài chính của Ngân hàng càng được nâng cao.
1.3.3 Các nhân tố khác
Chính sách kinh tế và định hướng phát triển của Nhà nước
Các chính sách kinh tế và định hướng phát triển của Nhà nước có ảnh hưởng đến khả năng phát triển trong tương lai của doanh nghiệp. Dựa vào đó mà Ngân hàng có thể ưu tiên phục vụ một số nhóm khách hàng doanh nghiệp nhất định, nắm bắt cơ hội phát triển cho Ngân hàng.
Nếu cán bộ thẩm định không đánh giá được những thay đổi trong chính sách của Nhà nước có thể đưa đến những kết luận không chính xác về tiềm năng cũng như năng lực tài chính của doanh nghiệp trong hiện tại và tương lai. Mặt khác nếu các văn bản pháp luật có những quy định không rõ ràng hoặc không đồng bộ sẽ tạo ra khe hở, dẫn đến tình trạng “lách luật” trong kinh doanh, sẽ gây khó khăn hoặc sai lầm trong công tác thẩm định tài chính.
Tình hình tăng trưởng kinh tế
Một nền kinh tế tăng trưởng ổn định thì những dự đoán của người thẩm định về doanh nghiệp sẽ có khả năng sát với thực tế hơn, rủi ro về thị trường của doanh nghiệp co thể ít hơn.Và kết quả thẩm định tài chính của doanh nghiệp thuộc ngành phát triển ổn định thường chính xác hơn của một doanh nghiệp thuộc ngành có nhiều biến động.
Hệ thống cung cấp thông tin kinh tế
Nguồn thông tin luôn được xem là yếu tồ đầu vào quan trọng quyết định đến chất lượng thẩm định tài chính. Vì vậy, để thẩm định tài chính đạt chất lượng tốt, đáng tin cậy thì nguồn thông tin phải phong phú với chất lượng cao. Như vậy, Ngân hàng phải xây dựng được hệ thống thông tin đa dạng, nhiều chiều.
Sự phát triển khoa học kỹ thuật
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật sẽ ảnh hưởng thời gian và chất lượng của công tác thẩm định. Với trang thiết bị hiện đại, Ngân hàng có thể cập nhật được thông tin nhanh chóng, xử lý kịp thời chính xác và lưu trữ, bảo quản thông tin được lâu dài, an toàn. Nhờ đó, cán bộ tín dụng có thể đánh giá tình hình tài chính của khách hàng một cách kịp thời, chính xác không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
* Sự cạnh tranh từ các ngân hàng đối thủ
Thị trường ngân hàng ở Việt Nam hiện nay là rất tiềm năng, theo con số thống kê, lượng người sử dụng ngân hàng ở Việt Nam tăng từ 1,2 triệu năm 2004 lên khoảng 10 triệu năm 2007 (xấp xỉ 12% dân số) và tăng lên 25 triệu vào năm 2009 thêm vào đó việc mở cửa thị trường tài chính sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã mang lại nhiều tiềm năng phát triển to lớn cho ngành ngân hàng. Bên cạnh đó sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng trong nước với nhau, cạnh tranh giữa các ngân hàng nước ngoài và cạnh tranh giữa ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài. Nhờ sức ép của sự cạnh tranh này, các ngân hàng đã không ngừng cải thiện chất lượng phục vụ nói chung, đồng thời nới lỏng điều kiện tín dụng, giảm thủ tục cũng như thời gian thẩm định. Việc này có ảnh hưởng rât lớn đến chất lượng thẩm định, đòi hỏi các cán bộ tín dụng làm việc thật sự nghiêm túc và tuân thủ chặt chẽ quy trình tránh rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
1.2.4 Đặc điểm công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động bảo lãnh
Hoạt động bảo lãnh là một trong bốn nghiệp vụ tín dụng cơ bản và quan trọng của ngân hàng thương mại. Vì vậy, công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động bảo lãnh vừa mang những đặc điểm giống trong các hoạt động tín dụng khác, vừa mang những đặc điểm riêng.
Phân tích tài chính khách hàng là phân tích các báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp, các cán bộ tín dụng trong ngân hàng ước lượng nhu cầu tài chính của khách hàng xin tài trợ, đánh giá khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính với ngân hàng của khách, ước lượng thiệt hại có thể có, nếu khách hàng không thực hiện đúng với hợp đồng bảo lãnh và quyết định các điều khoản tài trợ nếu cấp bảo lãnh. Cán bộ tín dụng căn cứ vào các báo cáo tài chính được cung cấp để tiến hành đánh giá, thẩm định, phân tích một cách toàn diện, chính xác, khách quan song không thể lệ thuộc vào các thông tin đó. Bởi số liệu báo cáo trong quá khứ có thể không còn chính xác với thực tế, số liệu chưa được kiểm toán, số liệu không xác thực với thực tế…
Tuy nhiên, bảo lãnh có những đặc điểm riêng khác với cho vay, leasing hay L/C vì vậy công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong nghiệp vụ bảo lãnh mang những đặc điểm riêng. Với dịch vụ bảo lãnh mà ngân hàng cung cấp, khách hàng doanh nghiệp có thể chọn hình thức kỹ quỹ hay đặt cọc theo một tỷ lệ phần trăm nhất định so với giá trị hợp đồng kinh tế. Do đó, mức độ thẩm định tài chính với các hợp đồng bảo lãnh có tỷ lệ đặt cọc khác nhau là khác nhau.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CẤP BẢO LÃNH TẠI
NGÂN HÀNG TNCP QUÂN ĐỘI
2.1 Giới thiệu chung về Ngân hàng TMCP Quân Đội
Ngân hàng TMCP Quân Đội (MB) có Trụ sở chính tọa lạc tại số 3 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội, trải qua 14 năm hoạt động, MB luôn khẳng định vị trí dẫn đầu trên thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam.
Các chức năng hoạt động chủ yếu của MB bao gồm: Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, từ các tổ chức kinh tế và dân cư; Cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế và dân cư từ khả năng nguồn vốn của ngân hàng; Kinh doanh ngoại hối; chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác; Cung cấp các dịch vụ giao dịch giữa các khách hàng và các dịch vụ ngân hàng khác theo quy định của NHNN Việt Nam.
Gắn liền với phương châm hoạt động “Vững vàng – Tin cậy”, bên cạnh việc gắn bó với khối khách hàng truyền thống, MB không ngừng mở rộng cung cấp các sản phẩm dịch vụ đến mọi đối tượng khách hàng thuộc nhiều thành phần kinh tế và góp sức vào nhiều công trình lớn của đất nước như Nhà máy Thuỷ điện Hàm Thuận-Đa mi, cảng Hàng không Nội Bài, Tân Sơn Nhất...
Tính đến cuối năm 2007, vốn điều lệ của MB đã đạt 1547,2 tỷ đồng, trong đó có hơn 4.000 cổ đông pháp nhân và thể nhân, thể hiện sự đa dạng hoá trong sở hữu của MB. Ngay từ quý I năm 2007 tổng số vốn huy động đã đạt 12.343 tỷ đồng. Tổng tài sản đạt 15159 tỷ đồng, tăng 30% so với năm 2006, dư nợ đạt 7000 tỷ đồng. Tỷ lệ lợi tức trên vốn cổ phần của MB luôn dẫn đầu trong khối các ngân hàng TMCP .
Hiệu quả hoạt động của MB luôn được các cơ quan quản lý, đối tác cũng như khách hàng đánh giá cao. Liên tục được Ngân hàng Nhà nước xếp hạng A và trao tặng nhiều bằng khen cho những thành tích xuất sắc; nhiều năm liền nhận được các giải thưởng thanh toán quốc tế do các ngân hàng uy tín quốc tế trao tặng như HSBC, Standard Chatered Bank, UBOC; được người tiêu dùng bình chọn là Thương hiệu mạnh liên tục trong ba năm liền 2005 -2006 và 2007; đạt cúp vàng Top ten thương hiệu Việt, ngành hàng: Ngân hàng – tài chính năm 2006; …và nhiều giải thưởng có uy tín, giá trị khác.
Các sản phẩm dịch vụ của MB không ngừng được đa dạng hoá theo hướng hoàn thiện và phát huy dịch vụ truyền thống kết hợp với phát triển các dịch vụ hiện đại như, hệ thống thanh toán qua thẻ, Mobile Banking, Internet Banking. Dịch vụ của MB liên tục được cải thiện, mang lại cho khách hàng không những hiệu quả cao về tài chính mà còn cả sự yên tâm tuyệt đối.
Song song với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, MB đặc biệt chú trọng mở rộng mạng lưới kênh phân phối tại các khu vực kinh tế trọng điểm của cả nước. Hiện nay, MB đang có 60 điểm giao dịch trên khắp đất nước, đặt quan hệ đại lý với gần 600 ngân hàng trên thế giới để hợp tác cung cấp các dịch vụ ngân hàng toàn cầu. Nhận thức được chất lượng đội ngũ nhân viên chính là sức mạnh của Ngân hàng, hàng năm, hàng ngàn lượt cán bộ, nhân viên chủ chốt của MB đã được cử đi đào tạo trong và ngoài nước. Trong vòng từ năm 2005 đến cuối năm 2007, gần 1000 cán bộ, nhân viên đã được MB tuyển dụng vào làm việc tại Ngân hàng. Bởi vậy, hiện nay hơn 2.000 cán bộ, nhân viên đang cống hiến và làm việc tại Ngân hàng với những chính sách, chế độ đãi ngộ thoả đáng.
Cùng với số lượng nhân viên trẻ, dồi dào và có chuyên môn hoá cao, MB đang phát triển trở thành ngân hàng đa năng với việc thành lập các công ty chứng khoán Thăng Long, Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, Công ty Quản lý quỹ đầu tư Hà nội, tham gia góp vốn đầu tư các công ty trực thuộc đã hoạt động hiệu quả, có lợi nhuận và tạo lập được uy tín trên thị trường. Công tác quản trị rủi ro được đặt lên hàng đầu nhằm đưa ra các giải pháp tổng thể để giảm thiểu rủi ro không chỉ cho Ngân hàng mà cho cả khách hàng. MB luôn đảm bảo tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế và tỷ lệ nợ xấu ở mức hợp lý.
2.1Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng TMCP Quân Đội - MB
2.1.1 Tình hình hoạt động của Ngân hàng TMCP Quân Đội
Trải qua 14 năm từ ngày thành lập, Ngân hàng TMCP Quân đội đã không ngừng hoàn thiện và phát triển. Ngân hàng TMCP Quân Đội đã đạt được những mốc son trong sự nghiệp phát triển của mình.
a. Năm 2004: Ngân hàng Nhà nước cơ cấu lại hoạt động của mình và của các Ngân hàng thương mại theo hướng tăng cường cơ chế giám sát từ xa. Bên cạnh đó, đi kèm với tăng trưởng kinh tế cao là lạm phát vượt quá chỉ tiêu do Quốc hội đề ra buộc Ngân hàng Nhà nước bình ổn tỷ giá, thắt chặt tín dụng và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất cơ bản. Tất cả những sự kiện này khiến MB đối mặt với thách thức nhiều hơn là cơ hội. Tuy vậy, bằng hướng tư duy kinh doanh đúng đắn, năm 2004 đánh dấu nhiều thành công của Ngân hàng. Tổng nguồn vốn huy động được năm 2004 là 4933 tỷ đồng, trong đó huy động từ thị trường dân cư là hơn2.224 tỷ, từ thị trường các tổ chức kinh tế là hơn 2.709 tỷ đồng.
Hoạt động tín dụng:
- Doanh số cho vay toàn hệ thống năm 2004 đạt 3921 tỷ đồng, tăng 32% so với năm 2003
- Thu nhập thuần từ tiền lãi đạt 105.39 tỷ đồng, tăng 45.4% so với năm 2003
Bảng 1-Hoạt động tín dụng của MB năm 2004
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Số tiền
%
Tổng dư nợ các loại
3921
100
Cho vay ngắn hạn
2347
59.9
Cho vay trung-dài hạn
1574
40.1
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2004-MB
Hoạt động thanh toán quốc tế:
Tổng kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu đạt giá trị 420 triệu USD tăng 37% so với cùng kỳ năm 2003
b. Năm 2005 : Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao là 8,4%/năm bất chấp những khó khăn trong nước và ngoài nước. Bên cạnh đó các yếu tố thuận lợi như sự phục hồi của các nền kinh tế lớn, đống USD lấy lại đà tăng trưởng so với các đồng tiền chủ chốt sau 3 năm liên tục giảm giá … thì các yếu tố không thuận lợi tác động phải kể đế giá xăng dầu tăng liên tục với tốc độ hiếm thấy trong lịch sử , lạm phát tại các nền kinh tế lớn và tình hình thiên tai lũ lụt nặng nề tại Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới. Tuy nhiên các chỉ tiêu kinh tế xã hội mà MB đạt được đếu tăng trưởng với mức độ khá cao.
-Hoạt động tín dụng:
- Doanh số cho vay toàn hệ thống năm 2005 là 4974 tỷ đồng, tăng 1053 tỷ đồng (23% so với năm 2004).
- Lợi nhuận trước thuế đạt 148,6 tỷ đồng tăng 46% so với năm 2004
Bảng 2-Hoạt động tín dụng của MB năm 2005
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Số tiền
%
Tổng dư nợ các loại
4974
100
Cho vay ngắn hạn
2867
57.8
Cho vay trung-dài hạn
2107
42.4
Dư nợ xấu
0
0
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2005-MB.
Hoạt động thanh toán quốc tế:
Tổng kim ngạch xuát nhập khẩu năm 2005 là 691 triệu USD . Tuy các L/C không có giá trị lớn như năm 2004 nhưng số lượng khách hàng và giao dịch lại tăng nhanh, vì vật doanh thu tăng 65% so với cùng kỳ năm trước.
c.Năm 2006: được coi là năm phát triển ngoạn mục của ngành Ngân hàng cả về số lượng và doanh số hoạt động, MB cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Tổng nguồn vốn huy động của MB là 11511 tỷ đồng, tăng 1.91lần so với năm 2005.
Hoạt động tín dụng:
Nhằm duy trì mức tăng trưởng khả quan như các năm trước, các bộ phận nghiệp vụ của MB đã tích cực chủ động tiếp thị, khai thác thêm các đối tượng khách hàng mới, triển khai các nghiệp vụ cho vay đối với các hộ kinh doanh ở các chợ lớn, phát triển nghiệp vụ cho vay cầm cố cổ phiếu của các Ngân hàng thương mại…Về chất lượng tín dụng trong năm vẫn được duy trì ở mức an toàn.
- Doanh số cho vay toàn hệ thống năm 2006 là 6117tỷ đồng, tăng 1.143 tỷ đồng so với năm 2005.
- Lợi nhuận trước thuế đạt 253 tỷ đống so với năm 2005 ( tăng 70%).
Bảng 3-Hoạt động tín dụng của MB năm 2006
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Số tiền
%
Tổng dư nợ các loại
6117
100
Cho vay ngắn hạn
3409
55.8
Cho vay trung-dài hạn
2708
44.2
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2006-MB.
Hoạt động thanh toán quốc tế:
Năm 2006 đánh dấu sự phát triển khả quan của MB với sự tăng trưởng 47% so với năm 2005 trong hoạt dộng thanh toán quốc tế.
Bảng 4-Hoạt động huy động vốn của MB 2003-2006
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2006
2005
2004
2003
Tổng nguồn vốn huy động
11511
6027
4933
3485
Tổng huy động từ thị trường I
4264
2123
1995
1453
Tiền gửi tiết kiệm
4169
2346
1786
1346
Tiền gửi thanh toán
960
501
350
280
Tổng huy động vốn từ thị trường II
3318
2670
2214
1506
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2003-2006-MB
2.2 Thực trạng công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cấp bảo lãnh tại MB
2.2.1 Tình hình hoạt động cấp bảo lãnh tại MB
Bảo lãnh là một trong bốn loại nghiệp vụ tín dụng cơ bản của ngân hàng thương mại, có ưu điểm là ngân hàng không phải tài trợ tài chính ngay cho khách hàng mà vẫn kiếm được doanh thu từ phí.
Chính vì thế Ban Lãnh đạo MB luôn quan tâm phát triển hoạt động cấp bảo lãnh phục vụ khách hàng đặc biệt là trong những năm trở lại đây.
MB thực hiện cam kết bảo lãnh khách hàng với cả 6 loại bảo lãnh là: bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm và bảo lãnh hoàn thanh toán. Tuy nhiên, theo nhu cầu của khách hàng, Ngân hàng MB tập trung phát hành các loại bảo lãnh chủ yếu như: bảo lánh vay vốn, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thanh toán. Là một ngân hàng bán lẻ, đối tượng khách hàng của MB đa số là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, quy mô nhỏ và vừa, nhiều doanh nghiệp trong số họ trở thành khách hàng quen thuộc của MB, sử dụng dịch vụ này một cách thường xuyên và không chỉ bó hẹp ở một loại hình bảo lãnh nhất định.
2.2.2 Thẩm định tài chính đối với hồ sơ đề nghị bảo lãnh
2.2.2.1 Quy trình nghiệp vụ
Nhân viên A/O DN (nhân viên tín dụng phục vụ khách hàng Doanh nghiệp) chỉ tiến hành thẩm định khách hàng. Sau đó phải trình Ban Tín dụng để Ban này ra quyết định có cung cấp dịch vụ cho khách hàng hay không. Sự tách biệt giữa thẩm định tài chính khách hàng và ra phán quyết cấp bảo lãnh như trên đã tăng tính khách quan, giảm rủi ro đạo đức tránh tổn thất cho Ngân hàng.
2.2.2.2 Thẩm định về tư cách pháp lý khách hàng
Sau khi nhận hồ sơ từ phía khách hàng, A/O DN tiến hành thẩm định tư cách pháp lý của doanh nghiệp. Với các doanh nghiệp có vốn đầu tư từ các nguồn khác nhau, tài liệu đòi hỏi để chứng minh tư cách pháp lý khác nhau.
2.2.2.3 Thẩm định về lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, tư cách của chủ doanh nghiệp
Cán bộ tín dụng tìm hiểu về lịch sử hình thành phát triển của doanh nghiệp ở các mặt: xuất xứ hình thành; bước ngoặt lớn đã trải qua; những khó khăn, thuận lợi, lợi thế, bất lợi của doanh nghiệp; uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Qua đó ta thấy được hình ảnh tổng quan về doanh nghiệp và quá trình hoạt động của nó.
Sau đó là thẩm định uy tín doanh nghiệp trên thị trường: khách hàng của doanh nghiệp là công ty nào? Mối quan hệ làm ăn như thế nào? Mặt hàng của doanh nghiệp chiếm thị phần không so với các doanh nghiệp cùng ngành nghề? Công việc sản xuất có ổn định không?
Bên cạnh đó, Ta phải tiến hành đánh giá về quan hệ của khách hàng với MB và các tổ chức tín dụng khác như: đánh giá về giao dịch tài chính trong quá khứ, đánh giá về cấp tín dụng trong quá khứ.Ngoài ra còn phải thẩm định tư cách chủ sở hữu và lãnh đạo doanh nghiệp, gồm: lịch sử bản thân, gia đình, học vấn chuyên môn, uy tín…
2.2.2.4 Thẩm định phương án, dự án kinh doanh
Việc ngân hàng đánh giá tính khả thi và hiệu quả mang lại lợi nhuận của phương án, dự án kinh doanh trước khi ra quyết định tài trợ cho khách hàng doanh nghiệp là vô cùng quan trọng. Ở MB, khi thẩm định phương án, dự án kinh doanh, cán bộ tín dụng thực hiện các công việc sau:
- Xác minh tính hợp pháp của phương án sản xuất, kinh doanh.
- Đánh giá về khả năng tiêu thụ của hàng hóa, dịch vụ của phương án trong hiện tại và tương lai.
- Đánh giá về mức độ cạnh tranh đối với sản phẩm do phương án nêu ra.
- Xác định các điều kiện tác động của mọi vấn đề liên quan có thể tác động đến việc triển khai phương án: khách hàng có kinh nghiệm về lĩnh vực sản xuất kinh doanh nêu trong phương án hay không? Khách hàng có những lợi thế gì để bảo đảm các yếu tố đầu vào, đầu ra để thực hiện phương án? Các điều kiện về khách quan, chủ quan có thể tác động tốt hoặc xấu đến việc triển khai và hiệu quả của phương án? Các rủi ro các thể xảy ra đối với phương án và các biện pháp của khách hàng nêu ra để phòng ngừa và hạn chế tác hại của rủi ro?
- Xác định nhu cầu vốn và phương án trả nợ.
- Xác định doanh thu và lợi nhuận hiệu quả của phương án.
- Xác định thời gian để thực hiện phương án, hoặc chu kỳ sản xuất kinh doanh để xây dựng thời hạn tài trợ.
- Xác định nguồn trả nợ từ nguồn thu của phương án và các nguồn khác.
- Phân tích lưu chuyển tiền tệ của phương án để bảo đảm có nguồn tiền thực tế dùng trả nợ.
- Đánh giá chung về nhu cầu bảo lãnh của khách hàng có hợp lý hay không, việc cho vay có phù hợp với các quy định của MB hay không,
2.2.2.5 Thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp
Càn bộ tín dụng dựa vào các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp, thông tin từ hệ thống CIC, và các nguồn thông tin khác để tiến hành thẩm định. Quy trình thẩm định bao gồm:
* Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ tài chính.
* Phân tích thực lực tài chính:
- Phương pháp phân tích: dùng phương pháp so sánh số tương đối và số tuyệt đối để đánh giá từng phần và toàn diện về khả năng tài chính của khách hàng.
- Nội dung:
Đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp:
+ Nguồn vốn chủ sở hữu: Đối chiếu với mức vốn pháp định đối với các ngành nghề kinh doanh của khách hàng, đua ra nhận xét về sự tăng giảm vốn chủ sở hữu (nếu có)
+ Kết quả sản xuất kinh doanh các năm trước, quý trước, nhận xét về nguyên nhân lỗ lãi.
+ Tình hình công nợ: nợ các ngân hàng và tổ chức tín dụng
+ Tình hình thanh toán người mua, người bán. Cần phải đánh giá thời hạn luân chuyển hàng tồn kho, thời hạn lưu chuyển các khỏan phải thu, phải trả.
+ Tình hình thanh toán với ngân sách, chú ý thuế thu nhập doanh nghiệp.
+ Nhận xét tình hình doanh thu qua các năm.
Phân tích hệ số tài chính:
Khi thẩm định thực lực tài chính doanh nghiệp, cán bộ tín dụng tiến hành phân tích các hệ số tài chính như:
+ Tỷ suất tài trợ: Chỉ tiêu này cho biết mức độ tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Tỷ suất tài trợ được tính bằng cách lấy nguồn vốn chủ sở hữu chia cho tổng số nguồn vốn. Với một Doanh nghiệp tỷ suất tài trợ lớn hơn hoặc bằng 3 là mức chấp nhận được.
+ Chỉ tiêu khả năng thanh toán: thể hiện rõ nét tình hình tài chính doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ tình hình tài chính khả quan và ngược lại.
+ Chỉ tiêu hoạt động: thể hiện thời hạn, vòng luân chuyển hàng tồn kho, lưu chuyển các khoản phải trả, phải thu, hoạt động tiêu thụ hàng hóa hay dịch vụ của doanh nghiệp. Bao gồm: vòng quay hàng kho, kỳ thu tiền bình quân, doanh thu trên tổng tài sản.
+ Chỉ tiêu thu nhập càng lớn càng chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động tốt, mang lại nhiều lợi nhuận.
Nhằm giúp các cán bộ tín dụng có cơ sở vững chắc để đánh giá tình hình tài chính và phi tài chính của một doanh nghiệp, MB có đưa ra các bảng xếp hàng tín dụng mà trong đó các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính đều được lượng hóa và chấm điểm cụ thể chi tiết. Bảng xếp hạng tín dụng này có những thang điểm khác nhau cho các doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau. Các lĩnh vực chủ yếu bao gồm: Thương mại – dịch vụ, lĩnh vực sản xuất trực tiếp, lĩnh vực xây dựng. Trong mỗi lĩnh vực, MB đề ra mức xếp hạng khác nhau giữa doanh nghiệp có báo cáo tài chính có kiểm toán và doanh nghiệp trình báo cáo tài chính không kiểm toán (Phụ lục 1 – 6).
2.2.2.6 Thẩm định nhu cầu bảo lãnh
Khi thẩm định nhu cầu bảo lãnh, nhân viên A/O DN thực hiện các công việc sau:
* Phân tích khả năng thực hiện phương án xin bảo lãnh:
- Mục đích bảo lãnh.
- Kinh nghiệm của khách hàng trong lĩnh vực nêu trong phương án xin bảo lãnh.
- Năng lực hành nghề, trình độ, khả năng quản lý và đội ngũ điều hành, công nghệ và chất lượng máy móc, thiết bị thực tế bảo đảm khả năng thực hiện phương án.
- Phân tích các rủi ro khi Ngân hàng phát hành bảo lãnh và biện pháp hạn chế rủi ro
2.2.2.7 Đánh giá chung và kết luận
- Đánh giá thực trạng kinh doanh.
- Đánh giá khả năng của khách hàng trong việc thực hiện phương án xin bảo lãnh.
- Đánh giá rủi ro của Ngân hàng: cán bộ tín dụng sau khi xếp hạng tín dụng doanh nghiệp, chấm điểm rủi ro sẽ ghi kết quả vào biểu mẫu “Phiếu xếp hạng tín dụng”. Tùy theo kết quả chấm điểm rủi ro, khách hàng được chia làm sáu mức độ rủi ro tín dụng khác nhau như sau:
Bảng 5-Phiếu xếp hạng tín dụng khách hàng doanh nghiệp
Điểm
Xếp loại
Đánh giá
Nhóm rủi ro
87-100
A+
Xuất sắc
Thấp
74-86
A
Tốt
Thấp
61-73
B+
Trung bình
Trung bình
48-60
B
< Trung bình
Trung bình
35-47
C+
Rủi ro không thu hồi cao
Cao
0-34
C
Rủi ro không thu hồi rấtcao
Cao
Nguồn: Văn bản hướng dẫn nghiệp vụ tín dụng A/O doanh nghiệp-MB
- Đề xuất ý kiến giải quyết: Vì đối tượng khách hàng chính của MB là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhỏ và vừa với số vốn nhỏ nên trước khi cấp tín dụng nói chung và cấp bảo lãnh nói riêng, khách hàng phải đảm bảo đủ tiêu chuẩn về tài sản bảo đảm. Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản bảo đảm cho mỗi nhu cầu tín dụng của mình, để giảm thiểu rủi ro tín dụng. Hơn nữa, tài sản đảm bảo này phải được nhân viên Phòng thẩm định Tài sản bảo đảm đánh giá, định giá. Kết quả xếp hạng tín dụng khách hàng được kết hợp với kết quả thẩm định tài sản bảo đảm để làm căn cứ để Ngân hàng ra phán quyết.
Ta có kết quả thẩm định tài sản bảo đảm được phân loại thành mạnh, trung bình, yếu và đánh giá tín dụng kết hợp được thực hiện như bảng sau:
Bảng 6 - Đánh giá tín dụng kết hợp
Xếp hạng rủi ro
A+
A
B+
B
C+
C
Rủi ro thấp
Rủi ro trung bình
Rủi ro cao
Mạnh
Xuất sắc
Tốt
Trung bình
Trung bình
Tốt
Trung bình
Từ chối
Yếu
Trung bình
Từ chối
Từ chối
Nguồn: Văn bản hướng dấn nghiệp vụ tín dụng A/O doanh nghiệp-MB
Trong đó, hàng ngang là xếp hạng tài sản bảo đảm, hàng dọc là xếp hạng rủi ro. Kết quả đánh giá tín dụng kết hợp là nằm ở ô giao điểm giữa mức xếp hạng rủi ro và mức xếp hạng tài sản bảo đảm của khách hàng đó.
Sau khi thẩm định khách hàng về các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính, cán bộ tín dụng tập hợp hồ sơ đầy đủ trình Ban tín dụng để tiến hành phát hành bảo lãnh đồng thời đề ra biện pháp đảm bảo, kiểm tra. Hồ sơ đầy đủ trình Ban tín dụng gồm có:
- Giấy đề nghị giải tỏa tài khoản
- Hợp đồng kinh tế
- Thông báo trúng thầu/thực hiện hợp đồng/cung cấp sản phẩm…(loại giấy tờ này được yêu cầu tùy theo loại hình bảo lãnh)
- Tờ trình (kết quả thẩm định chỉ tiêu tài chính, phi tài chính của khách hàng và đánh giá, nhận xét của cán bộ tín dụng trực tiếp thực hiện)
- Giấy đề nghị phong tỏa tài khoản
- Đơn đề nghị phát hành bảo lãnh
Nếu Ban tín dụng thông qua và duyệt cấp bảo lãnh cho khách hàng doanh nghiệp, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành thảo Hợp đồng phát hành bảo lãnh và Thư bảo lãnh gửi tới khách hàng, yêu cầu khách hàng ký nhận và cam kết thực hiện đúng với các điều khoản trong hợp đồng.
2.2.3 Ví dụ minh họa về công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trước khi cấp bảo lãnh
Khi doanh nghiệp có nhu cầu được bảo lãnh, có thể là bảo lãnh dự thầu, hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng, hoặc bảo lãnh vay vốn…họ sẽ gửi đến cho phòng A/O doanh nghiệp của MB đơn đề nghị bảo lãnh. Sau đây là ví dụ về một công ty có nhu cầu được phát hành bảo lãnh dự thầu, dựa vào đơn đề nghị của khách hàng, cán bộ tín dụng thẩm định các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính của doanh nghiệp rổi làm Tờ trình kèm theo các giấy tờ khác như đã trình bày ở phần trên gửi lên Ban tín dụng.
Ở đây nêu ra một ví dụ chỉ manh tinh minh họa : Khách hàng là Công ty trách nhiệm hữu hạn ABT, đăng ký kinh doanh số 017684679 do Sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội cấp ngày 26/5/2002. Địa chỉ trụ sở chính là 276 P._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7673.doc