Tài liệu Hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong tín dụng tài trợ Xuất nhập khẩu: LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh Việt Nam đang tham gia mạnh mẽ và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự giao lưu hàng và trao đổi hàng hoá giữa Việt Nam và thế giới đã và đang diễn ra rất sôi động, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của ngành ngân hàng nói riêng. Sự mở cửa của nền kinh tế đã mang lại cho ngành ngân hàng nhiều cơ hội và thách thức mới. Vì vậy, muốn tồn tại và phát triển, các NHTM buộc phải đổi mới và cải tiến để phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.
Với sự ph... Ebook Hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong tín dụng tài trợ Xuất nhập khẩu
86 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1514 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong tín dụng tài trợ Xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át triển vượt bậc về kinh tế - xã hội trong những năm vừa qua, đặc biệt là sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội. Quan hệ thương mại quốc tế giữa Việt Nam và thế giới ngày càng được mở rộng. Theo đó hoạt động XNK cũng phát triển mạnh và trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động kinh doanh XNK, Chính phủ và Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích và hỗ trợ hoạt động XNK. Hoạt động XNK càng phát triển thì nhu cầu vốn của các doanh nghiệp XNK cũng càng lớn, do đó kéo theo sự phát triển của hoạt động TDTTXNK.
Hoạt động tín dụng đóng vai trò quan trọng đối với các NHTM và nền kinh tế, đem lại doanh thu và lợi nhuận lớn cho ngân hàng, Tuy nhiên đây cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, bởi vậy, việc hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK ngày càng trở thành yêu cầu cấp thiết đối với các NHTM hiện nay.
Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay nên em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu” làm đề tài nghiên cứu.
Kết cấu của chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thẩm định khách hàng trong tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM
Chương 2: Thực trạng công tác thẩm định khách hàng trong tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD Habubank
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD Habubank
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Ths. Lê Hương Lan cùng toàn thể các anh chị trong phòng phát triển kinh doanh của SGD Habubank đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Tuy nhiên, do còn có những hạn chế nhất định về kiến thức và kinh nghiệm thực tế nên chuyên đề này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, các anh chị và các bạn để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Chương 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM ĐỊNH KHÁCH HÀNG TRONG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Khái quát về ngân hàng thương mại
Khái niệm về Ngân hàng thương mại
NHTM là một trong những tổ chức tài chính quan trọng của nền kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với tất cả các ngành, lĩnh vực khác của nền kinh tế. Ngân hàng tài trợ cho chính phủ để đầu tư phát triển và thực hiện các chính sách kinh tế mà chủ yếu là chính sách tiền tệ nhằm điều tiết nền kinh tế phát triển một cách ổn định. Hoạt động của NHTM góp phần to lớn trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. NHTM có một vị trí đặc biệt trong nền kinh tế - xã hội. Vậy NHTM là gì?
Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Như vậy, có thể nói rằng NHTM là một trong các tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường, góp phần tạo lập và cung ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện và thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển.
Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các TCTD khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác.
Ngân hàng phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước khi được NHNN cho phép.
NHTM vay vốn từ NHNN dưới hình thức tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn.
NHTM vay vốn từ các NHTM hoặc các TCTD khác.
NHTM huy động các nguồn vốn khác theo qui định của NHNN như: nhận vốn uỷ thác... Tuy nhiên những nguồn vốn này không phổ biến và không thường xuyên đối với các NHTM.
Hoạt động sử dụng vốn
NHTM sử dụng nguồn vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh sinh lợi nhuận và kiếm lời.
Các nghiệp vụ về ngân quỹ: NHTM phải giữ lại một lượng tiền mặt theo quy định về dự trữ bắt buộc của NHNN. Ngoài ra, để đảm bảo an toàn, các NHTM còn tiến hành dự trữ vượt quá.
Các nghiệp vụ tín dụng: Ngân hàng cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính...
Hoạt động đầu tư: NHTM tham gia vào thị trường chứng khoán, đầu tư vào trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc, trái phiếu của các công ty lớn... Ngoài ra, NHTM còn đầu tư vào các dự án, các tập đoàn và các doanh nghiệp khác.
Các hoạt động sử dụng vốn khác: NHTM thực hiện marketing, quảng bá thương hiệu, xúc tiến thị trường... Ngoài ra, NHTM còn thực hiện tài trợ học bổng, tài trợ công tác nghiên cứu và phát triển, tài trợ cho các chương trình văn hoá – xã hội
Hoạt động trung gian, cung cấp dịch vụ tài chính
Ngân hàng đứng ở vị trí trung gian để cung cấp các dịch vụ cho khách hàng. Những dịch vụ này có thể mang lại thu nhập cho ngân hàng.
Hoạt động chuyển tiền: Ngân hàng làm theo lệnh của khách hàng chuyển trả tiền cho một người thứ ba ở một địa phương nào đó.
Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt: Ngân hàng thực hiện thanh toán cho khách hàng thông qua các công cụ tài chính như: séc, hối phiếu, thư tín dụng (L/C), thanh toán bằng uỷ nhiệm (uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi), thanh toán bằng thẻ (thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng).
Các dịch vụ trung gian tài chính: Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ môi giới trong việc mua bán, đầu tư chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo lãnh trong thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh L/C trả chậm, bảo lãnh hối phiếu, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tái bảo lãnh... Ngân hàng tư vấn đầu tư tài chính, tư vấn mua bán chứng khoán, tài sản khác, tư vấn quản lý tài chính. Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ uỷ thác đầu tư, uỷ thác quản lý tài sản và uỷ thác khác.
Các dịch vụ tiện ích: Dịch vụ ngân hàng tại nhà, giao dịch ngân hàng qua điện thoại, dịch vụ ngân hàng điện tử, cho thuê két sắt...
Vai trò của NHTM
1.1.3.1. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển ngày càng sôi động, vai trò của NHTM không chỉ bó hẹp trong nhận tiền gửi và cho vay mà các NHTM đã phải thực hiện thêm nhiều vai trò mới để có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của xã hội. Các NHTM ngày nay có các vai trò cơ bản là:
- Cung ứng vốn cho nền kinh tế: Từ chức năng làm trung gian tín dụng, thông qua nghiệp vụ huy động vốn, ngân hàng đã tập hợp những khoản vốn nhàn rỗi tạm thời của các tổ chức, cá nhân và đã thực hiện cung ứng vốn cho nền kinh tế nhằm thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinh tế, góp phần vào lưu thông hàng hoá, tiền tệ, cũng như đẩy mạnh tiêu dùng cá nhân.
- Ngân hàng thúc đẩy sự luân chuyển vốn trong nền kinh tế: Thông qua chức năng thanh toán, ngân hàng thực hiện dịch vụ thanh toán hộ cho nền kinh tế, thúc đẩy luân chuyển hàng hoá và vốn trong xã hội, giám sát toàn bộ nền kinh tế, góp phần tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, tạo sự ổn định trong đời sống kinh tế xã hội.
- Vai trò tạo tiền: Do tham gia vào quá trình cung ứng tiền tệ, ngân hàng còn là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN. Để thực hiện các chính sách đó, NHNN phải sử dụng các công cụ điều tiết vĩ mô. Phần lớn các công cụ đó chỉ có hiệu quả khi có sự tham gia đầy đủ của các NHTM và các trung gian tài chính khác.
Ngoài ra, NHTM còn tham gia vào sự ổn định và phát triển của thị trường tài chính và thị trường chứng khoán: Cung cấp thông tin, tư vấn và dịch vụ đầu tư. Tiến hành cung cấp các dịch vụ kinh doanh chứng khoán.
1.1.3.2. Vai trò của ngân hàng thương mại trong hoạt động tài trợ ngoại thương
Ngân hàng thương mại góp phần thúc đẩy sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế. Trong điều kiện hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tăng cường và mở rộng quan hệ XNK sẽ thúc đẩy tăng trưởng và tạo sự cân đối cho nền kinh tế trong nước. Do mỗi nước có một hệ thống tiền tệ riêng, không đồng nhất, và với năng lực của người mua và người bán ở các nước khác nhau cũng không giống nhau, ngoài ra còn có những hạn chế về ngôn ngữ, môi trường văn hoá, phong tục tập quán khác nhau, môi trường pháp lý và luật pháp ở các quốc gia khác nhau, các chế độ kinh tế - chính trị khác nhau, người mua và người bán cách xa nhau về địa lý,… Chính vì vậy, các ngân hàng thương mại có vai trò rất quan trọng trong thương mại quốc tế. Ngân hàng tài trợ cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu và cung ứng các loại hình dịch vụ thanh toán, đảm bảo cho hoạt động xuất - nhập khẩu được thông suốt, đảm bảo an toàn, hiệu quả cho hoạt động này.
Hoạt động TDTTXNK của NHTM
Khái niệm TDTTXNK
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động XNK ngày càng trở thành vấn đề quan trọng. Thị trường thương mại thế giới không ngừng mở rộng, theo đó nhu cầu về thị trường tiêu thụ hàng hoá, thị trường đầu tư đang trở thành nhu cầu cấp bách của các doanh nghiệp XNK. Do qui mô nguồn vốn có hạn cho nên không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng có đủ tiền để thanh toán hàng nhập khẩu hay có đủ vốn thu mua chế biến hàng xuất khẩu. Từ đó dẫn đến phát sinh quan hệ vay mượn và sự tài trợ của ngân hàng. Đó chính là quan hệ TDTTXNK.
Hiện nay, trên thế giới vẫn chưa đi đến một sự thống nhất nào về quan điểm TDTTXNK. Tuy nhiên, có thể hiểu một cách chung nhất TDTTXNK là hoạt động tài trợ của ngân hàng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XNK nhằm giúp các doanh nghiệp này tiếp cận với kỹ thuật hiện đại, các nguồn nguyên, nhiên vật liệu trong nước còn thiếu hay đắt đỏ hoặc giúp thu mua, chế biến, sản xuất và tiêu thụ hàng hoá xuất khẩu trên cơ sở hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của ngoại thương và hệ thống ngân hàng, hoạt động tài trợ XNK của ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú. Hình thức đơn giản đầu tiên là ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các doanh nghiệp nhập khẩu để bổ sung vốn lưu động thu mua chế biến sản xuất hàng xuất khẩu theo các hợp đồng đã ký kết, cho vay để thanh toán các nguyên liệu, hàng hoá, vật tư nhập khẩu. Từ hình thức cho vay ngắn hạn là chủ yếu ngân hàng đã mở rộng sang cho vay trung và dài hạn. Ngân hàng còn cho vay để mua sắm trang thiết bị, cải tiến công nghệ, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất để nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Ngân hàng còn đứng ra bảo lãnh cho các đơn vị XNK để vay vốn nước ngoài, nhờ vậy không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Hoặc nếu doanh nghiệp có hối phiếu hay các giấy tờ có giá thì có thể đến ngân hàng để chiết khấu…
Do trình độ nghiệp vụ thanh toán ngày càng phát triển, các phương thức thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng, nghiệp vụ tài trợ XNK cũng ngày một hoàn thiện đa dạng và có hiệu quả cho hoạt động XNK của đất nước.
Vai trò của TDTTXNK
Vai trò của TDTTXNK đối với ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, quan hệ giao dịch quốc tế đặt ra những vấn đề hết sức tế nhị và phức tạp, vì vậy các quan hệ thương mại đòi hỏi sự tham gia của các NHTM, ngân hàng sẽ đem lại cho các nhà hoạt động ngoại thương sự hiểu biết về kỹ thuật nghiệp vụ, đặc biệt NHTM còn là chỗ dựa tài chính trong các hoạt động thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, khi thực hiện các nghiệp vụ TDTTXNK cũng đem lại cho NHTM nhiều lợi ích:
Do thời gian tài trợ gắn liền với thời gian thực hiện thương vụ nên thời gian tài trợ là ngắn. Kỳ hạn tài trợ ngắn phù hợp với kỳ hạn huy động vốn của các NHTM thường là dưới một năm. Điều này tránh được các rủi ro về thanh khoản cho ngân hàng.
Trong TDTTXNK, đồng vốn luôn gắn liền với thương vụ. Vốn tài trợ có thể được thanh toán thẳng cho bên thứ ba, không qua bên xin tài trợ như thanh toán tiền hàng nhập khẩu, thanh toán tiền nguyên vật liệu cho các đại lý gom hàng cho người xuất khẩu… Nhờ vậy nên tránh được tình trạng người xin tài trợ sử dụng vốn sai mục đích, hạn chế được rủi ro tín dụng.
Mặt khác, TDTTXNK cũng nâng cao tính an toàn cho các NHTM thông qua việc quản lý thu các nguồn thanh toán. Do vậy nguồn thu để trả các khoản tài trợ của ngân hàng được ngân hàng quản lý hết sức chặt chẽ tránh được tình trạng xoay vốn của doanh nghiệp trong thời gian vốn tạm thời nhàn rỗi, đồng thời cũng tránh được rủi ro cho ngân hàng.
TDTTXNK cũng là một hình thức tài trợ mang lại thu nhập cao cho ngân hàng. Hiệu quả tín dụng thể hiện thông qua lãi suất. Có nhiều loại lãi suất trong quá trình thực hiện nghiệp vụ này như lãi suất cho vay thanh toán, lãi suất chiết khấu chứng từ, lãi vay bắt buộc… Tiền lãi thu được cao vì thường giá trị tài trợ ở mức vừa và lớn.
Ngoài ra, thông qua hoạt động TDTTXNK, các NHTM còn mở rộng được quan hệ với các doanh nghiệp và các ngân hàng nước ngoài, nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường quốc tế.
Vai trò của TDTTXNK đối với các doanh nghiệp
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, thị trường thương mại thế giới mở rộng không ngừng, nhu cầu về thị trường tiêu thụ hàng hoá, thị trường đầu tư đang trở nên cấp bách đối với các doanh nghiệp XNK. Với sự hỗ trợ của ngân hàng, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp được mở rộng và có hiệu quả hơn:
Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay để nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật vì vậy mà nâng cao năng suất hoạt động của doanh nghiệp do tăng năng suất lao động, chất lượng hàng hoá được nâng cao, giá thành sản phẩm hạ do vậy tạo được khả năng cạnh tranh đối với các doanh nghiệp khác.
Trong các giao dịch ngoại thương, có những hợp đồng ngoại thương được ký kết với giá trị lô hàng lớn, và có thể được thực hiện trong thời gian tương đối dài. Điều đó đòi hỏi các nhà xuất khẩu phải có nguồn vốn tương đối lớn và ổn định để đáp ứng các yêu cầu từ quá trình thu mua ngyuên vật liệu đầu vào, chế biến, sản xuất, vận chuyển đến người nhập khẩu – quá trình này có thể kéo dài hàng năm, có khi nhiều hơn. Doanh nghiệp không thể tập trung hết toàn bộ nguồn lực của mình vào một hoạt động mà phải phân bố nguồn vốn vào các hoạt động kinh doanh khác. Do đó, nhu cầu tài trợ vốn từ ngân hàng là rất cần thiết đối với doanh nghiệp.
Trong bất kỳ hoạt động ngoại thương nào thì điều khoản thanh toán cũng được đặc biệt chú trọng. Nếu doanh nghiệp đã có được sự tài trợ từ phía ngân hàng có nghĩa là xác định được ngân hàng phục vụ mình, thì doanh nghiệp sẽ tạo được lợi thế trong quá trình đàm phán, thương lượng và ký kết hợp đồng. Bởi vì với sự tài trợ của ngân hàng thì doanh nghiệp có sự hậu thuẫn to lớn không chỉ về vốn mà còn cả kinh nghiệm thanh toán và uy tín trên thị trường quốc tế - điều này giúp đối tác sẽ an tâm hơn và tin vào khả năng thực hiện hợp đồng của các doanh nghiệp XNK trong nước. Như vậy, TDTTXNK là giải pháp giúp các doanh nghiệp thực hiện được các hợp đồng ngoại thương đặc biệt là các hợp đồng có giá trị lớn.
Ngoài ra, TDTTXNK còn làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thông qua nguồn vốn tài trợ của ngân hàng, doanh nghiệp xuất khẩu có thể mua hàng đúng thời vụ, gia công, chế biến, sản xuất và giao hàng đúng thời điểm.Còn đối với doanh nghiệp nhập khẩu, vốn tài trợ của ngân hàng thương mại giúp doanh nghiệp có thể kịp thời mua được những lô hàng lớn với giá thấp. Như vậy, tín dụng XNK đều giúp các doanh nghiệp đạt được hiệu quả cao khi thực hiện thương vụ.
Đặc biệt, TDTTXNK của ngân hàng còn giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín trên thị trường quốc tế. Thông qua tài trợ ngân hàng, doanh nghiệp sẽ thực hiện được những thương vụ lớn một cách trôi chảy, quan hệ được với những khách hàng tầm cỡ thế giới.
Vai trò của TDTTXNK đối với nền kinh tế đất nước
TDTTXNK góp phần làm tăng trưởng kinh tế đất nước cả về mặt lượng và chất. Thông qua huy động vốn và cho vay, TDTTXNK tác động trực tiếp đến quan hệ tích luỹ - tiêu dùng và đầu tư - tiết kiệm, góp phần quan trọng vào khai thác các nguồn lực xã hội nhằm thực hiện GDP thực tế cân bằng với GDP tiềm năng, từ đó tác động đến tăng trưởng kinh tế. Đối với các nước đang phát triển thì tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Đặc biệt là đối với các dự án, chương trình lớn phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu, cần nhập khẩu thiết bị, công nghệ mới, hiện đại, nguồn vốn tài trợ xuất khẩu thường chiếm từ 70% - 80% tổng mức vốn đầu tư. Bằng cơ chế lãi suất ưu đãi và nguồn trung, dài hạn, ngân hàng có thể tập trung cho các dự án này nhằm đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Chúng ta cũng biết khi một nước tham gia vào phân công lao động quốc tế thì cơ chế ngoại thương sẽ tạo ra hiệu quả cho các bên tham gia. Cơ chế đó sinh ra từ lợi thế so sánh dựa trên sự khác biệt giữa chi phí cơ hội một mặt hàng của các nước tham gia. TDTTXNK góp phần khai thác lợi thế so sánh và làm tăng kim ngạch xuất khẩu, đa dạng hoá các mặt hàng xuất, nhập khẩu theo yêu cầu của thị trường, quá trình lưu thông hàng hoá sẽ diễn ra trôi chảy hơn, từ đó tăng tính năng động của nền kinh tế. Với nguồn vốn tài trợ XNK của ngân hàng, doanh nghiệp có điều kiện đổi mới dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị sản xuất hàng xuất khẩu nên chất lượng sản phẩm hàng hoá được nâng cao, giá thành sản phẩm hạ, tạo khả năng cạnh tranh với hàng hoá của các nước khác và kinh doanh có lãi. Sự phát triển của doanh nghiệp đã tác động đến sự phát triển chung của nền kinh tế.
Các hình thức TDTTXNK
Cùng với xu thế hội nhập kinh thế giới, hoạt động thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết và theo đó TDTTXNK cũng ngày càng trở nên phong phú và đa dạng với nhiều hình thức khác nhau nhằm phục vụ tích cực và hiệu quả cho hoạt động XNK. Có nhiều cơ sở để phân loại TDTTXNK như: theo thời gian tài trợ có TDTTXNK ngắn hạn và TDTTXNK trung- dài hạn; theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng có TDTTXNK có đảm bảo và TDTTXNK không có đảm bảo… Mỗi hình thức tài trợ có cách thức thực hiện khác nhau, phương tiện thanh toán khác nhau, nguồn tài trợ khác nhau và mức giá cũng khác nhau. Do khuôn khổ của bài luận có hạn nên sau đây TDTTXNK sẽ được phân chia dựa theo phương thức thanh toán.
1.2.3.1. Tài trợ xuất khẩu
♦ Tài trợ trong khuôn khổ nhờ thu kèm chứng từ
Do tính chất của nhờ thu là có lợi hơn cho bên mua nên thường ít được các nhà xuất khẩu sử dụng trừ trường hợp hai bên quen biết và tin tưởng nhau. Thực hiện nghiệp vụ này, nhà xuất khẩu uỷ thác các chứng từ về hàng hoá, vận đơn, bảo hiểm và các chứng từ khác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ. Sau đó, ngân hàng này sẽ chuyển tiếp chứng từ đến ngân hàng cần giao dịch với chỉ thị giao chứng từ khi đã thanh toán (D/P: documents against payment) hoặc chấp nhận thanh toán ( D/A: documents against acceptance). Tuy nhiên, từ lúc chứng từ được gửi đi cho đến khi bên nhập khẩu nhận được phải mất một khoảng thời gian nhất định. Trong thời gian đó, thông thường các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ nảy sinh nhu cầu về vốn tạm thời để duy trì hoạt động sản xuất. Ngân hàng bên xuất hoặc bên nhập khẩu đều có thể tài trợ cho nhà xuất khẩu. Nhà xuất khẩu cũng có thể chuyển nhượng quyền lợi từ sự uỷ nhiệm cho ngân hàng thu chứng từ. Nhưng giá trị chuyển nhượng phụ thuộc rất lớn vào khả năng thanh toán của người xin tài trợ vì không có sự đảm bảo chắc chắn rằng các chứng từ của bên nhập khẩu được chấp nhận và phụ thuộc vào giá trị hàng hoá được thanh toán.
♦ Tài trợ trên cơ sở hối phiếu (chiết khấu hối phiếu)
Hình thức tài trợ này được sử dụng khi các bên tham gia xuất - nhập khẩu chấp nhận có hối phiếu kỳ hạn không huỷ ngang. Hối phiếu là lệnh đòi tiền vô điều kiện của nhà xuất khẩu ký phát cho nhà nhập khẩu, yêu cầu bên nhập khẩu khi nhìn thấy hối phiếu hoặc đến một ngày cụ thể xác định phải trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hối phiếu hoặc theo lời của người hưởng lợi trả cho một người khác hoặc trả cho người cầm hối phiếu.
Tài trợ thông qua chiết khấu hối phiếu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực hiện khi nhà xuất khẩu mang hối phiếu chưa đến hạn thanh toán đến ngân hàng phục vụ mình xin chiết khấu. Thực chất của hình thức này là ngân hàng tiến hành mua lại các hối phiếu đang trong thời kỳ chưa đến hạn thanh toán. Thông qua loại hình tín dụng này, ngân hàng cung ứng một khoản vốn cho nhà xuất khẩu để hộ có điều kiện tiếp tục quá trình tái sản xuất. Đây chính là khoản vốn mà nhà xuất khẩu cần bù đắp vì trước đó họ đã cung ứng khoản tín dụng thương mại cho nhà nhập khẩu.
Khi tiến hành chiết khấu ngân hàng xác định lượng tín dụng cấp ra (giá trị chiết khấu) căn cứ vào mệnh giá của hối phiếu được áp dụng làm đối tượng chiết khấu trừ đi lợi tức chiết khấu và lệ phí nhờ thu mà ngân hàng chiết khấu hưởng. Công thức được xác định như sau:
TCK = M (1- LCK/360*t) – P
Trong đó:
TCK: giá trị chiết khấu
M: mệnh giá hối phiếu
LCK: lãi suất chiết khấu (theo năm)
T: thời gian chiết khấu (theo ngày)
P: lệ phí
Khi kết thúc thời hạn chiết khấu, ngân hàng sẽ đòi tiền người có nhiệm vụ trả tiền hối phiếu. Trong một số trường hợp, ngân hàng có thể gặp rủi ro khi thực hiện chiết khấu vì vậy ngân hàng cần phải xem xét thận trọng trước và trong khi chiết khấu.
♦ Tài trợ trong khuôn khổ chứng từ
Thư tín dụng không những là một công cụ đảm bảo thanh toán mà còn là một công cụ tín dụng. Nhà xuất khẩu có thể đem bộ chứng từ chưa đến hạn thanh toán đến ngân hàng xin chiết khấu. Với nghiệp vụ này, ngân hàng đã tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu có thể thu hồi vốn để đảm bảo sản xuất liên tục, không bị gián đoạn nhờ khoản tín dụng mà ngân hàng cung ứng. Phạm vi chiết khấu bộ chứng từ thường chỉ áp dụng trong phương thức thanh toán quốc tế tín dụng chứng từ do sự ràng buộc chặt chẽ về việc giao hàng của nhà xuất khẩu và trách nhiệm thanh toán của nhà nhập khẩu thông qua các ngân hàng phục vụ nên rủi ro thấp so với các phương thức thanh toán khác. Tỷ lệ chiết khấu tuỳ thuộc vào hình thức chiết khấu:
- Chiết khấu truy đòi (chiết khấu mở): Ngân hàng thực hiện việc cho vay trên cơ sở nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo. Thời gian cho vay được tính bằng thời gian cần thiết trung bình để đòi tiền người nhập khẩu. Ngân hàng sau khi chiết khấu sẽ truy đòi nhà xuất khẩu nếu đến hạn thanh toán bị phía đối tác từ chối thanh toán. Lãi suất chiết khấu trong trường hợp này thường thấp do ngân hàng ít chịu rủi ro.
- Chiết khấu miễn truy đòi (chiết khấu đóng): Thực chất đây là trường hợp mua đứt bộ chứng từ. Nhà xuất khẩu nhận tiền và không còn trách nhiệm hoàn trả hay thu tiền. Khi đó, toàn bộ số tiền thu được sẽ thuộc ngân hàng và ngân hàng phải chịu hoàn toàn rủi ro nếu phía đối tác không thanh toán khi đến hạn. Như vậy, trong trường hợp này ngân hàng có rủi ro cao hơn nên lãi suất áp dụng cao hơn.
♦ Tạm ứng
Đây là một hình thức tài trợ xuất khẩu ngắn hạn mà không cần đến các chứng từ thanh toán. Doanh nghiệp xuất khẩu có thể đề nghị ngân hàng cấp tín dụng giữa chừng trong khuôn khổ thanh toán trơn (Clean payment). Hình thức này được dùng chủ yếu khi nhà xuất khẩu không có đủ khả năng thanh toán. Nhờ được tài trợ họ có thể khắc phục được tình trạng bất cập về tài chính cho đến khi thu được lợi nhuận từ xuất khẩu. Mức độ tạm ứng tuỳ thuộc vào khả năng thanh toán của nhà xuất khẩu, khả năng cạnh tranh và giá trị của hàng hoá…
♦ Bao thanh toán (Factoring)
Đây là hình thức tài trợ đặc biệt dành cho nhà xuất khẩu, ngân hàng sẽ mua lại các chứng từ thanh toán, các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán để trở thành chủ nợ trực tiếp đứng ra đòi nợ nhà nhập khẩu ở nước ngoài. Hiện nay trên thế giới, nghiệp vụ bao thanh toán được thực hiện tại các ngân hàng hoặc thành lập ra các công ty riêng gọi là công ty Factoring chuyên mua lại các khoản nợ. Thông thường người mua lại các khoản phải thu phát sinh từ những hợp đồng xuất khẩu gọi là người bao thanh toán (nhà Factor), người bán là người nhượng. Như vậy, nhà Factor sẽ giữ trọn bộ chứng từ của nhà xuất khẩu, họ sẽ phụ trách toàn bộ việc quản lý và theo dõi tiến độ thu nợ, xử lý các hoá đơn và thanh toán tiền hàng xuất khẩu khi đến hạn. Ngay sau khi nhận được hoá đơn của nhà xuất khẩu, nhà Factor sẽ thanh toán ngay cho nhà xuất khẩu một tỷ lệ phần trăm giá trị hoá đơn (thường từ 70% - 80%), phần còn lại sẽ được cam kết thanh toán sau một thời hạn nhất định (sau khi trừ đi các chi phí, lãi suất và hoa hồng). Tuỳ theo tính chất hoàn hảo của chứng từ, tình hình tài chính và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu mà ngân hàng quyết định mua nợ cao hay thấp đối với nhà xuất khẩu. Có hai loại:
- Factoring tương đối: là nhà Factor sẽ thanh toán cho nhà xuất khẩu nhưng với thoả thuận là nhà xuất khẩu vẫn chịu trách nhiệm rủi ro nếu nhà nhập khẩu không trả tiền.
- Factoring tuyệt đối: nhà Factor gánh chịu mọi rủi ro nếu nhà nhập khẩu không trả tiền. Tín dụng bao thanh toán giúp nhà xuất khẩu có vốn ngay để tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh dù bán thu tiền ngay hay bán chịu, đồng thời giúp nhà xuất khẩu không phải bận tâm vào việc quản lý thanh toán phức tạp, kéo dài thời gian. Vì vậy, nhà xuất khẩu phải trả một khoản phí khá cao khi được bao thanh toán.
1.2.3.2. Tài trợ nhập khẩu
♦ Cho vay mở L/C
Phương thức tín dụng chứng từ là một thoả thuận trong đó một ngân hàng (ngân hàng phát hành L/C) theo yêu cầu của khách mở thư tín dụng sẽ trả tiền cho người thứ ba hay bất cứ một người nào khác theo lệnh của người thứ ba, khi đó đã chấp nhận thanh toán hay mua hối phiếu sau khi đã trình đủ các chứng từ quy định. Trong trường hợp khách hàng không đủ tiền có thể đi vay ngân hàng. Như vậy, khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho nhà nhập khẩu được đảm bảo bằng bộ chứng từ hàng hoá (thư tín dụng – L/C).
Việc xin mở thư tín dụng có những quy định cụ thể, tuỳ theo mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng mà ngân hàng yêu cầu phải có ký quỹ hay không? Và mức ký quỹ là bao nhiêu? Ngân hàng phát hành L/C có thể miễn cho các doanh nghiệp không phải ký quỹ 100%. Sự tài trợ này giúp cho các doanh nghiệp không bị ứ đọng vốn trong thời gian chứng từ luân chuyển, vì trong thực tế thời gian mở thư tín dụng đến khi thanh toán xong là khoảng thời gian khá dài.
♦ Tạm ứng
Cũng như các nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu cũng cần đến những khoản tạm ứng của ngân hàng. Chẳng hạn khi nhà nhập khẩu phải thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu khi chưa nhận được hàng hoá và chưa có tiền thu từ bán hàng. Nhà nhập khẩu có thể dùng bộ chứng từ để đảm bảo xin tài trợ từ ngân hàng. Đây chỉ là việc tài trợ cho các mục tiêu thanh toán ngắn hạn của ngân hàng cho doanh nghiệp.
♦ Tài trợ trên cơ sở hối phiếu (Chấp nhận của ngân hàng)
Tín dụng chấp nhận hối phiếu là khoản tín dụng mà ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu. Thực chất khoản vay này chỉ là một hình thức, một sự đảm bảo về tài chính vì ngân hàng chưa phải xuất tiền ngay cho người vay. Tuy nhiên, khi đến hạn nếu nhà nhập khẩu không có đủ khả năng thanh toán thì ngân hàng chấp nhận hối phiếu phải đứng ra trả nợ thay.
Hình thức này được sử dụng khi bên xuất khẩu không tin tưởng khả năng thanh toán của bên nhập khẩu, họ có thể đề nghị bên nhập khẩu yêu cầu một ngân hàng đứng ra chấp nhận trả tiền hối phiếu do bên xuất khẩu ký phát. Việc ngân hàng đồng ý có nghĩa là ngân hàng đã chấp nhận cấp một khoản tín dụng cho bên nhập khẩu để họ thanh toán khi hối phiếu đến hạn. Tuy nhiên, hối phiếu được ngân hàng chấp nhận phải có đủ điều kiện cụ thể như thời hạn là bao nhiêu? Giá trị của hối phiếu và phải dựa trên nghiệp vụ tương ứng.
Nếu đến hạn thanh toán mà bên nhập khẩu có đủ tiền trả thì ngân hàng thực sự không phải xuất tiền ra. Như vậy, khoản tín dụng này chỉ là hình thức và khi đó ngân hàng sẽ chỉ nhận được một khoản phí chấp nhận, khoản tiền bù đắp cho chi phí gánh chịu rủi ro tín dụng.
♦ Tín dụng chấp nhận hối phiếu dành cho nhà nhập khẩu (hối phiếu tự nhận nợ - Promissory note)
Nhà nhập khẩu ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng phục vụ mình trên cơ sở hối phiếu tự nhận nợ. Hối phiếu này do chi nhánh của ngân hàng phục vụ người xuất khẩu phát hành và chuyển đến cho nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu dùng hối phiếu này chiết khấu nhận tiền tại ngân hàng phục vụ mình.
Thẩm định khách hàng trong hoạt động TDTTXNK của NHTM
Khái niệm và mục tiêu thẩm định khách hàng trong hoạt động TDTTXNK của NHTM
Khi cấp tín dụng, điều mà bất cứ ngân hàng nào cũng quan tâm hàng đầu là khả năng trả nợ của khách hàng. Bất cứ khoản tín dụng nào, dù lãi suất cao hay thấp, thời hạn ngắn hay dài... thì vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Có vô số các rủi ro khác nhau khi cho vay, xuất phát từ nhiều yếu tố và có thể dẫn đến việc không chi trả được nợ khi đến hạn. Các thiệt hại đôi khi nảy sinh từ nguyên nhân thiên tai, những thay đổi trong kinh tế, chính trị như thay đổi nhu cầu tiêu dùng, thay đổi chính sách XNK của quốc gia, sự hưng thịnh hoặc suy thoái của chu kỳ kinh doanh...
Nếu rủi ro xảy ra, trước hết ngân hàng sẽ bị tổn thất, không thu hồi được số tiền đã cho vay. Không chỉ có vậy, sự tổn thất đó còn ảnh hưởng đến thu nhập, kết quả kinh doanh của ngân hàng. Nó làm thay đổi các chỉ số tài chính của ngân hàng như tỷ lệ nợ khoanh, tổng dư nợ quá hạn, tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ tín dụng... phản ánh chất lượng hoạt động của ngân hàng, làm giảm uy tín của ngân hàng. Nếu giá trị khoản vay chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, rủi ro này thậm chí có thể làm cho ngân hàng bị phá sản.
Do vậy, để đưa ra quyết định có cấp tín dụng hay không, ngân hàng phải xác định mức độ rủi ro có thể chấp nhận được trong mỗi trường hợp và mức cho vay hợp lý. Muốn vậy, các ngân hàng phải tiến hành phân tích tín dụng để đưa ra quyết định chính xác.
Phân tích tín dụng là quá trình thẩm định khách hàng trước, trong và sau khi cấp tín dụng. Mục đích chủ yếu của phân tích tín dụng là xác định khả năng và ý muốn trả nợ của khách hàng phù hợp với các điều khoản trong hợp đồng tín dụng.
Thẩm định khách hàng về cơ bản đều giống nhau ở tất cả các NHTM. Quy trình thẩm định khách hàng bao gồm việc thu thập thông tin có ý nghĩa với việc đánh giá tín dụng, việc chuẩn bị và phân tích thông tin thu thập được, sưu tầm và lưu lại thông tin để sử dụng trong tương lai.
Tín dụng ngân hàng được thực hiện trên những nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời cho ngân hàng. Vì vậy, việc phân tích tín dụng nhằm mục tiêu đánh giá khả năng khách hàng đảm bảo các nguyên tắc đó ở mức độ nào:
Khách hàng phải ._.cam kết hoàn trả cả gốc và lãi với thời gian xác định. Thẩm định khách hàng phải đánh giá tính chân thực trong cam kết đó, tức là xem xem khách hàng có thật sự cố gắng và nỗ lực thực hiện cam kết đó hay không và khả năng thực hiện được đến mức nào...
Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả thuận với khách hàng. Như vậy, thẩm định khách hàng phải xem xét khả năng xảy ra rủi ro đạo đức, đánh giá uy tín, tư cách của khách hàng...
Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án hay dự án có hiệu quả. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay là cơ sở đảm bảo cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Vì vậy, trong trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo. Nhiệm vụ của thẩm định khách hàng cũng bao gồm cả việc thẩm tra tính khả thi của dự án và thẩm định tài sản đảm bảo...
1.3.2. Nguồn thông tin phục vụ cho công tác thẩm định khách hàng
Phỏng vấn trực tiếp: Đây là một biện pháp thu thập thông tin rất quan trọng, bao gồm việc gặp gỡ trực tiếp giữa ngân hàng và người vay vốn: Thăm quan nhà xưởng, văn phòng, nói chuyện với giám đốc và người lao động, xem xét vật thế chấp… Qua phỏng vấn trực tiếp, cán bộ tín dụng biết được lý do vay và biết được các yêu cầu xin vay có đáp ứng được các đòi hỏi khác nhau do các chính sách cho vay của ngân hàng ấn định không. Phỏng vấn trực tiếp giúp cán bộ tín dụng cảm nhận cái đang diễn ra và có một ý niệm nào đó về tính thật thà và khả năng của người vay để đưa ra quyết định cấp tín dụng chính xác. Thông tin về lịch sử và sự phát triển của ngành kinh doanh, kiến thức của đội ngũ nhân sự chủ chốt, bản chất của các sản phẩm và các dịch vụ, nguồn nguyên liệu, thế cạnh tranh và các kế hoạch cho tương lai có thể có được sau khi phỏng vấn.
Mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua các trung gian như: các cơ quan quản lý, qua các bạn hàng, chủ nợ khác của người vay, qua các trung tâm thông tin tư vấn… Đối với những khách hàng lần đầu tiên đến với ngân hàng hoặc chuyển từ ngân hàng này sang ngân hàng khác thì việc tìm hiểu thông tin về khách hàng trong một thời gian ngắn là không đơn giản. Chính vì vậy, việc mua hoặc tìm kiếm thông tin thông qua trung gian giúp cho ngân hàng phân tích người vay qua các mối quan hệ của họ, cho thấy uy tín, tình trạng rủi ro, phát triển hay suy thoái của khách hàng.
Thông qua các thông tin có được từ báo cáo của khách hàng: Hầu hết các khách hàng đều phải cung cấp cho ngân hàng các bản báo cáo tài chính, đặc biệt nếu khối lượng vay tương đối lớn. Việc đánh giá chính xác thông tin phản ánh trong các báo cáo tài chính là rất quan trọng trong thẩm định khách hàng. Ngân hàng sử dụng các báo cáo này để ước tính nhu cầu vốn, trong đó có nhu cầu tài trợ, đánh giá khả năng sinh lời và khả năng trả nợ, các thiệt hại có thể xảy ra nếu khách hàng không trả hoặc trả không đầy đủ, giá trị các tài sản có thể phát mại khi cần thiết…
Ngoài ra, việc lưu trữ hồ sơ tập trung về khách hàng có thể cung cấp thông tin cho cán bộ tín dụng. Sổ sách có thể cho biết việc chi trả các khoản vay trước đây, số dư tài khoản tiết kiệm và tài khoản séc và cũng có thể biết được liệu khách hàng có thói quen rút quá số dư tài khoản của họ không…
Quy trình tín dụng của NHTM
Quy trình tín dụng là những quy định của cơ quan cấp trên quản lý Ngân hàng ban hành, buộc Ngân hàng và cán bộ tín dụng phải tuân thủ. Quy trình tín dụng chính là các bước tiến hành quá trình từ cho vay đến thu nợ nhằm bảo toàn vốn tín dụng. Quá trình này cơ bản gồm :
- Bước1: Phân tích trước khi cấp tín dụng
Đây là bước quan trọng nhất quyết định chất lượng của phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu là thu thập, xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng: Năng lực sử dụng vốn vay, khả năng tạo ra lợi nhuận, quyền sở hữu các tài sản...
- Bước 2: Xây dựng và kí kết hợp đồng tín dụng
Là văn bản ghi lại thoả thuận giữa khách hàng và Ngân hàng, với nội dung chủ yếu là Ngân hàng cam kết cho khách hàng vay một khoản tiền hoặc hạn mức tín dụng trong một khoảng thời gian với lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật, xác định quyền và nghĩa vụ của cả hai bên trong quan hệ tín dụng.
- Bước 3: Giải ngân và kiểm soát sau khi giải ngân
Sau khi hợp đồng tín dụng được kí kết, Ngân hàng có trách nhiệm giải ngân như đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Kèm theo việc giải ngân, Ngân hàng kiểm soát khách hàng: Sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ hay không, quá trình sản xuất kinh doanh có những bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hay làm ăn thua lỗ không . . .
- Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các quyết định mới
Quan hệ tín dụng kết thúc khi Ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản tín dụng an toàn là các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn. Trường hợp các khoản tín dụng đã không hoàn trả hoặc không hoàn trả đủ, đúng hạn thì Ngân hàng cần đưa ra các quyết định mới.
Nội dung thẩm định khách hàng trong hoạt động TDTTXNK của NHTM
Nhiều yếu tố được các nhân viên tín dụng xem xét khi phân tích một yêu cầu vay tiền. Trong đó, yếu tố về khả năng và ý muốn hoàn trả nợ vay, phù hợp với các điều khoản của hợp đồng tín dụng là quan trọng nhất, cần phải được cán bộ tín dụng thẩm định.
Thẩm định về năng lực pháp lý của khách hàng
Các ngân hàng không chỉ quan tâm đến khả năng hoàn trả của người vay mà còn quan tâm đến năng lực pháp lý của họ khi đi vay. Khi doanh nghiệp đến ngân hàng vay vốn, ngân hàng phải yêu cầu doanh nghiệp lập hồ sơ vay vốn. Trong hồ sơ vay vốn, khách hàng phải nộp một số giấy tờ cần thiết chứng minh tính hợp pháp, hợp lệ của doanh nghiệp như: Quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề còn hiệu lực, biên bản góp vốn pháp định, nghị quyết của đại hội đồng cổ đông... Từ những thông tin mà khách hàng cung cấp, ngân hàng sẽ xác minh lại tính chính xác, đầy đủ của thông tin, từ đó xét xem khách hàng có đủ năng lực pháp lý không.
Uy tín của khách hàng
Uy tín của khách hàng không chỉ là sự sẵn lòng trả nợ mà còn phản ánh ý muốn kiên quyết nhằm thực hiện tất cả các giao ước trong các điều khoản của hợp đồng. Một người có tư chất thường có các đức tính như thật thà, liêm chính, siêng năng và đức hạnh nhưng uy tín là một điều khó đánh giá được. Hoàn toàn có khả năng là một người không có tất cả các phẩm chất này nhưng vẫn muốn hoàn trả các món nợ. Uy tín quan trọng nhất của tín dụng là tính thật thà và liêm chính của một con người và cũng quan trọng khi thực hiện việc cho vay đối với các hãng kinh doanh hoặc cá nhân. Hồ sơ quá khứ của một người xin vay trong việc thực hiện các hợp đồng của họ thường có giá trị khi đánh giá uy tín về tín dụng. Tuy nhiên đôi khi việc đánh giá một người chủ yếu là phán đoán chứ không thể hiện trên cơ sở các thông tin thực tế đầy đủ.
Khả năng tạo ra lợi tức
Nếu khoản vay được trả từ lợi nhuận thì điều quan trọng là phải đánh giá được khả năng của người vay trong kinh doanh nhằm kiếm đủ số lời để trả nợ. Một số khoản vay được thực hiện với hy vọng việc hoàn trả từ việc bán các tài sản, từ khoản vay khác, hoặc từ việc phát hành cổ phần. Tuy nhiên, nguồn chi trả chính đối với hầu hết các khoản cho vay là khả năng kiếm lợi của người vay.
Đối với một hãng kinh doanh, việc tạo ra lợi tức tuỳ thuộc vào tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến lượng hàng bán, giá bán, giá thành và chi phí. Những yếu tố này bao gồm địa điểm của hãng, chất lượng hàng hoá, tính hữu hiệu của quảng cáo, khả năng cạnh tranh, phẩm chất của lực lượng lao động, khả năng khai thác, giá thành của nguyên liệu và chất lượng quản lý. Để đánh giá được khả năng tạo ra được lợi tức của khách hàng, ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp phải nộp một số tài liệu liên quan như: Bảng cân đối kế toán trong 3 năm gần nhất (nếu có đủ), báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh trong 3 năm gần nhất, báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong 3 năm gần nhất, báo cáo kiểm toán (nếu có), kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp trong thời gian tới...
Sau khi xem xét tài liệu do khách hàng cung cấp và đi khảo sát thực tế ở doanh nghiệp, cán bộ thẩm định phải đánh giá được tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong những năm gần đây. Đồng thời, cán bộ thẩm định cũng phải phân tích về sản lượng sản xuất, tiêu thụ, doanh thu, lợi nhuận của khách hàng qua các năm để từ đó đánh giá được hiệu quả kinh doanh, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng cũng cần tìm hiểu nguyên nhân tăng, giảm doanh thu, lợi nhuận qua các năm, nắm được chính sách phân phối sản phẩm, phương thức thanh toán, khối lượng hàng tồn kho, thị trường tiêu thụ sản phẩm để đánh giá được đúng thực tế của doanh nghiệp.
Ngoài ra, cán bộ thẩm định cũng cần phải phân tích những biến động và những nhân tố ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, phân tích các tỷ số tài chính của doanh nghiệp
1.3.3.4. Đánh giá tài sản của khách hàng
Các doanh nghiệp đều có bảng cân đối kế toán, trong đó, phần tài sản phản ánh giá trị tài sản tại một thời điểm hoặc kết dư trung bình trong một thời kỳ. Các thông tin về tài sản cho thấy quy mô, khả năng quản lý của khách hàng rất quan trọng đối với quyết định cho vay. Tài sản của khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả năng thu hồi nợ khi khách hàng mất khả năng sinh lời và thường là một trong những yếu tố quyết định khối lượng tín dụng mà ngân hàng sẵn lòng cho khách hàng vay.
Các điều kiện kinh tế
Các kết quả phân tích ở trên cho thấy một phần quá khứ và hiện tại của khách hàng. Nhưng điều mà ngân hàng quan tâm hơn cả là khả năng trong tương lai của khách hàng. Thời hạn càng dài thì dự đoán càng khó chính xác, đó là do tác động của các điều kiện kinh tế. Các điều kiện kinh tế ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả của người vay nhưng chúng thường vượt quá sự kiểm soát của người vay lẫn người cho vay. Người vay có thể có uy tín tốt, khả năng tạo lợi nhuận rõ ràng và đầy đủ các tài sản đảm bảo nhưng các điều kiện kinh tế có thể dẫn đến việc cấp tín dụng là không khôn ngoan. Thiên tai, các thay đổi bất thường trong đời sống chính trị, khủng hoảng kinh tế vùng, quốc gia, sự sa sút đột ngột của ngành… làm thay đổi các tính toán ban đầu dẫn đến giảm hoặc mất khả năng trả nợ của khách hàng. Tổn thất của khách hàng sẽ dẫn đến tổn thất của ngân hàng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK của NHTM
Nhân tố chủ quan
Đây là hệ thống các nhân tố bên trong ngân hàng, là những nhân tố mà ngân hàng có thể tác động vào để làm thay đổi.
Công tác tổ chức thực hiện thẩm định
Công tác tổ chức thực hiện thẩm định khách hàng bao gồm nhiều giai đoạn và được thực hiện bởi sự phối hợp của nhiều người nên có ảnh hưởng không nhỏ tới thẩm định khách hàng. Nếu công tác này được tổ chức một cách khoa học, hợp lý trên cơ sở phân công trách nhiệm cụ thể cho từng cá nhân phù hợp với trình độ chuyên môn, có kiểm tra, giám sát chặt chẽ, chất lượng thẩm định sẽ được nâng cao.
Chất lượng đội ngũ cán bộ
Đội ngũ cán bộ là nhân tố quyết định trực tiếp đến chất lượng thẩm định khách hàng. Do tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực trong công tác thẩm định khách hàng, đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có trình độ chuyên môn vững vàng, sự hiểu biết toàn diện về những vấn đề cần thẩm định như: hiểu biết về lĩnh vực doanh nghiệp kinh doanh, sự phát triển chung của ngành, của nền kinh tế, ... cũng như nắm vững các quy định, quy chế liên quan đến hoạt động cho vay. Trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường như hiện nay thì ngoài tuân thủ những quy định chung, các cán bộ tín dụng cũng phải nhạy bén với thị trường, xử lý linh hoạt các tình huống khác nhau để đưa ra các quyết định hợp lý.
Ngoài yêu cầu có kiến thức chuyên môn sâu, hiểu biết rộng, các cán bộ thẩm định cũng cần phải có phẩm chất đạo đức tốt nhằm giúp cho ngân hàng tránh gặp phải rủi ro đạo đức.
Bên cạnh chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định cũng cần quan tâm đến số lượng cán bộ thẩm định. Bởi nếu số lượng cán bộ thẩm định quá ít so với yêu cầu tất yếu sẽ xảy ra hiện tượng mỗi cán bộ phải thực hiện một khối lượng công việc quá tải, từ đó dẫn đến việc thẩm định thiếu kỹ càng và kém hiệu quả. Do đó, số lượng cán bộ thẩm định quá ít cũng ảnh hưởng đến công tác thẩm định khách hàng.
Thông tin
Thẩm định khách hàng được thực hiện trên cơ sở phân các thông tin trực tiếp và gián tiếp liên quan đến khách hàng. Thông tin càng đầy đủ, chính xác bao nhiêu thì việc thẩm định càng thuận lợi và chất lượng bấy nhiêu. Nếu thông tin sai lệch thì kết quả thẩm định sẽ không chính xác, có thể dẫn đến những quyết định sai lầm, gây tổn thất lớn và ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Chính vì vậy, yếu tố thông tin có một vai trò rất quan trọng đối với công tác thẩm định khách hàng.
- Quy trình thẩm định: Quy trình thẩm định khoa học, hợp lý sẽ giúp cho cán bộ tín dụng phân tích, đánh giá hồ sơ vay vốn một cách nhanh chóng, chính xác và toàn diện, qua đó tiết kiệm thời gian, chi phí đồng thời đưa ra được những quyết định cho vay đúng đắn. Yếu tố này rất quan trọng đối với việc hiện đại hoá ngân hàng, tránh tình trạng như trước đây, quy trình thẩm định không khoa học, nhiều thủ tục rườm rà, phức tạp, mất thời gian, chi phí và thậm chí có thể để lỡ mất cơ hội kinh doanh của ngân hàng cũng như của khách hàng.
Phương pháp thẩm định
Phương pháp thẩm định thể hiện thông qua hệ thống chỉ tiêu và cách áp dụng khi thẩm định. Mỗi chỉ tiêu đều có những ưu, nhược điểm nhất định, bởi vậy, trong khi thẩm định cán bộ thẩm định phải biết sử dụng kết hợp các chỉ tiêu để đưa ra một kết quả toàn diện và chính xác nhất. Tuỳ theo đặc điểm, tính chất của từng đối tượng khách hàng mà đặt chỉ tiêu nào là quan trọng đối với việc ra quyết định cho vay.
Trang thiết bị, công nghệ ngân hàng
Đây là nhân tố ảnh hưởng đến thời gian và độ chính xác của kết quả thẩm định khách hàng. Với trang thiết bị hiện đại, việc thu thập và xử lý thông tin sẽ được tiến hành một cách nhanh chóng và chính xác. Nhờ vậy, chất lượng công tác thẩm định khách hàng sẽ được nâng cao.
1.3.5.2. Nhân tố khách quan
Nhân tố khách quan bao gồm các nhân tố từ môi trường pháp lý, môi trường kinh tế xã hội và từ chính khách hàng.
Về môi trường pháp lý: Đó là các cơ chế, chính sách của nhà nước, các văn bản pháp luật và sự điều hành của các cơ quan nhà nước. Nếu môi trường pháp lý đầy đủ, rõ ràng sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng tiến hành thẩm định được thông suốt, mau chóng, thuận tiện cho cả khách hàng. Nếu cơ chế này nhất quán, đồng bộ sẽ giúp ngân hàng rút ngắn được thời gian thu thập thông tin cũng như đẩy nhanh quá trình thẩm định.
Về môi trường kinh tế xã hội: Sự ổn định và tăng trưởng của môi trường kinh tế - xã hội sẽ giúp cho ngân hàng dự đoán tốt hơn những biến động của thị trường, hạn chế bớt rủi ro trong quá trình thẩm định. Ngoài ra, nếu môi trường kinh tế - xã hội ổn định, phát triển thì những thông tin trên thị trường sẽ được đáp ứng một cách nhanh chóng và chính xác hơn, do vậy sẽ giúp ngân hàng rút ngắn được thời gian thẩm định và nâng cao tính chính xác cho kết quả thẩm định.
Khách hàng: Bản thân khách hàng là người đầu tiên cung cấp thông tin về mình cho ngân hàng. Do vậy độ chính xác của thông tin cũng như sự trung thực của khách hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc thẩm định. Nếu thông tin không đầy đủ, ngân hàng sẽ mất thêm thời gian để thu thập và xác minh lại thông tin do khách hàng cung cấp. Điều này có thể làm kéo dài thêm thời gian thẩm định, tăng chi phí của ngân hàng và việc đưa ra quyết định cấp tín dụng sẽ bị chậm lại.
Chương 2:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH KHÁCH HÀNG TRONG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SGD HABUBANK
2.1. Tổng quan vể SGD Habubank
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của SGD Habubank
Năm 1986, lần đầu tiên các ngân hàng thương mại cổ phần được thành lập theo đường lối đổi mới của Đảng. Trong đó có Ngân hàng phát triển Nhà Hà Nội - tiền thân của Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội ngày nay (Habubank). Theo đề nghị của Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam, Giám đốc chi nhánh Ngân hàng Nhà Nước Hà Nội, được sự thống nhất của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội, ngày 30/12/1988, Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ra quyết định số 139 NH/QĐ ban hành điều lệ Ngân hàng Phát triển Nhà Hà Nội. Căn cứ vào quyết định trên, ngày 31/12/1988, Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội ra quyết định số 6719 QĐ/UB cho phép Ngân hàng Phát triển Nhà Hà Nội được hoạt động kinh doanh từ ngày 02/01/1989.
Ngày 02 tháng 01 năm 1989, Habubank đã được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động số 00020/NH-GP có hiệu lực kể từ ngày 06 tháng 06 năm 1992 trong thời hạn 99 năm. Habubank ra đời với mục tiêu ban đầu là hoạt động tín dụng và dịch vụ trong lĩnh vực phát triển nhà. Habubank thành lập với số vốn điều lệ ban đầu là 5 tỷ đồng. Khi Habubank mở rộng hoạt động, thành lập thêm các chi nhánh thì trụ sở đang hoạt động trở thành Hội sở chính của Habubank. Tháng 01 năm 2008, Hội sở chính Habubank được đổi tên thành SGD Habubank. Như vậy, sự ra đời của SGD Habubank gắn liền với sự ra đời của Habubank.
Tháng 10 năm 1992, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép Ngân hàng thực hiện thêm một số hoạt động kinh doanh ngoại tệ gồm tiền gửi, tiết kiệm, vay và tiếp nhận, cho vay, mua bán kiều hối, thanh toán ngoại tệ trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Năm 1995 đánh dấu một bước ngoặt đáng chú ý trong chiến lược kinh doanh của SGD Habubank với việc chú trọng mở rộng các hoạt động thương mại nhằm vào đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng các cá nhân và tổ chức tài chính khác bên cạnh việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ và phát triển nhà.
Với số vốn ban đầu chỉ có 5 tỷ đồng và 16 nhân viên, trải qua hơn 18 năm hoạt động, đến cuối năm 2007, SGD Habubank đã đạt được nhiều thành tựu lớn, được công nhận là Ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn và hiệu quả.
Với tốc độ phát triển hoạt động ngành ngân hàng và sự cạnh tranh ngày càng cao trên thị trường lao động khi Việt Nam gia nhập WTO, công tác phát triển nguồn nhân lực giữ một vai trò hết sức quan trọng trong định hướng chiến lược của bất kì ngân hàng nào. Năm 2006 đánh dấu một mốc son trong quá trình phát triển của SGD Habubank với những thành công rực rỡ không chỉ ở kết quả hoạt động kinh doanh mà còn ở việc mở rộng quy mô nguồn nhân lực cả về chất và về lượng.
Năm 2006, tổng số nhân viên của SGD Habubank là 126 cán bộ (tăng 1,5 lần so với năm 2005) với tỉ suất gìn giữ nhân viên gần 100%. Trong đó, 97% cán bộ có trình độ đại học và trên đại học. Đạt được thành tựu này là do ban lãnh đạo SGD Habubank luôn nhất quán trong chính sách nhân sự “không ngừng nâng cao động lực làm việc và năng lực cán bộ”.
Không chỉ chú trọng vào chính sách lương, ban kãnh đạo SGD Habubank luôn khuyến khích và tạo điều kiện cho nhân viên thường xuyên tham gia các khoá đào tạo nghiệp vụ trong và ngoài nước nhằm cập nhật và nâng cao kiến thức chuyên môn cũng như kỹ năng làm việc chuyên nghiệp cho cán bộ.
Với định hướng chiến lược “Habubank phải luôn là ngân hàng đi đầu trong ngành ngân hàng trong việc sáng tạo và phát triển các chính sách đãi ngộ cũng như phát triển sự nghiệp cho các cán bộ của mình” cùng với những kết quả đã đạt được trong năm qua, Habubank nói chung và SGD Habubank nói riêng tự hào là nơi mỗi nhân viên đều cảm thấy hài lòng về công việc của mình và tài năng cũng như giá trị đóng góp đều được công nhận xứng đáng.
2.1. 2. Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của SGD Habubank
Sơ đồ cơ cấu tổ chức tại SGD Habubank:
GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
PHÓ GIÁM ĐỐC
CÁC PHÒNG BAN CHỨC NĂNG
Phòng
công nghệ
thông tin
Phòng
phát triển dịch vụ thẻ
Phòng hành chính
Phòng kinh doanh
Phòng kế hoạch
Phòng kế
toán
Phòng marketing
Đặc điểm nổi bật của mô hình Habubank là tập trung vào khách hàng, đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp và quản lý rủi ro hiệu quả, tạo một bước chuyển mình hiệu quả trước sự biến đổi nhanh chóng và phức tạp của cơ chế thị trường. Đây là mô hình giúp ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn trước những biến cố của thị trường. Vì vậy, để đáp ứng chủ trương tinh gọn mà hiệu quả của toàn ngân hàng, SGD Habubank được tổ chức theo mô hình giảm thiểu tính quan liêu cũng như nâng cao tính năng động, linh hoạt của tổ chức. Từ đó giúp SGD Habubank nói riêng cũng như toàn ngân hàng dễ thích ứng và thay đổi khi môi trường kinh doanh biến chuyển.
2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh tại SGD Habubank trong những năm gần đây (2005 - 2007)
2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Nguồn vốn có vai trò rất quan trọng đối với mỗi ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình, nó quyết định đến quy mô hoạt động của ngân hàng.
Mặc dù, sự cạnh tranh trên thị trường huy động vốn ngày càng gay gắt, nhiều ngân hàng mới thành lập, mạng lưới chi nhánh các ngân hàng thương mại liên tục được mở rộng kết hợp với việc chạy đua về lãi suất nhưng bằng các biện pháp hữu hiệu, SGD Habubank đã duy trì tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động qua các năm. SGD Habubank thường xuyên theo dõi và điều chỉnh kịp thời lãi suất huy động để đảm bảo tính cạnh tranh, áp dụng các phương thức marketing hiệu quả khuyến khích khách hàng giao dịch nhiều và trung thành với ngân hàng, mở thêm kênh huy động vốn thông qua phát hành kì phiếu.
Bên cạnh việc triển khai các hoạt động nhằm tăng cường huy động vốn từ tiết kiệm dân cư, SGD Habubank cũng đẩy mạnh tiếp thị và mở rộng quan hệ với các tổ chức kinh tế có nguồn tiền gửi lớn và các tổ chức tài chính ngân hàng để tăng cường huy động vốn.
Kết quả đạt được thể hiện rõ qua từng con số tăng trưởng về huy động vốn của các năm gần đây.
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn giai đoạn 2005 – 2007
Đơn vị: triệu đồng
Nguồn vốn huy động
2005
2006
2007
So sánh 2006/2005
(%)
So sánh 2007/2006
(%)
Tiền gửi thanh toán, vay từ ngân hàng, các tổ chức tín dụng
790.688
1.110.758
1.653.472
+40
+49
Các nguồn vay khác
20.978
30.068
44.585
+43
+48
Tiền gửi của tổ chức kinh tế và cá nhân
359.845
521.471
780.603
+45
+49
Tiền gửi tiết kiệm
501.273
783.207
1.239.505
+56
+58
Tổng nguồn huy động
1.672.784
2.445.504
3.718.165
+46
+52
Nguồn: Báo cáo tài chính của SGD Habubank năm 2005, 2006, 2007.
Năm 2005, cùng với sự phát triển của toàn hệ thống, SGD Habubank cũng đã đạt được thành tựu lớn. Tổng nguồn vốn huy động được là 1.672.784 triệu đồng, tăng 42% so với năm 2004. Trong đó, tiền gửi tiết kiệm có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất 47%.
Năm 2006, tổng nguồn vốn huy động được là 2.445.504 triệu đồng, tăng 46% so với năm 2005. Trong đó, tiền gửi tiết kiệm vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao 56%. Đây là một dấu hiệu rất đáng mừng vì SGD Habubank đã quảng bá được thương hiệu của mình đồng thời không ngừng nâng cao uy tín và trở thành một địa chỉ đáng tin cậy đối với khách hàng.
Năm 2007, tổng số vốn huy động của SGD Habubank đã tăng lên rõ rệt, tăng 52% so với năm 2006. Ta thấy, tổng số vốn huy động có sự tăng lên đều đặn ở mức trên 40% so với năm trước. chỉ trong vòng ba năm, từ năm 2005 đến năm 2007, tổng số vốn huy động được đã tăng lên gấp hơn hai lần, từ 1.672.784 triệu đồng lên 3.718.165 triệu đồng. Những kết quả trên đạt được là nhờ những nỗ lực, cố gắng đổi mới cơ chế hoạt động, chính sách huy động vốn được mở rộng, các thủ tục đơn giản, gọn nhẹ và điều quan trọng hơn là do uy tín của SGD Habubank ngày càng được nâng cao.
SGD Habubank luôn cố gắng phấn đấu đa dạng hoá các hình thức huy động, không ngừng nâng cao uy tín và hình ảnh của mình, tạo nhiều kênh huy động vốn có chất lượng cao và ổn định.
2.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn
Nền kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng và phát triển trong những năm qua, theo đó nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế cũng không ngừng tăng lên. Để đáp ứng nhu cầu của sự phát triển, với tiêu chí phục vụ khách hàng, SGD Habubank đã không ngừng mở rộng và phát triển các dịch vụ cả về chiều rộng và chiều sâu, trong đó, dịch vụ cho vay khách hàng vẫn là dịch vụ tạo ra nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng. Tổng dư nợ cho vay tăng theo từng năm.
Bảng 2.2: Tổng dư nợ của SGD Habubank từ năm 2005 – 2007
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Tổng dư nợ
1.474
2.378
3.614
Tốc độ tăng so với năm trước (%)
41
61
52
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2005 – 2007. SGD Habubank.
Chỉ trong vòng ba năm, từ 2005 đến 2007, tổng dư nợ đã tăng gấp hơn hai lần, từ 1.474 tỷ đồng lên 3.614 tỷ đồng. Nền kinh tế tăng trưởng cao dẫn đến doanh nghiệp có nhu cầu vốn cao, nhu cầu tiêu dùng của dân cư cũng tăng cao. Mặc dù tăng trưởng tín dụng là một mục tiêu phát triển nhưng ngân hàng vẫn luôn giám sát đảm bảo chất lượng tín dụng tốt để đảm bảo an toàn nguồn vốn của ngân hàng. Ngân hàng luôn cố gắng duy trì tỷ lệ nợ quá hạn ở mức xấp xỉ 1% tổng dư nợ, năm 2006 tỷ lệ nợ xấu là 0.91%, đến năm 2007 tỷ lệ này giảm xuống còn 0.89%.
Để đạt được kết quả đó, ngân hàng đã phát triển nhiều sản phẩm cho vay mới, đưa ra các chính sách tín dụng với lãi suất phù hợp, cải tiến quy trình thẩm định, xét duyệt để đáp ứng được nhu cầu nhanh nhất, tốt nhất cho khách hàng. Hướng tới nhóm khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tiêu dùng luôn là mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của ngân hàng. Cho vay đối với các công ty TNHH, công ty cổ phần chiếm 65% năm 2005, 59% năm 2006 và 61% năm 2007. Cho vay tiêu dùng cá nhân năm 2005 chiếm 29% tổng dư nợ, chiếm 26% năm 2006 và chiếm 28% năm 2007. Xét về cơ cấu cho vay theo kỳ hạn, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng lớn tuy có xu hướng giảm. Năm 2005, cho vay ngắn hạn chiếm 59% tổng dư nợ, năm 2006 là 70% và năm 2007 là 68%, còn lại là cho vay trung và dài hạn.
Ngoài ra, SGD Habubank cũng không ngừng đẩy mạnh hoạt động đầu tư, tham gia vào thị trường liên ngân hàng và đầu tư chứng khoán. SGD Habubank đã đa dạng hoá danh mục đầu tư chứng khoán. Năm 2006, số dư đầu tư vào chứng khoán các loại tăng 1,5 lần so với năm 2005. Danh mục đầu tư chứng khoán mà SGD Habubank chú trọng là: Trái phiếu kho bạc, trái phiếu quỹ hỗ trợ phát triển, trái phiếu đô thị, kỳ phiếu ngân hàng. Việc đầu tư chứng khoán hiệu quả kết hợp với các hoạt động liên ngân hàng được đẩy mạnh hơn nữa đã giúp ngân hàng tạo ra một nguồn thu lớn, giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn thu tín dụng.
2.1.3.3. Hoạt động thanh toán quốc tế
Hoạt động thanh toán quốc tế tại SGD Habubank bắt đầu thực hiện từ tháng 1 năm 1999 với việc Ngân hàng nhà nước cho phép mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài. Đến năm 2001, Habubank chính thức trở thành thành viên của Hiệp hội SWIFT toàn cầu, tạo điều kiện cho mảng hoạt động này ngày càng phát triển ở Habubank cũng như ở SGD Habubank.
Từ tháng 11 năm 2001, để nâng cao chất lượng dịch vụ và phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng, SGD Habubank đã triển khai phần mềm Smart Bank, theo đó ngân hàng đã nối mạng online toàn hệ thống, toàn bộ dữ liệu được tập trung xử lý tại SGD, cho phép khách hàng có thể giao dịch thuận tiện tại mọi địa điểm của ngân hàng.
Dịch vụ thanh toán quốc tế tại SGD Habubank được các ngân hàng đại lý đánh giá có chất lượng cao với tỷ lệ điện chuẩn được xử lý tự động đạt 100%. Ngoài ra, phương thức thanh toán nhanh chóng, linh hoạt, không có sai sót, nhầm lẫn luôn đem lại sự hài lòng cho khách hàng.
Tổng doanh số từ hoạt động thanh toán quốc tế năm 2005 là 105.850 USD, năm 2006 là 139.722 USD, đến năm 2007, con số này là 172.524 USD. Kết quả này đạt được là do SGD Habubank đã tăng cường hợp tác với các ngân hàng nước ngoài để đa dạng loại hình dịch vụ và đáp ứng được những nhu cầu khác nhau của khách hàng.
Bảng 2.3: Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2006/2005
2007/2006
Lợi nhuận thu được
1,118
1,364
1,748
+22%
+28%
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của SGD Habubank các năm 2005 -2007
Lợi nhuận thu được năm 2005 đạt 1,118 tỷ đồng, năm 2006 đạt 1,364 tỷ đồng, tăng 22% so với năm 2005, năm 2007 thu được 1,748 tỷ đồng, tăng 28% so với năm 2006. Năm 2007 là năm đánh dấu sự phát triển vượt bậc cả về chất và lượng trong hoạt động thanh toán quốc tế của SGD Habubank. Với quyết tâm đẩy mạnh dịch vụ thanh toán, ngân hàng đã đạt được kết quả hết sức khả quan, hoàn thành vượt mức kế hoạch doanh số thanh toán quốc tế và thu phí dịch vụ thanh toán, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động.
2.1.3.4. Hoạt động khác
Hoạt động bảo lãnh:
Hoạt động bảo lãnh cũng như các hoạt động khác đang ngày càng phát triển tại SGD Habubank. Tổng số dư bảo lãnh năm 2006 tăng 52% so với năm 2005, năm 2007, số dư bảo lãnh tăng 57% so với năm 2006. Trong vòng 3 năm qua ngân hàng đã không phải trả thay cho trường hợp nào. Có được kết quả trên là do uy tín của ngân hàng ngày càng được nâng cao, tạo niềm tin cho khách hàng đến với ngân hàng.
Hoạt động kế toán tài chính:
Nền kinh tế phát triển đòi hỏi ngành ngân hàng cũng phải đổi mới công nghệ, hiện đại hoá ngân hàng. Cùng với sự phát triển chung của toàn ngành, SGD Habubank cũng đã đổi mới công nghệ, hoạt động kế toán tài chính đã bắt nhịp tốt với tiến trình hiện đại hoá ngân hàng và phối hợp nhịp nhàng với các phòng nghiệp vụ trong SGD. Trong những năm qua, ngân hàng đã tiếp tục đưa công nghệ hiện đại vào hoạt động như đầu tư lắp đặt máy rút tiền tự động ATM.
Ngoài ra, các cán bộ phòng tài chính kế toán cũng đã thực hiện tốt vai trò tổ chức hạch toán kế toán, đảm bảo đúng chính sách, chế độ, phục vụ tốt nhu cầu kinh doanh của SGD.
Kết quả hoạt động tài chính đến 31/12/2007:
- Thu nhập thuần từ hoạt động kinh doanh là: 165.237 triệu đồng.
- Lợi nhuận thuần sau thuế: 52.734 tỷ đồng.
Những kết quả hoạt động kinh doanh trên đã chứng tỏ SGD Habubank đang ngày càng phát triển vững mạnh và thực sự trở thành chỗ dựa đáng tin cậy cho khách hàng. SGD Habubank đã thực hiện tốt vai trò là đầu tầu dẫn đường cho các chi nhánh cùng phát triển. Với đội ngũ cán bộ trẻ, giàu nhiệt huyết và cơ cấu tổ chức quản lý phù hợp, SGD Habubank đã và đang vững bước trên con đường phát triển của mình.
2.2. Tình hình hoạt động TDTTXNK tại SGD Habubank
Hoạt động TDTTXNK tại SGD Habubank đang diễn ra rất sôi động ._.bộ ngân hàng, cung cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác cho công tác thẩm định. Ngoài ra ngân hàng cũng cần phải xây dựng một hệ thống lưu trữ và cung cấp thông tin về khách hàng với trang thiết bị hiện đại. Thông tin cũng cần được phân loại theo từng khách hàng, lĩnh vực kinh doanh hoặc theo tính chất thông tin:
+ Thông tin về các ngành nghề kỹ thuật: các chỉ tiêu về định mức kinh tế kỹ thuật của từng ngành, tình hình sản xuất của ngành, trang thiết bị, máy móc, công nghệ phục vụ sản xuất của ngành đó...
+ Thông tin về doanh nghiệp: thông tin về năng lực pháp lý, tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh, khả năng về tài chính, thị phần của doanh nghiệp trên thị trường, lĩnh vực kinh doanh...
+ Thông tin kinh tế vĩ mô: định hướng phát triển của ngành kinh tế, tình hình tăng trưởng kinh tế, các chính sách ưu đãi hoặc hạn chế của Nhà nước, các biến động của thị trường như biến động về tỷ giá, lãi suất, lạm phát...
+Thông tin mang tính tham khảo: là những thông tin rút ra từ quá trình thẩm định khách hàng trước đây.
- Nguồn thông tin bên ngoài
Ngoài những thông tin từ nội bộ ngân hàng thì những thông tin từ bên ngoài cũng có một vai trò không nhỏ trong công tác thẩm định khách hàng. Đây là nguồn thông tin đa dạng và có tiềm năng khai thác lớn, vì vậy, cần đẩy mạnh và chủ động khai thác nguồn thông tin này.
Trung tâm thông tin tín dụng CIC của NHNN có thể cung cấp những thông tin về quan hệ tín dụng của khách hàng với các NHTM. Tuy nhiên độ chính xác của nguồn thông tin này lại phụ thuộc vào các báo cáo do các NHTM cung cấp. Bởi vậy ngân hàng cần nâng cao trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin cho CIC.
Ngân hàng cũng cần chủ động khai thác thêm thông tin từ bạn hàng và các đối thủ cạnh tranh của khách hàng, các chủ nợ khác của khách hàng, thông tin từ hiệp hội ngành nghề kinh doanh, thông tin từ các tổ chức tín dụng khác... Những thông tin này mang tính khách quan vì vậy, sẽ giúp ngân hàng có những đánh giá tương đối toàn diện và chính xác về những rủi ro trên thị trường, đối thủ cạnh tranh, thị trường tiêu thụ sản phẩm... của khách hàng để phục vụ cho công tác thẩm định khách hàng.
Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần tích cực khai thác một cách có chọn lọc, phân tích các thông tin từ báo chí, mạng internet, từ các cơ quan quản lý bộ ngành, cơ quan thống kê, công ty kiểm toán... Để thực hiện được điều này, trước hết ngân hàng cần thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan này.
3.2.3. Sử dụng hợp lý, đồng bộ và khoa học quy trình thẩm định khách hàng
Mỗi ngân hàng đều phải xây dựng cho mình một quy trình tín dụng riêng, nó được coi như cuốn cẩm nang không thể thiếu được đối với mỗi cán bộ tín dụng để thực hiện công việc của mình. Quy trình tín dụng là rất quan trọng, nó tạo nên sự thống nhất trong toàn ngân hàng cũng như tạo nên các quy định chặt chẽ trong thẩm định món vay, do vậy quy trình thẩm định tín dụng phải được xây dựng một cách khoa học và chặt chẽ. Nhận thức được điều này, SGD Habubank đã cung cấp cho mỗi cán bộ một cuốn sổ tay tín dụng riêng. Tuy nhiên, nội dung của cuốn sổ tay tín dụng này còn rất chung chung, nội dung dàn trải, một số vấn đề như định giá tài sản đảm bảo, phân tích tài chính của khách hàng còn sơ sài. Vì vậy, ngoài cuốn sổ tay tín dụng, ngân hàng nên có những quy định cụ thể hơn để hướng dẫn chi tiết cho cán bộ thẩm định. Bên cạnh đó, khi ban hành những quy định phải tiến hành kiểm nghiệm thực tế để đánh giá mức độ phù hợp và hiệu quả của nó. Trong quá trình thực hiện công tác thẩm định khách hàng cần có sự kiểm tra, giám sát quy trình đó để phát hiện kịp thời những sai sót trong từng khâu của quy trình, tránh tình trạng sai sót dây chuyền gây tốn kém về chi phí và thời gian. Như vậy, hoàn thiện quy trình tín dụng là một yêu cầu tất yếu đối với mỗi ngân hàng để nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng nói chung và thẩm định khách hàng nói riêng.
Để hoàn thiện quy trình tín dụng và nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng, công tác tổ chức và điều hành trong hoạt động thẩm định phải được tiến hành nghiêm túc với các giải pháp cụ thể sau:
- Tách rời hai chức năng thẩm định và chức năng theo dõi, quản lý trong hoạt động cho vay tại ngân hàng. Điều này vừa tăng cường tính chính xác vừa đảm bảo được tính độc lập tương đối và khách quan trong quá trình thẩm định. Ngân hàng nên thành lập bộ phận thẩm định độc lập với bộ phận tín dụng. Cán bộ phòng thẩm định sẽ chuyên đảm nhiệm công tác thẩm định cho vay còn công việc theo dõi, quản lý khoản vay và phê duyệt khoản vay lớn sẽ do bộ phận tín dụng thực hiện.
- Kết hợp chuyên môn hoá cán bộ thẩm định theo quy mô khách hàng, theo nhóm ngành kinh tế kỹ thuật và từng lĩnh vực cụ thể. Đối với những khách hàng có quy mô vay vốn lớn, cần có sự phối hợp giữa cán bộ thẩm định và cán bộ có trình độ chuyên môn theo ngành nghề kinh tế kỹ thuật. Khi tiến hành thẩm định những phương án vay phức tạp, vượt ngoài khả năng của cán bộ thẩm định thì cần phải thuê các chuyên gia về lĩnh vực đó để đánh giá chính xác về khách hàng.
- Thường xuyên tổ chức các đợt thi nghiệp vụ, đào tạo và tự đào tạo của SGD nhằm rà soát lại đội ngũ cán bộ thẩm định. Cần phân định rõ hơn về quyền lợi và trách nhiệm giữa các bộ phận thẩm định, bộ phận quyết định cho vay, bộ phận kế toán, bộ phận ngân quỹ.
3.2.4. Hoàn thiện nội dung thẩm định khách hàng trong TDTTXNK
Chất lượng thẩm định khách hàng phụ thuộc rất lớn vào các nội dung được tiến hành thẩm định. Nếu nội dung thẩm định được thực hiện một cách khoa học, chặt chẽ, đầy đủ sẽ góp phần giúp cho ngân hàng đưa ra các quyết định cho vay chính xác.
Về nội dung thẩm định tư cách pháp lý của khách hàng
Ngân hàng cần phải nắm vững thông tin về khách hàng vay vốn: xác định xem khách hàng thuộc đối tượng nào, uy tín của họ đối với ngân hàng như thế nào, họ có sẵn lòng trả nợ ngân hàng hay không? Những thông tin này được thể hiện trong hồ sơ pháp lý của khách hàng. Chính vì vậy, ngân hàng cần chú ý quan tâm đến tính đầy đủ, hợp lệ và trung thực của các hồ sơ này. Hiện nay, trên thị trường tồn tại rất nhiều công ty “ma” đến vay vốn ngân hàng, từ đó hình thành nên những khoản nợ xấu và gây thiệt hại lớn cho các ngân hàng. Mặt khác, cũng có những công ty hoạt động kinh doanh không đúng với ngành nghề đã đăng ký hoặc kinh doanh không đúng pháp luật có thể gây ra những rủi ro cho ngân hàng. Chính vì vậy, cán bộ thẩm định phải đặc biệt chú ý đến tư cách pháp lý của khách hàng vay vốn.
Bên cạnh tư cách pháp lý của khách hàng, cán bộ thẩm định cũng cần quan tâm đến uy tín của khách hàng. Việc đánh giá uy tín của khách hàng có chính xác hay không cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả thẩm định khách hàng. Nếu đánh giá sai đối tượng khách hàng có thể sẽ làm giảm số lượng những khách hàng có quan hệ tốt với ngân hàng hoặc quyết định cho vay nhầm đối với những khách hàng không có uy tín dễ dẫn đến nguy cơ mất vốn cao của ngân hàng.
Để có những đánh giá toàn diện, khách quan về phong cách làm việc, quản lý điều hành, mức độ trung thực, tính cách của khách hàng, việc thẩm định tư cách của khách hàng cần được tiến hành bằng nhiều phương pháp như phỏng vấn trực tiếp, kiểm tra giấy tờ cá nhân, trực tiếp đi khảo sát thực tế ở doanh nghiệp, tìm hiểu qua nhiều nguồn thông tin khác... Cán bộ thẩm định phải hướng dẫn doanh nghiệp lập và trình đầy đủ bộ hồ sơ theo quy chế cho vay của SGD Habubank ban hành đồng thời phải kiểm tra tính pháp lý của các con dấu, chữ ký trong hồ sơ. Ngoài ra, ngân hàng có thể lập một bảng câu hỏi những chi tiết, vấn đề cần tìm hiểu về khách hàng, như vậy sẽ tạo ra sự thuận tiện và chủ động cho cán bộ tín dụng trong việc đưa ra các kết luận về tư cách pháp lý của khách hàng.
Việc xác minh được các thông tin về khách hàng một cách chính xác, đầy đủ, hợp pháp sẽ giúp ngân hàng đưa ra quyết định cho vay đúng đắn, tránh rủi ro, tổn thất và ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
Về thẩm định tình hình tài chính của khách hàng
Đây là bước quan trọng trong quá trình thẩm định khách hàng và là cơ sở chủ yếu để đưa ra quyết định cấp tín dụng. Việc phân tích tài chính khách hàng thường dựa trên các báo cáo tài chính như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Các báo cáo tài chính của khách hàng chính là một trong những nguồn thông tin quan trọng để ngân hàng thực hiện công tác thẩm định có hiệu quả. Cán bộ thẩm định cần đánh giá một cách chính xác những thông tin có trong các báo cáo tài chính của khách hàng, phân tích, xem xét khả năng tài chính của khách hàng. Các báo cáo tài chính không những là cơ sở để đánh giá tình hình tài chính và sinh lợi của khách hàng mà còn đánh giá được khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng. Tuy nhiên, để được vay vốn của ngân hàng, đôi khi các báo cáo tài chính đó đã được làm đẹp lên, những con số trong báo cáo không còn đúng so với thực tế. Chính vì vậy, để đảm bảo các thông tin trong báo cáo tài chính không có sai sót trọng yếu ảnh hưởng đến quyết định cho vay của ngân hàng, ngân hàng nên yêu cầu doanh nghiệp cung cấp những báo cáo đã được kiểm toán. Các báo cáo đã được kiểm toán sẽ giúp ngân hàng thuận lợi hơn trong việc thẩm định, tiết kiệm được thời gian và chi phí nhưng vẫn đảm bảo được tính chính xác. Tuy nhiên, đối với những báo cáo đã được kiểm toán, cán bộ thẩm định cũng phải thận trọng vì có nhiều cách đánh giá khác nhau trong việc quyết định giá trị sổ sách kế toán của các khoản mục. Chính vì vậy, cán bộ thẩm định cần phải linh hoạt, tỉnh táo khi tiến hành phân tích các khoản mục được phản ánh trên báo cáo tài chính, từ đó có thể đưa ra những đánh giá chính xác và khách quan nhất.
Cán bộ tín dụng cần thẩm định các khoản mục trong báo cáo tài chính bao gồm:
- Đối với bảng cân đối kế toán, cần xem xét các khoản mục bên tài sản và nguồn vốn. Khi xem xét quy mô và kết cấu của tài sản cần chú ý đến mục tài sản lưu động của doanh nghiệp (như tiền và các khoản tương đương tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho), tài sản tài chính, tài sản cố định hữu hình và vô hình. Các khoản phải thu cần được phân tích cẩn thận vì đó có thể là một trong những nguồn để chi trả khoản vay ngân hàng. Ngoài ra, cán bộ thẩm định cũng cần quan tâm đến thời gian, tính thanh khoản và sự ổn định của giá cả của hàng tồn kho, cần xem hàng tồn kho là thành phẩm hay nguyên vật liệu... Khi tìm hiểu cơ cấu tài trợ, nguồn gốc của tài sản cũng như khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp, cán bộ thẩm định cần phân tích nợ ngắn hạn, nợ phải trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp, phải trả, nợ dài hạn, vốin chủ sở hữu của khách hàng.
- Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó giúp cho cán bộ thẩm định so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ, chi phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp đồng thời đánh giá mức độ ổn định trong hoạt động kinh doanh và trình độ quản lý của doanh nghiệp.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp trong thời hạn ngắn. Tìm hiểu tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp sẽ cho phép đánh giá được doanh nghiệp có đảm bảo được khả năng chi trả hay không. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh luồng tiền thực nhập quỹ, thực xuất quỹ của doanh nghiệp, từ đó phản ánh khả năng trả nợ trong ngắn hạn của doanh nghiệp.
Về thẩm định chỉ tiêu tài chính
Để nâng cao hiệu quả của quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định không nên chỉ sử dụng một phương pháp mà nên kết hợp nhiều phương pháp phân tích nhằm đưa ra các kết luận từng phần cũng như toàn diện về khả năng tài chính của doanh nghiệp làm cơ sở cho việc ra quyết định cho vay.
- Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản cố định:
Phân tích các tỷ lệ: Giá trị sản xuất công nghiệp/Tài sản cố định; Lợi nhuận gộp/ Tài sản cố định; Tỷ lệ trích khấu hao đưa vào chi phí…
Phân tích mức khấu hao đã đưa vào chi phí so với mức khấu hao cần được kết chuyển vào chi phí của năm phân tích để đánh giá mức độ lỗ, lãi của doanh nghiệp.
- Phân tích Doanh thu thuần trong mối quan hệ với Giá vốn hàng bán; phân tích tốc độ tăng trưởng của Doanh thu thuần và cơ cấu doanh thu thuần theo nhóm sản phẩm: nhóm sản phẩm nào quyết định đến sự tăng trưởng của doanh thu thuần, yếu tố nào quyết định đến sự tăng trưởng doanh số bán ra của nhóm sản phẩm đó. Phân tích Giá vốn hàng bán phù hợp với Doanh thu đã được ghi nhận để đánh giá mức độ lỗ lãi, lỗ thật của doanh nghiệp.
- Phân tích Lợi nhuận/Giá vốn hàng bán của nhóm sản phẩm đối với khối sản xuất và thương mại. Phân tích giá thành trong mối quan hệ với giá bán, phân tích theo cơ cấu, nhân tố quyết định sự biến động của giá thành và giá bán, phân tích sự biến đổi theo thời kỳ.
- Phân tích chi phí hoạt động quản lý của doanh nghiệp: Phân tích các yếu tố cấu thành khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp cũng như các nhân tố quyết định sự biến động của khoản mục này trong mối quan hệ so sánh với doanh thu thuần của năm phân tích. Phân tích các khoản mục chi phí đã phát sinh, cần phải phân bổ vào kết quả kinh doanh của kỳ phân tích. Phân tích phương thức quản lý của doanh ngiệp theo đơn vị sản phẩm.
- Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh chung của doanh nghiệp: Phân tích hệ số Lợi nhuận/Vốn chủ sở hữu, Lợi nhuận/Doanh thu, Lợi nhuận/ Tài sản cố định.
Về thẩm định tài sản đảm bảo
- Hình thành bộ phận chuyên định giá TSĐB: TSĐB là điều kiện cho vay và giá trị của TSĐB là căn cứ để xác định số tiền vay. Do vậy, định giá TSĐB là một yêu cầu cần thiết và rất quan trọng đối với mỗi ngân hàng.
Đối với những loại TSĐB là vật chất, giá trị của chúng lên xuống theo giá trị thị trường, tài sản luôn có khả năng mất giá theo thời gian, do nhiều yếu tố tác động như hao mòn hữu hình, hao mòn vô hình… Vì vậy, định giá TSĐB là một công việc hết sức khó khăn và phức tạp. Để định giá một cách chính xác giá trị của TSĐB cần tổ chức theo hướng chuyên môn hoá về nghiệp vụ định giá, đối với tài sản có giá trị lớn, việc định giá phức tạp cần thuê chuyên gia tư vấn, đánh giá. Trong quá trình cho vay, TSĐB phải thường xuyên định giá lại để đánh giá được đúng giá trị của tài sản ở các thời điểm khác nhau.
- Đa dạng hoá danh mục TSĐB
Hiện nay, ngân hàng mới chỉ chú trọng tới các TSĐB thông dụng, có giá trị cao, an toàn như đất đai, nhà ở, sổ tiết kiệm, ô tô, các thiết bị đắt tiền…, cách làm này đảm bảo an toàn cho ngân hàng, tuy nhiên nó lại bỏ qua một lượng lớn khách hàng vay vốn có giá trị tài sản đảm bảo thấp. Mặt khác, hình thức bảo đảm bằng bảo lãnh hiện nay vẫn chưa được áp dụng phổ biến tại ngân hàng do mức độ rủi ro cao hơn hình thức dùng tài sản đảm bảo khác. Tuy nhiên, đây lại là hình thức bảo đảm mang lại nhiều thuận lợi cho khách hàng, vì vậy trong thời gian tới ngân hàng nên triển khai rộng rãi hình thức bảo đảm này và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn bằng các hình thức đảm bảo khác như tín chấp, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
3.2.5. Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ tín dụng
Nhân tố con người là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lượng công tác thẩm định khách hàng. Cán bộ tín dụng thực hiện toàn bộ quy trình từ khâu xét duyệt hồ sơ, phân tích tín dụng để đưa ra quyết định cho vay. Do vậy, năng lực chuyên môn, uy tín cũng như đạo đức của cán bộ thẩm định trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng quá trình thẩm định. Cán bộ thẩm định cần phải nắm vững quy trình nghiệp vụ tín dụng, quy trình và phương pháp thẩm định, đồng thời phải có kiến thức, kinh nghiệm, hiểu biết sâu sắc về các nghiệp vụ ngân hàng và các lĩnh vực xã hội có liên quan. Chính vì vậy, trong thời gian tới, SGD Habubank cần phải kiện toàn đội ngũ cán bộ cả về số lượng và chất lượng. Để thực hiện được mục tiêu trên, SGD Habubank cần thực hiện một số công việc cụ thể sau:
- Ngân hàng cần đánh giá lại năng lực của đội ngũ cán bộ tham gia thẩm định, những người không đáp ứng được yêu cầu công việc cần có kế hoạch bồi dưỡng hoặc chuyển sang nhiệm vụ khác. SGD Habubank cần tổ chức sắp xếp và phân công công việc cụ thể dựa trên tính chất và quy mô của từng món vay để phát huy tối đa năng lực của mỗi cán bộ, từ đó đạt được hiệu quả cao nhất trong công việc. Ngân hàng nên thực hiện chuyên môn hoá với từng cán bộ tín dụng bằng cách phân chia theo nhóm cán bộ, mỗi nhóm cán bộ phụ trách một loại khách hàng doanh nghiệp nhất định mà mình am hiểu và có năng lực, hiểu biết về lĩnh vực mà khách hàng hoạt động. Như vậy sẽ tạo điều kiện cho cán bộ hiểu biết sâu sắc về doanh nghiệp, tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc thu thập và xử lý thông tin về khách hàng. Đồng thời ngân hàng cũng cần chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đưa những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với nghề vào những vị trí quan trọng, chủ chốt.
- Ngân hàng cũng cần nghiên cứu, tổng hợp nhu cầu bổ sung lực lượng cán bộ thẩm định để tiến hành tuyển chọn trong thời gian tới. Việc tuyển dụng cần phải đảm bảo có chất lượng, trình độ cán bộ phù hợp với yêu cầu công việc.
- Ngân hàng cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục và đào tạo cán bộ, nâng cao chất lượng đào tạo bằng việc tổ chức đào tạo một cách có hệ thống cho các cán bộ thẩm định về nghiệp vụ chuyên môn cũng như các lĩnh vực khác có liên quan như kiến thức về pháp luật, chính trị xã hội, công nghệ thông tin, ngoại ngữ...
- Ngân hàng cũng cần quan tâm thực hiện chế độ đãi ngộ thoả đáng cho đội ngũ cán bộ tín dụng. Kịp thời động viên, khen thưởng những cán bộ có thành tích tốt bằng cách thưởng vật chất, tạo cơ hội thăng tiến, gửi đi đào tạo, tham dự các lớp tập huấn nghiệp vụ trong và ngoài nước, nâng lương... Bên cạnh đó ngân hàng cũng cần đưa ra những quy định xử lý nghiêm khắc những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, tư lợi cá nhân, gây thất thoát vốn của ngân hàng.
- Do cơ chế, chính sách và các quy định của Nhà nước thường xuyên có những sửa đổi, bổ sung, vì vậy ngân hàng cần có những chính sách đào tạo thêm để kịp thời phổ biến những quy định mới, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng.
3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát
Để đảm bảo công việc thẩm định được thực hiện theo đúng quy trình cũng như tránh sự sai sót, gian lận, ngân hàng nên tiến hành kiểm tra, kiểm soát trong quá trình thẩm định khách hàng. Công tác kiểm tra, kiểm soát đối với quá trình thẩm định khách hàng bao gồm ba giai đoạn:
- Kiểm soát trước: Mục đích của giai đoạn này là phát hiện ra những điểm bất hợp lý của nghiệp vụ thẩm định trước khi thực hiện như tính đầy đủ và chính xác của các điều kiện vay vốn, các thông tin thu thập được, tính hợp lệ của hồ sơ khách hàng.
- Kiểm soát trong: Tác dụng của giai đoạn này là giám sát quá trình thực hiện thẩm định, hạn chế việc thực hiện không đúng quy trình nghiệp vụ, giảm thiểu những thiếu sót, sai sót về thủ tục... nhằm tránh những thiệt hại về sau.
- Kiểm soát sau: Được thực hiện khi nghiệp vụ thẩm định về cơ bản đã hoàn thiện, kiểm tra một cách toàn diện và tổng quát một lần nữa trước khi đưa ra quyết định cấp tín dụng.
3.2.7. Hiện đại hoá trang thiết bị và ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác thẩm định khách hàng
Ngày nay, khoa học - công nghệ đang không ngừng phát triển đã kéo theo sự phát triển của nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Ngành ngân hàng là một trong những ngành ứng dụng nhiều công nghệ mới, hiện đại. Hoạt động của hệ thống ngân hàng đều dựa trên những chương trình được hệ thống hoá, đem lại hiệu quả cao, an toàn và nhanh chóng. Trang thiết bị hiện đại sẽ giúp cho quá trình phân tích, đánh giá của cán bộ thẩm định được nhanh chóng và chính xác hơn. Chính vì vậy, các ngân hàng cần không ngừng đổi mới trang thiết bị, công nghệ mới để theo kịp sự phát triển chung của ngành và phục vụ tốt hơn cho công tác thẩm định khách hàng.
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK tại SGD Habubank
Kết quả của công tác thẩm định được biểu hiện qua chất lượng của các khoản vay. Vấn đề này không chỉ quan trọng với ngân hàng mà còn có ý nghĩa cho toàn xã hội, đồng thời liên quan đến nhiều nhân tố khác trong nền kinh tế như các vấn đề pháp lý, môi trường hoạt động của ngành, môi trường vĩ mô của nền kinh tế. Để nâng cao chất lượng trong hoạt động cho vay tài trợ XNK của ngân hàng không chỉ đòi hỏi có sự nỗ lực, cố gắng của bản thân ngân hàng mà cón đòi hỏi có sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan hữu quan.
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ và các bộ ngành liên quan
Để đảm bảo tính chính xác và thống nhất trong hệ thống thông tin, Chính phủ cần chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc chuẩn mực kế toán hiện hành, các báo cáo tài chính phải được kiểm toán hàng năm. Bên cạnh đó đưa ra những quy định xử phạt hợp lý nếu các doanh nghiệp không tuân thủ đúng quy định, có hành vi gian lận, làm báo cáo giả. Thực hiện tốt công tác này sẽ đảm bảo tính minh bạch, chính xác trong công tác tài chính của doanh nghiệp, qua đó tạo lòng tin cho các ngân hàng trong công tác thẩm định khách hàng trong cho vay tài trợ XNK, giảm bớt chi phí và thời gian cho ngân hàng. Ngoài ra, Chính phủ nên thường xuyên tổ chức xếp hạng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XNK, kịp thời động viên, khen thưởng những doanh nghiệp có thành tích tốt. Từ đó khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh và uy tín trên thị trường.
Chính phủ cần hoàn thiện và thống nhất các văn bản pháp luật và dưới luật để tạo điều kiện cho ngành ngân hàng có khung pháp lý đầy đủ, minh bạch và nhất quán, phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời tạo một hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động và phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO có nhiều sự cạnh tranh, cơ hội và thách thức mới, do vậy, Chính phủ cần có chính sách hợp lý để phát triển các loại hình doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước nói chung và doanh nghiệp XNK nói riêng phát triển.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước là ngân hàng của các ngân hàng, thực hiện chức năng quan trọng là thực thi chính sách tiền tệ, ra các văn bản điều hành và giám sát hoạt động của các NHTM. Do vậy, sự điều hành và chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của NHNN là rất quan trọng.
NHNN cần hoàn thiện và cụ thể hoá các nội dung của luật ngân hàng và các văn bản dưới luật, hướng dẫn thực thi các văn bản do NHNN ban hành. Bổ sung, sửa đổi kịp thời các điểm không còn phù hợp trong các văn bản cũ, cải thiện nội dung phù hợp với tình hình mới trong nền kinh tế hiện nay, giúp cho các ngân hàng không bị lúng túng khi gặp vấn đề phát sinh, góp phần nâng cao hiệu quả của việc áp dụng luật cũng như chính sách vào hoạt động ngân hàng. NHNN cần giám sát và hướng dẫn các NHTM đi đúng hướng, thực hiện đúng mục tiêu phát triển của hệ thống ngân hàng.
NHNN cần dành một khoản vốn thích đáng cho quỹ hiện đại hoá NHTM để hướng tới mục tiêu đổi mới toàn diện và triệt để hoạt động ngân hàng. NHNN cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho các NHTM trong công tác đào tạo nghiệp vụ tín dụng, triển khai các chuẩn hoá quy trình kỹ thuật trong công tác thẩm định. Bên cạnh đó, NHNN cần xây dựng trung tâm thông tin và dữ liệu nhằm tạo ra nguồn thông tin quan trọng cho các ngân hàng, giúp kiểm soát được sự không lành mạnh của các luồng thông tin khác nhau trên thị trường. Hoàn thiện các chuẩn mực an toàn, các tiêu chuẩn về thẩm định tín dụng trong ngân hàng, tạo hành lang pháp lý thuận lợi, nâng cao sức cạnh tranh của các ngân hàng trong nước với các ngân hàng nước ngoài.
NHNN cần phải xem xét, rà soát lại các quy định về an toàn hệ thống NHTM về các vấn đề vốn điều lệ, chế độ báo cáo tài chính, bảo hiểm tiền gửi, công tác thanh tra, giám sát... phù hợp với chuẩn mực quốc tế, tạo điều kiện thuận loại cho các ngân hàng khi phải làm việc với các ngân hàng nước ngoài.
NHNN nên tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế nhằm khơi thông các quan hệ ngân hàng và tận dụng các nguồn vốn, công nghệ từ các nước và các tổ chức quốc tế, trao đổi thông tin về lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt về đào tạo, phổ biến kiến thức và kinh nghiệm hội nhập cho các cán bộ của NHNN và một số NHTM.
3.3.3. Kiến nghị với Habubank
Habubank cần có những bước đi đúng đắn trong quy trình hoạt động của mình, đặc biệt là trong hoạt động cho vay. SGD Habubank cần phải hoàn thiện hơn nữa về nội dung cũng như quy trình thẩm định cho vay tài trợ XNK theo hướng cụ thể hơn các chỉ tiêu phân tích, đánh giá được tính toán và so sánh với các giá trị cơ sở, các chỉ số của ngành trong từng lĩnh vực cụ thể, phát triển đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng.
Habubank cần nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành công tác quản lý tín dụng thông qua việc xây dựng và ứng dụng chương trình quản lý tín dụng trên máy vi tính, thiết lập hệ thống dữ liệu, thông tin tín dụng, thông tin ngành hàng và các thông tin khác có liên quan.
Tăng cường đào tạo, tập huấn cho cán bộ thẩm định trong toàn bộ hệ thống. Thường xuyên triển khai các buổi toạ đàm, thảo luận, nghiên cứu... và tổ chức các cuộc thi cán bộ tín dụng giỏi nhằm nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, đáp ứng kịp thời yêu cầu của quá trình hiện đại hoá ngân hàng, hội nhập kinh tế quốc tế, trước sự cạnh tranh gay gắt của các NHTM khác, đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài.
KẾT LUẬN
Trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay, đặc biệt với sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, vai trò của ngành ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển và giao lưu hợp tác kinh tế giữa các nước trên thế giới. Đứng trước những cơ hội và thách thức mới, các ngân hàng phải chú trọng phát triển các hoạt động của mình, đặc biệt là hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động TDTTXNK nói riêng. Tuy nhiên để vừa đảm bảo phát triển an toàn vừa đảm bảo mục tiêu lợi nhuận cao, ngân hàng phải tích cực hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong hoạt động tín dụng XNK, vì chỉ có thông qua thẩm định mới đánh giá được hiệu quả thực sự của hoạt động tín dụng và hạn chế được rủi ro cho ngân hàng.
Thẩm định khách hàng trong TDTTXNK tại SGD Habubank đã và đang được ban lãnh đạo ngân hàng quan tâm hoàn thiện qua mỗi chặng đường phát triển của mình. Tuy nhiên để phát triển hoạt động tín dụng XNK một cách bền vững, SGD Habubank cần xem xét việc nâng cao hiệu quả hoạt động TDTTXNK nói chung và công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK nói riêng. Do vậy, ngân hàng cần phải có sự đầu tư nghiên cứu và thực hiện nhiều biện pháp khác nhau đề hoàn thiện hơn nữa việc thẩm định khách hàng.
Sau một thời gian thực tập và nghiên cứu thực tế tại SGD Habubank cũng như tìm hiểu những vấn đề mang tính lý luận ở nhà trường, chuyên đề của em đã đề cập đến một số nội dung sau:
Thứ nhất: Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về công tác thẩm định khách hàng TDTTXNK của ngân hàng thương mại, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK.
Thứ hai: Đánh giá công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK tại SGD Habubank, rút ra những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó.
Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK tại SGD Habubank. Đồng thời, chuyên đề cũng đưa ra một số kiến nghị với Chính phủ, NHNN, Habubank để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho SGD Habubank trong việc hoàn thiện công tác thẩm định khách hàng trong TDTTXNK.
Hoạt động thẩm định khách hàng trong TDTTXNK có nhiều vấn đề phức tạp và mang tính thực tiễn cao và một phần do trình độ còn hạn chế nên chuyên đề của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chính vì vậy, em rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các thầy cô giáo và các anh chị trong phòng phát triển kinh doanh của SGD Habubank đề em có thể hoàn thiện hơn nữa chuyên đề của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS.TS. Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng thương mại, NXB Đại học kinh tế quốc dân.
PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB Thống kê.
David Cox, Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, NXB Chính trị quốc gia.
TS. Nguyễn Minh Kiều, Nghiệp vụ ngân hàng, NXB Thống kê.
PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, Nghiệp vụ thanh toán quốc tế, NXB Lao động – xã hội.
GS.TS. Lê Văn Tư – Lê Tùng Vân, Tín dụng XNK thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, NXB Tài chính.
PGS.TS. Lê Văn Tề, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB Thống kê.
TS. Nguyễn Văn Thanh, Quản trị tài chính quốc tế, NXB Thống kê.
Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính.
Edward W.Reed Ph.D, Edward K.Gill Ph.D, Ngân hàng thương mại, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
Feredric S.Miskin (1992), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và kỹ thuật.
Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tạp chí Ngân hàng thương mại.
Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ.
Thời báo kinh tế Việt Nam.
Báo cáo thường niên của Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội các năm 2005 – 2007.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
SGD: Sở giao dịch.
XNK: Xuất nhập khẩu.
NHTM: Ngân hàng thương mại.
NHNN: Ngân hàng Nhà nước.
TCTD: Tổ chức tín dụng.
TDTTXNK: Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.
TS ĐB: Tài sản đảm bảo.
Habubank: Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội.
KH&ĐT: Kế hoạch và đầu tư.
CNĐK: Chứng nhận đăng ký.
TP: Thành phố.
HĐQT: Hội đồng quản trị.
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn.
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn tại SGD Habubank giai đoạn 2005 – 2007.
Bảng 2.2: Tổng dư nợ cho vay tại SGD Habubank giai đoạn 2005 – 2007.
Bảng 2.3: Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại SGD Habubank giai đoạn 2005 – 2007.
Bảng 2.4: Doanh số cho vay XNK tại SGD Habubank giai đoạn 2005 – 2007.
Bảng 2.5: Cơ cấu tín dụng XNK tại SGD Habubank giai đoạn 2005 – 2007.
Bảng 2.6: Cơ cấu nợ quá hạn trong TDTTXNK tại SGD Habubank giai đoạn 2005 – 2007.
Biểu đồ 2.1: Tình hình TDTTXNK tại SGD Habubank giai đoạn 2005 – 2007.
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu tín dụng XNK tại SGD Habuabnk giai đoạn 2005 – 2007.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11976.doc