Hoàn thiện công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư tại Sở Giao dịch - Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam

Mở đầu Cuộc khủng hoảng tiền tệ diễn ra vào đầu tháng 7 năm 1997 tại Thái Lan đã lan rộng và gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều quốc gia Đông Nam á, thậm chí cả một số nước Đông á khác. Sau khi làm suy yếu nền kinh tế thứ 11 thế giới là Hàn Quốc và làm lung lay các thị trường lớn như Hongkong London, Newyork cơn bão tiền tệ vẫn tiếp tục hoành hànhvới nhiều diễn biến phức tạp.Sau cuộc khủng hoảng, các quốc gia phải “dọn sạch đống đổ nát ”đồng thời bắt tay vào xây dựng và khôi phục lạ

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư tại Sở Giao dịch - Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nền kinh tế của mình. Hoạt động đầu tư được coi là động lực chính của sự phát triển nói chung và là sự phát triển kinh tế nói riêng của tất cả các nước trên thế giới .Việt nam là một Quốc gia đang phát triển vì vậy nhu cầu đầu tư là rất lớn và rất khẩn thiết. Hoạt động đầu tư có thể giúp giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, đồng thời thực hiện tốt chính sách kích cầu của chính phủ. Khi đầu tư vào bất kỳ một lĩnh vực nào chủ đầu tư đều kỳ vọng thu về một kết quả có lợi trong tương lai. Một vấn đề quan trọng đặt ra trong công tác hoạt động đầu tư, đó là đầu tư vào đâu, phương thức đầu tư như thế nào để có thể đạt được hiệu quả cao nhất từ dự án. Công tác thẩm định sẽ giải quyết vấn đề đó. Song song với hoạt động đầu tư, công tác thẩm định tồn tại như một công việc độc lập, bổ trợ và giúp cho việc đầu tư được đúng hướng và mang lại hiệu quả. Trước đây trong ‘‘nền kinh tế đóng’’ công tác thẩm định bị lãng quên, từ năm 1986-Việt Nam mở cửa nền kinh tế- công tác thẩm định dần được coi trọng và đã phát huy được vai trò quan trọng của nó.Việc áp dụng thẩm định vào hoạt động cho vay ở các Ngân Hàng Thương mại không giống nhau đặc biệt là trong hoạt động cho vay trung và dài hạn. Trong thời gian qua, hiệu quả của hoạt động cho vay chưa cao, nợ quá hạn còn nhiều, tập trung vào doanh nghiệp quốc doanh. Thẩm định ngoài mục tiêu đánh giá tính hiệu quả và tính khả thi của dự án, nó còn ảnh hưởng đến sự an toàn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Từ vai trò quan trọng đó, việc nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư là rất thiết yếu.Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư sẽ giúp nâng cao hiệu quả của vốn vay, giảm rủi ro cho hoạt động của Ngân Hàng, góp phần thúc đẩy quá trình đầu tư và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Đất nước. Trong quá trính thực tập tại Sở Giao Dịch I – Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam. Em thấy công tác thẩm định đã dần được quan tâm nhưng làm thế nào để công tác thẩm định phát huy đựơc hiệu quả đồng thời nâng cao được chất lượng trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thì đó không phải là một việc đơn giản. Được sự giúp đỡ của và hướng dẫn của Tiến sĩ Ngô Thị Hoài Lam, Em đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư tại Sở Giao Dịch – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ”. Trong khuôn khổ giới hạn của một chuyên đề Em chỉ đề cập đến vấn đề thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư trước khi quyết định cho vay. Kết cấu của chuyên đề: Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo chuyên đề bao gồm ba phần: Phần I: Nội dung và vai trò của thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng của ngân hàng Phần II: Thực trạng công tác thẩm định hiệu quả quản lý dự án đầu tư tại Sở Giao Dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Phần III: Một số giải pháp đóng góp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư tại Sở Giao Dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Cho dù bản thân đã có nhiều cố gắng, song với thời gian và vốn kiến thức còn hạn chế, bài viết còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chỉ bảo của Thầy, Cô, cán bộ của Sở Giao Dịch và bạn bè. Qua đây, em xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới: Tiến sĩ: Ngô Thị Hoài Lam - Giảng viên Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - Người trực tiếp hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Ông Lê Văn Lộc - Giám đốc Sở Giao Dịch I Ông Nguyễn Đức Thắng - Trưởng phòng Nguồn vốn Kinh doanh - Sở Giao Dịch I. Bà Nguyễn Thị Tuyết Thu - Phó phòng Nguồn vốn Kinh doanh - Sở Giao Dịch I. Cùng toàn thể cán bộ phòng Nguồn vốn Kinh doanh - Sở Giao Dịch I đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập để hoàn thành chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2002 Sinh viên Phạm Anh Trung phần i Nội dung và vai trò của thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng của ngân hàng I. Đầu tư và vai trò của dự án đầu tư 1. Đầu tư Theo quan điểm của các nhà kinh tế học, đầu tư có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tuỳ theo gioác độ nghiên cứu và phương pháp đánh giá khác nhau. Nếu như đầu tưcó thể coi là tiềm năng tài chính, thì có quan điểm cho rằng đó là chi phí tư bản hay quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất của nền kinh tế nói chung, của địa phương, của ngành và các cơ sở sản xuất kinh doanh nói riêng. Đứng trên giác độ tài chính, đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời. Đúng trên giác độ tiêu dùng, đầu tư là hoạt động hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu được mức tiêu dùng lớn hơn trtong tương lai. Các quan điểm trên có thể được xem là đúng nhưng nó chỉ phản ánh được từng mặt, từng khía cạnh nhất định phù hợp về giác độ đánh giá và mục tiêu nghiên cứu. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, Đầu tư được hiểu là sự bỏ vốn (chi tiêu vốn ), cùng các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó (khai thác và sử dụng tài sản) với kỳ vọng thu về các khoản có lợi trong tương lai. Đặc trưng quan trọng nhất của đầu tư là tính sinh lợi. 2. Dự án đầu tư và phân loại dự án đầu tư 2.1.Khái niệm dự án đầu tư Xuất phát từ các quan điểm khác nhau về đầu tư nên khái niệm về dự án đầu tư cho đến nay chưa có được một khái niệm chung nhất mà nó được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau: + Theo nghĩa rộng: Đầu tư là quá trình bỏ vốn để đạt được mục đích hay một tập hợp mục đích nhất định nào đó. + Về mặt hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết có hệ thống các hoạt động, chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai. + Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư lao động để tạo ra các kết qủa tài chính, kinh tế xã hội trong một thời gian dài. + Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội 2.2 Nội dung và phân loại dự án đầu tư 2.2.1 Nội dung dự án đầu tư Xét về mặt nội dung dự án đầu tư bao gồm 4 thành phần cơ bản có quan hệ tương hỗ và biện chứng lẫn nhau: - Nguồn lực - Hoạt động - Mục tiêu trước mắt - Mục tiêu trong tương lai - Kết quả Trong đó: Nguồn lực là toàn bộ chi tiêu vật chất, tài chính con người cần thiết để tiến hành các họat động của dự án, giá trị nguồn lực này chính là chi phí đầu tư cho dự án và là nguồn gốc của lợi nhuận. Các hoạt động của dự án được hiểu là hệ thống những nhiệm vụ hoặc hành động được sắp xếp và phân bổ một cách chi tiết trong quá trình thực hiện dự án, nhằm biến đổi nguồn lực thành kết quả đầu tư. Mục tiêu dự án được thể hiệh ở hai góc độ là mục tiêu trước mắt ( mục tiêu cần đạt được trong từng thời kỳ) và mục tiêu phát triển. Trong bốn thành phần trên, các kết quả được coi là cột mốc đánh dấu tiến độ của dự án. Do đó, trong quá trình thực hiện dự án phải thường xuyên theo dõi đánh giá các kết quả đạt được. Những hoạt động nào có liên quan trực tiếp đến việc tạo ra các kết quả được coi là những hoạt đôn chủ yếu và phải đặc biệt quan tâm 2.2.2 Phân loại dự án đầu tư. Để làm tốt công tác theo dõi và quản lý dự án đầu tư, các nhà quản lý tuỳ theo yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể, theo đó có các phương pháp phân loại dự án đầu tư theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ quản lý thẩm định chuẩn bị đầu tư chúng ta có thể nêu ra đây một số tiêu thức phân loại chủ yếu, đáp ứng được yêu cầu quản lý đề ra. - Theo nguồn vốn, dự án đầu tư có thể bao gồm các dự án đầu tư bằng vốn trong nước (Nhà tài trợ, cấp phát tín dụng, huy động dân cư...) và dự án đầu tư bằng vốn nước ngoài. - Theo cơ cấu tái sản xuất dự án đầu tư chialàm 2 loại: đầu tư theo chiều rộng ( vố lớn, thời gian khê đọng lâu...)và dự án đầu tư theo chiều sâu( vốn ít, thời gian thu hồi vốn nhanh...) - Theo lĩnh vực hoạt độngcủa dự án: dự án đầu tư được chia thành 3 loại chính : + Dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh + Dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật + Dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng Hoạt động của các dự án này có quan hệ tương hỗ với nhau, làm cơ sở cho sự phát triển của nhau. Theo giai đoạn hoạt động của các dự án đầu tư trong quá trìnhtái sản xuất xã hội, có thể phân thành dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanhthành dự án đầu tư thương mại và dự án đầu tư sản xuất. Dự án đầu tư thương mại có thời gian thực hiện và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn ngắn, trong khi dự án đầu tư sản xuất có thời gian dài, chịu sự tác động của nhiều nhân tố rủi ro, loại dự án này thường được chuẩn bị kỹ, dự đoán chính xác và có kế hoạch phòng chống rủi ro hiệu quả. Theo thời gian thực hiệnvà phát huy tác dụng để thu hồi vốn, có thể phân chia thành đầu tư ngắn hạn ( như dự án đầu tư thương mại ) và dự án đầu tư trung - dài hạn( các dự án đầu tư sản xuất, phát triển khoa học kỹ thuật...) 2.3 Chu trình của dự án đầu tư Chu trình của dự án đầu tư là các giai đoạn kế tiếp nhau trong quá trình hình thành và vận hành dự án. 2.3.1 Thời kỳ chuẩn bị dự án: Nghiên cứu, phát hiện cơ hội đầu tư. Trên cơ sở nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của đất nước hoặc chiến lượcphát triển sản xuất kinh doanh của ngành, của cơ sở cùng với việc nắm bắt nhu cầu thị trường, tình hình cung cầu sản phẩm và tiềm lực sẵn có của đơn vị, xem xét phát hiệt cơ hội đầu tư một cách nhanh chóng, tiết kiệm đồng thời dự đoán tính khả thi, hiệu quả của dự án. Nghiên cứu tiền khả thi. Đây là giai đoạn nghiên cứu sơ bộ các yếu tố cơ bản của dự án, đi sâu vào nghiên cứu các khía cạnh chỉ tiêu được chọn làm cơ sở xem xét đánh giá dự án. Nghiên cứu khả thi . Phân tích đánh giá các kết quả tiền khả thi, là bước sàng lọc cuôi cùng nhằm lựa chọn dự án khả thi vững chắc và hiệu quả tìm ra phương án cuối cùnglà cơ sở tiến hành đầu tư. 2.3.2 Thời kỳ thực hiện dự án. Thực hiện dự án: là giai đoạn tiến hành thhực hiên các dự định nhằm đạt được kết quả đầu tư, đưa dự án vào hoạt động và khai thác. Giai đoạn này bao gồm hàng loạt các quá trình kế tiếp và xen kẽ nhau từ khi thiết kế đến khi đưa dự án vào vận hành và khai thác. Vận hành dự án: là giai đoạn dự án chính thức đi vào hoạt động và là giai đoạn thực hiện các hoạt động theo chức năng của dự án và quản lý các hoạt động của nó theo kế hoạch đã dự tính. 2.3.3 Thời kỳ kết thúc dự án: Đánh giá sau khi thực hiện dự án . Đây là giai đoạn phân tích, đánh giá các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của dự án trong giai đoạn vận hành khai thác dự án . Giai đoạn này nhằm chỉnh lại các thông số kỹ thuật nhằm bảo đảm các mức đã định trong nghiên cứu khả thi, trên cơ sở đánh giá và tìm biện pháp cần thiết để đảm bảo các thông số vận hành của dự án. Kết thúc dự án. Tiến hành các công việc cầnthiết trong quá trình công suất dự án giảm dần và thanh lý nhằm chấm dứt hoạt động của dự án. Các bước được tiến hành không biệt lập mà tuần tự, đan xen, bổ xung cho nhau nhằm nâng cao mức chính xác của các kết quả nghiên cứu, tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu các bước tiếp theo. Các giai đoạn của dự án tuy có khác nhau về thứ tự và nội dung phân tích song chngs lại có mối quan hệ đan xen, bổ xung cho nhau. Dự án luôn bị chi phối bởi yếu tố chủ quan của người lậpvà đôi khi vì không có cái nhìn toàn diện bao quát về môi trường dự án hay vì một mục đích chủ quan nào đó người lập dự án có thể sẽ đưa dự án đến chỗ đơn điệu trong phân tích nhận định từ đó làm cho dự án trở nên không hiện thực. Yêu cầu đặt ra là luôn phải có sự điều chỉnh khách quan trong mục tiêu và chi phí của dự án. Do đó giai đoạn lập và thẩm định tài chính dự án được coi là giai đoạn kết nối giữa lý thuyết và thực tế, gữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân, giữa ý tưởng và hành động... II.Nội dung thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư trong Ngân hàng 1.Khái niệm và sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư là việc thẩm tra, xem xét một cách khoa học và toàn diện các điều kiện pháp lý, các nội dung cơ bản, hợp lý về thị trường, kỹ thuật công nghệ, môi trường, kinh tế ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của một dự án nhằm đưa ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư hay không. - Việt Nam cùng với sự phát triển của kinh tế là sự tăng nhanh của các dự án đầu tư, đối với một đất nước đi lên từ nền nông nghiệp lạc hậu thì -Một dự án dù soạn thảo kỹ đến đâu cũng mang tính chủ quan của người soạn thảo. Để đảm bảo tính khách quan của dự án, cần thiết phải tiến hành thẩm định. Người soạn thảo cũng đứng trên góc độ hẹp để nhìn nhận vấn đề của dự án. Các nhà thẩm định thường có cách nhìn rộng xuất phát từ lợi ích chung của toàn xã hội, đồng thời có thể phát hiện ra những sai sót(nếu có) những ý kiến khác nhau, sự không logic thậm chí đối nghịch nhau của dự án. Thẩm định giúp phát hiện, sửa chữa bổ sung đồng thời đưa ra quyết định đúng đắn: Đầu tư hay không. 2.ý nghĩa của công tác thẩm định . Giúp cho các nhà tài trợ ra quyết định chính xác về việc cho vay dự án đầu tư. Cho vay là gì ? Cho vay là việc chuyển quyền sử dụng vốn vay từ Ngân hàng thương mại sang nhà đầu tư. Do đó vấn đề mà Ngân hàng quan tâm trong hoạt động cho vay là vốn vay có được đảm bảo sẽ thu được đầy đủ, đúng hạn hay không và Ngân hàng sẽ thu được lợi ích gì không ? Để có được câu trả lời chính xác thì Ngân hàng phải thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư. Giúp cho Ngân hàng tránh được những rủi ro tổn thất không đáng có,đồng thời không bỏ lỡ cơ hội thu về lợi nhuận. Do đó công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư là rất quan trọng tại các Ngân hàng đặc biệt là trong hoạt động cho vay trung và dài hạn. Công tác thẩm định dự án đầu tư không những đem lại quyết định cho vay chính xác mà còn giúp Ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng, tạo ra sự an toàn, chắc chắn trong hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ kịp thời nhu cầu vốn cho doanh nghiệp đồng thời cũng giúp doanh nghiệp không bỏ lỡ cơ hội đầu tư có hiêu quả. 3.Mục tiêu của công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư. Như ta đã biết thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư là nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động tín dụng Ngân hàng, thông qua công tác tín dụng, Ngân hàng lựa chọn những dự án, khoản tín dụng có hiệu quả, có khă năng thu hồi nợ, để từ đó ra quyết định cho vay, bảo lãnh, đồng tài trợ. Vậy mục tiêu của công tác thẩm định bao gồm : - Rút ra các kết luận chúnh xác về tính khả thi, hiệu quả, khả năng trả nợ của doanh nghiệp để quyết định cho vay hay từ chối một cách đúng dắn, có khoa học. - Làm cơ sở để xác định số tiền cho vay, thời gain vay, lãi xuát cho vay, mức thu nợ từng thời kỳ hợp lý đảm bảo được việc giải ngân đúng chế độ về quản lý đầu tư và xấy dựng cơ bản của Nhà nước, tiết liệm vốn đầu tư , nâng cao hiệu quả đồng vốn và hiệu quả tín dụng. Thực hiện tư vấn đầu tư cho nhà doanh nghiệp về tài chính và đầu tư về phương thức kinh doanh tạo tiền đề đảm bảo hiệu quả việc cho vay, khả năng thu vốn và lãi đúng hạn và đầy đủ, góp phần hoàn thiện chính sách khách hàng và chính sách tín dụng. 4. Sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án đầu tư. Bất kỳ một hoạt động cho vay nào của Ngân hàng đều phải trải qua ba giai đoạn : - Xét duyệt món vay. - Cho vay. - Thu nợ. Trong giai đoạn xét duyệt món vay, các công việc cần tiến hành là : - Nhận dơn và hồ sơ xin vay vốn - Thẩm định đơn và hồ sơ xin vay vốn - Phê duyệt món vay - Lập hồ sơ tín dụng, hạch toán món vay Các khoản vay ở Ngân hàng thường bao gồm vay ngắn hạn và vay trung dài hạn. Việc cho vay ngắn hạn tương đối dễvà đơn giản. Nhưng thé mạnh của Ngân hàng là khai thác các khoản cho vay trung và dài hạn. Các khoản cho vay này thường là các khoản vay với khối lượng lớn, thời gian dài và độ rủi ro tương đối caovà thương vay đầu tư cho mua sắm tài sản cố định, máy móc thiết bị cho sản xuất, xây dựng nhà xưởng ... Các dữ liệu của công cuộc đầu tư trên đều được thực hiên trong dự án mà đơn vị vay vốn nộp kèm theo đơn vay. Khi xét duyệt món vay, cán bộ tín dụng luôn bám sát các thông tin dự án, kết hợp so sánh với các yếu tố, các thông tin thu thập bên ngoài để đánh giá tính hợp lý, tính khả thi và hiẹu quả của dự án. Các Ngân hàng hầu như đều rất quan tâm tới các dự án mang lại lơị nhuận cao. Tuy nhiên, độ rủi ro các dự án này thường lớn, Do đó để hạn chế rủi ro các Ngân hàng thường phải rất quan tâm tới công tác thẩm định dự án mà đặc biệt là thẩm định tài chính dự án. Thẩm định tài chính dự án giúp cho cán bộ tín dụng của Ngân hàng nắm bắt được các thông số kỹ thuật, tài chính về dự án và bản thân chủ thể vay vốn sau khi đã tiến hành đối chứng, kiểm định và tính toán lại một số chỉ tiêu chưa hợp lý. Do số liệu về thu chi, lợi nhuận của một dự án đầu tư chủ yếu là số liệu giả định, dự đoán dựa trên các số liệu thực tế, sản xuất kinh doanh tương tự của doanh nghiệp hay một doanh nghiệp khác đã làm trước đây vì vậy các số liệu này thường không hoàn toàn chính xác do tác động của các yếu tố rủi ro bên ngoài. Dự án sẽ có những biến động theo chiều hướng tiêu cực trái với dự kiến. Hơn nữa, trong quá trình đầu tư nếu gặp rủi ro bản thân các Ngân hàng sẽ khó thu hồi vốn, doanh nghiệp bị thua lỗ đồng thời gây nên những tác động xấu tới nền kinh tế xã hội. Hơn nữa hiện nay xu hướng chung trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng là tiến tới cho vay không cần thế chấp. Nếu như trước đây tài sản thế chấp của khách hàng được coi là vật bảo đẩm tuyệt đối cho các khoản vay thì nay vị thế của nó đã thay đổi. Những tiêu cực trong sử dụng tài sản thế chấp tại nhiều Ngân hàng, phát sinh pháp lý về quyền đồng sở hữu tài sản kinh doanh phát mại hay chất lượng đánh giá thực trạng giá trị tài sản thế chấp khiến cho công tác nợ của Ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Mặt khác để khuyến khích các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả Ngân hàng triển khai các khoản vay khong cần thế chấp. Đó là một hình thức tín chấp trong hoạt động cho vay. Cơ sở của tín chấp là uy tín của doanh nghiệp và dự án vay vốn khả thi có hiệu quả. Trên cơ sở đó, Ngân hàng có thể vừa thu nợ từ hoạt động sản xuất của doanh nghiệp nói chung và từ dự án nói riêng. Như vậy, để đảm bảo khả năng thu hồi được nợ và có lãi cần tiến hành thẩm định dự án đầu tư vay vốn. Với vai trò chủ đạo như một tổ chức kinh doanh tiền tệ lấy lợi nhuận làm mục tiêu hành động, trong hoạt động cho vay của mình các Ngân hàng chú trọng vào thẩm định mặt tàI chính của dự án. 5.Nội dung và phương pháp thẩm định hiệu quả tàI chính dự án đầu tư trong Ngân hàng. 5.1Cơ sở của công tác thẩm định dự án đầu tư Bất kỳ một dự án đầu tư nào, dù ở bước tiền khả thi hay bước khả thi cũng đều phải trải qua thẩm tra, xét duyệt, chỉ khi có Quyết định xét duyệt (đối với đầu tư trong nước ) hoặc Giấy phép đầu tư (đốivới đầu tư nước ngoài). 5.1.1 Thu thập thông tin Để năng cao chất lượng thẩm định việc thu thập thông tin cần được tiến hành đối với cả Doanh nghiệp và dự án. Hồ sơ về doanh nghiệp Giấy phép thành lập; giấy đăng ký kinh doanh; điều lệ hoạt động; các quyết định bổ nhiệm; biên bản bầu HĐQT… Các báo cáo tài chính từ 3-5 năm gần đây nhất: gồm báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh, bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ ( báo cáo lỗ lãi ) Hồ sơ về dự án Luận chứng kinh tế kỹ thuật ( dự án khả thi ) bao gồm cả những dự án chi tiết các hạng mục công trình ( nếu có) Quyết định phê duyệt dự án đầu tư của bộ chủ quản và các cấp có thẩm quyền( đối với các dự án sử dụng vốn NSNN theo nghị định 52/1999/ NĐ- CP ) Các quyết định về cấp quyền sử dụng đất, thuê đất, giấy phép xây dựng cơ bản (nếu có ). Các hợp đồng mua bán thiết bị cung cấp nguyên vật liệu, hợp đồng đấu thầu, hợp đồngbảo lãnh. Đơn xin vay vốn. Hồ sơ thế chấp tài sản Tài liệu tham khảo và các nguồn tin khác + Tài liệu Văn bản pháp lý : Thuế, tiêu chuẩn định mức kinh tế kỹ thuật của các ngành, các cấp có liên quan. Các luật : Luật đầu tư, luật doanh nghiệp, Luật công ty, luật đất đai. Văn bản dưới luật, văn bản hướng dẫn thực hiện của các ngành, số liệu thống kê của các ngành có liên quan. Tài liệu thông tin và phân tích thị trường trong và ngoài nước từ các trung tâm nghiên cứu về thị trường trong và ngoài nước. + Các nguồn khác : Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam( CCIC), trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước(CIC). Từ thực tế qua việc xem xét tạI doanh nghiệp vay vốn, qua phỏng vấn chủ đầu tư, khách hàng và các đối tác khác của chủ đầu tư. 5.1.2 Xử lý thông tin. Xử lý thông tin là quá trình sắp xếp các thông tin theo các mục tiêu nhất định nhằm tính toán so sánh, giải thích, đánh giá xác định nguyên nhân của các kết quả đã đạt được phục vụ cho quá trình dự đoán và quyết định. Sau khi thu thập các thông tin cần thiết, cán bộ tín dụng phải tiến hành xem xét đánh giá lại toàn bộ mức độ chính xác của các thông tin đó sau đó mới tiến hành thẩm định theo trình tự và quy định hiện hành. Dĩ nhiên dưới góc độ các nhà tài trợ thì chỉ dừng lại ở việc thẩm định tài chính dự án đầu tư, từ đó đưa ra quyết định về mặt tài chính có nên tài trợ ( cho vay) ha không. 5.2 Nội dung của công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư tạI Ngân hàng. 5.2.1 Thẩm tra năng lực tài chính doanh nghiệp. Đối với bất kỳ một khách hàng nào khi giao dịch với Ngân hàng thì việc đầu tiên Ngân hàng phải làm đó là xem xét tình hình tài chính, "sức khoẻ" của anh ta ra sao, sau đó mới xem xét tài chính dự án đầu tư. Đối với một khách hàng "truyền thống" thì công việc có thể được xem nhẹ hơn song vẫn phải được thẩm định kỹ càng.Khi thẩm định tài chính doanh nghiệp cần xem xét các vấn đề sau: - Sự bảo toàn và phát triển vốn qua các năm, qua đó có thể đánh giá được khả năng lãnh đạo của doanh nghiệp. - Tình hình sản xuất kinh doanhcó ổn định không, xu hướng trong tương lai ra sao cả về nhu càu trên thị trường và khả năng phục vụ cho nhu cầu đó của doanh nghiệp. - Xem uy tín của doanh nghiệp đối với các đối tác, về quan hệ thanh toán. Tuy nhiên, những vấn đề đó có thể tính toán và nhận thấy được thông qua các báo cáo tài chính. Ngoài ra còn một số vấn đề khác mà cán bộ Ngân hàng cũng phải biết, nhưng lại không được thể hiện trên báo cáo tài chính, trên các văn bản, giấy tờ mà doanh nghiệp cung cấp. Vậy Ngân hàng lấy thông tin đó từ đâu? Đó là từ thực tế. Cán bộ Ngân hàng phải tách khỏi môi trường quen thuộc của mình để đi khảo sát, nghiên cứu cơ sở của chủ dự án, phải quan sát văn phòng, nhà kho, nhà xưởng, chỗ làm việc của nhân viên kế toán ... Phương pháp phân tích qua tỷ lệ, tỷ số; và phương pháp so sánh với số liệu cùng kỳ năm trước. Việc xem xét các chỉ tiêu, yếu tố số liệu trên các báo cáo tài chính thôi chưu đủ, vì nó chỉ phản ảnh con số tuyệt đối, vì vậy cán bộ thẩm định phải quy đổi chúng về dưới dạng các tỷ số, các chỉ tiêu dễ dàng so sánh và đưa ra các kết luận có tính chính xác hơn. Có nhiều chỉ tiêu đánh giá phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp song quy tụ lại có thể có bốn nhóm chỉ tiêu sau : a. Nhóm chỉ tiêu khả năng thanh toán của doanh nghiệp, được sử dụng để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. TSLĐ + Khả năng thanh toán hiện hành = ——————— Nợ ngắn hạn Tỷ lệ này lớn hơn hay bằng 1 thì khả năng thanh toán là bình thường, nếu nhỏ hơn 1 là không đảm bảo. TS quay vòng nhanh + Khả năng thanh toán nhanh = ———————————— Nợ ngắn hạn Tỷ lệ này cho biết khả năng thanh toán các khoản nợngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ ( nếu tỷ lệ này >1 thì khả năng thanh toán là đảm bảo, nếu <1 thì khả năng thanh toán không an toàn ). b. Nhóm chỉ tiêu về cân đối nguồn vốn, phản ánh mức độ ổn địnhvà tự chủ tài chính, cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp. Tổng nợ + Hệ số nợ = —————— Tổng TS Hệ số này xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc trả nợ. Hệ số này càng nhỏ càng tốt, đảm bảo khả năng thanh toán khi có biến cố phá sản. Vốn tự có + Khả năng về tự chủ tài chính = ———————— Vốn chủ nợ tài trợ Lợi nhuận trước thuế + lãi vay + Khả năng thanh toán lãi vay = ————————————— ( số lần có thể trả lãi ) Lãi tiền vay Phản ánh mức độ lợi nhuận bảo đảm khả năng trả lãi của đơn vị hàng năm. Luôn phải lớn hơn tỷ lệ trung bình của toàn ngành. TSLĐ (TSCĐ) + Hệ số cơ cấu tài sản = ————————— Tổng tài sản Tổng TS + Dự phòng - TS được coi là tổn thất - Nợ phải trả + Hệ số bảo toàn vốn = —————————————————— Nguồn vốn chủ sở hữu + Nguồn vốn khác Hệ số này >1 : Đã phát triển được nguồn vốn Hệ số này =1 : Vốn được bảo toàn Hệ số này <1 : Vốn chưa được bảo toàn Hệ số này < 0.25 : Có nguy cơ mất vốn c. Nhóm chỉ tiêu về năng lợc hoạt động của doanh nghiệp,được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Doanh thu tiêu thụ trong năm + Tỷ lệ vòng quay tiền = —————————————— Tiền mặt + Chứng khoán ngắn hạn Tỷ lệ này được chấp nhận khi lớn hơn mức bình quân ngành Doanh thu tiêu thụ trong năm + Vòng quay dự trữ = —————————————— Dự trữ Tỷ lệ này đảm bảo tương đương với mức trung bình của nghàn, nếu thấp hay cao hơn nhiều sẽ gây bất hợp lý và kém hiệu quả trong hoạt động quản lý dự trữ của doanh nghiệp. Doanh thu tiêu thụ + Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = ——————————— TSCĐ Doanh thhu tiêu thụ + Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =————————— Tổng tài sản Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Tỷ lệ này luôn phải > 1 d. Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lãi, phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận sau thuế + Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = ———————————x 100% Doanh thu tiêu thụ Tỷ lệ này càng cao thể hiện doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Tỷ lệ này so sánh với các nhóm sản phẩm khác nhau để đưa ra nhóm có hiệu quả. Lợi nhuận sau thuế + Doanh lợi vốn tự có = —————————— x 100% Vốn tự có bình quân năm Phản ánh khả năng sinh lờicủa vốn tự có, tỷ lệ này càng cao càng tốt. Lợi nhuận sau thuế + Doanh lợi = —————————— x 100% Tổng vốn đầu tư ban đầu Chỉ số này càng lớn hoặc bằng mức lãi xuất đi vay vốn hoặc bằng mức tỷ xuất doanh lợi bình quân toàn ngành. 5.2.2 Phân tích thẩm định hiệu quả tài chính của dự án a. Thẩm tra việc tính toán tổng vốn đầu tư Để xác định được tổng vốn đầu tư, cần phân biệt các loại vốn đầu tư khác nhaucho một dự án, từ đó vận dụng vào từng dự án cụ thể để bớt hoặc bổ sung các yếu tố có liên quan theo đặc thù riêng của từng dự án. Về cơ bản, xác định vốn đầu tư cho một dự án thường bao gồm việc xẽm xét vốn cố định và vốn lưu động. a.1. Vốn cố định. Vốn đầu tư xây lắp, vốn đầu tư xây lắp thường được ước tính trên cơ sở khối lượng công tác xây lắp tổng hợp ( hoặc xuất vốn đầu tư ). Nội dung kiểm tra tập trung vào việc xác định nhu cầu vốn xây dựng hợp lý của dự án và mức độ hợp lý của công xuất vốn đầu tư được áp dúngo với kinh nghiệm đúc kết từ dự án khác hoặc công ty tương tự. Vốn đầu tư thiết bị, Căn cứ vào danh mục thiết bị, đơn giá thị trường và niêm yết để kiểm tra giá mua, chi phí vận chuyển, bảo quản, chạy thử... theo quy định hiệ hành của Nhà nước có thể tính chi phí kèm theo bằng tỷ lệ % so với giá hoặc mức giá cụ thể. Cần phân biệt vốn thiết bị chính, phụ, mua mới hay đã qua sử dụng. Đặc biệt quan tâm đến phần thiết bị kèm theo chuyển giao công nghệ. Cần đối chứng giữa vốn đầu tư với điều kiện chuyển giao tránh tình trạng chỉ nhận máy móc thiết bị( phần cứng ) mà bỏ qua phần đào tạo, chuyển giao bí quyết ( phần mềm ). Vốn kiến thiết cơ bản khác, thương gồm chi phí đền bù hoa mầu, nhà cửa, đất đai... trong khâu giải phóng mặt bằng xây dựng. Kiểm tra nguồn vốn này cần tuân theo các quy định hiện hành của Nhà nước, căn cứ vào diện tích đền bù đã lập trong dự án. a.2. Vốn lưu động Cần phân biệt vốn lưu động ban đầu hoặc vốn lưu động bổ xung để có các dự trù hợp lý, đảm bảo các dự án đi vào vận hành được bình thường. Vốn lưu động thươngf được bao gồm chi phí nguyên nhiên vạt liệu, tiền lương, giá trị phụ tùng thành phẩm tồn kho, hàng hoá bán chịu, chi phí đột xuất. a.3. Các loại chi phí khác Chi phí thành lập, gồm các chi phí để mua sắm các vật dụng cần thiết không phải tài sản cố định và các chi phí để hoạt động ban đầu. Chi phí trả lãi vay Ngân hàng, chi phí này thường được Ngân hàng gia hạn trong thời gian thi công và tính gộp vào chi phí đầu tư. Khi dự án hoàn thành và đi vào hoạt động thì mới trả. Mức hoàn chi phí này phải được tính toán chặt chẽ do nó gắn liền với lãi xuất và khoản đó là khó đòi hay không. Chi phí dự phòng, thường được căn cứ trên cơ sở kế hoạch hoạt động của dự án, đề phòng có sự thay đổi đột suất mức chi phí khác. b. Thẩm tra cơ cấu và tiến độ bỏ vốn Cơ cấu vốn theo công dụng. Bao gồm vốn xăy lắp, vốn thiết bị và các chi phí khác. Cơ cấu này được coi là hợp lý nếu tỷ lệ đầu tư cho thiết bị cao hơn đầu tư cho xây lắp. Đối với dự án đầu tư theo chiều sâu tỷ lệ này cần đạt là 60%. Đối với dự án sử dụng đồng ngoại tệ cần kiểm tra cơ cấu bằng đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nguồn cung cấp vốn cho dự án có thể bao gồm: Vốn tự có, vốn bổ xung của doanh nghiệp, vốn trợ cấp ngân sách Nhà nước, vốn vay của Ngân hàng... Căn cứ vào tình hình thực tế của các nguồn vốn cần quan tâm xử lý các vướng mắc để đảm bảo khả năng đáp ứng nhu cầu của các nguồn vốn. Vốn của doanh nghiệpcần được kiểm tra qua việc phân tích tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó xác định nguồn vốn tái đầu tư. Vốn trợ cấp ngân sách, cần xem xét các cam kết bảo đảm của các cấp có thẩm quyền đối với nguồn Ngân sách. Vốn vay Ngân hàng, cần xem xét độ tin cậy và khả năng cho vay của Ngân hàng đã cam kết. c. Thẩm tra việc tính giá thành, chi phí sản xuất Chi phí sản xuất bao gồm các loại chi phí vật chất, chi phí nhân công, chi phí quản lý, chi phí quản lý và khấu haoTSCĐ Chi phí ngoài sản xuất bao gồm như chi phí quảng cáo, chi phí dự phòng, lưu thông sản phẩm, và các chi phí khác... Để tính giá thành sản phẩm cần căn cứ vào tổng mức chi phí, mức chênh lệch giá, xác định được các hao hụt ngoài dự kiến để tiến hành phân b._.ổ số lượng thành phẩm một cách hợp lý. Khi đó trong quá trình thẩm địnhchú ý tới toàn bội chi phí để sản xuất sản phẩm, các loại khấu hao( hữu hình và vô hình), kiểm trá chi phí nhân công, phân bổ chi phí lãi vay Ngân hàng, tính toán lại các mức thuế phải nổptánh việc tính thừa, thiếu hay áp dụng sai mức thuế. d. Tính doanh thu và lợi nhuận của dự án Doanh thu của dự án là tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ thu được trong năm dự kiến. Doanh thu của dự án được xác định trên cơ sở giá bán buôn sản phẩm, dịch vụ của dự án. Cần chú ý tới các chỉ tiêu tổng sản lượng, tổng doanh thu, lợi nhuận trước thuế, công suất thiết kế... Lợi nhuận của dự án là phần chênh lệchgiữa doanh thu và chi phí sản xuất sản phẩm. Tuỳ theo cơ cấu chi phí có thể tính thuế hay không mà ta có các lợi nhuận như sau : Lợi nhuận trước thuế, lợi nhụan sau truế, lợi nhuận giành trả nợ... Trong trường hợp đặc biệt khi dự án đầu tư chỉ làmột công đoạn bổ xung cho quy trình sản xuất chung thì mức doanh lợi của dự án đựoc tính theo chênh lệch giữa doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. e. Thẩm định các chỉ tiêu phân tích hiệu quả tài chính của dự án Khi phân tích thẩm định mặt tài chính của dự án các nhà thẩm địnhchủ yếu tập trung vào phân tích thẩm định các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư.Từ các chỉ tiêu tính toán với các số liệu đã dự toán cho dự án, tiến hành thẩm tra so sánhvới các tiêu chuẩn đã được công nhận. e1. Các chỉ tiêu phân tích tài chính đơn giản * Chỉ tiêu lợi nhuận thuần(W) W = Doanh thu thuần - Chi phí * Chỉ tiêu phản ánh hiệu qủa sử dụng vốn + Số lần quay vòng vốn lưu động Oi L= ———— Wci Trong đó, Oi : Doanh thu thuần bình quân năm kỳ nghiên cứu Wci : Vốn lưu động bình quân năm kỳ nghiên cứu Nếu L = [ L ] Dự án có số vòng vốn tỷ lệ thuận với hiệu quả hoạt động của dự án. Nếu L > [L] Dự án không đạt hiệu quả hoạt động, cần được sửa đổi bổ sung. Trong đó [L] là số vòng quay vốn lưu động bình quân năm cho phép. + Tỷ suất lợi nhuận doanh thu W Ro =——— O Trong đó : W Lợi nhuận bình quân hàng năm O Doanh thu thuần bình quân năm Nếu Ro = [Ro] dự án có tỷ suất lợi nhuận doanh thu càng cao thì hiệu quả tài chính càng cao. Nếu Ro = [Ro] dự án không đạt hiệu quả và cần được sửa đổi bổ sung. Trong đó [Ro] là tỷ suất lợi nhuận doanh thu cho phép. + Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư . Wipv RRi = ———— Ivo Trong đó, - Wipv là lợi thuần thu được năm thứ i theo mặt bằng giá khi kết quả đầu tư bắt đầu phát huy tác dụng. - Ivo là tổng vốn đầu tư thực hiện ước tính đến thời điểm các kết quả đầu tư bắt đầu phát huy tác dụng. Trường hợp RRi = [RRi] dự án có tỷ suất sinh lời vốn đầu tư càng lớn thì hiệu quả tài chính dự án càng cao. Nếu RRi < [RRi] dự án đầu tư không đạt hiệu quả và cần bổ sung. Trong đó [RRi] là tỷ suất sinh lời vốn đầu tư cho phép. + Kiểm tra xác định chỉ tiêu thu hồi vốn đầu tư. Ivo Ivo T = T = ắắắắ Wpv W + D Trong đó : Ivo Tổng vốn đầu tư ban đầu. W Lợi nhuận thuần thu được bình quân năm D Khấu hao TSCĐ hàng năm Trường hợp T [ T] dự án không đảm bảo thời gian hoàn vốn và cần được sửa đổi bổ sung. Trong đó [T] là thời gian hoàn vốn định mức. + Phân tích điểm hoà vốn - Doanh thu hoà vốn (0) Chi phí cố định f 0o= ————————— Hoặc 0o = ————— Chi phí biến đổi P 1- ———————— 1 - ———— Tổng doanh thu V Trường hợp 0o < [0] hoặc 0o = [0] dự án có công suất haymức đọ hoạt động hoà vốn càng thấp thì hiệu quả tài chính càng cao, độ rủi ro hoạt động càng ít, dự án càng hấp dẫn. Trong đó [0] là doanh thu hoà vốn cho phép. - Sản lượng hoà vốn (Xo) f Xo = ———— P-v Ngoài ra chúng ta có thể tính điểm hoà vốn tiền tệ, điểm hoà vốn doanh thu, điểm hoà vốn cho từng năm, cho cả đời dự án. Là cơ sở để xác định biên an toàn sdản phẩm và rủi ro của dự án. e2. Các chỉ tiêu phân tích tài chính phức tạp. * Chỉ tiêu về thời gian hoàn vốn. Chỉ tiêu này dùng để đo lường thời gian mà dự án hoàn trả vốn đầu tư ban đầu nghĩa là thời gian tối thiểu cần thiết để thu nhập của dự án bù đắp những chi phí ban đầu. Số vốn còn lại của dự án PP = Số năm hoạt động của dự án — ————————— trước khi thu hồi đủ vốn đầu tư Dòng tiền dòng năm tiếp theo Theo chỉ tiêu này thì PP càng nhỏ càng tốt. Đối với các dự án loại trừ nhau thì chọn PP nhỏ nhấtvì luồng tiền trong tương lãia được xem như là có rủi ro cao hơn so với dòng tiền trong tương lai gần. Vì vậy, chỉ tiêu PP được sử dụng như một thước đo mức độ rủi ro của dự án. + Ưu điểm: - Đơn giản, dễ hiểu, dễ tính, dễ thực hiện. - Không phải tính luồng tiền ngoài thời gian hoàn trả, sẽ tiết kiệm được thời gian khi tính toán. - Trong điều kiện hạn chế về vốn đầu tư thì chỉ tiêu này cho phép chúng ta tăng nhanh vòng quay của vốn. + Nhược điểm: - Không cho biết được những chỉ số về mặt lợi nhuận thực sự của dự án. - Không tính đến luồng tiền ngoài thời gian hoàn trả: sẽ loại bỏ những dự án tốt đem lại lợi nhuận cao song thời gian hoàn vốn lại dài. - Tuổi thọ của dự án không được đề cập đến - chỉ tiêu quan trọng tác động đến hiệu quả kinh tế của dự án. - Không tính đến giá trị thời gian của tiền : đây là điều mà các nhà tài trợ rất quan tâm. - Cơ sở lựa chon dự án không rõ ràng Để khắc phục nhược điểm thứ ba này người ta sử dụng chỉ tiêu NPV. * Chỉ tiêu NPV ( Net Present Value ) là chỉ tiêu giá trị hiện tại dòng các khoản thu nhập thuần cả đời dự án.Chỉ tiêu là tiêu chuẩn xác định xem việc sử dụng nguồn lực có thực sự mang lại hiệu quả hay không khi quy các dòng tiền về thời điểm hiện tại.* Trong đó : CFo : Vốn đầu tư ban đầu CFt : Luồng tiền ròng dự tính thu được tại năm thứ I : Là chi phí vốn hoặc lãi suất N : Số năm hoạt động của dự án ( tuổi thọ của dự án ) Dự án được đánh giá đạt hiệu quả khi NPV > 0, nghĩa là dự án tạo ra lượng tiền nhiều hơn lượng tiền cần thiết để trả nợ và cung cấp một lãi suất yêu cầu cho người sở hữu công ty ( đối với công ty cổ phần hoặc công ty TNHH ). Nếu NPV = 0 thì dự án chỉ thu hồi được vốn mà không có lãi, trường hợp này tuỳ theo sự cần thiết của dự án đối với chủ đầu tư mà phân tích có chấp nhận hay không. Nếu NPV < 0 , dự án không thu hồi được vốn mà còn phải chịu lỗ vốn. Đối với các dự án loại trừ nhau ( là dự án mà việc thực hiện dự án này sẽ loại trừ dự án khác ) thì chọn NPV lớn nhất. + Ưu đIểm : Phản ánh chính xác quy mô tiền lời của dự ansau khi hoàn trả vốn đầu tư hoặc nói cách khác nó phản ánh chính xác hiệu quả đầu tư của dự án về phương diện tài chính. Có tính đến giá trị thời gian của tiền. + Nhược điểm : Lãi suất chiết khấu sử dụng trong chỉ tiêu NPV, chi phí vốn của dự án nhưng nó lạiđược sử dụng chung cho tất cả thời gian hoạt động của dự án. Hơn nữa, lãi suất chiết khấu (i) lại bị ảnh hưởng bởi nhiều nguyên tố : Tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ gia tăng do sử dụng phương án này mà không sử dụng phương án khác, dựa trên việc xác định chi phí cơ hội và phụ thuộc vào mức độ rủi ro của dự án. Không thể so sánh được các dự án có quy mô, thời gian hoạt động khác nhau vì các dự án có mức độ rủi ro khác nhau. Chỉ phản ánh được quy mô tiền lời của dự án ( về số tuyệt đối ) mà không phản ánh được khả năng sinh lời của dự án ( chỉ tiêu tương đối ). Để khắc phục điều này, người ta đã sử dụng chỉ tiêu IRR. *Chỉ tiêu tỷ lệ hoàn vốn nội bộ ( Internal rate of teturn ) : IRR Đây là hệ số được dung để đánh giá tỷ lệ lợi nhuận, khả năng sinh lời của dự án trong hoạt động kinh doanh. IRR chính là lãi suất chiết khấu mà tại đó NPV của luồng tiền vào bằng NPV của luồng tiên ra hay nói cách khác IRR chính là lãi suất tại đó NPV = 0 ( giá trị hiện tạI của các khoản thu từ dự án bằng giá trị hiện tại của vốn đầu tư ban đầu : hay cũng chính là lãi suất tiền vay lớn nhất mà các nhà đầu tư có thể chấp nhận khi thực hiện đâù tư, tại đó tất cả lợi nhuận sau đầu tư đủ hoàn trả số tiền cho dự án ( kể cả vốn và lãi). IRR = i1 + NPV(i2-i1) NPV1- NPV2 + Ưu đIểm : - Có tính đến giá trị thời gian của tiền. IRR cho biết lãi suất mà tự bản thân dự án có thể đem lại cho nhà đầu tư vì thế IRR càng lớn càng tốt, và IRR > i ( lãi suất tiền vay ) hơn nữa đây là số tương đối ( đơn vị là % ) do vậy nói lên được lợi nhuận trên quy mô vốn. Cho biết tỷ lệ sinh lời của dự án + Nhược đIểm: IRR không cho biết được giá trị tuyệt đối của lợi nhuận. Mà thực tế có nhiều dựa án giá trị tuyết đối của dự án cao nhưng IRR lại nhỏ đặc biệt những dự án có quy mô lớn. IRR là tỷ lệ trung bình của nhiều năm mà không nói lên được giao động trong ngắn hạn đặc biệt là giao động trong thời gian mà dự án vay vốn( vì có nhiều dứ an ,mà thời gian hoạt động lớn hơn thời gian vay vốn) Thông thường đối với dự án độc lập khi NPV > 0 thì IRR > i : thực tế NPV và IRR được sử dụng để tính toán, nhưng trong dự án loại trừcó những trường hợp sử dụng hai chỉ tiêu này đưa ra những kết luận tráI ngược nhau là do luồng tiền xuất hiệntrong các năm là khác nhau và số năm hoạt động cũng không giống nhau. Trong các trường hợp được đó người ta hay áp dụng chọn NPV để chọn dự án vì: . Khả năng tái đầu tư lại chính tỷ lệ sinh lời (IRR) kém hơn. Hơn nữa trong phương pháp tính IRR ngầm đỉnhằng dự án có cơ hội tái đầu tư lại tỷ lệ lãi suất lại là IRR; còn phương pháp tính NPVlại giả định rằng tỷ lệ lãi suất mà tại đó các luồng tiền có thể được tái đầu tư là chi phí vốn.. Mà những giả định này cố hữu về mặt toán họckhi thực hiện chiết khấu. Vì thế giả định tỷ lệ lãi suất tái đầu tư là chi phí vốn thích hợp nhất. * Chỉ số doanh lợi (profitablety index – PI ) PI được tínhdựa vào mối quan hệ tỷ số giữa thu nhập dòng hiện tại so với vốn đầu tư ban đầu. Thông thường đối với các dự án độc lập chọn PI > 1 Đối với các dự án loại trừ chon PI lớn nhất. + Ưu đIểm Tính đến giá trị thời gian của tiền. Cho biết thu nhập hiện tạI của dự án trên một đồng vốn ban đầu. + Nhược điểm Không cho biết được giá trị tuyệt đối lợi nhuận của dự án. Cơ sở để tính luồng tiền không rõ ràng dặc biệt đối với các dự án có bổ sung vốn đầu tư trong quá trình hoạt động. Trong các chỉ tiêu trên mỗi chỉ tiêu đều có những ưu, nhược điểm riêng, do đó khi tính toán, phân tích và thẩm định ta nên kết hợp tất cả các chỉ tiêu đó để có một cái nhìn tổng quát về khả năng sinh lời, hiệu quả hoạt động của dự án từ đó có các quyết định thẩm định chính xác về dự án. f. Thẩm định dự án đầu tư trong điều kiện có rủi ro Các chỉ tiêu thẩm đinh trên khi thực hiện ta phải giả định các điều kiện về thị trường, giá cả thay không thay đổi do chi phí, lợi nhuận không thay đổi. Song trên thực tế, trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư ( đặc biệt đối với các dự án đầu tư dài hạn > 5 năm) thì những giả thiết đó rất khó xẩy ra. Vì vậy dưới góc độ các nhà tài trợ muốn đánh giá chính xác về dự án, giảm rủi ro đến mức tối thiểu, các cán bộ thẩm định phải đặt dự án trong “môi trường động” để xem xét; nghĩa là phải phân tích dự án trong điều kiện có rủi ro ( phân tích độ nhậy của dự án. Phân tích độ nhậy của dự án: là xem xét sự thay đổi của các chỉ tiêuphản ánh mặt tàI chính của sự án khi các yếu tố liên quan đến nó thay đổi. Thông thường người ta kiểm tra độ nhậy của dự án theo từng yếu tố ảnh hưởng riêng biệt như ( tăng hoặc giảm chi phí; tăng hoặc giảm doanh thu) và đôI khi cũng tiến hành thẩm tra vớisự biến động đồng thời của một vài yếu tố như vừa tăng yếu tố này vừa giảm yếu tố kia. Để đánh giá mức độ an toàn của dự án, người ta thường kiểm tra với điều liện biến động của các yếu tố theo hướng bất lợi của dự án, hoặc theo hướng biến động của thị trường tiêu thụ: doanh thu, giá bán, chi phí đầu vào… Điều quan trọng là phải xác định được % tăng giảm của mỗi yếu tố cho phù hợp với điều kiện thực tế mà dự đoán sẽ biến động. Do mối quan hệ và sự tác động của các nguyên tố khác đến trạng thái của dự án nên có thể lựa chọn mức biến động vào nguyên tố khác. Chẳng hạn yếu tố vốn đầu tư có thể có mức biến động khác với mức biến động của yếu tố chi phí, doanh thu hoặc giá tiêu thụ… đối với các dự án vay vốn bằng ngoại tệ có thể có sự thay đổi về tỷ giá tăng hoặc giảm so với ban đầu. Thẩm định tài chính dự án đầu tư trong điều kiện có rủi ro là đặt dự án trong những điều kiện xấu nhất về sự thay đổi của các yếu tố có liên quan chính. Do đó khi tính toán sự thay đổi của các chỉ tiêu hiệu quả tàI chính ta phảI xem xét trong những trường hợp đó dự án có khả năng trả nợ theo đúng lịch trình quy định hay không, hiệu quả kinh tế của dự án có thay đổi bất lợi cho dự án hay không… Và cuối cùng cũng là sự phân tích tính toán trên ta phải đưa ra được những đánh giá kết luận. Mặc dù những chỉ tiêu trên cũng rất quan trọng nhưng nó chỉ là công cụ để phân tích tính toán và ta phải dựa vào đó để đưa ra kết luận chung. Kết luận này đôi khi cần tính linh hoạt, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và sự ưu tiên khía cạnh nào đó của dự án. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào đi chăng nữa cũng phải mang lại tính khái quát tổng hợp nhất về dự án để từ đó cán bộ thẩm định và lãnh đạo Ngân hàng đưa ra quyết định cuối cùng là tàI trợ hay không? 5.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình thẩm định: 5.3.1Nhân tố chủ quan: Nhân tố con người, luôn luôn chi phối hoạt động trong mọi quy trình thảm định. Trình độ năng lực, đạo đức nghề nghiệp là yếu tố cần thiết đối với cán bộ thẩm định, cần loại bỏ tính cá nhân hình thức trong quá trình thẩm định. Nhân tố thông tin, phương tiện thu thập và xử lý thông tin, thông tin là cơ sở dữ liệu để phân tích và đánh giá dự án. Do tính chủ quan của cán bộ thẩm địnhviệc thu thập và xử lý thông tin có thể không khách quan. Lượng thông tin thu thập cần đầy đủ, chính xác và thường xuyên. Phương tiện thu thập và xử lý thông tin ảnh hưởng tới tiến độ và chất lượng thẩm định. Ngân hàng thông tin và công nghẹ tin học ứng dụng trongNgân hàng rõ ràng và hiệu quả hơn phương pháp thu thập và xử lý thông tin thủ công. Nhân tố quản lý, đây là việc cấp phát, phân chia quyền hạn và trách nhiệm một cách khoa học và hợp lý, phát huy tốt vai trò độc lập đối với từng cán bộ trong công tác chung. Đánh giá tổng hợp nhằm đưa ra quyết định tối ưu bảo đảm tính khách quan công bằng và hiệu quả cho từng thành viên tham gia thẩm định. Phương pháp thẩm định,bao gồm các phương pháp và chỉ tiêu hiệu quả tài chính. Phương pháp hợp lý là phương pháp vận dụng phù hợp với loại hình, đặc điểm của dự án, thể hiện được khả năng nhanh nhậy của Ngân hàng trước sự biến động của môi trường dự án. Thẩm định đúng phương pháp giúp cho quá trình đánh giá dự án có tính khoa học, dễ kiêm tra. 5.3.2 Nhân tố khách quan: Sự thiếu chính xác của các con số thống kê, báo cáo tài chính. Lênin đã từng nói “ Thống kê là con số chính xác của những con số không chính xác”. Các báo cáo tài chínhmà các doanh nghiệp đem đến Ngân hàng không phải tất cả đều phản ánh đầy đủ 100% tình hình tài chính doanh nghiệp, chưa kể chúng đã được “ chế biến”. Bên cạnh đó, các con số được lập trongdự án khả thi cũng trong tình trạng tương tự. Các con số về thu- chi, khả năng tiêu thụ là dự kiến và mang tính chất ước tính, cộng thêm nhiều yếu tố khác có thể thay đổi trong quá trình dự án đi vào hoạt động. Vì thế dù tính toán kỹ đến đâu cũng không phản ánh đầy đủ, chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như hiệu quả của dự án đầu tư. Định hướng phát triển kinh tế ngành, vùng, quốc gia. Những biến động này rất khó lường trước được, đặc biệt trong thời gian dài. Hơn nữa đây là vấn đề nhậy cảm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của dự án Các nhân tố khác, đối với các dự án cho vay bằng ngoại tệ công tác thẩm định còn bị ảnh hưởng bởi tình hình tài chính quốc tế, đặc biệt là sự tăng giảm giá USD. Bởi các dự án vay bằng ngoại tệ phải trả bằng ngoại tệ. Hơn nữa hiện nay Nhà nước kiểm soát rất chặt chẽ đồng ngoại tệ. 5.4 Yêu cầu đối với công tác thẩm định - Công tác thẩm định phải được tiến hành theo các quy định và hướng dẫn của Nhà nước và các ngành có liên quan, phảI bám sát chủ trương, đường lối, kế hoạch phát triển theo từng thời kỳ của Nhà nước, chính quyền, địa phương các cấp các ngành… Công tác thẩm định phảI được thực hiện phù hợp với chính sách tín dụng của Ngân hàng.Tham gia thực hiện phải bao gồm cán bộ thẩm định chuyên trách, các cán bộ bộ tín dụng và các cán bộ nghiêp vụ có liên quan đến tín dụng. Công tác thẩm định phảI được thực hiện một cách khách quan, kịp thời để phù hợp với tiến độ thời cơ của dự án, phải được thực hiện một cách chính xác, có khoa học, toàn diện chặt chẽ ở tất cả các lĩnh vực. Thẩm định dự án đầu tư phải được thực hiện đối với mỗi dự án, mỗi khoản đầu tư tín dụng ( cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính…). Đồng thời cũng phảI thẩm định các dự án thuộc mọi nguồn vốn, thành phần kinh tế khác để cả các dự án có nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước thì tuỳ theo loại dự án mà có cách thẩm định khác nhau. Thẩm định bao gồm hai bước : + Thẩm định trước khi quyết định tín dụng. + Thẩm định trong quá trình giải ngân thực hiệnvà kết thúc hợp đồng tín dụng. Ta biết công tác thẩm địnhdự án đầu tư bao gồm rất nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh khác nhau, bởi dự án đầu tư bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau nhưng cùng tác động đến lợi ích cuối cùng của dự án: như khía cạnh kỹ thuật ( là khía cạnh lớn nhất trong một dự án, là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với nhà đầu tư - người lập dự án ) hay khía cạnh về tập quán, pháp lý, tổ chức quản lý, xã hội thương mại, tài chính và kinh tế… Tất cả các khía cạnhnày tạo nên một dự án hoàn chỉnh. Vì vậy tốt nhất khi thẩm định dự án đầu tư ta phảI thực hiện tát cả các khía cạnh đó. Tuy nhiên đây là một vấn đề rất rộng đòi hỏi sự nghiên cứu và kiến thức rộng của nhiều ngành có liên quan, chẳng hạn: Đối với cơ quan chủ quản chủ doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư phải thẩm định về mặt kỹ thuật ; Nhà nước thẩm định về mặt xã hội, kinh tế… Nhà tài trợ thẩm định về mặt tài chính của dự án đầu tư… Trong khuôn khổ của chuyên đề tác giả chỉ đi sâu về việc thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hệ thống Ngân hàng’ Quy trình chung của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng. Thẩm định tài chính dự án đầu tư TĐ tư cách pháp lý của dự án TĐ hiệu quả kinh tế của dự án TĐ tư cách pháp lý của DN TĐ tàI chính doanh nghiệp Khi thẩm định tài chính dự án đầu tư thì không chỉ đơn thuần thẩm định mỗi dự án đầu tư đó mà phải thẩm định cả tình hình tài chính doanh nghiệp lập dự án vì doanh nghiệp không những trực tiếp thực hiện dự án mà còn tiến hành cân đối nguồn vốn để trả nợ. Có những dự án đầu tư mà nguồn trả nợ không những từ lợi nhuận thu được từ dự án mà còn do các nguồn khác đem lại; hoặc những dự án mà lợi nhuận thu được không chỉ để giành cho trả nợ cho dự án mà còn dùnh để chi trả cho các việc khác. Vì thế việc thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong quá trình thẩm định dự án đầu tư cũng cần thiế Phần II Thực trạng công tác thẩm định hiệu quả tào chính dự án đầu tư tại Sở Giao Dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. I. vài nét về SGD I – BIDV Quá trình hình thành và phát triển Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 1.1.1 Lịch sử hình thành Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam –Bank for Investmentand Development of Viet Nam (BIDV) được chính thức thành lập vào ngày 26 /4/1957, theo quyết định của Thủ tướng chính phủ với tên gọi ban đầu là Ngân hàng kiến thiết Việt nam trực thuộc Bộ tài chính. Ngày 22 / 6, Ngân hàng đổi tên là Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam trực thuộc Ngân hàng Nhà nước. Nhiệm vụ mới của Ngân hàng là cho vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản các công trình không thuộc ngân sách Nhà nước cấp hoặc vốn tự có không đủ song sonh với cấp vốn thanh toán với các công trình thuộc vốn ngân sách Nhà nước đầu tư. Ngày 14/11/1990, theo quyết định số 401 của HĐBT do phó chủ tịch Võ Văn Kiệt ký, chuyển thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Hoạt động của Ngân hàng được mở rộng để phù hợp với đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong giai đoạn này, Ngân hàng tổ chức huy đọng vốn trung và dài hạn trong và ngoài nước, kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng chủ yểu trong lĩnh vực đầu tư và phát triển, chuyển từ Ngân hàng cấp phát thuần tuý trước đây sang Ngân hàng thương mại Ngày 28/3/1996, theo quyết định số 186 TTG của Thủ tướng chính phủ, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chính thức trở thành một doanh nghiệp Nhà nước dạng đặc biệt. Trải qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển với hơn 100 chi nhánh ở các tỉnh thành phố và khu công nghiệp trong cả nước đội ngũ hơn 4500 cán bộ nhân viên tâm huyết, nhiệt tình trong công việc BIDV xứng đáng là một trong 4 NHTMQD lớn nhất. 1.1.2. Kết quả hoạt động. Chỉ tiêu Năm Cho vay ngắn hạn Cho vay trung và dài hạn Tổng cộng 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 294 370 499 882 2044 3473 4099 5448 8580 8972 435 1063 1525 2842 4331 6612 8474 10491 11600 12647 729 1433 2024 3724 6375 10085 12573 15939 20180 21619 Như vậy, doanh số cho vay luôn tăng trong các năm chứng tỏ hoạt đọng cho vay của Ngân hàng rất có uy tín. Việc quản lý chặt chẽ và hợp lý cơ cấu hoạt động, chu chuyển vốn cũng đóng góp đáng kể vào lợi nhuận của toàn ngành. Cùng với sự phát triển chung, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam có triển vọng phát triển rất vững chắc, khả quan không ngừng khẳng định là một trong bốn Ngân hàng trụ cột của hệ thống Ngân hàng Việt Nam. 1.2 Sở Giao Dịch i 1.2.1 Lịch sử hình thành Sở Giao Dịch I được thành lập theo quyết định số 76QD/NH ngày 28/3/1999; theo thông báo số 572 TCCB / ĐT ngày 26/12/1990 của vụ tổ chức cán bộ Ngân hàng Nhà nước và quyết định số 349 QĐ / NH ngày 16/10/1997 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. SGD I trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, được hạch toán kế toán phụ thuộc, có bảng cân đối kế toán riêng, có con dấu riêng và trực tiếp giao dịch với khách hàng.Trụ sở theo quy định phải đặt tại Hà nội, hiện nay là tại 53 phố Quang Trung. Hoạt động chính của SGD I là huy động vốn trung và dài hạnbằng đồng Việt Nam và ngoại tệ từ mọi nguồn vón trong nước dưới các hình thức chủ yếu sau: + Nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi bằng thanh toán của tất cả các tổ chức dân cư. + Phát hành trái phiếu, các chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu kỳ phiếu dưới tên Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam + Vay vốn của các tổ chức tài chính trên các loại thị trường. Các nghiệp vụ tín dụng và dịch vụ Ngân hàng chủ yếu mà SGD I thực hiện là: + Cho vay ngắn, trung và dài hạn theo cơ chế tín dụng hiện hànhbằng đồng Việt Nam và đồng ngoại tệđối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, hộ gia đình và cá nhân. +Chiết khấu các chứng chỉ có giá trị. + Các nghiệp vụ bảo lãnh và tái bảo lãnh + Trực tiếp thực hiện hoặc làm đại lý cho thuê tài chính theo sự uỷ thác của Tổng Giám Đốc hoặc công ty cho thuê tài chính của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam . + Mua bán chuyển đổi ngoại tệ và các dịch vụ ngoại hối. +Dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước giữa các khách hàng. + Tham gia đấu thầu trái phiếu tín phiếu của Chính phủ, trái phiêu Ngân hàng Nhà nước, kho bạc Nhà nước trên thi trường. +Dịch vụ tư vấn tài chính cho khách hàng. Nói chung, SGD I là một pháp nhân và có tính độc lập cao trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển. Cơ cấu tổ chức của SGD I : Giám đôc sở giao dịch Phó giám đốc SGD Phó giám đốc SGD Phó giám đốc SGD Phòng kế toán Phòng nguồn vốn kinh doanh Phòng tín dụng Phòng quản lý khách hàng Phòng kiểm soát Phòng thanh toán quốc tế Phòng giao dịch 1 Phòng tổ chức hành chính Phòng điện toán 1.2.2 Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoà vào sự phát triển mạnh của BIDV, trong những năm qua SGD I đã có những bước tiến đáng kể đóng góp vào sự phát triển chung của toàn ngành. Với tư cách là chi nhánh có ưu thế được hoạt động giao dịch với các khách hàng lớn, tổng công ty nên SGD I đã phát triển với mức tăng trưởng phù hợp với chi nhánh là đầu tàu cả về tài sản và thị phần trên điạ bàn Hà nội. Tình hình hoạt động kinh doanh của SGD trong những năm qua phát triển rất tốt. Các chỉ tiêu tăng trưởng đều ở mức ổn định. Bảng kết quả thực hiện một số chỉ tiêu chính. đơn vị : tỷ VNĐ Chỉ tiêu 1999 2000 % 2000/1999 2001 % 2001/2000 Tổng TS 3.405,14 4.273,45 25,5 5.568,31 30,3 Huy động vốn 1.581,59 2.372,39 51,2 3.724,65 57 Tín dụng 3.527,07 4.041,25 16,3 4.735,92 17,1 Lợi nhuận 31,96 36,43 14 42,62 16 Các chỉ tiêu năm 2000, 2001 tăng so với năm 1999, 2000 lần lượt là : về tổng tài sản:25% và 30,3%; huy động vốn tăng 51,2 % và 57%; tín dụng tăng 16,% và 17,1%. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức tài chính tín dụng trong và ngoài nước như bây giờ. Lợi nhuận của SGD I vẫn không ngừng tăng trưởng, đạt mức tăng ổn định: 14% và 16% năm 2000 và 2001. Cơ cấu hoạt động thay đổi theo hướng tích cực,chủ yếu do nguổn trái phiếu tăng nhanh, đã cải thiệ đáng kể chênh lệch kỳ hạn giữa tài sản nguồn vốn, qua đó góp phần giảm tỷ lệ dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, giảm khả năng rủi ro kỳ hạn của Ngân hàng. Bảng tình hình dư nợ tại SGDI đơn vị : triệu VND Chỉ tiêu 1999 2000 %2000/’99 2001 %2001/00 1. TD NH - VND 140.381 190.216 35,5 266.302 40 - USD 36.381 52.308 142 393.292 752 2.TD HTM - VND 18.629 20.865 112 79.549 381 - USD 551.798 579.388 5 623.580 7,6 3. KHNN - VND 2.081.590 2.171.099 4,3 2.322.132 7 - USD 472.887 508.354 7,5 559.189 10 Cơ cấu tín dụng được điều chỉnh theo hướng tích cực, phù hợp với sự đổi mới cơ chế tín dụng, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn và tín dụng thương mại trên tổng dư nợ tăng từ 6% và 19,6% năm 2000 lên 14% và 29,8% năm 2001. Dịch vụ Ngân hàng hàng năm đã có những bươc tăng trưởng đáng kể, với mức tăng trưởng 2,3 lần năm 2000 ( so với 1999) và 2,7 năm 2001 (so với 1999), đưa tỷ trọng đóng góp vào tổng thu của Ngân hàng tăng lên từ 6% đến 10 % thể hiện đa dạng hoá dịch vụ Ngân hàng theo hướng khép kín phục vụ khách hàng. Các hoạt động bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ đều tăng trưởng gấp 2-3 lần. Riêng hoạt động thanh toán Quốc tế năm 2001, đã đạt được kết quả nhanh chóng vào ổn định đóng góp gần 2,3 tỷ VND vào tổng thu, chiếm 21,1 % thu nhập của dịch vụ tại SGD I trong đó mở được 85 L/C tổng giá trị là 85 triệu USD. Bên cạnh các hoạt động của ngành SGD I còn được giao một số nhiệm vụ của Nhà nước và SGD I đã thực hiện một cách suất sắc: đợt chi trả đền bù của IRAQ là một ví dụ điển hình, đã thực hiện chi trả trên 333 tỷ đồng mang lại chi Ngân hàng khoản thu dịch vụ không nhỏ, giúp SGD I tăng khả năng huy động vốn, góp phần nâng cao uy tín đối với các Bộ ngành và dân chúng. Sở dĩ SGD I đã đạt được mức tăng trưởng như vậy là do một số thuận lợi cơ bản sau: Có môi trường hoạt động kinh doanh ổn định rộng lớn có đủ điều kiện và tiềm năng khai thác nguồn vốn nhàn rỗi mở rộng khách hành và hoạt động kinh doanh. Là bộ phận kinh doanh trực tiếp tại BIDV nên phương hướng hoạt động, mục tiêu của SGD I được ban lãnh đạo chỉ huy sát sao kịp thời, luôn được quan tâm về mọi mặt của ban lãnh đạo và sự hỗ trợ trực tiếp của các phòng chức năng trong BIDV trong mọi hoạt động. SGD I có trụ sở đạt tại Hà Nội – trung tâm kinh tế chính trị của cả nước, nơi tập trung nhiều khách hàng lớn, hoạt động nhiều nên luôn là nơi thử nghiệm mọi nghiệp vụ mới của toàn ngành, được BIDV cho áp dụng các kinh nghiệm thành công. Vì thế SGD I luôn có đầy đủ các nghiệp vụ hơn các chi nhánh khác. Bên cạnh những thuận lợi đó SGD I cũng có không ít những khó khăn gây cản trở hoạt động kinh doanh. * Khách hàng chủ yếu là khách lớn có quan hệ rộng rãi với các đối tác đặc biệt là các đối tác nưóc ngoài nên nhu cầu thông tin liên lạc của họ là rất lớn. Đòi hỏi trình độ công nghệ thông tin cao, hiện đại trình độ chuyên môn và ngoại ngữ của nhân viên luôn phải được trau dồi. Các nghiệp vụ luôn phát triển bắt kịp nhịp độ phát triển của Quốc tế đặc biệt là dịch vụ thanh toán. II. Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại SGD I 1.Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại SGD 1.1 Quy trình thẩm định tài chính dự án đầu : Thẩm định tài chính dụ án là cônh tác nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng, thông qua công tác thẩm định Ngân hàng lựa chọn được những dự án, hoản tín dụng có hiệu quả, có khả năng thu hồi nợ để quyết định cho vay, bảo lãnh hay đồng tài trợ. Đảm bảo việc giải ngân đúng tiến độ về quản lý xây dựng cơ bản của Nhà nước, tiết kiệm vốn đầu tư nâng cao hiệu quả tín dụng. Quá trình thẩm định dự án đầu tư tại SGD I được tiến hành thông qua hai phòng chức năng Tín dụng và Nguồn vốn. Sơ đồ quy trình thẩm định tại SGD I – NHĐT & PT Dự án không thuộc quyền quyết định Phòng tín dụng Giám đốc SGD Hồ sơ dự án đầu tư Dự án thuộc quyền quyết định của SGD Phòng nguồn vốn Hội đồng tín dụng Tiếp nhận, trình Tham mưu Hớp tác thẩm định Chi chú: Sơ đồ quy trình thẩm định chó thấy việc ra quyết định trong quá trình thẩm định đều dựa trên nguyên tắc thống nhất ý kiến trung, cụ thể. Song song với công tác thẩm định tại phòng tín dụng, phòng nguồn vốn trự tiếp tiến hàng thẩm định một cách độc lập tính hợp lệ, nội dung quy trình theo quy định của SGDI. Phòng nguồn vốn có trách nhiệm phản ánh kết quả thẩm định của mình cho phòng tín dụng. Phòng nguồn vốn chủ yếu thẩm định tài chính dự án. Giữa hai phong luôn có mối quan hệ trao đổi với nhau trong quá trình thẩm định. Sau đó cán bộ tín dụng sẽ thẩm định lại các chi tiết đã thẩm định về doanh nghiệp và dự án dựa trên báo cáo thẩm định của mình và phòng nguồn vốn để báo cáo với ban giám đốc SGDI. Kết quả thẩm định do cán bộ tín dụng lập sẽ được trưởng phòng tín dụng thông qua nhằm rà soát lại nội dung và kết quả thẩm định, sau khi hoàn thiện sẽ gửi lên Ban giám đốc. Sau khi xem xét báo cáo của phòng tín dụng về dự án, Giám đốc SGDI tham khảo ý kiến của phòng nguồn vốn và của Hội đồng tín dụng. Căn cứ vào hạn mức tổng vốn tín dụng đầu tư có thể chấp nhận được với từng loại doanh nghiệp và từng dự án. Giám đốc SGDI tiền hành quyết định cho vay, không cho vay hoặc đệ trình lên cấp có thẩm quyền (nếu ngoài thẩm quyền phê duyệt). Trong mọi trường hợp Giám đốc SGDI phải lamf tờ trình lên Ngân hàng Trung Ương căn cứ._.yêu cầu thời gian trả nợtheo phương pháp giản đơn, chưa đánh giá đượchoạt động toàn vòng đời dự án. Do vậy chưa tính được Tổng giá trị thực sự chủ đầu tư thu được sau khi kết thúc dự án quy về thời điểm hiện tại cũng như các chỉ tiêu tài chính khác. Hơn thế, các dự án đầu tư vay vốn thông thường có vòng đời dài, vốn lớn. Việc không quy đổi các khoản thu- chi của dự án tại SGD I về mặt bằng thời gian để tính toán, phân tích đã dẫn tới toàn bộ dự báo có độ sai lệch lớn. Trong nền kinh tế thị trường, mội biến động rủi ro kinh tế đều có thể xuất hiện, việc áp dụng tỷ suất chiết khấu trong phân tích càn được tính toán đề cập tới trượt giá, lạm phát. 2.4Việc áp dụng phân tích độ nhạy của dự án còn hạn chế, dòng tiền phân tích không loại bỏ tồn kho, phải thu, phải trả… Phân tích độ nhậy là chỉ tiêu hết sức quan trọng trong phân tích tài chính dự án. Song do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan về năng lực và cơ sở dữ liệu dùng trong phân tích, dẫn tới việc phân tích rủi ro của SGD I còn nhiều bất cập. Các chỉ tiêu dùng trong phân tích còn quá đơn giản, không được tổng hợp từ dự báo tổng hợp mà chủ yếu đề xuất do chủ quan của cán bộ thẩm định hoặc chỉ dựa vào báo cáo của chủ đầu tư. Trong khi ngày nay mức biến độngcủa các yếu tố trên thị trường đặc biệt lớn. Nguyên nhân của việc phân tích rủi ro yếu kémmột phần là do: SGD I phản ánh dòng tiền thu chi của dự án mà không loại bỏ các yếu tố tồn kho, phải thu, phải trả của doanh nghiệp. 2.5Thông tin khách hàng không cập nhật các báo cáo tài chính Có độ trễ thời gian tương đối lớn . Mặc dù đã cố gắng trong việc thu thập thông tin về khách hàng thông qua nhiều nhiều biện pháp trực tiếp , thu thập gián tiếp song cơ sở thông tin chính dùng trong phân tích đành giá dự án của sở giao dịch chủ yếu dựa vào báo cáo chủ đầu tư , trong khi các báo cáo này cho dù chính xác thì cũng không cập nhật do độ chễ thời gian của báo cáo là khá lớn . Các báo cáo tài chính dự án và kế toán doanh nghiệp chưa đủ tin cậy do chưa có nhiều doanh nghiệp thực hiện kiểm toán bắt buộc . Nhiều doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm lập dự án nên nguồn số liệu thường thiếu , gây khó khăn cho cán bộ thẩm định . Theo thực tế sử dụng nguồn lưu trữ ở ngân hàng thông tin tuy phong phú song không có hệ thống , khiến cho số liệu đề cập lộn sộn , ngắt quãng . Các báo cáo tài chính , kết quả sản xuất kinh doanh thường kỳ của doanh nghiệp nộp cho sở giao dịch có nhiều loại lhác nhau dẫn tới khó hệ thống , chuẩn hoá thông tin . Sở giao dịch đã yêu cầu khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng để có thể kiểm tra được tình hình tài chính của doanh nghiệp , có thể phát hiện ra các vấn đề có thể làm nảy sinh rủi ro tín dụng . Tuy nhiên , hiện nay việc thanh toán qua hệ thống Ngân hàng trong giao dịch chưa được phổ biến,bản thân doanh nghiệp cũng không muốn bị kiểm soát nguồn thu chi của mình. 2.6 Hệ thống máy tính nối mạng của SGD I chưa phát huy thế mạnh. SGD I ngay từ khi chuyển sang hoạt động độc lập đã chú trọng xác định áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ nói chung và công nghệ Ngân hàng nói riêng. Hệ thống máy tính được trang bị cho các phòng ban đã có tác dụng đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, nâng cao chất lượng cung cấp số liệu, phương pháp cho thẩm định dự án. Tuy nhiên việc áp dụng còn nhiều bất cập, việc áp dụng phần mềm trong thẩm định chưa được chú trọng, do vậy phần lớn công tác thẩm định mang tính thủ công, cục bộ, cá nhân. 2.7 Sở Giao Dịch chưa có những mẫu báo cáo thẩm định riêng cho từng lĩnh vực. Các mẫu báo cáo thẩm định nói chung và mẫu báo cáo thẩm định tài chính dự án nói riêng tại SGD tuy cùng một dự án song không đồng nhất giữa các bộ phận thẩm định. Các định mức đánh giá chưa có độ thống nhất, hầu hết các báo cáo thẩm định được lập dựa trên cách sắp xếp, cách sử dụng chi tiêu của từng cán bộ thẩm định. Trên đây là một số ưu điểm và tồn tại trong công tác thẩm định tài chính dự án tại SGD I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Trong thời gian tới, để hoàn thiện hơn nữa công tác thẩm định dự án nói chung và công tác thẩm định tài chính dự án nói riêng, SGD I cần tiến hành một số cải cách cụ thể trong nội dung, phương pháp phân tích. Dưới đây, Em xin phân tích nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại SGD I. Phần III Một số giải pháp đóng góp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư tại SGD I- NHĐT&PT VN. I.Một số nguyên nhân chủ yếu Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, chưa có phòng thẩm định riêng. Mặc dù quá trình thẩm định được tiến hành thông qua sự kết hợp giữa nhiều phòng chức năng. Song từ trươc tới nay, công tác thẩm định chủ yếu được giao cho cán bộ phòng tín dụng xem xét và thực hiện, chính điều này đã làm cho công tác thẩm định chưa có hiệ quả do : Cán bộ phòng tín dụng không được đào tạo chính thức cho công tác thẩm định dự án, chưa có nghiệp vụ và chuyên môn trong lĩnh vực này. Sự phối hợp giữa các phòng đôi khi gây trùng lặp, không hiệu quả. Chủ quan của cán bộ thẩm định. Thứ hai, Nội dung thẩm định sơ sài. Đặc thù của Ngân hàng khi thẩm định dự án tập trung chủ yếu vào khả năng, nguồn trả nợ và thời gian trả nợ của dự án nên các chỉ tiêu đánh giá toàn bộ dự án ít được sử dụng. Phương pháp thẩm định chưa được chuẩn hoá. Thứ ba, Thông tin số liệulàm căn cứ tính toán chưa được đầy đủ, chính xác, thường phân tán và kém hiệu quả. Hệ thống lưu trữ thông tin kết hợp thẩm định chưa được hoàn thiện. Trong quá trình thẩm định cán bộ thẩm định ít được tiếp súc với các kênh thông tin chuẩn, hệ số lưu trữ số liệu của SGD I chưa hiện đại. Hồ sơ dự án và kết quả thẩm định không được lưu trữ. Sự phối hợp trao đổi thông tin, tư vấn cảu SGD I đối với các đơn vị khác trong ngành hầu như không có. Thứ tư, Chưa có phần mềm thẩm định. Xu hướng ngày nay yêu cầu việc thẩm định được chuẩn hoá thông qua việc áp dụng hệ thống phần mềm trong phân tích chuyên ngành, trong quản lý và dự báo. SGD I trong tương lai cần ứng dụng hơn nữa khoa học vào công tác thẩm định. Thứ năm, Chưa quan tâm đến vòng đời của dự án và vòng đời sản phẩm 2.Nguyên nhân khách quan Thứ nhất,Nhiều báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh chưa được kiểm toán, thanh tra. Các báo cáo chủ đầu tư trình SGD I thông thường do chủ đầu tư tự thiết lập. Thứ hai, Hệ thống quy phạm pháp luật liên quan chưa cụ thể, thống nhất các mức quy định của Nhà nước về khấu hao, kiểm toán kế toán chưa hoàn thiện, một số lĩnh vức không có tiêu chuẩn đánh giá xem xét. Các chỉ tiêu thống kê không thống nhất… Thứ ba, Hệ thống Ngân hàng tại Việt Nam chưa thức sự hoàn thiện, thị trường chứng khoán hầu như chưa phát triển dẫn tới việc xác định mức lãi suất chiết khấu, tỷ giá không thống nhất gây bất lợi cho việc tính toán các chỉ tiêu tài chính. Thứ tư, Phân cấp quyết định, quản lý dự án của Nhà nước chưa rõ ràng, SGD I nhiều khi không xác định được chính xác thẩm quyền quyết định các dự án. Quản lý dự án đôi khi chồng chéo giữa các địa phương và các bộ ngành liên quan… II.Một số giải pháp đóng góp kiến nghị. Trên cơ sở phân tích lý luận và quan sát thực tế công tác thẩm định tín dụng tại SGD I – NHĐT& PT VN , nhận định được nguyên nhân và tồn đọng chủ yếu trong quá trình thẩm định, với tư cách là một nhà tư vấn đầu tư, Em xin đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hơn công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại SGD I. 1. Về phía Sở Giao Dịch. Hoàn thiện nội dung và quy trình thẩm định 1.1.1 Hoàn thiện nội dung và phương pháp thẩm định khả năng tài chính chủ đầu tư. Tập trung phân tích khái quáttình hình tài chính chủ đầu tư thông qua xem xét các chỉ tiêu tài chính cụ thể. Phân tích nguồn đảm bảo vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh dựa vàop các chỉ tiêu phản ánh doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất sinh lời vốn đầu tư của doanh nghiệp… Phân tích dòng vốn luân chuyển và dự trữ ( tổng hợp tài sản cố định, dự trữ tài sản lưu động …). Phân tích khả năng thanh toán, tụ chủ của doanh nghiệp. Phương pháp tiếp cận cần chú ý tập trung vào các chỉ tiêu chính, song không được bỏ qua các chỉ tiêu khác có liên quan. Các dự báo phải được rút ra từ việc phân tích, so sánh các thời kỳ khác nhau cũng như so sánh với các chỉ tiêu chung, tiêu chuẩn toàn ngành. Trong các chỉ tiêu đánh giá cần chú ý một số chỉ tiieu như khả năng sinh lời tài chính, hệ số tài trợ năng lực đi vay, khả năng sản xuất kinh doanh , khả năng thanh toán ngắn hạn. Chú ý tới tỷ suất sinh lời vốn đầu tưcủa doanh nghiệp phải đảm bảo cao hơn lãi vay Ngân hàng. Nguồn vốn hiện có của doanh nghiệp Năng lực đi vay = ắắắắắắắắắắắắắắắắắ Vốn thường xuyên Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng kêu gọi chi trả cao của doanh nghiệp, có khả năng tự chủ về tài chính cao thường có năng lực vay lớn, tỷ suất này cần được xem xét kỹ nhằm đánh giá tình hình vat trả của chủ đầu tư. Hoàn thiện nội dung và phương pháp thẩm định các chỉ tiêu phản ánh tài chính dự án. Hầu hết các dự án được thẩm định tại SGD I, về mặt tài chính chủ yếu được xem xét các chỉ tiêu sinh lời của dự án. Song thực chất các chỉ tiêu này được đề cập ở mức độ chưa sâu và còn nặng về hình thức. Về mức sinh lời thì chỉ có chỉ tiêu lợi nhuận ròng hàng năm được xem xét, tuy nhiên nó lại được tính toán trên dòng tiền thu chi theo đơn giá cố định ở trạng thái tĩnh. Khả năng hoàn trả vốn hầu như chỉ xem xét đến khả năng hoàn trả vốn vay mà ít quan tâm đến chỉ tiêu hoàn trả vốn đầu tư. Do vậycó thể nói hiệu quả hoạt động đầu tư bị xem nhẹ, công tác thẩm định dự án trở nên không khách quan. Độ an toàn của dự án rất hiếm khi được xem xét, nhìn chung Ngân hàng chỉ xem xét tới độ an toàn vốn vay thông qua đánh giá tài sản thế chấp, cầm cố hay uy tín của khách hàng. Trên Thế Giới, đặc biệt ở các nước đang phát triển hiện nay các chỉ tiêu chủ yếu dùng trong thẩm định dự án bao gồm: Chỉ tiêu thu hồi vốn đầu tư có tính đến biến đổi giá trị theo thời gian. Tỷ số lợi ích trên chi phí : B/C Giá trị hiện tại ròng ( thuần ) NPV Tỷ suất thu hồi vốn nội bộ Trong các chỉ tiêu trên thì chỉ tiêu sử dụng dòng tiền có triết khấu NPV và IRR đang được sử dụng rộng rãi nhất. Chúng ta có thể nhận thấy đây là các phương pháp phân tích định lượng và hiệu quả nhất vì nó đặt sự vận động của dự án vàom sự vận động theo thời gian của dòng tiền, trên cơ sở xem xét khả năng thực tế của dự án để tính toán thông qua các chỉ tiêu phân tích chi phí và thu nhập hàng năm. Về cơ bản, việc áp dụng các phương pháp mới vào trong phân tích tài chính dự án đều dựa trên mục tiêu xác định một cách đúng đắn dòng thu chi của dự án thông qua việc tính toán các chỉ tiêu có xem xét tới giá trị thời gian của tiền. Xem xét giá trị thời gian của sẽ giúp SGD có những kết luận chính xác hơn về dự án. Trong quá trình thẩm địnhcác cán bộtd của SGD I cần áp dụng một tỷ lệ triết khấu thích hợp, một dự án đầu tư có thể huy động vốn từ nhiều nguồn, nhiều thời điểm khác nhau với mức lãi suất khác nhau. Do đó, việc áp dụng một tỷ suất chiết khấu hợp lý sẽ đánh giá được tổng chi phí cơ hội của tất cả nguồn vốn. Việc xác định tỷ suất chiết khấu cần đảm bảo: bù đắp được rủi ro, phản ánh được chi phí sử dụng vốn, phản ánh được hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Một nội dung nữa cần được quan tâm trong đánh giá tài chính dự án tại SGD I là cần hoàn thiện nội dung tính toán vòng đời của dự án, vòng đời công nghệ, và các tiêu chí phản ánh cung cầu thị trường. Vòng đời dự án là tiêu chí quan trọng, nó cho biết thời gian dự án tồn tại từ khi hoàn thiện công tác đầu tư, vận hành kết quả đầu tư cho đến khi thanh lý dự án. Trong việc xác định nhu cầu thị trường về sản phẩm dự án cần tến hành xem xét trong trạng thái động tức là phân tích dựa trên các giả thiết biến động thị trường, cạnh tranh ( đặc biệt trong thời gian tới khi hàng rào thuế quan được dỡ bỏ ) Trong quá trình thẩm định SGD I cần trang bị tốt hơn nữa các hệ thống thông tin dùng cho phân tích biến động. Cụ thể là cần áp dụng công nghệ tin học vào phân tích độ nhậy của dự án. Sở dĩ phải áp dụng như vậy là vì thời gian dành cho thẩm định tại SGD I là rất ngắn, việc tổng hợp phân tích, đánh giá rủi ro là quan trọng và phải được tiến hành với phương pháp hiệu quả nhất, nhanh nhậy và chính xác nhất. Giải pháp cho vấn đề này là các phần mềm chuyên dụng, là mạng thông tin Liên Ngân hàng và đa ngành… 1.3 Thành lập mạng thông tin phối hợp trong và ngoài ngành. 1.3.1 Thiết lập hệ thống thông tin nội bộ, để năng cao chất lượng thẩm định tài chính SGD I cần có nguồn thông tin nội bộ phong phú, chính xác và thường xuyên. Nhuông thông tin này được tổng hợp, lưu trữ từ các thông tin do khách hàng cung cấp, từ xác minh của cán bộ Sở cũng như trao đổi với các đối tượng khác. Tuy nhiên, nguồn do SGD I tự xác định, chuẩn hoá, lưu trữ là chủ yếu. Có thể có nhiều phương pháp khai thác, phân tích và xử lý và lưu trữ thông tin khác nhau mà SGD I đã xử dụng song có thể lưu ý thêm một số phương pháp sau: Thứ nhất, yêu cầu chủ đầu tư tiíen hành kiểm toán các báo cáo tài chính một cách đầy đủ trước khi giao cho cán bộ thẩm định SGDI xem xét. Thứ hai, yêu cầu chủ đầu tư có phân tích cụ thể hơn nữa về các thông tin có trong báo cáo tài chính, để làm cơ sở kiểm tra đối chứng và lưu trữ. Các thông tin đó có thể là dự kiến về sản xuất kinh doanh, cung cấp sản phẩm… Thứ ba, thiết lập mạng thông tin liên lạc thường xuyên về tình hình vay nợ, thanh toán và kinh doanh của khách hàng đối với SGD I, tránh việc khách hàng thế chấp một tài sản để vay vốn ở nhiều Ngân hàng khác nhau. Nguồn thông tin sau khi thu thập cần được xử lý một cách chính xác trước khi lưu trữ. Hệ thống thông tin nội bộ SGD I cần được bảo mật, song cũng phải được cập nhật cho cán bộ Sở và trao đổi với các kênh thông tin dữ liệu khác, đó chính là cơ sở thiết lập hệ thống thông tin phối hợp liên ngành. 1.3.2 Chú trọng xây dựng mạng thông tin đa ngành an toàn, ổn định và chính xác. Ngoài các thông tin có từ nội bộ SGD I do chủ đầu tư cung cấp có thể thu thập thông tin từ các nguồn khác, có thể là từ các Ngân hàng khác, các cơ quan hữu quan, các chuyên gia chuyên ngành thông tin sách báo và các văn bản có liên quan. Phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ( TPR ), thu thập tư liệu đối chiếu với nguồn số liệu đã có… 1.4 Thành lập phòng thẩm định hoặc tổ chức thẩm định chuyên trách. Với quy mô và hoạt động như hiện nay, SGD I nên thành lập phòng thẩm định hoạt động như một phòng chức năng độc lập là cần thiết, đó sẽ là cơ sở giải quyết những khó khăn trong việc kết hợp thẩm định giữa hai phòng Tín dụng và Nguồn vốn như hiện nay. Khi được thành lập phòng thẩm định sẽ có điều kiện đi sâu thẩm định chi tiết dự án nói chung và thẩm định tài vhính dự án nói riêng. Thức tế SGD I trung bình một tháng có 3 – 5 dự án cần thẩm định nên việc bố trí cán bộ chuyên trách thẩm định sẽ giúp công tác thẩm định chính xác và hiệu quả hơn. Thông qua sơ đồ chức năng phòng thẩm định ta nhận thấy: Chức năng phòng thẩm định bao gồm toàn bộ việc thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án, thẩm định các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả tài chính. Phòng thẩm định kết hợp với phòng Tín dụng quản lý dự án sau khi đưa vào sử dụng, tiến hành thu thập thông tin, dự báo rủi ro của dự án, thành lập nguồn thông tin và suất đầu tư về từng ngành và lĩnh vức riêng. Sơ đồ chức năng phòng thẩm định Ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam Giám đốc sở giao dịch Phòng nguồn vốn Hội đồng tín dụng Phòng kế toán Phòng tín dụng Phòng thẩm định Phòng q/l khách hàng Phòng chức năng Chủ quản đầu tư Phòng kiểm soát Để đảm bảo duy trì có hiệ quả trong điều kiện nguồn nhâ lực, cơ cấu phòng thẩm định có thể bao gồm: 01 Trưởng phòng, có trách nhiệm quản lý chung hoạt động của phòng, nhận hồ sơ dự án cần thẩm định phân bổ cho các cán bộ thẩm định chuyên môn, tổng hợp ra quyết định và trình Lãnh đạo kết quả thẩm định. 01 Phó phòng, có kiến thức chuyên môn riêng về kỹ thuật- tài chính, trợ giúp Trưởng phòng giám sát hoạt độnh của các Nhân viên trong phòng. Các nhân viên có chức năng thẩm định . Việc tiến hành thành lập phòng thẩm định riêng giúp SGD I có đủ điều kiện thẩm định kỹ các chỉ tiêu tài chính ( sử dụng các chỉ tiêu phân tích có xem xét tới giá trị thời gian của tiền ). Từ đó đưa ra các quyết định chính xác hơn về hiệu quả tài chính dự án 1.5 Tiến hành đào tạo đội ngũ cán bộ thẩm định chuyên trách tài chính. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng thẩm định dự án cho đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định, đặc biệt là thẩm định tài chính dự án. Thẩm định dự án là công việc mang nặng tính chủ quan, quyết định của cán bộ thẩm định là cơ sở ra quyết định tín dụng của SGD I, cho nên đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ thẩm định là hết sức cần thiết, nó giúp cho cán bộ thẩm định vững vàng, tụ chủ sáng suốt trong quá trình ra quyết định. Ngoài việc đào tạo nghiệp vụ, kỹ năng, cần giáo dục đạo đức, tư tưởng cho cán bộ thẩm định. Dã có không ít trường hợp cán bộ thẩm định cố tình làm sai tiếp tay cho kẻ xấu lợ dụng moi tiền Ngân hàng. Các kết luận tài chính dự án có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động tín dụng của SGD I, trong khi kết quả đó phụ thuộc vào năng lực Nhà thẩm định. Hiện nay tại SGD I, các dự án thường thiếu nhân lực có trình độ tham gia thẩm định. Trong một số trường hợp khách hàng đề nghị SGD I tham gia tư vấn dự án, SGD I hoàn toàn không đáp ứng được. Như vậy thành lập phòng thẩm định riêng, đào tạo chuyên môn, giáo dục đạo đức cho cán bộ thẩm định tại SGD I là hết sức cần thiết nhằm đưa công tác thẩm định tài chính dự án tại SGD I ngày càng hoàn thiện hơn. 1.6 Thiết kế mẫu lập dự án đầu tư hoặc phương án vay trả nợ thống nhất cho tất cả các chủ đầu tư. Thời gian thẩm định đúng hạn là một yếu tố làm hài lòng khách hàng, nhưng việc thẩm định có đúng hẹn hay không lại phụ thuộc vàp hồ sơ chỉnh duyệt của chủ đầu tư có rõ ràng, đầy đủ và khoa học hay không ? Vì vậy, SGD I nên dựa vào các quy chế hướng dẫn của Nhà nước thiết kế cụ thể, chi tiết mẫu lập dự án đầu tư hoặc phương án vay trả nợ chung cho tất cả các chủ đầu tư. 1.7 Tham khảo thêm ý kiến tham gia của các ngành chuyên sâu, lĩnh vực có liên quan. Phương án vay, trả nợ là một bộ phận của dự án đầu tư. Việc vay vốn và trả nợ vốn vay phụ thuộc nhiều vào việc sử dụng vốn đó để làm gì. Nghĩa là phụ thuộc vào việc sử dụng vốn đó để sử dụng nua tài sản cố định, vật tư thiết bị, hàng hoá…gì ? và khả năng khai thác những tài sản cố định, vật tư, thiết bị hàng hoá đó để thu hồi vốn và lợi nhuận ra sao ? Nên việc thẩm định phương án vay và việc trả nợ không thể tách rời, việc thẩm định dự án trên phương diện kỹ thuật và tài chính. Do vậy để đảm bảo an toàn đồng vốn, SGD I nên dựa vào các quy chế hướng dẫn của Nhà nước, lấy ý kiến tham gia của các ngành chuyên sâu có liên quan để tham khảo, xem xét đánh giá mức độ hợp lý, đầy đủ tin cậy của các yếu tố đầu vào, đầu ra của dự án hoặc phương án vay vốn. 2.Về phía Nhà nước 2.1 Cải thiện môi trường pháp lý Mặc dù đã có nhiều tiến bộ, nhưng hệ thống pháp ký ở Việt Nam nhìn chung vẫn chưa được hoàn thiện. Vấn đề tạo hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động của các Ngân hàng và các doanh nghiệp trong và ngoài nước còn nhiều hạn chế. Hoàn thiện hệ thống pháp luật cho hệ thống Ngân hàng nói chung cà quy chế thẩm định dự án nói riêng là yêu cầu cấp bách, đúng đắn của Ngân hàng. Ngoài ra cần tiến hành hoàn thiện, bổ sung các điều lệ quy định về mức thuế, lãi suất, công nghệ,thuế… Cần tiến hành sửa đổi pháp lệnh hợp đồng kinh tế, điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng Ngân hàng và các ván đề phát sinh chưa giải quyết được do chưa có quy định cụ thể. Tiến hành hoàn thiện chính sách kế toán, kiểm toán đối với tất cả các đơn vị trong mọi thành phần kinh tế từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định. Kiến nghị Nhà nước banhành chỉ tiêu thống kê thống nhât, chĩnhác xà phù hợp. Thường xuyên tiến hành các hoạt động kinh doanh của các thnàh phần kinh tế, quy định rõ ràng lĩnh vực hoạt động trong đăng ký kinh doanh, tránh tình trạng mập mờ trong phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp. 2.2 Hoàn thiện hệ thống kế toán, kiển toán Hệ thống kế toán, kiểm toán tại Việt Nam mặc dù đã có nhiều cải tiến lớn trong thời gian gần đây nhưng vẫn còn lạc hậu. Trong thẩm định dự án đầu tư nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng yêu cầu tính chính xác và tổng hợp của các số liệu là đặc biệt quan trọng, là mấu chốt của những tính toán và chuẩn hoá các chỉ tiêu khác. Sở dĩ công tác thẩm định tài chính dự án tại SGD I có những hạn chế một phần bởi sự yếu kém này. Việc ban hành hệ thống kế toán mới, được áp dụng thống nhất trên toàn quốc tù ngày 01-07 –1995 cho mọi thành phần kinh tế là hợp lý, khắc phục được một số tồn tại của chế độ kế toán cũ về phân chia, tính toán các chỉ tiêu tài chính… Tuy nhiên việc áp dụng vẫn chưa được phổ biến, nhiều doanh nghiệp vẫn sử dụng chế độ kế toán cũ hoặc có cập nhật nhưng không đầy đủ, sử dụng đan xen lẫn lộn các tiêu chí. Nguyên nhân có thể do doanh nghiệp cố tình hoặc không có khả năng tham gia cập nhật nhưng cũng có thể do chủ quan các kế toán viên không có trình độ hoặc do đơn vị cố tình sử dụng nhằm đảm bảo lợi ích cá nhân. Thực hiện áp dụng chế độ kế toán kiểm toán mới bắt buộc đói với tất cả đơn vị kinh tế của mọi thành phần kinh tế giúp cán bộ thẩm định có cơ sở căn cứ xem xét phân tích. Bên cạnh đó, các cơ quan kiểm toán Nhà nước và các liên doanh, công ty liểm toán nước ngoài cần đẩy mạnh hoạt độnh tới các tỉnh địa phương trên toàn quốc tránh tình trạng chỉ hoạt động tại các thành phố lớn như hiện nay.Việc phát triển các công ty kiểm toán không những có lợi cho các Ngân hàng mà còn có lợi cho chủ đầu tư tham gia tín dụng vì các công ty này có thể tham gia tư vấn về nhiều vấn đề tài chính cho các doanh nghiệp như: chế dộ thuế, đóng góp Ngân sách, quản lý thu chi… Các thông tin về các donh nghiệp do công ty kiểm toán cung cấp được xem như bằng chứng cho kết quả hoạt động lành mạnh, hiệu quả của mình. Do vậy, bên cạnh thực hiện chế độ kế toán mới bắt buộc đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cần có những công ty kiểm toán đủ năng lực và tiêu chuẩn hoạt động. Khi đó, các ngân hàng sẽ không phải lo lắng về tính trung thực của các số liệu tài chính mà chủ đâu tư cung cấp, từ đó có những đánh giá đúng khả năng tài chính chủ đầu tưvà tài chính dự án nhằm đưa ra những quyết định đúng đắn, chính xác trong hoạt động tín dụng. 2.3 Bảo đảm an toàn vốn cho Ngân hàngkhi cho doanh nghiệp Nhà nước vay vốn. Để khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước đầu tư vay vốn tăng sức cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác. Nhà nước đã mạnh dạn cho phép các doanh nghiệp nhà nước vay vốn không cần thế chấp, không căn cứ vào tỷ lệ vốn có cũng như tình hình tài chính doanh nghiệp mà chỉ thông qua việc xem xét dự án đầu tư ( xin tài trợ vốn )… ưu điểm có thể thấy rõ, nhưng chính sách này đặt lên vai Ngân hàng rủi ro lớn, đặc biệt khi mà các doanh nghiệp Nhà nước đang làm ăn ngày càng không có hiệu quả. Hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam trước đây hầu hết dử dụng hình thức chi vay thế chấp, trong xu hướng hội nhập phát triển nền kinh tế, hình thức cho vay tín chấp ngày càng phổ biến. Tuy nhiên gắn với nó là rủi ro tương đối cao, yêu cầu các Ngân hàng phải có chính sách và nhận diện rủi ro trong quá trình cho vay, như thế cần hiểu rõ bản chất của cho vay tín chấp và những yêu cầu của công tác cho vay này. Về phía Nhà nước cần có một số biện pháp đảm bảo giải quyết khó khăn và giảm rủi ro cho các Ngân hàng thông qua việc: Thứ nhất, cần tập trung cho cấp phát vốn cho các doanh nghiẹp làm ăn có hiệu quả, giải thể, sát nhập các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Đối với các doanh nghiệp không giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế nên rà soát đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá nhằm tăng cường cơ sở vật chất, giảm bớt gánh nặng cho Ngân hàng. Thứ hai, đối với các doanh nghiệp Nhà nước có nhu cầu vay vốn Ngân hàng thì việc thẩm định và xét duyệt các dự án sản suất kinh doanh phải được coi trọng hàng đầu. Do vậy, các cơ quan tài chính, kế hoạch đầu tư phải là người chịu trách nhiệm trong việc xem xét tính khả thi của dự án cũng như khả năng trả nợ của chủ đầu tư. Thứ ba, Nhà nước cần quy địnhkhi doanh nghiệp Nhà nước vay vốn lâm vào tình trạng phá sản thì vón Ngân hàng được ưu tiên trả trước như là nợ có bảo đảm. Như vậy vốn của Ngân hàng được an toàn, giảm thiểu những rủi ro khi cho vay với các đối tượng theo kế hoạch Nhà nước. 2.4 Nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin ứng dụng Sự hình thành và phát triển của trung tâm phòng ngừa rủi ro TPR của Ngân hàng Nhà nước góp phần không nhỏ vào thành công của các Ngân hàng đặc biệt trong phòng ngừa rủi ro. Với trung tâm TPR bước đầu đã có những kết quả đáng khích lệ, nhưng để trở thành kênh cung cấp thông tin an toàn cho các Ngân hàng trong quá trình thẩm định tín dụng, trung tâm thông tin tín dụng CIC đã được thành lập trên cơ sở TPR có rất nhiều việc phải làm cả về quy chế lẫn tổ chức hoạt động. Để góp phần bảo đảm an toàn cho hoạt động của các Ngân hàng, hệ thống các trung tâm thông tin tín dụng và phòng chống rủi ro cần được bổ sung hoàn thiện về nguồn số liệu, tổ chức hoạt động với sự giúp đỡ của Nhà nước. Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện hơn công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại SGD I – NHĐT& PT VN. Kết luận Thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư có một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Vì vậy, nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư là một vấn để trọng yếu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng.Thẩm định giúp cho việc đầu tư được đúng hướng và đêm lại hiệu quả cao cho bản thân Ngân hàng và cho xã hội. Hiểu rõ được điều đó, tác giả đã đi sâu vào đánh giá đồng thời đưa ra được một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đàu tư tại SGD I – NHĐT&PT VN. Đề tài đã có một số đóng góp nhất định về mặt lý kuận cũng như thực tiễn: Một là, trình bày và làm rõ được sự quan trọng và vai trò to lớn của công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư trong hệ thống Ngân hàng. Hai là, đưa ra, phân tích và đánh giá được thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại SGD I – NHĐT&PT VN. Ba là, nêu ra được một số hạn ché đồng thời đưa ra được những giải pháp và kiến nghị cơ bản nhằm hoàn thiện công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư. Thẩm định tài chính dự ánđầu tư là một vấn đề rất rộng, phức tạp và có nhiều mối quan hệ đan xen lẫn nhau. Với thời gian và vốn kiến thức còn hạn chế bài viết chắc chắn còn có nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo của Thầy, Cô, cán bộ SGD I và bạn bè, Một lần nữa, Em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Ngô Thị Hoài Lam, cùng toàn thể cán bộ SGD I đã nhiệt tình giúp đỡ Em trong quá trình nghiên cứu hoàn thành chuyên đề này. Hà nội, ngày 10 tháng 4 năm 2002 Sinh viên Phạm Anh Trung Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình lập và quản lý dự án đầu tư - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 2. Giáo trình Thẩm định dự án đầu tư - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 3. Giáo trình phân tích dự án đầu tư - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 4. Báo cáo thường niên SGD I - NHĐT & PTVN 5. Báo cáo 10 năm hoạt động của SGD I - NHĐT & PTVN Mục lục Trang Mở đầu 1 Phần I - nội dung và vai trò của thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng của ngân hàng 3 I. Đầu tư và vai trò của dự án đầu tư 3 1. Đầu tư 3 2. Dự án đầu tư và phân loại dự án đầu tư 3 2.1. Khái niệm dự án đầu tư 3 2.2. Nội dung và phân loại dự án đầu tư 4 2.3. Chu trình của dự án đầu tư 5 II. Nội dung thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư trong ngân hàng 7 1. Khái niệm và sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư 7 2. ý nghĩa của công tác thẩm định 7 3. Mục tiêu của công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư 8 4. Sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án đầu tư 8 5. Nội dung và phương pháp thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư trong ngân hàng 10 5.1. Cơ sở của công tác thẩm định dự án đầu tư 10 5.2. Nội dung của công tác thẩm định hiệu quả tài chính đầu tư tại ngân hàng. 12 5.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình thẩm định 23 5.4. Yêu cầu đối với công tác thẩm định 24 Phần II - thực trạng công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư tại sở giao dịch I - ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 26 I. Vài nét về SGD I - BIDV 26 1. Quá trình hình thành và phát triển 26 1.1. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 26 1.2. Sở giao dịch 27 II. Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại SGD I 31 1. Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay SGD 31 1.1. Quy trình thẩm định tài chính dự án đầu tư 31 1.2. Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư tại SGD I - NHĐT & PTVN 33 III. Một số ví dụ cụ thể về công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại SGD I 38 A. Thẩm định tài chính dự án đầu tư thiết bị, công nghệ và đảo chuyển địa điểm sản xuất của Công ty dệt kim đông xuân 38 1. Khái quát về dự án 38 2. Thẩm định tài chính dự án đầu tư tại SGD I 39 B. Thẩm định tài chính dự án đầu tư nhà máy kính công suất nổi 300 tấn/ngày 45 1. Khái quát về dự án 45 2. Khái quát thẩm định tài chính dự án 47 3. Kết luận dự án 52 III. Đánh giá công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại SGD I - NHĐT & PTVN 52 1. Những thành tựu đạt được 52 2. Những hạn chế còn tồn đọng 54 Phần III - một số giải pháp đóng góp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư tại SGD I - NHĐT & PTVN 58 I. Một số nguyên nhân chủ yếu 58 1. Nguyên nhân chủ quan 58 2. Nguyên nhân khách quan 58 II. Một số giải pháp đóng góp kiến nghị 59 1. Về phía Sở giao dịch 59 2. Về phía Nhà nước 65 Kết luận 68 Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình lập và quản lý dự án đầu tư - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 2. Giáo trình Thẩm định dự án đầu tư - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 3. Giáo trình phân tích dự án đầu tư - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 4. Báo cáo thường niên SGD I - NHĐT & PTVN 5. Báo cáo 10 năm hoạt động của SGD I - NHĐT & PTVN 6. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34309.doc
Tài liệu liên quan