LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của xã hội và kinh tế, rủi ro xuất hiện ngày càng đa dạng và phức tạp. Rủi ro bất ngờ xuất hiện ở mọi lúc, mọi nơi đe doạ cuộc sống và hoạt động kinh doanh …vì vậy con người luôn quan tâm và tìm các ngăn ngừa, làm giảm thiểu rủi ro.
Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, mở ra cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp ngành dệt may nói riêng cơ hội lớn để hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển thương mại xuất khẩu. Môi trường kinh doanh được
52 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 8021 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong xuất khẩu dệt may ở Tổng Công ty May Việt Tiến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở rộng thì rủi ro cũng xuất hiện ngày càng nhiều, đa dạng và khó đối phó. Đặc biệt là môi trường kinh doanh quốc tế luôn có sự biến đổi liên tục, khó dự đoán trước vì vậy rủi ro trong kinh doanh quốc tế cũng thường xuyên hơn, khó kiểm soát hơn và là mối quan tâm của nhiều doanh nghiệp.
Thời gian qua, rất nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam gặp rủi ro trong hoạt động xuất khẩu, đây lại là hoạt động đem lại doanh thu và lợi nhuận chính cho doanh nghiệp. Nguyên nhân chính là doanh nghiệp gặp nhiều rào cản về pháp lý, giao dịch, tài chính…những rào cản này không chỉ là nguy cơ mà đã trở thành rủi ro, trở thành bài học đắt giá cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Các doanh nghiệp (DN) ngành dệt may Việt Nam vẫn sẽ phải đối diện nhiều khó khăn lớn, những khó khăn này do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế ở nhiều thị trường lớn, sức ép cạnh tranh do Việt Nam chính thức mở cửa thị trường bán lẻ cho các DN nước ngoài, do cơ chế giám sát dệt may của Hoa Kỳ, và tình trạng đình công của công nhân ở các khu công nghiệp tập trung và ở các thành phố lớn.
Tổng công ty cổ phần may Việt Tiến thuộc tập đoàn dệt may Việt Nam, là một trong những doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu sớm, luôn đi đầu trong lĩnh vưc xuất khẩu dệt may với thị trường và tập khách hàng quốc tế lớn. Hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn về doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên, rủi ro luôn đồng hành với hoạt động kinh doanh vì vậy doanh nghiệp đã gặp không ít rủi ro cũng như nguy cơ tiềm ẩn trong kinh doanh xuất khẩu.
Để hạn chế những rủi ro và thiệt hai, doanh nghiệp cần nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác quản trị rủi ro từ đó hoàn thiện công tác quản trị rủi ro và có biện pháp ngăn ngừa, hạn chế và kiểm soát rủi ro hiệu quả.
Vậy làm sao để doanh nghiệp có thể nhận diện các rủi ro ? Làm thế nào để doanh nghiệp quản trị rủi ro một cách hữu hiệu? trong môi trường kinh doanh quốc tế đầy thách thức, cam go và quyết liệt.
Nhận thấy đây là vấn đề cấp bách và cần thiết với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu dệt may. Đề án của nhóm chúng tôi dưới sự hướng dẫn của giảng viên, đã đi nghiên cứu và đề xuất giải pháp hoàn thiện quản trị rủi ro trong xuất khẩu dệt may ở Tổng công ty may Vỉệt Tiến.
Đề án này chúng tôi đã cố gắng tập trung nghiên cứu nhưng do vấn đề phức tạp, năng lực có hạn, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp, bổ sung để đề án được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO
TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ
1.1 Rủi Ro Trong Kinh Doanh Quốc Tế
1.1.1 Khái niệm
Rủi ro là một thuật ngữ có nhiều cách định nghĩa và hiện nay tồn tại nhiều khái niệm về rủi ro.Các khái niệm về rủi ro được đưa ra rất sớm, quan điểm về rủi ro dưới các góc độ tiếp cận khác nhau cũng rất đa dạng.
Theo Allan H. Willett “rủi ro là sự không chắc chắn về tổn thất”
Theo Frank H. Knight “rủi ro là sự không chắc chắn có thể đo lường được”
Theo John Haynes “rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất’
Trên cơ sở tìm hiểu và phân tích có thể đưa ra định nghĩa về rủi ro như sau :
“Rủi ro là một tình huống khách quan trong đó tồn tại khả năng xảy ra một sự sai lệch bất lợi so với kết quả được dự tính và mục tiêu ban đầu.”
Như vậy, rủi ro chịu ảnh hưởng của các nhân tố khách quan chứ không chịu tác động bởi nhận thức chủ quan của con người. Rủi ro thường xẩy ra bất ngờ và mang đến sự sai lệch bất lợi.
Rủi ro kinh doanh là dạng rủi ro xảy ra trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh, những rủi ro này luôn đi cùng với lợi nhuận, mọi quyết định trong hoạt động kinh doanh đều được đưa ra trong điều kiện có rủi ro vì lợi nhuận là mục tiêu, động lực thúc đẩy doanh nghiệp phát triển kinh doanh. Kinh doanh nói chung và kinh doanh quốc tế nói riêng chịu nhiều nhân tố tác động, ảnh hưởng làm gia tăng nguy cơ và rủi ro, môi trường kinh doanh càng mở rộng thì rủi ro tiềm ẩn và xuất hiện càng nhiều.
“Rủi ro trong kinh doanh là những sự kiện khách quan bên ngoài chủ thể kinh doanh gây khó khăn trở ngại cho chủ thể trong quá trình thực hiện mục tiêu kinh doanh, tàn phá các thành quả, buộc các chủ thể phải chi phí nhiều hơn về nhân lực, tài lực, vật lực, thời gian trong quá trình phát triển kinh doanh của mình”Rủi ro trong kinh doanh quốc tế, được hiểu là những rủi ro mà chủ thể kinh doanh gặp phải trong môi trường kinh doanh quốc tế, thường là các rủi ro khi chủ thể kinh doanh mua bán trao đổi hàng hoá, giao dịch thương mại giữa các quốc gia.
1.1.2 Các loại rủi ro trong kinh doanh quốc tế
Hoạt động kinh doanh quốc tế diễn ra trên các thị trường bên ngoài quốc gia vì vậy DNthường gặp nhiều khó khăn, thách thức, rủi ro bất lợi. Bởi vì môi trường kinh doanh quốc tế rất đa dạng và phức tạp, hoạt động kinh doanh quốc tế đồng nghĩa với DN phải chịu nhiều điều chỉnh của nhiều nguồn luật, chịu ảnh hưởng và tác động của nhiều biến cố bất ngờ trong kinh doanh, nhiều rủi ro khó kiểm soát…Các rủi ro DN thường gặp phải trong kinh doanh quốc tế bao gồm :
1) Nhóm rủi ro kinh tế - tài chính
2) Nhóm rủi ro pháp lý
3) Nhóm rủi ro mang tính ngành
4) Nhóm rủi ro từ nội bộ doanh nghiệp
5) Nhóm rủi ro từ môi trường kinh doanh
Nhóm rủi ro kinh tế - tài chính :
Rủi ro kinh tế - tài chính là nhóm rủi ro thường xuyên xảy ra, có mức độ tác động và ảnh hưởng lớn tới tình hình hoạt động kinh doanh của DN. Các rủi ro này nảy sinh do những thay đổi từ môi trường phát triển kinh tế và của chính môi trường trong và ngoài nước như : Khủng hoảng kinh tế, suy thoái kinh tế, sự biến động về tỷ giá hối đoái, lãi suất, giá. Trong các rủi ro về kinh tế thì phải nói đến : rủi ro về tỷ giá hối đoái, rủi ro về lãi suất, rủi ro về giá cả hàng hoá.
Rủi ro về tỷ giá hối đoái :
Trong kinh doanh quốc tế, hoạt động thanh toán phụ thuộc và chịu tác động lớn vào đồng tiền thanh toán cũng như tỷ giá hối đoái của các loại tiền.Sự di chuyển tiền hàng, doanh thu, lợi nhuận… liên quan đến việc chuyển đổi giữa các loại tiền. giá trị các dòng tiền di chuyển đó sẽ phải chịu nhiều rủi ro từ những biến động bất thường về tỷ giá hối đoái. Do giá trị tiền của các nước trên thế giới không cố định, đặc biệt trong điều kiện nhiều nước trên thế giới phổ biến thực hiện chính sách thả nổi tỷ giá, giá trị các loại tiền thường dùng để tính giá như: USD, EUR, JPY…càng không ổn định.
Thời gian giao hàng và thanh toán trong thưong mại quốc tế thường khá dài, trong thời gian này giá trị các loại tiền tính giá sẽ thay đổi, có thể lên xuống ở mức độ lớn như vậy trực tiếp ảnh hưởng tới lợi ích kinh doanh của DN.
DNVN khi xuất khẩu thường giao dịch thanh toán bằng: USD, EUR … tuy nhiên VNĐ thường chịu biến động theo các loại tiền mạnh nên các doanh nghiệp Việt Nam đã từng gặp rất nhiều rủi ro, tổn thất lớn do biến động bất ngờ của tỷ giá.
Rủi ro về lãi suất :
Hoạt động kinh doanh quốc tế thường đòi hỏi DN có nguồn vốn lớn, tiềm lực tài chính mạnh để có thể trang trải cho các thương vụ xuất khẩu. Các DNVN nói chung và DN ngành dệt may nói riêng cũng đều phải dùng nguồn tài trợ vốn vay để phục vụ kinh doanh xuất khẩu. Sử dụng nguồn tài trợ bên ngoài là giải pháp và chiến lược trong công tác quản trị tài chính sao cho sử dụng vốn hữu hiệu, tuy nhiên những thay đổi ngoài tầm kiểm soát về lãi suất sẽ khiến DN gặp khó khăn do tăng chi phí sử dụng vốn.
c) Rủi ro về giá cả hàng hoá:
Biến động giá cả hàng hoá cũng đem lại các rủi ro mà các DNXK cần quan tâm bởi vì : trong kinh doanh quốc tế nói chung và xuất khẩu nói riêng, giá cả biến động trực tiếp ảnh hưởng tới doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp. Đặc biệt với măt hàng dệt may, giá cả biến động lên xuống thất thường do ảnh hưởng của quan hệ cung cầu, có khi có biến động lớn, vì vậy ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh củaDN, đòi hỏi DN cần có dự báo trước để ngăn ngừa và đối phó với rủi ro.
Nếu giá xuất khẩu khi ký hợp đồng thấp hơn so với biến động thì DN mất đi một phần lợi nhuận, nếu nguyên vật liệu cũng tăng thì sẽ gặp nhiều rủi ro.Nếu DN giữ hàng để đợi giá tăng nhưng giá lại biến động giảm thì sẽ chịu thiệt hại lớn vì không lường trước rủi ro.
Nhóm rủi ro pháp lý :
Rủi ro pháp lý liên quan đến những thay đổi, những điều chỉnh về quy định pháp luật như : nhãn hiệu hàng hoá, thương hiệu, chất lượng hàng hoá, môi trường…
a) Rủi ro tranh chấp, kiện tụng :
Hoạt động kinh doanh quốc tế rất phức tạp và không tránh khỏi những vụ tranh chấp, kiện tụng. Thương mại quốc tế và đặc biệt là hoạt động xuất khẩu chịu tác động và điều chỉnh của nhiều luật khác nhau, sự thiếu chặt chẽ trong nội dung hợp đồng và cách thức xử lý tranh chấp là nguyên nhân của những vụ kiện kéo dài gây thiệt hại lớn, bên xuất khẩu thường thiệt hại hơn.
Rủi ro tranh chấp, kiện tụng gây khó khăn lớn cho DNXK Việt Nam do phải theo kiện ở nước ngoài, tốn rất nhiều chi phí tài chính, thời gian, nhân lực…Sự thiếu liên kết của hiệp hội, ngành nghề và thiếu am hiểu luật pháp nước sở tại, chậm trễ trong tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin, khả năng cạnh tranh về luật pháp dẫn đến các DNXK Việt Nam thua kiện.
Vụ kiện bán phá giá cá Basa ở thị trường Mỹ năm 2002, vụ kiện bán phá giá mặt hàng giày dép tại EU năm 2004 và các vụ kiện do vi phạm luật sở hữu trí truệ đã trở thành bài học cho các DNXK. Số lượng các cuộc điều tra bán phá giá đối với hàng xuất khẩu Việt Nam trong đó có hàng dệt may cũng tăng mạnh trong những năm gần đây. Khó khăn lớn của DN dệt may, chính là cơ chế giám sát hàng dệt may của Hoa Kỳ (chiếm 55% lượng hàng dệt may xuất khẩu hàng năm của Việt Nam), và nguy cơ tự khởi kiện điều tra chống bán phá giá với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam. Vừa qua, nhiều nhà nhập khẩu lớn của Hoa Kỳ như Macy, Hagel rút toàn bộ đơn hàng tại Việt Nam để chuyển qua nước khác.
b) Rủi ro về pháp luật và chính sách :
Đây là những rủi ro do phát sinh sự thay đổi về luật pháp, chính sách kinh tế như : chính sách thuế, hạn ngạch, giấy phép xuất nhập khẩu…chính sách về sở hữu, chính sách về môi trường…
Sự thay đổi về chính sách thuế xuất nhập khẩu có tác động và ảnh hưởng lớn tới doanh thu và lợi nhuận của DNXK. Khi ra nhập tổ chức thương mại thế giới, các DNXK Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận thị trường, nhưng cũng đứng trước những rủi ro về thay đổi thuế xuất nhập khẩu, hạn ngạch xuất khẩu sang các quốc gia thuộc WTO.
Nhóm rủi ro mang tính ngành :
Đây là những rủi ro liên quan đến ngành nghề kinh doanh của DN, các rủi ro này bắt nguồn từ đối thủ cạnh tranh, đối tác làm ăn và mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các đối tác, đối thủ này. Nhóm rủi ro ngành bao gồm : rủi ro cạnh tranh, rủi ro đạo đức kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, rủi ro trong vận chuyển hàng hoá, thanh toán…
Rủi ro cạnh tranh :
Đây là rủi ro xuất hiện trong những tình huống DN thiếu thông tin về thay đổi thị trường quốc tế, thông tin về đối thủ cạnh tranh, về sản phẩm công nghệ…
Các rủi ro này thường dẫn đến DN mất khách hàng, doanh thu, lợi nhuận giảm và bị đối thủ cạnh tranh dành thị phần. Rủi rủi cạnh tranh còn liên quan đến vấn đề thương hiệu, nhãn hiệu hàng hoá và tình trạng hàng giả, hàng nhái. Những rủi ro trên đều có ảnh hưởng lớn tới uy tín của DN, nếu xảy ra thì DN sẽ bị giảm khả năng cạnh tranh và mất thị phần vào tay đối thủ cạnh tranh.
Rủi ro liên quan đến đạo đức kinh doanh của đối thủ cạnh tranh:
Đây là các rủi ro xuất phát từ hành vi lừa đảo của các đối tác trong kinh doanh quốc tế mà DN tham gia thị trường. Hành vi lừa đảo thường dựa trên sự thiếu thông tin của DN, dựa vào các điều khoản chưa chặt chẽ trong hợp đồng, hay thậm chí là cố tình không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Trong giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng có thể xảy ra rủi ro : đối tác mạo danh ký kết, đối tác tạo dựng uy tín giả, đưa ra các điều kiện bất lợi cho DN, lợi dụng các kẽ hở trong điều khoản hợp đồng để lừa đảo…
Trong thanh toán quốc tế : hành vi lừa đảo chủ yếu là giả mạo chứng từ, cố tình không thanh toán tiền hàng. dùng phương pháp thanh toán quốc tế có độ đảm bảo thấp để gây rủi ro cho DN XK như: phương thức trả tiền mặt, phương thức thanh toán qua mạng, phương thức chuyển tiền không qua tài khoản ngân hàng hoặc L/C…
Rủi ro trong vận chuyển và giao hàng :
Vận chuyển đóng vai trò quan trọng trong xuất khẩu hàng hoá và điều kiện cơ sở giao hàng là điều kiện không thể thiếu trong hợp đồng xuất khẩu.
Vận chuyển quốc tế phức tạp và gặp nhiều rủi ro hơn so với vận chuyển nội địa vì vận chuyển dài, nhiều bên tham gia, khối lượng hàng hoá lớn. Hình thức vận chuyển chiểm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam là vận chuyển đường biển, chiếm hơn 90% trong vận chuyển xuất nhập khẩu. Các rủi ro liên quan đến vận chuyển hàng hoá bao gồm :
Rủi ro trong thuê phương tiện vận chuyển : không thuê được phương tiện, khan hiếm phương tiện nên chí phí vận chuyển cao, phương tiện vận chuyển không đủ tiêu chuẩn…dẫn tới hàng bị “kẹt cảng”, hàng đến chậm.
Rủi ro thanh toán :
Các rủi ro trong thanh toán quốc tế bao gồm : rủi ro không thu được nợ, thu không đủ nợ, nợ quá hạn…Những rủi ro này thường nảy sinh từ thiện chí và khả năng tài chính phía người nhập khẩu, điều khoản thanh toán : địa điểm thanh toán, thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán…
Trong thực tế, kể cả những phương pháp thanh toán tín dụng chứng từ (L/C) vẫn có thể gây ra rủi ro choDNXK. Khi DNXK đã chuyển hàng đi, nếu bên nhập khẩu vì bất cứ lý do gì mà từ chối nhận chứng từ, không nhận hàng thì DN sẽ gặp rủi ro. Theo thống kê của Phòng thương mại quốc tế, những sai xót về nội dung bộ chứng từ chiếm khoảng 72,73% trường hợp rủi ro trong phương thức thanh toán qua L/C. Ngày nay, thương mại điện tử phát triển và phương thức thanh toán điện tử (thanh toán chuyển tiền qua mạng) được ưa chuộng vì tính nhanh gọn và tiện lợi, tuy nhiên đây lại là phương thức tiềm ẩn nhiều nguy cơ và rủi ro.DN không kiểm soát được hoạt động thanh toán, hệ thống thiết bị công nghệ chưa hoàn thiện, độ đảm bảo thấp…là những nguyên nhân chính dẫn tới các hành vi lừa đảo trong thanh toán điện tử.
Nhóm rủi ro từ nội bộ doanh nghiệp :
Nhóm rủi ro từ nội bộ DN là những rủi ro xuất phát từ những yếu tố bên trong DN. Tuỳ vào từngDN, nguồn lực và khả năng quản trị rủi ro mà các rủi ro này xuất hiện với mức độ khác nhau. Các rủi ro này thường liên quan đến hoạt động, nguồn lực vật chất, nhân lực, thông tin và hoạt động quản trị tại DN. Trong xuất khẩu, các DN Việt Nam gặp nhiều rủi ro và đa phần là các rủi ro xuất phát từ nội bộ, có thể kể đến các rủi ro mà các DNXK Việt Nam hay gặp : rủi ro thông tin, rủi ro do thiếu năng lực cạnh tranh, rủi ro về nhân sự, rủi ro quản trị…
Rủi ro thông tin :
Rủi ro thông tin là rủi ro gặp phải do thiếu thông tin, thông tin sai lệch không chính xác, xử lý thông tin muộn… không đáp ứng việc cung cấp thông tin phục vụ cho kinh doanh.
Thông tin với DNXK là nhân tố quan trọng mang tính sống còn, quyết định sự thành công hay thất bại. Đặc biệt trong kinh doanh quốc tế, tính cạnh trang cao, thông tin quyết định thời cơ kinh doanh của các DNXK, nếu gặp rủi ro về thông tin thì đồng nghĩa với việc DN mất cơ hội kinh doanh.
Trên thực tế, rất nhiều doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam do thiếu thông tin nên bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, để mất khách hàng vào tay đối thủ cạnh tranh. Việc tiếp cận thông tin không chính xác, thông tin sai lệch cũng là rủi ro lớn với doanh nghiệp, vì thế mà doanh nghiệp có thể bị lừa đảo, ép giá, ép phẩm cấp hàng hoá…trong nhiều trường hợp còn không xuất khẩu được hàng.Đối với các DNXK mà quy trình thu thập và xử lý kém hiệu quả thì rủi ro thông tin thường hay xuất hiện và gây ra những tổn thất nặng nề.
Rủi ro do thiếu năng lực cạnh tranh :
Đây là rủi ro do DN thiếu năng lực hoạt động như vốn ít, công nghệ - kỹ thuật lac hậu,nguồn nhân lực mỏng, chất lượng nguồn nhân lực thấp…không đáp ứng yêu cầu của hoạt động kinh doanh quốc tế.
Rủi ro do thiếu năng lực cạnh tranh là tất yếu mà hầu hết các DN Việt Nam đều có thể gặp phải khi tham gia thị trường quốc tế. Trên thực tế, rất nhiều DN bị đối tác nước ngoài từ trối ký hợp đồng do không đủ năng lực để đáp ứng yêu cầu của hợp đồng. Thậm trí nhiều khi ký được hợp đồng, nhưng do thiếu vốn, lực lượng lao động mỏng nên DN không đủ năng lực sản xuất hoặc thu gom hàng dẫn đến không thực hiện được hợp đồng. Khi gặp rủi ro do năng lực cạnh tranh yếu, các DNXK Việt Nam không chỉ mất cơ hội kinh doanh, bỏ lỡ nhiều hợp đồng thương mại có giá trị lớn và lợi nhuận cao mà còn có thể bị đối tác phạt hợp đồng. Các DN dệt may xuất khẩu cũng sẽ gặp khó khăn lớn, nếu không cải thiện tính cạnh tranh. Nhiều DN hiện nay có qui mô vừa và nhỏ, chủ yếu làm gia công, thiết kế mẫu mã kém, không chú ý làm thương hiệu…, nên hiệu quả kinh doanh thấp.
Rủi ro nhân sự :
Nhân lực cũng là một trong các nguồn lực cạnh tranh mà DN Việt Nam còn yếu, chưa chú trọng vào phát triển và đãi ngộ nguồn nhân lực, các DN còn có thể gặp rủi ro mất cơ hội phát triển, từ đó hạn chế hoạt động xuất khẩu. Rủi ro về nhân sự còn thể hiện qua sự khủng hoảng về nhân sự, thiếu lao động, lao động đình công không làm việc…gây ra tổn thất lớn, hoạt động sản xuất kinh doanh bị gián đoạn. Theo đại diện hiệp hội Dệt may, do khó khăn về đời sống và một số nguyên nhân khác, các cuộc đình công trong ngành dệt may liên tục xảy ra, gây đảo lộn kế hoạch giao hàng của nhiều DN. “Nếu tình hình này không được cải thiện sớm, ngành dệt may khó giữ tăng trưởng về sản xuất và xuất khẩu trong những năm tới”
Rủi ro quản trị :
Rủi ro quản trị là các rủi ro có nguyên nhân từ sự yếu kém, những sai xót của công tác quản trị trong DN.Trình độ quản trị DN đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định, tổ chức thực hiện và kiểm soát hoạt động của DN, góp phần quyết định sự thành bại của DN.
Tuy nhiên do năng lực quản lý kém, trình độ quản trị DN bị hạn chế mà nhiều quản lý các bộ phận trong không nắm rõ chức năng, nhiệm vụ của mình nên không đáp ứng yêu cầu công việc. Trình độ quản trị DN kém còn có thể dẫn đến tình trạng : làm mất quan hệ với khách hàng, làm giảm tiến độ công việc, hoạt động thiếu đồng bộ làm giảm khả năng kết hợp giữa các bộ phận…
Trên thực tế, nhiều trường hợp lãnh đạo thiếu năng lực quản lý nên gây ra sự thiếu tổ chức trongDN, không đoàn kết trong doanh nghiệp ảnh hưởng tới quá trình ra quyết định quản trị. Các cán bộ lãnh đạo thiếu năng lực đàm phán, ký kết hợp đồng nên dễ bị đối tác lấn át, chèn ép…đưa DN vào thế bất lợi có thể gây ra thiệt hại vật chất hoặc tổn thất lớn cho DN.
5. Nhóm rủi ro từ môi trường :
Rủi ro từ môi trường thường ít xảy ra tuy nhiên mức độ ảnh hưởng lại lớn, tác động tới hoạt động kinh doanh quốc tế. Nhóm rủi ro này bao gồm : rủi ro từ môi trường tự nhiên, rủi ro văn hoá…
Rủi ro từ môi trường tự nhiên như : thiên tai, bão, động đất, lũ lụt, hạn hán…đây là các rủi ro đến bất ngờ, ngay cá khi có dự báo trước tthì vẫn khó kiểm soát. Khi các rủi ro này xảy ra gây tổn hại vật chất trực tiếp cho doanh nghiệp và gián tiếp làm doanh thu và lợi nhuận giảm do ảnh hưởng tới đời sống của người tiêu dùng.
Rủi ro văn hoá thường nảy sinh do doanh nghiệp thiếu am thiểu về phong tục, tập quán, lối sống của khách hàng nước nhập khẩu dẫn tới những hiểu lầm. Rủi ro văn hoá còn có thể gây ra phản cảm, khách hàng “tẩy chay” hàng hoá, hàng hoá không được thi trường quốc tế đón nhận…Tuy là nhóm rủi ro ít xảy ra nhưng DNXK cũng cần quan tâm và tìm hiểu khách hàng và thị trường khi mới tham gia.
1.2 Những nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong kinh doanh quốc tế
1.2.1 Nhóm nguyên nhân từ bên ngoài doanh nghiệp
Nhóm nguyên nhân bên ngoài DN là những nguyên nhân mang tính khách quan, xuất phát từ môi trường tự nhiên, kinh tế - chính trị, văn hoá mà DN hoạt động. Nhóm nguyên nhân này bao gồm :
Các Nguyên nhân có nguồn gốc từ môi trường tự nhiên :
Rủi ro từ môi trường tự nhiên do các thảm hoạ tự nhiên gây ra như : động đất, sóng thần, bão lụt, thời tiết khắc nghiệt…Các rủi ro này đến bất ngờ và khó kiểm soát, nó không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, việc xuất hàng ra nước ngoài mà còn tàn phá các thành quả, các tài sản của con người. Nếu xảy ra tại nước nhập khẩu, rủi ro này làm thiệt hại về tài sản, tình hình kinh tế…làm sức mua giảm và nhu cầu nhập khẩu và thanh toán giảm theo.
Các nguyên nhân có nguồn gốc từ môi trường chính trị :
Môi trường chính trị trên thế giới luôn có những thay đổi, sự bất ổn về chính trị, xung đột về chính trị… là các nguyên nhân dẫn đến thay đổi về môi trường kinh doanh, kế hoạch sản xuất – kinh doanh của DNXK và tình hình nhập khẩu. Thời gian qua tình hình chính trị bất ổn của các quốc gia như : Thái Lan, LiBăng, Pakistan…cũng đã có những ảnh hưởng tới các DN Việt Nam có thị trường xuất khẩu tại đây.
Tại Việt Nam, môi trường chính trị ổn định nên tạo rất nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp, tuy nhiên DN cũng cần nhận diện nguy cơ và rủi ro đến từ sự thay đổi chính trị của các quốc gia nhập khẩu sản phẩm của mình.
Các nguyên nhân từ sự thiếu hiểu biết về môi trường văn hoá – xã hội :
Khi tham gia kinh doanh quốc tế, việc tìm hiểu về môi trường văn hoá – xã hội của quốc gia nhập khẩu là rất quan trọng vì từ đó DNXK có thêm nhiều thông tin về khách hàng của mình. Đặc điểm của môi trường văn hoá – xã hội của mỗi quốc gia có tác động và chi phối mạnh mẽ đến tâm lý, hành vi, ứng xử, sở thích, thị hiếu, thói quen mua sắm… của người dân.
Rủi ro từ môi trường văn hoá – xã hội xảy ra do DNXK thiếu hiểu biết về phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lối sống, nghệ thuật, đạo đức, cấu trúc xã hội… Nếu thiếu hiểu biết về văn hoá – xã hội của nước bạn, DNXK có thể đánh mất cơ hội kinh doanh, có những ứng xử vô tình vi phạm các chuẩn mực xã hội, đặc biệt với các quốc gia có tình hình tôn giáo “nhạy cảm”.
Các nguyên nhân khác :
Bao gồm các rủi ro có nguyên nhân từ sự thay đổi chính sách kinh tế, môi trường pháp lý hay sự thay đổi về công nghệ - kỹ thuật. Cũng phải kể đến các rủi ro có nguyên nhân từ sự cạnh tranh thiếu lành mạnh, không trung thực của DN đối thủ (làm hàng giả, hàng nhái…)
1.2.2 Nhóm nguyên nhân từ nội bộ doanh nghiệp :
Đây là các nguyên nhân mang tính chủ quan, có nguồn gốc từ bên trongDN, các rủi ro thường xuất hiện do sự sai lầm hoặc hành vi trực tiếp – gián tiếp của cá nhân và DN trong quá trình hoạt động kinh doanh. Trong kinh doanh quốc tế, chỉ cần một quyết định sai lầm củaDN, sự tiếp nhận và xử lý thông tin chậm…đều là nguyên nhân gây ra rủi ro lớn vì vậy nhóm nguyên nhân từ nội bộ DN rất phức tạp và đa dạng. Chúng ta có thể khái quát một số nguyên nhân chính của các DNXK Việt Nam :
Sự yếu kém về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp :
Như đã trình bày ở trên, rủi ro do thiếu năng lực cạnh tranh là rủi ro mà các DNXK dệt may của Việt Nam hay gặp phải. Năng lực cạnh tranh của DN thể hiện cả về vốn, công nghệ - kỹ thuật, chất lượng nguồn nhân lực, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiện nay, do năng lực cạnh tranh yếu, vốn ít nên các DN vừa và nhỏ chủ yếu làm gia công, chưa chú trọng đến thiết kế mẫu mã và làm thương hiệu. Vì vậy nguyên nhân từ sự yếu kém về năng lực cạnh tranh là một trong những nguyên nhân phức tạp và khó khắc phục, đòi hỏi phải có thời gian và sự quan tâm của DN.
Sự yếu kém về năng lực cạnh tranh dẫn đến các rủi ro lớn như : hàng kém chất lượng, DN mất uy tín, giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường, không có khả năng ký kết các hợp đồng lớn và lợi nhuận cao…Nếu không có biện pháp khắc phục, điều chỉnh phù hợp thì đây lai là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ, thất bại trong kinh doanh của DN.
Sự thiếu thông tin trong kinh doanh :
Thông tin có vai trò quan trọng trong việc quản trị kinh doanh và quá trình ra quyết định. Nhà quản trị doanh nghiệp chỉ có thể ra quyết định đúng đắn, hợp lý, đem lại hiệu quả cho DN trên cơ sở nguồn thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời về tình hình thị trường, đối tác, khách hàng…
Sự thiếu thông tin hoặc thông tin sai lệch không chính xác, thông tin chậm đều ảnh hưởng đến việc ra quyết định. Nguyên nhân từ thiếu thông tin có thể dẫn đến các quyết định sai lầm, bị mất cơ hội kinh doanh, bị đối tác lừa và thất bại trong kinh doanh.
Sự yếu kém về trình độ quản trị doanh nghiệp:
Nguyên nhân yếu kém về trình độ quản trị DN thể hiện ở: trình độ, năng lực của nhà quản trị chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ, sự phối hợp giữa các bộ phận thiếu ăn khớp, nhịp nhàng, chính sách tuyển dụng-đào tạo-đãi ngộ-xa thải nhân sự chưa phù hợp. Ngoài ra còn do sự thiếu hiểu biết trong kinh doanh, hạn chế về khả năng giao tiếp-đàm phán của nhà quản trị nên chưa tạo được quan hệ tôt với khách, đối tác.
Sự yếu kém nói trên sẽ dẫn đến các hậu quả như: quan hệ với khách hàng, đối tác bị xấu đi, hiệu quả của công tác quản trị tác nghiệp thấp, hàng hoá bị trả lại, thậm trí có thể xảy ra bất ổn trong DN như xảy ra đình công, bãi công, bỏ việc…đây là những nhân tố gây ra rủi ro, tổn thất nặng nề cho doanh nghiệp.
Trong năm qua, các DN dệt may phải đối mặt với hàng loạt các cuộc đình công, bãi công của công nhân gây ra tổn thất lớn cho DN do phải kéo dài thời gian giao hàng.
Những nguyên nhân khác:
-Sự sai lầm của lãnh đạo DN trong việc xây dựng và lựa chọn chiến lược kinh doanh phù hợp: Việc lựa chọn chiến lược kinh doanh phù hợp sẽ thúc đẩy và đảm bảo sự phát triển thuận lợi của DN, ngược lại nếu lựa chọn một chiến lược kinh doanh sai lầm sẽ dẫn DN đi vào bế tắc, thiệt hại và thua lỗ trong kinh doanh. Đây là nguy cơ lớn nhất dẫn đến sự đổ vỡ, phá sản DN.
-Sự sơ xuất, bất cẩn, thiếu tinh thần trách nhiệm trong công việc của một số cá nhân, bộ phận trong DN cũng là nhân tố gây ra nguy cơ, rủi ro cho DN.
Như vậy, các nguyên nhân gây ra rủi ro, tổn thất trong kinh doanh rất đa dạng, phức tạp và chúng xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau. Cả nguyên nhân mang tính chủ quan và khách quan đều là nguồn gây ra rủi ro, tổn thất, hiểm hoạ cho DN, cần được kiểm soát và loại bỏ. Đặc thù của hoạt động xuất khẩu dệt may là chịu ảnh hưởng, tác động mạnh từ môi trường bên ngoài, mà các nguyên nhân khách quan thường khó hạn chế, kiểm soát và loại bỏ.
1.3 Quản trị rủi ro trong kinh doanh quốc tế
1.3.1 Khái niệm
Quản trị rủi ro(QTRR) là một khái niệm rộng và hoạt động quản trị rủi ro có các chức năng gần như quản trị nói chung. Trong kinh doanh mọi quyết định quản trị được đưa ra trong điều kiện có rủi ro vì vậy mỗi quyết định quản trị đều phải tính đến quản trị rủi ro. Qua tìm hiểu, chúng ta có thể đưa ra một số khái niệm về quản trị rủi ro dưới đây:
-Quản trị rủi ro là quá trình xử lý các rủi ro thuần tuý một cách có hệ thống, khoa học, toàn diện thông qua các hoạt động nhận diện và đánh giá rủi ro, xây dựng và thực thi các kế hoạch phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro xảy ra, thực hiện việc kiểm soát, giảm thiểu các tổn thất gây ra cho DN một khi xảy ra rủi ro cũng như dự phòng về tài chính để bù đắp cho các tổn thất đó.
-Quản trị rủi ro là quá trình bao gồm các hoạt động nhằm hạn chế, loại bỏ các rủi ro hoặc khắc phục các hậu quả mà rủi ro gây ra đối với hoạt động kinh doanh từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng tối ưu các nguồn lực, giảm đến mức thấp nhất những thiệt hại về người về của …của DN.
Thực chất của Quản trị rủi ro là quá trình nhận dạng, đánh giá và đối phó với các nguyên nhân, hậu quả của rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của DN.
Quản trị rủi ro liên quan đến tất cả các rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh, liên quan đến mọi hoạt động quản trị như: quản trị dự án, quản trị tài chính, quản trị mua-bán-dự trữ…Quản trị rủi ro không chỉ giới hạn ở công cụ, kỹ thuật của hoạt động mua bảo hiểm phòng ngừa rủi ro, làm giảm hậu quả như trước đây mà còn bao gồm các biện pháp kỹ thuật nhằm ngăn chặn, giảm thiểu và thậm chí là chuẩn bị cho DN gánh chịu những tổn thất của rủi ro không thể tránh khỏi.
1.3.2 Nội dung của quản trị rủi ro
Hoạt động quản trị rủi ro của mỗi DN là khác nhau tuỳ vào lĩnh vực kinh doanh, môi trường kinh doanh và đặc biệt là tiềm lực tài chính cũng như khả năng phân bổ các nguồn lực của DN trong việc QTRR. Mô hình QTRR tại mỗi DN có thể khác nhau nhưng đều bao gồm các nội dung:
Nhận dạng-phân tích-đo lường rủi ro
- Nhận dạng rủi ro là quá trình xác định một cách liên tục và có hệ thống các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh.
Hoạt động nhận dạng rủi ro nhằm thu thập các thông tin về đối tượng có thể gặp rủi ro (con người, tài sản, trách nhiệm pháp lý…) và các nguồn phát sinh rủi ro, các yếu tố hiểm hoạ, các loại tổn thất có thể gây ra cho DN.
- Phân tích rủi ro là quá trình nghiên cứu những hiểm hoạ và xác định những nguyên nhân gây ra rủi ro và phân tích những tổn thất.
- Đo lường rủi ro là quá trình phân tích và đo lường tần xuất xuất hiện rủi ro và biên độ rủi ro hay mức độ nghiêm trọng của rủi ro từ đó phân nhóm rủi ro và đưa ra mức độ ưu tiên đối phó.
Kiểm soát rủi ro
- Kiểm soát rủi ro là việc sử dụng các chiến lược, các chương trình hành động, công cụ, kỹ thuật nhằm ngăn ngừa, né tránh hoặc giảm thiểu những tổn thất, những ảnh hưởng không mong đợi của rủi ro đối với doanh nghiệp.
Tài trợ rủi ro
- Tài trợ rủi ro là hoạt động nhằm dự phòng nguồn tài chính cho các thiệt hại khi rủi ro xảy ra, hoặc chuẩn bị các dự phòng để bù đắp thiệt hại bằng kế hoạch tự tài trợ hoặc mua bảo hiểm.
Mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận trong kinh doanh quốc tế :
. Rủi ro luôn đồng hành với lợi nhuận trong kinh doanh, rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng/yêu cầu càng cao, tuy nhiên trong dài hạn rủi ro là nhân tố làm xói mòn lợi nhuận khi nó không được kiểm soát. Rủi ro tác động bất lợi đến lợi nhuận vì nó tạo ra các chi phí bao gồm các thiệt hại, mất mát về tài sản vật chất lẫn tinh thần trong việc gánh chịu, khắc phục, bồi thường tổn thất... Các chi phí này có thể chia ra các nhóm sau:
1. Chi phí phát sinh trực tiếp từ hậu quả bất lợi của rủi ro đem lại:
-Những thiệt hại về giá trị tài sản mất mát hoặc hư hỏng
-Nguồn thu nhập không có cơ hội nhận khi rủi ro xảy ra
-Các chi phí phải bồi thường: là chi phí DN phải bỏ ra để bồi thường thiệt hại theo cam kết như bồi thường hợp đồng, bồi thường người lao động…
2. Chi phí khắc phục tổn thất do rủi ro đem lại:
-Chi phí khoanh lại tổn thất: nhằm làm cho tổn thất không trầm trọng hơn, không làm tăng nguyên nhân gây ra rủi ro khác…
-Chi phí khắc phục rủi ro: gồm toàn bộ các chi phí nhằm phục hồi tài ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7824.doc