Tài liệu Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đáp ứng yêu cầu Hiệp Ước mới về vốn của ủy ban Basel: MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG THEO HIỆP ƯỚC BASEL II 4
I. Một số lý luận chung về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng 4
1. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng 4
1.1 Khái niệm 4
1.1.1 Rủi ro trong kinh doanh 4
1.1.2 Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng 5
1.2 Phân loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng 6
1.2.1 Rủi ro thị trường (Market Risk) 6
1.2.2 Rủi ro hoạt động (Operational Risk) 6
1.2.3 Rủi... Ebook Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đáp ứng yêu cầu Hiệp Ước mới về vốn của ủy ban Basel
113 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1874 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đáp ứng yêu cầu Hiệp Ước mới về vốn của ủy ban Basel, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ro tín dụng (Credit Risk) 6
1.2.4 Rủi ro khác (residual risk) 7
2 Rủi ro tín dụng đối với ngân hàng thương mại 8
2.1 Khái niệm 8
2.2 Phân loại 8
2.2.1 Rủi ro đọng vốn 9
2.2.2 Rủi ro mất vốn 9
2.3 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng 9
2.3.1 Nguyên nhân từ phía người cho vay (các ngân hàng) 9
2.3.2 Nguyên nhân từ phía người đi vay 10
3 Quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại 10
3.1 Khái niệm 10
3.1.1 Quản trị rủi ro 10
3.1.2 Quản trị rủi ro tín dụng 10
3.2 Vai trò của quản trị rủi ro tín dụng 11
3.2.1 Vai trò chung của quản trị rủi ro ngân hàng 11
3.2.2 Vai trò điển hình của quản trị rủi ro tín dụng 12
3.3 Nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng 13
3.4 Quy trình quản trị rủi ro tín dụng 14
3.4.1 Xác định rủi ro tín dụng 14
3.4.2 Định lượng rủi ro tín dụng 15
3.4.3 Quản trị rủi ro tín dụng 15
3.4.4 Kiểm soát hoạt động quản trị rủi ro tín dụng 16
3.5 Các chỉ số và các mô hình phân tích đánh giá rủi ro tín dụng 16
3.5.1 Các chỉ số đánh giá rủi ro tín dụng 16
3.5.2 Các mô hình phân tích đánh giá rủi ro tín dụng 17
II. Các quy định về quản trị rủi ro tín dụng theo hiệp Uớc Basel II 19
1 Lịch sử phát triển của Hiệp ước Basel 19
1.1 Vài nét về Uỷ ban Basel 19
1.2 Hiệp ước quốc tế về vốn ngân hàng Basel I (Basel Capital Accord) và các hạn chế 20
1.2.1 Nội dung cơ bản Hiệp ước Basel I – 1988 20
1.2.2 Những thiếu sót của Hiệp ước Basel I 20
1.3 Basel II - Hiệp ước sửa đổi bổ sung Basel I 21
2. Nội dung cơ bản của Hiệp ước Basel II 22
2.1 Trụ cột thứ nhất: Yêu cầu vốn tối thiểu 22
2.2 Trụ cột thứ hai: Theo dõi giám sát 23
2.3 Trụ cột thứ ba: Nguyên tắc thị trường 24
3 Các qui định về quản lý rủi ro tín dụng của Basel II 24
3.1 Về yêu cầu vốn tối thiểu 24
3.1.1 Sử dụng trọng số tín dụng tương ứng với mỗi loại tài sản có 24
3.1.2 Yêu cầu về phương pháp tiếp cận 26
3.2 Yêu cầu về xây dựng các hệ thống 28
3.2.1 Hệ thống xếp hạng tín dụng 28
3.2.2 Hệ thống quản lý tài sản bảo đảm 29
3.2.3 Hệ thống giới hạn tín dụng 29
3.2.4 Mô hình tính toán 29
3.3 Hoàn thiện các thành phần khung qui trình quản trị rủi ro tín dụng 29
3.3.1 Cơ sở hạ tầng dữ liệu thông tin tín dụng (TTTD) 29
3.3.2 Tính toán rủi ro 30
3.3.3 Các kỹ thuật hạn chế rủi ro 30
4. Sự cần thiết phải đáp ứng Basel II để nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng đối với các ngân hàng thương mại. 30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM THEO CÁC YÊU CẦU CỦA HIỆP ƯỚC BASEL II 33
I. Giới thiệu về ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 33
1. Lịch sử doanh nghiệp BIDV 33
2. Lĩnh vực hoạt động của BIDV 33
3. Vài nét về tình hình hoạt động kinh doanh của BIDV 34
II. Tình hình rủi ro tín dụng và khả năng đáp ứng yêu cầu Basel II trong thực hiện quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 35
1. Tình hình hoạt động tín dụng tại BIDV 35
1.1 Tình hình tín dụng nói chung 35
1.2. Về cơ cấu dư nợ tín dụng 36
2. Các nguy cơ dẫn đến rủi ro tín dụng gia tăng 39
2.1 Nguy cơ rủi ro tín dụng do tăng quy mô hoạt động tín dụng 39
2.2 Thị trường tín dụng có tính cạnh tranh ngày càng cao 40
2.3 Rủi ro tín dụng do tính đặc thù của BIDV 41
3. Khả năng đáp ứng yêu cầu Basel II trong quản trị rủi ro tín dụng ở BIDV 42
3.1 Những thuận lợi 42
3.1.1 Khách quan 42
3.1.2 Chủ quan 45
3.2 Những khó khăn 48
3.2.1 Khách quan 48
3.2.2 Chủ quan 50
III. Đánh giá công tác quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam theo các chuẩn mực Basel II 51
1. Tổng quan về tình hình công tác quản trị rủi ro tín dụng tại BIDV 51
2. Đánh giá quản trị RRTD theo các yêu cầu Basel II 52
2.1 Những thành tựu đã đạt được 52
2.1.1 Xây dựng thành công hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ 53
2.1.2 Cơ cấu dư nợ có tài sản bảo đảm tăng 54
2.1.3 Hệ số an toàn vốn liên tục được tăng cường 55
2.1.4 Năng lực tài chính được khẳng định trên thị trường quốc tế 56
2.1.5 Trích lập dự phòng rủi ro hợp lý 57
2.1.6 Thành lập bộ phận chuyên trách quản trị rủi ro, trong đó chú
trọng quản trị rủi ro tín dụng 58
2.1.7 Minh bạch, công khai tài chính đáp ứng tiêu chuẩn kiểm toán Việt Nam và quốc tế 60
2.2 Những tồn tại, hạn chế 60
2.2.1 Tỉ lệ nợ xấu, nợ quá hạn trong tổng dư nợ vẫn ở mức cao 60
2.2.2 Chưa đạt tới tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo yêu cầu Basel II 61
2.2.3 Phân tích, đánh giá rủi ro từ phía khách hàng còn nhiều bất cập 62
2.2.4 Chưa có hệ thống quản lý tài sản bảo đảm 62
2.3 Nguyên nhân của các hạn chế 63
2.3.1 Nguyên nhân khách quan 63
3.3.2 Nguyên nhân chủ quan 67
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU BASEL II 70
I. Định hướng phát triển quản trị rủi ro tín dụng đáp ứng yêu cầu của
Basel II 70
1. Định hướng của Nhà nước 70
Định hướng của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung 71
3. Định hướng của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 72
II. Các giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam theo chuẩn mực Basel II 73
1. Nhóm các giải pháp về chiến lược, chính sách quản trị rủi ro tín dụng 73
2. Nhóm các giải pháp về công nghệ, thông tin 74
2.1 Đầu tư, nâng cấp xây dựng hệ thống công nghệ hiện đại 74
2.2 Khai thác hiệu quả thông tin trong hoạt động tín dụng 75
3. Nhóm các giải pháp về nhân lực 77
3.1 Chuẩn hóa cán bộ tín dụng 77
3.2 Tăng cường đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng 79
3.3 Xây dựng chế độ đãi ngộ hợp lý 79
4. Nhóm các giải pháp về thị trường 80
4.1 Phân tán rủi ro tín dụng BIDV trong thị trường tín dụng 80
Đa dạng hóa phương thức cho vay 80
Đa dạng hóa khách hàng 81
4.1.3 Đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư 81
4.2 Thực hiện bảo hiểm tín dụng: 82
5 Nhóm các giải pháp về tác nghiệp 82
5.1 Thắt chặt và thực hiện đúng quy trình tín dụng 82
5.1.1 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định 82
5.1.2 Nâng cao vai trò kiểm tra, kiểm soát nội bộ 84
5.2 Phân loại, thu hồi và xử lý nợ 86
5.2.1 Thực hiện tốt quy định phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro hướng tới đáp ứng quy định về tỷ lệ an toàn vốn theo của chuẩn mực
Basel II 86
5.2.2 Tận thu Nợ ngoài bảng và nợ khoanh Nợ ngoài bảng 87
5.2.3 Xử lý nợ quá hạn, nợ xấu, nợ khó đòi 88
III - Một số kiến nghị với Nhà nước, NHNN và các ban ngành có liên quan 89
1. Kiến nghị đối với Nhà nước 90
1.1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho nghiệp vụ ngân hàng 90
1.2 Xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường mua bán nợ 90
1.3 Bảo đảm an ninh tài chính trong hoạt động ngân hàng 92
1.4 Chuẩn bị các cơ sở cần thiết khác theo các chuẩn mực quốc tế phục vụ quản trị RRTD theo các yêu cầu Hiệp ước Basel II 92
2. Kiến nghị với NHNN 93
2.1. Hoàn thiện cách thức giám sát ngân hàng 93
2.2 Xây dựng, hoàn thiện các hệ thống cần thiết để đảm bảo an ninh hoạt động tín dụng ngân hàng 94
2.3. Hướng dẫn, chỉ đạo các NHTM thực hiện các chế tài của Nhà nước nhằm an toàn hoá hoạt động tín dụng 95
3. Kiến nghị với các tổ chức, bộ ngành khác có liên quan 96
3.1 Đối với các tổ chức kiểm toán 96
3.2 Đối với một số bộ ngành khác 96
KẾT LUẬN 97
LỜI MỞ ĐẦU
A/ Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, nền kinh tế của Việt Nam ngày một phát triển với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình mỗi năm đạt trên 8%[19]. Đặc biệt năm 2006 đánh dấu một mốc son phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam trong xu thế hội nhập. Chúng ta đã tổ chức thành công hội nghị APEC vào tháng 11/2006, trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức WTO vào ngày 07/11/2006. Các sự kiện trọng đại này tạo ra rất nhiều cơ hội và thách thức cho nền kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là đối với ngành ngân hàng. Với những cam kết để gia nhập WTO, ngành ngân hàng được đánh giá là một trong những ngành chịu ảnh hưởng nhiều nhất.
Để hội nhập thành công trên “sân nhà”, các NHTM Việt Nam đặc biệt là các NHTM Quốc doanh - những đầu tàu mũi nhọn của hệ thống ngân hàng Việt Nam phải nâng cao năng lực cạnh tranh, lành mạnh hoá tài chính theo chuẩn mực quốc tế. Một trong những nội dung hội nhập trong kinh doanh ngân hàng là tham gia vào những hiệp Ước quốc tế, trong đó có các cam kết về quản trị rủi ro ngân hàng. Quan trọng nhất trong các hiệp Ước quốc tế về quản trị rủi ro ngân hàng là Hiệp Ước mới về vốn (Basel II) của uỷ ban Basel, có hiệu lực từ 01/01/2007 với những chuẩn mực về an toàn vốn và những nguyên tắc thiết yếu trong vấn đề quản trị rủi ro ngân hàng, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Sự chuẩn hoá công tác quản trị rủi ro, trong đó có quản trị rủi ro theo Basel II không những thể hiện sự lành mạnh trong kinh doanh ngân hàng mà còn tạo sức hấp dẫn mạnh mẽ trong hợp tác với các nhà đầu tư và cộng đồng tài chính quốc tế. Tuy Hiệp ước Basel II chỉ là một thông lệ quốc tế và việc áp dụng các quy định của Basel II là không bắt buộc, nhưng vì lợi ích quốc gia, lợi ích của bản thân ngân hàng mà hầu hết các ngân hàng trên thế giới đều sẵn sàng tuân thủ các quy định của Basel II. Do vậy, các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Mặt khác, xét về thực trạng rủi ro của các NHTM Việt Nam, đặc biệt là rủi ro tín dụng, các con số thống kê và nhiều nghiên cứu cho thấy, rủi ro tín dụng chiếm tới 70% trong tổng rủi ro hoạt động ngân hàng[4]. Hiệu quả hoạt động tín dụng chưa cao, chất lượng tín dụng chưa tốt thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn còn cao so với khu vực và chưa có khuynh hướng giảm vững chắc[8]. Trong khi đó, tại Việt Nam, hoạt động tín dụng hiện đang chiếm tỷ trọng lớn nhất: từ 60- 70% trong danh mục tài sản có [10]. Đặc biệt, nguồn tín dụng này đang đóng vai trò kênh dẫn vốn chủ đạo cho các doanh nghiệp. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam đang là vấn đề bức xúc trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn. Nếu không có một chiến lược cụ thể để hoàn thiện công tác quản trị RRTD trong mảng hoạt động cho vay thì chắc chắn các NHTM Việt Nam sẽ khó cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài vốn đã rất dày dặn kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Là một ngân hàng thương mại quốc doanh hàng đầu tại Việt Nam, ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã bước đầu có những triển khai công tác quản trị rủi ro trong đó chú trọng công tác quản trị rủi ro tín dụng theo các chuẩn mực của Basel II, và đã đạt được một số những thành công đáng khích lệ. Song bên cạnh đó, vẫn còn một số vấn đề cần phải giải quyết để hoàn thiện công tác quản trị RRTD của ngân hàng này nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu của Basel II, tăng cường an toàn hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Dựa trên tính khả thi và cấp bách của đề tài, với mong muốn nâng cao khả năng quản trị RRTD của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - một trong những ngân hàng quan trọng hàng đầu của Việt Nam, cùng sự say mê nghiên cứu chuyên ngành Tài chính Ngân hàng, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đáp ứng yêu cầu Hiệp Ước mới về vốn của ủy ban Basel”.
B/ Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu xuyên suốt của đề tài nhằm:
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng.
- Giới thiệu khái quát các quy định về quản trị rủi ro tín dụng trong Hiệp ước mới về vốn (Basel II)
- Làm rõ sự cần thiết phải Quản lý rủi ro tín dụng đáp ứng yêu cầu Hiệp ước Basel II tại các NHTM Việt Nam.
- Đánh giá những kết quả đã đạt được trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng BIDV nhằm đáp ứng các yêu cầu của Hiệp ước Basel II cũng như những bất cập trong việc quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại này.
- Đề xuất những giải pháp trong hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng cho ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đáp ứng yêu cầu Hiệp ước Basel II.
C/ Phương pháp nghiên cứu
Tác giả lấy phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp luận chung cho đề tài. Tập trung sử dụng các phương pháp phân tích khảo cứu, điều tra khảo sát thực tế trên cơ sở quá trình thực tập 1 tháng (07/2007 - 08/2007) tại Sở giao dịch 1, ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và những kiến thức tổng hợp về tài chính ngân hàng và quản trị kinh doanh đã được bồi dưỡng dưới mái trường Đại học Ngoại Thương. Ngoài ra, khoá luận còn chú trọng tới lượng hóa qua phương pháp thống kê, so sánh để nghiên cứu đề tài một cách khoa học.
D/ Phạm vi nghiên cứu
Các quy định về quản trị rủi ro tín dụng của Hiệp ước Basel II và công tác quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đáp ứng các tiêu chuẩn Basel II.
E/ Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Phụ lục, Tài liệu tham khảo và Kết luận, đề tài gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng và các quy định về quản trị rủi ro tín dụng theo Hiệp ước Basel II
Chương 2: Thực trạng về công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam theo các yêu cầu của Hiệp ước Basel II
Chương 3: Một số biện pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đáp ứng yêu cầu Basel II.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG THEO HIỆP ƯỚC BASEL II
I. Một số lý luận chung về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng
1. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
1.1 Khái niệm
1.1.1 Rủi ro trong kinh doanh
Trong kinh tế học và kinh doanh, thuật ngữ “rủi ro”(risk) đã được đưa ra từ lâu nhưng cho đến gân đây, với sự phát triển của các ngành khoa học kinh tế lượng và các môn giúp lượng hoá các biến ngẫu nhiên trong hoạt động kinh doanh, rủi ro mới trở thành một đối tượng nghiên cứu và kinh doanh.
Theo định nghĩa truyền thống, duới góc độ kinh doanh, rủi ro là những sự kiện xảy ra có thể làm cho mất mát tài sản hay làm phát sinh một khoản nợ[32]. Mục tiêu quan trọng hàng đầu của hoạt động sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp là lợi nhuận. Nhưng lợi nhuận bao giờ cũng đi kèm với nguy cơ thua lỗ và mất mát, đó chính là “rủi ro”. Như vậy, rủi ro theo nghĩa thuần tuý này đe dọa khả năng tạo ra lợi nhuận trong kinh doanh.
Theo định nghĩa hiện đại, rủi ro kinh doanh là sự kiện mà kết quả kinh doanh hiện tại hoặc tương lai có khả năng khác biệt đáng kể so với mức dự kiến từ trước, hay còn gọi là mức kỳ vọng. Sự chênh lệch tạo ra rủi ro vì giới kinh doanh - đầu tư quan niệm rằng những bất trắc không thể lường hoặc kiểm soát được chính là bản chất của rủi ro.
Định nghĩa về rủi ro hiện đại bao hàm nghĩa rộng hơn, vì rủi ro thể hiện tính chất đầu cơ, liên quan đến khả năng lời hay lỗ, phụ thuộc vào sự thành công hay thất bại của một sự án kinh doanh tài chính hay thương mại, tức là rủi ro không chỉ dẫn đến những mất mát tổn thất mà việc chấp nhận các yếu tố rủi ro có thể mang lại những lợi ích to lớn. Đối với mỗi lĩnh vực hoạt động kinh doanh rủi ro lại tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau. Chẳng hạn, các ngân hàng cũng chấp nhận rủi ro khi họ cho vay, mà có thể được hoàn trả hay bị vỡ nợ. Các nhà đầu tư vốn đôi khi cũng là những người chịu rủi ro; các khoản đầu tư của họ có thể được coi là “vốn mạo hiểm” nếu như chúng chịu một mức độ rủi ro đáng kể, như trong trường hợp của các doanh nghiệp mới, hay “vốn chứng khoán” nếu như chúng chịu ít rủi ro.
1.1.2 Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Như bất kỳ một công ty hay tổ chức nào khác, một ngân hàng thực hiện mục tiêu kiếm tiền bằng việc chấp nhận, phải sống chung với rủi ro, do đó ngân hàng sẽ có thể đối mặt với thua lỗ. Trong trường hợp tệ nhất, ngân hàng có thể phá sản.
Ông Nguyễn Hòa Bình, Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), khái quát quy luật trên như sau: “Muốn có lợi nhuận phải chấp nhận rủi ro, không chấp nhận rủi ro sẽ không bao giờ thu được lợi nhuận. Đó là sự thật dù muốn hay không”[6].
Từ đó có thể thấy, ngân hàng là ngành kinh doanh rủi ro và việc tìm hiểu rủi ro có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng .Vậy rủi ro ngân hàng là gì?
Một cách khái quát, Rủi ro ngân hàng là những biến cố không mong đợi xảy ra, gây mất mát thiệt hại tài sản, thu nhập của ngân hàng trong quá trình hoạt động.[33]
Với vai trò trung gian trên thị trường tài chính, ngân hàng thực hiện chức năng “đi vay để cho vay”. Vì thế, ngân hàng gánh chịu rủi ro từ cả 2 phía: Người đi vay và người cho vay. Đứng trên giác độ là người đi vay, RRTD xảy ra khi người gửi tiền rút trước hạn; còn đứng trên giác độ là người cho vay, RRTD xảy ra khi người vay hoàn trả tiền vay không đúng với hợp đồng tín dụng đã ký kết với ngân hàng.
Rủi ro trong kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế thị trường luôn luôn là vấn đề cần được quan tâm, do hoạt động ngân hàng có tính nhạy cảm cao, ảnh hưởng mạnh đến sự ổn định kinh tế- xã hội. Nếu một ngân hàng nào đó gặp rủi ro, lâm vào tình trạng thiếu khả năng thanh toán, có nguy cơ hoặc thực sự đi đến phá sản, dễ gây tâm lý hoảng loạn, khiến mọi người đổ xô đi rút tiền gửi của mình thật nhanh để tránh bị tổn thất, gây đổ vỡ hệ thống.
1.2 Phân loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Hiện nay đang tồn tại nhiều cách phân loại rủi ro ngân hàng, tuy nhiên luận văn lựa chọn cách phân loại của Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng, theo đó các rủi ro ngân hàng được phân thành 3 loại chính là : rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và một số loại rủi ro khác gồm: rủi ro lãi suất,rủi ro ngoại hối, rủi ro uy tín...
1.2.1 Rủi ro thị trường (Market Risk)
Là rủi ro xảy ra do thay đổi giá trị tài sản và các khoản nợ do sự thay đổi lãi suất và tỉ giá hối đoái. Từ khái niệm này, rủi ro thị trường bao gồm rủi ro lãi suất và rủi ro ngoại hối.
Rủi ro lãi suất: là rủi ro về thu nhập và lợi tức, tính chất rủi ro này gắn liền với những thay đổi trong các lãi suất trên thị trường và sự mất cân đối giữa tài sản nợ và tài sản có về các loại tài sản nhạy cảm với lãi suất. Rủi ro lãi suất có thể có một số hình thức khác nhau, như rủi ro xác định lại lãi suất, rủi ro đường cong lãi suất thay đổi, rủi ro tương quan lãi suất, và rủi ro quyền chọn đi kèm.
Rủi ro ngoại hối: Phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn, về loại tiền tệ của các khoản ngoại hối nắm giữ, và vì thế làm cho Ngân hàng có thể phải gánh chịu thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến động.
1.2.2 Rủi ro hoạt động (Operational Risk)
Là loại rủi ro tổn thất tài sản do hoạt động kém hiệu quả, hoạt động có vấn đề, có vi phạm trong hệ thống kiểm soát nội bộ, có sự gian lận hay những thảm họa không lường trước được.
Rủi ro hoạt động bao gồm toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh từ cách thức mà một Ngân hàng điều hành các hoạt động của mình. Các ví dụ về rủi ro hoạt động là: việc cấu trúc hạn mức không phù hợp trong lĩnh vực kinh doanh nguồn vốn, quản trị tồi các quy trình quản lý tín dụng, cán bộ tham ô...
1.2.3 Rủi ro tín dụng (Credit Risk)
Là rủi ro thất thoát tài sản có thể phát sinh khi một bên đối tác không thực hiện một nghĩa vụ tài chính hoặc nghĩa vụ theo hợp đồng đối với một Ngân hàng, bao gồm cả việc không thực hiện thanh toán nợ cho dù đấy là nợ gốc hay nợ lãi khi khoản nợ đến hạn. Rủi ro này bao gồm cả rủi ro thanh toán khi một bên thứ ba (ví dụ một Ngân hàng thanh toán) không thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với Ngân hàng này.
Biểu đồ 1.1: Tỷ trọng các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng trên thế giới
Nguồn: [8]
1.2.4 Rủi ro khác (residual risk)
Rủi ro thanh khoản: Phát sinh chủ yếu từ xu hướng của các Ngân hàng là huy động ngắn hạn và cho vay dài hạn, xảy ra nếu như các khoản huy động sẽ phải hoàn trả theo yêu cầu của người gửi tiền, đặc biệt như chúng ta đã thấy trong bất cứ cuộc khủng hoảng nào thì người gửi tiền sẽ rút tiền của mình ra nhanh hơn việc người đi vay sẵn sàng trả nợ.
Rủi ro giá cả: Đây là rủi ro về việc giá trị các tài sản của một Ngân hàng có thể biến động. Rủi ro này xuất hiện trong tất cả các chủng loại tài sản, từ bất động sản đến cổ phiếu và trái phiếu...
Rủi ro pháp lý: Thường tác động tới các Ngân hàng theo hai cách.
- Các khách hàng và những người khác có thể khởi kiện Ngân hàng. Lý do của việc khởi kiện có thể phát sinh từ quá trình hoạt động kinh doanh bình thường, ví dụ việc Ngân hàng từ chối cấp lại hạn mức cho vay mà theo khách hàng là vô lý. Tuy nhiên, các trường hợp có thể phát sinh từ các lý do tách biệt khỏi hoạt động kinh doanh Ngân hàng như việc tài trợ cho những khách hàng gây ô nhiễm môi trường có thể làm Ngân hàng bị kiện ...
- Khi các thu xếp pháp lý của một Ngân hàng, ví dụ, các hợp đồng cho vay và tài sản đảm bảo tiêu chuẩn của Ngân hàng đó có vấn đề, hoặc Nhà nước thay đổi đột ngột chính sách vĩ mô về cơ cấu kinh tế, lĩnh vực ưu tiên...điều này có thể dẫn tới rủi ro thua lỗ cho Ngân hàng.
Rủi ro chiến lược: phát sinh từ các thay đổi trong môi trường hoạt động của Ngân hàng trên phạm vi rộng hơn về mặt kinh doanh và tài chính. Rủi ro chiến lược cũng có thể phát sinh từ các hoạt động của bản thân Ngân hàng. Ví dụ, việc xâm nhập vào một thị trường mới mà thiếu sự nghiên cứu đầy đủ và thiếu các nguồn lực cần thiết để khai thác thị trường này có thể làm Ngân hàng gặp phải rủi ro thua lỗ.
Rủi ro uy tín: là rủi ro dư luận đánh giá xấu về Ngân hàng, gây khó khăn nghiêm trọng cho Ngân hàng trong việc tiếp cận nguồn vốn hoặc khách hàng rời bỏ Ngân hàng.
2 Rủi ro tín dụng đối với ngân hàng thương mại
2.1 Khái niệm
Một cách hiểu khác theo cuốn Risk Management in Banking (2001) của Joel Bessis thì rủi ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả đuợc nợ hoặc sự giảm sút chất lượng tín dụng của những khoản vay[32].
Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc lẫn lãi của khoản cho vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn. RRTD không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng như bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay ở thị trường liên ngân hàng, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ dự án ...
Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không có hiệu quả. Khi gặp phải RRTD ngân hàng thường rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
2.2 Phân loại
Từ khái niệm trên đây ta có thể phân rủi ro tín dụng thành các loại sau:
2.2.1 Rủi ro đọng vốn
Đó là rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn (default) trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, bao gồm gốc và/hoặc lãi vay. Sự sai hẹn này là do trễ hạn.(Delayed Payment) Rủi ro đọng vốn gây ảnh hưởng đến khách hàng khác muốn sử dụng vốn cũng như gây khó khăn cho việc chi trả người gửi tiền. (biểu đồ 1.2)
2.2.2 Rủi ro mất vốn
Đó là rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn (default) trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, bao gồm gốc và/hoặc lãi vay. Sự sai hẹn này là do không thanh toán ( non -payment) Rủi ro mất vốn làm tăng chi phí hoạt động, tăng trưởng giảm sút, khả năng sinh lợi giảm.(biểu đồ 1.2)
Biểu đồ 1.2 : Các loại rủi ro tín dụng và ảnh hưởng
Rủi ro đọng vốn
Rủi ro mất vốn
ảnh hưởng đến KH khác sử dụng vốn
Gây cản trở khó khăn cho chi trả người gửi tiển
Tăng chi phí
NQH và nợ khó đòi
Chi giám sát
Chi phí pháp lý
Hiệu quả giảm sút
Vốn tín dụng giảm
DT chậm lại hoặc mất
Khả năng sinh lợi
Mất gốc
Thực hiện dự trữ
Nguồn:[7, tr.57 ]
2.3 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
2.3.1 Nguyên nhân từ phía người cho vay (các ngân hàng)
- Nguyên nhân đầu tiên thuộc về ngân hàng phải kể đến là việc cán bộ ngân hàng không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng và các điều kiện cho vay.
- Nguyên nhân thứ hai là chính sách và quy trình cho vay còn lỏng lẻo, chưa chú trọng đến phân tích khách hàng để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ hoặc phương pháp xem xét phân tích còn hạn chế, chưa chính xác. Đối với cho vay doanh nghiệp nhỏ và cá nhân, quyết định cho vay của ngân hàng chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, chưa áp dụng công cụ chấm điểm tín dụng.
- Nguyên nhân thứ ba là kỹ thuật cấp tín dụng chưa hiện đại, chưa đa dạng như: việc xác định hạn mức tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn còn chưa phù hợp, chủ yếu là tín dụng trực tiếp, sản phẩm tín dụng còn nghèo nàn.
- Nguyên nhân thứ tư là thiếu thông tin về khách hàng hay thiếu thông tin tín dụng chính xác đáng tin cậy. kịp thời để xem xét, phân tích trớc khi cấp tín dụng.
- Nguyên nhân nữa có thể kể đến là năng lực và phẩm chất của cán bộ tín dụng và vấn đề quản lý sử dụng, đãi ngộ của cán bộ ngân hàng
2.3.2 Nguyên nhân từ phía người đi vay
Các nguyên nhân dẫn đến việc khách hàng vay vốn không trả được nợ cho ngân hàng có rất nhiều, có thể sắp xếp theo hai nhóm như sau:
Nhóm nguyên nhân khách quan, là những tác động ngoài ý chí của khách hàng như do thiên tai, hoả hoạn, do sự ổn định của các chính sách kinh tế chưa chắc chắn, thay đổi đột ngột chính sách quản lý kinh tế, điều chỉnh quy hoạch, do hành lang văn bản pháp lý chưa phù hợp, do biến động của thị trường trong và ngoài nước, quan hệ cung cầu hàng hoá thay đổi.
Nhóm nguyên nhân chủ quan, là nguyên nhân nội tại của mỗi khách hàng. Trước hết là vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn quá ít so với nhu cầu. Năng lực điều hành còn hạn chế, thiếu thông tin thị trờng và các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh. Công nghệ sản xuất không đủ khả năng tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao.Trong đó cũng phải kể đến nguyên nhân thiếu thiện chí trả nợ vay ngân hàng ngay từ khi xin vay vốn.
3 Quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
3.1 Khái niệm
3.1.1 Quản trị rủi ro
Quản trị rủi ro của các NHTM có thể hiểu là quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích của các nhà quản trị ngân hàng lên các đối tượng quản trị và khách thể kinh doanh nhằm mục tiêu phòng ngừa, hạn chế và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh từ đó nâng cao mức độ an toàn, khả năng sinh lời và đạt được các mục tiêu tăng trưởng ngắn hạn và dài hạn của các ngân hàng.[10]
Các phương châm quản trị rủi ro hiện đại được xây dựng trên cơ sở “ Không có rủi ro thì không có lợi nhuận”, và rủi ro là cái để quản lý chứ không phải cái để tránh”
Theo Uỷ ban Basel, quản trị rủi ro là một quá trình liên tục cần được thực hiện ở mọi cấp độ của một tổ chức tài chính và là yêu cầu bắt buộc để các tổ chức tài chính có thể đạt được các mục tiêu đề ra và duy trì khả năng tồn tại và sự minh bạch về tài chính.
3.1.2 Quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững; Tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh tín dụng, từ đó tăng doanh thu, giảm chi phí và nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh cả trong ngắn hạn và dài hạn của NHTM .[22]
Quản trị rủi ro tín dụng là một trong những hoạt động chủ đạo của NHTM. Quản trị rủi ro tín dụng phải hướng vào việc đảm bảo hiệu quả của hoạt động tín dụng và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM ngay cả trong những điều kiện thị trường đầy biến động, nguy cơ rủi ro không ngừng gia tăng.
3.2 Vai trò của quản trị rủi ro tín dụng
3.2.1 Vai trò chung của quản trị rủi ro ngân hàng
Xu hướng tự do hoá trong lĩnh vực tài chính đã tạo ra cơ hội cho các nhà ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động về mặt địa lý, giúp cho các ngân hàng hạn chế được những tổn thất do những thay đổi điều kiện kinh tế trong nước. Tuy nhiên cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính trên phạm vi toàn cầu cũng tạo ra một thị trường tài chính rủi ro hơn. Trong khi đó, bản chất hoạt động kinh doanh của các NHTM là dùng uy tín để thu hút nguồn và dùng năng lực quản trị rủi ro để sử dụng nguồn và phát triển dịch vụ khác với tư cách là người “đứng giữa” các lực lượng cung và các lực lượng cầu về các dịch vụ Ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của các NHTM do đó bao gồm rất nhiều loại rủi ro.
Bởi vậy, nhiều ý kiến cho rằng các Ngân hàng cần đánh giá cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro - lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro có thể chấp nhận được. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà Ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được chứ không thể chối bỏ rủi ro.
Trong bối cảnh đó, không có một ngân hàng hay một tổ chức tài chính nào có thể tồn tại mà không có hệ thống quản trị rủi ro hữu hiệu. Việc xây dựng một hệ thống quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng có vai trò sống còn đối với hoạt động ngân hàng. Hoạt động quản trị rủi ro giúp xác định và kiểm soát rủi ro ở mức có thể chấp nhận được. Chủ tịch tập đoàn tài chính Citicorp Walter Wriston đã nói lên vai trò quan trọng của hoạt động quản trị rủi ro như sau: “ Toàn bộ cuộc sống trong hoạt động ngân hàng là quản trị rủi ro”[35]. Hoạt động quản trị rủi ro, do đó, là một bộ phận cốt lõi trong toàn bộ các hoạt động ngân hàng. Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại tùy thuộc vào năng lực quản trị rủi ro (quản trị rủi ro). Nói một cách ví von có thể coi quản trị rủi ro là nghiệp vụ chủ đạo và là thước đo năng lực “sống” hay là “chết” của một NHTM.
3.2.2 Vai trò điển hình của quản trị rủi ro tín dụng
Là một nội dung hạt nhân của hoạt động quản trị rủi ro , quản trị rủi ro tín dụng đóng vai trò vô cùng quan trọng do hoạt động tín dụng luôn là mảng chính của hầu hết các ngân hàng. Quản trị rủi ro tín dụng, do vậy mang tính chất quyết định trong việc mang lại thành công cho các ngân hàng thương mại. Quản trị rủi ro tín dụng giúp đảm bảo mức độ RRTD mà ngân hàng gánh chịu không vượt quá khả năng về vốn và tài chính của ngân hàng. Hoạt động quản trị rủi ro hiệu quả có thể cho phép ngân hàng đạt được tương quan hợp lý giữa rủi ro mà ngân hàng mong muốn ( ở mức chi phí tương xứng) với rủi ro mà ngân hàng muốn giảm thiểu.
Khi rủi ro được kiểm soát một cách hợp lý thì ngân ._.hàng sẽ có điều kiện tối đa hoá các lợi ích thu đuợc từ những RRTD đó thông qua nhiều cách như: chấp nhận, giảm nhẹ, loại bỏ, hay chuyển đổi rủi ro tín dụng. Quản trị rủi ro tín dụng giúp hạ thấp rủi ro tín dụng, nâng cao mức độ an toàn cho kinh doanh của mỗi NHTM bằng các chính sách tín dụng cũng như các biện pháp quản lý, giám sát các hoạt động tín dụng khoa học và hiệu quả.
3.3 Nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng
Các nguyên tắc cần phải thấm nhuần trong quản trị rủi ro tại một ngân hàng bao gồm:
- Nguyên tắc chấp nhận rủi ro
Một ngân hàng cần phải quyết định và xác định càng rõ càng tốt mức độ rủi ro mà ngân hàng đó chấp nhận. Ví dụ. một ngân hàng cho vay với tài sản đảm bảo là bất động sản thế chấp lần đầu và với một tỷ lệ thấp giữa nợ vay và giá trị tài sản thế chấp sẽ chấp nhận một mức độ rủi ro hoàn toàn khác so với một ngân hàng chuyên kinh doanh các sản phẩm phái sinh mới với số lượng lớn.
- Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép:
Ngân hàng cần phải có đầy đủ các hệ thống để xử lý các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng đó cung cấp và để có thể đo lường và kiểm soát các rủi ro liên quan. Các hệ thống cần có phải được đánh giá như là một phần của quy trình đánh giá một sản phẩm mới và phải được đánh giá lại theo định kỳ.
- Nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung và khả năng đáp ứng của Ngân hàng:
Trên cơ sở mức độ rủi ro mà một ngân hàng có thể chấp nhận, ngân hàng cần xác định càng rõ càng tốt những sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng đó cung cấp. Ngân hàng đó cũng cần có các cơ chế để đảm bảo rằng bất cứ một sản phẩm mới nào cũng phải trải qua một quy trình đánh giá chính thức để xem liệu sản phẩm đó có phù hợp với chiến lược và mức độ rủi ro mà ngân hàng chấp nhận hay không. Trong trường hợp này, ngân hàng đó cũng cần xem xét các vấn đề tác nghiệp như hiệu quả kinh tế hay liệu ngân hàng có đủ nguồn lực cần thiết về khả năng tài chính, thời gian cần thiết, năng lực về mặt kỹ thuật để triển khai hiệu quả sản phẩm đó.
- Nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt
Một ngân hàng cần phải đảm bảo rằng nhân viên của mình có đủ kiến thức để quản lý tất cả các sản phẩm và dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cũng như các loại rủi ro riêng biệt gắn liền với chúng. Kiến thức này cần phải được trang bị cho nhân viên tất cả các cấp, và không nên chỉ tập trung vào bộ phận giải quyết những sản phẩm và dịch vụ đang đề cập. Cụ thể, Hội đồng quản trị và ban điều hành cấp cao luôn luôn phải hiểu rõ và đầy đủ về hoạt động kinh doanh của ngân hàng đó cũng như có sự phân cấp xử lý rõ ràng cho các nhân viên ngân hàng.
- Nguyên tắc xây dựng hệ thống đầy đủ để đo lường, kiểm soát rủi ro
Một ngân hàng cần phải có đầy đủ các hệ thống để xử lý các dịch vụ ngân hàng đó cung cấp và để có thể đo lường và kiểm soát các rủi ro liên quan. Các hệ thống không chỉ bao gồm hệ thống công nghệ thông tin, mà còn bao gồm các phương thức tổ chức và hành chính. Các hệ thống cần có phải được đánh giá như là một phần của quy trình đánh giá một sản phẩm mới và phải được đánh giá lại định kỳ.
3.4 Quy trình quản trị rủi ro tín dụng
Việc quan trọng nhất trong quản trị rủi ro là phải xây dựng được quy trình quản lý rủi ro. Thông thường, quy trình quản lý RRTD được chia thành 4 bước:
3.4.1 Xác định rủi ro tín dụng
Cơ sở cho việc quản trị RRTD một cách hiệu quả là việc xác định những rủi ro hiện có và những rủi ro tiềm tàng trong bất cứ sản phẩm hay hoạt động nào của ngân hàng. Mức độ RRTD mà ngân hàng có thể chấp nhận được chỉ có thể thiết lập được sau khi đã xác định được những yếu tố tạo nên rủi ro tín dụng. Để phát hiện RRTD dựa trên việc xem xét kỹ lưỡng các đặc thù RRTD của từng sản phẩm hay hoạt động ngân hàng.
- Các khách hàng và ngành nghề khác nhau chứa đựng các rủi ro khác nhau. Việc lựa chon các khách hàng mục tiêu và ngành nghề mục tiêu là rất thiết yếu đối với chất lượng tài sản. Khả năng tồn tại của bất cứ ngân hàng nào cũng đều liên quan rất chặt chẽ với khả năng tồn tại của khách hàng, ngành nghề mà ngân hàng cấp tín dụng.
- Các sản phẩm tín dụng khác nhau chứa đựng những rủi ro khác nhau. Ngân hàng cung cấp nhiều hình thức tín dụng như cho vay bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ, cho vay hợp vốn, bảo lãnh...Các loại hình tín dụng khác nhau này hàm chứa mức độ rủi ro khác nhau.
- Rủi ro thanh toán gắn với các công cụ tài chính khác nhau, RRTD cũng phát sinh từ các công cụ tài chính. Rủi ro của đối tác không trả được nợ vào lúc đáo hạn của một hợp đồng ngoại bảng cân đối kế toán được hiểu là rủi ro thanh toán. Đây là rủi ro mà bên đối tác không thanh toán cho ngân hàng sau khi ngân hàng đã thực hiện thanh toán cho bên đối tác.
- Khả năng cấp tín dụng và chuyên môn của cán bộ tín dụng. RRTD phụ thuộc vào năng lực của cán bộ tín dụng trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro từ khi xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay.
- Mức độ tập trung của danh mục tín dụng. Mức độ tập trung của danh mục tín dụng theo các đặc thù riêng trực tiếp ảnh hưởng đến rủi ro của danh mục tín dụng.
3.4.2 Định lượng rủi ro tín dụng
Là việc đề ra và xem xét lại hạn mức rủi ro tín dụng, giúp ban điều hành xác định được nguy cơ RRTD cần được ưu tiên theo dõi và kiểm soát. Hiện nay trên thực tế có 3 phương pháp định lượng cơ bản sau:
+ Phương pháp thống kê: Bản chất của phương pháp này là dựa trên việc tính toán xác suất xảy ra thiệt hại đối với những nghiệp vụ được nghiên cứu.
+ Phương pháp kinh nghiệm: Phương pháp này được hình thành trên kinh nghiệm của các chuyên gia.
+ Phương pháp tính toán - phân tích: Phương pháp này dựa trên việc xây dựng đường cong xác suất thiệt hại và đánh giá rủi ro Ngân hàng dựa trên động thái biên thiên của đồ thị toán ứng dụng bằng phương pháp ngoại suy.
3.4.3 Quản trị rủi ro tín dụng
Các nhiệm vụ của quản trị RRTD là việc thực hiện đầy đủ các hệ thống, các thủ tục kiểm soát, nhờ đó ban điều hành có thể theo dõi được mức rủi ro tín dụng, như:
- Xác định giới hạn tín dụng: Hàng năm các ngân hàng xác định hạn mức tín dụng cho từng khách hàng nhằm làm căn cứ để lập kế hoạch tiếp cận khách hàng và cũng là cơ sở quản trị rủi ro tín dụng.
- Phân vùng đầu tư: để đảm bảo chất lượng tín dụng và thuận tiện trong giám sát các khoản vay.
- Phân cấp thẩm quyền quyết định tín dụng nhằm tạo tính linh hoạt và đảm bảo mục tiêu quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng
3.4.4 Kiểm soát hoạt động quản trị rủi ro tín dụng
RRTD được kiểm soát với việc thực hiện các thủ tục nằm trong hệ thống KSNB, trong các quy trình kinh doanh và hoạt động nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng. Chi phí cho các thủ tục kiểm soát cao có thể giảm thiểu RRTD tối đa nhưng hiệu quả lại thấp và ngược lại. Ngân hàng phải tìm ra sự cân bằng tối ưu giữa chi phí kiểm soát và lợi ích đem lại từ các thủ tục đó, từ đó lựa chọn thủ tục kiểm soát RRTD phù hợp.
3.5 Các chỉ số và các mô hình phân tích đánh giá rủi ro tín dụng
Từ việc xây dựng quy trình quản trị rủi ro tín dụng, rất nhiều chỉ số và mô hình đánh giá, phân tích RRTD đã được đưa ra, dưới đây là một số điển hình quan trọng:
3.5.1 Các chỉ số đánh giá rủi ro tín dụng
a/ Tình hình nợ quá hạn
Nợ quá hạn là thước đo quan trọng nhất đánh giá sự lành mạnh thể chế. Nó tác động đến tất cả các lĩnh vực hoạt động chính của ngân hàng.
Nợ quá hạn được xác định bằng các công thức sau:
Tỷ lệ NQH =
Số dư NQH
Tổng dư nợ
Tỷ lệ khách hàng có NQH =
Số khách hàng quá hạn
Tổng số khách hàng có dư nợ
b/ Tình hình rủi ro mất vốn
Tỷ lệ dự phòng rủi ro RRTD =
Dự phòng RRTD được trích lập
Dư nợ cho kỳ báo cáo
Mất vốn đã xóa cho kỳ báo cáo
Tỷ lệ mất vốn =
Dư nợ trung bình cho kỳ báo cáo
3.5.2 Các mô hình phân tích đánh giá rủi ro tín dụng
a/ Mô hình định tính về rủi ro tín dụng
Muốn hạn chế RRTD khi cho vay, một trong những mô hình định tính đánh giá RRTD được sử dụng phổ biến trong quá trình phân tích tín dụng là mô hình chất lượng 6C [25], bao gồm:
+ Character (Tư cách người vay): Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người xin vay có mục đích tín dụng rõ ràng và có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ khi đến hạn.
+ Capacity (Năng lực người vay): Người đi vay phải có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý để ký kết hợp đồng tín dụng.
+ Cash (Thu nhập người vay): Tiêu chí này nhằm tập trung vào câu hỏi : Người đi vay có khả năng để tạo ra đủ tiền để trả nợ? Nhìn chung, người vay có ba khả năng để tạo ra tiền đó là :(i) luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập, (ii) bán thanh lý tài sản, (iii) tiền từ phát hành chứng khoán nợ hay chứng khoán vốn.[27] Bất cứ nguồn thu nào từ ba khả năng này đều có thể sử dụng để trả nợ vay cho ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng ưu tiên hơn cả là khả năng thứ nhất và coi đây là nguồn thu đầu tiên và căn bản để trả nợ vay ngân hàng.
+ Collateral (Bảo đảm tiền vay): Khi đánh giá khía cạnh bảo đảm tiền vay, cán bộ tín dụng phải tự hỏi: người vay có hữu một giá trị nào hay tài sản nào có chất lượng để hỗ trợ cho khoản vay không. Cán bộ tín dụng phải đặc biệt chú ý đến những yếu tố nhạy cảm như: tuổi thọ, điều kiện, tính lỏng tài sản người vay...
+ Conditions (Các điều kiện): Ngân hàng cần phải biết được xu hướng hiện hành về công việc kinh doanh và ngành nghề của người vay, cũng như khi điều kiện kinh tế thay đổi sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến khoản tín dụng.
+ Control (Kiểm soát): Tập trung vào những vấn đề như: Các thay đổi trong luật pháp và quy chế có ảnh hưởng xấu đến người vay? Yêu cầu tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng và của nhà quản lý về chất lượng tín dụng
b/ Các mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng
Mô hình điểm số Z
Mô hình này do nhà kinh tế E.I. Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp vay vốn:
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó: X1 = Hệ số vốn lưu động/ tài sản
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối/ tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi/ tổng tài sản
X4 = Hệ số giá thị trường của tổng vốn sở hữu/ Giá trị của tổng nợ
X5 = Hệ số doanh thu/ Tổng tài sản.
Theo mô hình của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp hơn 1,81 thì sẽ được xếp vào nhóm có nguy cơ RRTD cao.
Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng áp dụng cho cá nhân, dựa vào hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, sở hữu nhà, thu nhập, thời gian công tác... để cho điểm, từ đó hình thành khung chính sách tín dụng.
Bảng 1.1: Ví dụ về mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
Tổng số điểm
Quyết định tín dụng
Từ 28 điểm trở xuống
Từ chối tín dụng
29 - 30 điểm
Cho vay đến 500 USD
31 - 33 điểm
Cho vay đến 1000 USD
34 - 36 điểm
Cho vay đến 2500 USD
37 - 38 điểm
Cho vay đến 3500 USD
39 - 40 điểm
Cho vay đến 5000 USD
41 - 43 điểm
Cho vay đến 8000 USD
Nguồn:[27,tr.337]
Bảng tính điểm trên dựa vào Giả sử ngân hàng biết rằng, mức 28 điểm là ranh giới giữa khách hàng có tín dụng tốt và tín dụng xấu; ngân hàng hình thành khung chính sách tín dụng như vậy để đối phó với RRTD.
Mô hình này thường sử dụng từ 7 đến 12 hạng mục mỗi hạng mục được cho từ 1 đến 10 điểm, dưới đây là bảng tính điểm thường được sử dụng tại các ngân hàng Mỹ với mô hình 8 hạng mục và điểm số cao nhất là 43 điểm và thấp nhất là 9 điểm.
II. Các quy định về quản trị rủi ro tín dụng theo hiệp Ước Basel II
1 Lịch sử phát triển của Hiệp ước Basel
1.1 Vài nét về Uỷ ban Basel
Uỷ ban Basel về giám sát nghiệp vụ ngân hàng là một Uỷ ban bao gồm các chuyên gia giám sát hoạt động ngân hàng được thành lập bởi các Thống đốc Ngân hàng Trung ương của nhóm G10, năm 1975. Uỷ ban này bao gồm đại diện cao cấp của các cơ quan giám sát nghiệp vụ ngân hàng và bản thân ngân hàng Trung Ương của các nước Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Italia, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ. Uỷ ban tổ chức họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng thanh toán quốc tế tại Washington hoặc tại Thành Phố Basel - Thụy Sỹ. Ban thư ký thường trực của Uỷ ban này cũng có trụ sở làm việc tại Thủ Đô Washington - Hoa Kỳ.
Quan điểm của Uỷ Ban này là: Sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một quốc gia, dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển, có thể đe doạ đến sự ổn định về tài chính trong cả nội bộ quốc gia đó và trên trường quốc tế. Nhu cầu cần nâng cao sức mạnh của hệ thống tài chính nhất thiết phải được nhiều quốc gia, tổ chức trên thế giới đặc biệt quan tâm, hưởng ứng.
Uỷ ban Basel về Giám sát Nghiệp vụ ngân hàng đã tham gia hoạt động trong nhiều năm qua cho quan điểm và sứ mạng này.Uỷ ban này đã luôn xem xét tìm các biện pháp tốt nhất tăng cường mọi nỗ lực củng cố công tác giám sát chuẩn mực ở tất cả các quốc gia thông qua việc thiết lập mối quan hệ tốt với các nước nằm ngoài nhóm G-10, ngoài các hoạt động trước đây đã được thiết lập thúc đẩy công tác giám sát tốt hơn tại các nước trong nhóm.
1.2 Hiệp ước quốc tế về vốn ngân hàng Basel I (Basel Capital Accord) và các hạn chế
1.2.1 Nội dung cơ bản Hiệp ước Basel I - 1988
Nhận thấy sự cần thiết phải có một thoả thuận đa quốc gia nhằm củng cố sự ổn định trong hoạt động ngân hàng và tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh do các yêu cầu về vốn tối thiểu khác nhau giữa các nước, năm 1987, Uỷ ban Basel đã xây dựng bản dự thảo hiệp định sơ bộ về tiêu chuẩn vốn - Hiệp định áp dụng với các ngân hàng và tổ chức tín dụng hoạt động quốc tế lớn ( large international banks) và gửi đến các nước thành viên G10[30].Tháng 7/1988, Hiệp ước quốc tế về vốn ngân hàng Basel I (the Basel Capital Accord) đã chính thức được thông qua nhằm khuyến khích các ngân hàng củng cố vốn và xem xét rủi ro trong hoạt động của mình. Hiệp định này quy định tỷ lệ vốn tối thiểu đối với các NHTM phải đạt 8% trên tài sản có tính theo trọng số rủi ro ( Tỷ số Cooke - Cooke Ratio) vào cuối năm 1992. Đến tháng 9 năm 1993, tất cả các NHTM trong nhóm G10 có hoạt động kinh doanh ngân hàng quốc tế lớn đều đạt mức yêu cầu vốn tối thiểu này.
1.2.2 Những thiếu sót của Hiệp ước Basel I
Hiệp ước Basel 1 năm 1988 mang tính chất thỏa thuận quốc tế và các tiêu chuẩn về vốn đã trở thành chuẩn mực quốc tế về vốn tự có. Nó quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và quản lý RRTD đối với ngân hàng, là một trong những căn cứ, tiêu chuẩn để các ngân hàng của các quốc gia trên thế giới áp dụng quản lý, bảo đảm an toàn trong hoạt động.Tuy nhiên, Basel 1 mới chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng chứ chưa đề cập đến những rủi ro khác như rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất. Xét riêng về quản trị rủi ro tín dụng, Hiệp ước Basel I vẫn còn có những điểm hạn chế như sau:
a/ Không phân biệt theo loại rủi ro
* Một khoản nợ đối với tổ chức xếp hạng AA được coi như một khoản nợ đối với tổ chức xếp hạng B.Trọng số rủi ro chỉ phân biệt nhóm tài sản có theo đối tượng cho vay mà không phân biệt đến chất lượng hoạt động thực tế của đối tượng đó. Cụ thể, theo Basel I thì một khoản vay cho đối tượng công ty được xếp hạng loại A ( theo hệ thống xếp hạng Moody’s, S & P hay Fitch ICBA) cũng được gán trọng số rủi ro là 100% như đối với khoản vay cho công ty có xếp hạng tín dụng thấp hơn (B, BB, B-) vì cùng thuộc mảng cho vay tư nhân. Điều này không bao quát được ý nghĩa của quản trị rủi ro tín dụng.
b/ Không có lợi ích từ việc đa dạng hóa
Một khoản nợ riêng lẻ yêu cầu một lượng vốn giống như một danh mục đầu tư được đa dạng hóa, với cùng một giá trị, tức là, không có sự khác biệt nào giữa một khoản vay $100 và 100 khoản vay $1, trong khi thực tế khả năng xảy ra rủi ro với 100 khoản vay 1$ tại một thời điểm là thấp hơn rất nhiều so với việc xảy ra rủi ro với khoản vay 100$ tại cùng thời điểm đó.
c/ Chưa bắt kịp với sự phát triển của các công cụ tài chính mới như chứng khoán hoá các khoản nợ và các công cụ phái sinh
Với sự ra đời của một loạt các công cụ tài chính mới, Basel I không còn phù hợp do chưa tận dụng được hết những lợi ích của các công cụ này nhằm tăng cường an toàn cho hoạt động ngân hàng.
1.3 Basel II - Hiệp ước sửa đổi bổ sung Basel I
Trước đòi hỏi của sự phát triển, về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với những tập đoàn ngân hàng lớn có phạm vi hoạt động quốc tế, Hiệp ước Basel 2 đã ra đời với những bổ sung cần thiết để khắc phục các hạn chế của Basel I cũng như giúp các ngân hàng nâng cao năng lực quản trị rủi ro.
Basel II được phát triển dựa trên khái niệm 3 “trụ cột”, trong đó trụ cột I đưa ra những yêu cầu về vốn dự phòng rủi ro tối thiểu. Trụ cột II đặt ra các yêu cầu về giám sát và trao trách nhiệm theo dõi cho giám đốc và các nhà quản lý cao cấp của tổ chức tài chính nhằm tăng cường thực thi các nguyên tắc về kiểm soát nội bộ và những hoạt động quản lý doanh nghiệp khác theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước. Trụ cột III đòi hỏi các ngân hàng công khai thông tin nhiều hơn nhằm thực thi qui tắc thị trường một cách có hiệu quả.
Các quan chức Uỷ ban Basel lý giải, một trong những mục tiêu quan trọng nhất của Basel II là tạo ra một sân chơi bình đẳng trên cả cấp độ quốc tế và quốc gia cho các ngân hàng. Tuy nhiên, mức độ tác động của Basel II đến khả năng cạnh tranh của từng ngân hàng ở mỗi nước còn phụ thuộc vào việc thực thi của ngân hàng đó. Kết quả chắc chắn là nghiệp vụ quản lý rủi ro sẽ được thực hiện tốt hơn trong tất cả các hoạt động ngân hàng.
2. Nội dung cơ bản của Hiệp ước Basel II
Hiệp ước Basel II - tên đầy đủ là Thoả thuận quốc tế Đo lường vốn và các Chuẩn mực về vốn - Bản sửa ( International Convergence of Capital Mesurement and Capiatal Standard, A Revised framework), hay thường được gọi là Hiệp ước mới về vốn, chính thức được ban hành vào tháng 6/2004 thay thế cho Hiệp ước Basel I sau 6 năm phát triển và tổng hợp ý kiến đóng góp từ khắp nơi trên thế giới. Hiệp ước Basel II làm tăng tính nhạy cảm của vốn tự có đối với rủi ro và tính hiệu quả của quản lý vốn. Hiệp ước này gồm 3 trụ cột như sau:
Biểu đồ 1.3: Các cấu phần Hiệp ước Basel II
Trụ cột thứ nhất:
Yêu cầu vốn tối thiểu
Trụ cột thứ hai
Quy trình giám sát
Trụ cột thứ ba
Nguyên tắc thịtrường
Tính toán yêu cầu vốn tối thiểu
Rủi ro tác nghiệp
Những rủi ro hoạt động kinh doanh mua bán (gồm cả rủi ro thị truờng)
Rủi ro tín dụng
- PP chuẩn hoá
-PP đánh giá nội bộ
HIỆP ƯỚC BASEL II
Nguồn [30,tr.56]
2.1 Trụ cột thứ nhất: Yêu cầu vốn tối thiểu
Trụ cột về yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đóng vai trò trọng tâm và chiếm hơn nửa nội dung của Basel II. Theo trụ cột thứ nhất này, lượng vốn duy trì được tính toán theo ba yếu tố rủi ro chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành và rủi ro thị trường, những yếu tố đã chưa được xem xét đầy đủ trong Hiệp ước Basel I. Những loại rủi ro khác không được coi là có thể lượng hoá hoàn toàn ở bước này.
Trong trụ cột này, quy định về tỷ lệ tổng vốn tối thiểu theo rủi ro trên tài sản có tính theo rủi ro (Tỷ lệ CAR - theo McDonough)[32] trong một NHTM không được nhỏ hơn 8% (³ 8%) và vốn cấp 2 (Tier 2) lớn nhất cũng chỉ được bằng vốn cấp 1(Tier 1). Mỗi tài sản có trong danh mục của NHTM lại được gán một trọng số RRTD nhất định.
Ngoài ra, trụ cột thứ nhất còn đưa ra các cách tiếp cận tính toán yêu cầu về vốn, cụ thể là:
+ Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng
Phương pháp chuẩn hoá (The Standardised Approach)
Phương pháp Đánh giá nội bộ(IRB - Internal Ratings Based Approach)
(Các phương pháp đo lường RRTD này sẽ được phân tích cụ thể ở mục 3.1.2)
+ Các phương pháp đo lường rủi ro hoạt động:
Phương pháp chỉ số cơ bản: (The Basic Indicator Approach): Phương pháp này quy định rằng mức vốn dự phòng bắt buộc đối với rủi ro hoạt động bằng 15% tổng thu nhập.
Phương pháp chuẩn hoá: (The standardised Approach) Mức vốn dự phòng bằng bình quan gia quyền của tổng thu nhậo có được từ nhiều nguồn khác nhau với các trọng số tương ứng với mỗi loại hình hoạt động nhất định và nằm trong khoảng từ 12% - 18%.
Phương pháp đo lường cao cấp (Advanced Mesurement Approach - AMA) Nếu các tiêu chuẩn do NHTW đặt ra đều được các ngân hàng đáp ứng thì có thể dùng các mô hình hay hệ thống đo lường rủi ro hoạt động của mình để tính toán mức dự phòng bắt buộc cho rủi ro hoạt động.
2.2 Trụ cột thứ hai: Theo dõi giám sát
Trụ cột thứ II liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà Hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk). Bốn nguyên tắc để xem xét giám sát gồm:
Ngân hàng nên có một quy trình xác định mức độ vốn nội bộ theo mức rủi ro và chiến lược duy trì mức vốn của họ.
Các giám sát viên nên xem xét và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu.
Khuyến nghị rằng ngân hàng nên giữ mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định.
Những người giám sát sẽ tìm cách thâm nhập vào những giai đoạn đầu tiên để ngăn cản mức vốn giảm xuống dưới mức tối thiểu.
2.3 Trụ cột thứ ba: Nguyên tắc thị trường
Trụ cột thứ III làm gia tăng một cách đáng kể các thông tin mà một ngân hàng phải công bố. Phần này được thiết kế để cho phép thị trường có một bức tranh hoàn thiện hơn về vị thế rủi ro tổng thể và cho phép các đối tác của ngân hàng định giá và tham gia chuyển giao một cách hợp lý. Để thực hiện điều đó, Uỷ ban Basel yêu cầu các ngân hàng tuân thủ nguyên tắc: “ Ngân hàng phải có chính sách về tính minh bạch và công khai được hội đồng quản trị thông qua. Chính sách này phải thể hiện rõ các mục tiêu và chiến lược dành cho việc công khai hoá các thông tin về thực trạng tài chính và hoạt động ngân hàng”
3. Các qui định về quản lý rủi ro tín dụng của Basel II
3.1 Về yêu cầu vốn tối thiểu
3.1.1 Sử dụng trọng số tín dụng tương ứng với mỗi loại tài sản có
Theo yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu trong Basel II, để đo lường mức độ rủi ro tương ứng của mỗi tài sản có, mỗi danh mục tài sản có của NHTM được gán một trọng số RRTD nhất định để tính tài sản có theo RRTD ( risk - weighted asset). Việc áp dụng trọng số rủi ro trong tính toán tỷ lệ an toàn vốn sẽ công bằng hơn trong so sánh tỷ lệ an toàn tối thiểu của các hệ thống NHTM tại các nước khác nhau; đồng thời khích lệ ngân hàng giữ tiền mặt hoặc các loại tài sản có tính thanh khoản cao. Basel II chia tài sản có của ngân hàng thành 5 nhóm với quy định một cách tương đối về trọng số rủi ro.(xem bảng ...) Tổng tài sản có theo RRTD của NHTM tính bằng công thức:
TCRA = å WiAi
(Wi : trọng số rủi ro tín dụng, Ai: loại tài sản có)
(TCRA: Tổng tài sản có theo rủi ro tín dụng)
Theo Basel II, trọng số RRTD của tài sản “Có” quy định như sau:
Bảng 1.2: Phân loại tài sản “Có” theo trọng số rủi ro tín dụng
Tên nhóm
Loại hình tài sản có
Nhóm A1
TSRR :0%
Tiền mặt, chứng khoán phát hành bởi Kho bạc NN, chính phủ các nước thuộc OECD, Khoản phài đòi đối với TC vay được XHTD AA- trở lên
Nhóm A2
TSRR:20%
Khoản tiền mặt đang trong quá trình thu; khoản đặt cọc, bảo lãnh liên ngân hàng các nước OECD và Mỹ. Một số chứng khoán có tài sản thế chấp; trái phiếu bắt buộc trong nước. Khoản phải đòi đối với TC vay được XHTD từ A+ đến A-
Nhóm A3
TSRR:50%
Một số loại trái phiếu trong nước khác
Các khoản phải đòi đối với tổ chức vay được xếp hạng tín dụng từ BBB+ đến BBB-
Nhóm A4
TSRR:100%
Khoản phải đòi đối với tổ chức vay được xếp hạng tín dụng từ BB+ đến B-
Các tài sản nội bảng khác không thuộc các nhóm trên, gồm các khoản phải đòi đối với các doanh nghiệp tư nhân, cá nhân, BĐS và khoản vay đầu tư vào các chi nhánh và công ty con
Nhóm A5
TSRR:150%
Khoản phải đòi đối với các tổ chức vay, các ngân hàng khác, các công ty chứng Khoản bị xếp hạng tín dụng dưới B-
Nguồn [32]
Ví dụ về xác định hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR của NHTM A:
Vốn tự có của NHTM A là:
Đơn vị: Tỷ đồng
Khoản mục
Số tiền
Vốn điều lệ
125
Quỹ dự phòng tài chính
15
Quỹ dự phòng bổ sung vốn điều lệ
20
Giá trị tăng thêm của TSCĐ được định giá theo luật
5
Trái phiếu chuyển đổi
20
Lợi nhuận giữ lại
5
Tổng cộng (A)
190
Tổng giá trị tài sản “ Có “ rủi ro:
Giá trị tài sản “Có” rủi ro = Giá trị ghi sổ * Trọng số rủi ro
Khoản mục
Giá trị ghi sổ
Hệ số RR
Giá trị TS
“Có” rủi ro
Tiền mặt
80
0%
0
Khoản phải đòi các TCTCNN
200
20%
40
Khoản cho vay đảm bảo bằng BĐS
800
50%
400
Máy móc, thiết bị
300
100%
300
Các khoản mục khác
800
Tổng cộng (B)
1540
Vậy hệ số CAR ngân hàng thương mại A sẽ là:
CAR = Vốn tự có / Tổng giá trị tài sản có rủi ro
Vậy CAR (A) = (A/B) x 100% = (190/1540) * 100% = 12,34 %
3.1.2 Yêu cầu về phương pháp tiếp cận
Ngân hàng có thể lựa chọn một trong các cách tiếp cận sau:
a/ Phương pháp Standardized
Phương pháp này để tính toán vốn tín dụng tối thiểu sử dụng kết quả đánh giá hệ số tín nhiệm (credit ratings) của một công ty đánh giá tín nhiệm độc lập (S & P, Moody’s... ) để xác định trọng số rủi ro gắn với mỗi đối tượng khách hàng của NHTM.Trọng số RRTD theo phương pháp tiêu chuẩn được quy định như trong bảng sau:
Bảng 1.3 - Trọng số rủi ro tín dụng theo phương pháp tiêu chuẩn
Đối tượng khách hàng
AAA tới AA-
A+ tới A-
BBB+ tới BBB-
BB+ tới B-
Dưới B-
Không XĐ
CP và NHTW các nước
0 %
20 %
50%
100%
150%
100%
NH khác - tuỳchọn1
20%
50%
100%
100%
150%
100%
NH khác - tuỳ chọn 2 (HSTN dài hạn)
20%
50%
50%
100%
150%
50%
Ngân hàng khác - tuỳ chọn 2 (HSTN ngắn hạn)
20%
20%
20%
50%
150%
20%
Doanh nghiệp (gồm cả CTy bảo hiểm)
20%
50%
100%
( tới BB- )
150% (từ BB-)
Vay đầu tư vào chi nhánh
75%
Bảo đảm bởi TS dân cư
35%
Bảo đảm bởi BĐS TM
100% (có thể thấp hơn khi đáp ứng các điều kiện khắt khe)
Nợ quá hạn trả
100% hoặc 150%
Tất cả các tài sản khác
ít nhất 100%
Nguồn [30]
b/ Phương pháp Đánh giá nội bộ (Internal Ratings Based - IRB)
Theo phương pháp này, các NHTM tự mình đánh giá các thành phần rủi ro và mức độ rủi ro của danh mục tài sản có của mình để xác định mức vốn tín dụng an toàn tối thiểu. Phương pháp IRB quy định các thành phần rủi ro gồm: xác suất vỡ nợ (Probability of Default - PD), mất vốn do vỡ nợ( Loss given Default - LGD), rủi ro vỡ nợ (Exposure at Default - EAD) và kỳ hạn hiệu lực (Effective Maturity - EM). Để thực hiện phương pháp này, trước hết các NHTM cần phân loại giá trị rủi ro thành 5 nhóm: (1) doanh nghiệp, (2) nước ngoài, (3) ngân hàng, (4) bán lẻ, (5) cổ phiếu và ứng với mỗi nhóm này NHTM sẽ xác định Tổn thất dự kiến (Expected Loss- EL) và không dự kiến (Unexpected Loss - UL)
Đối với EL , NHTM cần trích lập dự phòng để bù đắp từ nguồn chênh lệch kinh doanh tạo ra. Đối với UL, Hiệp ước quy định một mức tính toán vốn an toàn tín dụng căn cứ theo từng chỉ tiêu PD, LGD, EAD của từng nhóm rủi ro phân loại ở trên.
Phương pháp IRB là một quy trình phức tạp, đòi hỏi ngân hàng phải có một hệ thống công nghệ quản lý mạnh và hệ thống dữ liệu lịch sử đầy đủ trong một giai đoạn cũng như phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định về hệ thống Xếp hạng tín dụng nội bộ, trình độ quản trị ngân hàng và các quy định về công khai thông tin.
3.2 Yêu cầu về Xây dựng các hệ thống
3.2.1 Hệ thống xếp hạng tín dụng
Trong việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng cần phải xác định được những đối tượng nào sẽ phải được xếp hạng. Mô hình chung, hệ thống xếp hạng tín dụng bao gồm: Xếp hạng khoản vay, xếp hạn đánh giá khoản vay xấu, xếp hạng sản phẩm, xếp hạng tiêu chuẩn và thực trạng cán bộ tín dụng, lãnh đạo liên quan đến phê duyệt tín dụng, xếp hạng khách hàng, xếp hạng đối tác, và xếp hạng mức độ rủi ro Quốc gia.
Hệ thống xếp hạng cũng có thể thoả mãn cho một mục đích cụ thể nào đó của ngân hàng. Lý luận phân loại cần phải được hỗ trợ đầy đủ để có được sự phân loại đúng nhất trong sự đa dạng của kết quả phân loại và từ đó quyết định xác suất vỡ nợ (PD) phù hợp nhất.
Trong các hệ thống xếp hạng tín dụng, hệ thống xếp hạng khách hàng là căn cứ để xác định xác suất vỡ nợ cho từng khoản vay hay sản phẩm.Theo thông lệ quốc tế, xếp loại khách hàng thông thường được chia làm 10 hạng, gồm: AAA, AA,A; BBB,BB,B; CCC, CC, C và D. Với mỗi hạng sẽ có một giá trị PD tương ứng. Với cách chia như vậy, việc xác định xác suất vỡ nợ sẽ có độ chính xác cao hơn.
3.2.2 Hệ thống quản lý tài sản bảo đảm
Hệ thống này nhằm đảm bảo khả năng kiểm soát toàn bộ tài sản bảo đảm. Theo đó, phải đảm bảo rằng sẽ không xảy ra rủi ro pháp lý đối với hồ sơ. Hệ thống cũng sẽ đảm bảo khả năng linh hoạt trong việc đánh giá giá trị hiện thời. Hệ thống này sẽ là căn cứ để xác định xác suất mất vốn do vỡ nợ (LGD) đồng thời cũng cho phép áp dụng các nghiệp vụ bù trừ giá trị tài sản bảo đảm hay nghiệp vụ chiết khấu giá trị tài sản bảo đảm (Haircut)
3.2.3 Hệ thống giới hạn tín dụng
Hệ thống này cần phải giải quyết được hai vấn đề cơ bản, đó là về khoa học tính toán và vấn đề kiểm soát việc thực hiện. Hệ thống giới hạn cũng phải kiểm soát được cả các chỉ tiêu giới hạn thuộc quy định của ngân hàng nhà nước.Hệ thống giới hạn có thể được gán theo hạng sản phẩm, theo mức độ hay loại tài sản đảm bảo, theo khách hàng, theo người phê duyệt tín dụng, theo cấp độ Chi nhánh, theo ngành kinh tế hay một vùng kinh tế.
3.2.4 Mô hình tính toán
Mô hình phương pháp tính toán sẽ xác định các kết quả cuối cùng trong việc tính toán các chỉ tiêu định lượng cụ thể, ước tính tổn thất. Từ đây, những biện pháp đối phó, yêu cầu về phân bổ vốn phải được thực hiện theo mức độ rủi ro đã được xác định trong các báo cáo nói trên.Ngoài ra, cần thiết phải có quy trình kiểm tra tính hữu hiệu của mô hình bao gồm cả giám sát hoạt động và tính ổn định của mô hình.
3.3 Hoàn thiện các thành phần khung qui trình quản trị rủi ro tín dụng
3.3.1 Cơ sở hạ tầng dữ liệu thông tin tín dụng (TTTD)
Basel II yêu cầu có một sự chuẩn hoá, hay còn gọi là sự thống nhất chung về kết cấu dữ liệu, theo đó nó thể hiện trong việc thu thập dữ liệu, tổng hợp, hợp chuẩn và thống nhất dữ liệu về toàn bộ liên quan đến hoạt động tín dụng. Những yêu cầu đối với dữ liệu tín dụng bao gồm:
- Thông tin sản phẩm: Hệ thống kiến trúc dữ liệu phải đảm bảo cung cấp được thông tin về tất cả các loại sản phẩm mà ngân hàng đang áp dụng.
- Xây dựng dữ liệu: Cơ sở dữ l._. nội bộ NHTM làm việc đạt hiệu quả cao, hoạt động độc lập tăng cường kiểm soát trực tuyến, cập nhật kịp thời những lĩnh vực có rủi ro cao, phòng ngừa trước những lĩnh vực nhạy cảm có thể gây rủi ro đến hoạt động ngân hàng.
- Tăng cường những cán bộ có trình độ, đã qua nghiệp vụ tín dụng để bổ sung cho bộ phận Kiểm soát.Trong quá trình kiểm tra hoạt động tín dụng có thể tăng cường cán bộ trực tiếp từ bộ phận Tín dụng hoặc Thẩm định và Quản lý tín dụng cùng kiểm tra.
- Thường xuyên đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ, luật pháp cho cán bộ phòng Kiểm soát. Cần quy định trách nhiệm đối với cán bộ kiểm soát, có chế độ khuyến khích thưởng phạt để nâng cao trách nhiệm trong hoạt động kiểm soát.
5.2 Phân loại, thu hồi và xử lý nợ
5.2.1 Thực hiện tốt quy định phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro hướng tới đáp ứng quy định về tỷ lệ an toàn vốn theo của chuẩn mực Basel II
BIDV cần tiếp tục phát huy, tuân thủ Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng của TCTD ban hành theo quyết định số 493/ 2005/QĐ - NHNN ngày 22/4/2005 của thống đốc NHNN. Việc tuân thủ quy định này không những từng bước đưa hoạt động của BIDV xích gần tới các thông lệ quốc tế trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh ngân hàng mà còn nâng cao chất lượng cho hoạt động ngân hàng nói chung và giảm thấp RRTD nói riêng. Đây chính là một tiền đề quan trọng giúp BIDV có thể từng bước đạt đến tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo yêu cầu của Hiệp ước Basel II vì cùng với giảm thấp RRTD thì lượng vốn yêu cầu duy trì để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu sẽ thấp xuống. Ngoài ra, bản thân việc dự phòng rủi ro cũng có ý nghĩa tương tự như duy trì an toàn vốn tối thiểu là để đối phó với rủi ro trong đó có rủi ro tín dụng[12], nên BIDVphải thực hiện tốt phân loại nợ và trích lập rủi ro để từ đó hỗ trợ từng bước tiến tới đạt yêu cầu hệ số an toàn vốn tối thiểu theo yêu cầu Basel II. Một đề xuất là BIDV cần mạnh dạn thực hiện trích lập dự phòng RRTD theo phân loại mức độ rủi ro thích hợp gắn với việc đánh giá xếp loại doanh nghiệp chứ không phân theo thời gian quá hạn trên cơ sở tham khảo và học tập kinh nghiệm quốc tế và vận dụng phù hợp cho các NHTM Việt Nam.
5.2.2 Tận thu Nợ ngoài bảng và nợ khoanh Nợ ngoài bảng
Nợ khoanh chính là những khoản nợ không sinh lời, thông thường được ngân hàng chuyển ra Ngoại bảng hoặc không tính lãi. Khoản nợ trên có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của ngân hàng, do phải lấy từ nguồn dự phòng RRTD để bù đắp, đây chính là lợi nhuận của ngân hàng. Nếu nợ Ngoại bảng tăng thì ngân hàng có thể không có lãi do phải trích dự phòng nhiều, vì vậy, việc tận thu nợ ngoại bảng, nợ khoanh sẽ góp phần lành mạnh hoá tài chính của BIDV. Sau đây là một số biện pháp có thể áp dụng để thu hồi số nợ trên.
+ Đối với khách hàng còn tồn tại, BIDV cần tiếp tục bám sát khách hàng, đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, giải thích thuyết phục khách hàng hiểu để có thiện chí trả nợ số tiền còn vay của ngân hàng; đồng thời cùng với khách hàng xây dựng phương án, kế hoạch trả nợ cụ thể trong thời gian tới.
Phối hợp cùng các cơ quan chức năng đơn vị chủ quản của khách hàng, công an, thi hành án, trung tâm bán đấu giá... sẽ giúp BIDV có biện pháp thu hồi nợ phù hợp với từng đối tượng khách hàng như phát mại tài sản, đôn đốc khách hàng trả nợ cho ngân hàng...
+ Đối với khoản nợ chỉ định, BIDV cần phối hợp với các cơ quan chức năng có biện pháp thu hồi vốn như phát mại tài sản và đồng thời phải trình Chính phủ và NHNN cho xử lý.
5.2.3 Xử lý nợ quá hạn, nợ xấu, nợ khó đòi
Đây là biện pháp quan trọng bậc nhất nhằm hạn chế tối đa những khoản thiệt hại đã xảy ra. Việc xử lý nợ quá hạn cần BIDV phải thực hiện những nội dung như:
- Phân tích nguyên nhân nợ quá hạn cuả từng khách hàng, từ đó có biện pháp tháo gỡ. Đối với những khách hàng có tính chất tạm thời, hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, BIDV cần xem xét khả năng trả nợ và phương án sản xuất kinh doanh trong thời gian tới để quyết định cho vay. Việc cho vay bảo đảm thu hồi vốn, giúp khách hàng vượt qua khó khăn và có biện pháp trả nợ, chẳng hạn có thể áp dụng phương pháp sau:
+ Xác định phương án cơ cấu nợ: Căn cứ vào phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, khách hàng chứng minh được khả năng hoàn trả khi đến hạn sau khi được cơ cấu lại nợ thì BIDV nên thực hiện cơ cấu lại. Để thực hiện cơ cấu lại nợ cho khách hàng đòi hỏi ngân hàng BIDV phải giám sát chặt chẽ các khoản nợ và hoạt động của khách hàng sau khi cơ cấu.
Đối với khách hàng khó khăn về tài chính, kinh doanh thua lỗ, khó khắc phục, nợ quá hạn chưa xác định được nguồn trả, BIDV cần quản lý chặt chẽ khoản vay và khách hàng trên như sau:
+ Đối với khoản vay có tài sản bảo đảm, BIDV nên:
Tìm các khách hàng có khả năng về tài chính nhận lại nợ của khách hàng khó khăn để tiếp tục khai thác hiệu quả tài sản bảo đảm khả năng trả nợ.
Ngân hàng cũng có thể rà soát tài sản bảo đảm, tình trạng tài sản, hồ sơ pháp lý để có thể phát mại tài sản nhằm thu hồi vốn.
Phối hợp cùng các Bộ, Ban, Ngành cho tiến hành thanh lý, phát mại các tài sản bảo đảm cho vay theo chỉ định để thu hồi vốn.
Trong trường hợp tài sản phát mại không đủ thu hồi vốn thì buộc khách hàng phải trả tiếp phần còn lại thông qua việc bán tiếp tài sản, nếu không BIDV sẽ tuyên bố doanh nghiệp phá sản. Vấn đề này gần đây đã được BIDV thực hiện “mạnh tay”, với việc cùng với Tổng công ty Công trình giao thông 5 (CIENCO 5) xem xét, quyết định để 3 công ty trực thuộc CIENCO 5 [20] không có khả năng trả nợ giải thể là một quyết tâm đáng ghi nhận và cần phải tiếp tục phát huy của ngân hàng này.
+ Đối với khoản vay không có bảo đảm:
Trong trường hợp này, BIDV cần phải kiểm soát chặt chẽ nguồn tài chính của khách hàng, các khoản phải thu, nguồn vốn thanh toán của các công trình qua thông báo vốn hàng năm đối với lĩnh vực xây dựng - lĩnh vực chủ yếu của BIDV, kỳ thu tiền đối với lĩnh vực khác và yêu cầu khách hàng cùng chủ đầu tư, người mua hàng cam kết thanh toán chuyển khoản về tài khoản của khách hàng tại ngân hàng.
Tư vấn cho khách hàng bán bớt tài sản không phát huy hiệu quả, không cần sử dụng để trả nợ tiền vay.
Đối với khách hàng cá nhân: BIDV cần kết hợp cùng cơ quan công tác, gia đình của khách hàng để vận động thu xếp nguồn trả nợ.
- Biện pháp khởi kiện toà án:
Hiện nay, trong quan hệ kinh tế ở Việt Nam, việc khởi kiện ra toà chưa thành thói quen đối với mọi người, trong khi trong nền kinh tế thị trường chúng ta cần quen dần với việc giải quyết các vụ việc kinh tế thông qua toà án kinh tế. Việc BIDV khởi kiện ra toà sẽ có tác dụng đối với các khách hàng không có thiện chí trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Ngoài ra, BIDV cũng cần lưu ý rằng việc xử lý dự phòng rủi ro là chuyện nội bộ ngân hàng, không được tiết lộ cho khách hàng biết về việc xử lý rủi ro để tránh hiện tượng khách hàng biết chây ỳ, không trả.
III - Một số kiến nghị với Nhà nước, NHNN và các ban ngành có liên quan
Để nâng cao hiệu quả, khả năng cạnh tranh của hoạt động tín dụng; nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng của BIDV - một NHTM trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là một vấn đề không đơn giản, không chỉ đối với bản thân các ngân hàng mà còn liên quan tới hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng, thực hiện giám sát an toàn hoạt động ngân hàng, theo hướng minh bạch, hiện đại và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Để các giải pháp được triển khai có tính khả thi, luận văn xuất những kiến nghị như sau với Chính phủ, NHNN và các ngành có liên quan, cũng như với các NHTM và ngân hàng BIDV như sau:
1. Kiến nghị đối với Nhà nước
Nhà nước có vai trò quyết định trong việc đảm bảo cho các định hướng về hoạt động quản trị rủi ro được thực hiện. Các hỗ trợ từ phía Nhà nước vừa đóng vai trò là các giải pháp tổng thể trên bình diện đa ngành, đa lĩnh vực tạo dựng khuôn khổ vững chắc và lâu dài cho thực thi phòng ngừa, hạn chế rủi ro , đồng thời cũng chỉ ra những “bước thoát hiểm” trong những khâu bức bách nhất trong từng lĩnh vực cụ thể. Luận văn xin đề cập một số kiến nghị đối với Nhà nước như sau:
1.1 Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho nghiệp vụ ngân hàng
Nhằm hạn chế rủi ro với các NHTM, Nhà nước cần có một hệ thống pháp lý đủ mạnh, cho phép cưỡng chế thực hiên hợp đồng tài chính, thu hồi vốn vay và phát mại tài sản thế chấp. Thêm vào đó, Nhà nước cần phải có một bộ máy hành chính đủ năng lực cưỡng chế, thi hành luật. Để làm được điều đó, khuôn khổ pháp lý phải bao gồm các luật thích hợp về doanh nghiệp, phá sản, hợp đồng, sở hữu; hệ thống tòa án phải công bằng và hiểu biết về các giao dịch tài chính để có thể cưỡng chế thực hiện quyền và nghĩa vụ kinh tế một cách công bằng và nhanh chóng. Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ, ngân hàng. Giải quyết nợ đọng đi cùng với tăng cường những định chế pháp lý, kinh tế và hành chính về nghĩa vụ trả nợ của người đi vay và bảo vệ quyền thu nợ hợp pháp của người cho vay.
Ngoài ra, Nhà nước cần khẩn trương bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp quy nhằm tạo ra sân chơi bình đẳng cho mọi TCTD nói chung và NHTM nói riêng hoạt động tại Việt Nam, tiến tới hình thành hệ thống ngân hàng cạnh tranh lành mạnh. Đây là điều kiện cần thiết để đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong dài hạn, các ngân hàng phản ứng linh hoạt trước những thay đổi trong môi trường kinh tế.
1.2 Xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường mua bán nợ
Từ ngày 5-10-2001, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định 149 phê duyệt đề án cơ cấu lại tình hình tài chính, xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại thông qua các tổ chức xử lý nợ. Trong thời gian tới, Việt Nam đang hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao liên tục, đòi hỏi một lượng vốn lớn cần được huy động cho đầu tư phát triển. Các khoản nợ sẽ tăng nhanh và thị trường mua bán nợ hình thành là một tất yếu khách quan. Đây là một trong những nội dung rất cần thiết để giúp các NHTM có thể giải quyết tình trạng nợ xấu để từng bước đáp ứng các yêu cầu của Hiệp ước Basel II về an toàn vốn tối thiểu, tăng khả năng quản trị rủi ro tín dụng. Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC) là một trong những thể chế quan trọng nhất trong việc xử lý các món nợ tồn đọng, nợ xấu của các TCTD Việt Nam . Ông Phạm Phan Quang, Chủ tịch HĐQT Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng, Bộ Tài chính (DATC) cho biết “Thực tế hoạt động của DATC và các tổ chức xử lý nợ tồn đọng thời gian qua cho thấy các cơ chế hiện hành vẫn chưa thực sự phù hợp.”
Thực tế này đòi hỏi môi trường pháp lý cần được Nhà nước hoàn thiện theo hướng xây dựng hoàn chỉnh hệ thống văn bản qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ trên thị trường mua bán nợ.
Các bước đi cụ thể là phải rà soát lại và xây dựng các văn bản qui phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ mua bán nợ giữa DATC với các tổ chức tín dụng, giữa DATC với các tổ chức kinh tế và cá nhân. Các quan hệ nào thiếu sẽ được bổ sung, quan hệ nào mâu thuẫn, chồng chéo sẽ được chỉnh sửa cho thống nhất. Đồng thời, nâng cao quyền tự chủ hơn nữa trong kinh doanh cho DATC.
Sau đó, cần phải có cơ chế pháp lý mới để khắc phục được những vướng mắc phát sinh và tạo điều kiện để tạo lập thị trường, thúc đẩy hoạt động của DATC và các tổ chức xử lý nợ.
Về xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường mua bán nợ, trước mắt, khi thị trường đang trong giai đoạn hình thành, chỉ nên xây dựng, ban hành nghị định về mua bán nợ. Nghị định mới xây dựng cần làm rõ các nội dung như: đảm bảo lợi ích của các bên tham gia hoạt động mua bán nợ, như lợi ích của chủ nợ, khách nợ, các công ty môi giới, kinh doanh nợ; xác định rõ địa vị pháp lý và các quyền đặc biệt của chủ nợ; các ưu đãi của Nhà nước đối với hoạt động mua bán nợ, ví dụ như truy cập hệ thống dữ liệu tài chính doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng...Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên sớm có những định chế tài chính để thành lập các công ty dịch vụ thu hồi nợ.
Đồng thời, Nhà nước cần ban hành một văn bản pháp lý đủ mạnh làm cơ sở thiết lập thị trường và áp dụng các hình thức xử lý tiến bộ theo kinh nghiệm quốc tế đã được triển khai thành công để hỗ trợ hoạt động của các tổ chức xử lý nợ cũng như thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân hay thậm chí cả các nhà đầu tư nước ngoài.
1.3 Bảo đảm an ninh tài chính trong hoạt động ngân hàng
An ninh tài chính của ngân hàng là trạng thái các tài sản (tài sản nợ, tài sản có và tài sản ròng) ổn định, an toàn, vững mạnh và không khủng hoảng; biểu hiện trạng thái bền vững của các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Bảo đảm an ninh tài chính đối với hoạt động của các NHTM nói chung và của một ngân hàng nói riêng là việc sử dụng các biện pháp giữ cho các tài sản của ngân hàng đó luôn luôn ổn định, an toàn, vững mạnh và không khủng hoảng. Thiết lập được mạng lưới an ninh có khả năng phòng ngừa, ứng phó kịp thời, nhanh nhạy, hiệu quả đối với các loại hình tội phạm kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng phát triển với hình thức ngày càng đa dạng, phức tạp, tính chất mức độ vi phạm ngày càng tinh vi. Do vậy, đảm bảo an ninh ngân hàng chính là cơ sở quan trọng hỗ trợ các ngân hàng từng bước đạt được các yêu cầu quản trị RRTD theo Basel II.
Nhà nước cần giải quyết vấn đề vốn cho ngân hàng, cần cấp đủ vốn điều lệ cho các NHTM Quốc doanh, bảo đảm tiềm lực tài chính thật sự cho các ngân hàng này, xứng đáng là trụ cột trong hệ thống ngân hàng thương mại nước ta; tiến hành cổ phần hóa các NHTM Quốc doanh để tăng vốn cho các ngân hàng này, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh và cải thiện tổ chức quản lý. Buộc các NHTM cổ phần nhanh chóng đáp ứng các tiêu chuẩn về vốn thông qua tăng vốn cổ phần, tổ chức lại các ngân hàng yếu kém, tiến hành sáp nhập, hợp nhất các NHTM cổ phần nhỏ.
1.4 Chuẩn bị các cơ sở cần thiết khác theo các chuẩn mực quốc tế phục vụ quản trị RRTD theo các yêu cầu Hiệp ước Basel II
- Tạo điều kiện hình thành thị trường tín dụng cạnh tranh lành mạnh, có sự bình đẳng giữa các loại hình NHTM nói riêng và các TCTD nói chung với những cơ hội cho mọi cá nhân, tổ chức có nhu cầu vay vốn và có đủ điều kiện trả nợ ngân hàng, làm ăn hợp pháp đều được tiếp cận với tín dụng một cách thuận lợi.
- Tìm kiếm các nguồn tài trợ dài hạn giúp các NHTM từng bước hiện đại hoá công nghệ ngân hàng trên cơ sở ứng dụng các phần mềm công nghệ thông tin, truyền thông, kỹ thuật số để nâng cao tính an toàn, bảo mật cho các hoạt động ngân hàng trong đó có an toàn hoạt động tín dụng. Phát triển hệ thống giao dịch, mạng kết nối giữa các ngân hàng để tăng cường thông tin tín dụng, giúp giảm thiểu rủi ro trong hoạt động này.
- Thúc đẩy thị trường tài chính, trước hết là thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ nhằm xác định khuôn khổ hoạt động của các ngân hàng, tạo thêm nhiều cơ hội đầu tư nhằm phân tán rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn và đa dạng hóa các công cụ thanh toán. Thị trường tài chính phát triển sẽ giúp các NHTM quen dần với áp lực cạnh tranh, kiểm soát được mối quan hệ tương tác với các ngân hàng, nhất là các ngân hàng không được lành mạnh nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động thanh toán và cho vay liên ngân hàng.
2. Kiến nghị với NHNN:
Là cơ quan thừa hành của Nhà nước, NHNN đóng vai trò quan trọng trong việc chỉ cụ thể hoá chủ trương, đường lối của Nhà nước thông qua hướng dẫn, chỉ đạo, giám sát các NHTM Việt Nam thực hiện. Dưới đây là một vài kiến nghị đối với NHNN nhằm nâng cao tính an toàn trong hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam:
2.1. Hoàn thiện cách thức giám sát ngân hàng
Giám sát tài chính tốt cần giải quyết bốn vấn đề cơ bản: Tổ chức hệ thống giám sát; Thiết lập hệ thống chỉ tiêu giám sát; Quyền lực của cơ quan giám sát; Chi phí giám sát. Để hoàn thiện, quy chuẩn cách thức giám sát Ngân hàng thúc đẩy thực hiện quản trị rủi ro theo Basel II, NHNN cần thực hiện:
- Hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy thanh tra Ngân hàng theo ngành dọc từ Trung Ương xuống cơ sở và có sự độc lập tương đối về điều hành và hoạt động nghiệp vụ trong tổ chức bộ máy của NHNN; ứng dụng những nguyên tắc cơ bản về giám sát hiệu quả hoạt động Ngân hàng của ủy ban Basel, tuân thủ những quy tắc thận trọng trong công tác thanh tra;
Tiếp tục công tác ứng dụng những nguyên tắc cơ bản về giám sát hiệu quả hoạt động ngân hàng của Uỷ ban Basel, cũng như việc tuân thủ những nguyên tắc thận trọng trong công tác thanh tra.
- Đưa ra các biện pháp hoàn thiện hệ thống giám sát Ngân hàng theo các hướng cơ bản sau:
+ Nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ thống cảnh báo sớm những tiềm ẩn trong hoạt động của các TCTD, bao gồm việc thành lập Đoàn khảo sát trực tiếp theo nguyên tắc chọn mẫu ngẫu nhiên, phân tích báo cáo tài chính và xác định các “điểm” nhạy cảm;
+ Phát triển và thống nhất cách thức giám sát Ngân hàng trên cơ sở lý luận và thực tiễn
+ Xây dựng cách tiếp cận tới công việc đánh giá chất lượng quản trị rủi ro trong nội bộ các TCTD;
+ Nâng cao đòi hỏi kỹ thuật trong việc trích lập dự phòng rủi ro.
2.2 Xây dựng, hoàn thiện các hệ thống cần thiết để đảm bảo an ninh hoạt động tín dụng ngân hàng
- Xây dựng hệ thống và các biện pháp kiểm soát luồng vốn quốc tế và nợ nước ngoài, trong đó tập trung vào cơ chế giám sát cho vay và vay bằng ngoại tệ của các NHTM để tránh rủi ro về tỷ giá, ngoại hối kỳ hạn, qua đó có những cảnh báo sớm cho các NHTM;
- Xây dựng hệ thống báo cáo đồng bộ để giảm thiểu khối lượng rủi ro và nâng cao chất lượng thông tin.
- Nâng cao tiêu chí trong hệ thống cấp giấy phép và đòi hỏi kỹ thuật đối với các TCTD dựa trên những tiêu chuẩn về độ vững chắc tài chính và các chỉ số an toàn trong hoạt động của các TCTD.
- Tiếp tục thực hiện một cách quyết đoán và kiên định các hình thức sắp xếp lại, đóng cửa, hợp nhất, sáp nhập hệ thống ngân hàng, đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các NHTM Quốc doanh đồng thời gắn liền với việc niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán nhằm phân tán rủi ro.
- Các TCTD cần được đánh giá, xếp hạng chất lượng hoạt động mang tính khoa học và thực tiễn cao theo thông lệ quốc tế và phù hợp nhu cầu quản lý của NHNN. Trên cơ sở đánh giá, xếp hạng cho từng tổ chức tín dụng, NHNN cần tăng cường công tác giám sát tính tuân thủ, phân loại và xếp loại rủi ro.
- Ngoài ra, cần thiết lập và củng cố hệ thống các quỹ liên quan bảo đảm an ninh tài chính trong hoạt động ngân hàng như Dự trữ bắt buộc; Bảo hiểm tiền gửi và trích lập dự phòng rủi ro.
- Tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc sử dụng hệ thống giấy tờ có giá như thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại tín phiếu, trái phiếu của NHTM. Triển khai mạnh hơn nữa trên thị trường tiền tệ các nghiệp vụ nhằm hạn chế rủi ro như repo đảo ngược, future, option...
2.3 Hướng dẫn, chỉ đạo các NHTM thực hiện các chế tài của Nhà nước nhằm an toàn hoá hoạt động tín dụng
- Một là, NHNN cần nhanh chóng triển khai hướng dẫn thực hiện một cách rõ ràng các khuôn khổ pháp lý liên quan đến an toàn tín dụng theo Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng.
- Hai là, dựa trên các thiết chế của Nhà nước, NHNN phải có những quy định bắt buộc các NHTM phải đăng ký tài sản thế chấp, chấp hành quy định mới về phân loại nợ và trích lập dự phòng, quy định mới về đảm bảo an toàn .. nhằm góp phần giúp các ngân hàng kiểm soát RRTD một cách tốt hơn
- Ba là, NHNN cũng cần chú trọng chủ động sự tăng cường phối hợp với Nhà nước trong việc ban hành các định chế phù hợp nhất đối với việc thực hiện biện pháp xử lý nợ tồn đọng và trích lập dự phòng rủi ro, qua đó tạo dựng khung pháp lý đồng bộ và có hiệu lực cao cho hoạt động phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng.
- Bốn là, NHNN chú trọng đôn đốc và giám sát việc triển khai các chương trình xử lý nợ tồn đọng và tái cơ cấu các NHTM như theo kế hoạch đã đề ra.
3. Kiến nghị với các tổ chức, bộ ngành khác có liên quan
3.1 Đối với các tổ chức kiểm toán:
- Cùng với NHNN xây dựng các nguyên tắc cơ bản và tiêu chí về kiểm toán ngân hàng trên cơ sở tiếp thu các đòi hỏi của quốc tế về các điều kiện trong hoạt động kiểm toán, trong đó chú trọng việc hoàn thiện hệ thống kế toán theo chuẩn mực quốc tế.
- Xây dựng và tiến hành áp dụng vào thực tế những tiêu chuẩn nâng cao chất lượng kiểm toán.
- Phối hợp tích cực với NHNN trong việc trao đổi thông tin và xây dựng cách thức phân tích tình hình tài chính của các TCTD theo hướng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.
3.2 Đối với một số bộ ngành khác
Các ngành liên quan phối hợp với NHNN xử lý những vấn đề pháp lý phức tạp như: đăng ký giao dịch đảm bảo, quản lý đất đai, quy hoạch xây dựng, quyền sử dụng đất..., những vấn đề vốn có tính đa ngành, liên bộ có liên quan đến xử lý rủi ro tín dụng.
Bộ Kế hoạch đầu tư, bộ tài chính và các bộ ngành có liên quan khác cần có sự chia sẻ và thống nhất những quan điểm lớn chỉ đạo hoạt động phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, một nhân tố then chốt bảo đảm hoạt động hiệu quả và bền vững của hệ thống ngân hàng, huyết mạch luân chuyển vốn tiền tệ của nền kinh tế, từ đó có sự phối hợp hỗ trợ hiệu quả, kịp thời với NHNN để từ đó tạo điều kiện giúp các NHTM hoàn thành tốt công tác quản trị rủi ro tín dụng.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường với xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và quốc tế hoá các luồng tài chính đã làm thay đổi căn bản hệ thống ngân hàng và khiến cho hoạt động kinh doanh ngân hàng trở nên phức tạp hơn. Thực tế đó, đòi hỏi hệ thống các NHTM phải có những cải cách mạnh mẽ để nâng cao năng lực quản trị rủi ro, trong đó nhấn mạnh nhất là quản trị RRTD do hoạt động này chiếm tỷ trọng chủ yếu trong kinh doanh ngân hàng. Việc ngân hàng đương đầu với RRTD là điều không thể tránh khỏi được. Vấn đề là làm thế nào để hạn chế rủi ro này ở một tỷ lệ thấp nhất có thể chấp nhận được..
Đóng vai trò là một tổ chức Giám sát ngân hàng, Uỷ ban Basel của ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) đã liên tục đưa ra những chuẩn mực giám sát, các chỉ dẫn, khuyến cáo nhằm tạo đường hướng, hỗ trợ cho các NHTM nâng cao năng lực quản trị rủi ro ngân hàng mình trong bối cảnh kinh tế biến động phức tạp. Trọng tâm nhất, cốt lõi nhất trong các đóng góp của Uỷ ban này vào công cuộc an toàn hoá hoạt động ngân hàng phải kể sự ra đời của các Hiệp ước về vốn: Hiệp ước Basel I năm 1988, một số sửa đổi bổ sung Hiệp ước Basel I(1996) và quan trọng nhất là sự ra đời của Hiệp ước Basel II - Hiệp ước mới về vốn (2004). Với những nội dung ưu việt hơn bổ sung cho các hạn chế của Basel I, Hiệp ước Basel II đưa ra những trụ cột, những chuẩn mực cần thiết định hướng, tạo tiền đề cho các NHTM hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro trong đó có năng lực quản trị rủi ro tín dụng.
Là một trong những NHTM Quốc doanh hàng đầu Việt Nam , BIDV đang có những bước chuyển mình cần thiết trong công tác quản trị RRTD ngân hàng mình hướng tới các chuẩn mực Basel II nhằm từng bước an toàn hoá hoạt động tín dụng, tạo bàn đạp cho sự phát triển vững mạnh, chắc chắn của ngân hàng. Theo mục tiêu đặt ra, BIDV phấn đấu trong giai đoạn từ nay đến 2015 sẽ phấn đấu hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng mình đáp ứng tất cả các yêu cầu của Hiệp ước Basel II. Với những thuận lợi, khó khăn cả về chủ quan, khách quan nhất định, BIDV đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể như: BIDV là ngân hàng đầu tiên của Việt Nam xây dựng thành công hệ thống xếp hạng tín dụng đạt tiêu chuẩn quốc tế, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu liên tục được cải thiện, cơ cấu dư nợ có tài sản bảo đảm tăng, nâng cao năng lực tài chính... song bên cạnh đó vẫn còn có nhiều tồn đọng như tỷ lệ nợ xấu còn cao, khả năng phân tích thông tin, thẩm định khách hàng còn nhiều hạn chế, tỷ lệ an toàn vốn vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của Basel II. Nguyên nhân của những hạn chế này có nhiều song về cơ bản, nguyên nhân cốt lõi là BIDV nói riêng và hệ thống NHTM Việt Nam nói chung vẫn chưa sánh tầm khu vực và thế giới về cả năng lực tài chính lẫn quy mô hoạt động và trình độ công nghệ, quản trị, do đó không đủ nguồn lực để áp dụng toàn bộ các chuẩn mực Basel II.
Từ đó có thể thấy, để nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn của Hiệp ước Basel II, các NHTM Việt Nam nói chung và ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng còn nhiều việc phải làm. Toàn bộ nội dung của Khoá luận là mạnh dạn đưa ra một số biện pháp toàn diện, thiết yếu nhằm mục đích giúp ngân hàng BIDV từng bước hoàn thiện công tác quản trị RRTD ngân hàng mình hướng tới đáp ứng tất cả các chuẩn mực, đòi hỏi chặt chẽ của Hiệp ước Basel II. Tổng thể các nhóm biện pháp đưa ra nhằm mục tiêu phải thiết lập được hệ thống quản trị RRTD phù hợp với quy mô, sự phức tạp và tính rủi ro của hoạt động tín dụng tại ngân hàng BIDV.
Mới chỉ lát được những viên gạch đầu tiên trên con đường đi đến thành công, song với đội ngũ cán bộ giàu sức trẻ và trí tuệ, với niềm tin nhất quán, với sự ủng hộ từ nhiều phía, chắc chắn trong tương lai không xa, vấn đề RRTD của BIDV sẽ được kiểm soát, ngăn chặn phòng ngừa tối đa với một hệ thống quản trị RRTD ưu việt, đáp ứng toàn bộ các yêu cầu khắt khe của Hiệp ước Basel II.
Hy vọng rằng với việc ứng dụng một cách hiệu quả các nhóm biện pháp hỗ trợ đề cập trong luận văn sẽ góp phần giúp cho ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam phát triển vững mạnh hơn, an toàn hơn trên con đường hội nhập vào thị trường tài chính khu vực và thế giới .
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A - Tài liệu tham khảo tiếng Việt
1. Kim Anh (2005), Bàn về giải pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng ngân hàng, Tạp chí Ngân hàng Số Chuyên đề nâng cao năng lực quản trị rủi ro.
2. Trương Ngọc Anh (2005), Quản lý rủi ro của tổ chức tín dụng và hoạt động giám sát, thanh tra việc quản lý rủi ro đó, Tạp chí Ngân hàng Số 8, trang 29-31.
3. Nguyễn Hữu Đương (2006), Đẩy mạnh hoạt động thông tin tín dụng là một nhân tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, Trung tâm thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
4. Đỗ Văn Độ (2007), Quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại Nhà nước trong thời kỳ hội nhập , Tạp chí ngân hàng số 15.
5. Hoàng Huy Hà (2004), Giải pháp nâng cao chất lượng và giảm thiểu rủi ro tín dụng, Tạp chí Ngân hàng Số 7, trang 29-31.
6. Phan Thị Thu Hà (2006), Rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam - Cách tiếp cận từ tính chất sở hữu, Tạp chí Ngân hàng Số 24, tr.10.
7. Học viện Ngân hàng (2005) , Giáo trình quản trị rủi ro , NXB Thống kê, Hà Nội.
8. Trần Huy Hoàng (2004), Hạn chế nguy cơ rủi ro hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam, Phát triển kinh tế (TP HCM) Số 170, trang 37-39.
9. Đinh Tuấn Hồng (2006), Một số vấn đề về quản trị rủi ro tín dụng của BIDV, Tạp chí Đầu tư Phát triển số 113&114.
10. Lê Văn Hùng (2007), Rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng - nhìn từ góc độ đạo đức, Tạp chí Ngân hàng Số 16.
11. Nguyễn Đắc Hưng (2005), Một số giải pháp về quản lý rủi ro tín dụng ở nước ta, Tạp chí Ngân hàng Số 9, trang 41- 43.
12. Trịnh Phong Lan (2007) Dự phòng rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế: Nâng cao chất lượng hoạt động của các ngân hàng thương mại, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp Số 5, trang 6-8.
13. Nguyễn Văn Lâm (2005), Phòng ngừa rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng, Thị trường Tài chính Tiền tệ Số 20, trang 18-20.
14. Nguyễn Đức Lệnh (2005) Rủi ro tín dụng ngân hàng trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh: Nguyên nhân và một số giải pháp, Thị trường Tài chính Tiền tệ Số 18, tr. 26-28.
15. Bình Minh (2006) Bốn bài học từ vụ án EPCO- Minh Phụng cho hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại, Tạp chí Ngân hàng Số 6, tr. 14-16.
16. Lê Thị Mận ; Hoàng Thị Lan Phương (2006), Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại tại Tp. Hồ Chí Minh, Phát triển kinh tế (TP HCM) Số 187, trang 2-5.
17. Lê Việt Nga (2005) Hướng tới chuẩn mực quốc tế trong công tác nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín dụng, Thị trường Tài chính Tiền tệ Số 22, trang 25-26.
18. Bùi Thị Kim Ngân (2005), Một số vấn đề về nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, Số Chuyên đề nâng cao năng lực quản trị rủi ro, trang 29-33.
19. Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam (2004, 2005, 2006), Báo cáo thường niên (Annual Report).
20. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2006), Bản cáo bạch.
21. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2007). Bản công bố thông tin.
22. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp ngành; Nâng cao năng lực quản trị rủi ro của Ngân hàng thương mại Việt Nam.
23. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp ngành: Vai trò của ngành ngân hàng Việt Nam trong 20 năm đổi mới.
24 Trần Thị Nhung (2006), Quản lý rủi ro tín dụng ở NHNN & PTNT, Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương Số 47, trang 30-43.
25. Tôn Thanh Tâm; Nguyễn Thị Hồng Thúy (2005), Bàn về các chữ "C" trong quản lý rủi ro tín dụng, Thị trường Tài chính Tiền tệ, Số 20.
26. Văn Tạo (2005) Vai trò kiểm toán độc lập trong việc phòng ngừa, hạn chế rủi ro của các tổ chức tín dụng, Thị trường Tài chính Tiền tệ Số 24, trang 19.
27. Nguyễn Văn Tiến (2006), Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, Nhà XB Văn hoá Thông tin.
28. Trịnh Bá Tửu (2005), Phòng chống rủi ro tín dụng - Kinh nghiệm của các ngân hàng Thái Lan, Tạp chí Ngân hàng Số Chuyên đề nâng cao năng lực quản trị rủi ro trang 55-60.
29.Thủ tướng Chính phủ - Quyết định 112/2006/QĐ - TTg của - Đề án Phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020
B - Tài liệu tham khảo tiếng Anh
30. Bank for International Settlements (2004), The new Basel capital accord.
31. Basel Committee (2004) Banking Supervision.
32. Basel Committee (2005) Basel - Credit risk Explosures.
33. Joel Bessis (2001), Risk Management in Banking.
34. David Dollar and Shang - Jin Wel (2007), Finance and Develoment, Volume 44 Number 2.
35. Greuning H. and S.B. Bratanovic (2003), Introduction to risk management of Citibank, Latin America Training and Development Center.
36. Markus Tausisig and Pham Thi Thu Hang (2004), Private enterprise formality and the role of local government, ADB, Hanoi
37. Vietnam Development Fund - VDF (2005), Statistics and Research.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVNH018.doc